intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình môn học Kinh tế học vĩ mô - Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trình độ: Cao đẳng nghề (Phần 2)

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

137
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình môn học Kinh tế học vĩ mô - Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trình độ: Cao đẳng nghề (Phần 2) trình bày về tiền tệ và chính sách tiền tệ, tổng cung và chu kỳ kinh doanh, thất nghiệp và lạm phát. Mục tiêu của cuốn sách là cung cấp cho người học những thuật ngữ, nguyên lý và các mô hình kinh tế vĩ mô. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình môn học Kinh tế học vĩ mô - Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trình độ: Cao đẳng nghề (Phần 2)

  1. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Chương IV TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về tiền: thế nào là tiền, các loại tiền, hệ thống ngân hàng tạo tiền như thế nào. Tiếp đó, chúng ta sẽ tìm hiểu vai trò của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát cung tiền và tác động của sự thay đổi trong cung tiền tệ tới các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản: lãi suất, đầu tư, tổng cầu, sản lượng và mức giá. Cuối cùng chúng ta sẽ chỉ ra cách thức tại làm sao và khi nào chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh tế. 1. Chức năng của tiền tệ 1.1. Định nghĩa. Ngay từ nhỏ, chúng ta đã biết sử dụng tiền để mua những đồ vật mà mình ưa thích, còn các của hàng thì dùng tiền để niêm yết giá các mặt hàng họ bán. Ngoài ra, mọi người, ít nhiều đều cất trữ tiền nhằm làm tăng của cải của mình. Mặc dù vậy, liệu đã khi nào chúng ta tự đặt câu hỏi vì sao chúng ta lại cầm những tờ giấy không có giá trị thực nhưng lại dễ dàng đổi chúng lấy những hàng hóa có giá trị thực? Hơn nữa, trong nền kinh tế hiện đại, ngoài việc sử dụng tiền mặt, người ta còn sử dụng séc hay thẻ tín dụng trong thanh toán. Séc hay thẻ tín dụng có phải là tiền không? Vậy tiền là gì? Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các khoản nợ. Như vậy, ngày nay tiền được coi là mọi thứ được xã hội chấp nhận dùng làm phương tiện thanh toán và trao đổi. Bản thân tiền không thể có hoặc không có giá trị riêng. Một xã hội không có đồng tiền giống như một cộng đồng không có tiếng nói chung. Nếu không sử dụng tiền, con người sẽ phải mất rất nhiều công sức để giải quyết những vấn đề đơn giản hàng ngày. Sở dĩ tiền quan trọng như vậy vì nó mang một số chức năng cơ bản và quan trọng. 1.2. Chức năng của tiền Để được chấp nhận chung trong việc thanh toán tiền phải có những chức năng đặc biệt của nó. Nhìn chung, các lý thuyết tiền tệ hiện đại đều nhấn mạnh ba chức năng cơ bản: a) Phương tiện thanh toán (trao đổi) Tiền được dùng trong trao đổi, mua bán hàng hóa dịch vụ. Tiền cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hóa trực tiếp. Nó tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng hóa, được coi là dầu bôi trơn cho hoạt động kinh doanh, thúc đẩy phân công lao động và mở rộng chuyên môn hóa sản xuât. Dòng lưu thông tiền tệ trở thành hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị trường. 59
  2. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Chúng ta thử tưởng tượng rằng trong nền kinh tế mà không có tiền, một vị giáo sư kinh tế học muốn uống bia, nhưng chỉ có thể đổi bia với tập bài giảng thì liệu nhu cầu uống bia của ông có được thỏa mãn hay không? Nhưng trong nền kinh tế tiền tệ thì vị giáo sư có thể yên tâm giảng dạy, vì ông sẽ được nhận thù lao bằng tiền và dùng tiền để uống bia và mua những hàng hóa khác. Quán bia cũng sẽ chấp nhận những tờ giấy được quy định là tiền vì họ tin rằng những người khác cũng chấp nhận chúng. Như vậy, tiền có giá trị vì dân cư nghĩ rằng nó có giá trị. b) Dự trữ giá trị. Việc tiền đóng vai trò là phương tiện trao đổi đi liền với tư cách là một phương tiện cất trữ giá trị. Tiền hôm nay có thể được tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai. Vì thế nó tạo khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm thu nhập trong hiện tại, nhưng có thể để dành một phần kết quả đạt được cho tiêu dùng ngày mai. Như vậy, tiền là một loại tài sản tài chính mà nhờ nó đã mở rộng hoạt động tín dụng thúc đẩy quá trình tích tụ để mở rộng sản xuất. Dân chúng chỉ giữ tiền khi họ tin rằng nó sẽ tiếp tục có giá trị trong tương lai, do vậy tiền có thể hoạt động với tư cách là phương tiện trao đổi chỉ khi nó đóng vai trò là phương tiện bảo tồn và cất trữ giá trị. Tất nhiên, tiền không phải là phương tiện cất trữ giá trị duy nhất trong nền kinh tế. c) Đơn vị hạch toán Với hai chức năng trao đổi và dự trữ tiền trở thành một đơn vị hạch toán rất tiện lợi và hiệu quả, vì nó được chấp nhận rộng rãi trong mọi giao dịch. Mọi người sử dụng một đơn vị tiền tệ chung để niêm yết giá và ghi các khoản nợ. Tiền cung cấp một đơn vị tiêu chuẩn giá trị để đo lường giá trị của các hàng hóa khác nhau. Đặc biệt nó cần thiết cho mọi nền kinh tế, vì khả năng so sách chi phí và lợi ích kinh tế của các phương án kinh tế. Nó còn là phương tiện để hạch toán mọi hoạt động kinh tế từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng của mọi quốc gia Khi đi mua hàng, bạn có thể nhìn thấy giá một chiếc sơ mi là 120.000đ và giá một bát phở là 10.000đ. Mặc dù ta có thể nói chính xác là bát phở bằng 1/12 chiếc áo sơ mi nhưng không thể niêm yết giá như vậy. Tương tự, chúng ta hoàn trả khoản nợ cho ngân hàng phải bằng tiền chứ không phải bằng hàng hóa và dịch vụ. 1.3. Các loại tiền Với chức năng phương tiện thanh toán và dự trữ giá trị, tiền là một loại tài sản tài chính. Trong thực tế chúng được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiền giấy, tiền kim loại, tài khản ngân hàng, sổ tiết kiệm, tín phiếu...Không phải mọi loại tiền trên đều có khả năng chuyển đổi dễ dàng. Khả năng này được xác định bởi tính dễ dàng chuyển đổi từ một tài sản tài chính trở thành một phương tiện có khả năng sẵn sàng được sử dụng cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ. Ta có thể phân chia các loại tiền theo tính chuyển đổi như sau: Tiền M0 : Tiền mặt lưu hành với sự đa dạng về lượng giá trị danh nghĩa tuy không sinh lời nhưng có khả năng sẵn sàng thanh toán cao nhất. 60
  3. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Tiền giao dịch M1: Tiền mặt và tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn. Tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn có thể viết sec... để thanh toán cũng là một loại tiền có khả năng thanh toán cao, tuy mức độ sẵn sàng cho thanh toán thấp hơn so với tiền mặt. Tiền giao dịch M2: Tiền M1 + tiền tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn). Tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn (ngắn hạn) tuy tính chuyển đổi kém hơn so với M1 nhưng vẫn có khả năng chuyển sang tiền mặt dễ dàng mà không gặp khó khăn, nên nó cũng được coi là có khả năng thanh toán Ngày nay, sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống tài chính đã cho ra đời nhiều loại tài sản tài chính khác ngày càng trở nên quan trọng, như các chứng khoán cơ bản (tín phiếu kho bạc ngắn hạn), các giấy xác nhận tài chính đối với tài sản hữu hình, các chấp nhận thanh toán của ngân hàng...Chúng cũng có khả năng nhất định nào đó trong thanh toán và vì thế tùy theo tính dễ dàng chuyển đổi thành tiền mà được xếp vào M3 và M4 ....Trên giác độ kinh tế vĩ mô, người ta quan tâm nhiều hơn đến M1 và M2, đồng thời theo dõi chặt chẽ động thái của các thành phần tiền khác. Vì vậy khối lượng tiền tệ tùy vào mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia có thể lựa chọn M1 và M2 dùng làm đại lượng chính đo mức cung tiền. 2. Thị trường tiền tệ 2.1. Cầu tiền. a) Các loại tài sản tài chính có thể chia thành hai loại: Đó là tài sản giao dịch và tài sản tài chính khác. Tài sản giao dịch không tạo ra thu nhập nhưng được dùng để thanh toán khi mua hàng hóa và dịch vụ. Các tài sản tài chính khác (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm) tạo ra thu nhập nhưng không được dùng để trực tiếp thanh toán. Hầu hết các hộ gia đình và doanh nghiệp giữ của cải của mình dưới dạng kết hợp cả hai loại tài sản đó. Trong phần này, mọi tài sản giao dịch được gọi là tiền và mọi tài sản tài chính khác được gọi là trái phiếu. b) Mức cầu về tiền Khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và kinh doanh sản xuất... gọi là mức cầu về tiền (giao dịch) Khi giá cả tăng lên, mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua đủ khối lượng hàng hóa cần thiết đã dự định. Như vậy, thực chất của mức cầu tiền tệ là cầu về cán cân tiền tệ thực tế. Mức cầu tiền phụ thuộc vào hai yếu tố : thu nhập thực tế và lãi suất Quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi là hàm cầu về tiền. Hàm này có dạng như sau: MD = k.Y – h.i (4.1) Trong đó : MD – mức cầu về tiền thực tế Y – thu nhập I – lãi suất 61
  4. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái h, k – các hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối với thu nhập và lãi suất. i M0 M1 i0 MD1 MD0 Y0 Y1 Y Hình 4.1: Đường cầu tiền Hình 4.1 cho biết hàm MD biến thiên theo lãi suất. Giả sử đường MD0 là đường cầu về tiền khi thu nhập ở múc Y0 , khi thu nhập tăng tới Y1 thì đường MD dịch chuyển đến MD1. Cùng mức lãi suất i0 nhưng thu nhập tăng lên thì cầu về tiền cũng sẽ tăng lên. Khi tính mức cầu về tiền, người ta còn chú ý tới nhu cầu dự phòng. Đó là những khoản chi tiêu cần thiết nhưng chưa có khả năng dự tính trước, nên cần phải giữ một lượng tiền nào đó để dự phòng. Khi dự tính mức cầu tiền dự phòng người ta thường so sánh giữa thiệt hại của việc không sẵn tiền với khoản lãi mất đi do giữ tiền lại cho nhu cầu này. c) Mức cầu về tài sản. Mức cầu về tài sản là mức cầu các loại tài sản tài chính có sinh lợi dưới dạng trái phiếu. Các loại trái phiếu tuy sinh lợi nhưng chịu nhiều rủi ro, vì giá của chúng được quyết định trên thị trường, khó dự báo trước. Giữ tiền không sinh lời nhưng không có rủi ro, trừ lạm phát. Nhiều người chủ động giảm rủi ro bằng việc đa dạng các loại tài sản vừa để ở dạng tiền, vừa để ở dạng trái phiếu. Vì vậy, trong thực tế có thể có sự chuyển hóa mức cầu từ trái phiếu sang tiền và ngược lại. Khi nghiên cứu thị trường tiền tệ không thể không tính đến mối quan hệ này. MD + DB = WN/D (4.2) Trong đó: DB – giá trị thực tế của cầu các loại trái phiếu WN – tổng các tài sản tài chính danh nghĩa 62
  5. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái D – Chỉ số giá 2.2. Cung tiền a) Tiền cơ sở (H) Ngân hàng trung ương (NHTƯ) là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát hành chủ yếu là tiền mặt được gọi là tiền cơ sở hay cơ số tiền. Trong quá trình lưu thông một phần của lượng tiền này được các tác nhân kinh tế giữ lại để tiêu dần (thanh toán) và một phần nằm tại các ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ. Vậy khối lượng tiền cơ sở bằng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong các ngân hàng. H=U+R (4.3) Trong đó: H – Tiền cơ sở U – Tiền mặt lưu hành R – Tiền dự trữ trong các ngân hàng Khi các ngân hàng tham gia vào thị trường tiền tệ thì việc xác định tổng lượng tiền tệ trở nên phức tạp hơn, bởi sự quay vòng bộ phận tiền cơ sở trong tay các ngân hàng. Sự quay vòng làm tăng tổng mức cung tiền nên tiền cơ sở còn được gọi là tiền mạnh. b) Hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, một tổ chức môi giới tài chính. Hoạt động của nó cũng giống như các tổ chức môi giới tài chính khác như quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm...là nhận tiền gửi của người này và đem cho người khác vay để sinh lời. NHTM cũng được coi là một tổ chức tài chính trung gian, đứng ra thu thập các khoản tiết kiệm của dân cư, những người muốn để dành một phần thu nhập của mình cho tiêu dùng tương lai cũng như thu thập các khoản tiền nhàn rỗi khác trong xã hội, và đem những khoản tiền này cho những người cần vay để chi tiêu trong hiện tại. Ngân hàng thu lợi nhuận trên cơ sở lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép mỗi ngân hàng riêng biệt không cần phải lưu trữ đầy đủ mọi giá trị các khoản tiền vào, ra trong một ngày ở ngân hàng. Thông qua một hệ thống thanh toán của Ngân hàng trung ương (NHTƯ) mà ở đó mỗi NHTM đều có một tài khoản của mình, công việc thanh toán bù trừ được tiến hành và cuối ngày chỉ cần thanh toán khoản chênh lệch giữa toàn bộ số tiền gửi và rút ra trên tài khoản của ngân hàng thương mại mở tại hệ thống thanh toán. Ngân hàng trung ương là cơ quan phát hành tiền thì NTTM là cơ quan tạo tiền. Nếu không có NHTM, trong nền kinh tế sẽ không có tiền gửi , do đó cung tiền chỉ đơn giản bằng khối lượng tiền mặt. Điều hoàn toàn tương tự xảy ra nếu như có các ngân hàng và chúng hoạt động theo nguyên tắc dự trữ 100%. Nói cách khác, các ngân 63
  6. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái hàng chỉ nhận tiền gửi và đơn giản giữ chúng với tư cách là dự trữ mà không hề cho vay. Nếu công chúng mang toàn bộ tiền mặt đến gửi tại hệ thống ngân hàng thì sẽ không có tiền mặt trong lưu thông và lượng tiền gửi đúng bằng lượng tiền mặt. Trong điều kiện dự trữ 100% thì ngân hàng không có vai trò gì trong việc thay đổi cung tiền. Trong thực tế, các ngân hàng luôn cho vay. Bởi vì các ngân hàng dự tính rằng không phải tất cả những người gửi tiền sẽ rút toàn bộ tiền gửi ngay lập tức và cùng một lúc, họ không cần giữ dự trữ bằng số tiền gửi. Trái lại, ngân hàng chỉ giữ một phần số tiền huy động được và cho vay phần còn lại. Hệ thống ngân hàng như vậy được gọi là hệ thống ngân hàng dự trữ một phần. Chúng ta giả định rằng công chúng không giữ tiền mặt và như vậy lượng tiền mặt đang lưu thông là bằng 0. Và giả định rằng các ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi sẽ giữ lại 10% dự trữ ( do NHTƯ quy định) và cho vay 90% còn lại. Trong trường hợp này, tỷ lệ dự trữ của ngân hàng là 10%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc : rb = Rb / D (4.4) Trong đó : rb – Tỷ lệ dự trữ bắt buộc ( do NHTƯ qui định) Rb – Số tiền dự trữ bắt buộc D – Số tiền gửi Chúng ta sẽ sử dụng bảng tài khoản chữ T để xem xét sự tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Tại ngân hàng thứ nhất sau khi nhận một khoản tiền gửi là 1000 triệu đồng do NHTƯ mới phát hành. Trước khi ngân hàng cho vay thì cung tiền tăng thêm 1000 triệu đồng. Nhưng sau khi ngân hàng này cho vay thì tài khoản của ngân hàng này đã thay đổi như sau: Ngân hàng thứ nhất Tài sản có Tài sản nợ ∆ Dự trữ : 100 tr ∆ Tiền gửi: 1000 tr ∆ Cho vay : 900 tr Bên phải của tài khoản là tài sản nợ tăng thêm 1.000 triệu đồng (số tiền mà ngân hàng nợ người gửi tăng thêm). Bên trái của tài khoản là tài sản có tăng thêm 1000 triệu đồng, trong số đó ngân hàng bổ sung thêm 100 triệu dự trữ và cho vay thêm 900 triệu. Như vậy, bây giờ cung tiền đã tăng thêm 1900 triệu vì những người gửi tiền vào ngân hàng nắm giữ 1000 triệu tiền gửi không kỳ hạn và người đi vay tiền của ngân hàng nắm giữ 900 triệu đồng tiền mặt. Như vậy, khi ngân hàng chỉ nắm giữ một phần tiền gửi huy động được dưới dạng dự trữ, nó đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán. Sự tạo tiền không dừng lại ở ngân hàng thứ nhất. Giả sử những người đi vay ở ngân hàng thứ nhất sử dụng 900 triệu để mua sắm hàng hóa dịch vụ từ những người 64
  7. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái khác, và những người bán hàng hóa gửi toàn bộ số tiền 900 triệu vào ngân hàng thứ hai. Ngân hàng thứ hai lại giữ lại dự trữ 10% và cho vay 90% số tiền đó. Ta lại có bảng tài khoản của ngân hàng thứ hai như sau: Ngân hàng thứ hai Tài sản có Tài sản nợ ∆ Dự trữ : 90 tr ∆ Tiền gửi: 900 tr ∆ Cho vay : 810 tr Lúc này cung tiền lại tăng thêm một lượng là 810 triệu đồng. Quá trình tiếp tục diễn ra trong hệ thống ngân hàng, sau mỗi lần tiền mặt được gửi vào ngân hàng, nó lại được ngân hàng cho vay môt phần. Cứ như vậy lượng cung tiền trong nền kinh tế ngày càng tăng. Nhưng quá trình này không tiếp diễn vô hạn vì lượng tiền bổ sung ngày càng giảm dần. Với 1000 triệu đồng mà NHTƯ mới bơm thêm vào lưu thông thì lượng tiền trong nền kinh tế tăng 10.000 triệu đồng. Một khoản tiền gửi mới đưa vào hệ thống ngân hàng sẽ tạo thêm một khoản dự trữ mới (∆R) và cho phép tạo ra một lượng tối đa khoản cho vay mới. Những khoản cho vay mới được đưa trở lại ngân hàng, lại trở thành những lượng tiền gửi mới (∆D) bằng ∆R. 1/rb . Kết quả lượng tiền gửi tăng thêm là ∆D = ∆R.1/rb (4.5) 1/rb : gọi là số nhân tiền tệ trong điều kiện tỷ lệ dự trữ thực tế của các ngân hàng đúng bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và không có tiền mặt trong lưu thông hay toàn bộ giao dịch được thanh toán qua ngân hàng. c) Xác định mức cung tiền Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt động tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại. Mức cung tiền trước hết được quyết định bởi quy mô của lượng tiền cơ sở và sau đó bởi khả năng tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại nhờ số nhân tiền tệ. Trong hình 4.2, Tiền cơ sở H là tiền do NHTƯ phát hành biểu hiện dưới dạng tiền mặt và tiền dự trữ tại các ngân hàng. Các khoản tiền gửi ngân hàng là bội số của tiền dự trữ của ngân hàng. Hình 4.2 còn trình bày mối quan hệ giữa lượng tiền cơ sở và mức cung tiền. 65
  8. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Trªn c¬ së (H) Dù tr÷ tiÒn mÆt TiÒn mÆ t Cña c¸ c Ng©n hµng L­ u hµnh C¸ c kho¶n tiÒn göi kh«ng kú h¹ n Møc cung tiÒn (MS) Hình 4.2: Xác định mức cung tiền Như vậy, trên giác độ tổng thể của nền kinh tế, số nhân tiền tệ chính là tỷ số giữa mức cung tiền và lượng tiền cơ sở: mM = MS/H (4.6) Trong đó : mM – số nhân tiền tệ MS = mM . H (4.7) Ta lại có: MS = U + D (4.8) Trong đó : MS – mức cung tiền U – tiền mặt lưu hành D – tiền gửi Tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi là: s= U/D (4.9) Tỷ lệ dự trữ thực tế là : ra = Ra/D (4.10) Trong đó: Ra – Số tiền dự trữ thực tế Thay các công thức (4.8), (4.9), (4.10) và thực hiện các phép toán ta có công thức tính số nhân tiền tệ (mM) như sau: mM = (1 + s)/(ra + s) (4.11) Từ (4.11) ta thấy rằng, tỷ lệ dự trữ thực tế càng nhỏ, số nhân tiền tệ càng lớn. Nhưng tỷ lệ dự trữ thực tế lại phụ thuộc vào các yếu tố: - Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTƯ quy định 66
  9. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái - Tính không ổn định của nguồn tiền mặt vào, ra của ngân hàng đã buộc các NHTM muốn dự trữ tiền mặt nhiều hơn. - Sự thiệt hại do trả lãi suất nếu phải vay tiền khi thiếu hụt dự trữ. Công thúc (4.11) cũng cho thấy tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi (s) càng nhỏ, số nhân tiền tệ sẽ càng lớn. Tỷ lệ này phụ thuộc vào thói quen thanh toán của xã hội, vào tốc độ tăng của tiêu dùng và còn phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng đáp ứng tiền mặt của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp (s) rất nhỏ hoặc bằng 0 và ra = rb thì mM = 1/rb Mức cung tiền tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền kinh tế. Vì tiền tệ có chức năng là phương tiện thanh toán, trao đổi nên khi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhiều hơn, thì cũng cần thiết phải thay đổi cung tiền. Mối quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng của tiền tệ M.V = P.Q Trong đó : M – mức cung tiền (theo nghĩa rộng) V – tốc độ lưu thông tiền tệ P – mức giá trung bình Q – sản lượng thực tế Giả sử tốc độ lưu thông tiền tệ (V) là ổn định thì mức cung tiền cần phải được điều chỉnh theo sự thay đổi quy mô của GNPn = P.Q. Sự thay đổi của mức cung tiền sẽ làm thay đổi lãi suất của thị trường tiền tệ và quay lại tác động đến đầu tư và tiêu dùng trong thị trường hàng hóa. Do vậy, việc kiêm soát mức cung tiền được coi là một chính sách tiền tệ quan trọng đặc biệt trong quản lý vĩ mô. Và muốn kiểm soát được mức cung tiền phải có khả năng tác động vào lượng tiền mạnh, số nhân tiền tệ và NHTƯ là đơn vị thực hiện nhiệm vụ này. 2.3. Sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Công cụ để phân tích là đường cung và đường cầu về tiền. Đường cung tiền là một đường thẳng đứng (cung cố định) trên cơ sở cho rằng NHTƯ sử dụng các công cụ của nó đã cung ứng cho thị trường một mức cung tiền theo dự kiến. Đó là khối lượng tiền xác định cho mọi mức lãi suất (với giả định rằng giá cả không thay đổi nên lãi suất danh nghĩa i cũng chính là lãi suất thực tế của nó). Đường cầu về tiền là đường dốc nghiêng đi xuống, biến thiên giảm theo lãi suất. 67
  10. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái i MS i0 E MD M0 M Hình 4.3: Cân bằng của thị trường tiền Hình 4.3 cho thấy, tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định lãi suất cân bằng gọi là lãi suất thị trường, đó là giao điểm E. E là điểm cân bằng của thị trường tiền. Tại mức lãi suất cân bằng i0 mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung tiền. Giả sử lãi suất cao hơn mức cân bằng, chẳng hạn i1. Khi đó lượng tiền mọi người muốn nắm giữ M1 sẽ thấp hơn lượng tiền cung ứng. Những người nắm giữ quá nhiều tiền sẽ cố gắng giảm lượng tiền của họ xuống bằng cách mua trái phiếu có lãi. Như vậy cầu về trái phiếu tăng, trong khi cung trái phiếu là cố định làm cho giá của trái phiếu tăng lên. Giá của trái phiếu tăng lên làm cho lãi suất giảm cho tới khi bằng i0. Ngược lại, khi lãi suất nhỏ hơn lãi suất cân bằng chẳng hạn là i2, thì lượng tiền mọi người muốn nắm giữ lớn hơn lượng tiền cung ứng. Những người nắm giữ trái phiếu sẽ bán bớt trái phiếu làm cho giá trái phiếu giảm xuống kéo theo lãi suất tăng lên đến khi bằng với i0. Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu tiền sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng của thị trường tiền tệ. Khi NHTƯ tác động đến mức cung tiền, giả sử bán trái phiếu hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm lượng cung tiền, đường cung tiền sẽ dịch chuyển từ M0 sang M1 và lãi suất cân bằng sẽ giảm từ i0 đến i1. (Hình 4.4). Khi thu nhập thực tế tăng lên, nhu cầu tiền giao dịch tăng lên. Với mỗi mức lãi suất, lợi ích cận biên của việc gửi tiền tăng lên và làm tăng mức cầu tiền thực tế, đường cầu tiền thực tế sẽ dịch chuyển từ MD0 đến MD1. Với mức cung tiền M1 lãi suất cân bằng sẽ dịch chuyển từ i1 đến i2, điểm cân bằng mới của thị trường tiền tệ sẽ là E”. 68
  11. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái i MS1 MS0 i2 E'' i1 E' MD1 i0 E MD0 M1 M0 M Hình 4.4: Lãi suất cân bằng Việc kiểm soát tiền tệ trong thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô thật không đơn giản. Có hai cách để kiểm soát, hoặc kiểm soát mức cung tiền thì lãi suất thị trường sẽ lên xuống bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát lãi suất (ổn định lãi suất) thì buộc phải để lực lượng thị trường quyết định mức cung tiền. Cả hai cách đều gặp phải những khó khăn nhất định. Khi kiểm soát lượng tiền cơ sở (H) thì vấp phải vấn đề hạn chế tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng thương mại và các hoạt động giao dịch. Khi kiểm soát lãi suất lại gặp phải khó khăn trong việc nhận biết chính xác đường cầu tiền và sự dịch chuyển của nó. Việc lựa chon kiểm soát mức cung tiền hay lãi suất tùy thuộc vào chính sách tiền tệ mỗi nước. 2.4. Ngân hàng trung ương (NHTƯ) và vai trò kiểm soát tiền tệ a) Chức năng của NHTƯ - Ngân hàng của các NHTM: NHTƯ giữ các tài khoản cho các NHTM, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống ngân hàng thương mại và hoạt động như một người cho vay của phương sách cuối cùng đối với các NHTM trong trường hợp khẩn cấp. - Ngân hàng của Chính phủ: NHTƯ giữ các tài khoản cho Chính phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với Kho bạc Nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khóa của Chính phủ bằng việc mua bán tín phiếu của Chính phủ. - Kiểm soát mức cung tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển kinh tế. - Hỗ trợ, giám sát và điều tiết hoạt đông của các thị trường tài chính. b) Thực thi chính sách tiền tệ 69
  12. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái NHTƯ điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suấ bằng nhiều công cụ khác nhau, nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ. Ngoài ra, NHTƯ có thể trực tiếp kiểm soát có lựa chọn một số khoản tín dụng cũng như một vài biện pháp khác nhau. Các công cụ quản lý tiền tệ thường dùng của NHTƯ là: Hoạt động thị trường mở: Thị trường mở là thị trường tiền tệ của NHTƯ được sử dụng để mua bán trái phiếu kho bạc nhà nước. Muốn tăng mức cung tiền NHTƯ sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở. Kết quả là họ đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ của các NHTM, dẫn đến tăng khả năng cho vay, tăng mức tiền gửi nhờ số nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền đã tăng gấp bội so với số tiền mua tín phiếu của NHTƯ. Để có kết quả ngược lại, NHTƯ sẽ bán trái phiếu của chính phủ. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ thấp, số nhân tiền tệ sẽ lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng, tăng nhanh mức cung tiền, NHTƯ là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM. Khi thay đổi quy mô của tỷ lệ này, NHTƯ đã khống chế một cách gián tiếp, nhưng mạnh mẽ đến mức cung tiền. Sử dụng công cụ này thường có hiệu quả cao, tác động nhanh chóng đến hoạt động cho vay, nhưng cũng gây khó khăn cho hoạt động của thị trường tài chính. Lãi suất chiết khấu: Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của NHTƯ khi họ cho các NHTM vay tiền để đảm bảo có đẩy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các NHTM. Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho vay thuận lợi sẽ là tín hiệu khuyến khích các NHTM vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng cho vay, dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng lên. Khi hoạt động của thị trường mở chưa phát triển thì công cụ này trở nên quan trọng NHTƯ có nhiều khả năng thực tế để ấn định mức cung tiền theo dự kiến, có thể tăng thêm hay giảm bớt nó bằng các công cụ điều tiết của mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch định. 3. Mô hình IS-LM 3.1. Đường IS Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường hàng hóa sẽ được gọi là đường IS 70
  13. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái AD AD1 i1 AD0 i0 450 Y0 Y1 Y i i0 E0 i1 E1 IS Y0 Y1 Y Hình 4.5: Cách dựng đường IS Ở mức lãi suất i0 tổng cầu là AD0, sản lượng Y0 và điểm cân bằng E0. Khi lãi suất giảm từ i0 xuống i1 ta xác định được điểm E1 (Y1,i1). Đường đi qua E0 và E1 chính là đường IS. Đường IS có độ dốc xuống do lãi suất cao hơn, tổng cầu sẽ suy giảm dẫn đến thu nhập cũng suy giảm. Độ dốc của đường IS phụ thuộc vào độ nhạy cảm với lãi suất của tổng cầu. Nếu những thay đổi trong lãi suất đưa đến những dịch chuyển nhỏ của đường tổng cầu, mức thu nhập cân bằng ít thay đổi và đường IS sẽ rất dốc. Sự di chuyển dọc theo đường IS cho ta thấy sự thay đổi của thu nhập do sự biến động của lãi suất làm dịch chuyển đường tổng cầu. Ở mức lãi suất nhất định các nhân tố ngoài lãi suất có biến động sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sẽ làm dịch chuyển đường IS. 3.2. Đường LM Đường LM biểu thị những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Giả định rằng mức cung tiền cố định tại M0, với mức thu nhập ở Y0, đường cầu tiền là MD0 và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E0 với mức lãi suất cân bằng là i0. Khi thu nhập tăng đến Y1 đường cầu tiền dịch chuyển lên MD1 với điểm cân bằng E1 có lãi suất cân bằng i1. Đường qua hai điểm E0 và E1 chính là đường LM. 71
  14. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái i i MS i1 i1 i0 i0 LP1 LP0 M0 M Y0 Y1 Y Hình 4.6: Đường LM Đường LM có độ dốc nghiêng đi lên bởi khi thu nhập tăng, lãi suất phải tăng theo để giảm bớt cầu tiền nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường tiền tệ khi cung tiền không đổi. Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền tăng lên, đường LM sẽ dịch chuyển sang phải. 3.3. Sự kết hợp của đường IS - LM Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng như của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng cho cả hai thị trường. Mô hình IS- LM cho biết trạng thái cân bằng đồng thời đó xảy ra tại giao điểm của hai đường IS và LM Tại mức thu nhập Y1 thị trường hàng hóa cân bằng tại điểm A với lãi suất i1. Nhưng với lãi suất này thị trường tiền tệ chỉ cân bằng tại điểm B với thu nhập là Y2 (Y2 > Y1). Như vậy ở Y1 cầu tiền thấp hơn so với cung tiền đã có nên lãi suất phải giảm xuống để tổng cầu và thu nhập tăng lên tới điểm với lãi suất i0 thì cả hai thị trường mới cân bằng. 72
  15. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái i LM A B i1 i0 E i2 IS Y1 Y0 Y2 Y Hình 4.7: Sự cân bằng các thị trường hàng hóa và tiền tệ 4. Sự kết hợp của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. 4.1. Chính sách tiền tệ. NHTƯ là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, tăng trưởng GNP, giảm thất nghiệp. Tùy đặc điểm kinh tế của mỗi thời kỳ cụ thể, cần phải ưu tiên mục tiêu nào đó. Vì chính sách tiền tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó tác động đến tổng cầu và sản lượng cân bằng nên việc kiểm soát tiền tệ của NHTƯ tập trung vào một trong hai công cụ chủ yếu: Mức cung tiền hoặc lãi suất. i LM 0 LM 1 E1 i1 E0 i0 E2 IS1 i3 E3 IS0 Y0 Y1 Y3 Y2 Y Hình 4.8: Sự tác động của chính sách tiền tệ 73
  16. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Trong hình trên, cân bằng kinh tế ban đầu đang ở điểm E0, chính sách tài khóa không thay đổi nhưng có sự gia tăng mức cung tiền đẩy đường LM0 đến LM1 Do thu nhập chưa đủ thời gian để thay đổi nên lãi suất lúc đầu tụt xuống từ i0 đến i2. Do lãi suất xuống thấp đã khuyến khích tăng tiêu dùng, đầu tư...dẫn đến tổng cầu và sản lượng tăng dần và theo đó lãi suất cũng tăng lên. Đường IS0 dịch chuyển đến IS1. Cuối cùng sản lượng cân bằng mới sẽ đạt tại E2 với mức thu nhập Y2 và lãi suất i2 . Tóm lại, trừ những tình huống đặc biệt (lạm phát) việc gia tăng cung tiền thực tế sẽ làm tăng sản lượng cân bằng và làm giảm lãi suất cân bằng, ngược lại nếu thu hẹp cung tiền thực tế sẽ làm giảm sản lượng cân bằng và làm tăng lãi suất cân bằng. (Lưu ý rằng, mức cung tiền thực tế vẫn có thể suy giảm ngay cả khi NHTƯ không có tác động nào đến mức cung tiền danh nghĩa) Chính sách tiền tệ có thể được tiến hành độc lập với chính sách tài khóa. Khi cần mở rộng kinh doanh sản xuất, tăng cả số lượng doanh nghiệp và quy mô sản xuất có thể thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, tăng mức cung tiền để hạ mức lãi suất nhằm khuyến khích đầu tư và tiêu dùng...Khi chống lạm phát cao hoặc kiềm chế nó, có thể phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, giảm cung tiền đến mức cần thiết hoặc giữ lãi suất ở mức cao để hạn chế sự mở rộng của tiêu dùng và đầu tư. Trong quản lý, chính sách tiền tệ thường phải theo dõi chặt chẽ sự chuyển biến của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ để xác định những biện pháp, chính sách phù hợp. Ví dụ, khi thị trường hàng hóa có biến động, có thể chọn mục tiêu ổn định mức cung tiền là chủ yếu. Lãi suất, do đó sẽ nhất thời biến động và nhờ đó để điều chỉnh thị trường hàng hóa, đưa nó về trạng thái cân bằng. 4.2. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Chính sách tài khóa với thuế và chi tiêu của chính phủ tác động trực tiếp đến yếu tố G hoặc gián tiếp đến C, đầu tư I, xét cho cùng là tác động trực tiếp đến tổng cầu. Chính sách tiền tệ với các quyết định về mức cung tiền tác động trực tiếp đến thị trường tiền, qua đó tác động trở lại tới tổng cầu (C,I,X) cả hai chính sách đều tác động đến quy mô của tổng cầu nhưng mỗi chính sách lại gây ra sự thay đổi khác nhau về các thành phần của tổng cầu. Có thể nói việc vận dụng tốt cả hai chính sách có khả năng quản lý (kiểm soát) được tổng cầu để ổn định được thu nhập (sản lượng) ở mức dự kiến (sát với sản lượng tiềm năng). Như vây, trên giác độ kinh tế vĩ mô cần có một mục tiêu chung cho cả hai chính sách, có những cơ quan có khả năng phối hợp điều hành. Sự thiếu phối hợp có thể triệt tiêu tác động của các chính sách và dẫn đến những mất cân đối vĩ mô trầm trọng. Về mặt lý thuyết, có thể xây dựng thành các cặp chính sách có cùng mục tiêu. Khi cho rằng tổng cầu ở mức quá thấp có thể dùng chính sách mở rộng tài chính và nới lỏng tiền tệ, đường IS và LM sẽ dịch chuyển sang bên phải, tổng cầu , sản lượng sẽ tăng mạnh. Nếu tổng cầu ở mức quá cao có thể dùng chính sách tài chính chặt và tiền tệ chặt để giảm tổng cầu. 74
  17. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Khi tổng cầu ở mức vừa phải, sản lượng tương đối ổn định ở mức dự kiến, có thể dùng hỗn hợp tài chính chặt chẽ-tiền tệ nới lỏng hoặc tài chính mở rộng-tiền tệ chặt chẽ để làm biến đổi thành phần của tổng cầu. Với hỗn hợp tài chính chặt chẽ và tiền tệ nới lỏng vừa đủ để tổng cầu không thay đổi, nhưng tiêu dùng và đầu tư tăng lên chi tiêu chính phủ giảm xuống. Hỗn hợp này có thể ổn định sản lượng hiện tại nhưng có lợi cho sự tăng trưởng trong tương lai nhờ mở rộng quỹ vốn, sẽ có thêm việc làm với năng suất cao hơn. Tuy nhiên, nếu sự cắt giảm chi tiêu Chính phủ tập trung vào khoản đầu tư công cộng mang lại lợi ích chung thì cần được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng. Với hỗn hợp tài chính mở rộng và tiền tệ chặt chẽ có thể giữ nguyên tổng cầu, mở rộng khả năng đầu tư công cộng và hạn chế sự bành trướng về tiêu dùng và đầu tư. Trong thực tiễn đời sống kinh tế có quá nhiều các nhân tố kinh tế, xã hội, tâm lý...tồn tại trong thời gian dài, ngắn khác nhau, tác động cùng chiều hoặc ngược chiều đến nhiều vấn đề kinh tế. Mô hình trên đây chỉ là một mô hình đơn giản, nên thật khó đoán kết quả thật sự khi thực hiện các hỗn hợp chính sách nói trên. Cũng vì lẽ đó, chính sách tài khóa thường được coi trọng hơn bởi có tác động trực tiếp vào tổng cầu, còn chính sách tiền tệ phải qua một cơ chế lan truyền từ tác động vào thị trường tiền tệ và qua hiệu ứng của thị trường này tác động vào hành vi ứng xử của các tác nhân kinh tế, để có được một tổng cầu theo dự kiến. Khó có thể đánh giá chính xác tác động của chính sách tiền tệ. Khi thực hiện chính sách tiền tệ để quản lý (kiểm soát) tổng cầu thường gặp phải trở ngại là lạm phát. Trong những điều kiện nào đó về cung, chính sách tiền tệ nới lỏng có thể không đẩy được đường LM sang phải, toàn bộ phần gia tăng của mức cung tiền không có ảnh hưởng tới tổng cầu mà chuyển toàn bộ vào giá làm cho lạm phát trở nên trầm trọng. 5. Câu hỏi ôn tập Câu 1: Vì sao các Chính phủ thường muốn kiểm soát chặt chẽ lượng tiền đưa vào lưu thông. Câu 2: Đặc tính nào của tài sản giúp nó trở thành phương tiện trao đổi? Phương tiện cất trữ giá trị? Câu 3: Giả sử bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng thứ nhất như sau: Ngân hàng thứ nhất Tài sản có Tài sản nợ ∆ Dự trữ : 100.000 tr ∆ Tiền gửi: 500.000 tr ∆ Cho vay : 400.000 tr 75
  18. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái a. Nếu ngân hàng trung ương quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5% thì dự trữ dôi ra của Ngân hàng thứ nhất bằng bao nhiêu? b. Giả sử tất cả các ngân hàng khác có dự trữ đúng bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu Ngân hàng thứ nhất cũng quyết định dự trữ đúng như qui định của ngân hàng trung ương, thì cung ứng tiền tệ có thể tăng thêm bao nhiêu? Câu 4: Giả sử tỉ lệ dự trữ băt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn là 10%, các ngân hàng không có dự trữ dôi ra và tiền mặt không rò rỉ ngoài hệ thống ngân hàng. a. Nếu ngân hàng trung ương bán cho các ngân hàng 1 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, thì điều này ảnh hưởng như thế nào đến cơ sở tiền và cung ứng tiền tệ của nền kinh tế? b. Giả sử ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn 5% nhưng các ngân hàng lại quyết định giữ thêm 5% tổng tiền gửi dưới dạng dự trữ dôi ra. Tại sao các ngân hàng lại làm như vậy? Điều này có ảnh hưởng ra sao đến số nhân tiền và cung ứng tiền tệ của nền kinh tế? Câu 5: Giả sử hệ thống ngân hàng có tổng dự trữ bằng 100 tỉ đồng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, các ngân hàng không có dự trữ dôi ra và dân chúng không nắm giữ tiền mặt. a. Hãy tính số nhân tiền gửi và cung ứng tiền tệ? b. Nếu ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên 20% thì dự trữ và cung ứng tiền tệ thay đổi như thế nào? Câu 6: Một nền kinh tế giả định có 2000 tờ 100.000 đồng a. Nếu mọi người giữ toàn bộ tiền dưới dạng tiền mặt, lượng tiền sẽ là bao nhiêu? b. Nếu mọi người giữ toàn bộ tiền dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn và các ngân hàng có tỷ lệ dự trữ 100%, lượng tiền sẽ là bao nhiêu? c. Nếu mọi người giữ một lượng tiền mặt và một lượng tiền gừi không kỳ hạn bằng nhau, trong khi các ngân hàng dự trữ 100% lượng tiền sẽ là bao nhiêu? d. Nếu mọi người giữ tất cả tiền dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn và ngân hàng dự trữ là 10%, lượng tiền sẽ là bao nhiêu? e. Nếu mọi người giữ khối lượng tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn là bằng nhau trong khi các ngân hàng dự trữ 10%, lượng tiền sẽ là bao nhiêu? Câu 7: Dưới đây là số liệu giả định về bảng cân đối của hệ thống ngân hàng thương mại (Đơn vị tính : tỉ đồng) 76
  19. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Tài sản có Tài sản nợ Dự trữ : 500 Tiền gửi: 3.000 Trái phiếu: 2.500 Tổng : 3.000 Giả sử tỉ lệ tiền mặt so với tiền gửi của công chúng là 4. Hãy tính các chỉ tiêu sau: a. Số nhân tiền b. Cơ sở tiền c. M1 Sau đó giả sử NHTƯ mua trái phiếu của hệ thống NHTM với giá trị 2.500 tỉ đồng và hệ thống NHTM cho vay được toàn bộ dự trữ dôi ra. Hãy tính các chỉ tiêu sau: d. Cơ sở tiền e. M1 f. Lượng tiền mặt ngoài ngân hàng g. Lượng tiền gửi h. Dự trữ thực tế của các NHTM i. Tổng số tiền cho vay của hệ thống NHTM Câu 8: Giả sử các ngân hàng lắp đặt máy rút tiền tự động ở mỗi góc phố và điều này làm giảm lượng tiền mặt mà mọi người muốn nắm giữ a. Giả sử NHT Ư không thay đổi cung tiền, điều gì sẽ xảy ra đối với lãi suất? Điều gì sẽ xảy ra với tổng cầu b. Nếu NHTƯ muốn ổn định tổng cầu, ngân hàng trung ương nên phản ứng như thế nào Câu 9: Phân tích tác động ủa việc thay đổi cung tiền đến lãi suất, đầu tư, tổng cầu và sản lượng. Tại sao tăng cung tiền có thể không hiệu quả trong việc kích thích tổng cầu khi nền kinh tế đang rơi vào một cuộc suy thoái trầm trọng. 77
  20. Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái Chương V TỔNG CUNG VÀ CHU KỲ KINH DOANH Chương này chúng ta sẽ nghiên cứu về mặt cung của nền kinh tế và các yếu tố quyết định mức tổng cung (lao động, vốn, TSCĐ...). Chúng ta cũng đi nghiên cứu mối quan hệ giữa tổng cung - tổng cầu và các yếu tố, từ đó gây nên các chu kỳ kinh doanh. Trong chương này chúng ta bắt đầu xem xét các quan hệ kinh tế trong sự biến động của giá cả. 1. Thị trường lao động 1.1. Cầu lao động (Dn) Đường cầu về lao động (Dn) cho biết các hãng kinh doanh cần bao nhiêu lao động tương ứng với mỗi mức tiền công thực tế, trong các điều kiện khác nhau về vốn, tài nguyên...không đổi. Tiền công thực tế biểu thị khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà tiền công danh nghĩa có thể mua được, tương ứng với mức giá đã cho. Tiền công thực tế bằng tiền công danh nghĩa chia cho mức giá. Wr = Wn / P ( 5.1) Trong đó: Wr – tiền công thực tế Wn – tiền công danh nghĩa P - Mức giá chung Cung và cầu về lao động phụ thuộc rất nhiều vào tiền công thực tế chứ không phụ thuộc vào tiền công danh nghĩa. Đường cầu về lao động có độ dốc âm, hàm ý rằng khi tiền công thực tế giảm, cầu về lao động có xu hướng tăng lên. Các doanh nghiệp có một lượng tài sản cố định nhất định. Tài sản này kết hợp với lao động sẽ tạo nên sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Với một lượng TSCĐ đã cho thì theo quy luật thu nhập (năng suất) giảm dần, khi các doanh nghiệp thuê thêm lao động, sản phẩm cận biên của lao động sẽ giảm đi. Vì vậy, cầu về lao động của các doanh nghiệp chỉ tăng thêm chừng nào tiền lương hay tiền công thực tế giảm đi, để bù vào việc sản phẩm cận biên giảm đi do thuê thêm đơn vị lao động cuối cùng. Trong thực tế, tại một mức lương thực tế bất kỳ, các doanh nghiệp có thể thuê thêm lao động cho đến khi sản phẩm cận biên của lao động giảm bằng mức tiền công thực tế. Đó là lý do vì sao đường cầu về lao động lại dốc xuống. Khi lượng cầu lao động thay đổi do sự thay đổi tiền công thực tế, ta có sự di chuyển trên đường cầu. Khi số lượng tài sản cố định của các doanh nghiệp thay đổi, đường cầu sẽ dịch chuyển sang phải hoặc sang trái. 78
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2