intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo dục văn hóa pháp đình: Phần 2

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

101
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu đi sâu về văn hóa vật thể pháp đình. Văn hóa phi vật thể pháp đình, thực chất là đề cập tới việc xử lý các mối quan hệ trong tố tụng và việc ứng xử trong phiên tòa (cả trước và sau) của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, trung tâm là vai trò của Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư tại các phiên tòa nói chung và ở phiên tòa hình sự nói riêng. Mời các bạn cùng tham khảo tiếp nội dung Tài liệu qua phần 2 sau đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo dục văn hóa pháp đình: Phần 2

  1. Chương II. Văn hoá pháp đình Việt Nam N h ữ n g tín h c h ấ t của th â m vấ n Công việc xét xử của Thẩm phán được biểu hiện % rõ nét tại cuộc thẩm vấn ỏ phiên toà. Vì vậy, cuộc thẩm vấn cũng chứa đựng nghiệp vụ chuyên sâu với íỹ năng, kỹ xảo riêng biệt... Chúng tôi nghĩ rằng, trong tương lai không xa, nghiệp vụ thẩm vấn tại phiên toà sẽ ngày càng hoàn thiện, và người làm công tác xét xử - Thấm phán - sẽ không còn dừng lại ở phạm trù nghề nghiệp mang tính thuần tuý và đơn điệu (đã có nhiều người cho rằng Thẩm phán là ''thự' xét xử) mà nó được nâng lên ở một trình độ nghệ thuật mang tính pháp lý rất cao. phù hỢp với xu thế phát triển chung của các ngành khoa học khác - văn hoá tham vấn. Để có được một trình độ nghề nghiệp cao, ngưòi Thẩm phán từ khi nghiên cứu hồ sơ đến khi mỏ phiên toà (gồm điều khiển phiên toà, thẩm vấn, nghị án và tuyên án) phải có nhừng yêu cầu nhất định, đó là những tính chất vừa đặc trưng vừa phổ biến của công tác xét xử. Những tính chất này là sự kết hỢp nhuần nhuyễn giữa phẩm chất, ý chí, nghị lực vối nàng lực, tài năng và trình độ văn hoá (theo nghĩa rộng) của Thẩm phán. 103
  2. Văn hoá pháp đnh Văn hoá pháp đình Việt Nam chứa đựng trcnig lòng nó hàng chục tính chất và được quy về ba nhorn đặc tính văn hoá pháp đình, đó là: - Nhóm đặc tính văn hoá quyền lực pháp đ h h Việt Nam; - Nhóm đặc tính văn hoá năng lực (cá nhin) (nhừng người tiến hành tô" tụng); - Nhóm đặc tính văn hoá nghị lực (cá nhìn.) (những ngưòi tiến hành tô" tụng). Hàng chục tính chất của ba nhóm đặc tính \lia hoá nói trên như là các vi hệ trong tiểu hệ đế cấia thành nên ván hoá pháp đình Việt Nam. Nhóm đặc tính văn hoá quyền lực pháp đ iih Việt Nam: Từ xa xưa, người ta đã hiểu rằng quyền lựclíà quyển định đoạt và sức mạnh để đảm bảo sự ttựic hiện. Xuất hiện cùng với sự hình thành xã hội l>àú ngưòi và tồn tại theo sự phát triển của xã hội dĩớii hình thức này hay hình thức khác, quyền lực về bím chất là quyền lực của giai cấp thống trị và mang thlh chính trị. 0 Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hù quyền lực thuộc về nhân dân, nó thể hiện là quyền ựtc 104
  3. Chương II. Văn hoá pháp đình Việt Nam của dân, do dân mà có, và vì dân mà quyền lực được duy trì. Phát huy truyền thông văn hoá pháp đình Việt Nam có những mặt tích cực của nó song cũng tồn tại một lực cản từ truyền thôVig “ưô tụng". Như chúng ta đã biết, đê đảm bảo cho pháp luật phải đứng trên nhà nước và nhà nước phải tuân thủ pháp luật thì nhà nước phải nêu cao vị trí, vai trò của Toà án. Nhà nước pháp quyền đề cao vai trò xét xử của Toà án đôi vói những vi phạm pháp luật của cơ quan, quan chức nhà nưóc lẫn công dân. xử lý các tranh chấp, các vi phạm pháp luật bằng con đưòng Toà án là một yêu cầu của Nhà nước pháp quvền. Thực thi yêu cầu này của Nhà nước pháp quyền sẽ gặp phải một trở ngại từ vân hoá pháp đình của người Việt. Cách nhìn của ngưòi dân về pháp luật dẫn đến cách nhìn vê pháp đình. Pháp đình là nơi thực thi pháp luật, mà pháp luật lại chính là hình phạt nên pháp đình được coi là nơi trừng phạt. Vì vậy, việc sử dụng pháp đình không được khuyên khích trong xã hội phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, người phương Đông không thích kiện tụng. Triêt lý giải quyết tranh chấp của nhà nho (nho = nhu) là "'vô tụng”. Khổng Tử .nói: “ Xét xử việc kiện tụng, ta củng như ngươi. Tất phải làm cho dân không có việc kiện 105
  4. Văn hoá pháp đình tụng..."?, ở Trung Quốc trưốc đây, quan niệm coi thường việc kiện tụng trong các kinh điển được bọn quyền th ế mở rộng và nhấn mạnh ''không kiện tụng", "kiện sẽ gặp hoạ”. Việt Nam bị hàng ngàn năm Bắc thuộc nên văn hoá pháp đình Trung Hoa cũng ảnh hưởng rất lớn đên người Việt Nam. Người dân quan niệm ra toà là một điểu ghê gớm nên ngại hoặc sỢ ra pháp đình. Vạn bất đắc dĩ mới phải ra chôn công đưòng. ''Nhất đáo tụng đinh" là phương châm giải quyết các tranh châp của nhiều ngưòi dân. Hơn nữa, do lối sông trọng hoà, trọng tình trọng nghĩa nên nếu có mâu thuẫn, tranh chấp về quyền lợi và nghĩa vụ, ngưòi Việt không thích kiện tụng mà luôn chủ trưđng ‘'đóng cửa bảo nhau", ''chín bỏ làm m ười' và luôn coi “(iĩ hoà vi q u ỷ '. Như vậy, người Việt Nam có một văn hoá chủ hoà, nhìn Toà án như một công cụ trừng phạt nên có xu hướng “oô tụng". Văn hoá pháp đình này tương tác với yêu cầu về tư pháp trong Nhà nưốc pháp quyền sẽ tạo ra những hiệu ứng nghịch. Văn hoá pháp đinh Việt Nam có những yếu tô" gây trở ngại cho việc phát huy vai trò của tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, ơ đây, chúng tôi chưa đê cập tới những 106
  5. Chương II. Văn hoá pháp đinh Việt Nam mật tiêu cực, những việc làm tiêu cực của cán bộ tư pháp nói chung và của Toà án nói riêng, phần nào cũng làm cho nhân dân không tin tưỏng nơi pháp đình. Và vì vậy, họ thưòng tự xử lý vói nhau có khi bằng ''luật rừng". Trách nhiệm nặng nề của chúng ta là làm sao cho dân chúng hiểu sâu về “việc ra tòa" để giải quyết mọi mâu thuẫn, đồng thời là thói quen để phù hỢp với thê giối bên ngoài, đê hội nhập, làm ăn với họ, để việc phải ra Tòa án là một việc bình thường và cần thiết. Nhóm đặc tính văn hoá quyên lực pháp đình có các tính chất điển hình sau: - Tính chính trị; - Tính trừng trị; - Tính pháp lý; - Tính thẩm định; - Tính công bằng; - Tính khách quan; - Tính công khai; - Tính trang nghiêm; 107
  6. Văn hoá pháp đnh - Tính giáo dục.... Nhóm đặc tính văn hoá năng lực của n h in g người tiến hành tô'tụng: Năng lực là đặc điểm của cá nhân ngưòi t ê n hành tô" tụng thể hiện mức độ thông thạo, tức là có ".h ể được thực hiện một cách thuần thục và chắc chắn '.á.c nhiệm vụ đã được giao trên cơ sở các quy định (ủ.a pháp luật {ưí dụ: việc điều khiển phiên toà của ch,ủ toạ, việc thẩm vấn của Thẩm phán, việc viết án \ă;n và công bô" án văn,...). Năng lực của những ngưòi tiến hành tô' tụng gắm lên với những phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy Ccrr.i, trí tuệ, tính cách của cá nhân. Năng lực có thể pláit triển trên cơ sở năng khiếu của người tiến hành t.ố tụng (đặc điểm sinh lý của con ngưòi, trước hết là (ủ:a hệ thần kinh trung ương), song không phải là bínn sinh mà là kết quả phát triển của xã hội và của (om người (có thể là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật su...) từ đòi sông xã hội, từ sự giáo dục và rèn luyện, vàtiừ thực tiễn hoạt động của các cá nhân Thẩm phán, Liậit sư, Kiểm sát viên... Nếu năng lực cao thì đạt được iế;t quả hoàn thiện, xuất sắc. 108
  7. Chương II. Văn hoá pháp đình Việt Nam Những thấm phán điểu hành phiên toà kéo dài hàng tháng, có sổ^ lượng bị cáo vài chục, qua điều hành phiên toà, thẩm vân, viết và công bô' án văn không có những sai lầm. mà qua xét xử còn phát hiện ra những kẽ hở của pháp luật đế rồi kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thậm chí huý bỏ thì đó là những thẩm phán tài năng. Mhóm nàv gồm các đặc tính cơ bản sau: - Tính sáng tạo; - Tính tống hỢp; - Tính phôi hợp; - Tính chuẩn xác: - Tính thòi gian; - Tính hoà giái; - Tính văn hoá... Nhóm đặc tính văn hoá nghị lực của những người tiến hành tô'tụng'. líhi tiến hành các giai đoạn tô tụng, những người cán bộ làm công tác này và dặc biệt là các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán nhất là ở giai đoạn 109
  8. Văn hoá pháp đình tranh tụng phải trải qua nhiều diễn biến phức tạp, những tình huống bất ngò, những sự cô" xảy ra, và biêt bao tác động từ nhiều phía, đòi hỏi họ phải có một nghị lực - đó chính là sức mạnh tinh thần, tạo cho họ một sự kiên quyết trong hành động, không lùi bước trước khó khăn, trưốc quyền lực đen đe doạ, mua chuộc, dụ dỗ... Nhóm đặc tính này bao gồm một sô" tính chất cơ bản sau: - Tính phẩm chất; - Tính chiến đấu; - Tính độc lập; - Tính tập thể; - Tính bí mật; - Tính phòng ngừa. 5. Án văn và tuyên đọc án văn Án văn (hay bản án) là văn bản tô" tụng, ghi nhận các kết luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Nó phản ánh trung thực diễn biến phiên toà và quá trình nghị án, đánh dấu sự kết thúc của toàn bộ quá trình 110
  9. Chương II. Văn hoá pháp đình Việt Nam diểu tra, truy tô, xét xử (nếu là vụ án hình sự). Nội dung của bản án trình bày một cách khách quan sự việc xảy ra (tranh cháp trong vụ án dân sự, việc phạm tội của bị cáo trong vụ án hình sự.,.), phân tích những chứng cứ, áp dụng điều luật... Như vậy, bản án chính là văn bản pháp lý duy nhất đê xác định bị cáo có tội không có tội (dôl VÓI vụ án hình sự); xác định sự Việc xảy ra tranh chấp (nếu là vụ án dân sự). Vì vậy, bản án phải chính xác và có sức thuyết phục. Bản án chính xác thê hiện ở chỗ mọi kết luận trong bản án đều phải phù hỢp với những tình tiết khách quan của vụ án, Muôn đảm bảo ca hai yêu cáu trên, bản án phải có căn cứ - tức là có dầy đủ chứng cứ pháp lý để dựa vào đó mà kết luận và quyêt định từng vấn đề của vụ án; phải hỢp pháp - thể hiện ỏ' việc áp dụng pháp luật trên cả hai phương diện: nội dung và hình thức của bân án. Án vản (bán án) cliuẩn bị (lả tôt, nhưng việc tuyên đọc án văn không (lạt yêu cầu cũng dẫn đên tác hại không lưòng. Sau khi Hội dồng xét xử tiến hành nghị án và thông qua bản án (có biên bản) thì chủ toạ phiên toà (hoặc một thành viôn của Hội đồng xét xử) tuyên án 111
  10. Văn hoá pháp dìinh nhằm công bô" bản án và các quyết định khác một cách công khai trước phiên toà. Qua đó, những người có quyền và lợi ích hỢp pháp liên quan hay bị cáo (nếu là vụ án hình sự), Kiểm sát viên và đông đảo quần chúng biết được bản án và các quyết định khác của Toà án. Trên cơ sở đó, họ có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình như quyền kháng cáo (nếu là bị cáo hay những người tham gia tố^ tụng khác), quyển kháng nghị (đốỉ với Kiểm sát viên)... Vì vậy, khi tuyên án, chủ toạ phiên toà phải có tư thế đưòng hoàng, nghiêm túc, tuyên án phải rõ ràng, dõng dạc, dứt khoát, phản ánh chính xác nội dung của bản án và các quyết định khác của Hội đồng xét xử. Mặt khác, nói về án văn cũng là nói tới văn phong của bản án. Chúng ta biết đến nhiều bản án chất lượng cao, đi vào lịch sử, đi vào cuộc sông xã hội, vào lòng dân, nhưng vẫn còn không ít bản án chưa đạt yêu cầu. Có bản án quy kết bị cáo: “Sỉ/ việc hết sức rõ ràng như vậy mà bị cáo vẫn một mực chối cãi và luật sư cô'bám vào vận đơn đ ể chứng m inh là hàng quá cảnh, thật vô lý. Toà tuyên bố bác bỏ lập luận này”. Và, sau khi nói vê hành vi lừa dối của bị cáo đốì vởi cđ quan Hải quan, bản án đã chuyến sang một luồng “văn phong” mới lạc 112
  11. Chương II. Văn hoá pháp đình Việt Nam lõng, phẫn uất: ‘T oà cực lực lên án thủ đoạn đê tiện này"?. Lại có đoạn khác chê bai phong cách làm việc, lập trường và nhãn quan chính trị của Luật sư: ''Rất tiếc khi nhận bào chữa cho thăn chủ, Luật sư đã quên đi pháp luật Việt Nam mà giải thích một cách tuỳ tiện... Luật sư chỉ nghe lời khai của bị cáo mà không thấy hết tính chất nghiêm trọng của vụ án, chỉ ngồi trong khuôn viên pháp đình với tâm trạng trung thành với thân chủ, Luật sư đã không thấy bọn tội phạm quốc tế đang tim cách làm lủng đoạn thị trường Việt Nam, phá hoại nền kinh tế Việt N am ". Khi đọc những dòng án văn mà tôi vừa trích dẫn, không hiểu các Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên nghĩ gì? Do thời gian ít, xét xử nhiều, Thâm phán không đủ thòi gian đế viết án văn nên đôi khi tuỳ tiện, thậm chí tối ‘"ngẫu hứng" khi tuyên án. Bàng khả năng và kinh nghiệm thâm niên xét xử, có Thẩm phán còn ''tuyên vo" mà thường được quy tội là “ấn nói”. Chính vì vậy mới có trường hợp khi tuvên án thì th ế này, nhưng đến khi phát hành bản án thì nội dung lại khác, dẫn đến khiếu kiện, nghi ngò của nhân dân... Rèn rũa cách viết án văn cũng là biểu hiện của sự tu luyện nhân cách, phẩm cách của người Thẩm phán trong 113 8 VHPO-A
  12. Văn hoá pháp đìnhi một Nhà nước pháp quyền lấy pháp luật để phụng sụí Tổ quôc, phục vụ nhân dân. Án văn là biểu hiện củai pháp luật, pháp luật phải thể hiện là ý chí của nhâm dân, bảo vệ nhân dân, ví như dòng sông có đôi bò đê giữ nước, đem nguồn nưốc sạch về với bản làng, ruộngĩ đồng, để rồi hòa nhập với đại dương, với thế giới bêr.i ngoài để cùng phát triển. “Pháp luật như dòng sồng, M ang trong lòng sự sông Bỉnh yên đến mọi miền Dòng sông xuôi về biển Hòa m inh với đại dương". II. VĂN HOÁ SAU XÉT xử Sau khi phiên toà kết thúc, tỷ lệ phần trăm cá(c '‘đương sự ' tâm phục, khẩu phục là đa sô, nên khôiiịg có sự phản ứng bằng cách chông án hay khiếu nại, t ố cáo những người tiến hành tô tụng. Song cũng CCÓ ^ỉhông ít những người tham gia tô" tụng vẫn chông án., hoặc làm đơn khiếu nại, tô" cáo những ngưòi tiến hànhi tô tụng vì cho rằng bản án không công bằng, khônfg 114 8 VHPO--B
  13. Chương II. Văn hoá pháp đinh Việt Nam khách quan hoặc cá nhân Thẩm phán, Kiểm sát viên liay Luật sư có việc làm khuất tất nên họ khiếu nại, t hậm chí là tô" cáo. Việc giải quyêt đơn thư khiếu nại, tô" cáo đang là vân đê vô cùng bức xúc, làm vất vả dân chúng, làm (ỉau lòng những ngúòi có lương tâm, trách nhiệm muôn để cao kỷ cương phép nước, gìn giữ công lý. Vối họ, luôn canh cánh trong lòng trưốc số phận "'long đong" của người dân lương thiện; trăn trở trước việc làm vô trách nhiệm, không hiểu biết về nhân tình thế thái của những người công chức đã và đang thoái hoá, biến châ’t, lây vụ lợi lên trên hết... Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đùn đẩy giải quyết đơn thư hoặc giải quyết sai thẩm quyền, thậm chí để quên lãng trong im lặng, là do ngưòi đưỢc phán công làm nhiệm vụ giải quyêt đơn thư không nắm chắc nghiệp vụ, không thông thạo pháp luật nói chung và pháp luật khiếu nại, tô"cáo nói riêng, thậm chí còn không phân biệt được thê nào là khiếu nại và thê nào là tô cáo. chúng khác nhau ở những điểm nào. Đã có nhiều bẩn báo cáo, thậm chí của cả cơ quan có thẩm quyền ở trung ương vẫn có sự nhầm lẫn, 115
  14. Văn hoá pháp đình không rạch ròi giữa hai khái niệm khiếu nại và tô cếo. Trong bản báo cáo viết: ''Trong năm qua, chúng ta đỏi thụ lý và giải quyết được 297 đơn thư khiếu nại, tô cío trên tổng 356 đơn thư đã thụ lý..." Báo cáo này lă không lý giải trong sô"297 đơn đã giải quyết (và cả 3S6 đơn đã thụ lý) thì có bao nhiêu đơn là khiếu nại, bio nhiêu đơn là tô" cáo bởi trình tự giải quyết và hậu q iả pháp lý của chúng là khác nhau. Chính vì những viVi đề đã nói ở trên mà chúng ta thấy rất cần thiết p tả i phân biệt rõ sự khác nhau giữa khiếu nại và tô" C£0 . Nhưng quan trọng hơn cả, đó là tấm lòng của ngiò i được phân công, được giao nhiệm vụ giải quyết khiấư nại, tô cáo, được biểu hiện bằng văn hóa giải qu}ế't khiếu nại, tô" cáo. Khiếu nại, tô" cáo là một trong những quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân được Hiến pháp và p h íp luật ghi nhận. Để những quyển này đưỢc đảm bảo thực thi trên thực tê đồng thời góp phần nâng caio hiệu quả quản lý nhà nưốc, đòi hỏi những hiểu bế;t của công dân vê khiếu nại, tô" cáo phải đạt đến nộ)t trình độ n h ấ t định. Bên cạnh đó, trách nhiệm gảii quyết khiếu nại, tô" cáo của công dân từ phía các Cíá nhân và cơ quan có thẩm quyền phải luôn đúng phí]p 116
  15. Chương II. Văn hoá pháp đinh Việt Nam luật, công bằng, khách quan, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. ĐÒI hỏi này, hiện nay vẫn chưa hoàn toàn được đáp ứng. Luật khiếu nại, tô" cáo cùng với những văn bản pháp luật khác có liên quan đã được ban hành nhằm tạo một khung pháp lý cho hoạt động khiếu nại, tô" cáo và giải quyết khiếu nại, tô^ cáo. Song vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi Luật khiếu nại, tố cáo là đã có không ít trường hợp còn lúng túng, chưa phân biệt rõ ràng, chính xác thê nào là khiếu nại, thê nào là tô cáo, khi đơn thư có nội dung chứa đựng cả việc khiếu nại và việc tô" cáo thì thụ lý, giải quyết còn nhiều lúng túng. Đây chính là một trong nhiều nguyên nhân làm nảy sinh những nhầm lẫn, thiếu sót, thậm chí là sai lầm trong việc xử lý đơn thư, tiến hành xác minh giải quyết khiếu nại, tổ’ cáo của công dân. khiến người dân phải khiếu nại nhiều lần hoặc tô" cáo sai về sự việc. Từ đó dẫn đến việc đơn thư khiêu nại, tô cáo không được giải quyết kịp thòi, chính xác, để tồn đọng quá nhiều trong một thời gian dài mà pháp luật không cho phép. Khắc phục tình trạng chung này, đồng thòi để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tô cáo cũng như mọi người dân hiểu rõ hơn về khiếu nại, tô 117
  16. Văn hoá pháp đình cáo, trước hết cần phải "phân tích" cách hiểu hai phạm trù khiếu nại và tô" cáo theo quy định của pháp luật hiện hành. Khiếu nại, tô cáo là hai khái niệm thường được nhắc đến cùng nhau, song tất nhiên khiếu nại và tỏ cáo không phải là một. Theo các văn bản pháp luật 'liện nay, khiếu nại, tô" cáo đưỢc hiểu như thế nào? Điều 2 Luật khiếu nại, tô" cáo quy định; “1. Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán hộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành ui đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hỢp pháp của minh. 2. Tô cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhản có thảm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của N hà nước, quyền, lợi ích hỢp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. Tại Chương XXXV Bộ luật tô" tụng hình sự 2Ũ03 118
  17. Chương II. Văn hoá pháp đình Việt Nam với tiêu đề: ''Khiếu nại, tô'cáo trong tô' tụng hỉnh sự ' đã quy định tại Điều 325: ngưòi có quyền khiêu nại và Điều 334; người có quyền tỏ cáo. Hai điều này của Bộ luật tô" tụng hình sự 2003 nhìn chung tương tự Điều 2 Luật khiếu nại, tô cáo. Tuy nhiên, ở đoạn 2 Điều 325 Bộ luật tô" tụng hình sự 2003 thì việc khiếu nại đôl với bán án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp uật, khiếu nại đốì vối bán án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không giải quyêt theo chương này - Chương XXXV, mà được giải quyết theo quy định tại các Chương XXIII, XXIV, XXX, XXXI của Bộ iuật tố tụng hình sự - tức là theo con đường tố^ tụng hình sự. Có thể nói, đôi với những công chức Toà án, Eaểm sát, Công an, khi tiến hành tô" tụng họ bị điều chỉnh bởi hai bộ luật: Luật khiếu nại, tô" cáo và Luật tô tụng hình sự cho nên khi giải quyết khiếu nại, tô" cáo vối họ cần phải hết sức chuẩn xác, cầu thị, khách quan. Nếu không sẽ dẫn đến môt trong hai trường hỢp sau: một /à, việc giái quyết sẽ trùng lặp, không đúng thẩm quyền, không đúng đôi tượng; hai là, sẽ bỏ sót, bỏ qua, thậm chí bao che, đùn đẩy, né tránh trước quy định của hai bộ luật nói trên, Còn các công chức tiến hành oác tô tụng dân sự, hành chính, lao động, kinh tế... thì hiển nhiên là phải áp dụng và chịu sự điều chỉnh của 119
  18. Văn hoá pháp đình Luật khiếu nại, tô" cáo. Nắm chắc quy định này đế ■chông giải quyết nhầm lẫn, dẫn đến thiệt hại, vất vả cho nhân dân. Như vậy từ hai định nghĩa này, xét về mặt lý luận, có thế tìm hiểu và phân biệt khiếu nại, tố cáo trên các phương diện sau đây: 1. Vê chủ thể Chủ thê của hành vi khiếu nại có thể là công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức có quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính, hành vi vi phạm hành chính hoặc một quyết định kỷ luật cán bộ, công: chức, hoặc người đại diện hỢp pháp của những người, này khi họ thực hiện quyền khiếu nại (trong hoạt- động tô tụng quy định hành vi tô" tụng của cơ quan,, người có thẩm quyền tiến hành tô" tụng). Có nghĩa là,, chủ thê của hành vi khiếu nại phải là ngưòi bị tấC' động trực tiếp bởi chính đôi tượng của hành vi đó hoặc' à người được những người này ủy quyền theo quy' định của pháp luật. Trong trường hỢp phát hiện thấy’ các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết- định kỷ luật cán bộ, công chức có biểu hiện vi phạmi pháp luật, những người không thuộc diện vừa néui trên cũng không có quyền khiếu nại, họ chỉ có thể vấn”, “góp ý” hoặc sử dụng các hình thức tác độngí 120
  19. Chương II. Văn hoá pháp đinh Việt Nam khác đê chính người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện hành vi khiếu nại. Chính vì đặc điểm này của chủ thê khiếu nại mà pháp luật quy định nghĩa vụ của họ một cách "chặt chế' hơn so với chủ thê của hành vi tố cáo. Người khiếu nại có nghĩa vụ “khiếu nại đến đúng người có thâm quyền giải quyết", trong trường hỢp những ngLíời khiếu nại đến khiếu nại hoặc gửi đơn khiếu nại qua đưòng bưu điện đến nhũng cơ quan không có thẩm quyền thì các cd quan, tô’ chức này chỉ có trách nhiệm "thông háo" và “c/zỉ dẫn" cho đương sự bằng vàn bản mà không có trách nhiệm chuN^ển đơn. Trên cơ sở tinh thần đó mà Nghị định số 67/1999/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 07/8/1999 gián tiếp quy định những cá nhân, cơ quan có quyền chuyên đơn khiếu nại của công dân gồm đại biểu Quôc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, u ỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tô chức thành viên của Mặt trận hoặc các cơ quan báo chí (Điều 6 ); còn lại đôi vối các chủ thê giài quyết khiếu nại (tức là người giải quyết khiếu nại) khác thì: “Đỏi ưới đơn khiếu nại khòng thuộc thâm quyền giải quyết của minh... thi cơ quan nhận được đơn không có trách nhiệm thụ lý mà ihông báo và chí dẫn cho người khiếu nại hằng văn bản. Việc thông báo chỉ thực hiện một lần đối với một 121
  20. Văn hoá pháp đinli vụ việc khiếu nại..." (khoản 5 Điều 5 Nghị định số 67/1999/NĐ-CP). Bên cạnh đó, ngưòi khiếu nại có nghĩa vụ ''trinh bày trung thực sự việc, cung cấp thing tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại, chịu trcch nhiệm trước p h á p luật về nội du ng trình bày và liée cung cấp các thông tin, tài liệu đô" song họ khóng phải chịu trách nhiệm khi họ khiếu nại không đúaịĩ- Ví dụ: ông A - Thẩm phán Tòa án nhân dân huyệ.ì X đã có hành vi hạch sách, “ưòi vĩnh” đổĩ với đương sự và đã bị tô"cáo. Ngưòi có thẩm quyền giải quyết tô" :áo đã cho tiến hành xác minh làm rõ và kết luận Thẩm phán A có hành vi nhận hôi lội nhưng do sự việ( có tính chất ít nghiêm trọng, lại có nhiều tình tiêt giám nhẹ như trung thực nhận lỗi, sô" tiền chiếm (bạt không nhiều, đã trả lại và xin lỗi ngưòi bị hại, do ^ậy ông A chỉ bị xử lý kỷ luật vối hình thức cách chức, Dili nhiệm Thẩm phán. Không đồng ý vối quyết định kỷ luât này, ông A cho rằng mức kỷ luật là quá nặng ìên đã có đơn khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền. Sau khi xem xét lại sự việc, cơ quan có thẩm quyền sết luật quyết định kỷ luật đối với ông A là hoàn t)àn chính xác, hỢp lý, hỢp tình và theo đúng quy định :ủa pháp luật, khiếu nại của ông A không đưỢc ciâp nhận. Khi đó, ông A có trách nhiệm chấp hinh 122
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1