intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (Dùng cho sinh viên ngành GD Mầm non – hệ từ xa): Phần 2

Chia sẻ: Lê Thị Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

534
lượt xem
93
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 Giáo trình Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (Dùng cho sinh viên ngành GD Mầm non – hệ từ xa) trình bày phương pháp tổ chức các hoạt động làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (Dùng cho sinh viên ngành GD Mầm non – hệ từ xa): Phần 2

  1. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON I. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG KỂ CHO TRẺ NGHE TRUYỆN Truyện kể là một tác phẩm văn học thuộc loại tự sự. Các thể truyện dân gian, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài đều là những thể loại rõ rệt nhất thuộc loại hình tự sự. Tác phẩm thuộc loại tự sự bao giờ cũng là một tác phẩm có tình tiết, tức là cố một câu chuyện làm nòng cốt, trong đó có những sự việc đang xảy ra, đang diễn biến, có sự tham gia của những con người với những hành động, ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách… của họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội và trong mối quan hệ lẫn nhau. Trong tác phẩm tự sự, tác giả có thể đóng vai trò người kể chuyện. Tư tưởng tình cảm, thái độ của tác giả biểu hiện chủ yếu là ở bản thân câu chuyện. Tác giả có thể đóng vai trò người kể chuyện một cách công khai nhưng thường giấu mình một cách rất khéo. Sự tồn tại của tác phẩm tự sự được dệt nên qua lời kể đó. Cho nên, trong những tác phẩm loại tự sự, chúng ta thường phân biệt có hai thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ gián tiếp (tức là lời kể của tác giả) và ngôn ngữ trực tiếp (tức là lời nói của nhân vật). Ngoài những đặc trưng này, các thể loại truyện kể đều có những phong cách, vẻ đẹp riêng. Ngôn ngữ truyện kể gần gũi với ngôn ngữ đời sống, nó giản dị, sinh động mang tính hình tượng khiến cho việc tiếp nhận tác phẩm của trẻ qua lời kể có những thuận lợi nhất định. 1. Hoạt động kể cho trẻ nghe truyện với giáo dục trẻ em Qua nghe kể chuyện, trẻ làm quen với văn học nghệ thuật, cảm nhận được những nét đẹp về nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn xuôi tự sự, phong cách riêng của từng thể loại truyện, hình thành ở trẻ sự cảm thụ văn học. Nhưng chúng ta đã biết, thế giới hiện đại dù có nhiều phương tiện giải trí hiện đại đến đâu cũng không thể ngay lập tức giúp trẻ định hướng cơ bản trong môi trường xung quanh. Thế giới xuất hiện trước mắt trẻ với toàn bộ những 119
  2. phong phú, phức tạp của nó. Trong tình hình như vậy, những bài ca, những truyện kể dân gian sẽ là người bạn đường tin cậy của trẻ. Truyện dân gian là một trong những loại tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên mà trẻ em nghe và yêu thích ngay từ tuổi ấu thơ. Truyện dân gian đưa các em về với quá khứ của dân tộc, giúp các em nhận thức thế giới mang tính đặc trưng của con người thời cổ với những khát vọng sống, những ước mơ cao đẹp. Qua nhưng truyện thần thoại, bước đầu trẻ nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên, những mối liên hệ trong thế giới tự nhiên với những ước mơ giải thích, chinh phục tự nhiên của người Việt cổ. Trong cách giải thích sự hình thành vũ trụ, bằng trí tưởng tượng vô thức của mình, người xưa đã tạo nên hình tượng Thần trụ trời đồ sộ, lớn lao, mang sức mạnh của tự nhiên, vũ trụ. Hiện tượng: cóc nghiến răng thì trời đổ mưa trong Cóc kiện trời, hiện tượng thủy triều trong Thần biển… đó là những hình tượng nghệ thuật rất hấp dẫn trẻ em, nó kích thích sự ham muốn tìm kiếm, khám phá các hiện tượng tự nhiên của các em. Không khí hào hùng, giàu chất sử thi trong những cuộc đấu tranh giữ nước anh dũng của dân tộc, với những người anh hùng được thần thánh hóa, mĩ lệ hóa, gắn với những chiến công hiển hách, trẻ sẽ truyền cảm nhận được với một niềm tự hào qua những truyền thuyết như truyền thuyết Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm. Đặc biệt truyện cổ tích xuất hiện từ xưa và sống đến nay, được mệnh danh là “truyện kể trong nhà và cho trẻ nhỏ”, có sức hấp dẫn kì lạ đối với các em chính bởi nội dung và hình thức nghệ thuật của nó, Tri giác thế giới theo lối truyện cổ tích là đặc điểm thông thường ở trẻ em. Truyện cổ tích dân gian giúp trẻ nhận thức được phẩm chất của các nhân vật, mối quan hệ của con người trong xã hội, cảm nhận được những quy luật, những triết lí thể hiện cảm quan đạo đức của nhân dân như: “ở hiền gặp lành”, “chính nghĩa thắng gian tà”. Truyện cổ tích bao giờ cũng chứa đựng nội dung giáo huấn sâu sắc. Qua những truyện kể, trẻ sẽ được làm quen với những quan niệm đạo đức và nền văn hóa 120
  3. của dân tộc mình. Qua những tấm gương, những bài học từ truyện dân gian, trẻ em tiếp thu được những cơ sở đầu tiên nền giáo dục đạo đức nhân dân. Trong truyện kể dân gian, hầu như không có những đoạn miêu tả cảnh thiên nhiên, chỉ đôi chỗ những hình ảnh, những cảnh vật được nhắc đến trong lời kể, mà thiên nhiên, không gian thực hiện vẫn hiện lên trước mắt người nghe. Một làng quê thanh bình yên ả, trong đó có những hình ảnh quen thuộc đậm phong vị nông thôn Việt Nam: Cây đa, giếng nức, ngày hội làng, những cánh đồng bát ngát. Không gian ấy bình dị, yên tĩnh mang đậm dấu ấn dân tộc. Ngữ điệu ngôn ngữ dân gian đã gợi những hình ảnh, làm cho cảnh thiên nhiên trong truyện trở nên sống động, phong phú đã làm nên những phẩm chất tâm hồn dân tộc trong mỗi một đứa trẻ khi nghe truyện cổ tích. Nhìn chung, truyện dân gian có những giá trị nghệ thuật rất độc đáo. Những hình tượng nghệ thuật, những cốt truyện, kết cấu, những nhân vật con người được kì diệu hóa và nhân vật thần kì, không gian và thời gian nghệ thuật của mỗi thể loại truyện… đều tạo sức hấp dẫn riêng. Vì vậy, khi kể chuyện dân gian, cô giáo cần biết cách trân trọng những giá trị thẩm mĩ ấy, đem nó đến cho người nghe. Như vậy, truyện dân gian là những tác phẩm truyền miệng trong nhân dân, được hình thành nơi cửa miệng những nghệ sĩ tài năng khi họ trực tiếp nói chuyện với người nghe. Bản thân chữ “truyện” cũng là bắt nguồn từ chữ “nói chuyện” mà ra. Trong suốt bao nhiêu thế kỉ truyền miệng từ người này sang người miệng người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, truyện dân gian vẫn giữ được vị trí của nó trong nền văn học mỗi dân tộc, mới có được những hình thức kết cấu truyền thống chặt chẽ, sự liên kết mạch lạc và một ngôn ngữ diễn cảm. Ngữ điệu của ngôn ngữ dân gian trong lúc nói có sức thuyết phục hơn khi đọc sách, vì thế truyện dân gian phải đem ra kể bằng miệng cho các em nghe để các em học được cách nói của nhân dân và cảm nhận được những tư tưởng, tình cảm truyền thống, nền văn hóa của dân tộc. Truyện cổ dân gian dành cho các em rất phong phú về thể loại: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn. Điểm nổi bật trong nội dung những truyện ấy là 121
  4. niềm lạc quan hy vọng, lối kết thúc có hậu. Vì vậy, giọng điệu chính của truyện kể dân gian là trong sáng, là yêu đời, sảng khoái có chút huyền bí, hài hước, hóm hỉnh. Những điều này đặc biệt quan trọng đối với cô giáo mẫu giáo trong việc đem truyện khể dân gian đến cho trẻ em. * Ngoài những truyện dân gian thường kể cho trẻ em nghe, một thể loại tiêu biểu nữa được trẻ em yêu thích trong chương trình làm quen với văn học đó là truyện đồng thoại. Đồng thoại là thể truyện cho trẻ em, trong đó loài vật và các vật vô tri được nhân cách hóa để tạo nên một thế giới thần kì, thích hợp với trí tưởng tượng của các em. Đây là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ tưởng, nhân vật chính thường là các loài vật và các đồ vật vô tri vô giác được nhân cách hóa để tạo nên một thế giới vừa hư vừa thực. Qua cái thế giới vừa hư, vừa thực đó, truyền đồng thoại nhằm biểu hiện cuộc sống sinh động của xã hội loài người, nó làm giàu vốn sống cho trẻ. Truyện đồng thoại có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp trẻ nhận thức thế giới. Truyện nói về thế giới động vật gần gũi, nên nó cung cấp cho trẻ những tri thức về môi trường tự nhiên. Trẻ biết tên gọi, đặc điểm của vô vàn các loài động vật sống trong nhà cũng như loài động vật sống trên rừng như: hươu, nai… đến các loài động vật bay trên trời như chim, đại bàng…; sống dưới nước như rùa, cá, mực, bạch tuộc… Qua ngòi bút miêu tả của tác giả, trẻ còn nắm được tập tính và môi trường sống của chúng, hiểu một số hiện tượng tự nhiên hết sức thú vị như: mực phun ra chất có màu đen để lẫn trốn kẻ thù, bạch tuộc có những cánh tay dài và có thể thay đổi màu da theo màu sắc của từng vùng nước (Truyện “Mực con tìm mẹ”) hay hiện tượng nòng nọc đứt đuôi thành nhái bén (Truyện “Trong một hồ nước” - Võ Quảng). Trong truyện đồng thoại, tất cả thế giới động vật, cỏ cây, hoa lá… đều có linh hồn. Mỗi câu chuyện đều nhên lên ở trẻ tình yêu thiên nhiên, cuộc sống khiến trẻ có thể hòa mình với những trang viết, hòa mình vào thế giới thiên nhiên để nghe tiếng rì rao của con suối; để bay lên bầu trời đi chơi cùng giọt nước tí xíu, nghe tiếng hót của chim hoàng yến, hay đi xuống lòng biển phiê lưu 122
  5. trong thế giới huyền diệu của san hô. Điều đó làm giàu thêm kiến thức, phong phú đời sống tâm hồn của trẻ. Những kiến thức tìm thấy từ những câu chuyện này thôi thúc trí tò mò, lòng ham hiểu biết muốn khám phá thế giới tự nhiên xung quanh của trẻ. Qua các hình tượng nhân vật trong truyện đồng thoại, trẻ nhận ra mối quan hệ con người trong xã hội, tình cảm cao đẹp giữa con người với con người. Đó là tình cảm gia đình như truyện “Mắt giếc đỏ hoe” - Võ Quảng “Bồ nông có hiếu” - Phong Thu, đặc biệt mối tình bạn thắm thiết giúp đỡ nhau trong hoạn nạn: “Đôi bạn tốt” - Thu thủy sưu tầm, “Sẻ con tìm bạn” - Bích Hồng, “Trong một hồ nước” - Võ Quảng và rất nhiều những tình cảm cao quý khác nữa như cách cư xử tế nhị giữa đồng loại, tình cảm gắn bó giữa những con người lao động, tinh thần tập thể (truyện “Những chiếc áo ấm” - Võ Quảng). Từ nhận thức, cảm xúc sẽ phát triển ở trẻ những tình cảm đạo đức. Những tình cảm đó sẽ mang đến cho các em sức mạnh, những niềm vui trong cuộc sống, làm bừng cháy lên ngọn lửa yêu thương trong các em. Với đặc trung thể loại, truyện đã đem đến cho trẻ những giá trị nhân văn cao quý, những bài học làm người một cách nhẹ nàng mà sâu sắc, từ đó trẻ tự giác xây dựng, cũng cố những thói quen hành vi đạo đức. Trong truyện đồng thoại, tính chất mơ tưởng hoặc khoa trương là yếu tố không thể thiếu. Sự tung hoành của trí tưởng tượng là một thuộc tính cơ bản khiến truyện dễ tác động trực tiếp vào trẻ em, làm phong phú, làm cho trí tưởng tượng của các em phải hoạt động. Tưởng tưởng trong đồng thoại đều được xây dựng, bắt nguồn từ thực tế dù rất xa xôi hoặc từ một thói quen về tập túc nào đó cho nên nó cũng dễ đi vào các em và các em đón nhận nó một cách rất tự nhiên, thích thú. Đồng thoại gần gũi với trẻ thơ còn bởi lối viết ngắn gọn vui tươi, dí dỏm, với nhiều yếu tốt bất ngờ thú vị. Nó đem đến cho trẻ những ước mơ hay bay bổng, những cảm xúc thẩm mĩ về thế giới tự nhiên. Trong quá trình tổ chức hoạt động kể cho trẻ nghe truyện, ngoài việc hình thành sự tập trung, chú ý có chủ định, cô giáo còn phát triển tính tích cực cá 123
  6. nhân, cá kĩ năng tư duy cho trẻ bằng việc trao đổi với các em về tác phẩm. Quá trình trao đổi, trẻ sẽ cố gắng thể hiện một phong cách rõ ràng, mạch lạc suy nghĩ của mình. Dó cũng chính là ý nghĩa lớn của hoạt động kể cho trẻ nghe truyện ở trường mầm non, nó sẽ giúp góp phần giáo dục, đào tạo, phát triển trẻ. 2. Tư cách thực hiện Kể chuyện có nghệ thuật theo nội dung tác phẩm văn học, hay một phần của tác phẩm đó, chính là truyền đạt không cần phải kể đúng lại từng từ. Kể có tính chất sáng tạo, người kể có thể hòa trộn ngôn ngữ của mình vào ngôn ngữ tác phẩm, thể hiện mối quan hệ riêng và phong cách kể riêng của mình với tác phẩm. Khi cố giáo kể chuyện, câu chuyện sẽ đọng nhiều tình cảm bởi ngữ điệu biểu cảm khi kể làm cho lượng thông tin được giãn ra, trẻ đỡ căng thẳng khi theo dõi. Trước mắt các em những hình tượng sẽ hiện ra như thật, cá tính và hành vi các nhân vật được vẽ ra rõ nét hơn. Khi kể, ngoài lời văn của truyện, bộ mặt, nét mặt, cử chỉ và mối giao cảm trực tiếp của người kể với người nghe cũng như phản ứng đáp lại của thính giả nhỏ tuổi đóng vai trò to lớn. Một điều quan trong là phải làm sao cho tác phẩm văn học được thể hiện chân thực với đối tượng trẻ em, tác động được đến tình cảm cửa các em. Chỉ khi đó nó mới đi vào ý thức, gây được ấn tượng bền vững trong từng em. Sự nhạy cảm, sự quan tâm đến chủ định của tác giả, đến nội dung nghệ thuật của truyện kể sẽ giúp người kể xác định được giọng điệu tác phẩm. Trên cơ sở đó, tìm ra được ngữ điệu đúng, cái sẽ mang đến cho người kể sinh khí. Sau đó, cô giáo xác định phương pháp chính và các phương pháp kết hợp, vận dụng nó vào quá trình kể chuyện. Để cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm, giúp trẻ tri giác tác phẩm, cô giáo cần kể chuyện diễn cảm kết hợp với các hình thức nghệ thuật khác để trình bày tác phẩm (vận dụng phương pháp cơ bản “Đọc và kể tác phẩm văn học có nghệ thuật”. Trước khi thực hiện việc kể chuyện diễn cảm, cô giáo cần tạo ra môi trường kể chuyện với những màu sắc rất riêng phù hợp với từng truyện để cuốn hút trẻ vào thụ cảm của tác phẩm.Truyền thuyết mang âm hưởng sử thi hào hùng được người xưa kể trong không gian rộng, giữa quảng trường rộng lớn, trên sân khấu 124
  7. vòng tròn… Truyện cổ thường được kể trong không gian hẹp, trong căn phòng ấm cúng, bên bếp lửa. Ở trường mầm non, cô giáo nên chú ý đến những yếu tố này để chọn hoàn cảnh kể, thời điểm kể cho phù hợp. Đối với truyện cổ tích, có thể tạo không gian huyền ảo bằng việc bật một ngọn đèn, hoặc một bếp lửa giả, cửa hơi khép lại, cô giáo và trẻ ngồi quây quần bên nhau… dần dần đưa trẻ vào môi trường cổ tích rồi kể. Với truyện “Thạch Sanh”, chúng ta có thể dựng một bức phông màn có cây đa to và cô giáo có thể mào đầu truyện “Ngày xửa ngày xưa, ở gốc cây đa này, có một chàng trai tên Thạch Sanh, ngày đi kiếm củi, tối về ngủ lại…”. Một điều không thể thiếu trong hoạt động kể chuyện là cô giáo phải giới thiệu tên truyện gắn với thể loại, tên tác giả (nếu có): “Hôm nay cô sẽ kể chuyện cổ tích Cây khế” để trẻ biết gọi tên tác phẩm, nhớ và dần từng bước nhận ra được văn học nghệ thuật với các thể loại quen thuộc. Điều này rất có ý nghĩa trong việc giáo dục nghệ thuật cho trẻ. Giới thiệu tên tác phẩm cho trẻ làm quen, cô giáo thể hiện sự say sưa như một người ham thích truyện, thích kể chuyện. Mục đích là để trẻ tập trung chú ý, khơi gợi hứng thú chờ đợi. Khi kể diễn cảm, cần lưu ý rằng truyện bao giờ cũng có tình tiết, tức là có một câu chuyện làm nòng cốt, trong đó có những sự việc đang xảy ra, đang diễn biến, có sự tham gia của những con người với những hành động, ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách trong mối quan hệ với thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội và trong mối quan hệ với nhau. Truyện dân gian cũng du hành trên cỗ xe của tình tiết. Mặc dù sự truyền miệng qua không gian và thời gian nhưng thường thường, các tình tiết chính vẫn còn giữ được, tạo nên bản sắc độc đáo của truyện. Người ta ghi nhớ và truyền tụng truyện dân gian thường vì tình tiết hấp dân, kỳ diệu, qua đó hình tượng nhân vật được khắc họa một cách hiển hiện và ý nghĩa của tác phẩm được bộc lộ một cách mạnh mẽ. Trong văn học, ít có những hình ảnh nào có sức mạnh lớn lao và vẻ đẹp như những hình ảnh do nhân dân tưởng tượng ra trong truyện truyền thuyết dân gian như cậu bé Phù Đổng ăn cơm mãi không no mà vươn vai một cái trở thành người khổng lồ đi đánh giặc, đã có hình ảnh vợ chồng, anh em tiết nghĩa nào đẹp bằng hình ảnh trầu cau và vôi quấn quýt bên 125
  8. nhau trong truyện cổ tích “Sự tích trầu cau”, đã có hình ảnh người vợ nào trong tiểu thuyết của ta mà so sánh được với nàng Tô Thị đứng ôm con chờ chồng cho đến hóa thành đá. Những hình tượng kỳ diệu và cốt truyện hết sức điển hình như vậy đã làm cho truyện cổ tích không cần ghi thành lời văn hay mà vẫn có sức sống được mãi. Sự tồn tại của tình tiết (hay còn gọi là cốt truyện) là một đặc trưng căn bản của bất cứ truyện dân gian hay hiện đại, điều này người kể chuyện cần nhớ. Nhưng khi kể diễn cảm thì cô giáo có thể nhấn vào những tình tiết chính hoặc lướt qua những tình tiết không làm ảnh hưởng đến việc hiêu nội dung cũng như việc tiếp thu ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ. Tuy nhiên, nếu cô giáo chỉ chú ý đến việc cho trẻ ghi nhớ cốt truyện hoặc thêm thắt các chi tiết rườm rà, bỏ đi những tình tiết, những câu văn có hình ảnh, gợi cảm, thì truyện kể sẽ chỉ là bộ xương khô khốc, vô hồn. Tình tiết là sự việc, là biến cố đang vận động, đang phát triển, nhưng trung tâm của sự việc, của biến cố là con người, trung tâm của tình tiết là nhân vật. Điều quan tâm muôn thuở nhất của văn học là số phận con người. Truyện kể về con người, trung tâm của tình tiết là nhân vật. Điều quan tâm muôn thuở nhất của văn học là số phận của con người. Truyện kể về con người, về vận mệnh, số phận của những con người. Trong truyện dân gian, tình tiết gắn chặt bởi nhân vật không rời, cứ theo hành động nhân vật thì sẽ là nội dung cốt truyện. Nhân vật trong truyện dân gian thường có tính chất đơn thuần, hoặc tốt hoặc xấu rõ rệt, ít nhân vật đa dạng, phức tạp, mẫu thuẫn. Sức hấp dẫn của truyện dân gian thường dựa vào sự đột ngột, li kì. Do đó tình tiết thường khi có tính chất ngẫu nhiên, có nhiều yếu tố tình cờ xen vào câu chuyện làm động lực cho sự phát triển của truyện. Yếu tố tình cờ rõ rệt nhất là vai trò của trời, phật, thần, tiên như những lực lượng bên ngoài can thiệp vào công việc của con người để giải quyết tất cả các vấn đề rắc rối khi cần. Sức hấp dẫn của các hình tượng nhân vật trong truyện dân gian thường dựa vào sự phóng đại, kì diệu, lãng mạn. Ví dụ: Sơn Tinh hóa phép núi cao lên để ngăn nước, Thánh Gióng vươn mình lớn vụt lên để đi đánh giặc, cô Tấm hóa thành con chim Vàng anh, Mị Châu 126
  9. chết, máu trở thành hạt trai dưới biển,..Cô giáo cần đặc biệt lưu ý đến nhũng yếu tố đó trong khi kể chuyện để những hình tượng nghệ thuật giàu chất lãng mạn này in sâu đậm trong tâm trí của tuổi thơ. Trong quá trình phát triển văn học, nghệ thuật xây dựng nhân vật của truyện ngày càng phát triển. Truyện đi sâu vào miêu tả thế giới nội tâm, các diễn biến tâm lý, các sắc thái tâm tư của con người với những chi tiết chân thực, gần giống như trong đời sống thực. Truyện đồng thoại đã thể hiện những nét đó. Lời kể chuyện là yếu tố rất quan trọng. Cốt truyện, nhân vật, toàn bộ hình tượng của truyện được dệt nên qua lời kể đó. Lời kể một mặt là phương tiện để phản ánh cuộc sống thành hình tượng trong truyện, mặt khác cũng là phương tiện để biểu hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, sự đánh giá của tác giả đối với cuộc sống. Một truyện hay còn do bản thân nội dung câu chuyện, đồng thời còn do cách nhận xét, đánh giá, nói chung là thể hiện thái độ của người kể đối với sự việc và con người trong truyện, cái mà L.Tônxtôi gọi là “thái độ đạo đức độc đáo của tác giả”. Như vậy, khi kể chuyện, cô giáo cần căn cứ vào diễn biến tâm trạng của nhân vật, hành động của nhân vật, bối cảnh xảy ra các tình tiết đó mà thể hiện ngữ điệu giọng phù hợp. Cùng một nhân vật nhưng trong bối cảnh khác nhau, sắc thái ngữ điệu được thể hiện khác nhau. Ví dụ trong truyện cổ tích “Tấm Cám”, lúc Tấm hát gọi bống, cô giáo phải thể hiện được tình cảm yêu thương của Tấm bằng ngữ điệu, nhịp điệu êm dịu, tha thiết: “Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” Nhưng đến tiến trình hai của truyện, mâu thuẫn giữa Tấm và Cám đã lên đến đỉnh điểm thì ngữ điệu lúc này sẽ là gay gắt, quyết liệt: “Phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao” Hay trong truyện đồng thoại “Chú dế mèn”, giọng sói hống hách, hung hăng quát nạt khi gặp dê trắng nhút nhát, yếu đuối. Nhưng khi gặp dê đen dũng 127
  10. cảm, giọng nói thay đổi từ quát nạt đến yếu dần, hốt hoảng, sợ hãi. Trong truyện “Cô bé quàng khăn đỏ” hoặc trong “Dê con nhanh trí”, giọng sói lại được thể hiện ngược lại. Chó sói nói rất nhẹ nhàng, ngon ngọt, biểu lộ tình thân ái để đánh lừa cô bé và rất dịu dàng khi bắt chước giọng dê mẹ. Ngữ điệu giúp cho người nghe hình dung được diện mạo, cá tính phẩm chất của các nhân vật, thể hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh, chú ý chỗ ngừng nghỉ. Khi kể, cần chú ý một số kỹ thuật thể hiện như cường độ, nhịp độ, ngắt giọng…Có lúc cường độ giọng nhỏ khi thể hiện tình cảm, sự âu yếm thân mật: “Dê mẹ ây yếm ôm dê con vào lòng, thơm lên đầu con và khen con của mẹ ngoan lắm”. Khi miêu tả tiếng loa để tìm người cứu của sứ giả: “Loa ! Loa ! Loa ! Giặc Ân sang cướp nước ta. Ai là người tài giỏi hãy ra giúp nước. Loa ! Loa ! Loa …”thì cần phải lớn giọng. Hay khi kể chuyện “Sự tích hồ Gươm” đến đoạn: “Trong lúc mấy người đang bàn tán thì bỗng từ mặt nước tiếng nói vang lên: - Tà là Long Quân đây: Thấy Lê Lợi quyết tâm đánh giặc Minh cứu nước, ta cho Lê Lợi mượn gươm thần để diệt giặc. Các ngươi mang thanh gươm này về dâng cho Lê Lợi Đột nhiên nge tiếng nói lạ, cả mấy người lính hoảng hốt nhìn nhau, bỗng tiếng nói lúc này vang lên rành rọt hơn: - Đây là thanh gươm rất quý, nếu biết sử dụng thì nó sẽ giúp Lê Lợi và các ngươi đánh thắng giặc Minh. Nếu không biết sử dụng thì nó cũng sẽ tầm thường như mọi thanh gươm khác. Ta tin ở tài của Lê Lợi, tin ở sức mạnh của nhân dân nên ta cho mượn. Các ngươi hãy mang gươm về dâng cho Lê Lợi”. Cường độ tiếng nói của Long Quân cao hơn, to hơn, mạnh hơn đoạn đầu và đoạn kết. Cường độ giọng còn còn cần phải tương ứng với không gian, số lượng của trẻ nghe truyện. Kể chuyện phải có nhịp điệu. Nhịp điệu thể hiện trong sự phát triển của những chi tiết, kết cấu, tương ứng với hành động nhân vật, cả trong ngôn ngữ 128
  11. của truyện. Như vậy, cách trình bày của người kể cũng có thể nhanh, chậm, tạo một tâm lý lôi cuốn người nghe. Trong “Tấm Cám”, ta có thể kể với nhịp độ nhanh dồn dập đoạn Tấm biến hóa liên tục lúc thì biến thành chim vàng anh, lúc thành cây xoan đào, thành khung cửi…thể hiện sự gay go quyết liệt để dành sự sống, dành hạnh phúc của Tấm trước những hành động đen tối, tàn ác không kém phần quyết liệt của mẹ con Cám. Trong truyện “Thánh Gióng” khi kể đến đoạn Gióng phi ngựa ra trận đánh giặc Ân, phải kể với nhịp điệu nhanh, thôi thúc: “Gióng đội nón, cầm gậy nhảy phốc lên ngựa. Ngựa sắt hí vang phun ra lửa rồi phóng như bay ra trận. Lúc đó, giặc Ân đang tràn đi khắp nơi giết người cướp của. Gióng thúc ngựa phi thẳng vào quân giặc. Gậy sắt vung lên như ánh chớp đánh xuống đầu giặc, ngựa sắt phun lửa thiêu lũ giặc ra tro. Bỗng nhiên cây gậy sắt của Gióng bị gãy. Gióng nhổ từng bụi tre bên đường quất túi bụi vào đầu giặc. Giặc Ân thua chạy tan tác, xác giặc ngổn ngang khắp nơi”. Đến đoạn tiếp theo phải kể với giọng chậm lại: “Đánh xong giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa qua làng Phù Đổng, chào từ biệt mẹ già, rồi cả người và ngựa bay thẳng lên Núi Sóc Sơn. Đời sau, nhớ ơn ông Gióng có công đánh giặc giữ nước, nhân dân ta đã lập đền thờ ở làng Phù Đổng”. Ngắt giọng là sự ngừng nghỉ, nhấn giọng trong giấy lát khi đọc, khi kể tác phẩm. Ngắt giọng là để nhấn mạnh vào ý, vào từ nào đó để gây bất ngờ, hồi hộp cho người nghe, để chuyển từ đoạn này sang đoạn khác. Sự kết hợp điệu bộ, cử chỉ, nét mặt trong khi kể diễn cảm hết sức tự nhiên, tránh khoa trương thái quá. Cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, dáng vẻ là sự nối tiếp câu chuyện do nội dung truyện và tâm hồn người kể tạo ra, nó giúp cho trẻ em hình dung ra một cách đầy đủ hình tượng tác phẩm. Khi kể chuyện cần chú ý vào giao tiếp giữa cô giáo với các em. Điều này cần được lưu ý cả trong các hoạt động đọc thơ, truyện ở trường mầm non trong việc giáo tiếp với các em, vai trò chủ yếu và quyết định là đôi mắt của người trình bày, trong đó phản ánh được những sắc thái tình cảm, nội tâm tinh tế nhất. Trong những ánh mắt của người nghe, dù đó là người lớn hay trẻ em, người 129
  12. trình bày bao giờ cũng tìm thấy sự phản ánh mức độ quan tâm đến tác phẩm mà họ đang nghe. Qua đôi mắt của người trình bày tác phẩm và đôi mắt của các thính giả nhỏ tuổi, chúng ta sẽ tìm thấy ở đó sự giao hòa tiếng nói nghệ thuật. Về cơ bản, sự giao tiếp này phải được hiểu là sự tiếp xúc thường xuyên bên trong giữa những người trình bày và người nghe, sự tiếp xúc xuất hiện trong quá trình dùng nghệ thuật tác động đến trí tuệ và tình cảm của người nghe, là nguyện vọng của người kể muốn buộc các em nhỏ nhìn thấy những cái đang nói tới, hiểu được tư tưởng câu chuyện, đánh giá được những sự kiện xảy xa, những hành động của nhân vật buộc các em phải suy nghĩ, phải vui buồn, phải cùng hồi hộp với người kể, phải tin tưởng vào những điều đã nghe. Đây cũng là điều cần lưu ý khi tiến hành những hoạt động đọc tác phẩm văn học cho các em nghe và tổ chức cho trẻ đọc, kể lại tác phẩm. Ngoài việc sử dụng lời kể chuyện diễn cảm, trong quá trình kể, cô giáo có thể kết hợp với âm thanh, âm nhạc phù hợp với giọng điệu, ngữ điệu truyện kể. Cô giáo kể diễn cảm trên nền nhạc đệm, có thể khúc dạo đầu, có thể nối tiếp những chỗ ngừng, ngắt nghỉ khi thể hiện tâm trạng nhân vật hỗ trợ cho sự cảm thụ văn học của trẻ. Kể diễn cảm kết hợp với trao đổi, gợi mở, để phát triển làm sâu sắc quá trình nhận thức của trẻ. Đây là sự kết hợp giữa các phương pháp cơ bản trong quá trình tổ chức hoạt động làm quen văn học ở trường mầm non nói chung và kể cho trẻ nghe truyện nói riêng. Việc trao đổi với trẻ về tác phẩm có thể tiến hành ở đầu xen vào giữa những lần kể hoặc củng cố kết thúc hoạt động. Mở đầu hoạt động kể chuyện, cô giáo trò chuyện, thăm dò: “các cháu đã được nghe kể chuyện cổ tích chưa? Các cháu đã được nghe và biết truyện cổ tích nào rồi? cháu có thích không và nhớ được những gì nào? Bây giờ thì lắng nghe cô kể chuyện Tấm Cám nhé!”. Dụng ý tạo khống khí, tập trung nghe truyện, thăm dò mức độ quen thuộc của trẻ với truyện. Căn cứ vào mục đích yêu cầu của hoạt động kể truyện trên những dạng thức tiết học, cô giáo trao đổi với trẻ bằng hệ thống câu hỏi về tác phẩm. Cô có thể hỏi: “Trong truyện Tấm Cám có những nhân vật nào?”, “Tấm và Cám trong truyện là người như thế nào? Tại sao cháu lại nghĩ như vậy nhỉ” hoặc “cháu có nhận xét gì về hai nhân vật Tấm và Cám 130
  13. trong chuyện cô vừa kể?”. Ở những câu hỏi này, cô giáo vừa cho trẻ nắm được nội dung của truyện, hình thành phát triển thao tác tư duy so sánh, bước đầu biết phân tích, tổng hợp, khái quát. Kể diễn cảm sáng tạo kết hợp với đọc. Nghệ thuật kể truyện diễn cảm cho phép kể chuyện kết hợp với trích đoạn đọc diễn cảm truyện. Trong quá trình kể diễn cảm truyện “Tấm Cám” cô giáo kết hợp đọc với nhịp độ nhanh đoạn hóa thân chuyển tiếp liên tục của Tấm tạo ra thế giới hoang đường kỳ lạ, in đậm màu sắc thẩm mĩ: Tấm hóa thành chim Vàng Anh…, Cám rình lúc vắng bóp chết chim Vàng Anh nướng cho mèo ăn, còn lông chim đem chôn sâu ngoài vườn …ở chỗ lông chim mọc lên cây xoan đào thật đẹp…, Cám chặt cây đi, lấy gỗ xoan đào đóng khung cửi…tiếng kêu “cót ca, cót két. Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”. Cám đốt khung cửi. Kể diễn cảm kết hợp với giải thích, thay thế từ ngữ khó hiểu để phát triển ngôn ngữ: “Ngày xửa, ngày xưa, đã lâu lắm rồi, ở một làng nọ, trong một ngôi nhà nhỏ có hai chị em cùng cha khác mẹ tên là Tấm và Cám”. Kể diễn cảm kết hợp với sử dụng trực quan. Phương tiện trực quan sử dụng để kể truyện rất phong phú, đòi hỏi cô giáo cần biết lựa chọn một đến hai loại trực quan cần thiết và phù hợp nhất cho hoạt động kể, tranh ôm đồm, làm dụng, rối rắm. Vì trực quan không thay thế được lời kể. Lời kể là một hoạt động ngôn ngữ đời sống gần gũi với lời nói hằng ngày, cần rèn luyện ngôn ngữ nói cho trẻ. Có thể sử dụng trực quan để gây hứng thú mở đầu giờ học bằng việc đưa ra một bức tranh rực rỡ có nhân vật nào đó trong truyện kết hợp với câu mào đầu “Muốn biết nhân vật này như thế nào các cháu hãy lắng nghe cô kể”. Trong quá trình kể chuyện diễn cảm, cô giáo kết hợp sự dụng trực quan là rối tay, hoặc là đồ chơi, hoặc là tranh minh họa…nên vào sau lần kể thứ ba hoặc thứ tư, hoặc giải thích từ mới tùy vào mục đích hình thành, khắc sâu, củng cố biểu tượng. Việc sử dụng trực quan cần được kết hợp nhuần nhuyễn với lời kể giàu sức biểu cảm. Những trực quan là những bức tranh dùng để minh họa cần khái quát, không dàn trải. Ví dụ kể truyện cổ tích Tấm Cảm chỉ cần khoảng sáu bức tranh 131
  14. với những tình tiết nghệ thuật rõ nét, trọng tâm, gây được ấn tượng mạnh cho trẻ về tác phẩm. Có thể là bức tranh vẽ có cô Tấm nâng trên tay con Bống ngước mắt nhìn ông Bụt; cô Tấm thử hài; cô Tấm trên ngọn cau, mẹ con Cám ở dưới gốc chặt cau; Cô Tấm biến thành chim vàng anh bên vua; cô Tấm từ trong quả thị bước ra; vua nhận ra Tấm từ miếng trầu tiêm cánh phượng trong quán nhỏ của bà hàng nước. Còn truyện tranh nên cho trẻ xem ở góc đọc sách. Kể diễn cảm kết hợp với lời bình, giúp mở rộng làm phong phú truyện đó là một cách kể sáng tạo. Ví dụ: tưởng giết được Tấm là mẹ con Cám thỏa được lòng ghen tức và Cám sẽ vào cung mà thay chị hưởng giàu sang, nhưng Tấm chết vẫn chưa hết truyện. Tấm chết nhưng linh hồn Tấm hóa thành chim vàng anh bay vào cung vua để đối phó với mẹ con Cám. Kể diễn cảm tóm tắt toàn bộ truyện kết hợp với tranh vẽ làm hình tượng trực quan. Lần kể tóm tắt này truyện sẽ được rút gọn khái quát để trẻ nghe cái không được kể ra, để trẻ hiểu được cái thống tin tiềm ẩn, trẻ nhớ cốt truyện, hiểu nội dung và làm quen với hệ thống ngôn ngữ mới. Hình tượng trực quan giúp trẻ dễ dàng đi vào tượng tưởng, hình dung nối kết các hình ảnh diễn ra trong truyện. Trong hoạt động kể chuyện ở trường mầm non, tích hợp các nội dung học để đạt được những mục tiêu giáo dục được xác định đa làm cho hoạt động học mang nội dung phong phú, mở ra cho cô giáo những cơ hội, điều kiện chủ động sáng tạo để nâng cao hiệu quả hoạt động kể chuyện, giúp cho những hoạt động học trở nên nhẹ nhàng, ủy chuyển. Tổ chức cho trẻ vẽ tranh sau khi nghe kể chuyện sẽ góp phần to lớn vào việc khắc sâu những biểu tượng, phát triển những tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ, giáo dục nghệ thuật cho trẻ. Tranh vẽ thể hiện thế giới bên trong của đứa trẻ, phát triển các kỹ năng vẽ của trẻ. Trong quá trình kể chuyện, cô có thể kết hợp đưa yếu tố chơi để tạo ra động cơ và hứng thú học tập, giúp cho việc ghi nhớ chuyện làm sâu sắc ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Trò chơi “nhổ củ cải” đã kích hoạt hoạt động học một cách tích cực từ phía trẻ. Trò chơi “thử hài” khi kết thúc truyện Tấm Cám có thể được tiến hành như sau: Sau những lần kể diễn cảm kết hợp với các biện pháp khác để kết thúc tiến trình một của truyện, cô giáo tổ chức 132
  15. trò chơi bằng lời trò chuyện: “Bây giờ các cháu có muốn làm hoàng hậu như cô Tấm không? Cô cũng nhặt được một chiếc hài như của cô Tấm, ai thử vừa hài sẽ được làm hoàng hậu, các cháu sửa lại trang phục lên thử hài nào?”. Tiết học kết thúc trong không khí ngày hội. Trò chơi này khắc sâu chi tiết mang tính quốc tế của truyện cổ tích dân gian Việt Nam, gây một ấn tượng mạnh mẽ cho trẻ về ước mơ công bằng được thực hiện, về niềm tin chiến thắng của cái thiện, chính nghĩa, về một bài học đạo đức… Như vậy, chơi là một cách học của trẻ. Yếu tố chơi cần được giới hạn trong nội dung tri thức dạy. Yếu tố chơi hay có thể gọi biện pháp có tính vui chơi trong hoạt động làm quen với văn học cần bước ra từ tác phẩm và gắn với những tình tiết truyện. Nội dung chơi chứa trong tác phẩm, chủ thể chơi là trẻ bước vào cuộc chơi thể nghiệm mình, với mong muốn được như nhân vật mình yêu thích sẽ đem lại cho trẻ niềm vui lớn. Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trò chơi này và thấy rằng khi nhập cuộc chơi, trẻ em gái hồi hộp đưa chân vào thử hài, trẻ em trai cũng háo hức, chăm chú xem các bạn giá thử hài. Các em đã sống với truyện kể bằng niềm tin thánh thiện: “Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu” (Nguyễn Khoa Điềm) Trên đây là những phương pháp, biện pháp để kể chuyện cho trẻ nghe ở trường mầm non. Tùy từng tác phẩm với những đặc trưng thể loại, tùy từng đối tượng trẻ em, mà cô giáo chọn lọc, vận dụng cho phù hợp. Những phương pháp, biện pháp này chưa phải là giới hạn, nó sẽ được phát triển trong sự vận dụng sáng tạo của cô giáo. Chúng tôi cũng lưu ý thêm rằng trong hoạt động kể chuyện văn học, lời kể diễn cảm vẫn giữ vai trò chủ đạo, bời vì qua lời kể của cô giáo, trẻ em sẽ được tiếp xúc với lời hay ý đẹp, với những từ ngữ trong sáng, câu văn sinh động, giàu sức biểu cảm, có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục, phát triển trẻ em. Đọc và kể diễn cảm ngôn ngữ nghệ thuật sẽ là phương pháp cơ bản, chủ đạo của những hoạt động làm quen với văn học khác ở trường mầm non. Việc tiến hành hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe có thể được tiến hành trong lớp trên những dạng thức tiết học - hoạt động chung, trong các nhóm với 133
  16. những hứng thú mang đặc điểm cá tính riêng. Có thể được tiến hành trên các hình thức tổ chức khác như trong các góc, trong sinh hoạt hằng ngày…Dù bấ kỳ dưới hình thức nào, cô giáo cũng phải kể tác phẩm diễn cảm đúng với giọng điệu tác phẩm và hướng vào giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đã đặt ra. CÂU HỎI 1. Mục đích, ý nghĩa của tổ chức hoạt động kể cho trẻ nghe truyện? Cho ví dụ minh họa. 2. Làm thế nào để tổ chức tốt hoạt động kể cho trẻ nghe truyện? 3. Chị hãy xác định phương pháp chính để tổ chức họạt động kể cho trẻ nghe chuyện? 4. Hãy soạn một giáo án và phân tích các phương pháp, biện pháp sử dụng trong giáo án? II. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ĐỌC TRUYỆN CHO TRẺ Truyện dân gian thường dùng để kể, các thể loại truyện khác thường dùng để đọc. Ở trường mầm non các em nhỏ rất thích thú nghe cả truyện ngắn. Trong nền văn học thiếu nhi, thể loại này được sử dụng khá rộng rãi. Nội dung truyện ngắn dành cho các em rất đa dạng, hình thức của nó cũng vậy. Đối với các em, yếu tố quan trọng trong truyện ngắn là tính cụ thể, là tình tiết gay cấn, là hình tượng rõ nét. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người, chính vì vậy trong truyện ngắn thường là hiện thân của một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người. Nội dung thể loại truyện ngắn có thể kể về một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật, cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự đói với cuộc đời. Chức năng của truyện ngắn nói chung là để nhận ra một điều gì. Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn thường là một sự tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. 134
  17. Ngoài ra, giọng điệu, cái nhìn cũng hết sức quan trọng, làm nên cái hay của truyện ngắn. Khác với truyện cổ tích, phần lớn truyện ngắn được đọc theo sách, cũng đều phải diễn cảm, có nghệ thuật. 1. Hoạt động đọc truyện với giáo dục trẻ em. Đọc truyện là sự truyền đạt trung thành tác phẩm, nên qua nghe đọc truyện, trẻ được làm quen với văn học viết, được tiếp nhận nguyên vẹn cả nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Sự chính xác về mặt ngôn ngữ khi đọc truyện cho phép trẻ lĩnh hội được vốn ngôn ngữ nghệ thuật phong phú, đa dạng với những từ ngữ trong sáng, giàu hình ảnh, âm thanh, màu sắc, những mẫu câu hoàn hảo với cách diễn đạt biểu cảm, tình cảm thẩm mĩ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng. Qua đó, trẻ có thể nghe và nhìn thấy bức tranh cuộc sống muôn màu muôn vẻ: “Những khu rừng trải ra vô tận dưới ánh trắng, sông hát lên niềm vui của mình. Những sợi trong xanh biếc chập chờn. Những con cá không muốn ngủ, cứ bơi lượn lấp lánh suốt đêm”. (Lời ru của trăng - Xuân Quỳnh). Nghe đọc truyện, trẻ được tiếp xúc, làm quen với văn bản nghệ thuật mạch lạc giàu sức biểu cảm, một văn bản có mối liên kết chặt chẽ giữa các từ, các câu theo một trình tự nội dung nhất định. Mỗi tác phẩm còn mở rộng hiểu biết cho các em về tự nhiên và xã hội. Bằng những truyện ngắn, các tác giả đã đưa các em vào thề giới thiên nhiên sinh động, mở rộng tầm hiểu biết cho các em, hướng dẫn các em hiểu được các hiện tượng thiên nhiên, làm cho các em quen với những hiện tượng dễ hiểu trong đời sống xã hội, tạo cho các em một khí sắc vui vẻ, sảng khoái. Đọc “Chú đỗ con”, trẻ được tìm hiểu về đặc tính của một loài hoa là có thể thay đổi màu sắc theo các thời điểm trogn ngày: “Kể cũng lạ thật! Nó là hoa Phù Dung. Sao cũng là hoa ,à nó lại tài ba đến thế? Nó biến màu như có phép lạ ấy! Sáng - màu trắng, trưa - màu hồng, chiều - màu đỏ”. (Chuyện của hoa phù dung - Nguyễn Thái Vận). Mỗi truyện ngắn, trong nó đều chứa đựng những vấn đề đạo đức sâu sắc, có giá trị lớn lao trong việc giáo dục các em lòng yêu mến và thích thú tìm hiểu quê hương đất nước. Từ trong nội dung các tác phẩm, trẻ học được những bài 135
  18. học đạo đức sâu sắc như sự kiên trì, chăm chỉ qua “Giọng hót chim sơn ca”, tình thương yêu đồng loại trong “Có một bầy hươu”, và rất nhiều những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp nữa trong các tác phẩm khác như lòng vị tha, sự can đảm, lòng hiếu thảo, sự biết ơn…Từ đó, trẻ yêu mến văn học nước nhà. Quá trình nghe truyện, sự tập trung chú ý có chủ định, khả năng ghi nhớ của trẻ được rèn luyện, phát triển. Tạo khả năng đọc và hứng thú đọc cũng là một mục đích thể hiện tính phát triển của hoạt động đọc truyện ở trường mầm non, đặc biệt với trẻ 5 - 6 tuổi. Quá quá trình đọc, dẫn dắt trẻ cảm nhận tác phẩm, cô giáo đã nhen lên ở trẻ niềm say mê hứng thú “đọc” sách và hình thành khả năng đọc. Nhiều lần được tiếp xúc với truyện đọc, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, trẻ nhận ra chữ cái trong từ, từ trong câu, rồi tập ghép chúng lại với nhau để đọc ra được những dòng chữ. Chính quá trình quan sát cô đọc, trẻ đã học được cách ngồi đọc đúng tư thế, biết cách cầm sách, mở sách, đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Đây là những kỹ năng cần thiết để trẻ bước vào lớp Một. Như vậy, đọc truyện có một ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo. Đó chính là sự chuẩn bị để trẻ vững vàng, tự tin bước vào trường phổ thông. 2. Cách thức thực hiện Đọc truyện ngắn mà diễn cảm gây được ấn tượng chú ý muốn còn khó khăn hơn là kể chuyện cổ tích. Nếu trong truyện cổ tích bản thân nội dung và hình thức của nó đã mang sẵn một số phương tiện diễn cảm: sắc điệu thần bí của truyện thần thoại, ngữ điệu hội thoại sinh động, tính nhịp điệu, những định ngữ nghệ thuật rất đẹp, tính chuẩn xác của ngôn ngữ dân gian… thì trong truyện ngắn những phương tiện ấy lại khác. Về cơ bản, truyện ngắn có tính hiện thực, tác giả lựa chọn nội dung truyện trong thực đời sống xung quanh. Sắc điệu cơ bản khi đọc truyện ngắn là sắc điệu ngôn ngữ hội thoại bình thường, vì thế khi trình bày phải sử dụng các ngữ điệu phong phú và đa dạng để dựng lại bức tranh âm thanh nghệ thuật của nó. Sau khi đã lựa chọn được tác phẩm hướng vào chủ đề, chủ điểm với các nhiệm vụ giáo dục, cô giáo cần xác định giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật 136
  19. của tác phẩm, thái độ của mình đối với nội dung, với các nhân vật, các sự kiện, từ đó định ra giọng điệu chính của truyện và tiến hành đọc truyện cho trẻ nghe bằng phương pháp đọc và kể tác phẩm có nghệ thuật. Trước khi đọc, cần tạo ra môi trường đọc phù hợp với tác phẩm để cuốn hút trẻ nghe đọc. Ví dụ có thể là một phông vẽ, hoặc sắp đặt ở trong lớp khung cảnh khu rừng có những tia nắng, với những con chim đậu trên cành cây… để đọc “Giọng hót chim Sơn Ca”. Cô giáo trò chuyện mào đầu hoặc cho trẻ xem ảnh tác giả, tranh bìa quyển truyện. Sau khi giới thiệu tên truyện, tên tác giả, cô giáo dắt trẻ vào câu chuyện: “Câu chuyện này nói gì vậy? Chúng ta sẽ tìm thấy trong quyển sách này?”. Cô giáo đọc diễn cảm tác phẩm nhiều lần, khi đọc không dấu diếm tình cảm của mình, đồng thời giúp các em nhỏ, những thính giả cả tin hiểu đúng nội dung. Cũng cần lưu ý thêm rằng khi đọc tác phẩm tự sự phải tôn trọng mạch lôgíc cốt truyện, khắc họa rõ nhân vật với những phẩm chất, tính cách qua các chi tiết nghệ thuật, qua ngôn ngữ. Có khi từ một chi tiết tạo ra sự hấp dẫn của cốt truyện, có khi từ một sự kiện tạo ra tình huống. Đặc biệt chú ý nhấn vào những câu văn hay, mẫu mực, giàu hình ảnh, làm nổi rõ những đoạn miêu tả để trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học viết. Đọc truyện diễn cảm có nghệ thuật cần được tiến hành kết hợp với âm thanh, âm nhạc phù hợp với giọng điệu, âm sắc của tác phẩm, tâm trạng của nhân vật. Có thể là tiếng chim hót, tiếng suối chảy róc rách khi đọc “Giọng hót chim Sơn ca”, một bản nhạc êm dịu khi đọc diễn cảm “Lời ru của trăng”. Trong khi tiến hành đọc truyện cho trẻ nghe, chúng ta cần tiến hành trao đổi với trẻ về tác phẩm. Việc trao đổi có thể bắt đầu khi mở đầu hoạt động đọc để gây tò mò, hứng thú, có khi diễn ra sau những lần đọc để trẻ hiểu sâu sắc giá trị nội dung, hình thức tác phẩm, giúp cho tư duy và ngôn ngữ của trẻ phát triển. Đây là sự hợp tác cần thiết giữa cô và trẻ để trẻ tiếp thu được những câu văn hay với những từ ngữ nghệ thuật giàu hình ảnh, giàu âm thanh màu sắc, biểu cảm và 137
  20. những hành động bộc lộ phẩm chất nhân vật… Trong quá trình trao đổi, nhà sư phạm rèn các thao tác tư duy, hướng dẫn trẻ so sánh, phân tích, tổng hợp khái quát hóa. Đặc biệt khả năng suy luận đơn giản sẽ là cơ sở nảy nở dạng ban đầu của tư duy lôgíc ở trẻ mẫu giáo lớn. Hệ thống câu hỏi gợi mở có một ưu thế đặc biệt trong việc làm sâu sắc sự cảm thụ văn học, tích cực hóa ngôn ngữ và phát huy tính sáng tạo của trẻ. Sau những lần đọc, cô giáo lựa chọn trực quan phù hợp như tranh minh họa hoặc đồ chơi, con rối… kết hợp với những lời kể nhấn vào những tình tiết chính, những câu văn hay của truyện, hoặc để giải thích từ mới. Có thể coi đó là biện pháp được vận dụng tiến hành trong quá trình tổ chức hoạt động đọc truyện, làm cho hoạt động này trở nên sinh động, hấp dẫn, hiệu quả. Trên đây là những phương pháp, biện pháp có thể vận dụng, phối hợp tiến hành thực hiện nhiệm vụ đọc truyện cho trẻ nghe. Như vậy, kết quả hoạt động đọc truyện sẽ góp phần to lớn vào việc hình thành khả năng cảm thụ văn học, tích lũy vốn ngôn ngữ nghệ thuật làm giàu có kho tàng ngôn ngữ của trẻ và các mặt giáo dục khác. Hoạt động này góp phần tích cực, chuẩn bị cho trẻ bước vào trường phổ thông trong lĩnh vực ngôn ngữ. Bởi vậy, hoạt động đọc truyện cần thiết phải được tiến hành ở trường mần non trên mọi hình thức tổ chức. Ngoài hình thức đọc truyện ngắn trên dạng thức tiết học (hoạt động chung có chủ đích học tập), cô giáo cần tận dụng các thời điểm trong ngày như: sinh hoạt chiều, giờ vui chơi, trước khi trẻ ngủ, dạo chơi tham quan, trên các nhóm, ở các góc… để đọc cho trẻ nghe. Tổ chức đọc dưới hình thức này, nên tiến hành thường xuyên đối với những truyện tranh. Cô giáo đọc cho các em nghe, cùng các em xem tranh, trò chuyện phân tích về các nhân vật thể hiện trên tranh vẽ. Với khả năng bắt chước kì diệu, trẻ em có thể thuộc những truyện tranh chỉ sau vài ba lần nghe cô giáo đọc và chăm chú theo dõi tranh. Chúng có thể đọc không sai một từ truyện tranh đó như người biết chữ đọc. Điều này giúp cho trẻ thêm hứng thú tìm hiểu văn học, hứng thú đối với việc đọc truyện, vốn từ tăng lên, trí nhớ được rèn luyện. 138
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0