Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế (dùng trong các trường trung học chuyên nghiệp): Phần 2
lượt xem 67
download
Nối tiếp nội dung của phần 1 cuốn giáo trình "Quan hệ kinh tế quốc tế", phần 2 trình bày các nội dung: Chương 4 - Đầu tư quốc tế, chương 5 - Liên minh kinh tế và các tổ chức kinh tế quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế (dùng trong các trường trung học chuyên nghiệp): Phần 2
- Chương 4 ĐẦU TƯ QUỐC TẾ Mục tiêu: - Hiểu được nguyên nhân, vai trò cũng như ưu nhược điểm của các hình thức đầu tư quốc tế; những đặc điểm của đầu tư quốc tế và ảnh hưởng của đầu tư quốc tế đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam. - Có thể phân biệt được các hình thức đầu tư quốc tế và các loại hình doanh nghiệp đầu tư nước ngoài của Việt Nam. - C ó được sự nhìn nhận và có thái độ đúng đối với vấn đề đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, từ đó góp phần vào việc thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Nhà nước. Nội dung: 1. Đầu tư quốc tế là một quá trình trong đó có sự di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia. 2. Đầu tư quốc tế là một tất yếu khách quan do sự khác nhau về nhu cầu và khả năng tích luỹ vốn giữa các quốc gia. 3. Đầu tư quốc tế có những tác động khác nhau đối với cả bên đi đấu tư và bên nhận đầu tư. Việc nghiên cứu đặc điểm cơ bản của đầu tư quốc tê' hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với mỗi quốc gia. 4. ở Việt Nam, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế. C á c hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm: Hợp đồng hợp tác liên doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp cổ phần. I. V A I T R Ò C Ủ A Đ Ẩ U T Ư Q U Ố C T Ê 1. Khái niệm và nguyên nhân của đầu tư q u ố c tế 85
- 1.1. Khái niệm Đầu tư quốc tế là quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc các nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ một hình thức giá trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Như vậy, đầu tư quốc tế là hình thức di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Tư bản di chuyển được gọi là vốn đầu tư quốc tế, vốn đó có thể thuộc một tổ chức tài chính quốc tế, thuộc một nhà nước hoặc của cá nhân. Vốn đầu tư có thể là ở dạng tiền tệ, có thể là các tư liệu sản xuất hoặc là sức lao động, công nghệ, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu, biểu tượng, cổ phiếu... 1.2. Nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tê Đầu tư quốc tế hình thành từ cuối thế kỷ 19 ở các nước tư bản chủ nghĩa và ngày càng được mở rộng cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên nhân là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất giữa các khu vực, giữa các nước không đổng đều đã làm cho chi phí sản xuất hàng hoá của các khu vực, các nước không giống nhau. Chính sự chênh lệch về giá cả sức lao động, tài nguyên, vốn, vẻ khoa học kỹ thuật... giữa các nước đã thôi thúc các nhà tư bản tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình và thu lợi nhuận. Chẳng hạn các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ thường lựa chọn những ngành sử dụng nhiều lao động như: lắp ráp hàng điện tử, ngành dệt may, chế biến thực phẩm... để tận dụng giá nhân công rẻ nhằm tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá của mình. ở các nước công nghiệp phát triển, do nền kinh tế phát triển với tốc độ cao dẫn đến hiện tượng thừa “tương đối” tư bản ở trong nước và việc đầu tư ở trong nước ngày càng giảm hiệu quả do tỷ suất lợi nhuận (P’ = m/(c + v) có xu hướng giảm dần. Trong khi đó đầu tư ra nước ngoài lại có khả năng đem lại hiệu quả cao hon. Theo Bộ trưởng Thương mại Mỹ thì các công ty Mỹ đầu tư vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tỷ lệ lãi trung bình là 23%, cao gấp đôi tỷ lệ lãi trung bình ở 24 nước công nghiệp phát triển trong cùng thời kỳ. Do yêu cầu phát triển kinh tế nên nhu cầu về vốn của các nước trên thế giới là rất lớn, trong khi đó khả năng tự thoả mãn nhu cầu vể vốn ở từng nước, từng khu vực là có giới hạn. Ngược lại ở một số nước khác tiềm lực kinh tế rất mạnh, lượng vốn tập trung rất lớn vì vậy việc gia tăng đầu tư quốc tế là tất 86
- yếu nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó. Chẳng hạn các nước chậm và đang phát triển cần một số lượng vốn lớn để thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, cũng như đầu tư vào hạ tầng cơ sở nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ví dụ để phục hồi kinh tế các nước SNG cần khoảng 100 tỷ USD. Trong quá trình toàn cầu hoá, sự hợp tác và phân công lao động khu vực và quốc tế ngày càng phát triển theo những xu hướng mới. Trong đó các nước đi trước như Nhật Bản, các nước EU phải chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tập trung vào những ngành công nghiệp kỹ thuật cao và chuyển dần các ngành vốn có lợi thế trước kia như dệt may, lắp ráp, chế biến sang các nước khác như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan và hiện nay là Việt Nam. Đây chính là một động lực để kích thích đầu tư ra nước ngoài. Hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều có nguồn nguyên liệu khan hiếm, nên các nước này đều phải nhập nguyên liệu để đảm bảo sản xuất trong nước, làm cho giá thành sản phẩm tăng. Trong khi đó ở các nước chậm và đang phát triển lại có nguồn nguyên liệu dồi dào chưa khai thác hết. Do đó đầu tư ra nước ngoài nhằm giúp các chủ đầu tư nắm được lâu dài và ổn định nguồn cung cấp nguyên liệu với giá rẻ để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế với tốc độ ngày càng cao. Sự bất ổn định về an ninh quốc gia cũng là một nguyên nhân làm chfo các chủ đầu tư và những người có tiền, đầu tư vốn ra nưóc ngoài nhằm bảo toàn vốn, hạn chế được những rủi ro, những thiệt hại khi có biến cố chính trị ở trong nước. Sự ra đời và phát triển của những công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia cũng là một nguyên nhân làm cho hoạt động đầu tư quốc tế trở nên sôi động, sự dịch chuyển vốn giữa các nước, các khu vực diễn ra liên tục và ngày càng tăng. 2ẾVai trò của đẩu tư q u ốc tế Nhìn lại quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua chúng ta thấy đầu tư quốc tế có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và thương mại ở cả các nước đầu tư và nước nhận đầu tư. 2.1. Đối với nước chủ đầu tư Đa phần các nước đi đầu tư là những nước có nền công nghiệp phát triển, những nước này thừ a‘ tương đối” tư bản và tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm 87
- sút, vì vậy đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp họ sử dụng được lợi thế sản xuất của nước tiếp nhận đầu tư để hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Thông qua việc đầu tư khai thác tài nguyên ở các nước chậm và đang phát triển mà các nước chủ đầu tư tận dụng được các nguồn nguyên liệu để nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước, giúp các nước này xây dựng được một thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế trong nước. Ví dụ nhờ đầu tư ra nước ngoài mà Mỹ nhập khẩu ổn định toàn bộ phốt phát, thiếc, mangan... Đầu tư quốc tế giúp các nước chủ đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Thật vậy, thông qua đầu tư trực tiếp mà các nước chủ đầu tư xây dựng được các nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài, từ đó giúp họ mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường nước nhận đầu tư. Mặt khác, qua đầu tư gián tiếp như viện trợ, cho vay vốn với quy mô lớn, lãi suất thấp mà các nước đế quốc thường áp đật các điều kiện về chính trị và kinh tế nhằm trói buộc các nước đang phát triển phụ thuộc vào họ. Đầu tư vốn ra nước ngoài giúp các chủ đầu tư hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra khi có sự bất ổn định về tình hình kinh tế, chính trị ở trong nước. Chẳng hạn như làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp Hồng Kỏng, Ma Cao, Đài Loan sang các nước công nghiệp phát triển để đề phòng có sự thay đổi lớn về quản lý kinh doanh khi các nước này được trao trả cho Trung Quốc. Đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp thay đổi cơ cấu nền kinh tế trong nước theo hướng hiệu quả hơn, thích nghi hơn với sự phân công lao động quốc tế và khu vực. Hiện nay đa phần các nước công nghiệp phát triển đều tập trung vào sản xuất những mặt hàng cao cấp, những thiết bị quan trọng và những khâu kỹ thuật cao đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, còn các công ty, chi nhánh cùa họ ở nước ngoài sẽ hướng vào sản xuất những mặt hàng cần nhiều lao độns. kỹ thuật vừa phải để cung cấp cho nhu cầu tại các nước nhận đầu tư và để xuất khẩu sang các nước khác. Việc đầu tư vốn ra nhiều nước sẽ giúp cho các công ty đa quốc gia có thể tránh được mức thuế cao nhằm tối đa hoá lợi nhuận đầu tư. Chẳns han. các 88
- công ty đa quốc gia có thể đặt các chi nhánh của mình tại các nước có mức thuế thấp nhất, hoặc bằng cách sử dụng giao dịch chuyển giá và các công cụ khác, công ty đa quốc gia có thể kê khai thu nhập ở nước có thuế suất thấp, mật dù lợi nhuận thực tế thu được ở những nước có thuế suất cao. Để tránh thuế thu nhập đánh lên lợi nhuận của công ty, công ty sẽ định mức giá cao đối với những hàng hoá hay dịch vụ ở những nước có thuế suất thấp để cung ứng cho những nước có thuế suất cao. Kết quả là các chi nhánh ở nước có thuế suất thấp đạt được mức lợi nhuận cao và chi nhánh ở nước có thuế suất cao thu được lợi nhuận thấp và cuối cùng số tiền thuế của nhà đầu tư phải trả là thấp nhất. 2ẳ2. Đôi với các nước tiếp nhận đầu tư Hiện nay dòng vốn đầu tư quốc tế chảy vào hai khu vực: Các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển. Đối với cả hai khu vực thì vốn đầu tư quốc tế đều có vai trò đặc biệt quan trọng. 2.2.1. Đối với các nước công nghiệp phát triển Các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Tây Âu, đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu hiện tượng Nhật Bản đầu tư ồ ạt vào Mỹ trong vòng 20 năm 1971 - 1991, với số vốn đầu tư đạt tới 148,6 tỷ USD (chiếm 42,2% tổng số vốn đầu tư của Nhật ra nước ngoài). Các chuyên gia kinh tế của Mỹ đã đánh giá những cái lợi do việc đầu tư đó đem lại là: - Sự ra đời các công ty, nhà máy của Nhật trên nước Mỹ đã giúp giải quyết được những khó khăn về kinh tế - xã hội trong đất nước như nạn thất nghiệp, lạm phát... - Việc người Nhật mua lại những công ty, xí nghiệp làm ăn kém hiệu quả có nguy cơ bị phá sản đã giúp Mỹ cải thiện được tình hình thực tế và đảm bảo việc làm và thu nhập cho hàng vạn lao động. - Góp phần tăng thu cho ngân sách dưới hình thức các loại thuế đầu tư từ đó giúp cải thiện tình hình bội chi của ngân sách Mỹ. - Sự phát triển của các công ty trên nước Mỹ đã tạo ra môi trường cạnh tranh, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại Mỹ. - Giúp các doanh nghiệp Mỹ học hỏi được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của Nhật. 89
- Do nhận thức được vai trò của đầu tư quốc tế đối với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ, vì vậy mặc dù là một nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới và đã thu hút trên 30% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trên thế giới, chính phủ Mỹ vẫn không ngừng thực hiện chính sách “mở cửa đầu tư” và ngăn chặn xu hướng rút vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi Mỹ. 2ế2.2. Đối với các nước đang phát triển Đầu tư quốc tế giải quyết vấn đề thiếu vốn cho các nước đang phát triển. Thật vậy, trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều gặp phải một vấn đề nan giải là thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ. Việc thiếu vốn đã gây rất nhiều khó khăn cho các nước này trong đầu tư, phát triển kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thiếu hụt, đất nước thiếu nhiều ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước tình hình đó việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài sẽ giúp cho các nước này giải quyết được những vấn đề nan giải trên. Chẳng hạn như các nước NICs ở châu Á trong vòng 30 năm đã thu hút khoảng 50 tỷ USD từ nước ngoài. Số vốn này đã giúp các nước này đầu tư phát triển kinh tế và trở thành những con rồng của châu Á. Thông qua nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ giúp các nước có điểu kiện đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển kinh tế như mở rộng quy mô của các đơn vị kinh tế, tạo ra các xí nghiệp mới do đó đã tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động góp phần giảm nạn thất nghiệp, giảm sức ép về việc làm đối với xã hội. Theo thống kê của Liên hợp quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp ở các nước đang phát triển là khoảng từ 35 - 38% tổng số lao động, cho nên với sự ra đời của hàng vạn các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động tại các nước đang phát triển giúp các nước này giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Ví dụ như ở Trung Quốc các doanh nghiệp sử dụng vốn đầu tư nước ngoài đã tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Ở Việt Nam kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài cho đến nay, các dự án đầu tư đã giải quyết việc làm cho khoảng gần 500.000 lao động. Thông qua tiếp nhận đầu tư nước ngoài các nước đang phát triển có điều kiện để tiếp thu được công nghệ tiên tiến, học tập được kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài. Ở các nước đang phát triển, công nghệ sản xuất trong nước thường rất lạc hậu, năng suất lao động thấp, điều này đã hạn chế và kìm hãm sự phát triển của họ. Hơn nữa do trình độ phát triển kinh tế xã hội 90
- giáo dục ở trong nước rất thấp, ít có khả năng phát triển công nghệ mới, hiện đại, tiên tiến. Mặt khác việc nhập khẩu công nghệ của các nước này cũng rất ljạn chế do thiếu vốn ngoại tệ. Vì vậy hợp tác đầu tư quốc tế sẽ giúp cho các nước tiếp nhận được những công nghệ hiện đại, tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế. Đầu tư quốc tế góp phần thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, từng bước đưa nền kinh tế của các nước đang phát triển tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế và khu vực. Mặc dù tỷ trọng của đầu tư trực tiếp trong tổng số vốn đầu tư ở một số nước không cao, nhưng nó lại chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư vào tài sản cố định trong một số ngành, một số lĩnh vực quan trọng, ở các nước mới tiến hành công nghiệp hoá, đầu tư nước ngoài đã góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi cho nền kinh tế và phù hợp với quá trình phân công lao động quốc tế. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh trong các nước đó. Đây là một động lực để kích thích nền kinh tế phát triển cả về lượng lẫn về chất. Sự có mặt của các công ty nước ngoài ở các nước đang phát triển với trình độ quản lý tiên tiến, với kỹ thuật hiện đại sẽ cho phép họ sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã phong phú, đa dạng, giá thành hạ sẽ cạnh tranh khốc liệt với hàng nội địa. Điều đó buộc các nhà sản xuất trong nước phải đổi mới công nghệ, phải thay đổi phương pháp quản lý từ đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trong nước. Hình thức đầu tư ưực tiếp nước ngoài sẽ tạo điều kiện để giúp các nước đang phát triển có nguồn thu nhập để đầu tư và để trả nợ nên sẽ giúp những nước này giảm được số nợ từ nước ngoài đang trở thành một gánh nặng đối với họ. 3. C á c hình thức đẩu tư Đầu tư quốc tế được thực hiện chủ yếu dưới 3 hình thức. Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng quốc tế. 3ếl. Đầu tư trực tiếp 3.1.1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. 91
- Theo Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19 tháne 3 nãm 2003 cùa Chính phù vé sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định sỏ 24/2000/NĐ- CP ngày 31 tháng 7 nám 2000 quy định chi tiết thi hành Luật Đáu tư nước ngoài tại Việt Nam thì. "Các hoạt động đấu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam bao gồm các hoạt động đưa vón bằng tiên hoặc bất kỳ rủi sàn nào khác của cáíữ nhủ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đê trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhàm thu lợi nhuận theo các hình thức của Luật Đầu tư nước ngoài 3.1.2. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp - Các chủ đáu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu tuỳ theo quy định cua luật đầu tư từng nước, ví dụ như Luật Đầu tư cùa Việt Nam quy định “sô vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phủi bàng 30% vón pháp định của dự án” hoặc ở Mỹ việc bỏ vốn được coi là đầu tư trục tiếp nước ngoài nếu người đầu tư nhận được từ 10% sở hữu của công ty. Như vậy, sự khác nhau giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp trước hết là vấn đề kiểm soát vốn. - Quyền điều hành và quản lý kinh doanh phụ thuộc vào mức eóp vốn của chù đầu tư, nếu đóng góp 100% vốn thì xí nghiệp thuộc sở hữu cùa chù đầu tư nước ngoài và họ có toàn quyền trong việc điều hành quản lý doanh nghiệp. - Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quà hoạt động sản xuất kinh doanh và tỷ lệ vốn mà họ đóng góp. Lãi và lỗ được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà. 3.1.3. Ưu điểm của hình thức đầu tư trực tiếp * Vé phía chủ đầu tư nước ngoài: - Đầu tư trực tiếp cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở mức độ nhất định tham dự vào quá trình điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (mức độ tham gia điều hành phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn) nên họ trực tiếp tham 2Ìa kiểm soát sự hoạt động của doanh nghiệp, kịp thời đưa ra những quvết định có lợi nhất nhãm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của họ. Chính vì lý do đó mà trong điều kiện mỏi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định thì các chủ đầu tư nước ngoài thích bỏ 100% vốn đầu tư. - Giúp cho chu đầu tư nước nsoài dễ chiếm lĩnh thị trườna tiêu thu và nsuổn cuno cấp nguyên liệu chù vếu của nước chù nhà, trên cơ sớ đó để phát triển sản xuất, nãng cao hiệu quả sư dụng vốn đầu tư. 92
- - Lợi dụng cơ chế quản lý thuế đối với hoạt động đầu tư ở các nước khác nhau, mà các nhà đầu tư mở các công ty con ở các nưóc khác nhau để thực hiện “chuyển giá” nhằm tối đa hoá lợi nhuận. - Giúp các nhà đầu tư khai thác lợi thế của các quốc gia khác nhau như vị trí địa lý, tài nguyên, lao động... nhằm giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận. - Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước chủ nhà vì các chủ đầu tư tiến hành sản xuất hàng hoá trực tiếp tại nước thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch. * Về phía chủ nhà tiếp nhận đẩu tư: - Đầu tư trực tiếp tăng cường khả năng khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài, từ đó giải quyết những khó khãn về vốn cho đất nước. Trong hình thức đầu tư trực tiếp thì các nước chỉ quy định mức đóng góp tối thiểu mà không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư. Điều đó có ý nghĩa là số vốn đóng góp của chủ đầu tư nước ngoài càng nhiều càng tốt, thậm chí mức góp vốn càng cao thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. - Giúp cho nước chủ nhà hoặc các doanh nghiệp góp vốn của nước chủ nhà có điều kiện để tiếp thu được những công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các công ty nước ngoài. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện để khai thác tốt nhất những lợi thế về tài nguyên, về lao động... để phát triển kinh tế. - Đẩy nhanh quá trình hội nhập của nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới vì chính đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố tác động mạnh đến tiến trình hoàn thiện thể chế, chính sách và môi trường đầu tư. - Góp phần nâng cao mức sống của nhân dân nước tiếp nhận đầu tư. Do đầu tư trực tiếp sẽ tạo nhiều việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Mặt khác đầu tư trực tiếp còn giúp nước chủ nhà trong việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề cao. 3.1.4. Những hạn chê của đầu tư trực tiếp Nếu nước nhận đầu tư có sự bất ổn định về kinh tế, chính trị thì chủ đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Hiện nay ở nhiều nước công nghiệp phát triển thường thực hiện sự kiểm soát gắt gao đối với những dự án gây ô nhiễm môi trường nên xu thế hiện nay là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc 93
- hại sang các nước kém phát triển, vì vậy nếu nước chủ nhà khỏne có một quy hoạch đầu tư cụ thể khoa học sẽ dẫn đến sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên bị khai thác quá mức gây hại cho môi trường sinh thái. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể gây “tác động âm ” lên cán cân thương mại và cán cân thanh toán. Do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng cần phải nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu để phục vụ sản xuất nên đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nhập siêu. Sự “nhập siêu” trong cán cân thương mại của Việt Nam khoảng từ 3 - 5 tỷ USD trong những năm qua cũng một phần do tác động của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp thúc đẩy quá trình phân hoá giàu nghèo và sự di dân ồ ạt ra thành thị, các trung tâm đô thị lớn, gây ra sự xáo trộn xã hội, bất bình đẳng giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế và giữa các tầng lớp nhân dân ngày càng gia tăng. 3.2. Đầu tư gián tiếp 3.2.1. Khái niệm Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư chuyển vốn vào một quốc gia khác để mua cổ phiếu hoặc chứng khoán trên thị trường tài chính nhằm thu lợi nhuận thông qua cổ tức hoặc lãi từ chứng khoán. 3.2.2. Đặc điểm của hình thức đầu tư gián tiếp - Số vốn mà mỗi chủ đầu tư nước ngoài đầu tư vào từng dự án được khống chế ở một mức độ nhất định tuỳ theo luật định của từng quốc gia. Thông thường tỷ lệ vốn đầu tư được quy định từ dưới 10 - 25% số vốn pháp định. - Các chủ đầu tư nước ngoài kiếm lợi nhuận qua cổ tức (thu nhập cổ phiếu hoặc chứng khoán). - Các chủ đầu tư nước ngoài không được phép trực tiếp điều hành hoại động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn m ua cổ phiếu (hoặc chứng khoán). - Nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh thông qua thị trường tài chính. 3.2.3. Ưu điểm của hình thức đầu tư gián tiếp - Khi có sự cố xảy ra trong kinh doanh, đối với doanh nghiệp có vốn đầu ti nước ngoài thì nhà đầu tư ít bị thiệt hại vì vốn đầu tư được phân tán trong sc đông những người mua cổ phiếu hoặc trái phiếu. 94
- - Bên tiếp nhận vốn đầu tư hoàn toàn được chủ động trong việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh, do đó tạo sự chủ động, linh hoạt cũng như việc tập trung vốn phục vụ cho ý đổ kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. - Khi tình hình tài chính, tiền tệ, chính trị của nước tiếp nhận đầu tư có sự bất ổn, các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán hoặc chuyển nhượng những chứng khoán để hạn chế rủi ro. Đây là một ưu điểm nổi bật của đầu tư gián tiếp so với đầu tư trực tiếp. - Hình thức này tạo khả năng để thu hút vốn đầu tư từ những chủ đầu tư có số vốn nhộ, từ mọi nguồn của thế giới. 3.2.4. Những hạn ch ế của đầu tư gián tiếp - Có thể dẫn đến sự thao túng của các thế lực đầu cơ tiền tệ quốc tế nếu việc quản lý và điều tiết thị trường chứng khoán thiếu chặt chẽ. - Do chủ đầu tư nước ngoài không được tham gia trực tiếp vào việc quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà phải phó thác đồng vốn của mình cho những người khác mà nhiều khi những người đó lại ít có khả năng và kinh nghiệm điều hành sản xuất kinh doanh, nên nó không hấp dẫn đối với các chủ đầu tư. Vì vậy đa phần chủ đầu tư nước ngoài không thích hình thức đầu tư gián tiếp. - Đầu tư gián tiếp hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các chủ đầu tư nước ngoài. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn thường không cao. 3.3. Khu chê xuất - một hình thức thu hút vốn đầu tư đặc biệt 3.3.1. Khái niệm khu chê xuất Hiện nay có nhiều cách gọi khác nhau về khu chế xuất. Theo các chuyên gia thì khu chế xuất truyền thống là dự án phát triển hoàn thiện của cảng tự do và các khu vực mậu dịch tự do. Cảng tự do là những cảng áp dụng quy chế thuế quan đặc biệt, các thương nhân thông qua tàu biển có thể mang hàng hoá và tiền tệ vào cảng một cách tự do không phải đóng thuế, chỉ khi nào chuyển hàng hoá vào nội địa mới phải nộp thuế. Khu vực mậu dịch tự do thường được xây dựng gần cảng, hàng hoá mang vào khu vực mậu dịch một cách tự do không phải đóng thuế. Ở một số nước như Malaysia, Indonesia... trước kia cũng xây dựng các khu kho quá cảnh có 95
- mô hình gần gũi với cảng tự do. Tất cả những hàng hoá, nguyên liệu đưa vào cảng để sơ chế, lắp ráp giản đơn, đóng gói sau đó tái xuất khẩu thì khống phải chịu bất cứ một khoản thuế nào, chỉ khi đưa hàng hoá vào nội địa mới phải đóng thuế nhập khẩu. Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UN1DO) thì: “Khu chế xuất lù một khu vực tương đôi nhỏ, phản cách về địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút các xí nghiệp có vốn đấu tư nước ngoài hướỉìg về xuất khẩu, bằng cách cung cấp cho các xí nghiệp những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với nội địa. Đặc biệt, khu c h ế xuất cho nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất hùng xuất khẩu được miễn thuế trên cơ sở kho quá cành". Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì: “Khu c h ế xuất lù khu công nghiệp chuyên sản xuất hùng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hùng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xúc định, do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập". Một hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà hiện nay đang được áp dụng rộng rãi ở Trung Quốc, đó là đặc khu kinh tế. Mục tiêu hoạt động của đặc khu kinh tế không hoàn toàn hướng về xuất khẩu, mà thực hiện mở cửa kinh tế từng phần nhằm thu hút vốn và kỹ thuật của nước ngoài với những ưu đãi về thuế, về giá thuê đất và nhân công rẻ. Đặc khu kinh tế không quy hoạch tách rời khỏi phần nội địa bởi hàng rào che chắn, hàng hoá nhập vào hoặc xuất ra khỏi đặc khu kinh tế không được miễn thuế hoàn toàn, trong các đặc khu kinh tế có cả hoạt động của công nghiệp và nông nghiệp, có dân cư sinh sống. Sản phẩm của các đặc khu kinh tế chẳng những phục vụ xuất khẩu m à phục vụ cả nhu cầu của sản xuất và đời sống của thị trường nội địa. Một khu chế xuất truyền thống có những đặc điểm sau: - Là một khu đất thuộc lãnh thổ của một nước được quy hoạch tách riêng ra, thường được ngăn cách bằng một hàng rào kiên cố để hoạt động cách biệt với phần nội địa. Trong khu chế xuất không có dân cư sinh sống. - Mục đích của khu chê xuất là thu hút các nhà sản xuất công nghiệp nước ngoài và trong nước, định hướng hoạt động xuất khẩu bằng những biện pháp đặc biệt ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện mậu dịch và các loại thuế khác. - Hàng hoá, tư liệu sản xuất nhập vào khu chế xuất để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn giảm thuế hải quan. Còn nếu hàng hoá nhập vào thị trường nội địa từ khu chế xuất thì phải nộp thuế nhập khẩu. 96
- - Các chủ đầu tư nước ngoài được ưu tiên vào hoạt động trong khu chế xuất. “Doanh nghiệp ch ế xuất là một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ về doanh nghiệp c h ế x u ấ t (Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) Hiện nay, sức hấp dẫn của khu chế xuất truyền thống có xu hướng giảm sút do các biện pháp bảo hộ mậu dịch của các nước đang giảm dần tác dụng và hoạt động của khu chế xuất chuyển từ chủ yếu sản xuất hàng công nghiệp phục vụ xuất khẩu sang khu trị giá gia tăng thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu. 3.3.2. Vai trò của kh u chê xuất - Hoạt động của các khu chế xuất sẽ tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vì khu chế xuất thường tập trung nhiều lợi thế nhất của nước chủ nhà, mặt khác vào hoạt động trong khu chế xuất được hưởng nhiều sự ưu đãi về thuế, về chế độ khuyến khích đầu tư nên rất hấp dẫn các chủ đầu tư bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh tại khu chế xuất. - Hoạt động của khu chế xuất tạo khả năng để tiếp nhận khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các chủ đầu tư nước ngoài. - Tạo nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động, đổng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ lao động cho nước chủ nhà. - Tăng kim ngạch xuất khẩu góp phần giải quyết sự mất cân đối trong cán cân thương mại và cán cân thanh toán của quốc gia. - Phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ xuất khẩu, biến khu chế xuất trở thành cầu nối giữa kinh tế thị trường nội địa với thị trườn? thế giới, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong vùng, cải tạo và nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sỏ' trong khu chế xuất như hệ thống đường xá, cầu cống, điện nước gây phán ứng dây chuyền kích thích các vùng và các ngành kinh tế cùng phát triển. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu kinh tế thì chỉ có khoảng 20% số khu chế xuất đang hoạt độns trên thế giới thành công. Nguyên nhân là do: Sự mất ổn định về chính trị trong nước khiến cho các nhà đầu tư không yên tâm bỏ vốn. Sự ra đời của quá nhiều khu chế xuất ở một nước và chính sách thu hút 97 7.GTQHKT-A
- kém hấp dẫn, môi trường đầu tư không lý tưởng đã làm cho năng lực hoạt động của các khu chế xuất thấp chỉ đạt xấp xỉ 50% công suất dự kiến. Cơ sở hạ tầng của khu chế xuất yếu kém, thiếu đường giao thông, thiếu nhà ở cho cống nhân, điện nước không cấp đủ... Chính sách khuyến khích đầu tư vào khu chế xuất kém hấp dẫn, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu do có quá nhiều luật lệ ở địa phương chi phối gây phiền hà cho các nhà đầu tư... Việc lựa chọn địa điểm để xây dựng khu chế xuất không đúng gây trở ngại cho việc chuyên chở hàng hoá. Chất lượng lao động cung cấp cho khu chế xuất còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của nhà đầu tư. Tệ nạn buôn lậu giữa khu chế xuất với thị trường nội địa tràn lan, khó kiểm soát đã ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu.tư... IIếN H Ữ N G Đ Ặ C Đ IỂ M c ơ BẢN C Ủ A Đ Ẩ U T Ư Q U Ố C T Ê H IỆ N N A Y 1ẳC ó sự thay đổi của dòng chảy vốn đầu tư Ngày nay dòng chảy của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) chủ yếu là vào các nước công nghiệp phát triển (OECD). Đầu thế kỷ XX trên 70% vốn đầu tư trực tiếp được đổ vào các nước chậm và đang phát triển để khai thác các tài nguyên của các nước này với tư cách là các nước thuộc địa. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, khu vực Tây Âu bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh đang cần rất nhiều vốn để đầu tư tái thiết. Vì vậy khu vực này trở thành nơi thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đấu tư trực tiếp. Thời kỳ này Tây Âu thu hút đến 158 tỷ USD trong đó 1/2 là của Mỹ. Từ những năm 60 trở lại đây có đến 70 - 80% nguồn vốn FDI là đầu tư vào các nước công nghiệp phát triển. Nám 1950 nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào các nước công nghiệp phát triển chỉ chiếm khoảng 40% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của thế giới thì đến năm 1960 đã vào khoảng 66%; năm ,1970 là 67,6%; năm 1980 là 73,6%. Năm 1999 các nước công nghiệp phát triển chiếm 76,5% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của thế giới, khoảng 865 tỷ USD. Trong khi các nước đang phát triển chiếm 3/4 dân số thế giới thì chỉ chiếm khoảng 23,5% vốn FDI đầu tư trên thế giới, thì chỉ riêng Mỹ năm 2000 đã thu hút 200 tỷ USD vốn FDI. Bên cạnh đó EU cũng là nơi thu hút nhiều vốn FDI của thế giới, khoảng 230 tỷ USD năm 1998 và 280 tỷ USD năm 1999. 98 7 GTQHKT-B
- Sở dĩ dòng chảy của nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển vì: - Làn sóng hợp nhất, thôn tính các công ty diễn ra chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển. - Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới với quy mô ngày càng lớn, với những sản phẩm có hàm lượng khoa học - công nghệ cao như ngành bán dẫn vi điện tử, ngành công nghệ sinh học, sản xuất rôbốt... Những khoản lợi nhuận siêu ngạch thu được từ các ngành này đã hấp dẫn các nhà đầu tư trên thế giới. - Các nước công nghiệp phát triển có thị trường tiêu thụ rộng lớn, khả năng thanh toán cao. Vì vậy đây chính là địa điểm lý tưởng cho các nhà đầu tư quốc tế. - Các nước công nghiệp phát triển có môi trường đầu tư thuận lợi và ổn định, do những nước này luôn có một chế độ chính trị ổn định, hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, hệ thống cơ sở hạ tầng tốt và hiện đại, đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật cao. Chính điều này đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ đối với nguồn vốn đầu tư nưộc ngoài. Trong khi đó ở các nước chậm và đang phát triển, điều kiện chính trị và kinh tế thường thiếu ổn định, nội chiến, đảo chính, lật đổ... thêm vào đó hạ tầng cơ sở yếu kém, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh... đã cản trở dòng chảy của tư bản vào các nước này. - Do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước công nghiệp phát triển ngày càng chặt chẽ và tinh vi, thậm chí là “siêu” bảo hộ. Điều này gây trở ngại lớn cho hàng hoá xâm nhập vào thị trường những nước này nên các nước tư bản khác phải đầu tư vào nước đó để tổ chức sản xuất và tiêu thụ tại chỗ những hàng hoá bị hàng rào bảo hộ ngăn cản. 2. C ó sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng của c á c chủ đầu tư quốc tê Đầu thế kỷ XX, những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu vốn ra nước ngoài là Anh, Pháp, Đức, Hà Lan. Anh và Pháp chủ yếu xuất khẩu vốn vào các nước thuộc địa của họ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1950 - 1980) Mỹ dẫn đầu thế giới về đầu tư nước ngoài, sau đó là Anh, Pháp. Đầu tư của Mỹ chủ yếu vào các nước Tày Âu, Nhật Bản và các nước đồng minh Đông - Nam Á và các nước châu Mỹ Latinh. 99
- Từ thập niên 70 trở lại đậy Nhật Bản nổi lẽn như một cường quốc đầu tư, vượt qua cả Anh, Pháp và đe doạ vị trí dẫn đầu của Mỹ. Đặc biệt Nhật đã trở thành một nhà đầu tư lớn nhất vào thị trường Mỹ và các công ty có vốn đầu tư của Nhật Bản có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Mỹ. Bước sang thập niên 90 tình hình đầu tư nước ngoài của các chủ đầu tư lớn có sự thay đổi. Một số nước như: Mỹ, Anh, Canada, Italia, tăng mạnh đầu tư hải ngoại, trong khi đó do chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế kéo dài nên đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước Nhật Bản, Pháp, Đức bị giảm mạnh. Thời gian gần đây một hiện tượng gây sự chú ý trong lĩnh vực đầu tư quốc tế là các nước công nghiệp mới (NICs) ở vùng châu Á - Thái Bình Dương đang vươn lên và trở thành các thế lực đầu tư FDI mạnh như: Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc luôn vượt qua Nhật, Mỹ, EU và trở thành những chủ đầu tư lớn nhất ở châu Á. Hướng đầu tư chính lớn nhất ở các nước NICs là các nước ASEAN, sau đó là Trung Quốc và hiện nay là Việt Nam. Ngoài ra các nước NICs cũng đầu tư vào các nước công nghiệp phát triển như: Mỹ, E U ..... Sỡ dĩ các nước NICs gia tăng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vì: - Sự mở cửa tương đối nhanh của các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Lào... đã thu hút các nước có trình độ công nghệ trung bình nhung thích hợp lại ở cùng một khu vực. Hơn nữa các nước này có nguồn lao động nhiều và rẻ, có những ưu đãi về pháp lý..., điẻu này có thể đem lại lợi nhuận cao cho các chủ đầu tư nước ngoài. - Chính sách thù địch của Mỹ đã ngăn cản các công ty của Mỹ và các nước công nghiệp phát triển đầu tư trực tiếp vào những nước này. - Sự chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước NICs và các nước ASEAN tạo thuận lợi cho các nước NICs đầu tư vào ASEAN dưới hình thức chuyển giao công nghệ. 3. C ó s ự thay đổi sâu s ắ c trong lĩnh vực đầu tư Đầu thế kỷ XX các chủ đầu tư nước ngoài thường hướng vào các lĩnh vực truyền thống như: khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển nông nghiệp bằng cách đầu tư vào đồn điền và các ngành công nghiệp chế biến nông sản. Sở dĩ thời kỳ này các nhà đầu tư tập trung vốn vào lĩnh vực nêu trên vì ở thời kỳ này việc đầu tư vốn của các nước công nghiệp phát triển chu yếu là vào 100
- các nước thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế của chính quốc. Để khai thác các nguồn tài nguyên, nhân lực của các nước thuộc địa, xuất khẩu tư bản của các nước công nghiệp phát triển nhằm vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng như xây dựng một số đô thị quan trọng, đường sá... Đổng thời một số vốn được đầu tư vào xây dựng các đồn điền lớn sản xuất các loại nông sản để xuất khẩu... Ngày nay, bộ phận tư bản đầu tư vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng và kinh tế trang trại đã giảm tương đối. Nguyên nhân cơ bản là do đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, khó quản lý khai thác, thời gian thu hồi vốn thường kéo dài, lợi nhuận thấp nên không thu hút được đầu tư của tư nhân. Còn đối với kinh tế trang trại thì do giá cho thuê đất cao, mặt khác do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước tư bản phát triển và trợ cấp giá quá mức ở các nước đang phát triển đối với sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, tuy giá rẻ nhưng các loại nông sản không tiêu thụ được ở thị trường lớn. Chỉ có một số loại nguyên liệu như: cao su, dầu cọ, điều, tơ tằm... là thu hút được tư bản nước ngoài đầu tư thông qua các dự án liên doanh chia sản phẩm hoặc vay vốn của các ngân hàng tư nhân. Trong khi vốn đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng và kinh tế trang trại giảm sút thì nguồn vốn FDI đầu tư vào khai thác dầu mỏ và một số khoáng sản tăng lên đáng kể. Nguyên nhân là do lĩnh vực khai thác dầu mỏ có khả năng thu hổi vốn rất nhanh, lợi nhuận cao và ổn định. Nhu cầu sử dụng dầu khí là rất lớn, nhất là những nước công nghiệp phát triển. Vì vậy, đầu tư vào khai thác dầu mỏ sẽ giúp cho các nước công nghiệp phát triển có được nguồn cung ứng ổn định và nếu như có sự biến động liên quan đến các nước có dầu thì sẽ làm cho giá dầu trên thế giới tăng mạnh, lợi nhuận đem lại cho các nhà đầu tư càng lớn. Ví dụ như trong giai đoạn 2004 - 2005, giá dầu trên thế giới tăng mạnh và luôn ở mức cao đã đem về cho những nước có dầu và chủ đầu tư những khoản lợi nhuận kếch xù. Các nước đang phát triển có nguồn lợi về dầu mỏ nhưng do hạn chế về vốn và kỹ thuật, không đủ sức để thăm dò và khai thác, thậm chí trong nhiều năm không biết được tiềm năng và trữ lượng dầu của mình. Vì vậy’ các nước này cần phải kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực thăm dò, khai thác và chế biến dầu mỏ để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Về lĩnh vực đầu tư cũng có những thay đổi: 101
- - Khi đầu tư vào các nước công nghiệp phát triển thì các chù đầu tư thường tập trung vốn vào các lĩnh vực thương mại và tài chính, hoặc những ngành kỹ thuật mới như công nghệ thông tin, thiết bị viễn thông, công nghệ sinh học, chế tạo ô tô..., những lĩnh vực này có thị trường tiêu thụ rộng lớn, có khả năng thu lợi nhuận cao. - Khi đầu tư vào các nước đang phát triển thì các nhà đầu tư thường đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ, có khả năng thu hổi vốn nhanh để hạn chế rủi ro trong đầu tư. Hoặc lựa chọn các lĩnh vực đầu tư cho phép họ tận dụng được triệt để các điều kiện ưu đãi của các nước nhận đầu tư, hoặc các ngành có ngay thị trường ở nước tiếp nhận đầu tư... 4. Những năm gần đây việc thu hút vốn FDI của c á c nư ớc đang phát triển ở châu Á có xu hướng giảm sút Trong giai đoạn từ 2000 đến nay tổng số vốn FDI đầu tư vào các nước đang phát triển ở châu Á có xu hướng giảm sút. Nếu như năm 2000 số vốn FDI đầu tư vào các nước đang phát triển ở châu Á là khoảng 145 tỷ USD thì năm 2001 chỉ còn khoảng 110 tỷ USD và năm 2002 khoảng 90 tỷ USD. Tuy nhiên riêng Trung Quốc, Ân Độ, Malaysia lại nổi lên như những cường quốc thu hút đầu tư FDI lớn của thế giới. Sở dĩ Trung Quốc thu hút được nhiều vốn đầu tư với tốc độ ổn định (khoảng 50 tỷ USD tính đến năm 2002) là do: Thứ nhất, Trung Quốc đã chính thức gia nhập WTO năm 2001. Thứ hai, môi trường pháp lý của Trung Quốc ngày càng hoàn thiện đã giúp cải thiện và tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài. Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc đã dành cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều ưu đãi. Tất cả những điều đó đã tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư, làm cho nguồn vốn FDI đổ vào Trung Quốc gia tăng nhanh chóng. III. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 1. Vai trò của đầu tư q u ốc tế đối với cô n g c u ộ c phát triển kinh tế của Việt Nam Đầu tư quốc tế được thực hiện ở Việt Nam dưới hai hình thức cơ bản là: Đầu tư trực tiếp và tín dụng quốc tế chủ yếu được thực hiện qua thu hút vốn ODA. Qua 18 năm qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời ở Việt Nam (12/1987 đến 2005) hoạt động đầu tư quốc tế đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế, thể hiện: 102
- l ẳl ẾĐầu tư quốc tê bổ sung nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, nhằm thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế sớm đưa Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và tiến tới trình độ phát triển kinh tế khu vực và thế giới, thì đòi hỏi phải có một số lượng vốn rất lớn. Trong khi đó Việt Nam lại là một nước nghèo, khả năng tích luỹ nội bộ còn rất thấp vì vậy nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một nguồn vốn rất quan trọng để giúp nước ta thực hiện được mục tiêu nói trên. Thật vậy, tính đến tháng 7/2005, Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép cho 6583 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 63,048 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này đã tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế. Các dự án đầu tư nước ngoài hiện nay chiếm khoảng 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt Nam. Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ốtô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, máy tính. Các dự án đầu tư nước ngoài chiếm 60% sản lượng thép cán, 55% sản lượng sợi các loại phục vụ ngành công nghiệp dệt may, 49% sản lượng da và giày dép; 76% sản lượng dụng cụ y tế chính xác, 33% sản lượng máy móc thiết bị điện, 28% sản lượng xi măng, 25% sản lượng thực phẩm và đổ uống. Như vậy, đầu tư nước ngoài là nguồn vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. 1.2. Các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu cho ngân sách từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc gia Với hàng ngàn dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam, sự đóng góp của khu vực này vào nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn. Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP ngày càng tăng: năm 1993 là 3,3%; 1995 là 6,3%; 1998 là 10,1% và từ năm 2000 đến 2004 mỗi năm chiếm khoảng trên 13%. Do đó, số đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế này chiếm từ 6 - 7% nguồn thu ngân sách, nếu kể cả ngành dầu khí thì chiếm khoảng gần 20% nguồn thu ngân sách. Bên cạnh những đóng góp đáng kể cho ngân sách thì hoạt động xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của nước ta. Không kể lĩnh vực dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực này thời kỳ 1991 - 1995 103
- là trên 1,12 tỷ USD; thời kỳ 1996 - 2000 là 10,6 tỷ USD; nãm 2001 đat 3,67 tỷ USD; 2002 là 4,5 tỷ USD. Sô ngoại tệ thu được từ xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng đã phần nào giải quyết được tình trạng nhập siêu của nền kinh tế. 1.3. Góp phần chuyên dịch cơ cấu kinh tê Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nếu ở thời kỳ đầu (1988 - 1995) đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản như: xây dựne khách sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn phòng cho thuê... thì đến giai đoạn hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tập trung nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ chiếm 53% số vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ thuật đã tăne nhanh. Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm gần 35% sản lượng công nghiệp cùa Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 20%. Điều đó đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. 1.4. Góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam Cũng như các nước đang phát triển trên thế giới, các dự án đầu tư FDI có vai trò quan trọng trong việc đưa những công nghệ mới, hiện đại vào Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực dầu khí, bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ỏ tô... Các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần rất lớn vào việc tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra việc sử dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn kích thích các doanh nghiệp trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ để tạo được sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Đổnơ thời các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể học tập được tư duy quản lý và phương thức kinh doanh tiên tiến của các doanh nghiệp nước ncoài. l ể5. Góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tẻ thị trường ở Việt Nam, đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam với nền kinh té thế giới Cho đến nay đã có hơn 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, chính những dự án này có tác động lớn tới quá trình đổi mới cơ chế chính sách quản lý kinh tế ở Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế. Hơn nữa 104
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội - ĐH Kinh tế Quốc dân
490 p | 1170 | 326
-
Giáo trình Pháp luật kinh tế
416 p | 1095 | 321
-
Giáo trình Nguyên lý kinh tế vĩ mô: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Văn Công (chủ biên)
116 p | 903 | 130
-
Giáo trình Pháp luật kinh tế: Phần 1 - TS. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) (ĐH Kinh tế Quốc dân)
221 p | 1262 | 114
-
MÔN HỌC KINH TẾ QUỐC TẾ.
17 p | 364 | 79
-
Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - CÁC NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ PHÂN TÍCH CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THỰC THI ĐẦY ĐỦ CÁC NGUYÊN TẮC NÀY TRONG QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
21 p | 571 | 76
-
Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế (dùng trong các trường trung học chuyên nghiệp): Phần 1
83 p | 353 | 71
-
Giáo trình môn học Kinh tế vi mô - Phần 2
45 p | 700 | 70
-
Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ
11 p | 240 | 68
-
Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ (BẢN 2)
33 p | 168 | 45
-
Giáo trình: "luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng thương"
3 p | 147 | 37
-
Giáo trình Pháp luật kinh tế: Phần 1 - PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy
187 p | 71 | 14
-
Bài giảng Kinh tế quốc tế - Chương 1: Những vấn đề chung về môn học kinh tế quốc tế
28 p | 63 | 8
-
Quan hệ kinh tế Việt - Pháp: Thực tiễn và triển vọng
6 p | 93 | 7
-
Giáo trình Pháp luật kinh tế: Phần 1 (Tái bản lần thứ 6)
217 p | 18 | 7
-
Giáo án học phần Kinh tế quốc tế
108 p | 36 | 5
-
Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ XXI đến nay
9 p | 21 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn