intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi điều chỉnh lợi nhuận: Tổng quan và mô hình nghiên cứu dự kiến

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

69
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này đề xuất mô hình dự kiến về tác động của hiệu quả quản trị doanh nghiệp đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua lược khảo tất cả nghiên cứu trước và các lý thuyết về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết cung cấp tổng quan cơ bản cho các nhà quản lý hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua hoạt động quản trị doanh nghiệp, đồng thời gia tăng hoạt động của quản trị doanh nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng báo cáo tài chính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi điều chỉnh lợi nhuận: Tổng quan và mô hình nghiên cứu dự kiến

Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ...<br /> <br /> HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH<br /> LỢI NHUẬN: TỔNG QUAN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU DỰ KIẾN<br /> Ngô Nhật Phương Diễm*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> <br /> Bài viết này đề xuất mô hình dự kiến về tác<br /> động của hiệu quả quản trị doanh nghiệp đến<br /> hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua lược<br /> khảo tất cả nghiên cứu trước và các lý thuyết<br /> về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết cung<br /> cấp tổng quan cơ bản cho các nhà quản lý<br /> hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông<br /> qua hoạt động quản trị doanh nghiệp, đồng<br /> thời gia tăng hoạt động của quản trị doanh<br /> nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng báo<br /> cáo tài chính. Bài viết căn cứ vào các bằng<br /> chứng thực nghiệm nghiên cứu trước, với lập<br /> luận riêng cho rằng hiệu quả quản trị doanh<br /> <br /> nghiệp thông qua hai yếu tố hội đồng quản trị<br /> và ban kiểm soát có tác động tiêu cực làm hạn<br /> chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể hội<br /> đồng quản trị với quy mô nhỏ, thành viên độc<br /> lập nhiều, có kinh nghiệm về tài chính và họp<br /> thường xuyên thì hiệu quả giám sát càng cao;<br /> ban kiểm soát với nhiều thành viên, đa số độc<br /> lập, có kinh nghiệm về tài chính và hoạt động<br /> tích cực hơn làm gia tăng hiệu quả giám sát,<br /> hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận.<br /> Từ khóa: quản trị doanh nghiệp, điều chỉnh<br /> lợi nhuận, hội đồng quản trị, ban kiểm soát<br /> <br /> THE EFFECTIVENESS OF CORPORATE GOVERNANCE AND EARNINGS<br /> MANAGEMENT: LITERATURE REVIEW AND PROPOSED FRAMEWORK<br /> ABSTRACT<br /> This paper proposes a model of the<br /> impact corporate governance effectiveness<br /> to earnings management through a literature<br /> review of all prior research and theories of<br /> behavior of earnings management. The article<br /> provides a basic overview for managers<br /> to limit the earnings management through<br /> corporate governance while increasing the<br /> performance of corporate governance with<br /> the aim establishing a high level of financial<br /> reporting’s quality.  The paper is based on<br /> previous empirical research evidence, with<br /> individual arguments that the effectiveness<br /> of corporate governance through two factors<br /> *<br /> <br /> that are the boards of directors and the<br /> audit committees which affects and limits<br /> the earnings management in a negative way.<br /> The boards of directors who are smaller in<br /> size, have more independent directors, are<br /> equipped with financial expertise and frequent<br /> meetings are effective in their monitoring<br /> role. In the same way, audit committees who<br /> are with more members, mostly independent,<br /> more financial expertise and more active are<br /> suggested to have a higher oversight function<br /> and earnings management will be limited.<br /> Keywords: corporate governance, earnings<br /> management, boards of director, audit committees.<br /> <br /> ThS. Giảng viên khoa Kế toán-Kiểm toán, trường Đại học Tài chính Marketing, ĐT: 0914308588<br /> Email: ngodiem@ufm.edu.vn;<br /> 45<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU<br /> <br /> BCTC hay là những nhân tố làm hạn chế hành<br /> vi điều chỉnh lợi nhuận.<br /> <br /> Hiện nay các vấn đề về quản trị doanh<br /> nghiệp (QTDN) và điều chỉnh lợi nhuận đều<br /> đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ chính<br /> phủ, tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán<br /> viên cũng như sự quan tâm của công chúng.<br /> Đặc biệt từ sau sự sụp đổ hay sự bê bối của các<br /> công ty hàng đầu như Enron, Worldcom… thì<br /> các câu hỏi về vai trò giám sát của Hội đồng<br /> quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát (BKS) đối với<br /> thông tin trên báo cáo tài chính như thế nào?<br /> Theo nghiên cứu của Defond và Francis (2005)<br /> cho rằng chính sự sụp đổ của các doanh nghiệp<br /> cần phải có góc nhìn mới về QTDN. Hơn nữa<br /> các nhà quản lý cũng tin rằng hiệu quả của hoạt<br /> động QTDN chính là hiệu quả của hội đồng<br /> quản trị, Ban kiểm soát mang lại lợi ích cho cổ<br /> đông, tạo sự tin tưởng của các cổ đông.<br /> <br /> Bài viết này tổng hợp lại các nghiên cứu<br /> thực nghiệm trên thế giới về hiệu quả của<br /> QTDN (QTDN) tác động đến hành vi điều<br /> chỉnh lợi nhuận với kết quả dự kiến của tác<br /> giả là các công ty có hoạt động của HĐQT<br /> và BKS càng hiệu quả thì khả năng hạn chế<br /> hành vi điều chỉnh lợi nhuận càng lớn và phù<br /> hợp với những kết luận từ các nghiên cứu của<br /> Carcello et al (2002).<br /> 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRƯỚC<br /> 2.1. Quản trị doanh nghiệp<br /> Có rất nhiều định nghĩa về QTDN nhưng<br /> những nghiên cứu hiện nay cho rằng không<br /> có một định nghĩa chính xác nào về QTDN<br /> (Solomon, 2007). Cụ thể theo định nghĩa của<br /> Cadbury (1992, trang 15) QTDN: “là một hệ<br /> thống mà ở đó công ty được kiểm soát và điều<br /> hành”. Cũng theo tác giả này thì định nghĩa<br /> này thể hiện rất rõ vai trò của các bên trong<br /> công ty đó là: (1) cổ đông có trách nhiệm đề<br /> bạt giám đốc, kiểm toán viên và đảm bảo hệ<br /> thống quản trị phù hợp; (2) giám đốc có chức<br /> năng điều hành công ty và (3) kiểm toán viên<br /> có vai trò cung cấp sự kiểm tra độc lập về<br /> thông tin trên báo cáo tài chính cho cổ đông.<br /> <br /> Để ra các quyết định của mình, các cổ<br /> đông hoàn toàn dựa vào thông tin trên báo cáo<br /> tài chính (BCTC), chính vì thế họ hoàn toàn<br /> phụ thuộc vào hoạt động giám sát của HĐQT<br /> đối với ban giám đốc, và vì thế hiệu quả giám<br /> sát của HĐQT càng cao thì chất lượng BCTC<br /> càng cao. Trong hầu hết các nghiên cứu trước<br /> đây (Abbott & Parker 2000; Chen và cộng sự,<br /> 2005) đều tập trung vào vai trò của BKS trong<br /> việc đảm bảo tính trung thực của thông tin tài<br /> chính và trong việc xử lý các vấn đề liên quan<br /> đến kiểm toán độc lập bên ngoài. Tuy nhiên<br /> với điều kiện là HĐQT có quyền bổ nhiệm,<br /> bãi nhiệm các thành viên trong BKS cũng<br /> như thành viên kiểm toán thuê ngoài và vai<br /> trò của HĐQT cũng rất to lớn trong việc nâng<br /> cao chất lượng thông tin tài chính trên BCTC.<br /> Một số nghiên cứu của Boo &Sharma (2008);<br /> Cohen et al (2002); Collier & Gregory (1996);<br /> Menor & Willianes (1994) cho rằng hiệu quả<br /> của BKS phụ thuộc vào thành phần, đặc điểm<br /> của HĐQT. Vì vậy bài viết này đề cập đến vai<br /> trò giám sát của HĐQT và BKS được lập luận<br /> là rất quan trọng để nâng cao chất lượng của<br /> <br /> Solomon (2007, trang 14) định nghĩa<br /> QTDN là “hệ thống kiểm soát sự cân bằng<br /> cả bên trong và bên ngoài công ty, có trách<br /> nhiệm giải trình cho tất cả các bên liên quan<br /> và hành động có trách nhiệm đối xã hội trong<br /> lĩnh vực kinh doanh của mình”. Trong khi đó<br /> Shleifer &Vishny (1997, trang 737) mô tả về<br /> QTDN “ giải quyết các yêu cầu của các nhà<br /> đầu tư tài chính vào công ty với mức lợi nhuận<br /> mong muốn” tương đồng với định nghĩa của<br /> Denis (2001, trang 192) “ QTDN là tập hợp tất<br /> cả đặc điểm thể chế thị trường để nhà quản lý<br /> tự tin tối đa lợi ích dòng tiền mang lại đứng từ<br /> góc độ các cổ đông”.<br /> 46<br /> <br /> Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ...<br /> <br /> bổ nguồn lực cho các thành viên nội bộ; (3)<br /> Tạo thuận lợi cho mối quan hệ giữa HĐQT và<br /> kiểm toán viên độc lập, xem xét và tuân thủ<br /> chính sách đạo đức, quy tắc ứng xử của công<br /> ty. Các nhà quản lý doanh nghiệp cho rằng<br /> khi BKS thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của<br /> mình theo nghiên cứu của Wolnieder (1995)<br /> kỳ vọng tăng tính tín nhiệm, tăng độ tin cậy<br /> của các số liệu trên báo cáo tài chính, nâng cao<br /> hiệu quả quản lý, tăng hiệu quả giám sát của<br /> kiểm soát nội bộ, tăng cường vai trò và nâng<br /> cao hiệu quả của HĐQT. Hay nói chun, khi<br /> BKS thực hiện đầy đủ 3 nhiệm vụ thì có thể<br /> cải thiện được hoạt động QTDN và tăng cao<br /> chất lượng BCTC.<br /> <br /> Như vậy có khá nhiều định nghĩa, giải<br /> thích về QTDN ở nhiều khía cạnh và lý thuyết<br /> khác nhau. Đó là (1) Quản trị doanh nghiệp<br /> với mục đích tối đa lợi nhuận cho cổ đông<br /> (Cadbury, 1992; Shleifer và Vishny, 1997;<br /> Denis, 2001) bị chi phối bởi lý thuyết cơ quan;<br /> (2) QTDN ngoài mục đích tối đa hóa sự giàu<br /> có của các cổ đông thì QTDN còn quan tâm<br /> đến vấn đề xã hội và môi trường (Solomon,<br /> 2007) theo lý thuyết đại diện.<br /> Bài viết này chỉ đề cập đến hoạt động<br /> QTDN đối với chất lượng thông tin trên báo<br /> cáo tài chính. Như vậy trọng tâm của bài viết<br /> là xem xét tác động của QTDN đến hành vi<br /> điều chỉnh lợi nhuận chứ không phải xem xét<br /> tác động của QTDN đến môi trường và xã hội.<br /> <br /> Tương tự vào năm 1994, Menon và<br /> Williams (1994) cho rằng việc thành lập<br /> BKS sẽ tạo ra hai thuận lợi to lớn cho hoạt<br /> động QTDN cụ thể: (1) Các thành viên độc<br /> lập của BKS có thể đánh giá độc lập chức<br /> năng của kiểm toán viên nội bộ cũng như<br /> dịch vụ kiểm toán bên ngoài nên làm gia tăng<br /> tính minh bạch và trung thực của báo cáo tài<br /> chính; (2) BKS gia tăng hiệu quả hoạt động<br /> của HĐQT. Hơn nữa theo The Blue Ribbon<br /> Committees (1999, trang 19) thừa nhận việc<br /> thành lập BKS làm gia tăng uy tín của BCTC<br /> và tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư, cụ thể<br /> “…BKS có hiệu quả trong việc gia tăng tính<br /> minh bạch và trung thực của BCTC và do đó<br /> duy trì niềm tin của nhà đầu tư nên thị trường<br /> chứng khoán của chúng tôi gia tăng tốt nhất<br /> và thanh khoản nhất…”<br /> <br /> 2.1.1. Vai trò của QTDN và chất lượng<br /> báo cáo tài chính<br /> Sự thành công của doanh nghiệp có đóng<br /> góp một phần rất quan trọng của HĐQT, họ là<br /> những người chịu trách nhiệm thiết lập mục<br /> tiêu, chiến lược và giá trị của công ty để phù<br /> hợp với mục tiêu của cổ đông. Hơn nữa họ<br /> còn chịu trách nhiệm về sự minh bạch và trung<br /> thực của các số liệu trên BCTC. Theo quy định<br /> hiện hành, số liệu BCTC muốn công bố cho<br /> các cổ đông sử dụng thì phải được kiểm toán<br /> bởi các kiểm toán độc lập bên ngoài hay nói<br /> cách khác thì HĐQT phải chịu trách nhiệm<br /> cho tất cả hoạt động, chiến lược và tình hình<br /> tài chính của công ty bao gồm cả những chi<br /> nhánh của công ty.<br /> BKS là một bộ phận của HĐQT và được<br /> thiết lập bởi HĐQT, BKS có mối quan hệ<br /> với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.<br /> Theo Wolnieder (1995) tranh cãi về 3 nhiệm<br /> vụ quan trọng của BKS như sau: (1) Xem xét<br /> BCTC; (2) Cung cấp các khuyến nghị cho các<br /> kiểm toán viên bên ngoài, đánh giá mức phí<br /> kiểm toán, đánh giá kế hoạch kiểm toán, đảm<br /> bảo tính độc lập của kiểm toán viên và phân<br /> <br /> 2.1.2. Vai trò giám sát của QTDN<br /> HĐQT ra các quyết định chủ yếu cho các<br /> hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh<br /> nghiệp và họ có đủ quyền lực để giải quyết<br /> toàn bộ các quyết định của các nhà quản lý<br /> cấp cao (Fama và Jensen (1983)). Hơn nữa<br /> khi HĐQT ra các quyết định từ lúc ban đầu<br /> cho đến thực hiện nên tách biệt 2 chức năng<br /> 47<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> phê chuẩn và giám sát của một quyết định<br /> nhằm đảm bảo tính hiệu quả chức năng giám<br /> sát của HĐQT.<br /> <br /> Có khá nhiều định nghĩa về hành vi điều<br /> chỉnh lợi nhuận (earnings management) như<br /> định nghĩa của (Schipper, 1989) cho rằng<br /> “Hành vi điều chỉnh lợi nhuận được coi là<br /> hành động có mục đích đối với quy trình lập<br /> và trình bày báo cáo tài chính nhằm đạt được<br /> các lợi ích cá nhân”. Hơn 10 năm sau, hai nhà<br /> nghiên cứu Healy và Wahlen (1999) đã định<br /> nghĩa hành vi điều chỉnh lợi nhuận với phạm<br /> vi rộng rãi hơn “Hành vi điểu chỉnh lợi nhuận<br /> xuất hiện khi nhà quản lý dùng các xét đoán<br /> của mình trên báo cáo tài chính và trong cấu<br /> trúc các sự kiện giao dịch kinh tế phát sinh<br /> nhằm làm thay đổi BCTC, làm cho các đối<br /> tượng có liên quan hiểu sai về tình trạng hoạt<br /> động của DN”. Tuy nhiên theo hai định nghĩa<br /> này thì hành vi điều chỉnh lợi nhuận được xem<br /> xét là hành động của nhà quản lý nhằm gây ra<br /> nhầm lẫn cho đối tượng sử dụng BCTC về tình<br /> hình kinh doanh của DN. Do vậy định nghĩa<br /> này chưa thể hiện đầy đủ các vấn đề về hành<br /> vi chi phối lợi nhuận.<br /> <br /> Lý thuyết đại diện cho rằng để đảm bảo<br /> tính hiệu quả của chức năng giám sát, thành<br /> viên HĐQT nên có một thành viên độc lập từ<br /> bên ngoài (thành viên độc lập là thành viên<br /> không tham gia điều hành) độc lập hoàn toàn<br /> với hoạt động quản lý và thành viên này có<br /> khả năng thực hiện vai trò giám sát với hiệu<br /> quả cao (Dalton et al (1998)). Các thành viên<br /> độc lập không tham gia điều hành thường là<br /> các chuyên gia trong từng lĩnh vực, có thể<br /> phát huy những thế mạnh chuyên môn trong<br /> việc kiểm soát việc đưa ra các quyết định và<br /> giám sát việc thực hiện các quyết định của<br /> ban điều hành (Fama và Jensen (1983)).<br /> Để nâng cao tính hiệu quả của QTDN,<br /> ngoài yêu cầu cần có thành viên độc lập không<br /> tham gia điều hành trong HĐQT và BKS thì<br /> các nghiên cứu thực nghiệm (Carcello và cộng<br /> sự, 2002; Abbott và cộng sự, 2003; Abbott và<br /> cộng sự, 2004; Chen &Zhou, 2007; Krishnan<br /> &Lee, 2009; Ronen &Yaari, 2008) đề nghị<br /> quy mô, kiến thức, kinh nghiệm, tần suất họp<br /> làm gia tăng vai trò giám sát của HĐQT và<br /> BKS tương thích với đề nghị của Zahra &<br /> Pearce (1983) và Walker (2004).<br /> <br /> Vào năm 2008, với nghiên cứu của Ronen<br /> và Yaari (2008, trang 27) đã định nghĩa hành<br /> vi điều chỉnh lợi nhuận “là tập hợp các quyết<br /> định quản lý mà kết quả sẽ dẫn đến không phản<br /> ánh đúng lợi nhuận thực trong ngắn hạn, có<br /> tính chất tối đa hóa giá trị doanh nghiệp mà<br /> nhà quản lý đã biết về chúng. Hành vi điều<br /> chỉnh lợi nhuận có thể là mang lại lợi ích<br /> (cung cấp tín hiệu về giá trị trong dài hạn),<br /> nguy hại (che giấu giá trị ngắn hạn hoặc dài<br /> hạn) hoặc trung tính (che giấu giá trị ngắn<br /> hạn hoặc dài hạn)” Như vậy, định nghĩa này<br /> không chỉ bao gồm hai loại hành vi chi phối<br /> lợi nhuận kế toán (chi phối thông qua việc lựa<br /> chọn chính sách kế toán hay biến dồn tích và<br /> chi phối thông qua các hoạt động kinh tế) mà<br /> còn bao gồm cả các quyết định quản lý khác<br /> nhằm trình bày lợi nhuận khác với lợi nhuận<br /> thực sự theo hiểu biết của nhà quản lý. Đồng<br /> <br /> 2.2. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận<br /> Theo các quy định của GAAP (những<br /> nguyên tắc kế toán được chấp nhận) nhà quản<br /> lý có thể lựa chọn các ước tính và các giả<br /> định theo quy định của luật pháp để áp dụng<br /> phù hợp với tình hình kinh doanh của riêng<br /> doanh nghiệp mình. Chính vì vậy tạo cơ hội<br /> cho các nhà quản lý thực hiện hành vi điều<br /> chỉnh lợi nhuận (Walt và Zimmerman, 1990;<br /> Fields et al, 2001), do đó nhà đầu tư, chủ nợ<br /> không thể đánh giá chính xác tình hình tài<br /> chính thực của công ty.<br /> 48<br /> <br /> Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ...<br /> <br /> thời, định nghĩa này cũng bao gồm cả hành vi<br /> chi phối lợi nhuận kế toán nhằm mục đích gây<br /> nhầm lẫn hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho<br /> người sử dụng báo cáo tài chính.<br /> <br /> điều này tác động đến nhà đầu tư rất lớn, tâm<br /> lý nhà đầu tư luôn thích công ty kinh doanh<br /> có lãi. Việc trình bày các khoản lãi hay lỗ trên<br /> báo cáo tài chính có khuynh hướng ảnh hưởng<br /> đến thị giá cổ phiếu (Hayn, 1995). Ngoài ra<br /> nếu doanh nghiệp không đạt được kỳ vọng<br /> của thị trường thì có thể gây tác động tiêu cực<br /> lên giá cổ phiếu chính vì vậy lợi nhuận của<br /> công ty có thể bị chi phối để đạt theo hướng<br /> mong muốn mà chuyên chuyên phân tích tài<br /> chính đã dự báo (Kinney và cộng sự, 2002;<br /> Louis, 2004)<br /> <br /> Nhà quản lý thực hiện hành vi điều<br /> chỉnh lợi nhuận vì nhiều lý do như tiền<br /> lương, thưởng (Healy, 1985; Gaver và cộng<br /> sự, 1995; Holthausen và cộng sự, 1995;<br /> Murphy, 1999), tránh vi phạm các cam kết<br /> nợ (Sweeney, 1994), tăng lợi nhuận và ngăn<br /> chặn lỗ (Bugstahler và Dichev, 1997), bù đắp<br /> các chi phí theo quy định (Cahan, 1992; Han<br /> và Wang, 1998).<br /> <br /> Tóm lại, từ bằng chứng nghiên cứu thực<br /> nghiệm trên cho thấy nhà quản lý với các<br /> động cơ của riêng mình đã tác động đến các<br /> chính sách kế toán hay hoạt động kinh tế để<br /> điều chỉnh lợi nhuận theo mong muốn. Vì<br /> vậy yêu cầu về vai trò giám sát của HĐQT<br /> và BKS đặt ra để hạn chế hành vi điều chỉnh<br /> lợi nhuận.<br /> <br /> Theo Murphy (1999) tiền lương có mối<br /> quan hệ chặt chẽ với quy mô doanh nghiệp.<br /> Thông thường, nhà quản lý ký hợp đồng lao<br /> động với các nhà quản trị với các điều khoản<br /> được trình bày chi tiết và rõ ràng các khoản<br /> mà nhà quản lý nhận được. Đồng thời theo<br /> nghiên cứu của Gao và Shrieves (2002) cũng<br /> đã chỉ ra mối quan hệ giữa lương và hành vi<br /> chi phối lợi nhuận kế toán. Theo nghiên cứu<br /> của Healy (1995), Gaver (1995) và các tác giả<br /> khác thì tiền thưởng có tác động đến hành vi<br /> chi phối lợi nhuận kế toán. Nhà quản lý có<br /> xu hướng làm tăng tối đa các khoản thưởng<br /> họ được nhận bằng cách điều chỉnh kết quả<br /> hoạt động kinh doanh. Đồng ý kiến trên còn<br /> có nghiên cứu của Gao và Shrieves (2002).<br /> Tóm lại, những nghiên cứu này cho thấy kế<br /> hoạch thưởng tạo động cơ cho các nhà quản<br /> lý tác động đến lợi nhuận kế toán để tối đa<br /> các khoản thưởng được hưởng. Trong khi đó<br /> nghiên cứu của Sweeney (1994) phát hiện nhà<br /> quản lý của những công ty có nguy cơ vi phạm<br /> các cam kết nợ có khả năng báo cáo thêm các<br /> khoản thu nhập để bù đắp các khoản nợ đến<br /> hạn thanh toán.<br /> <br /> 3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU DỰ KIẾN<br /> Căn cứ vào các nghiên cứu đã đề cập<br /> trên, nhằm xác định mối quan hệ giữa hiệu<br /> quả QTDN và hành vi điều chỉnh lợi nhuận,<br /> bài viết xây dựng mô hình dự kiến (bảng 1)<br /> với đặc điểm QTDN là biến độc lập (gồm hai<br /> nhóm biến HĐQT và BKS) và hành vi điều<br /> chỉnh lợi nhuận là biến phụ thuộc. Trong<br /> bài viết này, mô hình dự kiến chỉ nhằm giải<br /> thích tác động của QTDN đến hành vi chi<br /> phối lợi nhuận, cụ thể các giả thuyết nghiên<br /> cứu dự kiến:<br /> yy Hiệu quả của hội đồng quản trị<br /> Theo nghiên cứu của Fama và Jensen<br /> (1983) công bố rằng HĐQT là cơ quan tối cao<br /> trong doanh nghiệp đại diện cho chủ sở hữu<br /> thực hiện chức năng giám sát hoạt động của<br /> các nhà quản lý.<br /> <br /> Theo Burgstahler and Dichev (1997) nhà<br /> quản lý có xu hướng che giấu các khoản lỗ vì<br /> 49<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1