Giáo trình Tài chính học
lượt xem 86
download
Với kết cấu nội dung gồm 6 chương, giáo trình "Tài chính học" giới thiệu đến các bạn những nội dung những vấn đề cơ bản về tài chính, ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm trong nền kinh tế,... Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đang học chuyên ngành Tài chính ngân hàng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình Tài chính học
- LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình tài chính học được biên soạn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của kinh tế thị trường trong nước và quốc tế để người học và người đọc dễ hình dung những vấn đề tài chính của nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập. Giáo trình tài chính học được biên soạn nhằm cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính, hệ thống tài chính, thị trường tài chính và những nội dung chủ yếu ở các lĩnh vực khác nhau của hoạt động tài chính như: Ngân sách nhà nước, bảo hiểm, tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính quốc tế. Qua đó giúp cho người học và người đọc có phương pháp tiếp cận dễ dàng về vấn đề lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập. Đồng thời giúp cho người học có nền tảng kiến thức cơ sở để tiếp cận học các môn học thuộc chuyên ngành kinh tế. Do đó, Tập thể tác giả đã tiến hành biên soạn “ Giáo trình tài chính học”, nhằm phù hợp với mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo của Trường Cao đẳng Kinh tế Kế hoạch Đà Nẵng là phục vụ chủ yếu cho giảng dạy của giáo viên và việc học tập của sinh viên trong trường. Giáo trình tài chính học có 6 chương. Tham gia trực tiếp biên soạn các chương gồm có: NCS. Ths. Nguyễn Văn Huỳnh biên soạn chương 3 và chương 4 NCS.Ths. Nguyễn Thị Quỳnh Nhi biên soạn chương 1 và chương 2 TS. Nguyễn Thị Thu Đông biên soạn chương 5 và chương 6 Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng sưu tầm tài liệu, tổng hợp và chắt lọc toàn bộ nội dung liên quan đến tài chính trong thời đại mới. Tuy nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề phức tạp, chứa đựng nhiều nội dung phong phú vì vậy, thiếu sót trong quá trình biên soạn là khó 1
- tránh khỏi. Nhóm tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn! 2
- Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH I. Khái quát sự ra đơi và phát triên cua tài chính ̀ ̉ ̉ Tài chính ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử nhất định khi mà ở đó xuất hiện nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ và xuất hiện Nhà nước. Kinh tế chính trị MácLêNin đã chỉ rõ, tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, thuộc phạm trù phân phối. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Tài chính thuộc về phạm trù phân phối, các quan hệ phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Như mọi phạm trù kinh tế khách quan khác, tài chính có lịch sử phát sinh, phát triển của nó. Như vậy, tài chính cũng đồng thời là một phạm trù lịch sử. Qua việc tổng kết các quá trình phát sinh, phát triển của tài chính gắn liền với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau cho phép xác định tài chính ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, tiền tệ và hoạt động của Nhà nước. Nói cách khác, tài chính ra đời và phát triển dựa trên hai tiền đề, đó là tiền đề nền sản xuất hàng hoá tiền tệ và tiền đề Nhà Nước. 1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ Trước khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện, nền kinh tế hoạt động theo mô hình tự cung tự cấp, do vậy không có hoạt động trao đổi các sản phẩm tạo ra, phạm trù tài chính chưa xuất hiện. Khi có sự phân công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện, quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất đã dẫn đến sự hình thành nền kinh tế hàng hóa từ đó nẩy sinh hoạt động trao đổi các sản phẩm tạo ra. Quá trình trao đổi đầu tiên được thực hiện dưới hình thức trực tiếp hàng đổi hàng, tức phân phối bằng hiện vật. Khi nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, thì hình thức trao đổi trực tiếp không còn phù hợp. Hoạt động trao đổi hàng hóa đòi hỏi phải có vật đơn 3
- nhất, đồng nhất đóng vai trò đo lường giá trị của tất cả hàng hóa. Ban đầu để trao đổi hàng hóa được dễ dàng thì con người đã biết chọn thứ gì đó để làm vật ngang giá chung. Chính yêu cầu đó đã làm xuất hiện tiền tệ. Ban đầu người ta sử dụng các loại hàng hóa thông thường như vỏ sò, vỏ hến, hay bộ lông thú, sau đó sử dụng các kim loại như đồng, chì, kẽm, bạc và vàng…làm vật ngang giá, đóng vai trò là tiền tệ. Nói cách khác, trao đổi hàng hóa gắn liền với sự phát triển của các hình thái giá trị đã dẫn tới sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền tệ ra đời nhanh chóng thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, đồng thời làm nên cuộc cách mạng trong phân phối từ phân phối hiện vật sang phân phối giá trị. Trên cơ sở trao đổi hàng hoá gắn liền với sự phát triển của các hình thái giá trị, tiền tệ trở thành phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất đó. Với chức năng thước đo giá trị của thế giới hàng hoá, tiền tệ giúp các sản phẩm sản xuất ra được mang đi trao đổi một cách dễ dàng, thông qua giá cả. Sản phẩm được trao đổi liên tục nên dẫn đến sự vận động của tiền tệ làm phát sinh thu nhập của người sản xuất hàng hoá, các khoản thu nhập là nguồn hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế. Sự phát triển liên tục của quá trình sản xuất hàng hoá đòi hỏi các quỹ tiền tệ phải được tạo lập, phân phối, sử dụng và đây chính là cơ sở làm nảy sinh phạm trù tài chính. Tiền đề sản xuất hàng hóa và tiền tệ là tiền đề đầu tiên cho sự ra đời của tài chính. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa và sự đa dạng các hình thái tiền tệ, hoạt động phân phối tài chính diễn ra thường xuyên hơn, rộng hơn ở các chủ thể trong nền kinh tế, thỏa mãn nhiều lợi ích, nhu cầu khác nhau của các chủ thể đó đã thúc đẩy tài chính phát triển. Vì vậy, tiền đề nền sản xuất hàng hóa tiền tệ là tiền đề khách quan cho sự ra đời và phát triển phạm trù tài chính của mỗi quốc gia. 2. Tiền đề Nhà nước 4
- Lịch sử phát triển của xã hội còn cho thấy rằng, khi chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội loài người có sự phân chia giai cấp và có sự đấu tranh giai cấp, chính sản xuất và trao đổi hàng hóa – tiền tệ là nguyên nhân thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và từ đó phạm trù Nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra đời đã làm nảy sinh quan hệ kinh tế gắn với việc hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ riêng có của mình để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, hình thành lĩnh vực hoạt động tài chính theo nguyên tắc bắt buộc hay tự nguyện. Bằng các chính sách, cơ chế, luật pháp luôn tác động, thúc đẩy kinh tế hàng hoá tiền tệ phát triển, tác động tới sự vận động độc lập của các nguồn tài chính và tạo ra môi trường thuận lợi cho sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, Nhà nước xuất hiện với tư cách là người có quyền lực chính trị, Nhà nước nắm lấy việc in tiền, đúc tiền và lưu thông đồng tiền, đã tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị của tài chính. Như vậy có thể nói, đây là tiền đề chủ quan có tính chất định hướng, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động phân phối của tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của chủ thể kinh tế xã hội. Sự ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hoá tiền tệ và Nhà nước được coi là những tiền đề phát sinh và phát triển của tài chính, tài chính cũng đã phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Các quan hệ tài chính ngày càng phát triển đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức và bắt rễ sâu rộng trong đời sống kinh tế xã hội. Nhà nước bằng chính sách, văn bản, cơ chế, luật pháp luôn tác động tới sự vận động của tiền tệ và tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội, từ đó thúc đẩy các quan hệ tài chính nẩy sinh, tồn tại và phát triển. II. Ban chât cua tài chính ̉ ́ ̉ 5
- 1. Biểu hiện bên ngoài của tài chính Đó là sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Tài chính luôn gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ. Hoạt động phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Nguồn tài chính là một yếu tố cơ bản của phạm trù tài chính. Đó là toàn bộ của cải xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Nguồn tài chính không chỉ biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của cải xã hội mà còn biểu hiện toàn bộ tài sản quốc gia, tổng sản phẩm quốc dân ở dạng vật chất tiềm năng có khả năng tiền tệ hoá. Nguồn tài chính thường xuyên vận động trong nền kinh tế quốc dân giúp cho các chủ thể thực hiện quan hệ tài chính và tạo nên các dòng vật chất và sự vận động này là độc lập, mang tính tất yếu khách quan. Khi vận động, các nguồn tài chính đó được hình thành ở các chủ thể kinh tế và Nhà nước dưới hình thức các quỹ tiền tệ, các khoản thu nhập. Các quỹ tiền tệ, khoản thu nhập này lại tiếp tục được sử dụng cho những mục đích nhất định của các chủ thể để đáp ứng nhu cầu của mình. Nói cách khác, việc hình thành và sử dụng các nguồn tài chính được thực hiện về cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy, dấu hiệu đặc biệt quan trọng của phạm trù tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với sở hữu và tính mục đích của các chủ thể trong nền kinh tế, như: Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình, các ngân hàng và các công ty tài chính, tổ chức chính trị, xã hội ... Chính các chủ thể đó đã tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối 6
- các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền, thông qua đó hình thành các quỹ tiền tệ gắn liền với chủ sở hữu nhất định và được sử dụng theo mục đích riêng của chủ sở hữu đó. Trong một xã hội bao gồm các quỹ tiền tệ như sau: Quỹ tiền tệ của Nhà nước Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Đây là quỹ tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian Quỹ tiền tệ của hộ gia đình và cá nhân Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội … Các quỹ tiền tệ có các đặc trưng sau: Một là, Các quỹ tiền tệ luôn luôn biểu hiện quan hệ sở hữu. Sự vận động của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình thức sỡ hữu hoặc giữa các hình thức thức sở hữu nhưng khi kết thúc quá trình tạo lập và sử dụng thì mỗi chủ thể của hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác sẽ nhận được cho mình một phần nguồn lực tài chính, được xem là kết quả tất yếu của quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Còn quá trình phân phối bao giờ cũng chịu sự chi phối quyền sở hữu như là yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội. Việc sử dụng quỹ tiền tệ cũng phụ thuộc quyền sở hữu, phụ thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của người sở hữu trong quá trình phân phối. Hai là, Các quỹ tiền tệ luôn mang tính mục đích của nguồn tài chính. Đây là đặc điểm chủ yếu của các quỹ tiền tệ, phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục đích sử dụng cuối cùng là tích luỹ hay tiêu dùng. Việc hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế là nhằm thõa mãn các nhu cầu khác nhau của từng chủ thể. Ví dụ: Đối với Nhà nước, tài chính được sử dụng để huy động các nguồn thu cho Chính phủ và chi tiêu để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tếxã hội. 7
- Các doanh nghiệp huy động các nguồn thu tài chính để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hay dịch vụ để tạo ra thu nhập tăng thêm. Các hộ gia đình cũng cần các khoản thu nhập tài chính để thõa mãn nhu cầu tiêu dùng về vật chất và tinh thần. Như vậy, có thể thấy tài chính là cách thức phân bổ nguồn lực của các chủ thể trong nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu. Ba là, Các quỹ tiền tệ thường xuyên vận động. Biểu hiện của sự vận động là các quỹ tiền tệ luôn được tạo lập, bổ sung và sử dụng. Sự vận động của quỹ tiền tệ chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng phương tiện lưu thông của đồng tiền, còn việc thực hiện chức năng phương tiện cất trữ của đồng tiền chỉ mang tính chất tạm thời. Sự vận động của các quỹ tiền tệ luôn gắn với mục đích cụ thể của nó, các quỹ lớn được chia thành các quỹ nhỏ hơn hoặc các quỹ nhỏ hơn có thể được khuếch trương nhờ tập trung các quỹ tiền tệ nhỏ tương ứng. Ví dụ ngân sách Nhà nước được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế xã hội, quốc phòng an ninh…; các quỹ tập trung của các tổng công ty được tạo nên từ các quỹ tương ứng của các xí nghiệp trực thuộc hạch toán kinh tế độc lập. Tóm lại, biểu hiện bên ngoài của nguồn tài chính là gắn liền với việc tạo lập và sử dụng những quỹ tiện tệ nhất định. Sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nêu trên cho mục đích tích lũy và tiêu dùng phản ánh kết quả của quá trình phân phối. Quá trình đó phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị dựa vào sự vận động độc lập tương đối của đồng tiền trong phân phối các nguồn tài chính. 2 Nội dung kinh tế xã hội của tài chính Qua việc phân tích hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính ta thấy, các nguồn tài chính vận động gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên mà luôn chứa đựng những 8
- mối quan hệ kinh tế xã hội nhất định. Nguồn tài chính trong xã hội luôn vận động một cách liên tục trong mối quan hệ đan xen, đa dạng giữa các chủ thể trong xã hội dẫn tới việc làm thay đổi lợi ích kinh tế của các chủ thể đó. Các hiện tượng biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự thể hiện và phản ánh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế như thế được gọi là các quan hệ tài chính. Các quan hệ tài chính biểu hiện mặt bản chất bên trong của tài chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của tài chính. Như vậy, quan hệ tài chính đó là các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội. Các mối quan hệ đó bao gồm: Quan hệ kinh tế giữa Nhà Nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư. Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ quan, tổ chức kinh tế phi tài chính, dân cư. Quan hệ kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau và các quan hệ kinh tế trong nội bộ của các chủ thể đó. Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới... 3. Bản chất của tài chính Trên cơ sở phân tích biểu hiện bên ngoài và nội dung bên trong của phạm trù tài chính, bản chất của tài chính được hiểu như sau: Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế gắn với việc phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, thông qua đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối giá trị của cải xã hội trong những không gian, thời gian cụ thể. 9
- Từ bản chất có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của các quan hệ tài chính: Các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự vận động độc lập tương đối của đồng tiền để tiền hành phân phối các nguồn tài chính. Các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, cần phân biệt phạm trù tài chính với một số phạm trù giá trị khác như phạm trù tiền tệ, giá cả, tiền lương. Thứ nhất: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền tệ. Nhìn bề ngoài, tài chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Nhưng giữa phạm trù tài chính và phạm trù tiền tệ có sự khác biệt cơ bản. Về bản chất tiền tệ là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hoá. Tài chính là sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ trong lĩnh vực phân phối nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Thứ hai: Phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù giá cả. Giá cả cũng là một phạm trù giá trị, ở giá cả việc chuyển dịch giá trị không xảy ra vì giá cả xuất hiện trong quan hệ trao đổi, mua bán theo nguyên tắc ngang giá. Giá trị mà người mua và người bán có được đều bảo tồn chỉ thay đổi hình thái biểu hiện từ tiền biến thành hàng và ngược lại. Điều này có ý nghĩa trong quan hệ trao đổi mua bán ngang giá của phạm trù giá cả không diễn ra hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị. Trong thực tế nếu việc trao đổi mua bán diễn ra không theo nguyên tắc ngang giá thì cũng diễn ra sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác, biểu hiện ở phần chênh lệch giá này chuyển dịch từ người bán sang người mua, người mua được hưởng lợi và ngược lại. Trong phân phối dưới hình thức giá trị của phạm trù giá cả đều được thực hiện kèm theo quá trình trao đổi mua bán với sự vận động ngược chiều của các hình thái giá trị khác đó là giá trị và giá trị sử dụng, không giống như 10
- sự vận động của tài chính không kèm theo sự vận động ngược chiều nào của giá trị. Thứ ba: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền lương. Tiền lương cũng là phạm trù phân phối dưới hình thức giá trị. Tiền lương phân phối theo nguyên tắc phân phối theo lao động được tính tương đương với giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Tiền lương được thực hiện thông qua phân phối của tài chính để hình thành nên quỹ tiền lương của các tổ chức kinh tế xã hội, các cơ quan nhà nước trước khi trả cho người lao động. Tiền lương được biểu hiện bằng một lượng giá trị được chuyển dịch từ quỹ tiền lương của các chủ thể chi trả khác nhau đến các quỹ tiền tệ cho người được hưởng. Đây chính là biểu hiện của hoạt động phân phối tài chính. Giữa tiền lương và tài chính có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tài chính là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động của tiền lương trong lĩnh vực bù đắp sức lao động. Phạm vi tác động của tiền lương hẹp hơn so với tài chính. III. Chưc năng cua tài chính ́ ̉ 1. Chức năng phân phối của tài chính 1.1. Khái niệm Phân phối của tài chính đó là sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân theo những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thoả mãn các nhu cầu chung của Nhà nước, xã hội và các cá nhân. Hoạt động của tài chính là hoạt động phân phối phân phối các nguồn giá trị. Do vậy, chức năng phân phối là chức năng vốn có của tài chính, thể hiện bản chất của tài chính trong đời sống kinh tế, xã hội khi phân phối giá trị của cải xã hội. Nhờ vào chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau, đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau. 11
- Người ta dễ dàng nhận diện thấy tác động hiện thực của chức năng phân phối tài chính thông qua các hoạt động thu, chi tài chính, qua đó tài chính thực hiện huy động một phần thu nhập của các tổ chức, các hộ gia đình, các cá nhân để hình thành các quỹ tiền tệ nhằm thực hiện những mục tiêu đã định của các chủ thể. 1.2. Đối tượng của phân phối Đối tượng phân phối của tài chính là toàn bộ của cải xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội, bao gồm: * Nếu xét về thời gian, nguồn tài chính bao gồm: + Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm trong nước (GDP). + Bộ phận của cải xã hội còn lại từ thời kỳ trước, đó là phần tích luỹ quá khứ của cải xã hội và dân cư. * Nếu xét về phạm vi, nguồn tài chính bao gồm: + Nguồn tài chính tạo ra từ trong nước + Nguồn tài chính di chuyển từ nước ngoài vào * Nếu xét về hình thức biểu hiện: + Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính tồn tại dưới hình thái giá trị hoặc hiện vật. Dưới hình thái giá trị, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới hình thức tiền, vàng và ngoại tệ. Dưới hình thái hiện vật, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng bất động sản, tài nguyên, đất đai. + Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính không có hình thái vật chất cụ thể như: phần mềm, dữ liệu, thông tin, hình ảnh, phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, thương hiệu...Những sản phẩm kể trên, bản thân chúng có giá trị và trong điều kiện kinh tế thị trường chúng có thể chuyển thành tiền thông qua mua bán. Do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài chính trong xã hội. 12
- 1.3. Chủ thể phân phối: Chủ thể phân phối của tài chính là những người có thể tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối các nguồn lực tài chính trong xã hội. Các chủ thể phân phối phải thoả mãn một trong các tiêu thức sau: + Có quyền sở hữu các nguồn tài chính: Chủ thể ở đây là những người chủ “đích thực” của vốn tiền tệ. Vì là người có quyền sở hữu nguồn tài chính nên họ có quyền chủ động trong quá trình sử dụng nguồn tài chính để đáp ứng yêu cầu hoạt động của mình. + Có quyền sử dụng nguồn tài chính: Chủ thể ở đây là những người không có quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ đươc trao quyền sử dụng vốn tiền tệ. Ví dụ họ là người đi vay vốn tín dụng để hoạt động. Quyền sở hữu nguồn tài chính thuộc về người cho vay nhưng quyền sử dụng thuộc về người đi vay nên người đi vay có thể trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối. + Có quyền lực chính trị: Đây là tiêu thức biểu hiện chủ thể phân phối là Nhà nước. Vì có quyền lực chính trị, Nhà nước có thể huy động, phân phối và sử dụng một phần các nguồn lực tài chính từ các chủ thể khác nhau trong xã hội để đáp ứng yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. + Có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội: Chính sự ràng buộc các quan hệ xã hội làm nảy sinh nhu cầu huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính của các chủ thể phân phối. Sự ràng buộc của các quan hệ xã hội là tiền đề cho sự vận động của các nguồn tài chính từ chủ thể này sang chủ thể khác trong quá trình phân phối của tài chính. Chủ thể muốn đề cập ở đây là các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội...khi họ nhận được sự đóng góp, ủng hộ của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thì họ sẽ trực tiếp phân phối nguồn tài chính đó. Như vậy, chủ thể phân phối có thể là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian (ngân hàng, Bảo hiểm, tổ chức tín dụng khác…), các tổ chức xã hội, các hộ gia đình và cá nhân dân cư. 13
- Khi thực hiện chức năng phân phối tài chính các chủ thể phải đảm bảo các yêu cầu sau: + Phân phối tài chính phải xác định quy mô tỷ trọng của đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi thời kỳ nhất định. + Phân phối tài chính phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ về lợi ích kinh tế của những chủ thể tham gia phân phối. + Phân phối tài chính giải quyết thoả đáng các mối quan hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân cũng nhưng trong từng khâu tài chính riêng biệt. + Phân phối tài chính đảm bảo giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. + Phân phối tài chính phải đảm bảo tạo lập và chu chuyển nguồn vốn đảm bảo quá trình tái sản xuất xã hội bình thường. 1.4 Kết quả phân phối Phân phối tài chính luôn làm chuyển dịch giá trị từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Kết quả phân phối của tài chính là sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định cho những mục đích khác nhau của các chủ thể trong xã hội. 1.5. Đặc điểm phân phối Phân phối tài chính luôn gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Phân phối tài chính được biểu hiện bằng sự vận động của các nguồn tài chính từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Điều này liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau: Có thể có nhiều quỹ tiền tệ được tạo lập gắn liền với việc sử dụng một quỹ tiền tệ (Ví dụ như doanh nghiệp chi trả lương cho người lao động) hay ngược lại việc tạo lập một quỹ tiền tệ liên quan đến việc sử dụng nhiều quỹ tiền tệ khác (ví dụ, nhiều doanh nghiệp cùng nộp thuế cho Nhà nước). Phân phối tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Tài chính ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, phân phối tài chính là hoạt động phân phối 14
- các nguồn lực tài chính trong xã hội, do đó chỉ thực hiện bằng giá trị thông qua chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ. Khác với phân phối trong phạm trù giá cả, phân phối tài chính làm cho các nguồn lực tài chính vận động một chiều từ quỹ tiền tệ được sử dụng sang quỹ tiền tệ được tạo lập mà không kèm theo sự thay đổi các hình thái giá trị hay sự vận động ngược chiều của các hình thái giá trị. + Phân phối tài chính diễn ra trong một chu trình khép kín bao gồm quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất, cho những người có tham gia vào quá trình sản xuất. Chủ thể phân phối lần đầu bao gồm doanh nghiệp (người sản xuất), người lao động, Nhà nước (đại diện cho tài sản của Nhà nước mà doanh nghiệp đang sử dụng), các trung gian tài chính như Ngân hàng, bảo hiểm, Tổ chức tín dụng (với tư cách là người sở hữu vốn cho doanh nghiệp vay). Thông qua quá trình phân phối lần đầu đã hình thành nên phần thu nhập cơ bản của chủ thể phân phối. Vì phân phối lần đầu diễn ra ở lĩnh vực sản xuất nên toàn bộ giá trị sản phẩm xã hội trong khu vực sản xuất được phân chia thành các quỹ tiền tệ như sau: + Một phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất hay thực hiện các dịch vụ. Phần này bù đắp chi phí khấu hao tài sản cố định và chi phí mua nguyên, nhiên, vật liệu đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá và kinh doanh dịch vụ. + Một phần hình thành quỹ tiền lương để trả lương cho người lao động. + Một phần hình thành các quỹ bảo hiểm . + Một phần hình thành thu nhập của những người sở hữu các nguồn lực tài chính để phục vụ sản xuất kinh doanh như nộp thuế cho ngân sách nhà nước, trả nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức khác, phân chia thu nhập cho các thành viên góp vốn... * Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản đã hình thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng 15
- nhiều nhu cầu khác nhau, thoả mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Khi tiến hành phân phối lại, đã làm chuyển quyền sở hữu cũng như thay đổi quyền sử dụng nguồn tài chính của các chủ thể. So với phân phối lần đầu, phân phối lại diễn ra trên phạm vi rộng hơn, ở tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, hơn nữa phân phối lại diễn ra thường xuyên liên tục ở tất cả các chủ thể phân phối. Chính phân phối lại mới là biểu hiện chủ yếu của chức năng phân phối tài chính. Cần chú ý rằng, việc phân biệt giữa phân phối lần đầu và phân phối lại chỉ mang tính chất tương đối. Nếu xét trên tổng thể thì quá trình phân phối diễn ra liên tục, đan xen vào nhau, khó có thể tách rời hai quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại. 2. Chức năng giám đốc tài chính Chức năng giám đốc cũng là chức năng vốn có của tài chính, đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng các chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ tiền tệ. Chức năng giám đốc có quan hệ biện chứng với chức năng phân phối tài chính. 2.1. Khái niệm Giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, giám sát, đôn đốc các hoạt động tài chính nhằm phát hiện các ưu điểm để phát huy và những tồn tại cần khắc phục trong toàn bộ quá trình phân phối nguồn tài chính. 2.2. Đối tượng giám đốc Là toàn bộ quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình vận động của các nguồn tài chính. Chính sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ thông qua việc thực hiện chức năng phân phối làm nảy sinh nhu cầu và khả năng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động này. 2.3. Chủ thể giám đốc 16
- Chủ thể giám đốc cũng là chủ thể của phân phối. Trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình các chủ sở hữu thực hiện việc kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền một cách thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc diễn ra hoạt động phân phối của tài chính. Chủ thể giám đốc tài chính có thể là Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân, hộ gia đình. 2.4. Kết quả của giám đốc tài chính Trước hết, giám đốc tài chính đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân phối tài chính, đảm bảo sự đúng đắn của việc tạo lập và tính hiệu quả của việc sử dụng các quỹ tiền tệ. Hoạt động phân phối tài chính gắn liền với hoạt động của con người nên nó mang tính chủ quan trong một chừng mực nhất định. Nhờ chức năng giám đốc, quá trình phân phối được thực hiện phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan do đó vừa đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân phối, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng chúng theo những mục đích đã định. Thông qua giám đốc tài chính, phải phát hiện được những mặt được và chưa được của quá trình phân phối để điều chỉnh kịp thời việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo mục đích đã định. Ngoài ra, giám đốc tài chính còn góp phần thúc đẩy việc chấp hành các chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước. 2.5. Đặc điểm của chức năng giám đốc Chức năng giám đốc của tài chính không đồng nhất với mọi khả năng giám đốc bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. Ví dụ, giá cả là một phạm trù giá trị có khả năng giám đốc bằng đồng tiền nhưng hoàn toàn khác biệt với phạm trù tài chính. Trong quan hệ mua bán, trao đổi của giá cả trước hết nhờ vào chức năng thước đo giá trị của tiền tệ để đo lường giá trị của hàng hoá nhằm đảm bảo nguyên tắc ngang giá, ngoài ra còn dựa vào nhiều chức năng khác của tiền tệ. Ở phạm trù tài chính, chức năng giám đốc được thực hiện khi tài chính được sử dụng như một công cụ phân phối, gắn với việc tạo 17
- lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ, do đó chủ yếu dựa vào chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ của tiền tệ. Giám đốc tài chính có tính thường xuyên, liên tục, toàn diện, rộng rãi và kịp thời. Tính thường xuyên, liên tục được thể hiện rất rõ nét vì hoạt động phân phối của tài chính cũng có tính thường xuyên, liên tục. Giám đốc tài chính mang tính chất rộng rãi vì hoạt động phân phối của tài chính diễn ra trên phạm vi rất rộng. Tính toàn diện và kịp thời biểu hiện ở chỗ, chức năng giám đốc được thực hiện trước, trong và sau quá trình phân phối của tài chính. Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, làm tiền đề và bổ sung cho nhau. Chức năng phân phối là tiền đề của chức năng giám đốc. Hoạt động phân phối tạo ra khả năng và nhu cầu giám sát bằng đồng tiền đối với toàn bộ quá trình phân phối. Chức năng giám đốc giúp cho việc thực hiện chức năng phân phối phù hợp với các qui luật kinh tế khách quan, nâng cao tính hiệu quả của phân phối. Chức năng giám đốc được thực hiện trước, trong và sau quá trình phân phối. IV. Hê thông tài chính ̣ ́ 1.Khái niệm và sơ đồ hệ thống tài chính 1.1 Khái niệm hệ thống tài chính Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện rất đa dạng và phức tạp, tuy nhiên chúng không hề tồn tại và hoạt động tách biệt nhau, giữa chúng luôn có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau theo những nguyên tắc, qui luật nhất định, hình thành nên một hệ thống thống nhất. Hệ thống tài chính có thể xem xét trên 2 khía cạnh: chủ thể tài chính và luồng luân chuyển vốn. Tuy nhiên trong giáo trình này, chỉ đề cập đến quan niệm hệ thống tài chính trên góc độ chủ thể tài chính và ở đó có các quỹ tiền tệ, tạo thành “tụ điểm” từ các nguồn tài chính, thì hệ thống tài chính khái quát như sau: 18
- Hệ thống tài chính là tổng thể các bộ phận khác nhau trong một cấu trúc tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau có những quỹ tiền tệ đặc thù được hình thành và được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Các hoạt động tài chính ở đó cũng có đặc điểm và vai trò riêng, nghĩa là ở đó hình thành các bộ phận tài chính độc lập. Tính đa dạng, độc lập đó bắt nguồn từ tính đa dạng, phong phú của các hoạt động kinh tế xã hội mà hoạt động tài chính là một bộ phận trong đó. Tuy có sự đa dạng, khác nhau nhưng các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực, các bộ phận tài chính lại có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài chính. Điều đó, kết hợp với nhau và cấu thành một hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính của một quốc gia là một thể thống nhất do nhiều bộ phận tài chính hợp thành. Bộ phận tài chính là nơi hội tụ các nguồn tài chính, nơi diễn ra việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể trong lĩnh vực hoạt động. Việc xác định có bao nhiêu bộ phận tài chính của hệ thống đó là tuỳ thuộc vào việc chỉ ra một cách đúng đắn các căn cứ lư thuyết để xác định thế nào là một bộ phận tài chính. Các căn cứ xác định các bộ phận tài chính: + Bộ phận tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính là nơi vừa thu hút các nguồn tài chính (tạo lập quỹ tiền tệ từ các quỹ tiền tệ khác) đồng thời cũng là nơi cung ứng nguồn tài chính (sử dụng quỹ tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ khác) + Một bộ phận tài chính nếu ở đó hoạt động tài chính, sự vận động của các nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một chủ thể phân phối cụ thể, xác định. 19
- + Được xếp vào một bộ phận tài chính nếu các hoạt động tài chính có cùng tính chất đặc điểm, vai trò có tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và tính mục đích của các quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động. Từ những căn cứ trên có thể xác định hệ thống tài chính theo chủ thể bao gồm các bộ phận tài chính sau: Tài chính Nhà nước. Tài chính doanh nghiệp. Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian (Bảo hiểm, Tín dụng) Tài chính các tổ chức chính trị xã hội và tài chính hộ gia đình 1.2. Sơ đồ hệ thống tài chính Hệ thống tài chính bao gồm các bộ phận tài chính và bộ phận dẫn vốn, được tổ chức theo sơ đồ sau: Tài chính Nhà nước Tài chính THỊ Các trung gian Doanh nghiệp TRƯỜNG tài chính TÀI CHÍNH Tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội Giữa các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ ràng buộc trong việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ hợp thành một hệ thống tài chính thống nhất. Đây là những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động vào nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Thêm vào đó, 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Tài chính công - GS.TS Vũ Văn Hóa
86 p | 1204 | 350
-
Giáo trình Quản lý Nhà nước về kinh tế (giáo trình sau đại học): Phần 2
195 p | 629 | 223
-
Bài giảng tài chính công: Phân tích chi phí – lợi ích Tài chính công - PGS.TS. Sử Đình Thành
44 p | 533 | 213
-
Giáo trình Kinh tế Fulbright: " Kinh tế học về chi phí giao dịch"
29 p | 557 | 198
-
Giáo trình Hành chính công - TS Nguyễn Ngọc Tiến
563 p | 485 | 127
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô
233 p | 653 | 121
-
TÀI CHÍNH VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
16 p | 325 | 98
-
Giáo trình phân tích tài chính - ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ NỀN KINH TẾ HÙNG MẠNH CỦA AILEN
34 p | 262 | 76
-
TÀI CHÍNH CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
16 p | 290 | 67
-
Giáo trình-Hành chính công -Tài chính công-c11
27 p | 234 | 65
-
Giáo trình kinh tế học công cộng (Joseph E. Stiglitz) Chương 13: Bảo hiểm xã hội
26 p | 230 | 35
-
Giáo trình Tài chính công: Phần 1
151 p | 75 | 16
-
Giáo trình Tài chính công: Phần 2
121 p | 40 | 15
-
Giáo trình thành lập cơ sở lý luận để chuyển sang nền kinh tế thị trường từ nhu cầu cần thiết phải phát triển khoa học công nghệ p7
5 p | 98 | 8
-
Giáo trình Kinh tế học vi mô cơ bản (Tái bản lần 1): Phần 1
72 p | 14 | 8
-
Giáo trình nhận thức khái quát chung về nền kinh tế nhà nước trong quá trình quốc hữu hóa doanh nghiệp tư bản tư nhân p7
10 p | 90 | 6
-
Giáo trình Kinh tế vĩ mô: Phần 2 - Đại học Nội vụ Hà Nội
63 p | 23 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn