intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Kỹ thuật chế biến món ăn - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:62

13
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Kỹ thuật chế biến món ăn - Cao đẳng) được biên soạn với mục tiêu nhằm giúp sinh viên trình bày được kiến thức khái quát về du lịch và khách sạn; Trình bày được khái niệm, cơ cấu khách sạn và tổ chức trong một khách sạn; Trình bày được mối liên hệ giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế khác. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Kỹ thuật chế biến món ăn - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: TỔNG QUAN DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN NGHỀ: KỸ THUẬT CHẾ BIẾN MÓN ĂN TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG, TRUNG CẤP Ban hành kèm theo Quyết định số: / QĐ-… ngày ….. tháng …. năm của Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình Ninh Bình, năm 2021 1
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu tất yếu của xã hội, không những là ngành kinh tế mũi nhọn của các quốc gia mà còn là cầu nối giao lưu giữa các dân tộc, quốc gia và các miền trong một đất nước. Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam không ngừng xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực làm cơ sở cho việc thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch và giải pháp thực hiện, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch, Tổng cục du lịch đã xác định môn Tổng quan du lịch và khách sạn là một trong những môn học cơ sở ngành, đồng thời là tài liệu tham khảo cho những ai có nhu cầu tìm hiểu bước đầu về hoạt động du lịch. Giáo trình " Tổng quan du lịch và khách sạn" được biên soạn nhằm trang bị cho học viên những vấn đề cơ bản về du lịch một các có hệ thống trước khi học tập những môn chuyên môn khác. Lần đầu tiên cuốn giáo trình được biên soạn, chắc chắn không tránh được thiếu sót. Chúng tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn nhận được sự đóng góp của những nhà nghiên cứu và tất cả những người quan tâm đẻ cuốn sách được chỉnh sửa, bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn! Nhóm biên soạn 1. Chủ biên : Đào Thị Thủy 2. 3. 3
  4. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: Tổng quan du lịch và khách sạn Mã môn học: MH 07 Vị trí tính chất của môn học: ­ Vị trí: Là môn học được bố trí giảng dạy sau các môn học chung và trước các   môn học/mô đun chuyên môn nghề. ­ Tính chất: Là môn học cơ sở. Mục tiêu môn học: - Về kiến thức: + Trình bày được kiến thức khái quát về du lịch và khách sạn; + Trình bày được khái niệm, cơ cấu khách sạn và tổ chức trong một khách sạn. + Trình bày được mối liên hệ giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế khác; - Về kỹ năng: + Phân loại được một số loại hình lưu trú trong hoạt động du lịch; + Phân tích được mối liên hệ giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế khác; + Phân loại và xếp hạng được các loại khách sạn. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Có ý thức học tập nghiêm túc, phát huy tính sáng tạo và rèn luyện khả năng thuyết trình cho sinh viên. Nội dung của môn học: 4
  5. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN Giới thiệu: Chương 1 nhằm trang bị cho người học những kiến thức về du lịch, khách du lịch, điểm du lịch và các cơ sở lưu trú du lịch. Giới thiệu một số sản phẩm du lịch trong hoạt động du lịch Mục tiêu: ­ Trình bày được khái niệm về du lịch, khách du lịch, điểm du lịch và cơ  sở lưu trú; ­ Trình bày được một số  loại hình du lịch tiêu biểu trong hoạt động du  lịch. ­ Phân tích được nhu cầu du lịch trong hoạt động du lịch; ­ Phân loại được một số loại hình du lịch trong hoạt động du lịch. ­ Có ý thức học tập nghiêm túc, phát huy tính sáng tạo và rèn luyện khả  năng tư duy cho sinh viên. Nội dung chính: 1 Một số khái niệm cơ bản 1.1 Khái niệm về du lịch Theo quan điểm của Robert W.Mc. Inosh du lịch là tổng hợp các mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa khách du lịch, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp khách du lịch Theo định nghĩa của Tổ chức du lịch thế giới ( WTO ) : Du lịch được hiểu là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến không phải là nơi làm việc của họ Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, du lịch được hiểu trên 2 khía cạnh : - Thứ nhất : Du lịch là một dạng nghỉ ngơi dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích : nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh... - Thứ hai : Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt : nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn 5
  6. hóa dân tộc; về mặt kinh tế du lịch là lĩn vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ tại chỗ Luật du lịch Việt Nam (được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, Khoá XI năm 2005) đã nêu khái niệm về du lịch như sau: Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định 1.2 Khái niệm về khách du lịch ( Du khách) Theo tổ chức Du lịch thế giới, khác du lịch là những người có các đặc điểm đặc trưng sau: - Là người đi khỏi nơi cư trú của mình; - Không theo đuổi mục đích kinh tế; - Đi khỏi nơi cư trú từ 24 giờ trở lên; - Khoảng cách tối thiểu từ nhà đến điểm đến tuỳ quan niệm từng nước. Tại các nước đều có các định nghĩa riêng về khách du lịch. Tuy nhiên, điểm chung nhất đối với các nước trong cách hiểu khái niệm về khách du lịch là: Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình đến một nơi nào đó, quay trở lại với những mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm công và nhận thù lao ở nơi đến; có thưòi gian lưu trú lại ở nơi đến từ 24 giờ trở lên (hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) nhưng không quá thời gian một năm. Khách du lịch là những người tạm thời ở tại nơi họ đến du lịch với các mục tiêu như nghỉ ngơi, kinh doanh, hội nghị hoặc thăm gia đình. Theo luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, từ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Khách du lịch được phân chia làm 2 nhóm cơ bản: Khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa. 1.2.1. Khách du lịch quốc tế Năm 1989, tại hội nghị liên minh quốc hội về du lịch được tổ chức tại Lahaye đã ra tuyên bố " Lahaye về du lịch" trong đó đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau : Khách du lịch quốc tế là những người : 6
  7. - Trên đường đi thăm một hoặc một số nước, khác với nước mà họ cư trú thường xuyên - Mục đích của chuyến đi là tham quan, thăm viếng hoặc nghỉ ngơi không quá thời gian 3 tháng, nếu trên 3 tháng phải được phép gia hạn - Không được làm bất cứ việc gì để được trả thù lao tại nước đến do ý muốn của khách hay do yêu cầu của nước sở tại - Sau khi kết thúc đợt tham quan phải rời khỏi nước đến tham quan để về nước nơi cư trú của mình hoặc đi đến một nước khác Như vậy có thể hiểu : Khách du lịch quốc tế: Là khách du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến du lịch thuộc phạm vi lãnh thổ của hai hoặc nhiều quốc gia khác nhau. Luật du lịch Việt nam đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế : Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam ra nước ngoài du lịch Như vậy nhóm khách du lịch quốc tế được phân chia thành 2 loại - Khách du lịch quôc tế đi vào : Là người nước ngoài và người của một quốc gia nào đó định cư ở nước khác vào quốc gia đó đi du lịch - Khách du lịch quốc tế đi ra : Là công dân của một quốc gia và người nước ngoài đang cư trú tại quốc gia đó đi ra nước ngoài du lịch Những đối tượng sau đây không được công nhận là khách du lịch quốc tế : - Những người đến một nước để thừa hành một nhiệm vụ nào đó - Những người sang nước khác để hành nghề hoặc tham gia các hoạt động kinh doanh ở nước đến - Những người nhập cư vào nước đến - Học sinh, sinh viên hoặc nghiên cứu sinh, thực tập sinh sống tạm trú ở nước ngoài - Những người thường xuyên qua lại biên giới - Những hành khách đi xuyên qua một quốc gia 1.2.2. Khách du lịch nội địa - Khách du lịch nội địa: Là công dân Việt Nam , người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. (theo luật Du lịch Việt Nam 2005) 7
  8. Ngoài ra tại một số nước còn phân biệt khái niệm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc gia : - Khách du lịch trong nước : Là tất cả khách du lịch đang đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia - Khách du lịch quốc gia : là tất cả công dân của một quốc gia nào đó đi du lịch 1.3 Khái niệm về điểm du lịch Các điểm du lịch, khu du lịch là yếu tố cấu thành rất quan trọng của một điểm đến du lịch. Trong một chuyến đi, khách du lịch thường quan tâm tới nhiều yếu tố như: vận chuyển, lưu trú, ăn uống, mua sắm, tham quan... Trong các yếu tố đó, vấn đề được khách du lịch đặc biệt quan tâm là tại điểm đến có cái gì để cho họ tham quan, thưởng thức và hoạt động theo đúng ý thích của họ. Khác đến một nơi nào đó không phải với mục đích chính là ngủ, đi lại bằng một pưhơng tiện nào đó mà chủ yếu là để có cảm giác mới do các điểm du lịch mang lại. Cần hiểu rằng, điểm du lịch rất quan trọng đối với quyết định đi du lịch của khách du lịch, nhưng chi tiêu của khách du lịch tại các điểm du lịch thường chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng chi tiêu của khách du lịch trong một chuyến đi. Thực tế cho thấy, một người khách quyết định đến một nơi nào đó (điểm đến du lịch) trước hết là nơi đó có thể cung cấp cho họ những cảm giác khác với nơi họ thường sống. Một số người sống ở nông thôn thích tìm đến nơi đông đúc, nhộn nhịp, có nhiều công trình kiến trúc đẹp ở thành phố; một số người sống ở vùng núi thích đi thăm thành phố hoặc vùng biển; trong khi đó người sống ở thành phố thích đến nơi có thể thư giãn, nghỉ ngơi, không khí trong lành, yên tĩnh như vùng biển, vùng núi, hồ, vùng quê. Như vậy, điểm du lịch rất đa dạng, nó có thể là một bãi biển ; Theo luật Du lịch Việt Nam năm 2005 Điểm đến du lịch được định nghĩa như sau: Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. 1.4. Cơ sở lưu trú du lịch Theo điều 4 trong luật du lịch, cơ sở lưu trú du lịch được hiểu như sau :" Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ 8
  9. khác phục vụ khách lưu trú trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu". Hiểu một cách cụ thể, thì cơ sở lưu trú du lịch chính là nơi khách có thể ăn nghỉ, trú ngụ được trong thời gian rời xa nơi ở thường xuyên của mình để đi du lịch. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch bao gồm toàn bộ các cơ sở lưu trú du lịch trong một phạm vi lãnh thổ nhằm đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách du lịch 2 . Các loại hình du lịch 2.1 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ +Du lịch quốc tế : Được hiểu là chuyến đi từ nước này sang nước khác. Ở loại hình du lịch này, khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Du lịch quốc tế được chia làm 2 loại : Du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động. Loại hình này là cơ sở cho các mối quan hệ hợp tác cùng có lợi về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các quốc gia + Du lịch nội điạ : Chuyến đi của người đi du lịch từ chỗ này sang chỗ khác nhưng trong phạm vi đất nước mình. Điểm đến và điểm xuất phát nằm trong lãnh thổ quốc gia mình 2.2 Căn cứ vào mục đích của chuyến đi 2.2.1. Theo mục đích chung a) Du lịch tham quan Tham quan là hành vi quan trọng của con người với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến đi du lịch đến những nơi lạ để tìm hiểu các di sản văn hoá, di tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội độc đáo, các làng nghề thủ công truyền thống, các bản làng của ngưòi dân tộc thiểu số, phong tục tập quán và tìm hiểu những thành quả kinh tế, chế độ xã hội, chất lượng cuộc sống của mỗi địa phương mỗi quốc gia và có thể là một phong cảnh thiên nhiên kỳ thú…. Loại hình du lịch tham quan có tác dụng nhận thức là rất lớn, tác dụng giải trí không hiện hình hoặc có ý nghĩa thứ yếu. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình này trong thời gian rất ngắn, thường kéo dài một giờ, hoặc một vài phút. Đối tượng của loại hình du lịch này thường là những người có văn hoá cao như nhà giáo, nhà khoa học, nhà sử học, nhà báo…. Ưu thế của loại hình du lịch này là đại bộ 9
  10. phận không chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ. Điều này nó giúp cho sự cân bằng trong việc phát triển du lịch. b) Du lịch giải trí Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe (vật chất cũng như tinh thần). Trong chuyến đi, nhu cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được của du khách. Do vậy, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi, cần thiết có các chương trình vui chơi, giải trí trong chuyến đi cho du khách trong chuyến đi. Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi du lịch chỉ nhằm mục đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng đáng kể c) Du lịch nghỉ dưỡng Du khách tìm đến các bãi biển, vùng suối nước khoáng, nước nóng có giá trị y học cao để chữa bệnh. Bên cạnh đó do đời sống công nghiệp, sự làm việc căng thẳng nên tranh thủ những ngày nghỉ tìm đến với thiên nhiên, hoà mình vào thiên nhiên để thay đổi môi trường sống hàng ngày, tránh tình trạng stress. Vì vậy, không gian du lịch phải thoáng mát, yên tĩnh. Và điều quan trọng là phải có đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình du lịch này là rất lớn. Đối tượng khách chủ yếu của loại hình du lịch này công nhân lao động, người già. 2.2.2. Theo mục đích riêng a) Du lịch thể thao Nhu cầu, sở thích của khách gắn với các môn thể thao. Loại hình này có hai loại khách chính đó là vận động viên trực tiếp tham gia thi tài ở các kì Thế Vận hội, Worldcup hoặc đến các vùng có tiềm năng thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi lội… (chủ động) và các cổ động viên xem các cuộc thi đấu và cổ vũ (bị động). Loại hình du lịch thể thao là một trong những loại hình đem lại nguôn thu rất lớn cho địa phương vì nó thu hut một lượng lớn khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia trên thế giới ngày càng ra sức chạy đua để được đăng cai một kì Thế vận hội, Worldcup bên cạnh việc thu lợi nhuận là quảng bá hình hình ảnh đất nước nhằm mục đích phát triển du lịch b) Du lịch tôn giáo Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các tôn giáo khác nhau (hiện nay, trên thế giới có các tôn giáo lớn như đạo Hồi, đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, Nho giáo, Do Thái…). Đây là loại hình du lịch lâu đời rất phổ biến ở các nước tư bản. Vì tôn giáo là nhu 10
  11. cầu tinh thần và là tín ngưỡng trong những cá nhân theo tôn giáo của họ, do đó dộng cơ đi và đến những nơi cội nguồn của tôn giáo là mong muốn và là nguyện vọng hàng năm của họ. 2.2.3. Theo trách nhiệm Du lịch MICE MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên, đối tác. MICE - viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi vậy các đoàn khách MICE thường rất đông (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ cũng đặt phòng cho khách ở khách sạn 4 - 5 sao, dịch vụ cao, tour sau hội nghị phải thiết kế chuyên biệt theo yêu cầu…). MICE hiện là loại hình du lịch mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch ở các nước. 2.3 Căn cứ theo phương tiện vận chuyển 2.3.1. Du lịch đường bộ a) Du lịch xe đạp Vừa kết hợp tham quan và thể thao. Du khách có thể xâm nhập dễ dàng với cuộc sống dân cư bản xứ và đi tới những nơi đường sá chưa phát triển b) Du lịch bằng xe ô tô Loại hình du lịch này gắn liền với kỹ nghệ sản xuất xe hơi. Sử dụng xe ô tô đi được nhiều nơ, thích hợp với nhiều dạng địa hình. Các gia đình thường dùng xe ô tô để nghỉ ngơi cuối tuần. Đặc biệt với sự phát triển của du lịch nội địa gắn liền với loại hình du lịch ô tô. 2.3.2. Du lịch đường không Là loại hình du lịch tiên tiến nhất đáp ứng nhu cầu của khách, có thể tơi tham quan nghỉ dưỡng tại những nước, những vùng xa xôi nhất, tranh thủ sử dụng những ngày nghỉ cuối tuần trong thời gian di chuyển ngắn nhất. Nhược điểm là giá thành vận chuyển cao, không phù hợp với tầng lớp có nhu cầu thấp. 2.3.3. Du lịch đường thủy Đối tượng chính là những khách có thu nhập cao. Loại hình du lịch này là trọn gói, đặc biệt thích hợp với những chuyên du lịch dài ngày, ghé thăm nhiều nơi, nhiều quốc gia. 11
  12. 2.4. Căn cứ vào phương thức hợp đồng 1.2.4.1. Du lịch trọn gói Khách du lịch thường kí hợp đồng trọn gói với các công ty lữ hành khi muốn tham gia vào một tuyết du lịch với một số tiền nhất định. Thường các các dịch vụ trọng gói mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh doanh khác nhau cung cấp cho khách đó là: - Dịch vụ lưu trú - Dịch vụ vận chuyển - Dịch vụ ăn uống - Dịch vụ hướng dẫn - Dịch vụ bảo hiểm - Vé tham quan 2.4.2.Du lịch từng phần Du khách chọn một hay vài dịch vụ của các công ty du lịch, có thể là dịch vụ lưu trú, có thể là dịch vụ ăn uống, có thể là vận chuyển .v.v. Còn lại khách tự tổ chức và liên hệ các dịch vụ khác nhau hay tự mình có 3 Nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch 3.1 Nhu cầu du lịch 3.1.1 Các khái niệm a) Nhu cầu là gì? Theo các chuyên gia tâm lý học, nhu cầu là cái tất yếu, tự nhiên, nó là thuộc tính tâm lý, là sự đòi hỏi tất yếu của con người để tồn tại và phát triển. Nếu được thoả mãn sẽ gây cho con người những xúc cảm dễ chịu, thoải mái (xúc cảm tích cực), trong trường hợp ngược lại sẽ gây nên những xúc cảm khó chịu, bực bội (xúc cảm tiêu cực) b) Nhu cầu du lịch Nhu cầu du lịch là sự mong muốn của con người đi đến một nơi khác với nơi ở thường xuyên của mình để có được những xúc cảm mới, trải nghiệm mới, hiểu biết mới, để phát triển các mối quan hệ xã hội, phục hồi sức khoẻ, tạo sự thoải mái dễ chịu về tinh thần. Nhu cầu du lịch khác với nhu cầu của khách du lịch. Nhu cầu du lịch không phải là nhu cầu cơ bản, do vậy nhu cầu du lịch chỉ được thoả mãn trong điều kiện nhất định, đặc biệt là điều kiện về kinh tế, kỹ thuật, xã hội.... còn nhu cầu của khách du lịch là những mong muốn cụ thể của khách du lịch trong một 12
  13. chuyến du lịch cụ thể, nó bao gồm: nhu cầu thiết yếu, nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung. - Nhu cầu thiết yếu trong du lịch là những nhu cầu về vận chuyển, lưu trú và ăn uống cần phải được thoả mãn trong chuyến hành trình du lịch. - Nhu cầu đặc trưng là những nhu cầu xác định mục đích chính của chuyến đi, ví dụ nhu cầu nghỉ dưỡng, tham quan, giải trí, thăm viếng, tham gia lễ hội, học tập nghiêm cứu.... - Nhu cầu bổ sung là những nhu cầu chưa định hình trước, nó phát sinh trong chuyến hành trình du lịch như thông tin, tư vấn, mua sắm, thẩm mỹ.... 3.1.2 Phân loại nhu cầu du lịch Về cơ bản, nhu cầu du lịch được phân làm 3 nhóm: nhu cầu thực tế, nhu cầu bị kìm chế và không có nhu cầu a) Nhu cầu thực tế: Là nhu cầu du lịch được thoả mãn, được thực hiện trong thực tế. Nhu cầu thực tế được thể hiện qua chỉ tiêu: số lượt khách đi du lịch trong một khoảng thời gian nào đó. b) Nhu cầu bị kìm chế: Là nhu cầu của một bộ phậm dân cư muốn đi du lịch nhưng không thực hiện được vì một lý do nào đó. c) Không có nhu cầu: Gồm những người có đủ điều kiện nhưng không muốn đi du lịch và những người trong suốt cuộc đời không thể đi du lịch vì lý do hoàn cảnh gia đình, sức khoẻ, lối sống, văn hoá..... 3.2 Sản phẩm du lịch 3.2.1. Khái niệm Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. Sản phẩm du lịch bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có 5 yếu tố chính: - Điểm thu hút khách (các di sản văn hoá, vườn quốc gia, bãi biển, công trình kiến trúc lễ hội, phong tục tập quán) - Khả năng tiếp cận của điểm dến (cơ sở hạ tầng, các loại phương tiện vận chuyển, lịch trình hoạt động của các loại phương tiện đó....) - Các tiện nghi và dịch vụ của điểm đến (các cơ sở lưu trú, nhà hàng, các cửa hàng bán lẻ, các khu vui chơi giải trí, khu thể thao..) - Hình ảnh của điểm đến 13
  14. - Giá cả hàng hoá, dịch vụ điểm đến... Các dịch vụ thuộc sản phẩm du lịch rất đa dạng (lưu trú, ăn uống, vận chuyển, tham quan, phục vụ hội nghị, vui chơi giải trí...) 3.2.2. Đặc điểm của sản phẩm du lịch Sản phẩm du lịch chủ yếu thỏa mãn nhu cầu thứ yếu cao cấp của du khách. Mặc dù trong suốt chuyến đi họ phải thỏa mãn các nhu cầu đặc biệt. Do đó nhu cầu du lịch chỉ được đặt ra khi người ta có thời gian nhàn rỗi, có thu nhập cao. Nguời ta sẽ đi du lịch nhiều hơn nếu thu nhập tăng và ngược lại sẽ bỏ cắt giảm nếu thu nhập bị giảm xuống. bao gồm 4 đặc điểm của dịch vụ đó là: * Tính vô hình: Sản phẩm du lịch về cơ bản là vô hình (không cụ thể). Thực ra nó là một kinh nghiệm du lịch hơn là một món hàng cụ thể. Mặc dù trong cấu thành sản phẩm du lịch có hàng hóa. Tuy nhiên sản phẩm du lịch là không cụ thể nên dễ dàng bị sao chép, bắt chước (những chương trình du lịch, cách trang trí phòng đón tiếp…). Việc làm khác biệt hóa sản phẩm mang tính cạnh tranh khó khăn hơn trong kinh doanh hàng hóa. * Tính không đồng nhất: Do sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ, vì vậy mà khách hàng không thể kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi mua gây khó khăn cho việc chọn sản phẩm. Do đó vấn đề quảng cáo trong du lịch là rất quan trọng * Tính đồng thời giữa sản xuất và tiêu dùng: Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng một thời gian và địa điểm sản xuất ra chúng. Do đó không thể đưa sản phẩm du lịch đến khách hàng mà khách hàng phải tự đến nơi sản xuất ra sản phẩm du lịch. * Tính mau hỏng và không dự trữ được: Sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống….Do đó về cơ bản sản phẩm du lịch không thể tồn kho, dự trữ được và rất dễ hỏng. Ngoài ra sản phẩm du lịch còn có một đặc điểm khác: - Sản phẩm du lịch do nhiều nhà tham gia cung ứng - Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch mang tính thời vụ - Sản phẩm du lịch nằm ở xa nơi cư trú của khách du lịch. 4. Một số loại hình cơ sở lưu trú du lịch tiêu biểu 4.1 Hotel Khách sạn là công trình kiến trúc được xây dựng độc lập, có quy mô từ 10 buồng ngủ trở lên, bảo đảm chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ cần thiết phục vụ khách du lịch 14
  15. Trong các loại hình cơ sở lưu trú du lịch, khách sạn là loại hình cơ sở lưu trú chủ yếu, đặc thù nhất, đặt hầu hết ở các đô thị, các điểm du lịch trên thế giới. phổ biến nhất của ngành du lịch nói chung và của hệ thống cơ sở lưu trú du lịch nói riêng. Trong hệ thống cơ sở lưu trú khách sạn là loại hình cơ sở lưu trú tiêu biểu nhất, phát triển nhất về dịch vụ, chất lượng, đa dạng về thể loại, có số lượng lớn, có mặt hầu hết ở các đô thị, các điểm du lịch trên thế giới. Trong Điều 4 – Luật du lịch của nước ta cũng đã để cập “Khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu” để nói lên vị trí quan trọng của khách sạn. Chính vì vị trí quan trọng của loại hình khách sạn trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch nên việc nghiên cứu chi tiết về khách sạn đã được dành một chương trình riêng (Chương 3). Trong nội dung của chương này chỉ tập trung nghiên cứu các loại hình cơ sở lưu trú khác. 4.2 Motel 4.2.1 Khái niệm Motel là thuật ngữ tiếng anh có nghĩa ban đầu là Motor – Hotel phục vụ khách sạn lưu trú đi lại bằng các phương tiện cơ giới. Cùng với sự phát triển da dạng của các loại hình du lịch, hiện nay motel vẫn chủ yếu để đáp ứng đối trượng khách nói trên, nhưng bên cạnh đó motel hiện đại còn đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách tham gia một số loại hình du lịch khác (du lịch cuối tuần, du lịch nghỉ dưỡng) Chính vì vậy thuật ngũ motel hiện đại được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Trong thực tê, nhiều nhà nghiên cứu về du lịch ở Việt Nam đã có công tìm kiếm một thuật ngũ tiếng Việt tương đương với motel có người dịch là khách sạn ven đường, khách sạn tự phục vụ, thậm chí có người còn dịch là nhà trọ, nhà nghỉ... Việc định nghĩa motel theo những cách trên chỉ phản ánh được một số đặc điểm của motel (chẳng hạn có nhứng motel không ở ven đường mà lại ở những khu nghỉ dưỡng, nếu gọi là khách sạn ven đường sẽ không chính xác). Việc đưa ra một thuật ngữ tương đương với motel trong tiếng Việt còn gặp một trở ngại rất lớn, đó là trong thực tế ở Việt Nam có rất ít motel, thậm chí có thể xem như là chưa có motel theo đúng nghĩa. Do đó khó có sự liên hệ, chưa có sự đặt tên cụ thể đối với loại hình cơ sở lưu trú du lịch này. Hiện nay loại hình cơ sở lưu trú motel khá phổ biến ở nước ta. Bên cạnh những loại hình lưu trú cao cấp như resort, khách sạn, khu nghỉ dưỡng thì du khách thường hướng đến những loại hình lưu trú đơn giản. Và từ đó Motel đã ra đời mang đến cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn. 15
  16. Theo thống kê, hàng năm khách du lịch tại nước ta tăng cao trong số đó thì lượng khách du lịch bụi chiếm tỉ lệ rất cao. Đối tượng này thường thích tự do và chủ động trong việc đi lại và ăn ở. Loại hình Motel đã được những đối tượng du lịch bụi lựa chọn thường xuyên. Không chỉ có vậy những khách du lịch nước ngoài cũng ưa thích loại hình này. Vì vậy, phân khúc này đang được rất nhiều các chủ đầu tư khai thác. Có thể đưa ra khái niệm về motel như sau: Motel là một loại hình cơ sở lưu trú du lịch, thường được xây dựng ven đường quốc lộ, những đầu mối giao thông quan trọng, ngoại ô thành phố, hoặc ở những khu du lịch với kiến trúc đơn giản, thấo tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật được trang bị chủ yếu để đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách đi bằng xe cơ giới, chủng loại dịch vụ ít và thường có các dịch vụ liên quan đến xe cơ giới, ngoài ra khách tự phục vụ lấy một số nhu cầu của mình. 4.2.2 Các thể loại a) Motel ven đường (tranzit motel): Đâylà thể loại motel phổ biến nhất, nó thường có vị trí ở ven các trục đường giao thông hoặc ở các đầu mối giao thông, có nhiều dịch vụ liên quan đến ôtô, chủ yếu phục vụ cho đối tượng là khác dừng chân trong những chuyến đi bằng ôtô, xe máy, thời gian lưu trú của khách ngắn (thường là một, hai ngày). Thể loại này phổ biến ở Mỹ va Tây Âu. b) Motel nghỉ dưỡng (tourist motel) Là thể loại motel thường được xây dựng gần những nơi có cảnh quan đẹp, tài nguyên thiên nhiên phòng phú, thời tiết khí hậu thuận lợi. Thể loại này chủ yếu dành cho đối tượng khách đi nghỉ, lưu trú trong thời gian tương đối dài. Thể loại này phổ biến nhiều nhất ở Châu Âu c) Motel ngoại ô (suburb motel) Là thể loại motel chủ yếu phục vụ cho đối tượng khách đi nghỉ cuối tuần, thông thường được xây dựng ở ngoại ô các thành phố lớn, phổ biến ở Tây Âu và Mỹ. Ngày nay cùng với sự phát triển đa dạng của nhu cầu du lịch của khác, các motel cũng ngày càng đa dạng hoá hoạt động của mình như xây dựng thêm bể nơi, sân tennis.... nhằm thu hút khách đến nhiều hơn và kéo dài thời gian lưu trú tại motel lâu hơn. Motel ngày càng phát triển và trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp của khách sạn. 4.2.3 Đặc điểm a) Đặc điểm về vị trí 16
  17. Tuỳ thuộc vào từng thể loại mà motel có vị trí khác nhau. Đối với motel ven đường: vị trí ở gần những trục đường giao thông chính (những đường cao tốc) hoặc ở đầu mối giao thông quan trọng, đối với motel nghỉ dưỡng thườn có vị trí ở những khu nghỉ dưỡng, gắn với những địa điểm có phong cảnh đẹp, khí hậu ôn hoà. Motel ngoại ô: có vị trí ở nghoại ô nhứng thành phố lớn, thông thường có thể ở gần những khu rừng ngoại ô hoặc ở gần những cánh đồng, dòng sông, bãi biển... Nhìn chung các motel thường có vị trí không ở các trung tâm đô thị, tuy nhiên trong thực tế vẫn tồn tại những motel ở ngay trung tâm đô thị, nhưng triường hợp này không phổ biến. b) Đặc điểm về kiến trúc, xây dựng: - Kiến trúc đơn giản, thường là nhà có mái, thấp tầng (thấp hơn ba tầng, nhưng phổ biến nhất vẫn là một đến hai tầng) - Được xây dựng bằng những vật liệu đơn giản, hơn 50% số motel được xây dựng theo kiểu nhà lắp ghép - Thường có hiên rộng, lối đi ngoài hành lang, ít có motel xây dựng theo kiểu có hang ở giữa (các buồng ngủ ở hai bên hành lang) - Có diện tích mặt bằng tương đối lơn, thường có sân rộng, vườn cây... - Thường có ga – ra để xe cho khách, đặc biệt đối với thể loại motel giao thông còn có cả những khu du lịch phục vụ cho việc bảo dưỡng, sửa chữa ô tô, xe máy. c) Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật: - Cơ sở vật chất kỹ thuật chung của motel chủ yếu là công trình nhà ở, sân vườn, gara (khu để xe ô tô), đường giao thông nội bộ, các hệ thống điện, cấp thoát nước, phòng cháy chữa cháy.... Nhìn chung cơ sở vật chất kỹ thuật của motel có chất lượng cũng như giá trị thấp hơn so với các loại hình cơ sở lưu trú khác như khách sạn, tàu du lịch, làng du lịch.. - Cơ sở vật chất kỹ thuật trong kinh doanh lưu trú của motel thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị của motel. Trong nhóm này tập trung vào các trang thiết bị trong buồng ngủ của khách. Trong buồng ngủ của motel thường có đầy đủ các trang thiết bị tiện nghi như trong buồng ngủ của khách sạn thông thường. Trong buồng ngủ thường có từ hai đến ba giường. Một điều đặc biệt trong buồng ngủ của khách thường có nhiều phòng, có cả bếp với các thiết bị đun nấu để khách có thể tự nấu nướng, có thiết bị giặt là để khách tự phục vụ (đây là điểm khác biệt so với các khách sạn thông thường) 17
  18. Trong các Motel, cơ sở vật chất ở bộ phận lễ tâm thường đơn giản hơn nhiều so với khách sạn, vì công việc chính của lễ tâm chỉ là giao chìa khoá cho khách và đáp ứng một số ít các dịch vụ có liên quan. Bộ phận buồng cũng thường đơn giản, thậm chí có nhiều motel không có bộ phận phục vụ buồng mà chỉ có bộ phận thu dọn, vệ sinh. d) Các đặc điểm về sản phẩm Sản phẩm của motel ngoài những đặc điểm chung như các sản phẩm trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch còn có các đặc điểm riêng như: - Giá rẻ (thấp hơn nhiều so với giá dịch vụ của khách sạn cao cấp, tàu du lịch, làng du lịch) - Chủng loại sản phẩm thường đơn giản, số lượng ít, chất lượng thường không cao. Đặc biệt đối với các dịch vụ ăn uống và giặt là khách thường phải tự phục vụ. - Thời gian lưu trú của khách tại các motel phụ thuộc vào từng thể loại motel. Đối với motel giao thông, khách thường lưu trú trong thời gian ngắn (dưới 4 ngày). Đối với thể loại motel ngoại ô, khách thường lưu trú trong thời gian ngắn (đi nghỉ cuối tuần); Đối với thể loại motel nghỉ dưỡng lại ngược lại, khách thường lưu trú trong thời gian tương đối dài (Cũng chính vì thời gian tương đối dài nên họ chọn motel để tiết kiệm chi phí) e) Đặc điểm về đối tượng khách: - Khách đi du lịch bằng xe cơ giới chiếm đa số (đặc biệt là đối với các motel giao thông) - Khách thường có khả năng thanh toán không quá cao. Thường là những khách du lịch có thu nhập trung bình. - Yêu cầu về chất lượng dịch vụ ở mức trung bình. - Tập trung nhiều ở giới trẻ, thường đi theo từng cặp, nhóm bạn hoặc cả gia đình. g) Đặc điểm về tổ chức lao động: Tổ chức lao động trong các motel thường đơn giản hơn so với các khách sạn, tỉ lệ nhân viên phục vụ buồng cũng thấp hơn (do chủng loại và số lượng dịch vụ ít hơn) Tính chuyên môn hoá ở motel thấp hơn so với khách sạn, bộ phận lễ tân thường rất đơn giản. 4.2.4 Những ưu thế, hạn chế. 18
  19. Qua việc phân tích những đặc điểm của motel, ta thấy loại hình cơ sở lưu trú du lịch này có những ưu thế và hạn chế cơ bản sau: a) Ưu thế: - Giá rẻ hơn so với nhiều loại hình cơ sở lưu trú du lịch khác (đặc biệt là so với khách sạn, làng du lịch, tàu du lịch, resort) - Thuận tiện cho thị trường khách du lịch bằng ôtô. - Tổ chức lao động đơn giản, dịch vụ ít do đó tiết kiệm được chi phí kinh doanh. b) Hạn chế: Loại hình này có nhiều hạn chế như: - Dịch vụ ít, chất lượng không cao - Tính chuyên môn hoá không cao - Chủ yếu thu hút được những đối tượng khách có thu nhập trung bình - Khách phải tự phục vụ lấy một phần các dịch vụ. 4.3. Làng du lịch (Tourism Village) 4.3.1 Khái niệm Đặc điểm nổi bật của làng du lịch chính là việc xây dựng nơi lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí cho khách theo mô hình quần thể trải ra trên không gian và diện tích khá rộng, tương tự như quần thể của các xóm, làng tự nhiện. Chính vì tính chất quần thể nên người ta gọi nó là làng. Resort cũng được xây dựng theo kiểu quần thể, nhưng về cơ sở vật chất kỹ thuật, kiến trúc hiện đại, tiện nghi cao cấp của nó không thể đồng nghĩa với làng được. Ngoài ra làng du lịch còn có kiểu sinh hoạt đặc trưng theo kiểu cộng đồng, nhóm nhỏ của khách du lịch. Như vậy có thể khái niệm làng du lịch như sau: Làng du lịch (Tourism Village) là loại hình cơ sở lưu trú du lịch tổng hợp thường được xây dựng theo quần thể trên một diện tích rộng được quy hoạch gần các tài nguyên du lịch. Loại hình cơ sở lưu trú này có kết cấu hạ tầng mang tính chất quần thể với những ngôi nhà riêng biệt cho khách lưu trú cùng với nhiều loại dịch vụ khác đáp ứng các nhu cầu của khách. Với khái niệm trên, cần phải phân biệt rõ: Thứ nhất, làng du lịch với Resort là hai loại hình cơ sở lưu trú du lịch hoàn toàn khác nhau. Thứ hai, làng du lịch là một loại hình cơ sở lưu trú du lịch khác với làng du lịch mang ý nghĩa là một điểm tham quan du lịch (không có các cơ sở lưu trú chuyên nghiệp) 4.3.2. Các thể loại Tuỳ theo tiêu chí phân loại có thể chia làng du lịch theo các thể loại khác nhau. Theo cách phân loại hiện nay ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đó 19
  20. là căn cứ vào cơ sở vật chất kỹ thuật của làng du lịch và chất lượng phục vụ có thể chia thành hai loại cơ bản: - Làng du lịch cao cấp: Đó là quần thể các biệt thự và các công trình dịch vụ có kiến trúc độc đáo được xây dựng trên một diện tích khá rộng thường ở nơi có những tài nguyên du lịch tự nhiên. Làng du lịch cao cấp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, với nhiều loại dịch vụ phong phú, chất lượng cao, thường bán cho khách theo giá trọn gói, có các chuyên gia, huấn luyện viên hướng dẫn khách trong các hoạt động thể thao, giải trí, vui chơi, chăm sóc sức khoẻ. - Làng du lịch địa phương: Đó là những làng du lịch mang đậm phong cách kiến trúc, văn phong của địa phương (có thể là những ngôi làng cũ cải tạo lại), có cơ sở vật chất kỹ thuật ở mức trung bình, tính đồng bộ không cao, phục vụ khách du lịch muốn hoà mình vào văn hoá địa phương. Hiện nay ở Việt Nam chủ yếu tồn tại hai thể loại làng du lịch nói trên và nó là loại hình cơ sở lưu trú mới xuất hiện so với các loại hình cơ sở lưu trú phổ biến khác như khách sạn, nhà nghỉ, bãi cắm trại. Ngoài ra, căn cứ vào vị trí địa lý của làng du lịch có thể chia ra các thể loại sau: - Làng du lịch nghỉ núi. - Làng du lịch đồng bằng - Làng du lịch nghỉ biển. 4.3.3. Đặc điểm Như trên đã xem xét làng du lịch bao gồm hai loại cơ bản là làng du lịch cao cấp và làng du lịch địa phương, hai thể loại này có những đặc điểm chung và đều là những điểm đặc trưng để chỉ ra chúng cùng một loại hình như: - Tính quần thể: Khu vực lưu trú của khách đều là những ngôi nhà riêng biệt, bố trí theo một quần thể thống nhất. - Có khu vực sinh hoạt chung, khu vực các dịch vụ như thương mại, ăn uống, vui chơi, giải trí. - Gắn với các tài nguyên du lịch, thường là ở những nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, khí hậu tốt (tài nguyên du lịch tự nhiên) hoặc ở những vùng có kiến trúc, bản sắc văn hoá đặc sắc (tài nguyên du lịch nhân văn) - Dịch vụ đa dạng, phong phú, đáp ứng khá đầy đủ các nhu cẩu của khách lưu trú. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0