intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Bản đồ địa chính: Phần 1 - Nguyễn Thị Kim Hiệp (chủ biên)

Chia sẻ: Trang đặng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

580
lượt xem
73
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Bản đồ địa chính: Phần 1 do Nguyễn Thị Kim Hiệp làm chủ biên cung cấp cho các bạn những kiến thức về cơ sở lý luận bản đồ địa chính bao gồm những khái niệm về bản đồ học; cơ sở toán học của bản đồ; các phép chiếu bản đồ đã được sử dụng tại Việt Nam; phương pháp thể hiện nội dung bản đồ. Tài liệu hữu ích với những bạn chuyên ngành Địa lý và những ngành có liên quan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Bản đồ địa chính: Phần 1 - Nguyễn Thị Kim Hiệp (chủ biên)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN THỊ KIM HIỆP (Chủ biên) VŨ THANH THỦY, VÕ QUỐC VIỆT, PHAN ĐÌNH BINH, LÊ VĂN THƠ GIÁO TRÌNH BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH (DÀNH CHO NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI) NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI - 2006
  2. LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình “Bản đồ địa chính” được tập thể giáo viên khoa Tài nguyên - Môi trường nông nghiệp biên soạn phục vụ việc giảng dạy cho hệ đại học chuyên ngành Quản lý đất đai. Giáo trình được biên soạn cho yếu theo đề cương môn bản đồ địa chính ở các trường đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, kết hợp với nhu cầu thực tê đào tạo cán bộ Địa chính cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Ngoài ra, giáo trình còn là tài liệu tham khảo cho cán bộ địa chính các cấp. Giáo trình biên soạn với khối lượng giảng dạy 4 đơn vị học trình (60 tiết) bao gồm 2 phần : Phần I: Cơ sở lý luận chung về bản đồ học Bài mở đầu Chương 1 : Những khái niệm cơ bản về bản đồ học Chương 2 : Cơ sở toán học của bản đồ Chương 3 : Các phép chiếu bản đồ đã được sử dụng ở Việt Nam Chương 4: Phương pháp thể hiện nội dung bản đồ Phần II: Bản đồ địa chính Chương 5: Những khái niệm cơ bản về bản đồ địa chính Chương 6: Thành lập bản đồ địa chính Chương 7: Quản lý và khai thác bản đồ địa chính Chương 8: Sử dụng bản đồ địa chính trong công tác thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất Giáo trình này do tập thể tác giả biên soạn: + Th.S. Nguyễn Thị Kim Hiệp chủ biên và biên soạn bài mở đầu, các chương 2, 5 + TS. Võ Quốc Việt biên soạn chương 1 + Th.S. Vũ Thị Thanh Thuỷ biên soạn chương 3, chương 6 + Th.S. Phan Đình Binh biên soạn chương 6, 7 + K.S. Lê Văn Thơ, thư ký và biên soạn chương 4 Chúng tôi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu, phòng Đào tạo - khoa học & Quan hệ quốc tế đã tạo mọi điều kiện để chúng tôi hoàn thành giáo trình này. Tuy đã hết sức cô gắng nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót, chúng tôi mong nhận được sự góp ý của độc giả và các bạn đồng nghiệp. Tập thể tác giả
  3. Phần I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢN ĐỒ HỌC BÀI MỞ ĐẦU 1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA BẢN ĐỒ HỌC Bản đồ học là khoa học nghiên cứu toàn diện về bản đồ cùng kỹ thuật và các phương pháp thành lập sử dụng bản đồ. Bản đồ học được coi là khoa học về thể hiện và nghiên cứu sự phân bố trong không gian, mối quan hệ và sự biến đổi theo thời gian của các đối lượng tự nhiên và xã hội bằng các mô hình ký hiệu tượng hình, các hình biểu thị thực địa dưới hình thức trực quan và khái quát hoá. Đối tượng nhận thức của bản đồ học là không gian cụ thể của các đối tượng và hiện tượng của thực tế khách quan và những biến đổi của chúng theo thời gian. Bản đồ học bao gồm nhiều bộ môn khoa học kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng mỗi bộ môn lại có chức năng riêng, cụ thể là: - Cơ sở lý thuyết của bản đồ: Nghiên cứu các loại bản đồ, tính chất và các yếu tố của bản đồ, khả năng sử dụng các bản đồ trong thực tế, lịch sử phát triển của bản đồ học. - Toán bản đồ: Nghiên cứu các phương pháp chiếu bề mặt toán học của trái đất lên mặt phẳng, các tính chất, các phương pháp đánh giá và lựa chọn các phép chiếu bản đồ và các yếu tố khác thuộc cơ sở toán học của bản đồ. - Thiết kế và thành lập bản đồ: Đó là một trong những bộ môn quan trọng nhất của bản đồ học. Nó nghiên cứu và xây dựng lý thuyết tổng quát hoá bản đồ, các phương pháp biên tập và thành lập bản đồ. - Trình bày bản đồ: Nghiên cứu các phương pháp, phương tiện trình bày màu và hình vẽ của bản đồ, đồng thời nghiên cứu những vấn đề thiết kế các ký hiệu quy ước. - In bản đồ: Nghiên cứu các phương pháp chế bản in và in bản đồ. - Sử dựng bản đồ: Đó là một bộ phận của bản đồ học trong đó nghiên cứu những phương hướng và phương pháp sử dụng các bản đồ, đánh giá độ tin cậy và độ chính xác của các kết quả thu nhận được lừ bản đồ. - Bản đồ số. Nghiên cứu phương pháp và công nghệ thành lập bản đồ số với sự trợ giúp của công nghệ tin học. - Kinh tế và tổ chức sản xuất bản đồ: Nghiên cứu các mặt kinh tế và các biện pháp tổ chức hợp lý hoá sản xuất bản đồ. Bản đồ học có liên quan chặt chế với nhiều môn khoa học khác đặc biệt là với môn Trắc địa phổ thông, Trắc địa cao cấp, Trắc địa địa hình, Thiên văn học....Những mối quan hệ đó có tính chất hai chiều. Bản đồ học dùng các kết quả nghiên cứu của các
  4. môn khoa học đó để biên soạn nội dung bản đồ hoặc làm cơ sở toán học để thiết kế nội dung. Các môn khoa học khác dùng bản đồ và các phương pháp sử dụng bản đồ để giải quyết những vấn đề thực tế của mình. Trắc địa cao cấp, Thiên văn học và Trọng lực học cung cấp cho bản đồ những số liệu về hình dạng, kích thước trái đất, tọa độ các điểm của lưới khống chế đo đạc. Trắc địa địa hình và Trắc địa ảnh bằng các phương pháp đo vẽ khác nhau, cung cấp cho bản đồ học những tài liệu bản đồ đầu tiên để nghiên cứu bề mặt trái đất và là tài liệu gốc để xây dựng các loại bản đồ khác. Địa lý học nghiên cứu bản chất của các hiện tượng tự nhiên, kinh tế xã hội, nguồn gốc của chúng, những mối quan hệ tương quan và sự phân bố của chúng trên mặt đất. Đó chính là cơ sở để phản ánh đúng đắn các đối tượng và các hiện tượng trên bản đồ. Ngoài ra, bản đồ học còn có mối liên hệ với nhiều môn khoa học khác như địa chất, thổ nhưỡng, lịch sử,.v.v... 2. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BẢN ĐỒ HỌC 2.1. Trên thế giới 2.1.1. Giai đoạn sơ khai của bản đồ học Bản đồ học là một ngành khoa học đã có từ lâu đời, có những bằng chứng nói lên rằng ngành bản đồ có cách đây hàng trăm năm trước công nguyên. Các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử phát triển của ngành bản đồ dựa trên các bản vẽ cổ, các sách vở viết về địa lý trái đất và dựa theo các sản phẩm hiện nay của ngành bản đồ. Các cuộc hành trình để thám hiểm, buôn bán, truyền đạo...của người cổ xưa của Trung Quốc, ấn Độ, Italia, Hy Lạp, Tây Ban Nha... cũng đã góp phần và là cơ sở ban đầu cho khoa học địa lý bản đồ phát triển, vì họ đã ghi lại, vẽ lại những cuộc hành trình đó. Tất nhiên các số liệu, bản vẽ trên có độ chính xác không cao, khoảng cách được ước lượng qua thời gian, các yếu tố đưa lên bản vẽ chủ yếu là ước lượng bằng mắt. Những chuyến đi đó đã giúp con người mở rộng tầm nhận thức, họ hiểu biết về thế giới ngày càng đầy đủ hơn, những kiến thức về địa lý và bản đồ ngày càng phong phú hơn. Ngay từ thời kỳ nguyên thuỷ, con người tuy chưa có chữ viết nhưng họ đã biết vẽ trên vách các hang động những hình mô tả những hoạt động, nơi ở, đời sống, v.v... của họ Những hình vẽ đó không có lời giải thích nhưng rất có ích đối với họ, đã giúp họ dễ dàng hơn trong cuộc sống. Đó chính là những "bản đồ" đầu tiên của người xưa. Nhiều dân tộc ở châu Phi, Bắc và Nam Mỹ đã dùng những chiếc đũa, những mẫu đá silíc xương voi Ma mút để vẽ hình lên trên mặt đất, trên những tảng đá phẳng những hình vẽ cần ghi nhớ trong đời sống. Người Exkimô sống ở ven Bắc cực đã đục thân cây dưới dạng hình nổi. Những người Tahiti sống ở giữa Thái Bình Dương đã dùng vỏ sò huyết, vỏ ốc, hến xếp thành
  5. hình khu vực cư trú của mình, v.v... Những vật liệu của người cổ dùng để vẽ không bền vững cho nên hầu hết các bản vẽ bị mất đi theo thời gian. Sau này ngành khảo cổ học, qua khai quật, đã tìm thấy một số cổ vật mà trên đó còn di tích những bản đồ đầu tiên của loài người. Gần đây khi khai quật một ngôi mộ cổ ở thành Maikốp, người ta đã tìm thấy chiếc bình bằng bạc. Mặc dù nó đã nằm ở dưới đất 5.000 năm nhưng trên bình hình vẽ biểu thị con sông chảy từ núi Capcadơ còn rất rõ. Một bản vẽ cổ trên tấm đất sét vào khoảng năm 2500 TCN được tìm thấy ở Babilon. Trên đó thể hiện các đường sông chảy ra bể, các khu dân cư là các vòng tròn cạnh sông, kèm chữ ghi chú dạng hình nêm (hình 11. Bản đồ cổ mỏ vàng ở Ai Cập (năm 1400 TCN) được vẽ trên 'tấm vỏ cây Papius. Quanh bản đồ là các dãy núi, ở chân dãy núi phía Nam bản đồ là hình vẽ ký hiệu các công trình xây dựng (hình tứ giác), đường giao thông là các vệt trắng. Bản vẽ phản ánh vùng khai thác vàng ở Ai Cập khai quật được đã cách đây 3395 năm. Trên bản vẽ người xưa thể hiện những núi quặng, bể chứa nước rửa quặng, nhà ở của người khai thác, kho giữ kim loại (hình 2).
  6. Tất cả những bằng chứng trên đây chứng tỏ con người ở thời kỳ nguyên thủy đã sớm có kiến thức về bản đồ học. Những bản vẽ trong thời kỳ sơ khai của bản đồ chỉ còn chưa đến 10 bản. Số lượng đó không phải là nhiều nhưng đó là những tài liệu vô giá cho công tác nghiên cứu về khoa học bản đồ. 2.1.2. Những công trình về bản đồ học đầu tiên của các nhà bác học cổ Các nhà bác học cổ đại như Arixtoten (284 - 222 TCN), Dikear (326 - 266 TCN), Eratoxphen đều quan niệm rằng trái đất có hình dạng "hoàn hảo", nghĩa là trái đất hình cầu và chuyển động theo đường tròn. Sau khi nhận thức được trái đất có dạng hình cầu, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, vào năm 220 TCN, khi quan sát vị trí mặt trời ở các thành phố khác nhau của Ai Cập Eratoxphen đã xác định kích thước trái đất với độ chính xác lạ thường: chu vi hình cầu trái đất là 39.816 khi, sai số khoảng 200 tim so với các kết quả đo tính hiện đại (chu vi trái đất hiện nay tính theo hệ tọa độ UTM, với bán kính gần bằng 6371km, là 40.030km). Eratoxphen cũng chính là người đầu tiên đưa ra tưới tọa độ thẳng góc trong phép chiếu đồng khoảng cách.. ông đã đặt tên cho khoa học về các nước và bản đồ là môn "Địa lý học". Nhà địa lý học thời cổ nổi tiếng Xtrabôn (63TCN - 21SCN) đã khẳng định vai trò của bản đồ học. Trong 17 cuốn sách viết về môn Địa lý học, Xtrabôn đã nêu lên việc sản xuất bản đồ và quả cầu. ông xây dựng phép chiếu hình trụ đồng khoảng cách và đưa ra lất chi tiết phương pháp vẽ bản đồ, trong đó có biển, vịnh, eo đất, bán đảo, mũi đất, sông, núi, thành phố v.v... Ptôlême là nhà bản đồ học và cũng là một trong những nhà thiên văn học Ai Cập nổi tiếng nhất thời cổ. Ptôlême biết tất cả các công trình của Eratoxphen và Xtrabôn. ông đã nhìn thấy mục đích chủ yếu của bản đồ học là vẽ bản đồ bề mặt trái đất và vũ trụ. Trong các tác phẩm của mình, Ptôlême tiếp tục phát triển tư tưởng của tất cả các bậc tiền bối và tiên đoán con đường phát triển chủ yếu của khoa học bản đồ hàng trăm năm sau. ông hiểu rằng, bề mặt hình cầu không thể thể hiện trên mặt phẳng mà
  7. không có sai số, do đó, ông nêu ra các phương pháp xây dựng 5 lưới chiếu bản đồ còn lưu truyền cho đến ngày nay. Ptôlême viết khá nhiều sách. Trong các sách đó có sách hướng dẫn môn bản đồ rất chi tiết. Nó gồm 8 tập “Địa lý học”. Trong đó ông không chỉ mô tả việc sản xuất bản đồ và cách thể hiện bản đồ mà còn thống kê gần 8.000 tên gọi các đối tượng khác nhau như thành phố, núi, sông, vịnh... Các phương pháp này hiện nay vẫn được sử dụng trong khoa học bản đồ. Những tác phẩm của ông có trong số 700.000 bản thảo ở thư viện Alêchxăngdri. Trải qua các cuộc xung đột chiến tranh liên tiếp, những bản thảo đó đã bị phá huỷ hết. Vào thế kỷ I – II TCN đế quốc La Mã đã mạnh dần và sau khi chinh phục hầu hết thế giới cổ đại, đất đai La Mã được mở rộng, việc đi lại là nhu cầu cần thiết. Do đó, mạng lưới đường sá được mở ra khắp nơi, bản đồ hệ thống giao thông của đế quốc cổ đại La Mã ra đời. Bản đồ có chiều dài 6,82 mét; rộng 0,33 mét biểu hiện chi tiết hệ thống đường sá, khoảng cách mỗi đoạn được viết dưới các địa điểm, chỗ gấp khúc biểu hiện trạm dừng chân. Trên bản đồ không dùng lưới chiếu bản đồ, không có kinh vĩ tuyến, nhưng nó giúp cho việc đi lại thuận tiện. Nếu bỏ qua các sai sót thì bản đồ đó được coi là “Đài kỷ niệm” nổi tiếng của bản đồ học thời cổ. Trong nhiều thế kỷ, các triều đại của Trung Quốc đã đóng đô ở Xi An, một thành phố cổ nằm trên phụ lưu của sông Hoàng Hà. Nhiều thợ nề giỏi, thợ thủ công tinh xảo đã được tập trung đến đây. Các nhà điêu khắc, hoạ sĩ, nghệ nhân đã tạo nên những bức tượng, vẽ trên các bức tường cổ và các bức thêu tuyệt đẹp. Nhiều công trình của họ còn được lưu lại trên các tảng đá phẳng, trên các đá lát. Chính nơi đây đã tìm thấy các bản đồ cổ của các nhà khoa học cổ đại Trung Quốc, trong đó có nhiều các bình đồ địa phương vẽ cách đây 5.000 năm. Từ thời cổ xưa các nhà bác học của Trung Quốc đã biết dùng cọc để đo giờ, dùng thước có gắn ống thủy và quả đội để đo, vẽ bình đồ. Nhà bản đồ cổ Bùi Tú (234- 171 TCN) đã dựa vào tài liệu của các nhà bản đồ đời Hán thành lập bản đồ lãnh thổ Trung Quốc. Ông đã nghiên cứu bản đồ và đã đề ra 6 nguyên tắc về đo vẽ bản đồ. Cho đến nay những nguyên tắc trên vẫn còn giá trị thực tiễn, nhất là khi vẽ bản đồ phạm vi nhỏ trên mặt đất. Vào thế kỷ thứ II ở Trung Quốc đã có cơ quan chuyên môn đo đạc quốc gia chuyên đo đạc thành lập bản đồ. Những nhân viên trong cơ quan là những nhà đạc điền và những nhà thiên văn. Năm 105, Trung Quốc đã sản xuất được giấy vẽ bản đồ. Một bản đồ tỷ lệ 10 ly (l ly bằng 576 mét) được tìm thấy ở gần Xi An có ghi năm 1137, trên đó có giải thích dựa vào tài liệu ở thế kỷ thứ III và IV. Thoạt nhìn đã thấy bản đồ biểu hiện các con sông và bờ biển còn đúng với thực tế. 2.1.3. Thời kỳ đình trệ của bản đồ học Đến thế kỷ V một thời kỳ mới - thời kỳ thống trị của tôn giáo bắt đầu. Thời kỳ này
  8. khoa học bị bài xích và các nhà bác học cổ bị đàn áp. Những công tình khoa học bị phá huỷ, trong đó có cả những công trình của bản đồ học. Khoa học bản đồ cũng vì thế mà bị đình trệ. 2.1.4. Thời kỳ của những phát kiên địa lý vĩ đại Thời gian trôi qua, sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các dân tộc trở nên cấp bách. Thế kỷ thứ VIII, người Trung Quốc đã phát minh ra địa bàn dùng để tìm phương hướng và đo vẽ bản đồ. Sau đó một thời gian ngắn người ta đã sản xuất hàng loạt những bản đồ, địa bàn để phục vụ cho giao thông trên biển. Những kiến thức về địa lý và bản đồ đã được tích luỹ trước đây nay được bổ sung thêm các kiến thức về địa bàn đã giúp cho con người tiến hành các cuộc thám hiểm dài ngày và đã phát hiện ra nhiều tài liệu quý báu về các vùng đất xa xôi, về các lục địa mà con người chưa hề đặt chân tới. - 1492 - 1504 Cristôp Cô lông đã phát hiện ra châu Mỹ. - 1497 - 1499 Vaxcôđê Ga ma phát hiện ra các chi tiết quan trọng ở bờ biển phía Nam châu Phi. - 1519- 1522 Majenlăng đi vòng quanh thế giới phát hiện ra nhiều vùng đất mới và tăng thêm hiểu biết về các châu lục. Trong thế kỷ XV, ở Ý đã xây dựng được bản đồ châu Phi, trên đó có những ký hiệu quy ước. Lần đầu tiên con người dùng ký hiệu quy ước thay cho hình dạng các đối tượng cồng kềnh trên bản đồ trước đây. Cũng trong thế kỷ XV, năm 1456 nghề in ra đời đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sản xuất bản đồ hàng loạt. Những phát kiến địa lý vĩ đại của thế kỷ XV, XVI đã bổ sung những tài liệu quan trọng cho khoa học địa lý và bản đồ, tạo tiền đề cho những bản đồ thế giới mới ra đời đầy đủ hơn, chính xác hơn trong những thế kỷ sau. 2.1.5. Thời kỳ phát triển rực rỡ của bản đồ học Mecato (Hà Lan) là nhà bản đồ học vĩ đại của thế kỷ XVI. ông nổi tiếng bằng các tác phẩm: bản đồ châu âu, chữa chỗ sai trên bản đồ của Ptôlême, bản đồ hàng hải thế giới và tuyển tập bản đồ với tên đề "Atlál". Trên các bản đồ của ông, các đối tượng địa lý đã được biểu hiện dựa trên cơ sở toán học, các ký hiệu tượng hình thay cho các hình vẽ cồng kềnh, hệ thống chữ viết đã được cải tiến, ông đưa kiểu chữ in nghiêng vào bản đồ thay thế cho kiểu gôtích. Ông đã xây dựng chiếu đồ để chuyển mạng lưới kinh, vĩ tuyến từ mặt đất lên mặt phẳng của bản đồ. Chiếu đồ Mecato đến nay vẫn dùng để vẽ bản đồ thế giới. Mecato được coi như người sáng lập ra bản đồ học hiện đại. Từ thế kỷ thứ XVII trở đi nhiều Viện Hàn lâm khoa học ở các nước lần lượt ra đời:
  9. 1666 - Pháp (Phù), 1700 - Đức (Berlin) 1724 - Nga (Pectecbua) v.v... Viện Hàn lâm khoa học Pháp đã tổ chức đo đạc ở một số nơi trên trái đất và chứng minh kết luận của Nhuận là trái đất có độ dẹt ở phía hai cực. Các nhà toán học Pháp như Đơ Iixlơ Cassini, Bon... đã đi đầu trong lĩnh vực ứng dụng toán học trong khoa học bản đồ Điểm nổi bật trong thời kỳ này là hệ thống tam giác Nhà nước được xây dựng làm cơ sở khống chế tọa độ mặt bằng và độ cao thống nhất. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIV, do nhu cầu phòng thủ đất nước, các quốc gia đã thành lập các cơ quan đo đạc bản đồ quân sự. Nhiều nước đã xuất bản bản đồ địa hình quân sự tỷ lệ lớn. Bản đồ địa lý chung cũng đã ra đời. Bên cạnh tổ chức đo đạc mặt đất với quy mô ngày càng lớn, các quốc gia đã chú trọng xây dựng các cơ sở đào tạo chính quy và thành lập cơ quan nghiên cứu trắc địa - bản đồ, chuyên nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của khoa học bản đồ, nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất của các ngành khoa học khác vào khoa học bản đồ. Các bản đồ chuyên đề được chú trọng nghiên cứu thành lập. Cuối thế kỷ XIX và sang thế kỷ XX, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão. Các ngành đo đạc trên không và đo đạc mặt đất được trang bị máy móc đo đạc hiện đại làm tăng tốc độ đo đạc bản đồ lên rất nhanh, đem lại hiệu quả và đạt độ chính xác cao. Công nghệ in đã ra đời từ nhiều thế kỷ trước, đến nay phát triển ở trình độ cao, in ốp xét nhiều màu, nét khắc bản đồ gốc trên nền trong, máy chụp chữ, máy kẻ chữ trên bản đồ, kỹ thuật làm các bản sao lại, kỹ thuật tính toán, tự động hoá, mô hình toán học, công nghệ thiết kế, biên tập và sản xuất bản đồ, thành lập bản đồ nhờ sự trợ giúp của máy vi tính... được sử dụng rộng rãi trong các nước. Do đó các sản phẩm bản đồ và nhát xuất bản nhanh chóng, đa dạng và vô cùng phong phú. 2.2. Sơ lược sự phát triển khoa học bản đồ ở Việt Nam Cùng với sự phát triển nền văn minh nhân loại, nước ta cũng có bề dày lịch sử phát triển khoa học bản đồ, song rất tiếc là cho đến nay những tác phẩm bản đồ lưu giữ không có nhiều. - Năm 43 sau công nguyên ông cha ta đã tiến hành dựng các mốc dọc biên giới. - Năm 724 tiến hành đo vẽ bản đồ để đắp cao hệ thống đê phòng thủ thành Đại La. - Khoảng năm 1280 nước ta dùng đơn vị đo là thước (l thước khoảng 0,333 mét). Đặc biệt trong số những tác phẩm bản đồ còn giữ lại phải kể đến tập bản đồ Hồng Đức thời Lê Thánh Tông (1460-1497) (hình 3). - Thế kỷ XVIII nhà bác học Lê Quý Đôn viết bộ sách "Kho hiểu biết" gồm 9 tập, ông đã dành một tập viết về bản đồ. Về mặt lý thuyết tuy còn đơn giản và chưa đầy đủ,
  10. song đó là một mốc quan trọng đánh dấu quá trình phát triển bản đồ học ở Việt Nam. - Năm 1650 nhà truyền giáo Alêchxanđơrôt vẽ bản đồ vương quốc An Nam có các tỉnh Bắc Kỳ và Nam Kỳ để chuẩn bị cho công việc xâm lược nước ta. Đến đầu thế kỷ XIX thực dân Pháp đã bắt đầu công việc đo vẽ bản đồ. - Năm 1818 vẽ bản đồ hàng hải Nam Kỳ. Vào năm 1872 - 1873 vẽ và in 20 mảnh bản đồ Nam Kỳ - Năm 1874 - 1875 lập lưới tam giác đặc ở Bắc Bộ. - Năm 1881 bản đồ toàn Đông Dương của Đơ Ranh đã được xuất bản, trên đó các địa danh đã được Pháp hoá. Hình 3. Đại Nam thống nhất toàn đồ (Quốc sử quán triều Nguyễn thế kỷ XIX ấn hành giới thiếu cả chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) Sau khi hoàn thành việc chiếm Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp đã lập "Văn phòng đo đạc Ban tham mưu quân đội viễn chinh Đông Dương" đặt tại Hà Nội, nhằm mục đích tiến hành khảo sát ngoài trời trên toàn lãnh thổ Đông Dương để xây dựng bản đồ, giới thiệu chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, cai trị dân ta và khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước ta.
  11. Đầu thế kỷ XX, hệ thống khoá tam giác - cơ sở khống chế đo vẽ chi tiết lãnh thổ trên toàn cõi Đông Dương đã được xây dựng làm cơ sở để đo vẽ các loại bản đồ ở các tỷ lệ: - 1 : 100 000 cho toàn lãnh thổ Đông Dương. - 1 : 25.000 cho vùng đồng bằng. - 1 : 10000 và 1:5.000 cho các thành phố và thị xã. - 1 : 4.000 cho hệ thống bản đồ địa chính. Cách mạng Tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, phòng Bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam (nay là Cục Bản đối được thành lập. Đến giữa thế kỷ XX - năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp vào chiếm đóng miền Nam nước ta, chúng lập cơ quan bản đồ quốc gia. Từ đó đến năm 1975, Mỹ đã đo đạc mặt đất, đo đạc trên không và phối hợp cả hai ngành này đo vẽ bản đồ toàn lãnh thổ Việt Nam và Đông Dương. Ngày 14 – 12 – 1959 Cục Đo đạc và Bản đồ Phủ Thủ tướng (nay là Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước) được thành lập. Điều đặc biệt quan trọng là từ năm 1960 trở đi lần lượt các trường: Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Bách khoa, Đại học Mỏ - Địa chất, Đại học Tổng hợp, v.v... và các trường trung cấp đo đạc bản đồ ở nước ta bắt đầu đào tạo cán bộ nghiên cứu và cán bộ đo vẽ bản đồ. Cục đo đạc và Bản đồ Nhà nước đã xây dựng mạng lưới khống chế mới.ở miền Bắc nước ta. Đến cuối năm 1994, đã hoàn thành đo đạc và bình sai mạng lưới trắc địa cơ sở trong cả nước. Ngày 22-2-1994, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 12/CP thành lập Tồng cục Địa chính trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước. Tổng cục Địa chính có chức năng Quản lý Nhà nước về đất đai và đo đạc bản đồ trên phạm vi cả nước. 3. VAI TRÒ CỦA BẢN ĐỒ TRONG THỰC TIỄN VÀ KHOA HỌC Các bản đồ cho ta bao quát đồng thời những phạm vi bất kỳ của bề mặt trái đất, từ một khu vực không lớn đến một quốc gia, một châu lục và toàn bộ trái đất. Bản đồ tạo ra hình ảnh nhìn thấy được của hình dạng, kích thước và vị trí tương quan của các đối tượng. Từ bản đồ ta có thể xác định được các đại lượng như: Toạ độ, độ dài, thể tích, diện tích,...của các đối tượng. Bản đồ còn chứa đựng rất nhiều thông tin về chất lượng, số lượng, cấu trúc của các đối tượng và mối liên hệ tồn tại giữa chúng. Chính do vậy mà bản đồ có vai trò cực kỳ to lớn trong khoa học và thực tiễn. 3.1. Ý nghĩa của bản đồ trong thực tiễn Bản đồ là mô hình không gian cho chúng ta biết hình dáng, độ lớn, vị trí tương hỗ
  12. của các đối tượng trong không gian (tọa độ, độ dài, diện tích, thể tích, độ cao, độ sâu...). Bản đồ mang nhiều thông tin đặc trưng về số lượng, chất lượng, cấu trúc và sự phân bố của các đối tượng, hiện tượng. Chính vì vậy trong thực tế bản đồ có ý nghĩa đóng vai trò cực kỳ to lớn. + Bản đồ là người dẫn đường trên bộ, trên biển và trên không. + Bản đồ là tài liệu không thể thiếu trong quân sự (cung cấp các thông tin về địa hình để vạch ra kế hoạch tác chiến). + Trong công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải...bản đồ dùng để khảo sát, thiết kế, nhất là các bản đồ địa hình tỷ lệ lớn. + Trong nông nghiệp, bản đồ dùng để quy hoạch, quản lý đất đai, phân vùng quy hoạch đất, xây dựng thủy lợi. + Trong giáo dục đào tạo: bản đồ là giáo cụ trực quan, là cuốn "sách giáo khoa" thứ hai trong công tác giảng dạy và học tập các môn địa lý và lịch sử. Bản đồ còn là công cụ để tuyên truyền, quảng cáo nâng cao trình độ văn hoá chung của nhân dân. + Trong kinh tế - xã hội: Bản đồ là phương tiện không thể thiếu trong ngành Du lịch. Bản đồ là công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc quy hoạch định hướng phát triển kinh tế cho mỗi quốc gia, mỗi ngành kinh tế xã hội. Bản đồ là tài liệu pháp lý quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước nói chung và trong ngành Địa chính nói riêng. 3.2. Ý nghĩa của bản đồ trong khoa học Mọi công tác nghiên cứu địa lý và nghiên cứu các khoa học về trái đất được bắt đầu từ bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ. Các kết quả nghiên cứu được thể hiện lên bản đồ được chính xác hoá trên bản đồ. Bằng các bản đồ có thể tìm ra các quy luật phát triển và sự phân bố không gian của các đối tượng, các hiện tượng được thể hiện trên bản đồ Do đó: + Bản đồ là công cụ để nghiên cứu khoa học trong nhiều ngành kinh tế quốc dân . + Bản đồ là nguồn cung cấp thông tin cần thiết và chính xác. + Bản đồ cho ta cái nhìn tổng quan như nhìn mô hình không gian khách quan thực tế. Ngày nay và trong tương lai bản đồ vẫn đóng vai trò quan trọng để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể của loài người. Nó vượt ra khỏi khuôn khổ của từng quốc gia, từng lãnh thổ. Đó là việc sử dụng và thành lập hệ thống Thông tin địa lý (GIS) để bố trí lực lượng sản xuất khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dân số và phát triển. Sự phát triển của thế giới trong mọi lĩnh vực đòi hỏi một khối lượng sản phẩm bản đồ lớn (về số lượng và chủng loại). Vấn đề đặt ra cho ngành bản đồ không chỉ về
  13. số lượng bản đồ mà còn là thời gian thành lập nhanh nhất, khả năng sử dụng, truy cập các thông tin bản đồ nhanh chóng, chính xác, dễ dàng. Để giải quyết vấn đề đó, xu hướng hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta là ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, lưu trữ bản đồ. Bản đồ địa hình là loại bản đồ được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành kinh tế quốc dân, trong khoa học và quốc phòng. Ngày nay và trong tương lai, để giải quyết những vấn đề trọng tâm của loài người vượt ra ngoài khuôn khổ của từng quốc gia. Bố trí hợp lý lực lượng sản xuất, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái thì vai trò của bản đồ càng to lớn hơn.
  14. Chương 1 NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BẢN ĐỒ HỌC 1.1 KHÁI NIỆM Bản đồ là hình vẽ biểu thị bề mặt trái đất, các thiên thể hoặc khoảng không vũ trụ trên mặt phẳng theo những quy tắc toán học xác định, được thu nhỏ theo quy ước và khái quát hoá để phản ánh sự phân bổ, trạng thái và những mối liên hệ của các đối tượng, hiện tượng tự nhiên, xã hội được chọn lọc và thể hiện bằng hệ thống ký hiệu và mau sắc. Có thể coi bản đồ là mô hình ký hiệu tượng hình nhằm tái tạo thực tại (đúng hơn là một phần nào đó của thực tại). Bản đồ dùng phản ánh trực quan những tri thức đã tích luỹ được cũng như nhận biết những tri thức mới. (Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tập I, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội 1995) 1 2. TÍNH CHẤT CỦA BẢN ĐỒ 1 2.1. Tính trực quan Tính trực quan của bản đồ được biểu hiện ở chỗ bản đồ cho ta khả năng bao quát và tiếp thu nhanh chóng các yếu tố chủ yếu và quan trọng nhất của nội dung bản đồ. Một trong những tính chất ưu việt của bản đồ là khả năng bao quát, biến cái không nhìn thấy thành cái nhìn thấy được. Bản đồ tạo ra mô hình trực quan của lãnh thổ, nó phản ánh các hình thức về các đối tượng hoặc các hiện tượng được biểu thị. Qua bản đồ người sử dụng có thể tìm ra được những quy luật của sự phân bố các đối tượng và hiện tượng trên bề mặt trái đất. 1.2.2. Tính đo được Đây là một tính chất quan trọng của bản đồ, tính chất này có liên quan chặt chẽ với cơ sở toán học của bản đồ. Căn cứ vào tỷ lệ và phép chiếu của bản đồ, căn cứ vào các thang bậc của các ký hiệu quy ước... người sử dụng bản đồ có khả năng xác định được rất nhiều trị số khác nhau như: Toạ độ, biên độ, độ dài, khoảng cách, diện tích, thể tích, phương hướng và các trị số khác. Chính do tính chất này mà bản đồ được dùng làm cơ sở để xây dựng các mô hình toán học của các hiện tượng địa lý và để giải quyết những vấn đề khoa học và thực tiễn sản xuất. Tính chất đo được của bản đồ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như giao thông, xây dựng, quy hoạch, quản lý đất đai, v.v.. 1.2.3. Tính thông tin của bản đồ Đó là khả năng lưu trữ, truyền đạt cho người đọc những tin tức khác nhau về các đối tượng và các hiện tượng. Từ những thông tin hiện trạng cho ta những ý tưởng,
  15. phát hiện mới cho tương lai. Ví dụ bản đồ hệ thống giao thông cho người đọc những thông tin về hiện trạng hệ thống đường xá, từ đó người ta có thể định hướng sử dụng, cải tạo hay huỷ bỏ, v.v... 1.3. PHÂN LOẠI BẢN ĐỔ Để tiện lợi trong việc nghiên cứu, sử dụng và bảo quản bản đồ, cần thiết phải phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại khác nhau, dưới đây là những cách thông thường và quan trọng: Bản đồ có thể phân nhóm theo nội dung, theo mục đích sử dụng, theo lãnh thổ, theo phương thức sử dụng, theo tỷ lệ... 1.3.1. Phân loại theo các đối tượng thể hiện Theo các đối tượng thể hiện thì các bản đồ được chia thành 2 nhóm: + Nhóm bản đồ địa lý: biểu thị bề mặt trái đất về mặt lãnh thổ, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. + Nhóm bản đồ thiên văn: bao gồm các bản đồ bầu trời, sao, các bản đồ thiên thể và các bản đồ hành tinh. 1.3.2. Phân loại theo nội dung Theo nội dung bản đồ được chia thành 2 nhóm: - Nhóm bản đồ địa lý chung: Bản đồ biểu thị toàn bộ các yếu tố cơ bản của lãnh thổ (thủy văn, dáng đất, các đường ranh giới, dân cư, giao thông, một số đối tượng kinh tế công nông nghiệp và văn hoá). Mức độ tỷ mỷ khi biểu thị nội dung phụ thuộc vào tỷ lệ và mục đích của bản đồ. Các bản đồ địa hình chính là các bản đồ địa lý chung tỷ lệ lớn. - Nhóm bản đồ chuyên đề: Bản đồ phản ánh về từng hiện tượng, đối tượng tự nhiên, xã hội cũng như các tổ hợp và thể tổng hợp của chúng. Bản đồ chuyên đề phân nhóm theo các chủ đề như: địa chất, địa mạo, khí hậu, cảnh quan, dân cư, kinh tế...Trong thực tiễn và trong các tài liệu khoa học, kỹ thuật còn dùng thuật ngữ bản đồ chuyên môn để chỉ bản đồ chuyên đề mặc dù thuật ngữ đó chỉ dùng cho các bản đồ có mục đích và lính chất chuyên dụng như bản đồ hàng hải, bản đồ bay... Nội dung của bản đồ chuyên đề có thể là những yếu tố nào đó trong số các yếu tố nội dung của bản đồ địa lý chung, cũng có thể là những đối tượng, hiện tượng không được thể hiện trên bản đồ địa lý chung ví dụ như: Cấu trúc địa chất, lượng mưa, nhiệt độ khí hậu. mật độ dân số... Ví dụ: bản đồ thổ nhưỡng phản ánh sự phân bố và cấu trúc lớp phủ thổ nhưỡng theo các đặc trưng nguồn gốc hình thành, thành phần cơ giới và nham thạch tạo thành thổ nhưỡng.
  16. Bản đồ nông lâm nghiệp: phản ánh tình hình phân bố nông lâm nghiệp theo những nội dung khác nhau. Bản đồ quy hoạch thủy lợi: phản ánh một vùng lãnh thổ thể hiện về các mặt địa lý, địa giới hệ thống phân vùng thủy lợi với độ cao mặt đất khác nhau, trên đó bố trí các công trình thủy lợi... 1.3.3. Phân loại theo tỷ lệ Theo tỷ lệ thì các bản đồ được chia ra: tỷ lệ lớn, tỷ lệ trung bình, tỷ lệ nhỏ. Thực ra ranh giới của các nhóm này không được cố định. Riêng đối với bản đồ địa lý chung thì ranh giới phân chia được cố định như sau: - Bản đồ tỷ lệ lớn: ≥1125.000. - Bản đồ tỷ lệ trung bình: 1/50.000 - 1/500.000. - Bản đồ tỷ lệ nhỏ: ≤ 1/1.000.000 1.3.4. Phân loại theo mục đích sử dụng Theo mục đích sử dụng thì cho đến nay các bản đồ chưa có sự phân loại chặt chẽ, bởi vì đại đa số các bản đồ được sử dụng rộng rãi cho nhiều mục đích rất khác nhau. Đáng chú ý nhất trong sự phân loại theo dấu hiệu này là phân chia thành 2 nhóm: Các bản đồ được sử dụng cho nhiều mục đích và các bản đồ chuyên môn. Các bản đồ nhiều mục đích thường đáp ứng cho nhiều đối tượng sử dụng khác nhau để giải quyết những nhiệm vụ có ý nghĩa kinh tế quốc dân và quốc phòng, để nghiên cứu lãnh thổ, đề thu nhận những tư liệu tra cứu. Các bản đồ chuyên môn là các bản đồ được dùng để giải quyết những nhiệm vụ nhất định, ví như bản đồ giáo khoa, bản đồ hàng hải, hàng không.... 1.3.5. Phân loại theo lãnh thổ Theo lãnh thổ thì các bản đồ được phân ra: Bản đồ thế giới, bản đồ bán cầu, bản đồ châu lục, bản đồ các nước, bản đồ vùng,.... 1.4. CÁC YẾU TỐ CỦA BẢN ĐỒ Để thành lập và sử dụng các bản đồ, không những phải hiểu rõ những đặc điểm và tính chất của nó mà còn phải phân biệt các yếu tố hợp thành, hiểu rõ ý nghĩa, giá trị, tác dụng của từng yếu tố và mối liên hệ giữa chúng. Mỗi bản đồ đều bao gồm 3 nhóm yếu tố để thể hiện đó là: yếu tố nội dung, cơ sở toán học, các yếu tố hỗ trợ và bổ sung. 1.4.1. Các yếu tố nội dung bản đồ Sự thể hiện nội dung bản đồ là bộ phận chủ yếu của bản đồ, bao gồm các thông tin về các đối tượng và các hiện tượng được biểu thị trên bản đồ: Sự phân bố, các tính chất, những mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian. Những thông tin đó
  17. chính là nội dung của bản đồ. Ví dụ: Các yếu tố nội dung của bản đồ địa hình là: Thuỷ hệ, mạng lưới dân cư, dáng đất lớp phủ thực vật, hệ thống đường giao thông và thông tin, một số đối tượng kinh tế công nông nghiệp và văn hóa, sự phân chia ranh giới hành chính, chính trị. Các yếu tố nội dung của bản đồ chuyên đề thường phụ thuộc vào đề tài cụ thể của nó. Khi tìm hiểu sự biểu hiện bản đồ phải phân biệt nội dung chứa đựng trong đó và hình thức truyền đạt nội dung thông qua hệ thống ký hiệu bản đồ. 1.4.2. Các yếu tố toán học của bản đồ Các yếu tố cơ sở toán học của bản đồ bao gồm tỷ lệ, phép chiếu và mạng lưới tọa độ được dựng trong mạng lưới đó, mạng lưới khống chế trắc địa và bố cục của bản đồ. Tỷ lệ bản đồ là thể hiện mức độ thu nhỏ của hình ảnh bản đồ so với thực tế. Nó bao gồm tỷ lệ chính của bản đồ và tỷ lệ cục bộ tại mỗi điểm trên bản đồ. Bản chất của phép chiếu bản đồ là sự phụ thuộc hàm số giữa tọa độ điểm của bề mặt elipxoit trái đất và hình chiếu của nó trên mặt phẳng. Hệ thống các đường tọa độ (kinh tuyến, vĩ tuyến) là cơ sở của mọi bản đồ địa lý. Khi thành lập bản đồ bao giờ cũng bắt đầu từ việc dựng lưới tọa độ (lưới chiếu bản đồ). Khi sử dụng bản đồ thì mạng lưới tọa độ chính là cơ sở để tiến hành các công việc đo đạc khác. Mạng lưới các điểm khống chế trắc địa đảm bảo cho việc xác định vị trí chính xác của các yếu tố của bản đồ so với mạng lưới tọa độ. Mạng lưới trắc địa thường được thể hiện trên các bản đồ địa hình. Ngoài ra, bố cục bản đồ (bao gồm khung bản đồ, sự định hướng, và bố trí lãnh thổ của bản đồ trong khung), sự phân chia các bản đồ có kích thước lớn thành các mảnh và hệ thống đánh số các bản đồ cũng là các yếu tố cơ sở toán học của bản đồ. 1.4.3. Các yếu tố hỗ trợ bổ sung Ngoài các yếu tố nội dung và các yếu tố cơ sở toán học trên bản đồ còn có các yếu tố hỗ trợ bổ sung bao gồm: bảng chú giải, thước tỷ lệ, các biểu đồ...Tuỳ theo nội dung bản đồ mà các yếu tố hỗ trợ bổ sung được cấu tạo tương ứng. Tóm lại: 3 yếu tố của bản đồ giống như các bộ phận của cơ thể, không thể chia cắt được, sự phân chia chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu thiếu 1 trong 3 yếu tố trên bản đồ sẽ mất ý nghĩa của nó. 1. 5. TỶ LỆ BẢN ĐỒ 1.5.1. Tỷ lệ chính Mỗi loại bản đồ đều có tỷ lệ chính. Tỷ lệ chính là mức độ thu nhỏ của bề mặt Elipxoit hoặc mặt cầu trái đất lên mặt phẳng. Tỷ lệ chính thường được ghi trên bản
  18. đồ. Tỷ lệ chính chỉ được đảm bảo ở tại những điểm và những đường không có biến dạng độ dài. Khi nghiên cứu biến dạng của phép chiếu bản đồ thì tỷ lệ chính được coi là 1:1 . 1.5.2. Tỷ lệ riêng Khi biểu thị bề mặt Elipxoit hoặc mặt cầu trái đất lên mặt phẳng theo một tỷ lệ nhất định sẽ xuất hiện những sai số chiếu hình. Những sai số đó có trị số khác nhau tuỳ thuộc phép chiếu và vị trí trên mặt cầu. Vì vậy tỷ lệ bản đồ không giống nhau ở các vị trí. Tỷ lệ riêng là tỷ lệ có thể lớn hơn hoặc bé hơn tỷ lệ chính, phụ thuộc vào vị trí và hướng trên bản đồ. Sự chênh lệch giữa tỷ lệ chính và tỷ lệ riêng chính là sai số của bản đồ. 1.5.3. Tỷ lệ bản đồ Độ dài của đường thẳng đo trên thực địa khi biểu thị lên bản đồ đều phải thu nhỏ lại. Mức độ thu nhỏ các hình chiếu nằm ngang của các đoạn thẳng đó được gọi là tỷ lệ bản đồ. Nói một cách khác tỷ lệ bản đồ là tỷ số giữa độ dài đoạn thẳng trên bản đồ và độ dài tương ứng ngang ở thực địa. Tuỳ theo mức độ thu nhỏ mà người ta chia ra các loại tỷ lệ lớn, trung bình, nhỏ. Tỷ lệ bản đồ được biểu thị dưới 3 dạng: tỷ lệ số, tỷ lệ giải thích, thước tỷ lệ. * Tỷ lệ số Tỷ lệ số được biểu thị bằng một phân số có tử số bằng 1 , mẫu số chỉ số lần thu nhỏ khoảng cách ngang ở thực địa vào bản đồ, kí hiệu là 1:M Ví dụ 1:1.000; 1:5.000; 1:250.000. * Tỷ lệ giải thích: cụ thể hoá tỷ lệ số bằng lời. Ví dụ: Tỷ lệ số là l:1.000 thì tỷ lệ giải thích ghi: 1cm trên bản đồ tương ứng 10 m nằm ngang ở thực địa (thường ghi tắt là 1 cm tương ứng 10 m) * Thước tỷ lệ: thể hiện tỷ lệ bản đồ bằng thước. Có 2 loại: thước tỷ lệ thẳng và thước tỷ lệ xiên. Thước tỷ lệ thẳng : (hình 1.1 ) + Cấu tạo: Thước tỷ lệ thẳng bao gồm một số đoạn thẳng bằng nhau, mỗi đoạn có chiều dài 1 cm hoặc 2 cm, gọi là đơn vị cơ bản. Giá trị mỗi đơn vị cơ bản tương ứng chiều dài nằm ngang ở thực địa theo tỷ lệ bản đồ. Dưới mỗi khoảng chia ghi giá trị tương ứng ở thực địa. Đoạn thứ nhất được chia thành 10 phần bằng nhau, mỗi phần có giá trị bằng 1:10 đơn vị cơ bản. Đoạn 28,5m
  19. Hình l.1: Thước tỷ lệ thẳng tỷ lệ l:500 + Cách sử dụng: Muốn đo khoảng cách ngang ở thực địa của 1 đoạn thẳng trên bản đồ (ví dụ đoạn CD), dùng com pa đo chính xác đoạn CD sau đó giữ nguyên khẩu độ com pa, đưa 1 đầu vào đúng vạch chia đơn vị cơ bản bên phải số 0, còn đầu kia đưa đặt vào đơn vị cơ bản bên trái số 0, đọc số 2 bên cộng lại được khoảng cách trên thực địa. Ví dụ trên hình (1.1) đoạn CD = 15 m + 3 x 0,5 m = 16,5 m Cần vẽ một đoạn thẳng có chiều dài là 28,5 m ở thực địa lên bản đồ, cách làm như sau: Đặt đầu nhọn bên trái của compa vào bên trái số 0, ở giá trị 3,5 m (trên hình là 7 khoảng chia nhỏ), đặt đầu nhọn bên phải vào bên phải số 0 trên thước ứng với giá trị 25 m (trên hình là 5 đơn vị cơ bản), sau đó đặt khẩu độ compa đó lên bản đồ. Thước tỷ lệ xiên: Thước tỷ lệ xiên ở phía bên phải số 0 có cấu tạo như thước tỷ lệ thẳng. Bên Trái số 0 được chia làm 10 phần bằng nhau theo chiều ngang và dọc. Mỗi phần theo chiều ngang tương ứng 1:10 đoạn cơ bản, mỗi phần theo chiều dọc tương ứng 1:100 đoạn cơ bản. Ví dụ trong hình (1.2) là thước tỷ lệ xiên tỷ lệ 1 : 1 .000 Hiuh 1.2 : Thước tỷ lệ xiên tỷ lệ 1 : 1.000 + Cách sử dụng: Giả sử cần xác định độ dài ngang tương ứng ở thực địa của đoạn AB trên bản đồ tỷ lệ 1: 1000 cách làm như sau: Dùng compa đo chính xác đoạn AB sau đó giữ nguyên khẩu độ compa, đưa 1 đầu vào đúng vạch chia đơn vị cơ bản bên phải số 0, còn đầu kia đưa đặt vào đơn vị cơ bản bên trái số 0. Đọc số bên phải số 0 giống như thước tỷ lệ thắng, số bên trái số 0 đọc số ô nguyên theo hàng ngang nhân với 1/10 đơn vị cơ bản và số vạch hàng đọc nhân với
  20. 1/100 đơn vị cơ bản, cộng lại được khoảng cách trên thực địa. AB : 40 m + 5 x 2 m + 6 x 0,2 m - 51,2 m 1.5.4. Độ chính xác của tỷ lệ bản đồ Thực nghiệm cho thấy rằng ở khoảng cách nhìn rõ (25 cm) mắt thường chỉ phân biệt được khoảng cách nhỏ nhất giữa 2 điểm là 0,1 mm. Do đó độ dài của đoạn thẳng trên thực địa tương ứng với 0,1 mm trên bản đồ được coi là độ chính xác của tỷ lệ. Độ chính xác của một số tỷ lệ được ghi ở bảng (1.1) : Bảng 1.1 Độ chính xác của một số tỷ lệ Tỷ lệ Độ chính xác của tỷ lệ (m) Tỷ lệ Độ chính xác của tỷ lệ (m) 1:200 0,02 1:10.000 1,00 1:500 0,05 1:25.000 2,50 1:1.000 0 10 1:50.000 5,00 1:2.000 0,20 1:100.000 10,00 1:200.000 1:5.000 0,50 20,00 Như vậy, những vật thể có kích thước nhỏ hơn tỷ lệ của bản đồ khi vẽ không thể biểu thị theo tỷ lệ được do đó phải bỏ đi hoặc dùng kí hiệu riêng biệt nếu cần thiết. Những quy định về độ chính xác trong đo vẽ bản đồ cũng xuất phát từ độ chính xác của tỷ lệ bản đồ. Bản đồ tỷ lệ càng lớn thì độ chính xác càng cao. Tuy nhiên cần chú ý rằng trong thực tế sản xuất có những trường hợp cần kích thước bản vẽ lớn chứ không cần độ chính xác cao, khi đó chỉ cần phóng các bản đồ tỷ lệ nhỏ đủ độ chính xác yêu cầu ra bản đồ tỷ lệ lớn hoặc đo vẽ bản đồ tỷ lệ lớn theo các quy định về độ chính xác của bản đồ tỷ lệ nhỏ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2