intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục bậc cao trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Chia sẻ: Comam1902 Comam1902 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

54
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày khái quát về giáo dục bậc cao và các đặc điểm cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh trọng tâm chính là các giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cụ thể là phân chia thành ba nhóm giải pháp: Giảng dạy 4.0, nghiên cứu 4.0 và dịch vụ đào tạo 4.0.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục bậc cao trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư<br /> HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br /> Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 48-60<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0005<br /> <br /> GIÁO DỤC BẬC CAO TRONG THỜI ĐẠI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ<br /> <br /> Lê Thị Minh Đức<br /> Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Hữu nghị Việt - Hàn<br /> Tóm tắt. Giáo dục bậc cao đứng trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải<br /> đổi mới căn bản và toàn diện vì giáo dục bậc cao là yếu tố trọng yếu của các chương trình<br /> phát triển quốc gia, là một hình thức quan trọng trong đầu tư vốn nhân lực, có thể mang lại<br /> những chuyển biến và thay đổi tích cực cho một quốc gia, một nền kinh tế. Có thể nói giáo<br /> dục bậc cao trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 là một vấn đề phức tạp, cần được quan tâm<br /> thích đáng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đề xuất các giải pháp cho giáo dục bậc cao trong<br /> thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Căn cứ trên phương pháp nghiên cứu định tính,<br /> tác giả đã quan sát, phân tích và tổng hợp các tài liệu liên quan về giáo dục bậc cao và cuộc<br /> Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Bài báo trình bày khái quát về giáo dục bậc cao và các<br /> đặc điểm cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh trọng tâm<br /> chính là các giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,<br /> cụ thể là phân chia thành ba nhóm giải pháp: Giảng dạy 4.0, nghiên cứu 4.0 và dịch vụ đào<br /> tạo 4.0.<br /> Từ khóa: Giáo dục bậc cao; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Giảng dạy 4.0; Nghiên cứu<br /> 4.0; Dịch vụ đào tạo 4.0.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Giáo dục bậc cao đứng trước cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một vấn đề phức tạp,<br /> cần được quan tâm thích đáng vì giáo dục bậc cao là yếu tố trọng yếu của các chương trình phát<br /> triển quốc gia, là một hình thức quan trọng trong đầu tư vốn nhân lực, có thể mang lại những<br /> chuyển biến và thay đổi tích cực cho một quốc gia, một nền kinh tế. Các trường Đại học, Cao<br /> đẳng không chỉ đóng vai trò chủ chốt trong đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao mà<br /> thực sự đã và đang trở thành các trung tâm nghiên cứu lớn về sản xuất tri thức và chuyển giao<br /> công nghệ hiện đại. Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp<br /> lần thứ tư đòi hỏi giáo dục bậc cao phải đem lại cho người học những kĩ năng và kiến thức cơ bản<br /> lẫn tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các yêu cầu công việc thay đổi liên tục để tránh nguy cơ<br /> bị đào thải [3, 20].<br /> Các nghiên cứu trên thế giới về tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư lên giáo<br /> dục phát triển nhanh chóng, các ý tưởng mới không ngừng được đề xuất. Nghiên cứu “Cuộc Cách<br /> mạng công nghiệp lần thứ tư” của tác giả Thái Hữu Thịnh (2017) khẳng định cuộc Cách mạng<br /> công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực giáo dục<br /> [28]. Nghiên cứu kết luận công nghệ “Thực tế ảo” sẽ thay đổi cách dạy và học và số lượng giáo<br /> viên ảo trong tương lai có thể nhiều hơn giáo viên thực rất nhiều [28].<br /> Ngày nhận bài: 21/6/2017. Ngày chỉnh sửa: 22/10/2017. Ngày nhận đăng: 27/10/2017.<br /> Tác giả liên hệ: Lê Thị Minh Đức, e-mail: ducltm@viethanit.edu.vn<br /> <br /> 48<br /> <br /> Lê Thị Minh Đức<br /> <br /> Tác giả Phạm Hồng Quất và Lương Văn Thường (2017) nhấn mạnh cuộc Cách mạng công<br /> nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với vai trò trung tâm của công nghệ số trên cơ sở tiếp nối thành<br /> quả của cuộc Cách mạng số hóa diễn ra mấy thập kỉ qua từ khi có máy tính. Các tác giả này đã đề<br /> xuất mô hình trung tâm đổi mới sáng tạo trong các trường đại học. Đầu vào của trung tâm là kết<br /> quả nghiên cứu hình thành từ các đề tài, dự án của trường được đầu tư trên cơ sở hợp tác với các<br /> doanh nghiệp và ý tưởng công nghệ của sinh viên, thạc sĩ, nghiên cứu sinh, giảng viên trong<br /> trường đại học [22].<br /> Tại Hội thảo quốc tế với chủ đề “Mô hình đại học 4.0 - Nền tảng giáo dục thế kỉ XXI”, Giáo<br /> sư Vossen (Đại học Munster, Đức) đã đề xuất mô hình đại học 4.0: Dạy học 4.0 - Nghiên cứu 4.0<br /> - Quản lí 4.0. Các trường Đại học, Cao đẳng cần có những hoạch định về mục tiêu, chiến lược<br /> đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin<br /> [31]. Cùng chung quan điểm này, tác giả đã đề xuất một số giải pháp cho giáo dục bậc cao trong<br /> thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cụ thể là phân chia thành ba nhóm giải pháp - giảng<br /> dạy 4.0, nghiên cứu 4.0 và dịch vụ đào tạo 4.0. Đây cũng là mục đích chính của nghiên cứu<br /> “Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư”. Trên cơ sở tìm hiểu các<br /> nghiên cứu về giáo dục bậc cao và đặc điểm của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sử<br /> dụng phương pháp quan sát, phân tích và tổng hợp các vấn đề liên quan, các nhóm giải pháp đã<br /> được đề xuất cho giáo dục bậc cao nhằm cung cấp nhân lực cho cuộc cạnh tranh kinh tế trong nền<br /> công nghiệp 4.0.<br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư<br /> 2.1.1. Tổng quan về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư<br /> Cụm từ “Cách mạng công nghiệp” hàm chứa sự thay đổi lớn, không chỉ biến đổi kinh tế mà cả<br /> văn hóa, xã hội một cách toàn diện. Lịch sử đã ghi nhận ba cuộc cách mạng khoa học kỉ thuật<br /> chính thức, làm thay đổi toàn bộ nền sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội của thế giới. Cuộc<br /> Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra từ những năm 2000 là sự kết hợp giữa thành quả<br /> của 3 cuộc Cách mạng công nghiệp trước đó với thế giới kĩ thuật số. Nó mở ra một kỉ nguyên<br /> công nghiệp lớn gồm các công nghệ mới kết hợp thế giới thực và kĩ thuật số, ảnh hưởng đến tất<br /> cả các lĩnh vực và các ngành kinh tế [6].<br /> Một từ khóa mới là “Công nghiệp 4.0” lần đầu được phát biểu tại Hội chợ Hannover vào năm<br /> 2011, giới thiệu các chiến lược công nghệ cao của Chính phủ Đức. Thuật ngữ này nhằm chỉ các<br /> công nghệ tự động hóa hiện đại, xu hướng trao đổi dữ liệu, sản xuất thông minh, điện toán hóa<br /> ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra<br /> khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước, trở thành một phần quan trọng<br /> của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trung tâm của cuộc cách mạng này là những đột<br /> phá công nghệ trong các lĩnh vực như công nghệ nano, công nghệ in 3D, ô tô tự lái, trí tuệ nhân<br /> tạo, Internet vạn vật [28]. Sự liên kết giữa các lĩnh vực vật lí-sinh học hoặc cơ -điện tử-sinh học<br /> phát triển hình thành những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến tương tác giữa<br /> con người và máy móc (ví dụ: nghề trợ lí ảo, phục vụ ảo, thư ký ảo).<br /> Với những bước đột phá trong các lĩnh vực khác nhau, chúng ta dần dần nhận ra mình đang ở<br /> giữa cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cuộc cách mạng được thúc đẩy bởi trí tuệ nhân tạo<br /> 49<br /> <br /> Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư<br /> <br /> (Artificial Intelligence) và các hệ thống thực ảo (Cyber-Physical System) [6]. Có thể hình dung,<br /> cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tiến tới loại bỏ những công việc phổ thông hoặc mang<br /> tính chất lặp đi lặp lại, thay thế toàn bộ bằng máy móc và sẽ cách mạng hóa các ngành công<br /> nghiệp một cách triệt để đến nỗi hầu hết công việc tồn tại ngày nay sẽ không tồn tại trong vòng<br /> 50 năm nữa.<br /> 2.1.2. Dấu hiệu đặc trưng<br /> Các dấu hiệu đặc trưng cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được mô tả sau đây:<br /> Số hóa và Tích hợp chuỗi giá trị dọc và ngang: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư số<br /> hóa và tích hợp theo chiều dọc các quy trình trong toàn bộ tổ chức. Nó cũng tích hợp theo chiều<br /> ngang tất cả các quy trình nội bộ từ các nhà cung cấp cho đến khách hàng. Một cách đơn giản, nó<br /> mô tả sự chuyển đổi mô hình từ sản xuất tập trung (gom các địa điểm sản xuất vào một địa điểm,<br /> khu vực) sang sản xuất phân tán (các cơ sở sản xuất được đặt ở nhiều địa điểm cách xa nhau,<br /> thậm chí tại mỗi quốc gia nơi công ti tiêu thụ sản phẩm sẽ có một cơ sở sản xuất), nhờ đó mà các<br /> thiết bị, máy móc được tích hợp chặt chẽ vào mạng thông tin, các đối tác kinh doanh và khách<br /> hàng. Nói cách khác, kỉ nguyên Công nghiệp 4.0 nhấn mạnh đến ý tưởng thống nhất số hóa và sự<br /> liên kết tất cả các đơn vị sản xuất trong một nền kinh tế.<br /> Số hóa các sản phẩm, dịch vụ: Số hóa các sản phẩm, dịch vụ bao gồm việc mở rộng các sản<br /> phẩm, dịch vụ hiện tại và sản xuất các sản phẩm số hóa mới. Cho đến nay, lợi ích chính mang lại<br /> cho các công ti công nghiệp là sự cải thiện mức độ tự động hóa nhưng trong thời đại Công nghiệp<br /> 4.0, việc tự động hóa này sẽ thông minh và tự thích nghi hơn khi các cải tiến được thực hiện<br /> trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Các xưởng sản xuất đang tiến tới sản xuất tự điều chỉnh (có thể<br /> thích ứng với nhu cầu của từng khách hàng) và có khả năng tự học.<br /> Mô hình kinh doanh số và sự tiếp cận của khách hàng: Các công ti công nghiệp nổi bật đã<br /> cung cấp các giải pháp số hóa đột phá cho mục đích mở rộng các dịch vụ của họ. Trong kỉ<br /> nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, có thể kết hợp một cách linh hoạt các mô hình kinh<br /> doanh khác nhau với sự tiếp cận của khách hàng (ví dụ như sản xuất theo yêu cầu, sản xuất tại<br /> chỗ và kĩ thuật tiêu dùng) và từ đó tạo ra các phương pháp sản xuất mới. Các mô hình kinh doanh<br /> số đột phá sẽ tập trung vào việc tạo thêm doanh thu số và tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng<br /> về tương tác và cách tiếp cận.<br /> <br /> 2.2. Giáo dục bậc cao<br /> 2.2.1. Khái niệm Giáo dục bậc cao<br /> Giáo dục bậc cao là hình thức giáo dục, đào tạo diễn ra ở các cơ sở học tập bậc sau trung học<br /> như cao đẳng, đại học và sau đại học, cuối khóa học thường được trao văn bằng học thuật hoặc<br /> cấp chứng chỉ. Giáo dục bậc cao giúp cho người học đạt được các chuẩn kiến thức nhất định,<br /> hoặc trở thành nhà nghiên cứu và giảng dạy, giúp họ trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao và<br /> có những đóng góp lớn hơn cho xã hội. Các cơ sở giáo dục bậc cao không chỉ bao gồm các<br /> trường đại học và viện đại học, mà còn có các trường cao đẳng, trường đào tạo chuyên nghiệp,<br /> trường đào tạo nghề, các trường đào tạo từ xa về giáo dục bậc cao và các viện kĩ thuật, công nghệ.<br /> 2.2.2. Lịch sử phát triển của giáo dục bậc cao<br /> Chúng ta có thể thấy rằng sự phát triển của hệ thống giáo dục bậc cao đã trải qua các giai<br /> đoạn: Đào tạo tinh hoa; Đào tạo đại chúng; Đào tạo thời kì hậu đại chúng.<br /> 50<br /> <br /> Lê Thị Minh Đức<br /> <br /> Đào tạo tinh hoa: Giáo dục bậc cao có nguồn gốc sâu xa bắt đầu từ các trường học tu viện ở<br /> thế kỉ thứ 6 và sau đó phát triển thành Đại học Châu Âu thời trung cổ. Nhiệm vụ chủ yếu của các<br /> trường đại học là đào tạo tinh hoa ở các lĩnh vực hành chính, luật, y... phục vụ nhu cầu cho Nhà<br /> nước và nhà thờ. Nói cách khác, trong giai đoạn đầu của nó, giáo dục bậc cao được phát triển để<br /> hình thànhvà chi phối tư duy của giai cấp cầm quyền [29].<br /> Đào tạo đại chúng: Vào những năm cuối thế kỉ 20, căng thẳng giữa giáo dục với tư cách là<br /> một quyền tư nhân hoặc là một lợi ích công đã thúc đẩy xu hướng “đại chúng hóa”, nghĩa là cung<br /> cấp nền giáo dục bậc cao cho nhiều người. Giáo dục bậc cao đã tạo ra những thay đổi theo nhiều<br /> khía cạnh như quy mô và hình dạng của hệ thống, chương trình giảng dạy, cơ cấu tổ chức,<br /> phương thức chuyển giao, mô hình nghiên cứu và mối quan hệ giữa các viện nghiên cứu và cộng<br /> đồng khác bên ngoài. Mục tiêu chính của giáo dục đại chúng là nhằm chuyển giao kĩ năng và<br /> chuẩn bị cho nhiều vai trò kĩ thuật và kinh tế khác nhau [29].<br /> Đào tạo thời kì hậu đại chúng và kinh tế trí thức: Cùng với quá trình phát triển của khoa học,<br /> công nghệ và nền sản xuất hiện đại, những tiến bộ trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội,<br /> giáo dục bậc cao tiếp tục phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, chất lượng lẫn hiệu quả đào tạo. Đại<br /> học nghiên cứu và mạng lưới cao đẳng cộng đồng được đa dạng hóa và phát triển mạnh ở các địa<br /> phương để đáp ứng nhu cầu phổ cập giáo dục bậc cao. Trường Đại học trở thành trung tâm sản<br /> xuất, phát triển và ứng dụng các dịch vụ tri thức, công nghệ cao, phát triển các giá trị văn hóa, xã<br /> hội và cộng đồng.<br /> 2.2.3. Các chức năng cơ bản của một cơ sở giáo dục bậc cao<br /> Nhiệm vụ cốt lõi của giáo dục bậc cao vẫn không thay đổi dù ở bất kể thời đại nào. Mục tiêu<br /> của giáo dục bậc cao là đảm bảo chất lượng học tập thông qua công tác giảng dạy, giúp sinh viên<br /> có được những kiến thức mới nhất thông qua nghiên cứu khám phá, và để duy trì sự phát triển<br /> của xã hội thông qua dịch vụ đào tạo cung cấp.<br /> Giảng dạy: Một trong những nhiệm vụ chính của mỗi trường đại học là giáo dục giới trẻ. Do<br /> đó, cần phải triển khai các chiến lược giảng dạy phù hợp và tổ chức công việc theo cách thúc đẩy<br /> học tập. Điều này liên quan đến các chương trình học tập thích nghi, kinh nghiệm học tập và thái<br /> độ học tập suốt đời.<br /> Nghiên cứu: Hành trình hướng tới cạnh tranh toàn cầu trong giáo dục bậc cao đòi hỏi các cơ<br /> sở giáo dục phải nỗ lực rất nhiều vào nghiên cứu và phát triển (R&D). Các chuyên gia tin rằng<br /> việc này bao gồm một phạm vi lớn từ việc triển khai công nghệ mới cho đến hợp tác và cộng tác<br /> toàn cầu.<br /> Cung cấp dịch vụ đào tạo: Muốn duy trì vị thế cạnh tranh giữa các hệ thống giáo dục bậc cao<br /> trên thế giới, chúng ta cần phải cải tiến triệt để các dịch vụ giáo dục. Đặc biệt, chúng ta cần thúc<br /> đẩy mạnh hơn việc đổi mới và cạnh tranh trong giáo dục.<br /> <br /> 2.3. Giải pháp cho giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư<br /> Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục bậc cao trên hai phương<br /> diện lớn: Nội dung giảng dạy và Mô hình đào tạo và nghiên cứu. Các trường đại học cần cải cách<br /> theo hướng Đại học 4.0 vì nhu cầu và tính cạnh tranh cao và gia tăng nhanh chóng theo thời gian.<br /> Mô hình đào tạo cho Đại học 4.0 tuy hiện tại chưa được xác định cụ thể nhưng tổng quát mà nói<br /> nó gồm có ba yếu tố: kết nối Internet (IoT), thông minh (công cụ tính toán thông minh với phần<br /> 51<br /> <br /> Giáo dục bậc cao trong thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư<br /> <br /> cứng và phầm mềm hỗ trợ đào tạo và học tập, quản lý trường học và sinh viên) và có yếu tố con<br /> người tham gia trong chu trình. Dựa theo mô hình Công nghiệp 4.0, việc đào tạo, nghiên cứu và<br /> cung cấp dịch vụ của giáo dục bậc cao sẽ khác nhiều so với mô hình truyền thống vì sẽ có nhiều<br /> yếu tố mới [7]. Từ những vấn đề nêu trên, để có thể vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội do cuộc<br /> Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp thực hiện đối với<br /> giáo dục bậc cao.<br /> 2.3.1. Giảng dạy trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Giảng dạy 4.0)<br /> 2.3.1.1. Giảng dạy, học tập và đào tạo có sự hỗ trợ của các thiết bị đeo thông minh<br /> Thiết bị đeo thông minh (wearable device) hay còn gọi là thiết bị đeo được là những sản phẩm<br /> công nghệ có thể đeo được trên người mà tích hợp các công nghệ hỗ trợ cho người đeo [1]. Các<br /> thiết bị đeo phổ biến hiện nay là vòng tay thông minh, đồng hồ thông minh và kính thông minh.<br /> Sự đa dạng của các thiết bị đeo thông minh được sản xuất cho thấy sự hình thành một trào lưu<br /> công nghệ mới. Công nghệ đeo được (wearable technology) đang ngày một phát triển, làm tăng<br /> tính tiện lợi và tính khả thi trong mọi lĩnh vực và cho mọi người. Ngay từ bây giờ, các cơ sở giáo<br /> dục phải nhận ra tiềm năng rất lớn của các thiết bị đeo thông minh để có thể thay đổi cách mà<br /> chúng ta giảng dạy, đào tạo và giao tiếp với sinh viên cũng như cách mà sinh viên học và tiếp thu<br /> [13, 33]. Có thể khái quát năm cách sử dụng thiết bị đeo thông minh để có thể mở ra những cơ<br /> hội trong giáo dục bậc cao:<br /> Ứng dụng (Application): Phát triển ứng dụng là yếu tố quyết định cho sự thành công của thiết<br /> bị đeo được trong cả giáo dục lẫn bên ngoài [19]. Các ứng dụng cho phép giảng viên đưa bài học<br /> vào thế giới thực và làm cho nó trở nên phù hợp hơn với thế hệ công nghệ. Ví dụ như ứng dụng<br /> Streetmuseum dành cho iOS giúp người dùng hình dung các đường phố Luân Đôn trong suốt lịch<br /> sử. Nhờ đó, sinh viên có thể tiếp thu bài học dễ dàng hơn, trực quan hơn.<br /> Chuyến đi thực địa ảo (Virtual Field Trip): Thông qua các thiết bị kính thông minh, có thể<br /> cho phép sinh viên đi thực địa ảo trên khắp thế giới để tăng cường khả năng học tập và nhìn thấy<br /> những địa điểm mà họ chưa bao giờ có cơ hội xem trước [27]. Ví dụ, một giảng viên vật lí có thể<br /> đưa sinh viên của mình vào một chuyến thực tế ảo tới lò phản ứng hạt nhân ở Thụy Sĩ hoặc một<br /> giảng viên xã hội học đi qua Quảng trường Thời đại ở New York và mô tả các khái niệm xã hội<br /> học mà ông thấy ở đó thay vì chỉ giảng về chúng.<br /> Học tập qua trải nghiệm (Experiential Learning): Giáo dục đang chuyển sang một “kỉ nguyên<br /> mới” của việc học tập trải nghiệm, ở đó sinh viên có thể “sống” trong bài học thay vì chỉ đọc về nó [8,<br /> 21]. Các thiết bị đeo được, ví dụ thiết bị thực tế ảo đội đầu Oculus Rift, cho phép sinh viên trải<br /> nghiệm việc học theo một cách hoàn toàn mới, từ đó mang lại cảm giác thích thú hơn với các bài học.<br /> Công nghệ thực tế tăng cường (Augmented Realiti - AR): Ngược lại với thực tế ảo (Virtual<br /> Realiti), công nghệ AR cho phép chúng ta nhìn thấy những hình ảnh xung quanh trong khi đang<br /> tương tác với thế giới thật. Với sự tiến bộ của các công nghệ đeo được, có thể nói rằng công nghệ<br /> AR đang phát triển và từ đó tạo ra các phòng thí nghiệm ảo. AR có thể bổ sung thực tế thông qua<br /> việc tạo ra các thông tin máy tính theo thời gian thực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm<br /> và giải thích kết quả [4, 23]. Ngoài ra còn có các công nghệ biến sách điện tử thành các thực<br /> nghiệm học tập 3 chiều, đưa ra các minh họa để giúp sinh viên dễ hiểu và nắm bắt hơn [2].<br /> 52<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0