intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Lạm dụng ma túy và chất gây nghiện (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:96

10
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Lạm dụng ma túy và chất gây nghiện (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) được biên soạn với mục tiêu nhằm giúp sinh viên trình bày được những kiến thức cơ bản về ma túy, thực trạng tệ nạn ma túy trên thế giới, ở Việt Nam và ở địa phương; hậu quả của việc nghiện ma túy đến bản thân, đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến chất lượng cuộc sống của con người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Lạm dụng ma túy và chất gây nghiện (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười

  1. SỞ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐỒNG THÁP TRƯỜNG TRUNG CẤP THÁP MƯỜI  GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN: LẠM DỤNG MA TÚY VÀ CHẤT GÂY NGHIỆN NGÀNH/NGHỀ: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCTM ngày tháng năm 2020 của Hiệu trưởng Trường Trung cấp Tháp Mười. Tháp Mười, năm 2020
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
  3. LỜI GIỚI THIỆU Giáo trình Lạm dụng ma túy và chất gây nghiện được biên soạn theo kế hoạch chung của Sở Lao động – Thương binh và xã hội Đồng Tháp thực hiện lựa chọn, chỉnh sửa giáo trình đào tạo nhầm cung cấp giáo trình đào tạo cho nghề công tác xã hội trên địa bàn tỉnh như là một phần của đóng góp thực hiện của “Đề án phát triển Nghề Công tác xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020” trong Quyết định 32/2010 – QĐ/TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 3 năm 2010. Trong quá trình biên soạn, nhóm tác giả cảm ơn sự phối hợp và những ý kiến góp ý có giá trị từ các giảng viên Trường Đại học Đồng Tháp, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long và các đơn vị giáo dục nghề nghiệp bạn. Nhóm tác giả hy vọng rằng tài liệu này sẽ cung cấp những kiến thức, kỹ năng và những công cụ hữu ích cho việc giảng dạy, học tập trong quá trình đào tạo nghề công tác xã hội. Nhóm tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp hữu ích để có thể điều chỉnh tốt hơn trong tương lai và phù hợp hơn với nhu cầu học tập của mọi người./. Đồng Tháp, ngày tháng năm 2020 Tham gia thực hiện 1. Kiều Văn Tu 2. Võ Trí Trọng 3. Nguyễn Hòa Thuận 4. Nguyễn Văn Cường.
  4. MỤC LỤC
  5. GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN Tên mô đun: Lạm dụng ma túy và chất gây nghiện Mã số mô đun: MĐ28 Vị trí, tính chất của mô đun - Vị trí: Mô đun Lạm dụng ma túy và chất gây nghiện là môn chuyên môn nghề của chương trình đào tạo nghề Công tác xã hội. - Tính chất của mô đun: Là môn học bắt buộc nhằm cung cấp những kiến thức về nguyên nhân, tác hại của ma túy và chất gây nghiện, tác hại của bệnh AIDS và cách phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS. Mục tiêu mô đun - Kiến thức + Trình bày được những kiến thức cơ bản về ma túy, thực trạng tệ nạn ma túy trên thế giới, ở Việt Nam và ở địa phương; hậu quả của việc nghiện ma túy đến bản thân, đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến chất lượng cuộc sống của con người. + Giải thích được nguyên nhân gây nghiện, cách cai nghiện ma túy, cách phòng tránh ma túy. - Kỹ năng + Thực hiện được các biện pháp phòng chống ma túy. + Quan sát, thu nhập thông tin liên quan, phân tích, so sánh rút ra kết luận. + Có kỹ năng phân biệt các loại ma túy, kỹ năng phòng tránh nghiện ma túy. + Có kỹ năng tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, vận động phòng chống ma túy. - Năng lực tự chủ và trách nhiệm + Có thái độ và hành vi đúng đắn trước những vấn đề liên quan đến ma túy. + Sẵn sàng, tích cực tuyên truyền cho gia đình, người thân, gia đình nhận thức đúng các vấn đề liên quan đến ma túy.
  6. BÀI 1: KHÁI QUÁT VỀ MA TÚY VÀ CHẤT GÂY NGHIỆN Mục tiêu của bài: - Trình bày được khái niệm về ma túy và chất gây nghiện. - Phân loại được các chất ma túy và các chất gây nghiện. - Trình bày được các phương thức sử dụng, tác hại của việc lạm dụng ma túy và nguyên nhân gây nghiện. - Nắm được tình hình tệ nạn ma túy trên thế giới và Việt Nam Nội dung: 1. Nhận thức chung về ma túy và chất gây nghiện 1.1. Khái niệm chất ma túy và chất gây nghiện 1.1.2. Khái niệm ma tuý Ma tuý vẫn đang còn là một vấn đề nhức nhối của xã hội ma tuý không chỉ huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, bần cùng. Ma tuý không chỉ là nguyên nhân của các mối bất hoà trong gia đình mà còn là nguyên nhân dẫn đến phạm tội và gây mất trật tự, an toàn xã hội. Những tác hại và hậu quả của ma tuý vẫn đang tác động và gây ảnh hưởng đến tất cả chúng ta từng ngày, từng giờ. Ma túy là từ Hán Việt, với nghĩa: “ma” là tê mê, “túy” là say sưa. Như vậy, ma túy là chất đưa đến sự say sưa, mê mẩn. Đây cũng là từ tiếng Việt dùng để dịch chữ nước ngoài dùng để chỉ các chất gây nghiện thuộc loại nguy hiểm nhất: thuốc phiện, morphine, heroin, cocain, cần sa và một số thuốc tổng hợp có tác dụng tương tự morphine được sử dụng trong điều trị y tế. Như vậy, có thể gọi nôm na: ma túy là chất đưa đến sự say sưa và mê mẫn, hay nói cách khác: ma túy là chất gây nghiện. Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về ma tuý, mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế có liên quan đều đưa ra khái niệm về ma tuý của mình. Theo tổ chức Y tế thế giới( WHO): ma tuý là thực thể hoá học hoặc thực thể hỗn hợp; khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì tình trạng bình thường của cơ thể người, việc sử dụng những chất đó sẽ làm thay đổi chức năng sinh học của con người.
  7. Bộ luật Hình sự được Quốc hội thông qua ngày 21-12-1999, đã quy định các tội phạm về ma tuý.Theo đó, ma tuý bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, lá hoa, quả cây cần sa, lá cô ca, quả thuốc phiện khô, quả thuốc phiện tươi, hêrôin, côcain, các chất ma tuý khác ở thể lỏng, các chất ma tuý khác ở thể rắn. Luật Phòng, chống ma tuý được Quốc hội thông qua ngày 9/12/2000 quy định( điều 2): Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Như vậy, chất ma tuý được xác định và có tên gọi riêng trong danh mục các chất ma tuý, tiền chất và các chất hoá học dùng để điều chế các chất ma tuý (bao gồm danh mục quy định trong Công ước 1961, 1971, 1988 của Liên Hợp quốc về kiểm soát ma tuý) gồm 225 chất ma tuý và 22 tiền chất. Để xác định có phải là chất ma tuý hay không, hoặc là chất ma tuý gì thì phải trưng cầu giám định. Từ quy định của Liên Hợp quốc và pháp luật Việt Nam chúng ta có thể hiểu: Ma tuý là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm dụng ma tuý, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng. 1.1.2. Khái niệm chất gây nghiện Hiện nay chưa có một định nghĩa chung và hoàn chỉnh về chất gây nghiện. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chất gây nghiện là “bất kỳ loại chất hóa học nào mà khi vào cơ thể làm thay đổi chức năng thực thể và tâm lý” Tại Việt Nam, Luật phòng, chống ma túy 23/2000/QH “Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng”. Như vậy có thể thấy chất gây nghiện được hiểu rất rộng bao gồm cả chất gây nghiện hợp pháp như thuốc sử dụng trong điều trị, rượu bia, thuốc lá, trà và và cả chất gây nghiện bất hợp pháp như chất kích thích ức chế thần kinh-ma tuý. 1.1.3. Một số khái niệm có liên quan + Người nghiện ma túy: là người thường xuyên dùng ma túy để thỏa mãn sự thèm muốn, đam mê tột độ và thói quen của mình, là những người luôn luôn bị phụ thuộc, bị trói buộc bởi tình trạng tâm lý khát khao, thèm muốn và sự đam mê đáng sợ nhất của con người, đó chính là cơn nghiện, nó có thể đưa con người sa vào tình trạng khốn quẫn, mất hết phương hướng, thậm chí mất hết tính người.
  8. + Khái niệm chất gây nghiện: Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. + Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện với người sử dụng. + Tiền chất là các chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất ma tuý được quy định do chính phủ ban hành. + Thuốc gây nghiện, hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong danh mục do Bộ Y tế do chính phủ ban hành. + Người sử dụng ma tuý là người sử dụng chất ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào chất này. 1.2. Phân loại chất ma túy và chất gây nghiện Hiện nay có nhiều cách phân loại ma tuý nhưng tất cả các cách phân loại chỉ mang tính chất tương đối: - Theo nguồn gốc, ma túy được chia làm ba loại: ma túy tự nhiên, ma túy bán tổng hợp, ma túy tổng hợp. + Ma túy tự nhiên là các chất ma túy có sẵn trong tự nhiên như thuốc phiện, cần sa, cocain… + Ma túy bán tổng hợp là các chất mà túy được chế từ ma túy tự nhiên và một số chất phụ gia khác, có tác dụng mạnh hơn chất ma túy ban đầu như heroin… + Ma túy tổng hợp là các chất ma túy được điều chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học toàn phần từ hóa chất như thuốc lắc, ma túy đá (methaphetamin)… - Theo mức độ nghiện và khả năng bị lạm dụng, ma túy được chia làm 2 loại: ma túy có hiệu lực cao và ma túy có hiệu lực thấp: + Ma túy có hiệu lực cao là các chất ma túy chỉ cần sử dụng với liều lượng nhỏ đã có thể thay đổi trạng thái tâm sinh lý của người dùng, gây nghiện: thuốc phiện, heroin, thuốc lắc, cocain. + Ma túy có hiệu lực thấp là các loại ma túy phải sử dụng nhiều lần với lượng lớn mới làm thay đổi tâm sinh lý và gây nghiện: thuốc lá, thuốc lào, ..
  9. - Theo tác dụng của chất ma túy đến hệ thần kinh trung ương, ma túy được chia làm 3 loại: nhóm thuốc an thần ức chế hệ thần kinh trung ương, nhóm các chất gây kích thích, nhóm các chất gây ảo giác: + Nhóm thuốc an thần ức chế hệ thần kinh trung ương: tác động chủ yếu là buồn ngủ, an thần, giảm nhịp tim, giảm hô hấp: heroin, morphin, cocain… và thuốc ngủ. + Nhóm các chất gây kích thích: kích thích hưng phấn, tăng hoạt động cơ thể, tăng nhịp tim, hô hấp…: bao gồm amphetamine và các dẫn xuất của nó. + Nhóm chất gây ảo giác: có thể làm thay đổi nhận thức về hiện tại, về môi trường xung quanh; khiến cho người dùng có thể bị ảo thanh, ảo giác (nghe thấy, nhìn thấy những sự việc không có thật): thuốc lắc, ma túy gây ảo giác (LSD) … - Theo luật pháp, ma túy được chia làm 2 loại: ma túy hợp pháp và ma túy không hợp pháp: + Ma túy hợp pháp là những loại ma túy mà pháp luật không cấm: rượu bia, thuốc lá, caffein, thuốc ngủ an thần, thuốc giảm đau… + Ma túy bất hợp pháp là những loại ma túy pháp luật cấm: thuốc phiện, cần sa, heroin, cocain, thuốc lắc. 2. Các phương thức sử dụng, tác hại của việc lạm dụng ma túy, nguyên nhân gây nghiện 2.1. Các phương thức sử dụng Không phải ai lần đầu tiên sử dụng ma tuý (SDMT) cũng đều nghiện cả. Một người SDMT sẽ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trước khi chuyển sang lệ thuộc thực sự vào ma túy. Đa số người sử dụng ma túy là những người chỉ dùng ma túy với mục đích dùng thử. Họ sử dụng ma túy không thường xuyên nếu có dịp hoặc nếu có sẵn ma túy. Nhiều người trong số họ sẽ tự dừng lại không tiếp tục sử dụng nữa và sẽ không chuyển sang hình thức dùng nhiều. Một số người sử dụng ma túy để giúp học đạt được mục đích như để tỉnh táo hoặc để giảm đau. Họ được gọi là người sử dụng có chủ đích. Khi người sử dụng chuyển sang hình thức dùng nhiều và thường xuyên hơn thì việc sử dụng ma túy được coi là một phần quan trọng hơn trong cuộc sống của họ,
  10. khả năng dung nạp bắt đầu xuất hiện cùng với những hậu quả của việc sử dụng nhiều như đổ vỡ quan hệ, khó khăn về tài chính và việc làm. Người SDMT được coi là lệ thuộc (nghiện) khi họ chịu sự kiểm soát của ma túy cả về thể chất và tâm lý. Họ bắt buộc phải dùng ma túy bất chấp những hậu quả của nó. Nhân viên tiếp cận cộng đồng (NVTCCĐ) cần lưu ý khách hàng có SDMT có thể đang ở những giai đoạn khác nhau của quá trình này, và theo thời gian họ có thể chuyển sang giai đoạn khác. Vì thế NVTCCĐ cần phải chuẩn bị tốt để xử trí những tình huống khác nhau khi hỗ trợ với những khách hàng khác nhau, hay thậm chí khi làm việc với cùng một khách hàng tại những thời điểm khác nhau. Có ba hình thức sử dụng như sau: Qua đường hô hấp: Hút thông thường, người ta hút thuốc phiện, cần sa, (lá cây cần sa được cuốn thành điếu hút như điếu thuốc lá); ngửi, hít (heroin, cocain). Phương thức hít heroin rất đơn giản, người nghiện bỏ bột heroin lên trên giấy thiếc trong bao thuốc lá, kẹo cao su rồi dùng bật lửa ga đốt bên dưới cho bột heroin “thăng hoa” bốc khói và hít nó vào mũi, có thể người nghiện hít trực tiếp hoặc hít qua ống nhựa, ống tẩu. Sau khi hít xong, người nghiện phải hút thuốc lá hoặc uống cốc nước sôi để “hãm”, chóng “phê” và “phê” thời gian lâu hơn. Qua hệ tuần hoàn: Ma túy ở thể lỏng thường được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm chích dưới da, bắp thịt hoặc tĩnh mạch như heroin, morphin, Dolacgan, sái thuốc phiện, Amphetamin. Thông thường, người nghiện đầu tiên sử dụng bằng đường hút, hít, sau một thời gian sẽ chuyển sang tiêm chích. Đây là nguyên nhân lây nhiễm HIV/AIDS, viêm gan siêu vi và các bệnh truyền nhiễm khác. Qua đường tiêu hoá: Người nghiện uống, nuốt các loại ma túy như thuốc phiện, các chế phẩm của thuốc phiện, các loại thuốc an thần, giải lo âu như Seduxen, hiện nay nhiều người nghiện ma túy nuốt các loại ma túy kích thích thần kinh gây ảo giác như Amphetamin, Ecstasy... 2.2. Tác hại của việc lạm dụng ma túy và chất gây nghiện 2.2.1. Ảnh hưởng đến bản thân người nghiện Ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Dùng ma tuý quá liều có thể dẫn đến cái chết.
  11. Gây nghiện mạnh, sức khoẻ giảm sút. Tiêm chích ma tuý dùng chung bơm kim tiêm không tiệt trùng dẫn đến lây nhiễm viêm gan vi rut B, C, đặc biệt là HIV(dẫn đến cái chết). Tiêm chích ma tuý là một trong những con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất tại Việt Nam. Người nghiện ma tuý có thể mang vi rut HIV và lây truyền cho vợ/bạn tình, con cái họ. Thoái hoá nhân cách, rối loạn hành vi, lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Mâu thuẫn và bất hoà với bạn bè, thầy cô giáo và gia đình. Mất lòng tin với mọi người, dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến tương lai tiền đồ, nếu đã có việc làm thì dễ bị mất việc làm. Ma tuý còn gây tác hại lâu dài cho con cái, nòi giống: các chất ma tuý ảnh hưởng đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá trình phân bào hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gien độc có điều kiện hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống. 2.2.2. Ảnh hưởng đến gia đình người nghiện Làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Nhu cầu cần tiền để mua ma tuý của người nghiện là rất lớn, mỗi ngày ít nhất từ 50.000 -100.000 đồng/ngày thậm chí 1.000.000 - 2.000.000 đồng/ ngày, vì vậy khi lên cơn nghiện người nghiện ma tuý có thể tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình vào việc mua ma tuý để thoả mãn cơn nghiện của mình, hoặc để có tiền sử dụng ma tuý, nhiều người đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, hoặc thậm chí giết người, cướp của. Sức khoẻ các thành viên khác trong gia đình giảm sút (lo lắng, mặc cảm, ăn không ngon, ngủ không yên...vì trong gia đình có người nghiện) Gây tổn thất về tình cảm (thất vọng, buồn khổ, hạnh phúc gia đình tan vỡ, ly thân, ly hôn, con cái không ai chăm sóc...) Gia đình tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do ma tuý gây ra. 2.2.3. Ảnh hưởng đến xã hội Gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: Lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm, băng nhóm... Ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội.
  12. Tăng chi phí ngân sách xã hội cho các hoạt động ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết các hậu quả do ma tuý đem lại. Ma tuý còn là nguồn gốc, là điều kiện nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS (một hiểm hoạ toàn cầu chưa có thuốc chữa...Hiện nay nước ta có trên 130.000 người nhiễm HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma tuý. Thực tế cho thấy, ma túy là bạn đồng hành của tội phạm, ma túy là nguồn gốc sản sinh ra tội phạm. Do sử dụng các chất ma túy mà người nghiện không thể tự điều chỉnh được hành vi của mình dẫn đến họ sẵn sàng phạm tội. Đặc biệt trong trường hợp người nghiện đã trở thành nô lệ của ma túy, không có tiền, không có ma túy để đáp ứng cơn nghiện họ sẽ làm bất cứ việc gì kể cả giết người, cướp của… bất chấp pháp luật, bất chấp đạo lý, quên cả tính mạng bản thân miễn là có tiền để thỏa mãn cơn nghiện. Ma túy là bạn đồng hành của tội phạm, điều này đặc biệt đúng với người nghiện khi họ trở nên nghèo khó, túng thiếu hoặc ở giai đoạn khi họ đã trở thành nô lệ của ma túy. Hành trình từ nghiện ma túy dẫn đến phạm tội là một quá trình diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp, đa dạng, người nghiện luôn tìm cách để thỏa mãn cơn nghiện, nếu không được thỏa mãn chất ma túy người nghiện bị vật vã trong cơn nghiện, với tâm lý không ổn định, mất thăng bằng, không điều khiển nổi các hành vi trong hoạt động dẫn đến hành vi phạm tội là điều khó tránh khỏi. 2.3. Nguyên nhân gây nghiện ma túy 2.3.1. Nguyên nhân từ bản thân người nghiện Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân mang tính chất quyết định dẫn tới nghiện ma túy, do người sử dụng ma túy thiếu hiểu biết về tác hại của ma túy nên bị kẻ xấu lôi kéo, dụ dỗ dùng thử ma túy cho dù chỉ thử một lần nhưng vẫn bị nghiện ma túy. Sau đó vì sỉ diện cá nhân, vì danh dự gia đình, dòng tộc mà bưng bít, giấu kín nhưng đã “đâm lao thì phải theo lao” từ nghiện nhẹ đến nghiện nặng. Thiếu hiểu biết về ma túy cộng với tính hiếu kỳ, tò mò, thích chơi trội thể hiện mình ở các nhà hàng, vũ trường để được mệnh danh là những đại gia sành điệu ăn chơi dẫn tới tự nguyện sử dụng ma túy rồi trở thành người nghiện. Lối sống hưởng thụ, lười lao động. Người nghiện cho rằng sử dụng ma tuý sẽ giúp họ giải sầu, muốn có cảm giác dễ chịu, muốn quên đi những rắc rối của mình và thư giãn. Họ muốn vui vẻ, thoả mãn trí tò mò, thích mạo hiểm, làm dịu bớt nỗi đau, cảm thấy mình là người lớn, tỏ ra độc lập, muốn thuộc về một nhóm nào đó, hay trông ''hay hay'' thì tham gia thử... Khi đã
  13. thử một vài lần sẽ mắc nghiện. Từ những ý tưởng ở bên trong cùng những tác động bên ngoài sẽ là nguyên nhân dẫn đến nghiện ma tuý. - Nguyên nhân về phía gia đình: Gia đình là nơi con người sinh ra và lớn lên, vì vậy môi trường cuộc sống gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển tâm lý cũng như nhân cách của con người. Không khí gia đình rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến quá trình tiếp cận và trở thành đối tượng nghiện của thanh thiếu niên. Những đứa trẻ mà cha mẹ có mối qua hệ phúc tạp như: ly thân, ly hôn... có xu hướng nghiện cao hơn. Những gia đình điều kiện kinh tế khá giả mà nuông chiều thái quá để cho con em mình có điều kiện giao du, chơi bời quá trớn cũng rất dễ bị mắc nghiện. Sự buông lỏng quản lý, ít quan tâm đến con cái hay nuông chiều thái quá và không khí gia đình không bình thường 1à một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đứa trẻ tiếp cận với ma tuý và trở thành kẻ nghiện ma tuý. Đặc biệt, ý thức giáo dục, quan tâm con cái của một số gia đình bị buôn lỏng. Vì cuộc sống mưu sinh một số bậc cha mẹ mải mê làm ăn kiếm sống mà quên đi giáo dục, uốn nắn con cái trong quan hệ tiếp xúc bạn bè và khuyên bảo tránh xa các loại ma túy nên một số thanh thiếu niên đã rơi vào cảnh nghiện ngập nhưng bố mẹ vẫn không hề hay biết. Chỉ đến khi con mình phạm tội bị bắt giam mới biết, lúc đó đã quá muộn. Trong gia đình bố mẹ không quan tâm đến con cái hoặc nuông chiều thái quá dẫn đến sự quản lý con cái bị buông lỏng thì với sự nhạy cảm của thanh thiếu niên những tật xấu rất dễ xâm nhập. Đầu tiên là mải chơi, đua đòi, lười học, học kém, bỏ học dẫn đến bị lôi kéo nghiện ma tuý. Đa số đối tượng thanh thiếu niên nghiện đều thất học, hoặc có trình độ học vấn thấp, phần lớn trong số họ mới có trình độ tiểu học, số ít đang học dở trung học cơ sở, hoặc đang học đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Đa số họ không được đào tạo về nghề nghiệp, bởi vậy cơ hội để tham gia vào quá trình phát triển xã hội là rất nhỏ. Không nghề nghiệp, hoặc nghề nghiệp không ổn định, có địa vị thấp trong xã hội, thu nhập thấp và không ổn định, không kiếm đủ tiền cho cuộc sống độc lập của mình, vì thế họ có cảm giác thua thiệt về tâm lý, dễ sinh chán chường, bất mãn và sinh ra nghiện ngập. Gia đình thường xuyên mâu thuẫn, bố mẹ ly dị, ly thân… làm cho con cái buồn chán, bỏ học, bỏ nhà đi bụi đời hình thành các băng nhóm sống lang thang trộm cắp,
  14. móc túi…từ đó bị kẻ xấu lôi kéo vào hút chích ma túy và lợi dụng những đối tượng này vào con đường vận chuyển trái phép các chất ma túy. 2.3.2. Nguyên nhân từ xã hội: Mặt trái cơ chế thị trường luôn là mảnh đất cho các loại tệ nạn xã hội phát triển, đặc biệt là tệ nạn ma túy, đã tác động vào tầng lớp thanh, thiếu niên lối sống thực dụng, thích ăn chơi, hưởng thụ nhưng không chịu lao động. Đồng thời, trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo ngày càng phân hóa sâu sắc, một số gia đình giàu lên rất nhanh dẫn tới con cái có điều kiện ăn chơi, đua đòi; một số thanh thiếu niên không có điều kiện về tài chính đáp ứng nhu cầu ăn chơi, đua đòi sinh ra trộm cắp, cướp giật, nhất là khi đã nghiện ma túy thì nhu cầu trên càng cao hơn dẫn tới hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản để có tiền ăn chơi cho bằng bạn, bằng bè. Ngoài ra, công tác quản lý, giúp đỡ người nghiện ma túy, những người sau cai nghiện còn bộc lộ nhiều sơ hở, thiếu sót như: các đoàn thể chính trị kể cả nhà trường không kiểm soát, phát hiện kịp thời người có biểu hiện nghiện ma túy để có biện pháp cai nghiện kịp thời. Những người sau cai nghiện trở về địa phương vẫn còn bị xa lánh, phân biệt, đối xử làm cho họ thấy mặc cảm, nảy sinh tư tưởng chán đời thiếu niềm tin, thiếu việc làm lại lao vào sử dụng ma túy. Công tác tuyên truyền phổ biến Luật phòng, chống ma túy của các đoàn thể chính trị đã được tăng cường, tuy nhiên còn thiếu sự phối hợp, chưa có sự phân công cụ thể dẫn tới tình trạng công tác tuyên truyền chưa được thường xuyên. Với lớp trẻ đang học phổ thông cơ sở rất dễ bị lôi kéo vào con đường nghiện ma tuý. Lý do là các em không có ''sân chơi'' lành mạnh, nếu muốn giải trí các em phải tìm đến các địa điểm tự do mà ở đó vì lợi nhuận, hay đã có sẵn những kẻ xấu và một số kẻ không từ một thủ đoạn nào để lôi kéo các em sa ngã đi vào con đường nghiện ma tuý... Đặc biệt, công tác tuyên truyền, giáo dục về tác hại hậu quả của ma túy nhằm tạo phong trào quần chúng rộng khắp trong phòng ngừa, lên án, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy chưa thường xuyên và đủ mạnh, chưa sâu, chưa đến được nhiều với từng gia đình, từng cộng đồng thôn xóm, làng, xã khu phố và đến tới từng công dân. Tuyên truyền nặng về hình thức mà chưa gắn với hoạt động thực tế. Do vậy, vẫn còn không ít người chưa nhận thức và hiểu biết được tác hại của ma túy.
  15. Công tác cai nghiện cũng đã được đẩy mạnh trong thời gian qua (cả nước có hơn 30 trung tâm cai nghiện) nhưng tỷ lệ tái nghiện vẫn cao (80%) chứng tỏ các trung tâm chưa thực sự có hiệu quả trong công tác cai nghiện. Thực tế này xuất phát từ nhiều vấn đề về kỹ thuật, phương tiện, cách chữa trị cũng như kinh phí... nhưng không thể không kể đến những tiêu cực ở các trung tâm. Công tác cai nghiện chưa có hình thức và phương pháp phù hợp với nhận thức, tâm lý cũng như mục đích cai nghiện. Nhận thức của các ngành, các địa phương về công tác cai nghiện và tái hòa nhập xã hội cho người nghiện còn chưa thống nhất. Vì vậy chưa có sự phối hợp đồng bộ, chưa có các biện pháp giải quyết thích hợp ngay trên từng địa bàn. Công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu nắm đối tượng nghiện ma tuý của lực lương Công an nhiều lúc, nhiều nơi còn lỏng lẻo, chưa phát hiện kịp thời những đối tượng tội phạm có liên quan đến ma tuý để ngăn chặn. 2.3.3. Nguyên nhân từ phía bạn bè cùng lứa tuổi: Ngoài gia đình với sự chăm sóc, kèm cặp sát sao của cha mẹ, nhà trường với sự quản lý chặt chẽ của thầy cô giáo thì thanh thiếu niên còn chịu ảnh hưởng lớn của môi trường bạn bè. Bản chất của mối quan hệ này là dựa trên sự tương hợp về sở thích và hứng thú. Điều này luôn có tác đông hai mặt, nếu các em tiếp xúc với nhóm bạn tốt sẽ có thể học theo bạn những cử chỉ hành vi đẹp, biết giúp đỡ quan tâm đến mọi người. Ngược lại, nếu các em tiếp xúc với nhóm bạn xấu, sẽ học từ bạn bè những hành vi không tốt, như thói vô trách nhiệm, đòi hỏi quá đáng và không chịu nghe lời. Kết quả điều tra cho thấy 100% số người nghiện có nhóm bạn cũng là người nghiện, hoặc có tiền án, tiền sự khác. 3. Tình hình tệ nạn ma túy trên thế giới và Việt Nam. 3.1. Tổng quan về nghiện ma tuý trên Thế giới Ma túy và lạm dụng chất gây nghiện này được xem là vấn đề mang tính toàn cầu đã và đang làm giảm giá trị và chất lượng cuộc sống của nhiều người. Các con số thống kê của WHO cho thấy xu hướng gia tăng nhanh chóng số lượng người sử dụng ma tuý: 1985 là 48 triệu người; năm 1995 tăng lên 60 triệu người; năm 2004/2005 có đến 200 triệu người; và đến năm 2009/2010 ước tính từ khoảng 141 triệu đến 272 triệu chiếm 6,1 % tổng dân số trong độ tuổi từ 15 đến 60. Theo báo cáo cập nhật nhất của Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC) năm 2015 tỉ lệ người sử dụng ma túy trên toàn thế giới vẫn không có nhiều xáo trộn. Ước tính có khoảng 246 triệu người, tương đương với khoảng hơn 5% dân số toàn thế giới
  16. trong độ tuổi từ 15 đến 64 đã từng sử dụng ma túy trái phép trong năm 2013. Số người có vấn đề về sử dụng ma túy chiếm khoảng 27 triệu người, gần một nửa trong số họ là người tiêm chích ma túy (PWID). Nam giới sử dụng cần sa, cocain và anphetamin nhiều gấp ba lần nữ giới, trong khi nữ giới có xu hướng lạm dụng thuốc giảm đau có chứa opiods và thuốc an thần. Những số liệu cho thấy số người nghiện ở khu vực Châu Á nhiều nhất, sau đó đến Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Âu và Châu Đại dương. Tình hình buôn bán ma túy ở khu vực Châu Á vẫn tập trung chủ yếu là thuốc phiện và hêrôin, thuốc phiện sản xuất ở Châu Á chiếm hơn 99% thị phần toàn cầu. Tuy nhiên xu hướng gần đây cho thấy sự đáng lo ngại là lượng sản xuất ma tuý tổng hợp lại ngày càng gia tăng. Cơ quan Phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp quốc (UNODC) cảnh báo lượng sản xuất và tiêu thụ ma tuý tổng hợp có dấu hiệu tăng mạnh ở các nước đang phát triển, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Điều này đồng nghĩa với việc số lượng người nghiện sư dụng ma tuý tổng hợp tăng. Nghiện ma túy gây tổn hại rất nhiều đến đời sống của con người. Thứ nhất là ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Theo UNOCD, có khoảng 1,65 triệu người tiêm chích ma túy đang phải sống chung với HIV trong năm 2013. Bên cạnh đó việc sử dụng chung bơm kim tiêm của người nghiện cũng làm gia tăng tỷ lệ mắc viêm gan C với tỷ lệ khoảng 50% tương đương với 8 triệu người. Số người chết liên quan đến sử dụng ma túy trái phép ước tính lên đến từ 104.000 đến 263.000 người mỗi năm trong đó có khoảng một nửa chết do sử dụng ma túy quá liều. Thứ hai, ma túy còn gây mất trật tự xã hội với tệ nạn buôn bán ma túy của các băng đảng tội phạm. Thứ ba, sử dụng ma túy cũng gây tổn thất lớn về kinh tế. Đơn cử như ở Anh năm 2010 có có hơn 13 nghìn người nghiện ma túy, đa phần là nghiện heroin, tiêu phí khoảng 15 tỷ bảng Anh/năm. Nhìn chung tình hình nghiện ma tuý trên thế giới đã và đang ở mức báo động do số lượng người nghiện ra tăng và những ảnh hưởng của nghiện ma tuý đối với các cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, khu vực và quốc tế. 3.2. Tổng quan về nghiện ma tuý ở Việt Nam 3.2.1. Tình hình nghiện ma tuý tại Việt Nam Thứ nhất, nghiện ma tuý ở Việt Nam có xu hướng gia tăng cả về số lượng, địa bàn và thành phần người nghiện. Tính đến tháng 9/2014 cả nước có khoảng 204.000 người nghiện ma túy. So với cuối năm 1994, số người nghiện ma túy đã tăng gần 4 lần với mức tăng xấp xỉ 7.000 người nghiện mỗi năm. Người nghiện ma túy đã có
  17. 63/63 tỉnh, thành phố, khoảng 90% quận, huyện, thị xã và gần 70% xã, phường, thị trấn trên cả nước. Người nghiện cũng đã xuất hiện ở mọi thành phần xã hội: học sinh, sinh viên, cán bộ công chức, người lao động... Trong tổng số người nghiện ma túy: 96% là nam giới, 4% là nữ giới, 74% ở độ tuổi 18-35, có 1% dưới 18 tuổi. Thứ hai, xu hướng chuyển từ sử dụng heroin sang ma tuý tổng hợp tăng dần. Người nghiện sử dụng heroin là 72% và có xu hướng giảm dần, tỷ lệ người sử dụng ma túy trong nhóm kích thích dạng Amphetamin (ATS) ngày càng gia tăng (2,5% năm 2005, 14,5% đến tháng 9/2014). Tại một số địa phương, tỷ lệ học viên trong các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục- Lao động xã hội đã từng sử dụng ma túy tổng hợp cao như: Đà Nẵng 74%, Tây Ninh 61%, Trà Vinh 49%. (Cục PCTNXH năm 2014) Như vậy, có thể thấy tình hình lạm dụng ma túy ở Việt Nam vẫn đang diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng cùng với việc xuất hiện nhiều loại ma túy mới, hình thức sử dụng ma túy không an toàn làm tăng nguy cơ lây nhiễm nhiều căn bệnh xã hội. Đa số người nghiện ma túy có trình độ văn hóa thấp, chưa được đào tạo nghề và không có việc làm ổn định, thường gặp các vấn đề về sức khỏe, kinh tế khó khăn, nhiều người không được sự hỗ trợ của người thân, gia đình. Do vậy, việc cần thiết nhất là hỗ trợ điều trị nghiện nhằm giúp họ từ bỏ sự lệ thuộc ma túy, phục hồi các chức năng xã hội để đảm bảo hòa nhập xã hội bền vững. Hiệu quả của công tác điều trị nghiện ma túy phụ thuộc vào nhiều yếu tố và sự trợ giúp của toàn xã hội. 3.2.2. Những khó khăn mà người nghiện ma tuý ở Việt Nam đang phải đối mặt Sau một quá trình nghiện ma tuý, đối với người nghiện sức khỏe dần dần bị suy sụp. Họ cũng không quan tâm chăm sóc đến sức khỏe bản thân. Bên cạnh đó, các chức năng của cơ quan sinh sản, hộ hấp và nội tiết của họ bị rối loạn. Hiện tượng táo bón, mất ngủ xảy ra thường xuyên. Người nghiện ma tuý thường có những biểu hiện bức xúc về mặt tâm lý muốn sử dụng lại chất gây nghiện, khi lên cơn nghiện, người nghiện khó có thể kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình nên dễ dạng gây ra những tổn thương cho người khác hoặc gây ra những hành động làm ảnh hưởng xấu đến gia đình và người xung quanh. Đặc biệt, do sự tác động của các chất ma tuý đến hệ thần kinh nên người nghiện có hiện tượng loạn thần nhất định. Đặc biệt khi người nghiện sử dụng các loại ma tuý gây ảo giác (ma tuý đá). Các chức năng xã hội của người nghiện bị suy giảm. Mối quan hệ xã hội với gia đình, người thân bị đổ vỡ, người thân không tin tưởng, xua đuổi xa lánh. Bạn bè tốt,
  18. bạn bè cũ cũng không còn giữ mối liên hệ, bị mất lòng tin và xa lánh, xung quanh họ phần lớn là bạn sử dụng ma túy. Địa điểm thường xuyên lui tới là nơi mua ma túy và nơi sử dụng ma túy. Quan hệ chủ yếu với bạn bè nghiện, bị lôi kéo tiếp tục nghiện hơn là được giúp đỡ thoát ra. Khi đã nghiện ma túy, người nghiện dần trở nên ích kỷ và lười biếng. Ma túy làm cho họ dần bị sai lệch về quan điểm, ý thức và thái độ lao động, năng lực, kỹ năng về lao động dần bị mai một, thoái hóa. Người nghiện sử dụng phần lớn thời gian của mình để hưởng thụ cảm giác khoan khoái từ sử dụng ma túy đem lại, lâu dần người nghiện mất khả năng lao động. Do đó, thu nhập của họ từ lao động bị giảm sút hoặc không có. Thêm vào đó chi phí cho ma túy ngày càng tăng, họ luôn gặp khó khăn về tài chính. Đặc biệt, do những hành vi xấu xuất hiện ở một số người nghiện nên họ luôn vấp phải sự kỳ thị, xa lánh từ cộng đồng. Việc người nghiện luôn phải đối mặt với sự kỳ thị làm hạn chế đến việc tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ như: Dịch vụ y tế; dịch vụ điều trị nghiện, các chính sách vay vốn hỗ trợ người sau cai hoà nhập cộng đồng, khó khăn trong tìm kiếm việc làm… CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân biệt khái niệm chất ma túy và chất gây nghiện. 2. Trình bày các loại chất ma túy và chất gây nghiện. 3. Nêu các phương thức sử dụng ma túy. 4. Tác hại của việc lạm dụng ma túy và chất gây nghiện. 5. Phân tích nguyên nhân gây nghiện ma túy ở gốc độ bản thân người nghiện. từ xã hội, từ phía bạn bè cùng lứa tuổi.
  19. BÀI 2: DỰ PHÒNG TÂM LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI LẠM DỤNG CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN Mục tiêu của bài: - Trình bày được những vấn đề tâm lý của người lạm dụng các chất gây nghiện. - Trình bày được các chất gây nghiện hợp pháp và các dạng gây nghiện khác. - Trình bày được các vấn đề tâm lý trong dự phòng đối với các chất gây nghiện. - Hình thành kỹ năng tham vấn tâm lý trong dự phòng đối với các chất gây nghiện. Nội dung chính: 1. Những vấn đề tâm lý về HIV/AIDS 1.1. Hiểu biết chung về HIV/AIDS 1.1.1. Các khái niệm Khái niệm HIV: HIV là virút gây suy giảm miễn dịch ở người, viết tắt từ tiếng Anh: Human Immunodeficiency Viruts. Có hai type Virus là HIV1 và HIV2, cả 2 đều gây bệnh cho người. Người mang HIV trong máu thường được gọi là người nhiễm HIV. Khái niệm về AIDS: AIDS (Acquired Immuno Deficiency Syndrom) là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, do virus HIV gây ra Trước đây bệnh này được gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome d’Immuno Deficience Acquise), nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế Thuỵ Điển SIDA và tên của tổ chức CIDA (Canada) nên sau đó thống nhất gọi là AIDS. AIDS là một bệnh mãn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó cơ thể bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. AIDS được coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Tuy nhiên, mỗi người khi mắc AIDS sẽ có những triệu chứng khác nhau, tuỳ theo loại bệnh nhiễm trùng cơ hội mà người đó mắc phải và khả năng chống đỡ của hệ miễn dịch mỗi người. 1.1.2. Con đường lây truyền HIV/AIDS
  20. Vi rút HIV sống trong tất cả dịch tiết và dịch sinh học của cơ thể người, nhưng tập trung nhiều ở trong máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, và sữa mẹ. Vì vậy mà nguy cơ lây nhiễm HIV từ người này sang người khác qua ba đường sau: đường máu, đường tình dục và đường truyền từ mẹ sang con. - Lây qua đường máu Nồng độ vi rút HIV sống ở trong máu cao nhất trong tất cả các dịch sinh học, nên các vết thương hở khi tiếp xúc trực tiếp với máu người nhiễm HIV thì có khả năng lây nhiễm cao. Virút HIV sẽ theo máu xâm nhập vào cơ thể người khác thông qua việc sử dụng chung bơm kim tiêm, dao cạo, vật sắc nhọn, dụng cụ xuyên qua da, dụng cụ y tế… có dính máu thì dễ có nguy cơ lây nhiễm HIV. Khả năng lây truyền HIV khá cao đối với hành vi sử dụng ma túy bằng đường tiêm chích chung bơm kim tiêm. - Lây qua đường tình dục Khi hoạt động tình dục xâm nhập không sử dụng bao cao su đúng cách, có thể tạo nên những vết trầy xước hoặc bộ phận sinh dục có vết thương hở, đây sẽ là cửa ngỏ cho vi rút HIV từ tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo tiếp xúc và xâm nhập vào cơ thể. Mức độ nguy cơ lây nhiễm HIV từ người này sang người khác qua đường tình dục còn phụ thuộc vào hành vi tình dục. Quan hệ tình dục có xâm nhập giữa dương vật và hậu môn là hành vi nguy cơ cao trong lây nhiễm HIV, vì hậu môn không tiết là dịch nhờn làm chất bôi trơn và thành niêm mạc mỏng vì thế dễ dàng bị xây sát trong quá trình quan hệ nên virut HIV dễ dàng đi vào cơ thể qua những nơi xây sát. Trong những năm gần đây, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nam tình dục đồng giới tăng cao vì quan hệ tình dục không an toàn qua đường hậu môn. Quan hệ tình dục có xâm nhập giữa dương vật và âm đạo là hành vi nguy cơ lây nhiễm cao đứng sau quan hệ tình dục qua hậu môn. Thành niêm mạc mỏng của bộ phận sinh dục nam và nữ dễ dàng bị xây sát trong quá trình quan hệ, chính vì thế mà vi rút HIV theo tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo đi vào cơ thể ở những nơi xây sát. Tình dục đường miệng (miệng tiếp xúc với dương vật hoặc âm đạo): Miệng là môi trường HIV dễ xâm nhập (có trong tinh dịch, tiết dịch âm đạo hoặc trong máu). Người sử dụng miệng nếu đang bị viêm hoặc chảy máu răng lợi, trầy xước trong khoang miệng thì virút HIV có thể từ tinh dịch, dịch tiết âm đạo, máu răng… đi vào các nơi trầy xước xâm nhập vào cơ thể. Hành vi tình dục qua đường miệng nguy cơ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0