intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình kiến thức dùng trong kinh doanh chứng khoán - Forum VCU (p3)

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

79
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

thuật được thực hiện một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Ngay cả với những nhà đầu tư cá nhân, với sự phổ biến của máy tính cá nhân và các phần mềm phân tích kĩ thuật cũng như khả năng truy cập dữ liệu từ xa hiện nay, nhà đầu tư có thể dễ dàng có được các thông tin cần thiết về giá và khối lượng giao dịch để phục vụ mục đích phân tích kĩ thuật riêng cho mình. 2.2.2.2.Các giả định nền tảng của phân tích kĩ thuật Các nhà phân tích kĩ thuật đưa ra...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình kiến thức dùng trong kinh doanh chứng khoán - Forum VCU (p3)

  1. thuật được thực hiện một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Ngay cả với những nhà đầu tư cá nhân, với sự phổ biến của máy tính cá nhân và các phần mềm phân tích kĩ thuật cũng như khả năng truy cập dữ liệu từ xa hiện nay, nhà đầu tư có thể dễ dàng có được các thông tin cần thiết về giá và khối lượng giao dịch để phục vụ mục đích phân tích kĩ thuật riêng cho mình. 2.2.2.2.Các giả định nền tảng của phân tích kĩ thuật Các nhà phân tích kĩ thuật đưa ra quyết định giao dịch dựa trên việc xem xét các số liệu về giá và khối lượng giao dịch nhằm xác định xu thế thị trường trong quá khứ để từ đó dự đoán xu thế tương lai của toàn bộ thị trường cũng như của từng chứng khoán đơn lẻ. Họ nêu ra một vài giả định hỗ trợ cho dự đoán xu thế biến động của thị trường. - Giá trị thị trường của bất cứ loại hàng hóa hay dịch vụ nào đều hoàn toàn được xác định bởi sự tương tác của quan hệ cung cầu. - Cung cầu được quyết định bởi 1 số nhân tố, cả logic và phi logic. Những nhân tố này bao hàm cả những biến số kinh tế được sử dụng trong phân tích cơ bản cũng như các quan điểm các trạng thái tâm lí và những phỏng đoán. Thị trường phản ánh tất cả những nhân tố này một cách tự động và liên tục. - Ngoại trừ 1 số dao động nhỏ, giá của các chứng khoán và thị trường nói chung có biểu hiện biến động theo những xu thế, các xu thế này diễn ra trong những khoảng thời gian xác định. - Các xu thế trội thay đổi tương ứng với những sự dịch chuyển trong quan hệ cung cầu, những sự dịch chuyển này, bất kể do nguyên nhân nào gây ra, sớm hay muộn rồi cũng
  2. đều có thể được phát hiện dựa vào phản ứng của chính thị trường. 2.2.2.3.Những thách thức và lợi thế của phân tích kĩ thuật ● Những thách thức - Những người hoài nghi về giá trị của phân tích kĩ thuật trong vai trò làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư đã đặt những thách thức đối với các kĩ thuật này trên 2 phương diện: thứ nhất, họ hoài nghi một số giả định nền tảng; thứ hai, họ hoài nghi 1 số quy tắc giao dịch cụ thể và tính hữu dụng về dài hạn. - Thách thức cơ bản đối với phân tích kĩ thuật xuất phát từ lí thuyết thị trường hiệu quả (thị trường hiệu quả được hiểu là thị trường mà thị giá hiện hành phản ánh đầy đủ và tức thời tất cả các thông tin có ảnh hưởng tới thị trường, phí giao dịch trên thị trường được quyết định bởi quy luật cạnh tranh và quan hệ cung cầu…) Để các quy tắc giao dịch kĩ thuật mang lại lợi nhuận sau khi trừ các chi phí giao dịch, việc điều chỉnh giá trên thị trường phải diễn ra từ khi xuất hiện những thông tin mới, nghĩa là thị trường phải kém hiệu quả. - Một thách thức hiển nhiên với phân tích kĩ thuật là các diễn biến giá trong quá khứ hay các mối quan hệ giữa các biến số thị trường cụ thể và giá chứng khoán có thể không lặp lại. Theo đó một kĩ thuật đã từng mang lại kết quả trước đó có thể không còn giá trị trong những biến động tiếp theo của thị trường. - Những dự đoán về giá sẽ làm cho xu hướng giá tự điều chỉnh. - Mọi quy tắc giao dịch đều gắn với một đánh giá mang tính chủ quan cao. - Các giá trị chuẩn làm căn cứ cho quyết định đầu tư có thể thay đổi theo thời gian.
  3. ● Những lợi thế Phần lớn các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng, một nhà phân tích cơ bản với nguồn thông tin tốt, khả năng phân tích tốt và 1 sự nhạy cảm có thể kiếm được những khoản lợi trên mức bình thường. Tuy nhiên theo các nhà phân tích kĩ thuật, các nhà phân tích cơ bản có thể chỉ kiếm đựơc những khoản lợi cao khi họ tiếp cận thông tin trước những người đầu tư khác và xử lí thông tin một cách chính xác, nhanh chóng. - Với cách tiếp cận đó, các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng lợi thế lớn trong phương pháp của họ là không phụ thuộc nặng nề vào các báo cáo tài chính và do đó tránh được những sai sót đáng tiếc nếu có sự hoài nghi về tính chính xác, trung thực của các báo cáo tài chính này. Hầu hết số liệu kĩ thuật sử dụng, ví dụ như giá chứng khoán, khối lượng giao dịch và các thông tin giao dịch khác đều bắt nguồn từ diễn biến của thị trường. - Nhà phân tích cơ bản phải xử lí thông tin mới một cách chính xác và nhanh chóng để tìm ra giá trị nội tại mới của chứng khoán trước những người đầu tư khác. Trong khi đó các nhà phân tích kĩ thuật chỉ cần nhanh chóng nhận ra xu thế dịch chuyển sang 1 mức giá cân bằng mới bất kể đâu là nguyên nhân của sự dịch chuyển. - Các nhà PTKT có thể xác định được thời gian mua bán có hiệu quả nhất trong khi các nhà PTCB có thể chỉ xác định được giá trị hợp lí của chứng khoán. - Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi trong việc truy cập dữ liệu, đồng thời cung cấp các phần mềm tiện ích cho PTKT. 2.2.2.4.Các chỉ báo và quy tắc giao dịch kĩ thuật ● Các kĩ thuật liên quan đến giá và khối lượng
  4. Sự thay đổi giá theo hướng nào đó thể hiện các nhân tố ảnh hưởng, nhưng chỉ riêng thay đổi về giá thì chưa phản ánh quan hệ cung cầu tại thời điểm đó. Vì vậy các nhà phân tích thường tìm kiếm sự tăng giá kèm theo khối lượng giao dịch tương đối lớn so với khối lượng giao dịch thông thường như là 1 chỉ báo về xu thế giá lên, còn nếu giá giảm kèm theo khối lượng giao dịch lớn đồng nghĩa với xu thế giá giảm. Các nhà phân tích cũng sử dụng tỉ lệ khối lượng giao dịch giá lên / giá xuống như là 1 chỉ báo ngắn hạn của thị trường nói chung. Hàng ngày SGDCK công bố khối lượng giao dịch của các CP tăng giá và khối lượng giao dịch của các CP giảm giá. Tỉ lệ này được coi là 1 thước đo về trạng thái tâm lí của người đầu tư và sử dụng nó để xác định quan hệ cung cầu trên thị trường. ● Các quy tắc theo quan điểm trái ngược Nhiều nhà phân tích kĩ thuật dựa vào những quy tắc giao dịch được phát triển từ giả thiết rằng đại bộ phận nhà đầu tư thường sai lầm khi dự đoán thị trường đạt đến đỉnh cao hoặc điểm đáy. Vì vậy các nhà phân tích kĩ thuật tìm cách xác định thời điểm đại bộ phận nhà đầu tư kì vọng giá lên hoặc giá xuống và giao dịch theo chiều hướng ngược lại. Các nhà phân tích kĩ thuật sử dụng 1 số thước đo nhằm đánh giá xu hướng giao dịch của nhà đầu tư trên thị trường. Họ thường sử dụng đồng thời 1 số chỉ báo để xác định sự đánh giá trùng hợp về thái độ của người đầu tư. Số dư có trên tài khoản giao dịch Số dư có xuất hiện khi người đầu tư bán chứng khoán mà không rút tiền ra khỏi tài khoản giao dịch với hi vọng tiếp tục đầu tư. Thông thường số liệu tổng hợp về tình hình tài khoản giao dịch của người đầu tư được công bố trên 1 số tạp chí tài chính. Các nhà phân
  5. tích coi số dư có trên tài khoản giao dịch là sức mua tiềm năng. Theo đó họ cho rằng khi số dư này giảm xuống là dấu hiệu của xu thế giá xuống, bởi nó báo hiệu sức mua thấp hơn khi thị trường đạt đến đỉnh cao. Tương tự như vậy, nhà phân tích kĩ thuật cho rằng số dư có tăng lên báo hiệu sự gia tăng về sức mua và là dấu hiệu của xu thế lên giá. Lưu ý rằng số liệu về số dư này được công bố bằng số tuyệt đối mà không có sự so sánh tương đối nào khác. Điều này khiến cho việc xác định xu thế trở nên khó khăn khi quy mô thị trường thay đổi. Ý kiến tư vấn đầu tư Nhiều nhà phân tích kĩ thuật nhận thấy rằng nếu phần lớn các công ty tư vấn đầu tư có quan điểm tiêu cực, điều này báo hiệu thị trường đã tiến gần đến điểm đáy và chuẩn bị chuyển sang xu thế giá lên. Người ta lập luận rằng, phần lớn các công ty tư vấn đầu tư đều có xu hướng ngả theo xu hướng chung. Vì vậy số lượng các công ty tư vấn đầu tư có quan điểm tiêu cực là lớn nhất khi thị trường đang gần đạt tới điểm đáy. Họ phát triển quy tắc giao dịch này từ tỉ lệ giữa số các công ty tư vấn đầu tư có quan điểm tiêu cực và tổng số công ty tư vấn đưa ra ý kiến. ● Bám theo các nhà đầu tư khôn ngoan Một số nhà phân tích kĩ thuật sử dụng các chỉ báo mà họ cho rằng chúng phản ánh hành vi giao dịch của những nhà đầu tư khôn ngoan. Sau khi nghiên cứu thị trường, các nhà phân tích này xây dựng nên các chỉ báo cho biết động thái của những nhà đầu tư khôn ngoan và phát triển các quy tắc để bám theo họ. Sau đây là một số chỉ báo được sử dụng khá phổ biến. + Chỉ số niềm tin (the confidence index)
  6. Chỉ số niếm tin do Barron’s xây dựng là hệ số giữa tỉ suất doanh lợi của trái phiếu 10 công ty hàng đầu do Barron’s lựa chọn so với tỉ suất doanh lợi của 40 trái phiếu thường dùng để tính chỉ số trái phiếu DowJones. Chỉ số này phản ánh sự khác biệt về chênh lệch tỉ suất doanh lợi giữa các trái phiếu hàng đầu so với các trái phiếu thường khác thuộc nhiều nhóm ngành nghề. Các nhà phân tích kĩ thuật cho rằng đây là 1 chỉ báo của xu thế giá lên, bởi khi người đầu tư có lòng tin, họ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào các trái phiếu chất lượng thấp hơn nhằm thu được tỉ suất doanh lợi cao hơn. Do vậy chỉ số niềm tin sẽ tăng. Ngược lại, khi người đầu tư bi quan họ sẽ tránh đầu tư vào các trái phiếu chất lượng thấp và gia tăng đầu tư vào các trái phiếu có chất lượng cao. Tuy nhiên việc đánh giá về hành vi của người đầu tư theo chỉ số này hầu như mới phụ thuộc vào mức cầu. Trên thực tế nó còn phụ thuộc vào mức cung. Ví dụ, công ty ABC phát hành 1 khối lượng lớn trái phiếu hàng đầu có thể dẫn đến lợi suất của các trái phiếu hàng đầu tạm thời tăng lên, làm giảm chênh lệch lợi suất và khiến chỉ số niềm tin tăng lên mà không có sự thay đổi về niềm tin của nhà đầu tư. Những người ủng hộ chỉ số này tin rằng nó phản ánh được thái độ chung của người đầu tư đối với các tài sản tài chính. Một số nghiên cứu khoa học cho thấy chỉ số này tỏ ra không mấy hữu ích trong việc dự đoán biến động giá cổ phiếu. + Số dư nợ trên tài khoản giao dịch Số dư nợ trên tài khoản giao dịch phản ánh thái độ của 1 số nhà đầu tư có kiến thức và kĩ năng chuyên sâu trong việc thực hiện các giao dịch kí quỹ. Theo đó khi số dư nợ gia tăng sẽ là dấu hiệu xu thế giá lên. Ngược lại khi số dư nợ giảm xuống sẽ là dấu hiệu bán ra
  7. vì những người đầu tư khôn ngoan này muốn kết thúc 1 chu kì giao dịch, đồng thời nó cũng phản ánh sự giảm sút của luồng vốn sẵn sàng tham gia thị trường và sẽ là dấu hiệu của xu thế giá xuống. Số liệu hàng tháng về giao dịch kí quỹ được công bố trên Barron’s. Tuy nhiên số liệu này không phản ánh khoản vay của người đầu tư từ những nguồn khác như ngân hàng. Thêm vào đó đây cũng là con số tuyệt đối nên khó có thể so sánh theo thời gian. ● Một số chỉ báo thị trường khác + Độ rộng của thị trường Độ rộng của thị trường là chỉ báo về số lượng các cổ phiếu lên giá và số lượng các cổ phiếu xuống giá trong mỗi ngày giao dịch. Chỉ báo này giúp cho việc giải thích nguyên nhân sự đổi hướng của các chỉ số chứng khoán như DJIA hoặc S&P 500. Những chỉ số nổi tiếng trên thị trường thường chịu ảnh hưởng lớn từ các cổ phiếu của các công ty lớn, bởi vì hấu hết các chỉ số đều được tính theo phương pháp gia quyền giá trị. Như vậy có thể xảy ra trường hợp chỉ số tăng lên nhưng phần lớn các cổ phiếu thành phần lại không lên giá. Sự phân kì giữa giá trị của chỉ số chung và các cổ phiếu thành phần trở thành 1 vấn đề đáng quan tâm, vì điều này có nghĩa là phần lớn các cổ phiếu không góp phần vào xu thế giá lên của thị trường. Tình trạng này có thể được phát hiện bằng cách xem xét số liệu về tăng giảm giá của tất cả các cổ phiếu trên thị trường và đồng thời với chỉ số chung. + Tổng khối lượng bán khống (Short Interest) Tổng khối lượng bán khống là tổng khối lượng cổ phiếu hiện được bán khống trên thị trường. Một số nhà phân tích kĩ thuật cho rằng khối lượng bán khống cao là dấu hiệu tốt, song 1 số khác lại cho là dấu hiệu không tốt. Dấu hiệu tốt là bởi mọi giao dịch bán khống
  8. sẽ phải được hoàn tất (nghĩa là những người bán khống cuối cùng sẽ phải mua cổ phiếu để hoàn trả lại số cổ phiếu họ đã vay). Do vậy tổng khối lượng bán khống phản ánh mức cầu tiềm năng trong tương lai đối với cổ phiếu. Khi các giao dịch bán khống được tất toán, mức cầu phát sinh do việc mua cổ phiếu sẽ đẩy giá lên. Dấu hiệu không tốt là bởi trên thực tế những người bán khống thường là những người đầu tư lớn và có kĩ năng chuyên nghiệp. Theo đó tổng khối llượng bán khống gia tăng phản ánh trạng thái tâm lí của nhà đầu tư được coi là “am hiểu” về triển vọng thị trường giá xuống. 2.3. Định giá chứng khoán 2.3.1. Định giá trái phiếu 2.3.1.1. Định giá trái phiếu ● Định giá trái phiếu thông thường Ở dạng thông thường trái phiếu có mệnh giá, thời hạn và lãi suất cuống phiếu xác định, không kèm theo các điều kiện có thể chuyển đổi, có thể mua lại hay bán lại… Khi đó giá của trái phiếu bằng giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính sẽ nhận được từ công cụ tài chính đó. Vì vậy để xác định được mức giá trái phiếu cần phải: - Ước tính các luồng tiền sẽ nhận được trong tương lai: Lãi trái phiếu và mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn. -Ước tính tỉ suất sinh lợi (lợi suất) đòi hỏi phù hợp. Công thức tổng quát để tính giá của một trái phiếu là:
  9. C C C C F 1 F n PV = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = C  -------- + -------- (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 (1+i)n (1+i)n t=1 (1+i)t (1+i)n Trong đó: PV là giá trái phiếu, n là số kì trả lãi, C là tiền lãi của một kì trả lãi, F là mệnh giá trái phiếu, i là lãi suất chiết khấu hay lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Đối với trái phiếu trả lãi trước, hay hay trái phiếu không trả lãi định kì (Zero coupon bonds) thì: PV = F / (1+i)n Đối với trái phiếu trả lãi sau, thì PV = (C + F) / (1+i)n Nếu PV > Pm (thị giá trái phiếu trên thị trường) thì đó là 1 tín hiệu cho việc mua trái phiếu. ● Định giá trái phiếu trong một số trường hợp đặc biệt ♦ Định giá tại một thời điểm giữa kì trả lãi Phương pháp chung: - Bước 1: Chiết khấu tất cả các luồng thu nhập trong tương lai về kì trả lãi trước (hoặc về kì trả lãi sau) thời điểm hiện tại.
  10. - Bước 2: Tính giá trị tương lai (hoặc giá trị hiện tại) của kết quả tìm được ở bước 1 (PV1 hoặc PV2) tới thời điểm cần tính giá (thời điểm hiện tại). Gọi D là số ngày của 1 kì tính lãi. T là số ngày kể từ thời điểm tính lãi kì trước đến thời điểm hiện tại. PV = PV1 [1+ (i x T/D)] hoặc PV = PV1 [1+ i] T/D hoặc PV = PV2/ [1+ i x (D-T)/D] hoặc PV = PV2/ [1+ i] (D-T)/D Trên thực tế, người mua trái phiếu nhận được toàn bộ lãi định kì vào thời điểm thanh toán sắp tới, trong khi học chỉ nắm giữ trái phiếu trong một phần thời kì đó, vì thế người mua sẽ phải trả cho người bán khoản tiền lãi lẻ tích lũy được từ kì thanh toán lãi trước đó đến thời điểm bán trái phiếu. Khoản lãi lẻ này được tính như sau: Lãi lẻ = C x T/D Giá thị trường (giá niêm yết) của trái phiếu = PV – lãi lẻ ♦ Định giá trái phiếu có lãi suất thả nổi Lãi suất định kì của một trái phiếu thả nổi thường được ấn định dựa vào lãi suất thị trường (LIBOR hoặc SIBOR) và cộng thêm 1 tỷ lệ phụ trội (x%). Vì thế luồng tiền của công cụ thả nổi bao gồm 2 bộ phận: - Luồng tiền có lãi suất thả nổi theo thị trường không có phần phụ trội. Luồng tiền này bao gồm cả khoản thanh toán mệnh giá vào lúc đáo hạn, gọi là luồng tiền của chứng khoán tham chiếu. Công cụ tham chiếu này sẽ luôn được định giá bằng mệnh giá vì lãi suất được trả chính là lãi suất thị trường nên không có lí do gì để nhà đầu tư phải trả thêm một
  11. khoản phụ trội để mua nó. - Luồng tiền đã biết dựa vào phần phụ trội. Việc định giá của bộ phận này tính như phần định giá trái phiếu thông thường. Như vậy giá của công cụ thả nổi lãi suất là tổng giá của 2 chứng khoán trên. 1 n PV = F + x  ------- t=1 (1+i)t Ví dụ: Trái phiếu A mệnh giá 100.000đ, lãi suất LIBOR + 100 điểm cơ bản (1%)/ năm, lãi suất chiết khẩu 8,5% năm, thời hạn TP 2 năm. Định kì trả lãi 6tháng/ lần. Giá phải trả cho TP này là: 1 4 PV = 100 + 0,5  -------------- t=1 (1+0,0425)t 2.3.1.2. Đo lường lãi suất trái phiếu * Lãi suất hiện hành (Current Yield - CY): Là tỉ lệ giữa lãi cuống phiếu hàng năm với giá thị trường.
  12. CY = C/PV Ví dụ: Trái phiếu 15 năm, lãi suất 10% năm, mệnh giá 100.000đ đang bán với giá 80.000đ thì lợi suất hiện hành được xác định như sau: 10% x 100.000 / 80.000 = 0,125 hay 12,5% Phép tính lợi suất hiện hành chỉ quan tâm đến lãi cuống phiếu mà không tính đến bất kì một nguồn lợi tức nào khác tác động tới lợi suất của nhà đầu tư. * Lãi suất đáo hạn (Yield to Marturity - YTM): là mức lãi suất làm cho giá trị hiện tại của các luồng tiền mà người đầu tư nhận được từ trái phiếu bằng với giá của trái phiếu. C C C C F 1 F n PV = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- = C  -------- + -------- (1+y)1 (1+y)2 (1+y)n-1 (1+y)n (1+y)n t=1 (1+y)t (1+y)n Trong đó: PV là giá trái phiếu, n là số kì trả lãi, C là tiền lãi của một kì trả lãi, F là mệnh giá trái phiếu, y là lãi suất đáo hạn. Lãi suất đáo hạn có thể xác định theo công thức gần đúng sau: NPV1 (i2 – i1) y = i1 + /NPV1/ + /NPV2/
  13. Trong đó: i1, i2 : mức lãi suất lựa chọn (i2> i1 và i2- i1≤ 1%) NPV1: giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất i1 ; NPV1>0 NPV2: giá trị hiện tại ròng ứng với lãi suất i2 ; NPV2 lãi suất hiện hành > lãi suất đáo hạn 2.3.1.2. Thời gian đáo hạn bình quân (Macaulay Duration - MD / Duration)) Thời gian đáo hạn bình quân được xác định như sau: tC nF n MD = {  -------- + -------- } / P t=1 (1+y)t (1+y)n Trong đó: y là lãi suất đáo hạn (hay lãi suất yêu cầu), P là giá trái phiếu Ví dụ: Tính MD của trái phiếu lãi suất 10%/năm, kì hạn 5 năm, trả lãi mỗi năm 2 lần, bán theo mệnh giá 100.000đ, lãi suất yêu cầu là 12%/ năm.
  14. 2.3.2. Định giá cổ phiếu 2.3.2.1. Một số vấn đề liên quan đến định giá CP ● Định giá CP là gì? - Là công việc ước tính - Không bao giờ định giá bằng phương pháp duy nhất - Giá trị CP được ước tính chỉ có giá trị tại 1 thời điểm cụ thể. ● Tại sao phải định giá CP? - Không định giá được CP là đầu tư cho rủi ro và thất bại. - Để so sánh với giá CP đang bán trên thị trường (đắt hay rẻ) là căn cứ cho việc ra quyết định đầu tư. Ví dụ: giá CP XYZ đang giao dịch trên thị trường là 100.000đ. Việc định giá CP cho kết quả 120.000đ. Chứng tỏ CP XYZ rẻ. ● Những khó khăn khi định giá CP? - Khó khăn trong việc thực hiện các phương pháp định giá - Khó khăn do những yếu tố bất ngờ - Do sự nhạy cảm của CP với các thông tin. 2.3.2.2. Các phương pháp định giá CP ● Phương pháp giá trị sổ sách + Phương pháp giá trị sổ sách là gì? Phương pháp giá trị sổ sách là phương pháp ước tính giá trị CP dựa trên giá trị thực
  15. tế của doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh trừ đi tổng nợ phải trả của doanh nghiệp. Giá trị Tổng giá trị tài sản của DN - Tổng nợ - Tổng vốn CPUĐ (nếu có) ss 1CP = ------------------------------------------------------------------------------- thường Tổng số CP thường đang lưu hành Ví d ụ: Công ty Cổ phần Hải Kim đã phát hành hai loại cổ phiếu: - Cổ phiếu ưu đãi tích lũy và không tham dự: 10.000 cổ phiếu, mệnh giá 20.000đ /cổ phiếu, cổ tức 13%/năm. - Cổ phiếu phổ thông: 80.000 cổ phiếu với mệnh giá 10.000đ /cổ phiếu Theo số liệu bảng cân đối kế toán ngày 31 tháng 12 năm N: Tổng giá trị tài sản của Công ty: 2.000.000.000 đồng, trong đó: - Tài sản lưu động: 850.000.000 đồng - Tài sản cố định: 1.150.000.000 đồng Tổng số nợ: 600.000.000 đồng Yêu cầu: Xác định giá trị sổ sách 1 cổ phiếu thường của Công ty ngày 31/12/ N? Giải: (2.000.000.000 - 600.000.000 - 10.000 x 20.000) : 80.000 = 15.000đ
  16. Trường hợp cổ phần hóa DNNN Giá trị Phần vốn nhà nước thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm CPH ss 1CP = ------------------------------------------------------------------------------- thường Tổng số CP thường được phép phát hành Ví d ụ: Theo bản cáo bạch của công ty Thủy điện Thác mơ có các số liệu sau: Số CP phát hành chào bán đấu giá là 70.000.000 Tại thời điểm cổ phần hóa, giá trị phần vốn Nhà nước thực tế của công ty Thủy điện Thác mơ là:1.432.742.646.692đ Giá trị sổ sách 1 CP thường = 1.432.742.646.692đ : 70.000.000 = 20. 467,7đ + Tại sao lại sử dụng phương pháp này để định giá CP? - Dễ tính toán - Dễ lấy thông tin - Dùng để kiểm tra cách tính toán của các phương pháp khác Trên thực tế giá trị sổ sách kế toán không phản ánh đúng giá trị thực của tài sản của doanh nghiệp nên giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp có thẻ được tính theo giá trị thị trường của tất cả các tài sản. Việc tính giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp theo sổ sách kế toán hay theo giá thị trường mới chỉ phản ánh giá trị hữu hình của tài sản., phần giá trị lợi thế (giá trị các yếu tố phi vật chất) cấu thành từ tài sản vô hình thường chưa được quan tâm đến. Vì vậy khi định giá cổ phiếu người ta có thể sử dụng phương pháp kết hợp sau:
  17. giá trị tài sản ròng + giá trị lợi thế Giá cổ phiếu = -------------------------------------------------------------- số cổ phiếu đang lưu hành (hoặc dự định phát hành) Giá trị lợi thế của một doanh nghiệp có được là do những nguyên nhân chủ yếu như: uy tín của doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm hoặc cung ứng, vị trí địa lí thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ, bí quyết công nghệ như bằng phát minh, sáng chế phục vụ quá trình nghiên cứu phát triển, nhằm cải tiến, mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh hoặc quản lí doanh nghiệp, độc quyền sản xuất hoặc bán những sản phẩm độc quyền do doanh nghiệp phát minh ra, đặc quyền khai thác, nhãn hiệu thương mại… Giá trị lợi thế của doanh nghiệp được tính căn cứ vào tỉ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của n năm liền kề (n thường được lấy = 5) với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận thực hiện của n năm liền kề Tỉ suất lợi nhuận bình quân = -------------------------------------------------------------- Tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp n năm liền kề Tỉ suất Tỉ suất lợi nhuận Tỉ suất lợi nhuận bình quân chung n lợi nhuận bình quân n năm năm của doanh nghiệp cùng ngành. = –
  18. siêu ngạch của doanh nghiệp Giá trị Vốn SXKD của công ty theo sổ kế Tỉ suất lợi nhuận = x lợi thế toán bình quân của n năm liền kề siêu ngạch ● Phương pháp luồng tiền chiết khấu (1) Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức ♦ Phương pháp tính Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức là phương pháp ước tính giá trị cổ phiếu, dựa trên độ lớn của các luồng cổ tức, được hiện tại hóa về một thời điểm xác định, mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai. Nếu nhà đầu tư nắm giữ CP đến năm thứ n, cổ tức chi trả từ năm 1 đến năm n lần lượt là: D1, D2, …, Dn, giá bán CP vào năm thứ n là Pn, tỉ lệ lợi tức nhà đầu tư yêu cầu (tỉ lệ chiết khấu) là i, ta có công thức định giá CP theo phương pháp chiết khấu luồng cổ tức như sau: D1 D2 Dn-1 Dn Pn Dt Pn n P0 = ------- + ------- + … + -------- + ------- + ------- =  -------- + -------- (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 (1+i)n (1+i)n t=1 (1+i)t (1+i)n Trong đó: P0 là giá trị của 1 CP thường
  19. Nếu nhà đầu tư nắm giữ CP đến vô hạn, có nghĩa là n → ∞, khi đó giá trị hiện tại của vốn gốc Pn/ (1+i) n → 0, do đó giá trị CP chỉ căn cứ vào luồng cổ tức. Trên thực tế, với quan điểm đầu tư cổ phiếu là đầu tư dài hạn nên người ta xác định giá cổ phiếu ở hiện tại theo công thức (1), được gọi là “mô hình chiết khấu cổ tức” do giáo sư người Mĩ Rond Gordon đưa ra năm 1962. Dt n P0 =  ---------- (1) t=1 (1+i)t Dt được xác định theo 3 trường hợp: Trường hợp 1: cổ tức tăng trưởng ổn định hàng năm (constant growth), tỉ lệ tăng trưởng là g. Như vậy: D1 = D0 x (1+g) D2 = D1 x (1+g) = D0 x (1+g)2 D3 = D0 x (1+g)3,… Do đó, giá cổ phiếu được xác định như sau: D0 x (1+g)2 D0 x (1+g)n D0 x (1+g) P0 = -------------- + -------------- +… + -------------- (2) (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n
  20. Nhân cả 2 vế của (2) với (1+i) / (1+g) D0 x (1+g)2 D0 x (1+g)n-1 1+i D0 x (1+g) P0 x ---- = D0 +-------------- + -------------- +… + -------------- (3) (1+i)1 (1+i)2 (1+i)n-1 1+g Lấy phương trình (3) trừ phương trình (2) D0 x (1+g)n 1+i P0 x ---- - P0 = D0 +-------------- (1+i)n 1+g Khi n → ∞ (quá lớn) và với i>g thì [D0(1+g)]n / (1+i) n → 0 , ta có: 1+i P0 x ---- - P0 = D0 (4) 1+g Nhân cả 2 vế của phương trình (4) với (1+g) ta có: P0 (1+i) - P0 (1+g) = D0 (1+g) Suy ra P0 = D0 (1+g) / (i-g) Hay P0 = D1 / (i-g) (5) Biểu thức (5) được gọi là mô hình tăng trưởng ổn định Gordon. Điều kiện áp dụng: Các doanh nghiệp có tỉ lệ tăng trưởng thấp hơn tỉ lệ tăng trưởng danh nghĩa của nền kinh tế (g i,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0