intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện dân số già hoá

Chia sẻ: Nguyễn Ngọc Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

78
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này đề cập đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác định trước (PAYG defined-benefit) của Việt nam và xem xét sự bền vững về mặt tài chính của nó trong điều kiện dân số già hoá và nền kinh tế hiệu quả động. Bằng việc sử dụng các mô hình thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), bài viết chỉ ra rằng mức nợ lương hưu tiềm ẩn (implicit pension debt - IPD) của hệ thống so với GDP của năm 2000 – năm cơ sở để dự báo – là rất cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện dân số già hoá

HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM:<br /> Hiện trạng và những thách thức<br /> trong điều kiện dân số già hoá<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> GIANG THANH LONG*<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tháng 4, 2004<br /> <br /> <br /> Diễn đàn Phát triển Việt nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> * Giang Thanh Long là giảng viên trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hà nội; là nghiên cứu viên của<br /> Diễn đàn Phát triển Việt nam. Bạn đọc có thể liên lạc với tác giả qua địa chỉ: gtlong@vdf.org.vn.<br /> Tóm tắt<br /> <br /> <br /> Bài viết này đề cập đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng được xác<br /> định trước (PAYG defined-benefit) của Việt nam và xem xét sự bền vững<br /> về mặt tài chính của nó trong điều kiện dân số già hoá và nền kinh tế hiệu<br /> quả động. Bằng việc sử dụng các mô hình thống kê của Tổ chức Lao động<br /> quốc tế (ILO), bài viết chỉ ra rằng mức nợ lương hưu tiềm ẩn (implicit<br /> pension debt - IPD) của hệ thống so với GDP của năm 2000 – năm cơ sở<br /> để dự báo – là rất cao. Xét về mặt xã hội, sự tồn tại của nợ lương hưu tiềm<br /> ẩn đồng nghĩa với việc gánh nặng nợ sẽ do các thế hệ hiện tại và tương lai<br /> chi trả nếu chúng ta tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí này. Vì thế, hệ thống<br /> hưu trí Việt nam không những bất ổn về mặt tài chính, mà còn dẫn đến sự<br /> bất công bằng giữa các thế hệ. Để tránh tình trạng này, hệ thống hưu trí<br /> hiện nay cần phải được cải cách. Đặc biệt, Việt nam cần phải cải cách hệ<br /> thống hưu trí sang một hệ thống tài khoản cá nhân một phần với mức<br /> hưởng được xác định dựa trên mức đóng (partially-funded defined-<br /> contribution scheme) với những cân nhắc kỹ lưỡng về tác động kinh tế và<br /> xã hội để từ đó có thể tránh được cả sự bất ổn về mặt tài chính của hệ<br /> thống và sự bất công bằng giữa các thế hệ.<br /> Thuật ngữ<br /> <br /> Tỷ lệ thực hiện. Tỷ lệ giữa số người thực sự đóng góp cho hệ thống với số người phải đóng<br /> góp theo quy định của pháp luật.<br /> Tỷ lệ đóng góp. Tỷ lệ nhất định trong mức thu nhập mà người tham gia phải đóng góp cho hệ<br /> thống.<br /> Hệ thống có mức hưởng được xác định trước. Là hệ thống mà mức hưởng được xác định<br /> theo một công thức cho trước. Công thức này bao gồm số năm đóng góp, thu nhập và<br /> các tiêu chuẩn về mặt xã hội, và nó xác định người đóng góp được hưởng lương hưu<br /> hay một lần. Người bảo đảm (nhà nước, người thuê lao động, công ty bảo hiểm) phải<br /> chịu rủi ro tài chính đối với các khoản tiền phải trả cho người hưởng tính được theo<br /> công thức đưa ra.<br /> Hệ thống có mức hưởng được xác định theo mức đóng. Là hệ thống mà mức hưởng được<br /> xác định dựa trên khoản đóng góp của từng cá nhân theo tài khoản của họ cùng với<br /> lợi tức thu được từ khoản đầu tư khi những người này thoả mãn các điều kiện nhất<br /> định do hệ thống đưa ra. Người lao động là người chịu rủi ro tài chính.<br /> Nợ lương hưu tiềm ẩn (ròng). Chênh lệch giữa tổng mức chi trả với tổng mức dự trữ của quỹ<br /> hưu trí.<br /> Hệ thống tài khoản cá nhân tượng trưng (NDC). Là hệ thống mà sự tham gia của người lao<br /> động được ghi chép lại bằng tài khoản dưới dạng sổ sách (ví dụ như sổ bảo hiểm<br /> chẳng hạn), và cuốn sổ đó ghi lại mức đóng góp cùng với mức lãi suất được hưởng<br /> do chính phủ quy định, nhưng quỹ hưu trí không bao giờ tích luỹ thực sự trong<br /> những tài khoản này. Thay vào đó, tiền đóng góp được sử dụng để chi trả chi những<br /> người hưởng hiện tại, và những tài khoản đóng góp là tài khoản không tích luỹ hay<br /> tượng trưng mà thôi. Khi người lao động đến tuổi về hưu, tài khoản tượng trưng của<br /> anh/chị ta sẽ được chuyển thành khoản tiền hưởng đều hàng năm (nhiều hay ít phụ<br /> thuộc vào thời gian nghỉ hưu dự tính và lãi suất) và khoản tiền này được lấy từ khoản<br /> đóng góp của người lao động vào thời điểm đó - những người đang đóng góp để tạo<br /> dựng cho mình một tài khoản nhất định.<br /> Tỷ lệ phụ thuộc người già. Tỷ lệ giữa dân số trên 60 tuổi so với dân số từ 15 đến 60 tuổi.<br /> Pay-as-you-go (PAYG). Là hệ thống an sinh xã hội mà khoản tiền thu được hiện tại (hầu hết<br /> từ các khoản đóng góp, ví dụ như một phần nhất định trong tổng quỹ lương) được sử<br /> dụng để chi trả cho chi phí hiện tại.<br /> Tỷ lệ chi phí PAYG. Là tỷ lệ giữa tổng mức chi phí với tổng mức thu từ đóng góp của hệ<br /> thống. Nó cho biết tỷ lệ đóng góp cần thiết để đảm bảo quỹ cân bằng.<br /> Tỷ lệ thay thế. Tỷ lệ mức hưởng so với mức đóng (tính trung bình).<br /> Tổng tỷ suất sinh. Số trẻ em mà một phụ nữ có thể có nếu chị ta sống hết độ tuổi sinh đẻ, và tỷ<br /> lệ này được phân chia theo các lứa tuổi khác nhau.<br /> Tỷ lệ phụ thuộc trẻ em. Tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi so với dân số từ 15 đến 60 tuổi.<br /> I. GIỚI THIỆU<br /> <br /> Sự thay đổi của dân số có tác động lớn đến hoạt động kinh tế, xã hội của các nước,<br /> khu vực và toàn thế giới. Trong thời gian gần đây, sự thay đổi của dân số có thể thấy rõ<br /> nhất là hiện tượng dân số già hoá nhanh. Tỷ lệ người già trong tổng dân số tăng lên<br /> nhanh chóng do tỷ lệ sinh giảm và tuổi thọ tăng lên. Sự già hoá của dân số đòi hỏi nhà<br /> nước phải chi tiêu nhiều cho các khoản hưu trí, chăm sóc sức khỏe và y tế, và vì thế mà<br /> tác động đến ngân sách của chính phủ, quỹ hưu trí và sự bền vững tài chính. Vấn đề dân<br /> số già hoá trở nên nghiêm trọng khi xét đến hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng<br /> được xác định trước. Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hai nhân tố này có tác<br /> động tiêu cực đến sự ổn định tài chính của quỹ hưu trí nói riêng và ngân sách nhà nước<br /> nói chung ở hầu hết các nước trên thế giới*.<br /> Bên cạnh việc có thể gây mất ổn định về mặt tài chính do tác động của sự già hoá<br /> dân số, hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước cũng gây ra sự bất công<br /> bằng giữa các thế hệ. Khi dân số già hoá nhanh thì vấn đề này càng nghiêm trọng vì thế<br /> hệ người lao động trong tương lai phải đóng góp nhiều hơn mới có thể trang trải chi phí<br /> cho những người hưởng lợi hiện tại. Vì thế, hệ thống hưu trí này sẽ sụp đổ nếu được<br /> duy trì do các vấn đề như trốn đóng bảo hiểm, mức hưởng quá cao và nợ lương hưu<br /> tiềm ẩn lớn. Những khía cạnh có liên quan này đã được đề trong trong các nghiên cứu<br /> của Gokhale (1996), Feldstein (1998), Kotlikoff và Leibfritz (1998), Takayama và cộng<br /> sự (1998), và Kunieda (2001).<br /> Mặc dù Việt nam vẫn là nền kinh tế có dân số trẻ với 7% tổng dân số là người trên<br /> 60 tuổi, nhưng trong vòng 50 năm nữa, nó cũng sẽ đối mặt với những vấn đề tương tự<br /> phát sinh từ dân số già hoá như các nước khác hiện nay. Nhờ có tăng trưởng kinh tế và<br /> tiến bộ xã hội đầy ấn tượng, mức sống được cải thiện của người dân Việt nam đã dẫn<br /> đến tuổi thọ tăng nhanh chóng, từ 40,2 năm vào năm 1950 lên tương ứng 64,8 và 69,2<br /> vào năm 1990 và 2001; và tỷ lệ sinh giảm từ 6 trẻ em/1 phụ nữ vào năm 1960 xuống<br /> tương ứng 3,4 and 2,33 vào năm 1990 và 2001 (Tổng cục Thống kê, 2002). Theo dự<br /> báo dân số của Liên hợp quốc (2002) cho Việt nam, vào năm 2050, dân số từ 60 tuổi trở<br /> lên sẽ chiếm 24% tổng dân số; và tỷ lệ phụ thuộc người già và dân số tương ứng sẽ là<br /> 42% và 77%. Bên cạnh đó, hệ thống hưu trí PAYG có mức hưởng được xác định trước<br /> do nhà nước quản lý hiện nay của Việt nam thường trong tình trạng không ổn định về<br /> mặt tài chính do số người tham gia hệ thống có hạn, mức đóng góp thấp trong khi tỷ lệ<br /> thay thế lại khá cao. Sự phức hợp của những nhân tố này sẽ dẫn đến một hậu quả nhãn<br /> tiền: sự bất ổn của hệ thống do những tác động tiêu cực về mặt tài chính. Một đánh giá<br /> thống kê gần đây đối với hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt nam cho thấy rằng quỹ bảo<br /> hiểm sẽ cạn kiệt vào năm 2030 nếu như chúng ta không thực hiện chính sách cải cách<br /> <br /> *<br /> Ví dụ, Hagemann và Nicoletti (1989), Auerbach và cộng sự (1989), Holzmann (1997, 1998), và Holzmann và<br /> cộng sự (2001).<br /> <br /> 1<br /> hệ thống (Tổ chức Lao động quốc tế - ILO, 1998). Đây chính là nguy cơ đối với hệ<br /> thống hưu trí Việt nam trong tương lai gần, và việc lựa chọn các chính sách nhằm duy<br /> trì nó một cách bền vững là điều cần làm ngay.<br /> Bài viết này sẽ phân tích sự bền vững về mặt tài chính của hệ thống hưu trí Việt<br /> nam cho đến năm 2050. Hai khía cạnh là sự bất ổn định về mặt tài chính và sự bất công<br /> bằng giữa các thế hệ tham gia hệ thống sẽ được trình bày cụ thể trong bối cảnh Việt<br /> nam vẫn tiếp tục duy trì hệ thống này. Trong phần cuối cùng, bài viết gợi ý một số<br /> phương thức chính sách để cải cách hệ thống nhằm ổn định và đảm bảo sự công bằng<br /> giữa các thế hệ.<br /> <br /> II. HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM: HIỆN TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH<br /> THỨC<br /> <br /> Hệ thống hưu trí là một bộ phận của hệ thống bảo hiểm xã hội Việt nam - hệ thống<br /> bắt đầu hoạt động từ năm 1962. Trước năm 1995, hệ thống hưu trí là hệ thống có mức<br /> hưởng được xác định trước và chỉ có lao động của khu vực nhà nước tham gia hệ thống,<br /> và nó được nhiều cơ quan chức năng quản lý dưới sự giám sát của chính phủ. Trong hệ<br /> thống đó, mức hưởng hưu trí được xác định dựa trên số năm đóng góp và thu nhập cơ<br /> sở (thường là mức lương vào thời điểm nghỉ hưu). Khoản hưởng lợi được chi trả từ quỹ<br /> bảo hiểm xã hội - quỹ được hình thành từ khoản đóng góp của người sử dụng lao động<br /> (một phần của quỹ lương) và từ trợ cấp của chính phủ. Quỹ bảo hiểm do chính phủ<br /> quản lý và bảo trợ, và là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Trong gần 30 năm, đặc<br /> biệt trong những năm chiến tranh khốc liệt, hệ thống này đã đóng góp đáng kể trong<br /> việc ổn định thu nhập và đời sống của người tham gia hệ thống.<br /> Tuy nhiên, sự phức tạp và những khó khăn nảy sinh từ việc quản lý hành chính và<br /> tài chính, cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng của thành phần kinh tế tư nhân, đã khiến<br /> chính phủ phải cải cách hệ thống đó thành hệ thống hưu trí PAYG có mức hưởng được<br /> xác định trước vào năm 1995, và thành lập Bảo hiểm Xã hội Việt nam (VSI) cùng thời<br /> điểm đó để quản lý hệ thống dưới sự bảo trợ của chính phủ.<br /> <br /> 1. Những đặc điểm chính và những bất cập của hệ thống<br /> <br /> Tỷ lệ tham gia hệ thống và mức hưởng<br /> Việc tham gia hệ thống hưu trí hiện tại bắt buộc đối với các đối tượng sau: (i) lao<br /> động trong khu vực nhà nước, bao gồm những người làm việc trong chính phủ, các tổ<br /> chức của Đảng và lực lượng vũ trang; (ii) lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà<br /> nước (SOEs); và (iii) các doanh nghiệp tư nhân có số lao động trên 10 người, bao gồm<br /> các doanh nghiệp nước ngoài, đại diện của các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp<br /> trong các khu công nghiệp và khu chế xuất, và các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, người<br /> <br /> <br /> 2<br /> Việt nam đang làm việc ở nước ngoài, hoặc người nước ngoài đang làm việc tại Việt<br /> nam có thể tham gia vào hệ thống bảo hiểm tự nguyện.<br /> Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ tham gia hệ thống rất thấp vì số lượng người tham<br /> gia chủ yếu từ khu vực nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, và có rất ít<br /> người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo thống kê của Bảo hiểm<br /> xã hội Việt nam (2001), tỷ lệ tham gia hệ thống đối với khu vực nhà nước là khoảng<br /> 95% đối với công chức và 93% đối với lao động làm việc tại các doanh nghiệp nhà<br /> nước. Số lao động khu vực nhà nước tham gia hệ thống chiếm 86%, trong khi khu vực<br /> tư nhân chỉ chiếm 14% (Hình 1). Điều này có thể thấy rõ hơn trong Bảng 1.<br /> <br /> Hình 1. Số lượng người đang trực tiếp tham gia hệ thống<br /> phân theo khu vực kinh tế trong năm 2000 (1000 người)<br /> <br /> (649)<br /> 14%<br /> <br /> <br /> (1973)<br /> 45%<br /> <br /> <br /> <br /> (1854)<br /> 41%<br /> <br /> <br /> Công chức nhà nước DNNN Khu vực tư nhân<br /> <br /> <br /> <br /> Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)<br /> <br /> Bảng 1. Tham gia hệ thống hưu trí của các thành phần kinh tế năm 2000<br /> Nhà nước Tư nhân<br /> % Lực lượng lao động 10 90<br /> % Số người đang tham gia 86 14<br /> Tỷ lệ thực hiện (%) 95 27<br /> Nguồn: Tổng cục Thống kê (2001), Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)<br /> <br /> Các loại hình hưởng thụ của hệ thống chủ yếu là các khoản chi trả dài hạn, bao<br /> gồm hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và mất sức lao động. Bên cạnh đó, có một số<br /> khoản chi trả một lần như trợ cấp mai táng, thanh toán một lần cho một số đối tượng về<br /> hưu và các khoản trợ cấp khác cho tai nạn lao động và mất khả năng lao động ở mức độ<br /> thấp.<br /> Lương hưu trí được thanh toán cho nam giới và nữ giới ở độ tuổi tương ứng là 60<br /> và 55 với ít nhất 20 năm đóng góp, và mức lương này được xác định bằng công thức<br /> <br /> 3<br /> tính nhất định. Ví dụ, mức lương hưu được hưởng được tính bằng cách nhân mức lương<br /> cơ sở với một hệ số; trong đó, mức lương cơ sở được tính bằng mức lương trung bình<br /> của một thời kỳ nhất định, ví dụ như mức lương trung bình của 5 năm cuối đối với lao<br /> động trong khu vực nhà nước. Hệ số được tính bằng 3% cho mỗi năm của 15 năm đóng<br /> góp đầu tiên, 2% với mỗi năm cho những năm tiếp theo và -1% đối với mỗi năm nghỉ<br /> hưu sớm. Tuy vậy, tổng mức hưởng không vượt quá 75% mức lương cơ sở.<br /> Các chế độ khác, ví dụ như tử tuất, thương tật và mất sức lao động được chi trả với<br /> những quy định khắt khe. Tất cả mức hưởng nêu trên đều được điều chỉnh theo mức<br /> lương cơ bản (hay tối thiểu), và mức lương hưu tối thiểu bằng với mức lương tối thiểu.<br /> Trong hệ thống hưu trí hiện tại, có hai loại hình thụ hưởng, đó là những người<br /> thuộc hệ thống trước năm 1995 và những người thuộc hệ thống sau năm 1995. Những<br /> người thuộc hệ thống trước được chi trả bằng ngân sách nhà nước, trong khi những<br /> người thuộc hệ thống sau được Bảo hiểm xã hội Việt nam chi trả. Trên thực tế, Bảo<br /> hiểm xã hội Việt nam nhận trách nhiệm chi trả toàn bộ cho số người được hưởng lợi<br /> của cả hai hệ thống, và sau đó nó nhận khoản thanh toán từ chính phủ thông qua Bộ Tài<br /> chính (MoF).<br /> <br /> Bảng 2. Số người đóng góp và người hưởng năm 2000<br /> Mức lương<br /> Số người<br /> Khoản mục trung bình<br /> (1000 người)<br /> (1000 đồng)<br /> SỐ LƯỢNG NGƯỜI ĐÓNG GÓP<br /> Công chức nhà nước (gồm cả lực lượng 1.973 775<br /> vũ trang)<br /> Lao động trong các DN Nhà nước 1.854 775<br /> Lao động khu vực tư nhân 649 1.220<br /> Tổng 4.476 840<br /> SỐ NGƯỜI HƯỞNG<br /> 1. Hệ thống trước năm 1995 2.168 539<br /> Hưu trí 1589 625<br /> Mất khả năng lao động 427 356<br /> Tai nạn lao động 8 273<br /> Tử tuất 144 125<br /> 2. Hệ thống sau năm 1995 243 475<br /> Hưu trí 141 691<br /> Tai nạn lao động 19 339<br /> Tử tuất 83 138<br /> Tổng 2.411 532<br /> Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)<br /> <br /> Trong hệ thống mới, mức hưởng trung bình khoảng 475.000 đồng với tỷ lệ thay<br /> thế xấp xỉ 56% - một tỷ lệ tương đối cao so với các nước khác. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ<br /> 4<br /> thuộc của hệ thống (hay còn gọi là tỷ lệ dân số của hệ thống) năm 2000 chỉ là 5,4% cho<br /> biết rằng số người hưởng chỉ bằng 5,4% số người đóng góp và điều này cũng thể hiện<br /> sự non trẻ của hệ thống. Vì vậy, tỷ lệ chi phí PAYG của hệ thống - tỷ lệ được tính bằng<br /> cách lấy tỷ lệ thay thế nhân với tỷ lệ dân số của hệ thống - chỉ khoảng 3%, ngụ ý rằng<br /> tổng mức chi trả của hệ thống này chỉ bằng 3% tổng mức đóng góp. Tỷ lệ này còn được<br /> gọi là tỷ lệ đóng góp bền vững, tức là tỷ lệ đóng góp đủ để cân đối quỹ hưu trí.<br /> Tổng mức thu của hệ thống chỉ bằng khoảng 10% GDP danh nghĩa năm 2000 do<br /> mức lương còn thấp, tỷ lệ tham gia thấp và việc trốn đóng còn phổ biến, đặc biệt là<br /> trong khu vực tư nhân.<br /> <br /> Nguồn tài chính và tình trạng tài chính<br /> Nguồn thu của hệ thống bao gồm các khoản đóng góp, hỗ trợ của chính phủ, thu từ<br /> đầu tư và các nguồn khác (Điều 149, Luật Lao động sửa đổi (2002): trang 82).<br /> Đóng góp cho hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm 5% tiền lương hàng tháng của<br /> người lao động và khoản này được dùng cho chi trả hưu trí, tử tuất, trợ cấp mai táng; và<br /> 15% tổng quỹ lương của người sử dụng lao động, trong đó 10% dùng cho các khoản chi<br /> trả dài hạn, ví dụ như hưu trí, và 5% còn lại dùng cho các khoản chi trả ngắn hạn, ví dụ<br /> như ốm đau, thai sản...<br /> Phần chi trả và hỗ trợ của chính phủ bao gồm khoản chi trả cho những người<br /> thuộc hệ thống trước năm 1995, và hỗ trợ cho các chi phí hoạt động ban đầu của hệ<br /> thống, ví dụ như đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất và chi phí thanh toán.<br /> <br /> Hình 2. Cơ cấu đầu tư của phần dự trữ quỹ bảo hiểm xã hội năm 2000<br /> NH NN &<br /> NH ĐT & PT PTNT<br /> 18% 10%<br /> <br /> NH Công<br /> thương<br /> 8%<br /> NH Ngoại<br /> thương<br /> 1%<br /> <br /> NSNN<br /> 13%<br /> Quỹ hỗ trợ<br /> phát triển<br /> Trái phiếu<br /> 40%<br /> Chính phủ<br /> Trái phiếu CP 6%<br /> dài hạn<br /> 4%<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam (2001)<br /> <br /> <br /> <br /> 5<br /> Phần dự trữ sau khi đã cân đối quỹ được đầu tư. Trên thực tế, trong điều kiện các<br /> công cụ và tài sản tài chính ở Việt nam của khu vực tài chính còn hạn chế, các khoản<br /> đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội tập trung chu yếu vào các nguồn an toàn nhưng lãi suất<br /> rất thấp. Các khoản đầu tư này chủ yếu dành cho khu vực nhà nước; ví dụ, trong năm<br /> 2000, 52% gửi tại các ngân hàng quốc doanh, 36% cho chính phủ vay trong các dự án<br /> nhà nước, và 12% còn lại dùng để mua trái phiếu và thực hiện các khoản đầu tư khác<br /> (Bảo hiểm xã hội Việt nam, 2001). Mức lãi suất danh nghĩa trung bình dự tính cho các<br /> khoản đầu tư này chỉ là 4,85% (Hình 2).<br /> <br /> Hình 3. Số lượng và cơ cấu tuổi của những người đang về hưu năm 2000<br /> <br /> Số người về hưu thuộc hệ thống trước năm 1995<br /> 250,000<br /> <br /> 19 1,4 0 0<br /> 200,000<br /> 157,4 0180,200<br /> 0<br /> 172,600<br /> 150,000 165,300<br /> Người<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 148,400<br /> 10 9 ,0 0 0<br /> <br /> 100,000 117,400<br /> <br /> 55,2 0 0<br /> 4 5,6 0 0 75,200<br /> 50,000 3 8 ,2 0 0 3 4 ,0 0 0<br /> 19 ,10 0 13 ,10 0<br /> 25,100 27,400 14,000<br /> 0<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1