Giáo trình Luật tố tụng hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
lượt xem 74
download
Cuốn giáo trình "Luật tố tụng hình sự" (Giáo trình đào tạo từ xa) được chia thành 2 phần. Phần 1 cuốn sách với nội dung về những vấn đề chung của luật tố tụng hình sự gồm 4 chương: Khái niệm, nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự; cơ quan tiến hành, người tham gia và người tiến hành tố tụng; chứng cứ trong tố tụng hình sự; các biện pháp ngăn chặn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Luật tố tụng hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên ThS. Mạc Giáng Châu GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Vinh - 2011 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Th.S Mạc Giáng Châu GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 2
- Phân công biên soạn: - Chủ biên: Th.S Mạc Giáng Châu - Các tác giả: Th.S Mạc Giáng Châu : Chương I đến Chương V Nguyễn Thị Thanh Bình: Chương VI đến Chương VIII 3
- 4
- MỤC LỤC PHẦN THỨ NHẤT. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......... 7 CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................................................ 7 1. Khái niệm chung ............................................................................................................... 7 2. Nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự .............................................. 7 CHƯƠNG 2. CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG ......................................................................................... 24 1. Cơ quan tiến hành tố tụng ................................................................................................ 24 2. Người tiến hành tố tụng .................................................................................................. 31 3. Người tham gia tố tụng ................................................................................................... 39 CHƯƠNG 3. CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ................................................. 55 1. Khái niệm chung về chứng cứ ......................................................................................... 55 2. Vấn đề chứng minh ......................................................................................................... 58 3. Các phương tiện chứng minh ........................................................................................... 62 CHƯƠNG 4. CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN.................................................................. 65 1. Khái niệm và các căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn .............................................. 65 2. Các biện pháp ngăn chặn cụ thể ....................................................................................... 67 3. Việc hủy bỏ và thay thế các biện pháp ngăn chặn ............................................................ 75 PHẦN THỨ HAI. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VÚ ÁN HÌNH SỰ ..................... 78 CHƯƠNG 5. KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................................................................... 78 1. Khái niệm chung ............................................................................................................. 78 2. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự ........................................................................................... 80 3. Quyết định khởi tố vụ án hình sự ..................................................................................... 84 4. Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự ................................................................................. 88 CHƯƠNG 6. ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ QUYẾT ĐỊNH VIỆC TRUY TỐ ............ 90 1. Khái niệm điều tra vụ án hình sự ..................................................................................... 90 2. Những quy định chung về điều tra ................................................................................... 91 3. Các hoạt động điều tra ..................................................................................................... 95 4. Tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra ........................................................................ 97 5. Kiểm sát điều tra và quyết định việc truy tố ..................................................................... 98 CHƯƠNG 7. XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................................... 102 CHƯƠNG 8. XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................. 122 5
- 1. Khái niệm xét xử phúc thẩm .......................................................................................... 122 2. Kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm ............................................................. 123 3. Những quy định chung về xét xử phúc thẩm .................................................................. 127 4. Trình tự và thủ tục của việc xét xử phúc thẩm................................................................ 129 CHƯƠNG 9. XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT..................................................................................................................... 133 1. Xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm............ 133 2. Xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự tái thẩm ............................. 137 6
- PHẦN THỨ NHẤT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1. KHÁI NIỆM CHUNG 1.1. Luật tố tụng hình sự và một số khái niệm cơ bản trong luật tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm luật tố tụng hình sự Chúng ta đã biết, tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Đo đó, đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự phát triển bình thường cho xã hội. Để giải quyết có có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đòi hỏi nhà nước phải áp dụng và kết hợp rất nhiều biện pháp khác nhau, như các biện pháp kinh tế xã hội, giáo dục, phòng ngừa, kể cả các biện pháp cưỡng chế và áp dụng hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động phòng ngừa tội phạm luôn được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên một khi tội phạm đã xảy ra trên thực tế thì việc nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm cũng là yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách. Để nhanh chóng phát hiện tội phạm các cơ quan chức năng cần tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm xác định các hành vi phạm tội, tiếp đó, để xử lý người thực hiện các hành vi phạm tội cần tiến hành hàng loạt các hoạt động tiếp theo như truy tố người thực hiện hành vi phạm tội trước pháp luật và xét xử người có hành vi phạm tội. Theo đó, tổng hợp tất cả các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm bảo đảm giải quyết vụ án hình sự được gọi là luật tố tụng hình sự Luật tố tụng hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm bảo đảm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự. Để đảm bảo cho việc phát hiện và xử lý nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam đã quy định đầy đủ trình tự, thủ tục để các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở giải quyết các vụ án hình sự. Trình tự, thủ tục đó gồm có trình tự thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Một số khái niệm cơ bản trong luật tố tụng hình sự Tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là toàn bộ những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan nhằm tham gia vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan, kịp thời vụ án hình sự, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Thủ tục tố tụng hình sự Thủ tục tố tụng hình sự là những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cách thức nhất định khi tiến hành việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án 7
- hình sự mà mọi tổ chức và công dân phải tuân theo khi tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn tố tụng Giai đoạn tố tụng là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một nhiệm vụ tố tụng. Các giai đoạn tố tụng diễn ra liên tục kế tiếp nhau, có mối liên hệ nội tại khăng khít. Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Luật TTHS VN chia quá trình TT thành các gđ: Khởi tố Điều tra Truy tố Xét xử Thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giai đoạn thủ tục đặc biệt là thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. 1.2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự Với tư cách là một ngành luật độc lập, luật Tố tụng hình sự Việt Nam có phương pháp điều chỉnh riêng và đối tượng điều chỉnh riêng. 1.2.1. Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Khi giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Khi các hoạt động này được tiến hành sẽ thiết lập nên mối quan hệ xã hội giữa các chủ thể với nhau và các mối quan hệ xã hội này sẽ trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự. Ví dụ mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát hay Tòa án nhằm giải quyết 1 vụ án hình sự cụ thể, hoặc giữa Điều tra viên và bị can trong việc lấy lời khai của bị can là các mối quan hệ được pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh. 1.2.2 Phương pháp điều chỉnh Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam sử dụng 2 phương pháp điều chỉnh đặc trưng là phương pháp quyền uy và phương pháp phối hợp – chế ước. Phương pháp quyền uy. Phương pháp quyền uy là phương pháp điều chỉnh của pháp luật tố tụng hình sự dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có tính chất bắt buộc đối với người tham gia tố tụng và các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan. Phương pháp quyền uy thể hiện ở một số đặc điểm sau: Nhà nước quy định cho một số cơ quan nhất định thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với người thực hiện tội phạm và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có giá trị bắt buộc thi hành và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. 8
- Phương pháp phối hợp, chế ước Là phương pháp dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác nhằm bảo đảm việc kiểm tra giám sát lẫn nhau và phải tạo điều kiện hỗ trợ, phối hợp với nhau trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Phương pháp phối hợp thể hiện ở những điểm sau: Các cơ quan Nhà nước, cá nhân có liên quan phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, thông báo ngay cho cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan có thẩm quyền biết mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan mình, thực hiện yêu cầu của các cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Các cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành và phải được cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Phương pháp chế ước thể hiện việc các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng còn có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các công việc của nhau, kiểm tra tính đúng đắn của việc giải quyết vụ án; quá trình tố tụng chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân, của các cơ quan tổ chức đại biểu dân cử nhằm đảm bảo tính dân chủ, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác khách quan, hạn chế tối đa các trường hợp gây ra oan sai trong tố tụng hình sự. Phương pháp phối hợp, chế ước và phương pháp quyền uy trong tố tụng hình sự được kết hợp hài hòa cùng nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để cùng đảm bảo thực hiện mục tiêu giải quyết vụ án kịp thời, chính xác, khách quan. 1.3. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự 1.3.1. Khái niệm quan hệ pháp luật tố tụng hình sự Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh. 1.3.2. Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự gồm có chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là các bên tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự gồm có: Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân khác theo quy định của pháp luật Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là hành vi tố tụng mà các bên tham gia trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự tiến hành nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự được pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh. 9
- 1.3.3. Đặc điểm của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính quyền lực nhà nước do một trong các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự luôn là cơ quan nhà nước. Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có mối quan hệ mật thiết với quan hệ pháp luật hình sự. Trong mối quan hệ này thì quan hệ pháp luật hình sự được xem là luật nội dung còn quan hệ pháp luật tố tụng hình sự được xem là luật hình thức. Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có mối quan hệ hữu cơ với các hoạt động tố tụng hình sự. Trong mơi quan hệ này, các hoạt động tố tụng hình sự làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và ngược lại, các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự làm phát sinh những hoạt động tố tụng hình sự mới. Trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có một số chủ thể đặc biệt là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án 1.4. Hiệu lực của luật tố tụng hình sự Hiệu lực theo không gian Điều 2 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định “Mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này” . Thông qua điều luật này ta có thể hiểu, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam có hiệu lực áp dụng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Có nghĩa là trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì mọi hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đều phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Cũng theo điều 2, hiệu lực theo không gian đối với trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì được xác định như sau: Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công dân nước thành viên của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế đó. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo tập quán quốc tế, thì vụ án được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Hiệu lực theo thời gian BLTTHS 2003 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 26/11/ 2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004. Khác với luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 không có hiệu lực hồi tố Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 mất hiệu lực thi hành khi nó bị tuyên bố hết hiệu lực, bị bãi bỏ hoặc bị một bộ luật khác thay thế. 1.5. Mối quan hệ giữa khoa học luật tố tụng hình sự và các ngành khoa học khác có liên quan Luật tố tụng hình sự, về mặt lý thuyết, đó là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng ngành khoa học luật tố tụng hình 10
- sự và việc vận dụng, áp dụng ngành luật này vào thực tiễn đã chứng minh rằng, trên thực tế khoa học luật tố tụng hình sự chịu sự ảnh hưởng bởi nhiều ngành khoa học khác có liên quan. Khoa học luật tố tụng hình sự và các ngành khoa học lân cận, khi được kết hợp hài hòa với nhau trong quá trình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự cũng như khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn sẽ đảm bảo cho ngành luật tố tụng hình sự giải quyết được mục tiêu cơ bản và trọng tâm của nó, là phù hợp với Hiến pháp và các ngành luật khác, đảm bảo cho tính khả thi của luật khi áp dụng vào thực tiễn, phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, khách quan, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Bên cạnh đó, ngành khoa học luật tố tụng hình sự khi được hoàn thiện, sẽ có sự tác động trở lại với các ngành khoa học lân cận, làm cho chúng trở nên hoàn chỉnh hơn trong bối cảnh xây dựng luật và cải cách tư pháp của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Về cơ bản, ngành khoa học luật tố tụng hình sự có mối liên hệ mật thiết với các ngành khoa học sau đây: Quan hệ với Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật; Quan hệ với khoa học Luật hình sự; Quan hệ với Tội phạm học; Quan hệ với Khoa học điều tra tội phạm; Quan hệ với Tâm lý học tư pháp; Quan hệ với Tâm thần học tư pháp; Ngoài ra, khoa học luật tố tụng hình sự còn liên quan chặt chẽ đến ngành luật Hiến pháp, khoa học giám định, pháp y học, tâm lý học tội phạm... 2. NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội, Bộ luật tố tụng hình sự có những nhiệm vụ chính sau đây: Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, để điều chỉnh các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, luật tố tụng hình sự cũng quy định một hệ thống các nguyên tắc nhằm chỉ đạo, định hướng, cho các hoạt động này. Những nguyên tắc này chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc cơ bản của LTTHS được hiểu là những tư tưởng, quan điểm mang tính chỉ đạo, định hướng, chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS được ghi nhận trong BLTTHS. 11
- Tùy vào cách phân loại khác nhau mà các nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng được liệt kê vào các nhóm khác nhau. Dựa vào tính chất của nguyên tắc hay nói cách khác, dựa vào sự xuất hiện của nguyên tắc trong hệ thống các nguyên tắc của các ngành luật khác nhau ta có thể phân chia các nguyên tắc cơ bản trong TTHS thành 2 nhóm nguyên tắc. Đó là nhóm các nguyên tắc chung và nhóm các nguyên tắc đặc thù. Nhóm nguyên tắc chung là tập hợp các nguyên tắc không chỉ xuất hiện ở 1 ngành luật duy nhất mà các nguyên tắc này còn xuất hiện trong nhiều ngành luật khác nhau. Ví dụ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân....là những nguyên tắc chung, chúng không chỉ xuất hiện trong TTHS mà còn xuất hiện trong các ngành luật khác như hình sự, dân sự, tố tụng dân sự... Nhóm các nguyên tắc đặc thù là tập hợp các nguyên tắc chỉ xuất hiện trong một ngành luật duy nhất. Ví dụ nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc có lỗi, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt … là những nguyên tắc đặc thù của ngành luật hình sự, các nguyên tắc này chỉ xuất hiện ở luật hình sư. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ; Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật... là những nguyên tắc đặc thù của TTHS. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được quy định tại Chương II BLTTHS 2003 gồm 30 Điều (từ Điều 3 đến Điều 32 BLTTHS 2003). Bao gồm các nhóm nguyên tắc sau: 2.2.1. Các nguyên tắc đặc thù. - Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9) Mỗi cá nhân song trong xã hội đều có quyền được bảo vệ về danh dự, nhân phẩm và có quyền bình đẳng với những cá nhân khác trong cộng đồng. Một người đang trong tình trạng bị nghi ngờ thực hiện một tội phạm vẫn phải được đối xử công bằng, phải được pháp luật tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi chính đáng. Người bị nghi ngờ thực hiện một tội phạm vẫn được coi là vô tội cho đến khi hành vi của họ được chứng minh là có tội tại 1 phiên tòa. Nội dung của nguyên tắc tại Đ9 BLTTHS có ý nghĩa sâu sắc, quan trọng trong tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Nguyên tắc này không những được ghi nhận ở trong nước mà con được pháp luật nhiều nước trên thế giới thừa nhận . Điều 11 tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948 quy định ”Mọi người, nếu bị quy tội hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi một toà án công khai, nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở luật pháp”. Điều 72 Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi nhận ”Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Như vậy trong luật TTHS VN, trước hết nguyên tắc này là nguyên tắc Hiến định, là một nguyên tắc dân chủ của tố tụng hình sự. Nguyên tắc này có ý nghĩa pháp lý và đạo lý sâu sắc, phán ánh sự đổi mới trong tư duy lập pháp và hành pháp ở nước ta. Được hình thành trên cơ sở là sự suy đoàn vô tội đối với một người đang bị nghi ngờ thực hiên hành vi phạm tội nên nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc “ suy 12
- đoán vô tội”. Theo đó, một người luôn được coi là không có tội nếu chưa bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án và bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này là một người chỉ bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt khi Tòa án đã xem xét, đánh giá chứng cứ chính thức tại phiên tòa và có đủ cơ sở để kết luận hành vi của họ đã cấu thành tội phạm theo những quy định của luật hình sự bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật thì một người chưa bị coi là có tội và không được đối xử với họ như là người bị kết án. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án không được có định kiến trước rằng người đang bị nghi ngờ là tội phạm đồng thời các cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án để chứng minh họ không có tội hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, ngoài việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra còn phải, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho các chủ thể tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó việc tôn trọng, tạo điều kiên thuận lợi cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo – những chủ thể đang bị nghi ngờ thực hiện tội phạm, đang bị buộc tội thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình cũng là một trong những điều kiện thực hiện nguyên tắc. Thực hiện tốt được nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11) Đây là nguyên tắc Hiến định được quy định tại Điều 132 Hiến pháp 1992 xác định việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong những biểu hiện của dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa, một cách thức để bảo đảm cho hoạt động tố tụng được tiến hành một cách khách quan, công bằng và nhân đạo. Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở những quy định của pháp luật nhằm đưa ra chứng cứ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự tình nghi của cơ quan tiến hành tố tụng về việc nghi ngờ thực hiện một hành vi phạm tội. Quyền bào chữa là nguyên tắc cơ bản quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự. Điểm mới của nguyên tắc so với BL TTHS 1988 + TTHS 1988 trong nguyên tắc này không đề cập đến quyền bào chữa của người bị tạm giữ. ( khi có quyết định khởi tố bị can thì mới xuất hiện quyền bào chữa) + BL TTHS 2003 ghi nhận thêm quyền bào chữa của người bị tạm giữ (Khi 1 người bị tạm giữ thì xuất hiện quyền bào chữa ) Như vậy, theo BLTTHS 2003, quyền bào chữa được thực hiện từ khi có quyết định khởi tố bị can (khoản 1 Điều 58), hoặc từ khi một người có quyết định tạm giữ (khoản 2 Điều 48). Nói cách khác BLTTHS 2003 đã bổ sung trường hợp người bị tạm giữ cũng có quyền bào chữa nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 13
- Theo quy định của nguyên tắc này thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Như vậy, quyền bào chữa được thực hiện thông qua hai phương thức là tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Quyền “ tự bào chữa” và quyền “nhờ người khác bào chữa” trong nguyên tắc này song song tồn tại cùng nhau, không loại trừ lẫn nhau. Điều này có nghĩa là một người vừa có quyền tự mình bào chữa cho mình, vừa có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. “Người khác” ở đây có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Luật sư : Là người bào chữa chuyên nghiệp, hoạt động trong đoàn luật sư Bào chữa viên nhân dân: Là người được UBMT TQ VN, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của mình trong những trường hợp theo quy định của PL ( k2 Đ57 BL TTHS) Người đại diện hợp pháp : Cha, mẹ, người giám hộ...của họ có thể tham gia với tư cách là người bào chữa trong trường hợp người bị tam giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, hoặc là người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Quyền bào chữa là một quyền năng tố tụng có nội dung đối trọng với quyền công tố, gắn liền với việc chứng minh tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, quyền bào chữa là quyền chỉ có trong việc giải quyết vụ án hình sự. Việc ghi nhận quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật TTHS là cơ sở plý vững chắc cho người đang bị buộc tội bào chữa cho hành vi phạm tội của mình Để thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố đồng bộ. Trước hết, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo biết quyền được bào chữa của họ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho họ tự bào chữa hoặc cho người bào chữa của họ trong trường hợp họ nhờ người khác bào chữa. Xây dựng một đội ngũ luật sư đông đảo và chuyên nghiệp cũng là một trong những yếu tố tích cực trong việc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần xác định sự thật vụ án, đảm bảo phán quyết của tòa án mang tính khách quan, chính xác, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. - Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự (Điều 13) Nguyên tắc này gồm 2 nội dung chính: + Xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tiến hành tố tụng có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng gồm có cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa àn. Ngoài ra, một số cơ quan khác, trong từng trường hợp cụ thể cũng có quyền khởi tố vụ án như bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển...được quy định tài Đ104 và 111 BLTTHS. + Việc khởi tố vụ án là giai đoạn đầu cuả quá trình giải quyết vụ án, có ảnh hưởng trực tiếp và là cơ sở pháp lý cho các đến các hoạt động tố tụng tiếp theo. Do vậy việc khởi tố vụ án của các cơ quan có thẩm quyền phải hết sức thận trọng, dựa vào các căn cứ và trình tự thủ tục do luật quy định để tiến hành 14
- + Nguyên tắc còn xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng Trong trường hợp không thực hiện được yêu cầu thì phải nêu rõ lý do. Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 23 BLTTHS 2003) Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là một trong những chức năng cơ bản của Viện kiểm sát. Về mặt hình thức, so với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 có điểm mới, bổ sung thêm cụm từ “thực hành quyền công tố” vào tên diều luật. Cụ thể, BL TTHS 1988 quy định nguyên tắc liên quan đến hoạt động của VKS tại Đ23 là nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo PL, đến BL TTHS 2003 được đổi thành “Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS”. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì quyền công tố xuất hiện từ khi có tội phạm xảy ra và cũng từ thời điểm đó, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Việc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có mục đích bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; nhằm phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan nói trên. Quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự của Viện kiểm sát được thực hiện từ khi có tin báo và tố giác về tội phạm đến giai đoạn thi hành án bằng các biện pháp được pháp luật tố tụng hình sự quy định như phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, hủy bỏ các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, tự mình tiến hành một số hoạt động hoặc ra các quyết định cần thiết trong việc giải quyết vụ án, kháng nghị các bản án và quyết định của Tòa án, v.v… Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án nhằm đảm bảo cho các hoạt động tố tụng tuân thủ đúng pháp luật, loại trừ các vi phạm pháp luật của các cá nhân và tổ chức, góp phần vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng thực hành quyền công tố là hai chức năng độc lập của viện kiểm sát. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự cũng là một trong những nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp - Nguyên tắc phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội ( Đ27 ) Nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng không dừng lại ở việc phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội. Để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình còn phải phát hiện ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, qua đó tìm cách khắc phục các nguyên nhân và điều kiện này. Nguyên tắc phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội gồm có 2 nội dung chính: 15
- + Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự , cơ quan điều tra, viện kiểm sát Và tòa án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội; yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. + Các cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng là chủ thể chủ yếu trong việc phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Qua việc phát hiện này cơ quan tiến hành tố tụng còn có nhiệm vụ tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Các cơ quan hữu quan, khi có yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phối hợp và thực hiện các yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng đặt ra. Trong trường hợp không thực hiện đươc các yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì các cơ quan, tổ chức hữu quan phải nói rõ lý do. Nguyên tắc về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Đ 28) Thực tiễn trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết cả vấn đề dân sự. Tuy nhiên có trường hợp do điều kiện khách quan chưa thể chứng minh được nên ảnh hưởng đến thời gian giải quyết vụ án hình sự. Để giải quyết vướng mắc này, BLTTHS 2003 bổ sung Điều 28 về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là: Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành song song với việc giải quyết vụ án hình sự; Vấn đề bồi thường, bồi hoàn có thể được tách ra khỏi quá trình giải quyết vụ án hình sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đủ hai điều kiện: vấn đề bồi thường, bồi hoàn chưa có điều kiện chứng minh việc tách đó không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự. Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm những nội dung sau: Đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt; Đòi bồi thường tài sản bị hư hỏng; Đòi bồi thường về việc không khai thác được giá trị tài sản; Đòi bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại1. Việc ghi nhận nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự trong BLTTHS đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, qua đó cùn tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng trong vụ án đó. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29) Quyền được bồi thường thiệt hại của người bị oan tuy đã được quy định tại Điều 24 BLTTHS 1988 nhưng chưa cụ thể và chưa trở thành một nguyên tắc cơ bản. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp đã được đề cập trong Chỉ thị số 53 CT/TW ngày 21 tháng 3 năm 2000 và Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị là khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan, sai trong hoạt động tố 1 Xem thêm Công văn của TANDTC số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 về việc giăi quyết những vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. 16
- tụng, BLTTHS 2003 đã quy định việc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan thành nguyên tắc cơ bản. Theo đó nội dung nguyên tắc xác định + Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. + Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan + Người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Việc bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan được thực hiện theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 20092. Thiệt hại được bồi thường bao gồm thiệt hại về vật chất và tinh thần. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tòa án và một số cơ quan khác có quyền tiến hành các hoạt động tạm giữ và khởi tố bị can như : Hải quan, kiểm lâm, bộ đội biên phòng, lực lượng cảnh sát biển... Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời khôi phục lại các quyền và lợi ích của người bị oan trong trường hợp có oan sai xảy ra. Việc thừa nhận nguyên tắc này là một sự đổi mới trong tư duy lập pháp và hành pháp, theo hướng đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên tắc cũng thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc khắc phục những trường hợp làm oan người vô tội, xử lý những người có trách nhiệm. Việc bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan được thực hiện theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 20093. 2.2.2 Các nguyên tắc khác. - Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS (Điều 3 ) Nguyên tắc pháp chế XHCN là nguyên tắc cơ bản, phổ biến trong nhiều ngành luật khác nhau. Trong TTHS, nguyên tắc pháp chế XHCN được quy định tại điều 3 BLTTHS “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.” Bảo đảm pháp chế XHCN là một nguyên tắc Hiến định, được quy định tại Đ 12 Hiến pháp 1992 sửa đổi. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước. Pháp chế XHCN được hiểu là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội, trong đó mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, nhân viên nhà nước, nhân viên của các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.. Nội dung của nguyên tắc pháp chế là tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật, đảm bảo pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc và thống nhất . 2 Xem thêm Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Quốc hội Khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 18 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 2010. 3 Xem thêm Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Quốc hội Khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 18 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 2010. 17
- Trong pháp luật tố tụng hình sự, nguyên tắc này được cụ thể hóa trong việc xác lập trật tự, tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được luật điều chỉnh chặt chẽ và các quy định của pháp luật phải được mọi tổ chức, công dân tuân thủ một cách triệt để và nghiêm minh, cụ thể : + Tất cả các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phải thực hiện theo đúng các quy định của BLTTHS + Tất cả các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đều phải dựa vào các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS + Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng cũng như các biện pháp nghiệp vụ khác phải trên cơ sở quy định của pháp luật, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân. Để thực hiện tốt nguyên tắc này cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đầy đủ, tăng cường công tác tổ chức tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của công dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là tư tưởng chỉ đạo được quán triệt trong toàn bộ quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ đảm bảo sự hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. - Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4) Các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 là những giá trị xã hội có ý nghĩa to lớn về mọi mặt cần phải được tôn trọng và bảo vệ một cách có hiệu quả. Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến các quyền tự do cơ bản của công dân, do vậy việc xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự phải tuân thủ nguyên tắc này. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc có tính khái quát cao, “ các quyền cơ bản của công dân” bao gồm các quyền được ghi nhận trong Hiến pháp, cụ thể trong luật tố tụng hình sự là các quyền dược quy định tại các điều 5, 6, 7, 8…. Nguyên tắc này đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, và ngược lại, những người tham gia tố tụng có quyền đòi hỏi những người có thẩm quyền tôn trọng và bảo vệ các quyền đó của mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ khi có những căn cứ nhất định theo quy định của pháp luật. Cần thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và tính cần thiết trong khi áp dụng các biện pháp này. Khi những căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ không còn hoặc những những biện pháp này không còn cần thiết nữa thì các cơ quan và người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp đó. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm được pháp chế XHCN, tạo sự tin tưởng của công dân đối với các cơ quan thực thi luật pháp. 18
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5, Điều 19) Đây là nguyên tắc Hiến định được quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 được phát triển và cụ thể hóa trong lĩnh vực tố tụng hình sự. BLTTHS 2003 đã quy định nguyên tắc này thành một nguyên tắc cơ bản theo đó, khi tham gia tố tụng hình sự, người có địa vị pháp lý như nhau thì đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không ai có thể được loại trừ hoặc được áp dụng những ưu đãi ngoài những mtrường hợp do pháp luật quy định. Nguyên tắc này xác định vị trí như nhau của mọi công dân tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cụ thể : + Bất kỳ người nào thực hiện hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều khoản tương ứng mà Bộ luật hình sự quy định, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, thành phần, địa vị xã hội....Pháp luật không quy định riêng cho riêng cho bất kỳ một công dân nào. Đối với các đối tượng đặc biệt ( người chưa thành niên phạm tội, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần…) thì bộ luật tố tụng hình sự có thêm những quy định đặc biệt dành cho họ. Như thế, bất kỳ người phạm tội nào rơi vào nhóm chủ thể đặc biệt đều được hưởng các quy định đặc biệt đó. + Những người tham gia vào hoạt động TTHS cùng với một tư cách thì đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần XH, địa vị XH. + Mọi vụ án hình sự đều được giải quyết theo một trình tự, thủ tục thống nhất do bộ luật tố tụng hình sự quy định. Việc quy định thủ tục tố tụng hình sự đối với một số người là Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các viên chức ngoại giao và lãnh sự… không tạo ra những đặc quyền cho những người đó mà chỉ là một trong những bảo đảm cần thiết để họ thực hiện vai trò của mình. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố thêm niềm tin của công dân đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng, đối với Đảng, nhà nước và pháp luật nói chung. - Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10): Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng hình sự. Việc xác định sự thật của vụ án là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự và là mục đích của quá trình giải quyết vụ án hình sự, thể hiện bản chất của quá trình chứng minh tội phạm. Vì vậy nó cũng là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Nội dung ủa nguyên tắc thể hiện ở những vấn đề sau Cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định toàn bộ diễn tiến của sự việc phạm tội đã xảy ra một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác, làm rõ những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội… Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng không được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hay các biện pháp chế tài hình sự khi vụ việc chưa có căn cứ rõ ràng được chứng minh. Trách nhiệm xác định sự thật của vụ án thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. 19
- Xác định sự thật của vụ án cũng là bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Xác định sự thật của vụ án hình sự còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các biện pháp tư pháp, giải quyết trách nhiệm dân sự và những vấn khác có liên quan. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 12) Để nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bộ luật tố tụng hình sự quy định nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Nội dung chính của nguyên tắc này là : + Xác định cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật, phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình. Người tiến hành tố tụng làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14) Người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định là những người thay mặt Nhà nước chứng minh tội phạm và làm rõ bản chất vụ án. Sự vô tư của họ khi tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc giải quyết vụ án một cách khách quan nên từ BLTTHS 1988 đã coi sự vô tư của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là nguyên tắc cơ bản và bắt buộc. Theo nguyên tắc này những người tiến hành tố tụng và người phiên dịch, người giám định không được tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư khi thực hiện nhiệm vụ. BLTTHS 2003 tiếp tục quy định nguyên tắc này thành một nguyên tắc cơ bản nhưng xác định cụ thể những người tiến hành tố tụng không được tham gia tố tụng bằng cách chỉ rõ thêm bên cạnh những người tiến hành tố tụng là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký, Hội thẩm thì những người là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cũng không được tiến hành tố tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư khi thực hiện nhiệm vụ. Để đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng cũng như tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định, khi có những căn cứ cụ thể tại Điều 42 thì người tiến hành phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc phải thay đổi người tiến hành tố tụng. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 15) Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp và là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự. Nội dung của nguyên tắc thể hiện: + Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, Việc xét xử của Tòa án quân nhân có Hội thẩm quân nhân tham gia. + Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Pháp luật Việt Nam đại cương - GVC.TS. Đoàn Đức Lương
170 p | 3965 | 1025
-
Giáo trình Luật La Mã - TS. Nguyễn Ngọc Điện
125 p | 1248 | 231
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự: Phần 1 - ThS. Trần Văn Sơn (chủ biên)
173 p | 764 | 134
-
Chương 13: Luật tố tụng hình sự
0 p | 299 | 90
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự: Phần 2 - ThS. Trần Văn Sơn (chủ biên)
226 p | 337 | 76
-
Giáo trình Luật hành chính và tố tụng hành chính (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1
102 p | 234 | 44
-
Giáo trình luật tố tụng hành chính - Ths. Diệp Thành Nguyên
113 p | 185 | 37
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2
65 p | 166 | 36
-
Giáo trình Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: Phần 1
181 p | 117 | 31
-
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam: Phần 1
20 p | 85 | 18
-
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam: Phần 2
20 p | 64 | 16
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 2
49 p | 129 | 12
-
Giáo trình Luật hình sự và tố tụng hình sự (Nghề: Pháp luật - Trung cấp) - Trường Trung cấp Trường Sơn, Đắk Lắk
161 p | 15 | 10
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự: Phần 1
226 p | 23 | 8
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự: Phần 2
173 p | 11 | 6
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam: Phần 1 (năm 2013)
299 p | 16 | 6
-
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam: Phần 2 (năm 2013)
348 p | 11 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn