intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Luật hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:56

169
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 giáo trình "Luật hình sự" (Giáo trình đào tạo từ xa) gồm: khái niệm và nguyên tắc cơ bản pháp luật hình sự, tội phạm, cấu thành tội phạm, khách thể của tội phạm, mặt khách quan, chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Luật hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Th.S Phạm Thị Huyền Sang GIÁO TRÌNH LUẬT HÌNH SỰ Vinh - 2011 1
  2. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ .................... 4 1. Khái niệm pháp luật hình sự .................................................................................... 4 2. Tính giai cấp của luật hình sự.................................................................................... 6 3. Nhiệm vụ của Luật hình sự ....................................................................................... 7 4. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự.............................................. 8 CHƯƠNG 2: TỘI PHẠM ............................................................................................................................ 11 1. Khái niệm tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam .......................................... 11 2. Phân loại tội phạm...............................................................................................14 3. Tội phạm và các vi phạm pháp luật khác................................................................. 14 CHƯƠNG 3: CẤU THÀNH TỘI PHẠM ....................................................................................... 15 1. Khái niệm cấu thành tội phạm ................................................................................. 15 2. Đặc điểm của cấu thành tội phạm ........................................................................... 17 3. Phân loại tội phạm .................................................................................................... 18 CHƯƠNG 4: KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM ............................................................................ 19 1. Khách thể của tội phạm...................................................................................... 19 2. Đối tượng tác động của tội phạm....................................................................... 20 CHƯƠNG 5: MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM ............................................................. 21 1. Khái niệm................................................................................................................... 21 2. Hành vi khách quan của tội phạm ........................................................................... 22 3. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội ................................................................................ 23 4. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả.......................... 23 5.Những nội dung biểu hiện khác của mặt khách quan của tội phạm ..................... 24 CHƯƠNG 6: CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM .................................................................................... 25 1. Khái niệm................................................................................................................... 25 2. Năng lực trách nhiệm hình sự.................................................................................. 25 3. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự ................................................................................. 27 4. Chủ thể đặc biệt của tội phạm .................................................................................. 27 CHƯƠNG 7: MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM .................................................................... 29 1. Khái niệm............................................................................................................. 29 2. Lỗi .............................................................................................................................. 29 3. Động cơ và mục đích phạm tội ................................................................................. 30 CHƯƠNG 8: CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM........................................31 1. Khái niệm................................................................................................................... 32 2. Chuẩn bị phạm tội ..................................................................................................... 32 3. Phạm tội chưa đạt ..................................................................................................... 33 4. Tội phạm hoàn thành................................................................................................ 34 5. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ................................................................. 34 CHƯƠNG 9: ĐỒNG PHẠM .............................................................................................................. 35 1. Khái niệm đồng phạm ............................................................................................... 35 2. Các loại người đồng phạm ........................................................................................ 36 3. Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm ........................................................ 37 CHƯƠNG 10 : NHỮNG TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TÍNH NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA HÀNH VI ....................................................................................................................................... 39 1. Khái niệm chung................................................................................................. 39 2. Phòng vệ chính đáng................................................................................................. 39 3. Tình thế cấp thiết .................................................................................................40 CHƯƠNG 11: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT...............................41 1. Trách nhiệm hình sự................................................................................................. 41 2
  3. 2. Hình phạt ................................................................................................................... 43 CHƯƠNG 12: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT .................................................................................. 46 1. Các căn cứ quyết định hình phạt.............................................................................. 46 2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án.... 47 CHƯƠNG 13: CÁC CHẾ ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT ........... 49 1. Thời hiệu thi hành bản án ........................................................................................ 49 2. Miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt .............................................................. 50 3. Án treo ....................................................................................................................... 51 CHƯƠNG 14: TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ........ 53 1. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội................................................. 53 2. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội............. 54 3. Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội........................... 54 CHƯƠNG 15: CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA ............................................. 57 1. Khái niệm chung về các tội xâm phạm an ninh quốc gia ....................................... 57 2. Các tội phạm cụ thể............................................................................................ 57 CHƯƠNG 16: CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, DANH DỰ NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI ................................................................................................................... 65 1. Khái niệm chung ....................................................................................................... 65 2. Các tội xâm phạm tính mạng của con người .....................................................65 2. Các tội xâm phạm sức khỏe ..................................................................................... 70 3. Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người ......................................... 70 CHƯƠNG 17: CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU ....................................................................... 74 1. Khái niệm chung ....................................................................................................... 74 2. Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ................................................. 74 3. Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt ...................................... 77 CHƯƠNG 18: CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ......................... 79 1. Khái niệm................................................................................................................... 79 2. Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân ......................................................................... 79 CHƯƠNG 19:CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ......................................................................................................................................................... 82 1. Các tội xâm phạm an toàn công cộng ...................................................................... 82 2. Các tội xâm phạm trật tư công cộng................................................................ 96 CHƯƠNG 20 : CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH.........101 1.Khái niệm.................................................................................................................. 101 2. Các tội phạm cụ thể................................................................................................. 101 CHƯƠNG 21: CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY........................................................................... 111 1. Khái niệm chung ..................................................................................................... 111 2. Một số tội phạm cụ thể ............................................................................................ 111 CHƯƠNG 22: CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ ........................................................................ 113 1. Khái niệm và những đặc điểm chung của các tội phạm về chức vụ............... 113 2. Các tội phạm về tham nhũng .................................................................................. 113 CHƯƠNG 23: CÁC TỘI XÂM PHẠM HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP ....................................... 116 1. Những vấn đề chung ............................................................................................... 117 2. Một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp................................................................ 117 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................... 120 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT XHCN Xã hội chủ nghĩa TP Tội Phạm 3
  4. CTTP Cấu thành tội phạm BLHS Bộ luật Hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự HP Hình phạt HĐTP Hội đồng Thẩm phán VKSND Viện kiểm sát nhân dân TAND Tòa án nhân dân CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Định nghĩa Luật hình sự được xem là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người và giữ một vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. 4
  5. Xuất hiện ngay từ thời cổ đại và sớm nhất so với tất cả các ngành luật khác trong các hệ thống pháp luật trên thế giới, tên gọi của luật hình sự đã có cội nguồn lịch sử rất lâu đời. Chẳng hạn như: Luật hình sự theo tiếng latinh cổ là “crimen” (tội phạm) – luật về tội phạm và “poena” (hình phạt) – luật về hình phạt. Luật hình sự theo tiếng Nga là luật về trách nhiệm phải trả bằng đầu (hay tính mạng, cuộc sống của người phạm tội), vì trong các di tích pháp lý của nước Nga cổ (ví dụ: các Điều 26, 96- 98 Bảng tòa Pxkops) thì nội dung của trách nhiệm phải trả bằng đầu thường gắn liền với trách nhiệm của chủ thể hành vi nào đó mà cội nguồn của trách nhiệm ấy chính là sự “giết chết” hoặc “trả thù bằng máu”. Trong tiếng Anh, ngành luật hình sự thường được gọi là “Criminal Law” (ngành luật về tội phạm), tiếng Pháp là “Droit Criminel” và tiếng Đức là “Criminalrecht” (ngành luật về hình phạt). Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước sử dụng nhiều biện pháp vừa có tính thuyết phục vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm. Khi sự vi phạm có tính nguy hiểm cho xã hội chưa cao, nhà nước có thể chỉ sử dụng các chế tài hành chính, dân sự… Nếu sự vi phạm đã mang tính nguy hiểm cao đối với xã hội (như giết người, cướp tài sản, phả hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia...) thì nhà nước phải dùng biện pháp xử lý mạnh mẽ và nghiêm khắc nhất – biện pháp hình sự. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam về cơ bản khái niệm luật hình sự được hiểu là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy. Trong hệ thống pháp luật nước CHXHCN Việt Nam chỉ có luật hình sự mới quy định tội phạm và hình phạt. Các quy phạm pháp luật được chia làm hai loại: Loại quy phạm quy định nguyên tắc, nhiệm vụ của luật hình sự, những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt. Những quy phạm này hợp thành phần chung của Luật hình sự. Loại quy phạm quy định dấu hiệu pháp lý của những tội phạm cụ thể: quy định loại và mức hình phạt có thể áp dụng đối với các tội phạm ấy. Những quy phạm này hợp thành phần các tội phạm của Luật hình sự. Phần chung và phần các tội phạm liên quan mật thiết với nhau. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH 2.1. Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh của bất kỳ một ngành luật nào cũng là những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Mọi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng, phù hợp với đặc điểm của từng ngành luật. Sự khác nhau về đối tượng điều chỉnh xuất phát từ sự khác nhau về chức năng của các ngành luật. Luật hình sự là ngành luật quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đồng thời quy định hình phạt có thể áp dụng đối với những người đã thực hiện những hành vi ấy. Luật hình sự không điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội như các ngành luật khác (luật nhà nước, luật hành chính...). Nó chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh khi có tội phạm xảy ra. Về mặt pháp lý, các quan hệ xã hội phát sinh do việc thực hiện tội phạm được coi là những quan hệ pháp luật hình sự. Trong quan hệ pháp luật hình sự, có hai chủ thể với những vị trí khác nhau: Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự với tư cách là người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nước có quyền truy tố, xét xử người 5
  6. phạm tội, buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra. Mặt khác, với tư cách là người duy trì công lý, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, dù về mặt hình sự, người đó đã bị coi là người phạm tội. Trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm, quyền chủ thể của Nhà nước trong quan hệ pháp luật hình sự do các cơ quan đại diện của Nhà nước thực hiện. Đó là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Thứ hai, Người phạm tội – người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà nhà nước áp dụng đối với mình và mặt khác họ có quyền yêu cầu Nhà nước bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự Việt nam là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Thông qua việc điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh do việc thực hiện tội phạm, luật hình sự Việt nam tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ phát triển, tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm. Bằng cách đó, luật hình sự Việt Nam góp phần vào việc thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội do Nhà nước đề ra. 2.2. Phương pháp điều chỉnh Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức mà Nhà nước sử dụng trong pháp luật để tác động tới cách xử sự của những người tham gia các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của ngành luật ấy. Luật hình sự điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự bằng phương pháp quyền uy. Đó là phương pháp sử dụng quyền lực nhà nước trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội được coi là người trực tiếp có quyền buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm mà họ gây ra. Việc buộc phải chịu TNHS này được thực hiện bằng việc sử dụng quyền lực nhà nước. Nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp hình sự (chế tài hình sự) đối với người phạm tội mà không bị bất kỳ sự cản trở nào của cá nhân hay của xã hội. Do thực hiện hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại cho các lợi ích xã hội được Nhà nước bảo hộ và bị luật hình sự coi là tội phạm, người phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tội phạm đã gây ra. Họ phải chấp hành hình phạt mà Nhà nước áp dụng đối với họ. Trách nhiệm về tội phạm đã gây ra là trách nhiệm thuộc về cá nhân người phạm tội. Trách nhiệm đó phải do chính người phạm tội gánh chịu một cách trực tiếp, chứ không thể chuyển hay ủy thác cho người nào khác. 2.3. Tính giai cấp của Luật hình sự Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở chỗ pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị hay lữ lượng cầm quyền trong xã hội được nân lên thành luật. Nó mang theo ý chí của giai cấp thống trị lên các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhắm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, quyền lợi của giai cấp thống trị. Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở chỗ pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội được nâng lên thành luật. Nó mang theo ý chí của giai cấp thống trị lên các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, quyền lợi của giai cấp thống trị. Pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Ngay từ khi mới ra đời, luật hình sự đã là vũ khí sắc bén của giai cấp thống trị trong cuộc đấu tranh duy trì quyền lực Nhà nước và trật tự xã hội do giai cấp thống trị đã đề ra. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, luật hình sự mang tính chất đàn áp dã man thông qua việc quy định hình phạt ngũ hình như lăng trì, giảo hình, khiêu hình, xuy hình, trượng hình... để bảo vệ và duy trì lợi ích của giai cấp thống trị. Điều này được thể hiện rất rõ trong Bộ luật Gia Long, bộ luật Hồng Đức của chế độ phong kiến Việt Nam. Nhà vua là người có quyền lực tối thượng, là người ban hành và có quyền “đứng trên” pháp luật. 6
  7. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, thực hiện chính sách chia để trị, chúng đã chia nước ta làm Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ở mỗi nơi, chúng ban hành một bộ luật hình sự khác nhau như Bộ luật hình sự Bắc kỳ năm 1923, Bộ luật hình sự Trung kỳ năm 1933. Điều đó chính là sự thể hiện bản chất của pháp luật hình sự thông qua mục đích của giai cấp thống trị trong thời kỳ này. Dưới thời Mỹ - ngụy, chính quyền ngụy tay sai đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự mang tính phát xít cao độ nhằm khủng bố những người cộng sản Việt Nam, đàn áp phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985, 1999 là công cụ sắc bén của nhân dân Việt Nam trong quá trình xây dựng một nước Việt Nam độc lập, giàu mạnh và có chủ quyền. Đây là văn bản quy phạm pháp luật thể hiện bản chất giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Đấu tranh với tội phạm là nhiệm vụ tất yếu khách quan đặt ra cho mọi nhà nước, không phân biệt đó là kiểu nhà nước nào, từ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản hay đến nhà nước xã hội chủ nghĩa. Luật hình sự Việt Nam là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. 3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT HÌNH SỰ Nhiệm vụ của pháp luật luôn được cụ thể hóa trong nhiệm vụ của các ngành luật. Xuất phát từ đặc điểm riêng của mình, luật hình sự Việt nam có nhiệm vụ “bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 1 BLHS năm 1999). Căn cứ vào điều luật nêu trên có thể khái quát pháp luật hình sự Việt nam có ba nhiệm vụ không tách rời nhau. Đó là: - Nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức; bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. - Nhiệm vụ đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. - Nhiệm vụ giáo dục mọi người nâng cao ý thức tuân theo pháp luật, nâng cao ý thức chống và phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ của pháp luật hình sự xuất phát từ các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, các nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước Cộng hòa XHCN trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, trong giai đoạn 1945- 1954, pháp luật hình sự Việt Nam đã đảm nhận nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là bằng mọi cách phải bảo vệ chính quyền còn non trẻ mới thiết lập, góp phần phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trừng trị bọn Việt gian phản động làm tay sai cho thực dân. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó thông qua hàng loạt các văn bản hình sự ra đời trong giai đoạn này, như: Sắc lệnh số 211/SL ngày 13/4/1946 trừng trị những hành vi có phương hại đến nền độc lập dân tộc; Sắc lệnh số 150/SL ngày 14/4/1953 trừng trị bọn phản cách mạng, bọn địa chủ cường hào ngoan cố… Trong giai đoạn 1954- 1975, nhiệm vụ của luật hình sự đã thay đổi. Trong giai đoạn này, luật hình sự có nhiệm vụ “trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất đất nước”, góp phần xây dựng CNXH ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Điều này được thể hiện trong các văn bản pháp luật hình sự như: Sắc lệnh số 01/SL ngày 19/4/1975 trừng trị các hành vi đầu cơ; Pháp lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị những hành vi phản cách mạng… Trong giai đoạn hiện nay, pháp luật hình sự Việt Nam có nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, thể hiện tập trung tại Điều 1 BLHS năm 1999. 7
  8. 4. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự chính là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dụng và áp dụng các quy định của luật hình sự vào đấu tranh phòng chống tội phạm. Đó là những nguyên tắc được xây dựng dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam được chia thành hai nhóm: nhóm các nguyên tắc pháp lý chung và nhóm các nguyên tắc pháp lý đặc thù. Cụ thể, các nguyên tắc chung đó là: nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc nhân đạo và các nguyên tắc đặc thù đó là: nguyên tắc hành vi, nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc phân hóa TNHS. 4.1. Nguyên tắc pháp chế XHCN Nguyên tắc pháp chế XHCN là nguyên tắc quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nói đến pháp chế tức là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Pháp chế XHCN là yếu tố quan trọng của quá trình đổi mới pháp luật ở Việt Nam. Trong lĩnh vực luật hình sự, nguyên tắc pháp chế XHCN được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng cũng như áp dụng luật hình sự. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: - Bất kỳ một hành vi nào chỉ bị coi là tội phạm và bị trừng phạt bằng chế tài pháp lý hình sự và các hậu quả pháp lý hình sự khác của việc thực hiện hành vi đó chỉ và phải do Bộ luật Hình sự - đạo luật hình sự có hiệu lực pháp lý cao nhất trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự (chứ không thể do bất kỳ một văn bản nào khác) quy định. - Các căn cứ của việc quyết định hình phạt cụ thể cho người phạm tội phải được quy định thống nhất bởi quy phạm pháp luật hình sự. - Việc thực hiện pháp luật hình sự nhất thiết phải trên cơ sở tuân thủ, chấp hành và áp dụng nghiêm chỉnh, nhất quán các quy phạm pháp luật hình sự; - Không được áp dụng luật hình sự theo nguyên tắc tương tự. Nguyên tắc này thể hiện ở nhiều quy phạm khác nhau trong BLHS: Điều 1, 2, 22, 23, 45... Ý nghĩa của nguyên tắc này là nó không chỉ góp phần cụ thể hóa trong BLHS nguyên tắc hiến định của Hiến pháp Việt Nam (khoản 1 điều 12) mà còn phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại “không có tội phạm, không có hình phạt nếu điều đó không được luật quy định” đã được thể hiện trong 2 văn bản quốc tế về nhân quyền của LHQ mà Việt nam đã ký kết và cam kết thực hiện1 - Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 (điểm 2 điều 11) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 (khoản 1 điều 15) chống lại nguyên tắc tương tự như là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính trạng vô pháp luật, xâm phạm thô bạo các quyền và tự do của công dân. Để đảm bảo pháp chế XHCN, các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử khi tiến hành các hoạt động của mình phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Chỉ khi nào có cơ sở để khẳng định hành vi của con người có các dấu hiệu của tội phạm đã được quy định trong luật hình sự thì mới tiến hành các biện pháp điều tra, truy tố và xét xử đối với họ. Mọi sự tùy tiện trong điều tra, truy tố và xét xử đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng pháp chế XHCN. 4.2. Nguyên tắc dân chủ XHCN Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, sự tham gia của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong luật hình sự, nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiện ở những điểm sau: 1 Xem: Các văn kiện quốc tế về quyền con người (Xuất bản lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung).Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 175 – 202. 8
  9. - Luật hình sự bảo vệ và tôn trọng các quyền dân chủ của công dân trong tất cả các mặt của đời sống, kiên quyết xử lý các hành vi xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Quyền lợi của công dân đều được bảo vệ như nhau, không phân biệt nòi giống, dân tộc, thành phần xuất thân, địa vị xã hội, tình trạng tài sản (điều 3). - Luật hình sự không phân biệt đối xử, không quy định những đặc quyền, đặc lợi cho riêng tầng lớp công dân nào đó vì địa vị xã hội hoặc vì tình trạng tài sản của họ. - Luật hình sự đảm bảo cho nhân dân lao động tự mình hay thông qua các tổ chức xã hội tham gia vào việc xây dựng và áp dụng luật hình sự, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Khi nói đến nguyên tắc dân chủ XHCN, không thể không nói đến mặt thứ hai của nguyên tắc này đó là mặt chuyên chính. Theo quan điểm của luật hình sự Việt Nam, chuyên chính với người phạm tội không có nghĩa là xử nặng hay quy về hình sự mọi sự vi phạm pháp luật. Mặt chuyên chính của nguyên tắc này thể hiện ở các điểm: - Xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội, đặc biệt đối với những trường hợp cố ý phạm tội, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước, cho xã hội và cho công dân. - Luật hình sự chuyên chính đối với kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chuyên chính với các phần tử phạm tội có tổ chức, có hệ thống, không chịu cải tạo để trờ thành công dân có ích cho xã hội đồng thời khoan hồng đối với người nhất thời phạm tội, phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt. Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc dân chủ XHCN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Nó không chỉ góp phần cụ thể hóa trong BLHS nguyên tắc hiến định của Hiến pháp Việt Nam năm 1992 về sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật mà còn phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại về sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc này góp phần phát huy hiệu quả của luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm, duy trì công lý xã hội. Nguyên tắc dân chủ XHCN góp phần định hướng phát triển của luật hình sự nói chung và hoạch định các chính sách hình sự nói riêng. 4.3. Nguyên tắc nhân đạo XHCN Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo XHCN luôn được thể hiện rõ nét trong chính sách hình sự của Nhà nước. Khi nói đến nhiệm vụ của pháp luật hình sự người ta thường nói đến mặt trừng trị của nó. Sự thật thì trong chế độ xã hội nào cũng vậy, Nhà nước khi ban hành luật hình sự không phải chỉ nhằm mục đích áp dụng luật để trừng trị những người phạm tội mà nhà nước muốn sử dụng luật hình sự như là phương tiện phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên, tùy tính chất cúa từng chế độ mà ý nghĩa của việc phòng ngừa được đặt ra khác nhau. Trong các chế độ cũ ở Việt Nam, nhà nước dựa vào luật hình sự để thị uy, đe dọa hòng gây tâm lý sợ tù tội trong nhân dân. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phòng ngừa tội phạm trước hết bằng cách phổ biến luật hình sự rộng rãi trong nhân dân, giáo dục nhân dân tự giác tuân thủ pháp luật và tích cực đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Đối với người phạm tội, việc áp dụng hình phạt trong luật hình sự Việt Nam chủ yếu là nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam không nhằm gây đau đớn về thể xác và không nhằm hạ thấp phẩm giá của con người. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này thể hiện: Luật hình sự Việt Nam khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. Luật hình sự Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo)... 9
  10. Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam có nhiều loại hình phạt không tước tự do. Hình phạt tù chung thân và tử hình chỉ được phép áp dụng trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất định: hình phạt tù chung thân và tử hình không được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội... 4.4. Nguyên tắc hành vi Luật hình sự Việt Nam thừa nhận nguyên tắc hành vi là nguyên tắc của ngành luật này xuất phát từ quan điểm đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là hành vi của con người. Những gì mới chỉ thể hiện trong suy nghĩ, tư tưởng mà chưa phải là hành vi thì không thể là tội phạm. Do đó, luật hình sự Việt Nam không cho phép truy cứu TNHS một người về suy nghĩ, tư tưởng của họ mà chỉ có thể truy cứu TNHS đối với hành vi của họ khi hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu được luật hình sự quy định. 4.5. Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi là nguyên tắc xuyên suốt luật hình sự Việt Nam. Theo đó, luật hình sự Việt Nam không cho phép buộc tội khách quan. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là không ai phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng như về việc gây nên hoặc đe dọa thực tế gây nên thiệt hại cho các lợi ích được bảo vệ bằng pháp luật hình sự mà không phải do lỗi của mình, tức là hành vi đó bị coi là phạm tội chỉ trong trường hợp nó được người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định và mặc dù về mặt chủ quan hoàn toàn có khả năng tự lựa chọn cho mình một cách xử lý hợp pháp, nhưng đã không lựa chọn cách xử sự hợp pháp mà đã thực hiện hành vi đó một cách có lỗi – đã có thái độ tâm lý thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây nên. 4.6. Nguyên tắc phân hóa TNHS Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong pháp luật hình sự thể hiện việc quy định đường lối xử lí có phân biệt đối với các loại trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự góp phần hiện thực chức năng giáo dục của luật hình sự. Chức năng giáo dục đối với người phải tội chỉ có ý nghĩa khi hình phạt áp dụng cho người phạm tội cụ thể phải tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã gây ra và phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của người phạm tội. Nguyên tắc này thể hiện ở các quy định về các loại tội phạm và các hình phạt, thể hiện trong cơ cấu của từng khoản trong mọi điều luật của phần các tội phạm... CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Câu 1: Phân tích khái niệm Luật hình sự Việt Nam. Câu 2: Tại sao nói Luật hình sự là một ngành luật độc lập? Câu 3: Trình bày nhiệm vụ của Luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Câu 4: Phân tích các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự Việt Nam. 10
  11. CHƯƠNG 2 TỘI PHẠM 1. ĐỊNH NGHĨA Tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu của luật hình sự. Điều 8 BLHS năm 1999 đã định nghĩa khái niệm tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN”. Định nghĩa tội phạm trên đây là định nghĩa có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Nội dung của khái niệm tội phạm đã thể hiện một cách rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị xã hội cũng như những đặc điểm pháp lí của luật hình sự. Từ định nghĩa đầy đủ này, có thể định nghĩa tội phạm một cách khái quát như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. 2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM Tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, phải là hành vi của con người. Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua bốn dấu hiệu. Đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt. 2.1. Tính nguy hiểm cho xã hội Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm, bởi nó là thuộc tính và là nội dung của tội phạm. Hành vi nào đó sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội mà không hề phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà làm luật. Tính nguy hiểm cho xã hội, về khách quan có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Bất kỳ một hành vi nào vi phạm các chuẩn mực chung của xã hội cũng có tính nguy hiểm. Tuy nhiên, so với các hành vi vi phạm khác, tội phạm có tính nguy hiểm “đáng kể” hơn cả, bởi nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Những hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt nam phải là những hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội đã được luật xác định. Đó là những quan hệ xã hội có tính tương đối quan trọng hoặc quan 11
  12. trọng và khi bị xâm hại có thể gây ra những thiệt hại hoặc những ảnh hưởng đáng kể cho điều kiện tồn tại và phát triển của chế độ XHCN (Điều 8 BLHS năm 1999). Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với những hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa TNHS được chính xác. Đế khẳng định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì phải nhìn nhận, đánh giá tổng thể nhiều tình tiết khác nhau của hành vi hoặc có liên quan đến hành vi ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Những tình tiết đó bao gồm: Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại: Hành vi nào xâm hại đến các quan hệ xã hội có vai trò càng quan trọng thì càng nguy hiểm. Ví dụ: các tội phạm xâm phạm quan hệ nhân thân (tính mạng, sức khỏe) rõ ràng nguy hiểm hơn các tội phạm xâm phạm quan hệ sở hữu. Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm cả tính chất của phương pháp, thủ đoạn, của công cụ và phương tiện phạm tội. Chẳng hạn: Công cụ, phương tiện càng hiện đại, thủ đoạn càng tinh vi thì tội phạm càng nguy hiểm. Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho quan hệ xã hội bị xâm hại. Ví dụ: Các tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia (khách thể là độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ) thì gây ra thiệt hại lớn hơn các tội phạm xâm phạm sở hữu (khách thể là quyền sở hữu). Tính chất và mức độ lỗi. Ví dụ: Hành vi phạm tội với lỗi cố ý bao giờ cũng có tính nguy hiểm cao. Hành vi phạm tội với lỗi vô ý thường ít nguy hiểm hơn (ngoại trừ một số hành vi xâm hại đến các khách thể đặc biệt quan trọng như tội vô ý làm lộ bí mật Nhà nước…). Động cơ, mục đích của người có hành vi phạm tội. Ví dụ: Hành vi giết người vì mục đích đoạt vợ của người khác thì khác với hành vi giết người vì trừ hại cho dân nên giết kẻ lưu manh. Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh chính trị - xã hội nơi hành vi phạm tội xảy ra; Nhân thân của người có hành vi phạm tội, mức độ lan rộng trong xã hội của loại hành vi. 2.2. Tính có lỗi Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận hình thức quy tội khách quan, tức là không chấp nhận quy tội đối với một người mà chỉ căn cứ vào hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ chứ không xem xét hành vi đó có lỗi hay không. Vậy khi nào thì một người bị xem là có lỗi? Một người chỉ bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Trong BLHS, tính có lỗi được nêu trong định nghĩa về tội phạm là dấu hiệu độc lập với tính nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải để tách tính có lỗi ra khỏi tính nguy hiểm cho xã hội mà để nhấn mạnh tính chất quan trọng của tính có lỗi. Khi xác định hành vi có phải là tội phạm hoặc không phải là tội phạm, chúng ta cần dựa trên cơ sở thống nhất các yếu tố khách quan và chủ quan. Chúng ta áp dụng hình phạt không phải để trừng trị hành vi mà để trừng trị người thực hiện tội phạm nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt sẽ không đạt được mục đích nếu hình phạt được áp dụng cho người không có lỗi. 2.3. Tính trái pháp luật hình sự 12
  13. Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn toàn thể giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc khẳng định: “Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm”. Theo Điều 8 BLHS2, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu “...được quy định trong BLHS”. Như vậy, tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm, không chỉ quy định trong luật hình sự Việt Nam mà được quy định trong luật hình sự của tất cả các nước trên thế giới. Tính trái pháp luật hình sự theo cách hiểu của luật hình sự Việt Nam hiện hành là hành vi phạm tội trái với quy định của Bộ luật hình sự. Việc quy định tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm được thống nhất, bảo đảm cho quyền dân chủ của công dân khỏi bị xâm phạm bởi hành vi xử lý tùy tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Giữa hai dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và tính trái pháp luật hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính khách quan, biểu hiện nội dung của tội phạm. Tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu biểu hiện hình thức pháp lý của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nếu bỏ qua tính trái pháp luật hình sự mà chỉ coi trọng tính nguy hiểm cho xã hội sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện trong việc xác định tội phạm. Việc xác định tội danh và mức độ xử lý sẽ không được thống nhất. Nhưng ngược lại, nếu quá coi trọng tính trái pháp luật hình sự sẽ dẫn đến tình trạng xác định tội phạm một cách hình thức, máy móc. Dù một hành vi có tính nguy hiểm cao đến đâu nhưng chưa được quy định trong luật hình sự thì cũng chưa thể bị coi là tội phạm. Khoản 4 điều 8 BLHS đã quy định “những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm...” 2.4. Tính phải chịu hình phạt Tính phải chịu hình phạt không phải thuộc tính bên trong của tội phạm mà là dấu hiệu biểu hiện hệ quả tất yếu của tội phạm, chỉ có tội phạm mới có thể chịu hình phạt, và ngược lại, một hành vi dù nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải là tội phạm thì không thể có đặc điểm này. Hành vi bị coi là tội phạm vì về nội dung, có tính nguy hiểm cho xã hội và về hình thức, có tính trái pháp luật hình sự chứ không phải vì nó có tính chịu hình phạt. Ngược lại, hành vi sở dĩ có tính chịu hình phạt vì là tội phạm – vì nguy hiểm cho xã hội và trái pháp luật hình sự. Như vậy, tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính chất này không những chỉ thể hiện ở chỗ chỉ hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt mà còn thể hiện ở chỗ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở cho việc cụ thể hóa tính chịu hình phạt trong từng trường hợp phạm tội cụ thể. Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm cho xã hội đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc áp dụng và thi hành trong thực tế hình phạt cụ thể là có tính chất bắt buộc tuyệt đối cho mọi trường hợp phạm tội. Trên thực tế, có những trường hợp có hành vi phạm tội những không bị áp dụng hình phạt. Đó là những trường hợp có tội nhưng được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt...3 Như vậy, việc không áp dụng hình phạt trong trường hợp đó là không áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chứ không phải tội phạm đó không có kèm theo hình 2 Tính trái pháp luật hình sự không chỉ được thể hiện ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. 3 Những trường hợp này được quy định ở Chương 12 và 15 13
  14. phạt được quy định trong BLHS. Mọi hành vi khác không phải là tội phạm thì không có nguy cơ đe dọa bị áp dụng hình phạt. 3. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM Phân loại tội phạm trong luật hình sự là chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm thành từng loại (nhóm) nhất định theo những tiêu chí này hoặc những tiêu chí khác để làm tiền đề cho việc cá thể hóa TNHS và hình phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt. Trong luật hình sự Việt Nam, hình thức phân loại tội phạm dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là hình thức phân loại cơ bản và quan trọng nhất. Phân loại tội phạm dựa vào tiêu chí này là cơ sở cho việc phân hoá và cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và người phạm tội. Theo đó, khoản 2 và khoản 3 Điều 8 BLHS chia tội phạm ra thành 4 loại: 3.1. Tội phạm ít nghiêm trọng Là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù. Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS); tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 BLHS); tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (Điều 125 BLHS)... 3.2. Tội phạm nghiêm trọng Là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù. Ví dụ: Tội lây truyền HIV cho người khác thuộc khoản 2 Điều 117, tội cưỡng dâm thuộc khoản 1 Điều 113, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc khoản 2 Điều 139... 3.3 .Tội phạm rất nghiêm trọng Là tội gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù. Ví dụ: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc khoản 2, khoản 3 Điều 156; Tội ra quyết định trái pháp luật thuộc khoản 3 Điều 296... 3.4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng Là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Ví dụ: Tội gián điệp thuộc khoản 1 Điều 80 BLHS... Cần nói thêm rằng, phân loại tội phạm thành bốn nhóm như trên là hình thức phân loại dựa vào nội dung chính trị - xã hội của tội phạm. Về bản chất, để phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì nhà làm luật vẫn phải dựa vào căn cứ duy nhất là tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Theo quy định tại khoản 4 Điều 8 BLHS thì những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng biện pháp khác. Ví dụ: Hành vi cố ý gây thương tích nhưng tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng không thuộc một trong các trường hợp: dùng hung khí nguy hiểm, gây cố tật nhẹ cho nạn nhân... Những điều luật của BLHS mà việc áp dụng đòi hỏi phải có sự xác định ranh giới giữa các nhóm tội phạm với nhau (tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) là những điều luật về nguyên tắc xử lý, về tuổi chịu TNHS, về thời hiệu, về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp... 4. TỘI PHẠM VÀ CÁC VI PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC Sự khác nhau giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác: Tiêu chí phân biệt Tội phạm Các vi phạm PL khác 1. Về nội dung chính trị - Những hành vi có tính nguy Cũng có tính nguy hiểm cho xã hội hiểm “đáng kể” cho xã hội xã hội nhưng chưa “đáng kể” cho xã hội 14
  15. 2. Về mặt hình thức pháp Được quy định trong Bộ luật Quy định trong các văn bản lý hình sự. Đây là căn cứ đầu pháp luật khác tiên để xác định hành vi có phải là tội phạm hay không 3. Về mặt hậu quả pháp Bị xử lý bằng biện pháp Bị xử lý bằng biện pháp lý cưỡng chế nghiêm khắc nhất cưỡng chế ít nghiêm khắc của Nhà nước (hình phạt) hơn CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Câu 1: Phân tích các đặc điểm của tội phạm. Câu 2: Phân tích tính có lỗi của tội phạm. Câu 3: Dựa vào cách phân loại tội phạm được quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS, anh (chị) hãy phân loại tội phạm đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 BLHS. Câu 4: A đã bị tòa án xử phạt 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Hỏi: A phạm tội gì theo cách phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS? Giải thích tại sao? Câu 5: Phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm khác. CHƯƠNG 3 CẤU THÀNH TỘI PHẠM 1. KHÁI NIỆM CẤU THÀNH TỘI PHẠM 15
  16. 1.1. Các yếu tố của tội phạm - Khách thể của tội phạm: là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ. Không có sự xâm hại quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm. Ví dụ: Tội giết người xâm phạm quan hệ nhân thân, trộm cắp tài sản xâm phạm quan hệ sở hữu… - Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, ở những tội nhất định, còn đòi hỏi chủ thể phải có các dấu hiệu khác, thể hiện những đặc điểm nhất định của chủ thể. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải có chủ thể. Không có chủ thể của tội phạm thì không có tội phạm. - Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những điều kiện bên ngoài khác (công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…). Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải có những biểu hiện bên ngoài. Không có những biểu hiện bên ngoài thì không có những yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. - Mặt chủ quan của tội phạm: là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm: lỗi , mục đích và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng là hành vi có lỗi (cố ý hoặc vô ý). Động cơ và mục đích phạm tội là nội dung biểu biện của mặt chủ quan ở một số tội nhất định. Tóm lại, theo luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, dù bị quy định bởi hình phạt tới chung thân, tử hình hay chỉ là cảnh cáo, phạt tiền cũng đều là thể thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan – giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Sự thống nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính trị - xã hội cúa tội phạm. Mỗi yếu tố trên đây đều có mặt quan trọng của nó. Trong hành vi phạm tội cụ thể, yếu tố nào đó có thể ảnh hưởng đến tính nghiêm trọng của tội phạm nhiều hơn các yếu tố khác. Nhưng điều đó không có nghĩa là các yếu tố khác không quan trọng. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm có liên quan với nhau và tổng hợp lại cùng quyết định tính nguy hiểm của tội phạm. Trong thực tế, mỗi yếu tố chỉ tồn tại với tư cách là bộ phận cấu thành của thể thống nhất là tội phạm. Thiếu bất kỳ yếu tố nào cũng không có tội phạm. 1.2. Khái niệm cấu thành tội phạm Cấu thành tội phạm là một khái niệm chung nhất được các nhà luật học rút ta từ khái niệm tội phạm và nhiều quy định của phần chung cũng như quy định về từng tội phạm cụ thể của pháp luật hình sự. Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Với nội dung này, cấu thành tội phạm được coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự. Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm là những dấu hiệu phản ánh nội dung các yếu tố của tội phạm. Nói như vậy không có nghĩa là mọi tội phạm đều phải thỏa mãn hết tất cả các yếu tố của cấu thành tội phạm. Có hai loại nhóm dấu hiệu cấu thành tội phạm là nhóm cấu thành tội phạm bắt buộc và nhóm dấu hiệu cấu thành tội phạm không bắt buộc. Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm là: Dấu hiệu hành vi (mặt khách quan của tội phạm); Dấu hiệu lỗi (mặt chủ quan của tội phạm); Dấu hiệu năng lực TNHS và độ tuổi (chủ thể của tội phạm); 16
  17. Dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại (khách thể của tội phạm). Đây là những dấu hiệu mà nếu thiếu một trong số đó thì hành vi sẽ không cấu thành tội phạm. Ví dụ, một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, có lỗi nhưng không có NLTNHS và độ tuổi chịu TNHS thì hành vi của anh ta cũng không bị coi là tội phạm. Ngoài những dấu hiệu kể trên, những dấu hiệu khác của bốn yếu tố cấu thành tội phạm đều là những dấu hiệu không bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm như dấu hiệu hậu quả, mục đích, động cơ phạm tội... Ví dụ: tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285 BLHS) cần phải có dấu hiệu “hậu quả nghiêm trọng” mới cấu thành tội phạm. Hay tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282 BLHS) cần có dấu hiệu động cơ “vì vụ lợi” mới cấu thành tội phạm. Cần phân biệt cấu thành tội phạm với phần quy định trong điều luật Phần các tội phạm của BLHS. Đa số các dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể được tìm thấy trong các quy định của phần các tội phạm cụ thể, như dấu hiệu hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm, quan hệ xã hội bị xâm hại, lỗi... Chẳng hạn, Điều 78 BLHS quy định tội phản bội Tổ quốc với các dấu hiệu cấu thành tội phạm là quan hệ xã hội bị xâm hại (độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), hành vi phạm tội (câu kết với nước ngoài...), lỗi (cố ý). Phần quy định trong điều luật của phần các tội phạm của BLHS chỉ là nội dung chủ yếu của cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm bao gồm phần quy định này và những nội dung có tính chất chung cho các tội đã được quy định trong phần chung của BLHS (như quy định về tuổi chịu TNHS, về năng lực TNHS, về nội dung của các loại lỗi...). Ví dụ, trong tội phạm trên, dấu hiệu cấu thành tội phạm được tìm thấy trong phần chung tại Điều 13 BLHS là chủ thể phải có năng lực TNHS, tại Điều 12 yêu cầu chủ thể phải từ đủ 14 tuổi trở lên (nếu tội phạm được định khung tại khoản 1 Điều 78 BLHS) 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM 2.1. Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định Việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm phải căn cứ vào quy định của BLHS. BLHS là văn bản duy nhất chính thức ghi nhận các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể. Các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS chỉ hướng dẫn, giải thích quy định của BLHS, không quy định các tội phạm mới ngoài những tội phạm đã được quy định trong BLHS. Nhà nước quy định tội phạm trong luật hình sự bằng cách mô tả những dấu hiệu của cấu thành tội phạm và quy định nhứng dấu hiệu đó trong luật. Do vậy, tất cả những dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều phải là những dấu hiệu đã được quy định trong luật hình sự.4 Cơ quan giải thích luật cũng như cơ quan áp dụng luật không được phép thêm hoặc bớt dấu hiệu nào của cấu thành tội phạm mà chỉ được phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định. Việc thêm hoặc bớt dấu hiệu nào đó của cấu thành tội phạm đều có thể dẫn đến tình trạng quy tội oan hoặc bỏ lọt tội. 2.2. Các dấu hiệu trong CTTP có tính đặc trưng Cấu thành tội phạm của một tội là sự mô tả về mặt pháp lý của tội phạm đó. Do đó, nó vừa đòi hỏi tính khái quát cao vừa đòi hỏi phải rõ ràng, phản ánh được những nội dung biểu hiện của bốn yếu tố có tính chất đặc trưng của loại tội được mô tả và đủ để phân biệt loại tội này với loại tội khác. Tính đặc trưng của các yếu tố cấu thành tội phạm thể hiện ở chỗ khi kết hợp với nhau, các yếu tố này sẽ phản ánh đầy đủ bản chất xã hội của một loại tội phạm cụ thể, vừa 4 Về nguyên tắc, các dấu hiệu của CTTP phải được quy định trong BLHS. Một số tội phạm do có những dấu hiệu mà thực tiễn xét xử thừa nhận là đã rõ ràng nên CTTP của nó không được mô tả trong BLHS. Ví dụ, Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS) 17
  18. phản ánh được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội nhất định vừa đủ cần thiết cho phép phân biệt tội này với các tội khác. Nghĩa là các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hiện diện trong tất cả các tội phạm được quy định trong BLHS, thiếu đi một dấu hiệu thì không thể có tội phạm. Chẳng hạn, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS) phải thỏa mãn dấu hiệu khách thể bị xâm hại, dấu hiệu hành vi phạm tội, dấu hiệu lỗi, dấu hiệu chủ thể (có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định). Đây là những dấu hiệu bắt buộc phải có ở bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Do cấu thành tội phạm có tính đặc trưng nên không thể có 2 cấu thành tội phạm giống nhau. Nhưng không có nghĩa một dấu hiệu cụ thể nào đó chỉ có ở một cấu thành tội phạm. Cũng với dấu hiệu đó nhưng khi kết hợp với các dấu hiệu đặc thù khác sẽ cấu thành một tội phạm khác. Ví dụ: Cùng là hành vi giết người, nhưng nếu chủ thể là “người mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới để hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết” thì bị coi là phạm tội giết con mới đẻ (Điều 94 BLHS), hành vi giết người với lỗi cố ý thì bị coi là tội giết người (Điều 93 BLHS) còn hành vi giết người với lỗi vô ý thì bị coi là tội vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS)... 2.3. Các dấu hiệu trong CTTP có tính bắt buộc Cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ để kết luận một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Để kết luận hành vi của người đã phạm tội cụ thể đòi hỏi phải xác định hành vi đó thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Nếu một trong những dấu hiệu của cấu thành tội phạm không thỏa mãn thì hành vi đó không cấu thành tội mà cấu thành tội phạm đó phản ánh. Tất cả các dấu hiệu CTTP đều bắt buộc khi xác định tội phạm. 3. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM 3.1. Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản ánh - CTTP cơ bản: Là CTTP chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác. Ví dụ: CTTP quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS. - CTTP tăng nặng: Là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Ví dụ: CTTP quy định tại khoản 2 Điều 133 BLHS. - CTTP giảm nhẹ: Là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường). Ví dụ: CTTP được quy định tại khoản 2 ĐIều 78 BLHS. Mỗi loại tội phạm có một CTTP cơ bản, ngoài ra có thể có một hoặc nhiều CTTP tăng nặng hay giảm nhẹ. 3.2. Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của CTTP - CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. - CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. - CTTP cắt xén: là CTTP có một dấu hiệu của mặt khác quan là dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng hành vi này không phải là sự phản ánh chính hành vi phạm tội (của loại tội được CTTP phản ánh) mà là “hoạt động” nhằm thực hiện hành vi đó – hành vi phạm tội được CTTP cắt xén phản ánh. Ví dụ: CTTP tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS) là CTTP cắt xén. Trong CTTP của tội này, dấu hiệu hành vi phản ánh tất cả những hoạt động như thành lập hoặc tham gia tổ chức có mục đích lật đổ chính quyền chứ không phải phản ánh chính hành vi thành lập hoặc tham gia là hai loại hành vi phạm tội của loại này. 18
  19. Việc nghiên cứu CTTP có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự. CTTP là cơ sở pháp lý của việc truy cứu TNHS, là căn cứ để định tội danh, xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Câu 1: Nêu các yếu tố của tội phạm. Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì có thể có tội phạm không? Tại sao? Câu 2: Phân tích các đặc điểm của CTTP. Câu 3: Phân biệt CTTP vật chất với CTTP hình thức. Cho ví dụ minh họa. Câu 4: Xét về mức độ nguy hiểm của hành vi phản ánh trong CTTP, xác định CTTP của các trường hợp phạm tội sau là loại nào? - Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 78 BLHS. - Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS. - Trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều 133 BLHS. CHƯƠNG 4 KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM 1. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 BLHS. Khoa học luật hình sự phân biệt ba loại khách thể của tội phạm là: - Khách thể chung của tội phạm: Là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể chung của tội phạm được quy định ở Điều 1 và Điều 8 BLHS. - Khách thể loại của tội phạm: Là nhóm các quan hệ xã hội cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. 19
  20. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm, nhà làm luật đã xây dựng các chương Phần các tội phạm của BLHS. Ví dụ như chương các tội phạm về môi trường, các tội phạm về ma tuý Khoa học luật hình sự cũng căn cứ vào khách thể loại của tội phạm để xác định các chế định tội phạm cụ thể. Chẳng hạn, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình... - Khách thể trực tiếp của tội phạm: Là quan hệ xã hội cụ thể được luật hình sự bảo vệ bị một loại tội phạm trực tiếp xâm hại. Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Chẳng hạn, hành vi trộm cắp dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng thiệt hại về an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội này phải được quy định ở Điều 231 BLHS (tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) chứ không phải Điều 138 BLHS (tội trộm cắp tài sản). Rõ ràng, trong những trường hợp này, khách thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Khách thể trực tiếp của tội phạm phản ánh bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và là một trong những căn cứ quan trọng để định tội danh đối với người phạm tội. 2. ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI PHẠM 2.1. Khái niệm Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Có các loại đối tượng tác động của tội phạm là: - Chủ thể tham gia các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; - Nội dung của các quan hệ xã hội: Là hoạt động bình thường của chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; - Đối tượng của các quan hệ xã hội: Là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại. Trong BLHS, nhà làm luật đã mô tả dấu hiệu đối tượng tác động của tội phạm khi gián tiếp quy định khách thể của tội phạm. Đối với những trường hợp này, việc xác định đối tượng tác động là điều bắt buộc khi định tội. Ví dụ: Điều 231 BLHS, đối tượng tác động của tội phạm là công trình hoặc phương tiện giao thông vận tải, thông tin- liên lạc, công trình điện, dẫn chất đốt, công trình thủy lợi hoặc công trình quan trọng khác về an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa và xã hội. 2.2. Một số loại đối tượng tác động của tội phạm - Con người có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Các tội phạm được quy định trong Chương 12 BLHS đều có đối tượng tác động là con người. Những hành vi phạm tội của nhóm này có thể là hành vi tước đoạt tính mạng, hành vi gây tổn hại đến sức khỏe hoặc là hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của con người. - Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Trong những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của những đối tượng vật chất như quan hệ sở hữu. Tất cả những hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản một cách trái pháp luật (như chiếm đoạt, chiếm giữ, hủy hoạt hay làm hư hỏng...) đều là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. - Hoạt động bình thường của chủ thể có thể là đối tượng của tội phạm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2