intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

54
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở (THCS). Nghiên cứu được thực hiện trên 200 học sinh trường THCS Hợp Tiến và trường THCS Hợp Lí, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở

  1. HÀNH VI GÂY HẤN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRỊNH THỊ THẢO Khoa Tâm lý - Giáo dục Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở (THCS). Nghiên cứu được thực hiện trên 200 học sinh trường THCS Hợp Tiến và trường THCS Hợp Lí, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi gây hấn của học sinh THCS thể hiện dưới bốn nhóm chính: (1) bằng hành động gây tổn thương thân thể; (2) bằng lời nói; (3) bằng thái độ giận dữ và (4) bằng thái độ thù địch, trong đó hành vi gây hấn thể hiện bằng lời nói được thực hiện nhiều hơn. Do sự khác biệt về tâm sinh lí nên hành vi gây hấn thể hiện bằng hành động gây tổn thương đến thân thể của người khác của học sinh nam cao hơn học sinh nữ. Thực trạng ngày đòi hỏi các cơ quan, ban ngành giáo dục cần thực hiện các biện pháp để giảm thiểu hành vi gây hấn ở học sinh THCS. Từ khóa: hành gây hấn, học sinh THCS, lời nói, giận dữ, thân thể, thù địch 1. MỞ ĐẦU Gây hấn là hành vi với ý định gia tăng sự thống trị xã hội của sinh vật liên quan tới vị trí thống trị của những sinh vật khác. Gây hấn tồn tại dưới nhiều hình thức: thể chất, tinh thần hay lời nói... Trong tiếng Việt tùy theo hoàn cảnh và thói quen sử dụng mà khái niệm gây hấn có thể hiểu là bạo lực, lấn át, hiếu chiến, hung tính, xâm kích, bắt nạt, hành vi có xu hướng tấn công, hành vi bạo lực [4]. Xét trong môi trường trường học, hành vi gây hấn diễn ra rất thường xuyên, được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau và ngày càng gia tăng, cả về số vụ việc và tính chất nghiêm trọng. Đặc biệt hành vi gây hấn diễn ra phổ biến ở học sinh THCS - lứa tuổi có nhiều thay đổi về tâm sinh lý với sự kiểm soát cảm xúc và hành vi còn nhiều hạn chế. Theo thống kê của Bộ Công an [5], trong năm 2010, tình hình tội phạm do người chưa thành niên (từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi) thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%. Hành vi phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện. Kết quả nghiên cứu của các chuyên gia giáo dục cũng cho thấy, bạo lực học đường ở bậc THCS xảy ra khá thường xuyên. Tác giả Phạm Văn Tư [5] trong một nghiên cứu trên 200 học sinh trường THCS Trung Chính (huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh) chỉ ra rằng 38,2% học sinh được khảo sát trả lời “đã từng tụ tập, gây gổ”, 34,4% học sinh được hỏi cũng đã đưa câu trả lời “đã từng cố ý đánh người” với những mức độ khác nhau “vì mâu thuẫn, xung đột không kiềm chế được cảm xúc, cơn tức giận”. Hay thậm chí, các em đưa ra dẫn chứng cho hành vi gây hấn của học sinh với các lý do đơn giản là thấy “ngứa mắt”, muốn “dằn mặt” cho bớt tính kiêu căng, hoặc “vì nó dám liếc mắt đưa tình với người yêu mình” và rồi quyết định “phải cho nó một bài học”… 292
  2. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2017-2018 Qua nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học thuộc trường Y tế Cộng đồng Harvard nghiên cứu khoa học trên 200 người thường bị tức giận đã kết luận giận dữ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của họ rất nhiều. Về mặt thể chất, tức giận và thù địch sẽ đẩy con người vào nguy cơ cao mắc chứng tim mạch, giảm hệ miễn dịch, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa và co thắt bao tử. Không chỉ thế gây hấn sẽ để lại những vết cào xướt, thâm tím trên cơ thể nạn nhân. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, một số em sẽ phải nhập viện hoặc có thể đánh đổi bằng mạng sống của mình. Về tâm lí, học sinh đi gây hấn, học sinh bị gây hấn đều có chung những cảm giác, biểu hiện không tốt như lo lắng, sợ hãi, tự ti, xấu hổ và thường xử dụng các biện pháp tiêu cực như trốn học, bỏ tiết, sống thu mình, khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Bên cạnh đó, học sinh chứng kiến hành vi gây hấn sẽ cảm thấy bất an, nếu thấy kẻ bắt nạt không bị trừng trị thì các em sẽ hùa theo số đông, ủng hộ hành vi này và có nhiều khả năng trở thành kẻ bắt nạt trong tương lai. [4] Như vậy các nghiên cứu trên đều cho thấy hành vi gây hấn xảy ra khá thường xuyên ở lứa tuổi học sinh THCS và để lại hậu quả rất nghiêm trọng cả về tâm lí và thể chất. Nghiên cứu này một lần nữa làm rõ các biểu hiện của hành vi gây hấn ở lứa tuổi này. Đây chính là cơ sở để đề xuất các biện pháp tác động nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu hành vi gây hấn ở lứa tuổi tuổi học sinh THCS. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Công cụ nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng bảng hỏi gây hấn của tác giả Buss và Perry (1992) [1]. Bảng hỏi này gồm 29 mệnh đề (sau đây gọi là các item). Nó nhằm xác định hành vi gây hấn ở bốn nhóm chính: (1) bằng hành động gây tổn thương thân thể (có 9 items), (2) bằng lời nói (có 5 items), (3) bằng thái độ giận dữ (có 7 items ) và (4) bằng thái độ thù địch (có 8 items). Các items có 5 phương án trả lời để khách thể lựa chọn, với kết quả định tính được chuyển qua thang định lượng như sau: 0= Hoàn toàn không giống với tôi, 1= Không giống một phần với tôi, 2= Nửa giống nửa không giống với tôi, 3= Giống một phần với tôi, 4= Hoàn toàn giống với tôi. Bảng hỏi có 2 items nghịch. Với những items này, điểm số được chuyển đổi ngược lại như sau: 4= Hoàn toàn không giống với tôi, 3= Không giống một phần với tôi, 2= Nửa giống nửa không giống với tôi, 1= Giống một phần với tôi, 0= Hoàn toàn giống với tôi. Tổng mức độ hành vi gây hấn được tính bằng tổng 29 items. 2.2. Mẫu nghiên cứu Bảng hỏi trên đã được khảo khảo sát tên 200 học sinh THCS từ lớp 8 đến lớp 9 tại các xã Hợp Lí và Hợp Tiến thuộc tỉnh Thanh Hóa. Kết quả nghiên cứu được xử lí bằng phần mềm SPSS phiên bản 15.0. 2.3. Các phép phân tích Nghiên cứu này sử dụng các phép phân tích : Phân tích mô tả với các thông số điểm trung bình, độ lệch chuẩn, tần suất để phác thảo bức tranh chung về hành vi gây hấn ở học sinh THCS. 293
  3. TRỊNH THỊ THẢO 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Hành vi gây hấn dưới lát cát tổng quát Kết quả thu được sau khi điều tra thực trạng hành vi gây hấn tại hai trường THCS Hợp Lí và trường THCS Hợp Tiến được thể hiện ở bảng 1: Bảng 1. Hành vi gây hấn của học sinh THCS STT Hành vi gây hấn ĐTB ĐLC 1 Thể hiện hành gây tổn thương thân thể 14,26 5,924 2 Thể hiện bằng lời nói 10,22 4,024 3 Thể hiện bằng thái độ giận dữ 12,89 5,191 4 Thể hiện bằng thái độ thù địch 16,58 6,349 5 Tổng 53,95 16.884 Ghi chú: - ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn - 0 ≤ ĐTB hành vi gây hấn thể hiện gây tổn thương thân thể ≤ 36; - 0 ≤ ĐTB hành vi gây hấn thể hiện bằng lời nói ≤ 28; - 0 ≤ ĐTB hành vi gây hấn thể hiện bằng thái độ giận dữ ≤ 32; - 0 ≤ ĐTB hành vi gây hấn thể hiện bằng thái độ thù địch ≤ 20. Kết quả nghiên cứu ở Bảng 1 hành vi gây hấn thể hiện dưới dạng lời nói có mức độ biểu hiện cao nhất. Hành vi gây hấn bộc lộ bằng lời nói được thể hiện thông qua các trạng thái như bộc lộ những gì mình không vừa lòng, thích tranh cãi, tranh luận, hay bất đồng quan điểm với người khác. Có tới 53,2% số lượng học sinh được điều tra cho biết “nếu không vừa lòng điều gì với bạn bè thì sẽ nói thẳng với người đó”; 43% học sinh sẽ “nói thẳng những gì bản thân đang nghĩ với người làm các em bực mình” và 28% cảm thấy “khi có ý kiến bất đồng tôi không thể ngăn mình lao vào một cuộc tranh luận về vấn đề ấy”. Xem xét các items khác về hành vi gây hấn thể hiện bằng thái độ thù địch thu được một số thông tin không mấy tích cực như sau: có 29% học sinh hoàn toàn đồng ý với quan điểm “khi có một người đặc biệt đối tốt với tôi, tôi tự hỏi không biết họ muốn gì”; 22,6% “không rõ nguyên nhân vì sao bản thân cảm thấy cay đắng”; đáng lo ngại hơn có tới 52,7% học sinh thấy mình bị “đối xử bất công bằng trong cuộc sống” và 35,5 % cảm thấy “bạn bè hay nói về mình sau lưng mình”. Hành vi gây hấn thể hiện bằng hành động gây tổn thương thân thể người khác cũng chiếm tỉ kệ khá cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy: 52,7% học sinh cảm thấy mình là người “nhanh cáu và cũng nhanh nguôi giận”; 41,4% khẳng định “nếu bị đánh sẽ đánh đánh lại đối phương”; 20,4% các em cảm thấy mình “khó khăn trong việc khống chế cơn giận của mình” và 17,7% “mặc kệ cơn giận của mình bùng phát khi chán nản, tuyệt vọng”; chỉ có 14,5% các em học sinh được điều tra cho rằng “mình là người điệm đạm”. Nhìn chung tổng thể, hành vi gây hấn thể hiện bằng thái độ giận dữ chiếm tỉ lệ thấp nhất trong các nhóm biểu hiện. 41,4% đồng ý sẽ “đánh lại nếu bị ai đó đánh”; 25,3% cho rằng sẽ “dùng bạo lực để bảo vệ quyền lợi của mình”; 24,2% các em học sinh đồng ý 294
  4. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2017-2018 “khi bị khiêu khích đủ độ tôi có thể đánh người khác”; 15,8% nhận thấy “thỉnh thoảng mình không kiềm chế ham muốn được đánh một ai đó”; các biểu hiện khác như thấy mình “tham gia ẩu đả nhiều hơn những người bình thường”, “đã từng nổi khùng đến nỗi phá hủy mọi thứ” chiếm tỉ lệ thấp hơn lần lượt là 6,5% và 11,3%. Lý giải về những điều này có thể nói các em đang ở thời kì quá độ từ tuổi trẻ thơ sang tuổi trưởng thành. Nhu cầu khẳng định, chứng tỏ bản thân, sự thay đổi đột ngột về mặt cơ thể và tính chất các mối quan hệ xã hội của học sinh THCS là vô cùng lớn. Tuy nhiên não bộ và hệ thần kinh cùng các kiến thức, kinh nghiệm xã hội của các em đang còn hạn hẹp nên tính làm chủ cảm xúc, điều khiển hành động, nhất là việc tự kiểm soát bản thân của các em còn nhiều hạn chế. Đồng quan điểm với Stucke và cộng sự (2006) gây hấn có mối tương quan nghịch với tự kiểm soát bản thân, nghĩa là ở một số học sinh khả năng tự kiểm soát bản thân kém sẽ dẫn đến việc thực hiện các hành vi gây hấn. Trong nghiên cứu này cũng khẳng định khả năng tự kiểm soát bị hạn chế thì ức chế hành vi gây hấn thấp và mức độ của hành vi gây hấn càng cao [2]. Thông qua bảng trên ta thấy rằng mức độ gây hấn ở học sinh THCS tại hai trường THCS Hợp Lí và trường THCS Hợp Tiến ở mức thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây của Trần Minh Đức (2010). Tuy nhiên, với số liệu thống kê trên chúng ta cũng không thể hoàn toàn yên tâm mà cần có tác động kịp thời để giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh THCS trên hai địa bàn trên. 3.2. Hành vi gây hấn dưới lát cắt giới tính Bảng 2. Kết quả kiểm định t-test về sự khác biệt hành vi gây hấn giữa học sinh nam và học sinh nữ Nam Nữ TT Hành vi gây hấn t(184) ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC Thể hiện hành gây tổn thương thân 1 16.51 6.631 12.29 6.597 4,34*** thể 2 Thể hiện bằng lời nói 10.08 4.135 10.34 3.941 0,44 3 Thể hiện bằng thái độ giận dữ 12.94 5.199 12.84 5.209 0,14 4 Thể hiện bằng thái độ thù địch 16.09 6.680 17.01 6.045 0,98 Tổng chung 55.62 17.239 52.48 16.514 1,27 Ghi chú: ***: p < 0,001 Đồng quan điểm với Hoàng Xuân Dung (2010), kết quả nghiên cứu ở Bảng 2 cho thấy hành vi gây hấn có sự khác biệt giữa học sinh nam và học sinh nữ, cụ thể là ở biểu hiện bằng hành động gây tổn thương thân thể người khác. Nghiên cứu này cho thấy số học sinh nam gây hấn ở mức độ thường xuyên chiếm 8,58%. Trong khi đó, số học sinh nữ gây hấn ở mức thường xuyên là 2,18% [3]. Theo số liệu điều tra từ thực tiễn ở hai trường THCS Hợp Lí và THCS Hợp Tiến cũng cho thấy rằng cả ở nam và nữ đề có hành vi gây hấn và hành vi gây hấn bằng hành động gây tổn thương thân thể người khác ở nam (ĐTB 16,51) cao hơn nữ (ĐTB 12,29). Điều đó có nghĩa là khả năng kiềm chế 295
  5. TRỊNH THỊ THẢO của nam giới hạn chế hơn nữ giới. Họ sẵn sàng dùng đến bạo lực để bảo vệ quyền lợi của mình, dùng hăm dọa để thị uy trước người khác và họ dễ lâm vào các cuộc ẩu đả. Sở dĩ hành vi gây hấn ở nam giới nhiều hơn nữ giới một phần là do hocmon testosterone. Hocmon này có cả ở nam và nữ nhưng ở nam có hàm lượng cao hơn. Các xét nghiệm từng ngày cho thấy, khi lượng hocmon testostrone cao làm cho đàn ông hung hăng hơn. Điều đó giải thích vì sao những kẻ sát nhân hoặc đánh người bị trọng thương, phần lớn là nam giới. Khi một người đàn ông được hỏi rằng họ đã tham gia vào một cuộc gây hấn nào chưa, đàn ông cho biết họ tham gia vào các cuộc gây hấn nhiều hơn phụ nữ (Harris, 1994). Đàn ông thực sự thích gây hấn với người khác hơn phụ nữ dù đối tượng không khiêu khích họ theo một cách nào đó (Bettencourt và Miller 1996) [3]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đàn ông thích tham gia vào các dạng gây hấn trực tiếp nhiều hơn phụ nữ. Đó là các hành động nhắm trực tiếp vào mục tiêu như hành hung ở mặt thể chất, đâm sầm vào, xô đẩy, ném gì đó vào người khác, quát tháo, lăng mạ (Bjorkqvist và cộng sự 1994). Còn phái nữ có xu thế thích gây hấn bằng hình thức gián tiếp thông qua những hành động như nói xấu, thêu dệt, bàn tán sau lưng, lan truyền những tin đồn thất thiệt về đối tượng [3]. Trong nghiên cứu của tác giả, qua các dữ liệu thu thập được mới khẳng định được nam giới có xu hướng gây hấn nhiều hơn nữ giới thông qua các hành vi bạo lực trực tiếp, chưa có số liệu đủ độ tin cậy để chứng minh nữ giới có xu thế gây hấn ở các hình thức gián tiếp như một số nghiên cứu trước đó. Vì vậy, cần thêm thời gian để nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. 4. KẾT LUẬN Ở nghiên cứu này, tác giả chỉ xin dừng ở mức độ báo cáo thực trạng gây hấn ở học sinh THCS. Qua những số liệu thống kê từ nghiên cứu và thực tiễn cho thấy hành vi gây hấn THCS thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, xuất hiện cả ở học sinh nam và học sinh nữ. Đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh để các nhà giáo dục có nhiều hơn những chương trình, hoạt động thực tiễn phù hợp nhu cầu tâm sinh lí học sinh ở từng độ tuổi cụ thể vào học đường để nhằm ngăn ngừa hành vi gây hấn ở học sinh. Đồng thời với tốc độ nhanh không ngừng nghỉ của xã hội hiện đại cũng đặt ra cho các nhà giáo dục, các nhà nghiên cứu những câu hỏi làm sao để nắm bắt được xu thế phát triển của học sinh và có bước tác động lâu dài, rộng khắp, tránh ngắn hạn, cục bộ, lẻ tẻ ở một vài điểm. Đó sẽ là tiền đề cho bước tiến xa hơn trong việc xây dựng văn minh học đường nói riêng và sự văn minh của xã hội nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Buss, A. H. & Perry, M. P. (1992), The Aggression Questionnaire, Journal of Personality and Social Psychology, 63, 452-459. [2] Trần Văn Công và cộng sự (2009), Mối quan hệ giữa khả năng tự kiểm soát và tính gây hấn của học sinh trung học cơ sở 296
  6. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2017-2018 [3] Hoàng Xuân Dung (2010), Khác biệt trong hành vi gây hấn của học sinh THPT, Nghiên cứu gia đình và giới, 3, 34-36. [4] Trần Thị Minh Đức (2010), Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm lí học xã hội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. [5] Bùi Thị Chinh Phương, Người chưa thành niên phạm tội – Các biện pháp hạn chế, 11, tham khảo tại: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap- luat.aspx?ItemID=164 [6] Phạm Văn Tư, Biểu hiện hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở, 11, tham khảo tại: https://text.123doc.org/document/3041806-lua-n-van-hanh-vi-gay-han-cua- hoc-sinh-trung-hoc-co-so-tren-dia-ban-thanh-pho-ha-noi.htm TRỊNH THỊ THẢO SV lớp TLGD 3, khoa Tâm lí Giáo dục, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế ĐT: 01697571939, Email: tieudieuthao97@gmail.com 297
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0