Hệ thống Luật Các công cụ chuyển nhượng: Phần 1
lượt xem 5
download
Tài liệu Tìm hiểu Luật Các công cụ chuyển nhượng do Luật gia Hoàng Hoa Sơn biên soạn, Nhà xuất bản Dân trí ấn hành giới thiệu đến bạn đọc về Luật Các công cụ chuyển nhượng. Tài liệu gồm 3 phần: Phần A - Giới thiệu Luật Các công cụ chuyển nhượng, phần B - Hỏi đán về Luật Các công cụ chuyển nhượng, phần C - Phụ lục. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hệ thống Luật Các công cụ chuyển nhượng: Phần 1
- TÌM H IỂU LUẬT CÁC CÔNG CỤ CHUYỂN NHƯỢNG m m m Luật gia HOÀNG HOA SƠN biên soạn NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ
- PH ẦN A GIỚI THIỆU LUẬT CÁC CÔNG cụ CHUYỂN NHƯỢNG (Luật SỐ49Ỉ2005ỈQH11 ngày 19/11/2005) I. S ự CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT CÁC CÔNG cụ CHUYỂN NHƯỢNG Một là xuất phát từ định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật về tài chính - ngân hàng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định chủ trương "hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng" và "hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng". Đường lối của Đảng đặt ra yêu cầu hoàn chỉnh hệ thống pháp luật thông qua việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như ban hành mới, sửa đổi và bổ sung các đạo luật và Pháp lệnh để hình thành một khuôn khổ pháp lý đồng bộ. Như vậy, việc xây dựng Luật về công cụ chuyển nhượng để đáp ứng nhu cầu như thực tiễn của cuộc sống, là bước đi cần thiết để thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng trong thời kỳ mới. Việc ra đời Luật Các công cụ chuyển nhượng còn đóng vai trò bảo hộ, khuyến khích cho 5
- việc hình thành, phát triển và sử dụng các công cụ chuyển nhượng trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Hai là xuất phái từ sự cần thiết khách quan của việc hoàn thiện các quy định pháp luật về công cụ chuyển nhượng. - Năm 1999, ủ y ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thương phiếu tuy nhiên, cho đến năm 2005, Pháp lệnh này vẫn chưa đi vào cuộc sống. Việc triển khai chậm Pháp lệnh Thương phiếu năm 1999 là một thực tế rõ ràng, thuộc cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Bên cạnh những nguyên nhân về hướng dẫn triển khai thực hiện, còn có nguyên nhân từ chính những bất cập trong Pháp lệnh. Những quy định trong Pháp lệnh về cơ bản chứa đựng hầu hết các quy tắc chính của Luật thống nhất về hối phiếu theo Công ước Giơnevơ năm 1930, song vẫn còn những quy định làm hạn chế các hoạt động của thương phiếu và tạo rủi ro cho ngân hàng (như hoạt động thương phiếu phải gắn với tín dụng ngân hàng). - Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tín dụng ngân hàng, còn xuất hiện và phát triển hình thức tín dụng thương mại. Để giúp tín dụng thương mại thực hiện được, đã xuất hiện những công cụ giúp doanh nghiệp đòi nợ hoặc nhận nợ, phục vụ cho các doanh nghiệp thanh toán, đòi tiền lẫn nhau. Những công cụ này gồm có hối phiếu đòi nợ (biII of exchange), hối phiếu nhận nợ (promisory note), séc (cheque),... vì những công cụ này có thể chuyển nhượng được nên người ta gọi chung là công cụ chuyển nhượng. Trên thực tế, quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như một thực tế khách quan trong nền 6
- kinh tế Việt Nam. ở Việt Nam, hiện nay, các doanh nghiệp và các ngân hàng đã sử dụng hối phiếu trong thanh toán quốc tế theo thông lệ quốc tế. Trong thanh toán nội địa, đặc biệt là ở các chợ đầu mối, việc mua bán chịu đã xuất hiện những "giấy nhận nợ" hay "giấy đòi nợ" do người bán hàng hoặc người thanh toán phát hành để mua-bán chịu lẫn nhau nhưng chưa được Pháp lệnh điều chỉnh. Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tê cũng chỉ có một số nội dung điều chỉnh đối với thương phiếu; Luật Thương mại (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 đã bỏ chương về thương phiếu. Vì vậy, nhu cầu hình thành một hệ thống các quy định của pháp luật để bảo vệ có hiệu quả quyền của chủ nợ đã trở nên bức xúc. Mặt khác, trong điều kiện hầu hết các doanh nghiệp nước ta có quy mô sản xuất nhỏ bé, thiếu vốn kinh doanh, việc đưa thương phiếu vào sử dụng là cần thiết nhằm tạo thêm kênh huy động vốn, tiếp cận tín dụng thương mại cho các doanh nghiệp. Điếu này cho thấy việc thể chế hoá các quan hệ tín dụng thương mại bằng các quy định của Luật Các công cụ chuyển nhượng nói chung và pháp luật về thương phiếu nói riêng là một đòi hỏi tất yếu khách quan của nền kinh tế. - Ngoài ra, yêu cẩu tạo thêm kênh cấp tín dụng cho ngân hàng và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ đã trở nên cấp thiết. Luật Các tổ chức tín dụng đã cho phép các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Nhưng hoạt động chiết khấu thương phiếu vẫn chưa trở thành kênh cấp tín dụng của các tổ chức này, vì các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu chưa được ban hành và thương phiếu cũng chưa được sử dụng trên thực 7
- tế. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của thị trường tiền tệ còn hạn chế là do thiếu các công cụ của thị trường. Việc thiếu công cụ này xuất phát từ bất cập cùa quy định pháp luật về thương phiếu. Thực tế này đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp luật về các công cụ chuyển nhượng để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ. - Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện cũng như xây dựng mới các văn bản pháp luật trong nước nhằm tạo nên một cơ chế pháp lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn của nước ta, yêu cầu của pháp luật và thông lệ quốc tế. Trong những năm gần đây, cùng với việc nước ta gia nhập ASEAN, AFTA, APEC, ký Hiệp định song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và việc đàm phán gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ta ngày càng mở rộng quan hệ giao lưu thương mại, đầu tư với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập và tãng cường giao lưu thương mại này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu và sử dụng các phương thức, phương tiện thanh toán phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế như thư tín dụng, séc, hối phiếu,... Mặt khác, quá trình hội nhập cũng đòi hỏi nước ta phải thay đổi, ban hành mới một số văn bản quv phạm pháp luật mới để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phù hợp hom với thể chế, chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó có cam kết của Việt Nam vói Ngân hàng Phát triển châu Á vế việc ban hành Luật Các công cụ chuyển nhượng.
- Việc đưa các loại công cụ chuyển nhượng với tư cách là phương tiện thanh toán, công cụ tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường vào nền nước ta đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ cho các hoạt động có liên quan đến công cụ chuyển nhượng. Trong đó việc ban hành Luật Các công cụ chuyển nhượng sẽ bảo đảm cho việc hình thành khung pháp lý cần thiết về công cụ chuyển nhượng và làm cơ sở pháp lý cho việc phát hành, sử dụng các loại công cụ chuyển nhượng trên thực tế. Từ các lý do đã phân tích ở trên cho thấy, việc ban hành Luật Các còng cụ chuyển nhượng là cần thiết, không chỉ đáp ứng các yêu cầu khách quan của nền kinh tế mà còn thể chế hoá đường lối của Đảng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đáp ứng nhu cầu hội nhập, hoàn thiện các quy định của pháp 'uật hiện hành có liên quan đến công cụ chuyển nhượng. II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO Đ ố i VỚI VIỆC XÂY DỰNG LUẬT CÁC CÔNG CỤ CHUYỂN n h ư ợ n g Luật Các công cụ chuyển nhượng được xây dựng trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo sau đây: - Phải thể chế hoá các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. - Việc phát hành và sử dụng các công cụ chuyển nhượng phải góp phần lành mạnh hoá các quan hệ tài chính - tiền tệ trong đời sống xã hội; góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng giữa các tiểu thương, doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với ngân hàng trong nền kinh tế thông qua việc tạo thêm kênh 9
- cấp tín dụng cho các ngân hàng bằng việc chiết khấu công cụ chuyên nhượng; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ công cụ chuyên nhượng, hạn chê tình trạng nợ nần dày dưa trong nền kinh tế; tạo thêm phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cho nền kinh tế; tạo thêm công cụ của thị trường tiền tệ cho Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn. - Luật Các công cụ chuyển nhượng cần quy định rõ ràng, đầy đủ và cụ thể quyền, nghĩa vụ của các bên trong việc phát hành, sử dụng, chuyển nhượng, cầm cố, bảo lãnh, thanh toán, truy đòi, khởi kiện hối phiếu. Luật về công cụ chuyển nhượng phải thực sự là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hối phiếu, thúc đẩy việc sử dụng và lưu thông các hối phiếu. Đặc biệt, các quy định về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp và biện pháp cưỡng chế thi hành các phán quyết, quyết định của Trọng tài, Toà án cần phải được sửa đổi, hoàn thiện để tạo ra cơ chế có hiệu quả bảo vệ quyền lợi của người thụ hưởng khi bị vi phạm. Đồng thời, Luật Các công cụ chuyển nhượng phải bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật. - Luật Các công cụ chuyển nhượng phải phù hợp với các thông lệ quốc tế và đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế và các cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế, cũng như các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thê giới (WTO) và góp phán náng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam. 10
- Luật Các công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Ngày 09 tháng 12 năm 2005, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 22/2005/L/CTN công bô ban hành. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 nãm 2006. III. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT CÁC CÔNG c ụ CHUYỂN NHƯỢNG Luật Các công cụ chuyển nhượng được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, gồm 83 điều chia làm 5 chương, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2006. Luật này thay thế Pháp lệnh Thương phiếu ngày 24/12/1999 và các văn bản quy phạm pháp luật khác về thương phiếu và séc. Có thể nói, do được pháp điển hoá từ Pháp lệnh Thương phiếu và các văn bản dưới luật có liên quan, cho nên Luật Các cồng cụ chuyển nhượng đã kế thừa những nội dung của các văn bản pháp luật này đồng thời có những quy định mới cho phù hợp với thực tiễn thương mại trong nước và quốc tế. Nội dung cơ bản của Luật Các công cụ chuyển nhượng như sau: 1. Những quy định chung a - Phạm vi điểu chỉnh của Luật Các cóng cụ chuyển nhượng Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng quy định phạm vi điều chỉnh là các quan hệ hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác, trừ công cụ nợ dài hạn được tổ chức phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường trong việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, 11
- cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện. Trước đây Pháp lệnh Thương phiếu quy định điều chỉnh đối với các quan hệ thương phiếu mà cụ thể là hối phiếu và lệnh phiếu. Như vậy, Luật Các công cụ chuyển nhượng điều chỉnh 3 loại còng cụ gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc. So với Pháp lệnh Thương phiếu thì Luật Các công cụ chuyển nhượng đã bổ sung thêm công cụ chuyển nhượng là séc. So với Pháp lệnh Thương phiếu năm 1999, phạm vi điều chỉnh của Luật Các công cụ chuyển nhượng được mở rộng phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, theo hướng Luật điều chỉnh các quan hệ công cụ chuyển nhượng trong việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, thanh toán, truy đòi, khởi kiện. Công cụ chuyển nhượng quy định trong Luật này gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác, trừ công cụ nợ dài hạn được tổ chức phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường. Quy định trên nhằm tách bạch, tránh nhầm lẫn giữa công cụ chuyển nhượng với các cộng cụ dài hạn nhằm huy động vốn như cổ phiếu, trái phiếu thuộc phạm vi điểu chỉnh của Luật Chứng khoán đang được xây dựng và dự kiến trình Quốc hội thông qua vào tháng 5/2006. Riêng đối với công cụ chuyển nhượng khác thì căn cứ VỈO những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ sẽ có quy định :ụ thể việc áp dụng Luật này đối với công cụ chuyển nhượng khác (khoản 2 Điều 5). Vấn đề đặt ra là tại sao lại có qiy định này mà không quy định cụ thể trong Luật? Trên thế giới, ngoài ba công cụ hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhện nợ, séc, còn có công cụ nào khác? Qua tham khảo kinh nghiệm cic 12
- nước, có thể thấy rằng ngoài 3 công cụ (hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc) còn xuất hiện thêm một công cụ chuyển nhượng khác, đó là chứng chỉ tiền gửi (certiíicate of deposit - CD). Việc chưa đưa các nội dung cụ thể về chứng chỉ tiền gửi vào phạm vi điều chỉnh của Luật này do các nguyên nhân sau: + Luật này điều chỉnh một lĩnh vực rất mới, trước mắt nên điều chỉnh một số công cụ đã rõ và phổ biến. Sau một số năm thực hiện, tuỳ theo sự phát triển của thị trường, Luật có thể được bổ sung thêm các công cụ khác (như chứng chỉ tiền gửi). + Về bản chất, chứng chỉ tiền gửi là 1 loại hối phiếu nhận nợ, nhưng các chứng chỉ tiền gửi hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa đúng với thông lệ quốc tế. Muốn điều chỉnh chứng chỉ tiền gửi trong Luật này thì hệ thống ngân hàng phải "thay đổi" lại toàn bộ hình thức và cơ chế phát hành chứng chỉ tiền gửi hiện nay, việc này đòi hỏi phải có thời gian. + Chứng chỉ tiền gửi thực chất là một hối phiếu nhận nợ, nên những quy định của dự thảo Luật này về hối phiếu nhận nợ có thể điều chỉnh bất kỳ loại hối phiếu nhận nợ nào kể cả chứng chỉ tiền gửi, khi các chứng chỉ tiền gửi hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế. Bèn cạnh đó, về neuyên tắc một giấy tờ có giá chỉ là công cụ chuyển nhượng khi có đủ các điều kiện sau: là chứng chỉ bằng văn bản; chứa đựng yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không diều kiện; có thể chuyển nhượng 13
- từ người này sang người khác để người nhận chuyển nhượng trở thành người thụ hưởng theo các cách đặc biệt là chuyển nhượng bằng chuyển giao và số tiền phải thanh toán trên công cụ phải được thanh toán khi có yêu cầu hoặc tại một thời điểm có thể xác định trong tương lai cho người thụ hưởng cụ thể được ghi tên trên công cụ hoặc theo lệnh của người này hoặc người cầm công cụ. Cân cứ vào các điều kiện này, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc ở nước ta hiện nay có đầy đủ các điều kiện của một công cụ chuyển nhượng. Sở dĩ Luật Các công cụ chuyển nhượng quy định 03 công cụ chuyển nhượng là hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc là vì lý do sau đây: - Trước đây, séc được điều chỉnh bằng các văn bản dưới luật như Nghị định 159/2003/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư 05/2004/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước... Việc xây dựng văn bản thống nhất điếu chỉnh tất cả các hôi phiếu dưới hình thức luật là phù hợp với đặc thù của các hối phiếu, khắc phục sự xung đột pháp lý có thể xảy ra hoặc các điểm khác biệt giữa các văn bản quy phạm pháp luật về các loại hối phiếu với các luật có liên quan. Việc đưa các quy định tại Pháp lệnh Thương phiếu, Nghị định 159/2003/NĐ- CP, Thông tư 05/2004/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vào một văn bản luật thống nhất về công cụ chuyển nhượng là một biện pháp để nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định hiện hành, đồng thời nhằm pháp điển hoá các quy định pháp luật về hối phiếu đang tồn tại ở nhiều vãn bản quy phạm pháp luật khác nhau và cũng phù hợp với xu hướng lập pháp của nước ta và phù hợp với thông lệ quốc tế. 14
- - Về bản chất séc là hối phiếu đòi nợ có sự tham gia của các ngân hàng với tư cách là người ký phát. Hầu hết các quy định hiện hành về séc cũng có nội dung tương tự như các quy định về hối phiếu. Vì vậy việc đưa công cụ séc và hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ vào trong một luật chung là phù hợp với tính chất chuyển nhượng đặc thù của các công cụ. - Trong thực tế đời sống kinh tế nước ta cũng đang tồn tại chứng chỉ tiền gửi. v ề bản chất chứng chỉ tiền gửi cũng là mộl ioại hối phiếu nhận nợ do ngân hàng phát hành, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển thì chứng chỉ tiền gửi cũng được coi là một công cụ chuyển nhượng. Tuy nhiên hiện tại chứng chỉ tiền gửi ở Việt Nam chưa được phát hành theo hình thức và tính chất của chứng chỉ tiền gửi như chuẩn mực quốc tế, mà thực chất vẫn là sổ tiền gửi tiết kiệm được gọi tên là chứng chỉ tiền gửi và những người nắm giữ chứng chỉ tiền gửi chủ yếu là cá nhân, ít có nhu cầu chuyển nhượng. Do đó trước hết đối với chứng chỉ tiền gửi chỉ cần điều chỉnh bằng vãn bản dưới luật để bảo đảm khả nãng linh hoại, có thể chỉnh sửa; khi có đủ điều kiện cần thiết sẽ đưa vào Luật sau. b- Đối tượng áp dụng Luật Các công cụ chuyển nhượng Trước đây, tại Điều 2 Pháp lệnh Thương phiếu quy định chủ thể được quyền phát hành thương phiếu (người ký phát, người phát hành) chỉ là các doanh nghiệp gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội và hợp tác xã, trừ các tổ chức tín 15
- dụng. Những quy định này đã hạn chế quyển phát hành thương phiếu của một số thươna nhân không phải la doanh nghiệp như cá nhân có đăng ký kinh doanh, hộ kiinh doanh cá thể. Sự hạn chế này không hợp lý và đi ngược lai chính sách tạo ra sân chơi bình đẳng cho các đối tượng và các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác quy định này cũng đã đặt một số lượng lớn quan hệ rrua bán chịu giữa các thương nhân ra khỏi phạm vi điều chinh của pháp lệnh và có thể tiếp tục làm gia tăng rủi ro t.rong hoạt động mua bán chịu của thương nhân vì không điưcc pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Để bảo đảm quyền và lợi ích cho các đối tượng và các thành phần kinh tế, Luật Các công cụ chuyển nhtưẹng quy định tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân ntưcc ngoài tham gia vào quan hệ công cụ chuyển nhượng trên linh thổ Việt Nam (Điều 2) đều là đối tượng áp dựng của Liật nay. Như vậy, đối tượng áp dụng của Luật Các công C'.ụ ehu}ển nhượng đã được mở rộng đến tất cả các tổ chức., cá nhân trong nước và nước ngoài, kể cả các tổ chức tín dụns . c- Cơ sở ký phát công cụ chuyên nhươìig Tại Điều 1 Pháp lệnh về thương phiếu quy định c 1 sở ký phát thương phiếu là những quan hệ phát sinh từ hoư động thương mại có liên quan đến hoạt động tín dụng n;gâi liàng. Cho nên, việc phát hành thương phiếu lại chỉ được thíc hiện khi có sự tham gia của tổ chức tín dụng. Quy định n;à) đã hạn chế việc sử dụng thương phiếu của các doanh nghìiệ? về cả loại hình doanh nghiệp và phạm vi sử dụng thương phếu của doanh nghiệp, đồng thời lại làm cho việc sử dụntg thươig 16
- phiếu để thanh toán sẽ tốn kém hơn. Đặc biệt quy định này sẽ tạo ra sự rủi ro nhất định cho các tổ chức tín dụng khi tham gia vào quan hệ thương phiếu vì toàn bộ rủi ro từ các doanh nghiệp đã chuyển cho họ. Việc Pháp lệnh Thương phiếu chỉ cho phép phát hành thương phieu trên cơ sở quan hệ thương mại có liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàn? đã loại bỏ các cơ sở phát hành thương phiếu phổ biến trên thế giới là quan hệ tín dụng ngân hàng và quan hệ tín dụng thương mại (một cách độc lập giữa các thương nhân). Một bất cập khác liên quan đến các quy định về cơ sở phát hành thương phiếu là hạn chế các ngân hàng cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cô thương phiếu. Theo quy định hiện hành, các ngân hàng sẽ tham gia vào quan hệ thương phiếu dưới một trong hai hình thức: Ký chấp nhận cấp tín dụng trực tiếp và ký bảo lãnh cấp tín dụng gián tiếp dưới hình thức bảo lãnh ngân hàng. Do vậy, khi các ngân hảng chiết khấu hoặc cấp tín dụng cầm cố thương phiếu thì một quan hệ thương phiếu đã dược cấp tín dụng hai lần - điều các ngân hàng chiết khấu, cho vay cầm cố khó chấp nhận cấp tín dụng. Điều 3 Luật Các công cụ chuyên nhượng đã có mở rộng hơn so với Pháp lệnh Thương phiếu trước đây. Theo đó, người ký phát, người phát hành được phát hành công cụ chuyển nhượng trên cơ sở giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, cho vay £fiữa các tổ chức, cá nhân với nhau; giao dịch cho vav của các tổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân; giao dịch thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật.
- Quan hệ công cụ chuyển nhượng là quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân trong việc phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện về công cụ chuyển nhượng. Quan hệ công cụ chuyển nhượng quy định trong Luật này độc lập không phụ thuộc vào giao dịch cơ sở phát hành công cụ chuvển nhượns là mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, cho vay giữa các tổ chức, cá nhân với nhau; giao dịch cho vay của các tổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân; giao dịch thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 3). Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho những quy định về khởi kiện, truv đòi, bồi thường thiệt hại... khắc phục tình trạng muốn kiện đòi số tiền trên công cụ chuyển nhượng, naười thụ hưởng phải khởi kiện người mua trên cơ sở vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng gốc như trước đây. Như vậy, so với Pháp lệnh Thương phiếu nãm 1999, đã có sự thay đổi. Nếu trước đây chúng ta chỉ cho phép các doanh nghiệp mới có quyền phát hành thương phiếu nhưng đến nay quy định này đã không còn phù hợp nữa. Việc mở rộng chủ thể được quyền ký phát hoặc phát hành công cụ chuyển nhượng để tạo sân chơi bình đẳng cho các thương nhân đồne thời là một trong những biện pháp góp phần đưa các công cụ này vào cuộc sống. Dựa trên cơ sở các giao dịch gốc, các công cụ chuyển nhượng sẽ được xuất hiện và sử dụng. Ngoài ra, quy định này cũng là cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nếu không có điều khoản quy định về giao dịch cơ sở của việc ký phát, phát hành công cụ chuyển nhượng thì sẽ khó khăn trong việc phòng tránh hiện tượng phát hành khống cũng như khó khăn hơn trong công tác quản lý. 18
- Tuy nhiên, để quy định này không làm ảnh hưởng tới tính "chuyên nhượng" của công cụ, Luật đã luật hóa về tính trừu tượng của các cóng tụ này, đó là "Quan hệ công cụ chuyển nhượng quy định trong Luật fiày độc lập, không phụ thuộc vào giao dịch cơ sở phát hành công cụ chuyển nhượng" (khoản 2 Điều 3). Nội dung này đã được cụ thể hóa trong quy định tại Chương V vé khởi kiện. d- Vé giải thích từ ngữ (Điều 4): Luật Các công cụ chuyển nhượng đã đưa ra các giải thích từ ngữ đầy đủ và phù hợp với các nội dung có liên quan trong Luật. So với Pháp lệnh Thương phiếu năm 1999, các giải thích này đã tạo cách hiểu thống nhất, tránh tình trạng dẫn đến những mâu thuẫn và bất cập trong cách hiểu do tiếng Việt là đa nghĩa. Luật đã bỏ khóng sử dụng khái niệm "thương phiếu" như cách hiểu trong Phấp lệnh Thương phiếu năm 1999. Luật đã giải thích rõ khái niệm công cụ chuyển nhượng, đó là "giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định"; đồng thời đã phán biệt rõ giữa hối phiếu dòi nợ (Bill of exchange) và hối phiếu nhận nợ (Promissory note), cụ thể như: Hòi phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, vêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. Hôi phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. 19
- e- Áp dụng Luật Các công cụ chuyển nhượng và cáic luật liên quan Khoản 1 Điều 5 Luật Các công cụ chuyển nhượn;Ẹ quy định các bên tham gia vào quan hệ công cụ chuyển nhượng phải tuân theo Luật này và pháp luật có liên quan. Căn c ứ vào những nguyên tắc của Luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với các công cụ chuyển nhượng (khoản 2 Điều 5). Đầy là quy định khá mềm dẻo so với Pháp lệnh Thương phiếu nói riêng và các văn bản luật hiện hành nói chung trong việc áp dụng pháp luật. Vì các văn bản luật hiện hành hầu hết đều có quy định ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành sau đó mới áp dụng luật khung. Với nhữn:g quy định này, chúng ta không thể xác định được ngay trong trường hợp nào thì ưu tiên áp dụng Luật Các công cụ chiuyển nhượng, trong trường hợp nào thì ưu tiên áp dụng pháp luật có liên quan mà tuỳ thuộc vào những quy định của Chính phủ trong các văn bản hướng dẫn. g- Về áp dụng tập quán thương mại quốc tẻ trong ,quan hệ công cụ chuyển nhượng có yếu tố nước ngoài (Điê u (í): Một thực tế rõ ràng là tập quán thương mại quốc tế áp dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế (trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nước) và đi theo nó là các quan hệ t hanh toán xuất nhập khẩu với các nước là các hoạt động hoàn toàn mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên môn và được thê giới chấp nhận sử đụng trong quan hệ thương mại và thanh toán quốc tế. Việc cho phép các tổ chức, cá nhân áp dụng cátC tập quán thương mại quốc tế sẽ có tác dụng tích cực phát triển các quan hệ thương mại với nước ngoài, góp phần làm tàng 20
- trưởng kinh tế trong nước và giải quyết việc làm cho người lao động. Do vậy. Luật Các công cụ chuyển nhượng đã quy định rõ một sô thông lệ quốc tế được áp dụng trong quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu mà các nước vẫn áp dụng. " . . . 2 . Trong trường hợp quan hệ công cụ chuyển nhượng có yếu tố nước ngoài, các bên tham gia quan hệ công cụ chuyên nhượng được thoả thuận áp dụng các tập quán thương mại quốc tế gồm Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, Quy tắc thống nhất về nhờ thu của Phòng thương mại Quốc tế và các tập quán thương mại quốc tế có liên quan khác theo quy định của Chính phủ." Đối với việc áp dụng Điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế trong giao dịch thương phiếu có yếu tố nước ngoài, tại Điều 6 Luật Các công cụ chuyển nhượng có sự kế thừa Điều 4 Pháp lệnh Thương phiếu và quy định cụ thể hơn cho phù hợp vói thông lệ thương mại quốc tế. Theo đó, trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này, thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó (khoản 1 Điều 6). Đồng thời điều khoản này cũng chỉ rõ trường hợp quan hệ công cụ chuyển nhượng có yếu tố nước ngoài, các bên tham gia quan hệ được thoả thuận áp dụng các tập quán thương mại quốc tế gồm Quy tắc thực hành thống nhất về tín dung chứng từ, Quy tắc thống nhất về nhờ thu của Phòng Thương mại quốc tế và các tập quán thương mại quốc tế có lién quan khác thì theo quy định của Chính phủ (khoản 2 Điều 6). 21
- Trường hợp công cụ chuyển nhượng được phát hành ở Việt Nam, nhưng được chấp nhận, bảo lãnh, chuyên nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện ở một nước khác, thì công cụ chuyển nhượng phải phát hành theo quy định của Luật này (khoản 3 Điều 6). Trường hợp cóng cụ chuyển nhượng được phát hành ờ nước khác, nhưng được chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện ở Việt Nam, thì việc chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, Iruy đòi, khởi kiện được thực hiện theo quy định của Luật này (khoản 4 Điều 6).. h - Các thời hạn liên quan đến công cụ chuyển nhượng Điều 7 Luật Các công cụ chuyển nhượng quy định về các thời hạn liên quan đến công cụ chuyển nhượng cũng đã kế thừa trọn vẹn khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh về thương phiếu. Theo đó, thời hạn thanh toán, thời hạn gửi thông báo truy đòi và thời hiệu khởi kiện khi có tranh chấp về quan hệ công cụ chuyển nhượng được tính cả ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ cuối tuần; nếu ngày cuối cùng của thời hạn trùng vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ cuối tuần thì ngày cuối cùng của thời hạn là ngày làm việc tiếp theo ngay sau ngày nghỉ lễ hoặc ngày nghỉ cuối tuần đó. Thời hạn thanh toán cụ thể của từng công cụ chuyển nhượng do người ký phát, người phát hành xác định và íỊhi trên công cụ chuyển nhượng phù hợp với Luật này (khoải 2 Điều 7). Quy định này đã khắc phục tình trạng cứng nhắc của Pháp lệnh Thương phiếu về thời hạn thanh toán thương phiếu là ngắn hạn (dưới 365 ngày). 22
- Thời hạn gửi thông báo truy đòi, thời hiệu khởi kiện khi công cụ chuyên nhượng bị từ chối chấp nhận hoặc bị từ chối thanh toán được thực hiện theo quy định tại Điều 50 về thời hạn thôngc báo và Điều 78 về thời hạn . khởi. kiện của . Luật Các công cụ chuyển nhượng. 2. Hôi phiếu đòi nợ Chương II gồm 7 mục, 37 điểu, bao gồm các quy định về phát hành hối phiếu đòi nợ (trong đó có các nội dung của hối phiếu đòi nợ và nghĩa vụ của người ký phát), chấp nhận hối phiếu đòi nợ, bảo lãnh hối phiếu đòi nợ, chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ, chuyển giao để cầm cố và chuyển giao để nhờ thu hối phiếu đòi nợ, thanh toán hối phiếu đòi nợ, truy đồi do hối phiếu đòi nợ không được chấp nhận hoặc không được thanh toán. Đây là các nội dung cơ bản bảo đảm quyền và lợi ích họp pháp của các bên có liên quan đến việc phát hành, sử dụng, chuyển nhượng, truy đòi về hối phiếu đòi nợ. Một sô nội dung cần lưu ý như sau: Công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá mang tính chuẩn mực cao, trẽn công cụ phải thể hiện đầy đủ, chính xác các nội đung luật định cho từng loại công cụ cụ thể. Thiếu (không chính xác) một trong các nội dung này, chúng không có giá trị thanh toán. Các nội dung của công cụ chuyển nhượng là qui định không thể thiếu dược trong bất kỳ một luật nào trên tliế giới. Việc quy định về nội dung của từng loại công cụ là rất quan trọng, giúp cho việc nhận dạng và chuyển nhượng công cụ dỗ dàng. Cũng giống như luật vé công cụ chuyển nhượng các nước, Luật Các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam chỉ liệt kê 23
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Luật sở hữu trí tuệ - TS Nguyễn Ngọc Duy Mỹ
33 p | 484 | 105
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ ba có bổ sung, chỉnh lý): Phần 1 - TS. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) (ĐH Kinh tế Quốc dân)
192 p | 263 | 80
-
Hướng dẫn ôn và thi môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
248 p | 246 | 61
-
Giáo Án Pháp luật đại cương - Chương 2: Pháp luật công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội
48 p | 275 | 56
-
Tìm hiểu về CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HIỆN NAY TRÊN THẾ GIỚI
11 p | 181 | 43
-
Tài liệu Các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới
8 p | 129 | 23
-
Giáo trình Pháp luật đại cương (Tái bản lần thứ 5) : Phần 1 - Nguyễn Hợp Toàn
194 p | 36 | 19
-
Các quy định mới về khám bệnh, chữa bệnh cho nhân dân: Phần 2
39 p | 106 | 11
-
Cơ quan công tố hình sự ở Hoa Kỳ[1]
25 p | 109 | 10
-
Hệ thống Luật Các công cụ chuyển nhượng: Phần 2
83 p | 104 | 8
-
Bài giảng Pháp luật đại cương: Bài 4 - ThS. Hà Minh Ninh
40 p | 45 | 7
-
Bài giảng Pháp luật đại cương: Bài 4 - ThS. Ngô Minh Tín
51 p | 33 | 6
-
Quyền tiếp cận công lý của người khuyết tật ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
12 p | 12 | 6
-
Thực trạng công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước
7 p | 90 | 4
-
Công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh
9 p | 33 | 4
-
Thông tin trên mạng và hệ thống hóa các loại hình thông tin trên mạng
9 p | 55 | 1
-
Giáo trình Pháp luật đại cương: Phần 1 - TS. Nguyễn Hợp Toàn
299 p | 230 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn