HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 5
lượt xem 5
download
Không quá 10% số dòng thuế với điều kiện là mức cắt giảm không thấp hơn một nửa mức cắt giảm theo công thức và các dòng thuế đó không vượt quá 10% tổng giá trị nhập khẩu của Thành viên đó; hoặc được duy trì một số dòng thuế chưa cam kết, hoặc không cắt giảm theo công thức nhưng không vượt quá 5% số dòng thuế với điều kiện kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này không vượt quá 5% tổng giá trị nhập khẩu của Thành viên đó. Các nước chậm phát triển (Least Developed Countries...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 5
- không quá 10% số dòng thuế với điều kiện là mức cắt giảm không thấp hơn một nửa mức cắt giảm theo công thức và các dòng thuế đó không vượt quá 10% tổng giá trị nhập khẩu của Thành viên đó; hoặc được duy trì một số dòng thuế chưa cam kết, hoặc không cắt giảm theo công thức nhưng không vượt quá 5% số dòng thuế với điều kiện kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này không vượt quá 5% tổng giá trị nhập khẩu của Thành viên đó. Các nước chậm phát triển (Least Developed Countries hay LDCs) không phải cam kết cắt giảm theo công thức và cũng không tham gia cắt giảm theo ngành, chỉ khuyến khích các nước này tăng đáng kể mức độ cam kết; khuyến khích các nước phát triển hơn miễn thuế và miễn hạn ngạch cho các sản phẩm có xuất xứ từ các nước LDC. Tuy nhiên, đối với cắt giảm hàng rào phi thuế quan, thoả thuận khung không đưa ra tiến triển gì đáng kể ngoài việc tái khẳng định quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ đàm phán Doha. 10.6. MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng Doha năm 2001 đã khởi động tiến trình đàm phán, tính tới sự chuẩn bị kỹ lưỡng và rất nhiều đề xuất đưa ra trước đó. Đặc biệt, Tuyên bố đã nhấn mạnh rằng các cuộc đàm phán thương mại dịch vụ sẽ được tiến hành nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tất cả các đối tác thương mại và sự phát triển của các nước đang phát triển và các nước kém phát triển. Tham gia vào Vòng Đàm phán Doha có những lợi ích đối kháng hay khác biệt của nhiều nhóm Thành viên. EU, đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ, có quan tâm chính tới tự do hóa thương mại dịch vụ và mở cửa các thị trường dịch vụ mới. Bản thân EU cũng là một trong số các thị trường tự do nhất trên thế giới. Do đó EU hướng tới việc tăng cường các cam kết tự do hóa, cả về mặt chất và mặt lượng, của các nước, ở các ngành dịch vụ và phương thức cung cấp. Mặt khác, EU không theo đuổi việc tự do hóa các ngành dịch vụ nhạy cảm về mặt chính trị, ví dụ như các dịch vụ công (dịch vụ y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội, cung cấp nước 344
- tiêu dùng), dịch vụ văn hóa và dịch vụ nghe nhìn. Đồng thời, EU muốn đảm bảo rằng các cuộc đàm phán cần xem xét đầy đủ lợi ích của các nước đang phát triển. Tăng cường vận tải, IT và viễn thông, hệ thống ngân hàng và ngành bảo hiểm mạnh mẽ và đáng tin cậy hơn là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế và đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển. Các nhà cung cấp dịch vụ EU và đầu tư của EU có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các ngành này tại các nước đang phát triển, và trên cơ sở các nước đang phát triển được tự mình đưa ra quyết định. Hoa Kỳ, là Thành viên xuất khẩu dịch vụ đứng thứ hai trên thế giới, đang tìm cách đạt được các cam kết tốt hơn để tăng cường tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ của mình. Tuy nhiên, các ngành mà Hoa Kỳ quan tâm lại khác với các ngành EU quan tâm. Đặc biệt, Hoa Kỳ hướng tới việc tự do hóa các dịch vụ văn hóa/nghe nhìn trên toàn cầu nhằm hỗ trợ ngành xuất khẩu phim của nước này trong khi rất miễn cưỡng mở cửa ngành dịch vụ vận tải biển. Hoa Kỳ cũng theo đuổi các cách tiếp cận khác nhau đối với các nước khác nhau trong lĩnh vực đàm phán về quy tắc, tức là nhằm đạt được các quy tắc mạnh mẽ hơn về quy định trong nước, minh bạch hóa, v.v... Các nước đang phát triển đang đóng vai trò ngày càng tăng trong thương mại dịch vụ quốc tế. Danh sách của WTO về 40 Thành viên xuất khẩu dịch vụ hàng đầu bao gồm 13 nước đang phát triển, trong đó có nhiều nước châu Á (ví dụ Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Ấn Độ, Singapore, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Malaysia, v.v…). Các nước đang phát triển đã thành công trong việc định hướng các cuộc đàm phán dịch vụ tại Vòng Doha theo hướng tập trung mạnh mẽ vào khía cạnh phát triển. Theo GATS, các nước này thường được đưa ra ít cam kết hơn các nước phát triển và có thể đàm phán nhằm đạt được tiếp cận tốt hơn tới các thị trường dịch vụ mà họ có lợi ích xuất khẩu cụ thể. Những lợi ích này thì khác nhau ở các nước đang phát triển, tùy thuộc vào lợi thế về nguồn lực của mỗi nước, vị trí địa lý (ví dụ xuất khẩu du lịch), lợi thế cạnh tranh của họ cũng như hiện trạng cải cách kinh tế. Các ngành liên quan tới các nước đang phát triển bao gồm dịch vụ chuyên môn, máy 345
- tính, viễn thông, nghe nhìn, xây dựng, tư vấn kỹ thuật, phân phối, năng lượng, môi trường, tài chính, du lịch và vận tải. Một lĩnh vực đàm phán mà các nước đang phát triển có lợi ích chung là tăng cường tiếp cận thị trường của cá nhân cung cấp dịch vụ ở nước ngoài (phương thức 4). Đây là một vấn đề nhạy cảm cả về mặt chính trị và kinh tế. Cho tới nay, trong số các Thành viên WTO, EU là Thành viên thể hiện sự linh hoạt cao nhất trong việc đưa ra bản chào trong lĩnh vực này. Các nước kém phát triển nhất không phải đưa ra các cam kết mới (theo Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng Hồng Kông). 10.7. MỐI QUAN NGẠI VỀ QUAN HỆ BẮC - NAM Vòng Đàm phán Doha nói riêng, và quá trình phát triển của các Vòng Đàm phán nói chung, luôn là sự đấu tranh về quyền lợi giữa hai khối mà chúng ta tạm gọi là «Bắc» (các nước phát triển – hay trước đây gọi là các nước tư bản chủ nghĩa) và «Nam» (các nước đang phát triển – hay trước đây gọi là các nước thuộc thế giới thứ ba, hay các nước không liên kết). Quyền lợi của các nước phát triển đòi hỏi các nước đang phát triển phải giảm thuế nhập khẩu đối với hầu hết các mặt hàng nông nghiệp được sản xuất đại trà ở các nước phát triển (như sữa, thịt bò, hoa quả) và các mặt hàng phi nông sản có hàm lượng kỹ thuật cao như máy bay, xe hơi v.v…, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (mà thực chất phần lớn tài sản loại này thuộc về các nước phát triển). Quyền lợi của các nước đang phát triển yêu cầu các nước phát triển phải xóa bỏ trợ cấp hàng nông sản để sản phẩm của các nước đang phát triển có thể cạnh tranh một cách bình đẳng với các nước phát triển, đồng thời xóa bỏ hạn ngạch dệt may để hàng hóa phi nông sản hàm lượng kỹ thuật thấp có thể cạnh tranh dễ dàng hơn tại thị trường các nước phát triển. Cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đến xung đột về lợi ích giữa Bắc và Nam là không thể tránh khỏi. Mặc dù chúng ta đều biết là đàm phán thương mại được diễn ra trên tinh thần bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên chính vị trí và sức mạnh của các tiềm lực kinh tế quyết định đàm phán sẽ diễn ra theo hướng của ai đề ra. Bài phát biểu sau đây của Bộ Trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển cho thấy điều này. 346
- Hộp 10.1. Toàn Cầu hóa Kinh tế - Cách Tiếp cận, Cơ hội và Thách thức Trương Đình Tuyển, Nguyên Bộ Trưởng Thương mại Khi nói động lực bên trong của quá trình toàn cầu hóa là sự phát triển của lực lượng sản xuất là nói đến "nội năng" của quá trình này. Chính cái "nội năng" này thúc đẩy sự vận động, còn vận động theo hướng nào lại tùy thuộc vào chủ thể. Bởi lẽ, nếu toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, nghĩa là có tính quy luật thì quy luật đó là quy luật xã hội. Khác với quy luật tự nhiên, các quy luật xã hội bao giờ cũng hoạt động dưới tác động của con người, của chủ thể, mang đậm dấu ấn của con người, của chủ thể. Chính sự chiếm đoạt thị trường theo phương thức thực dân (cũ và mới) kéo dài suốt từ đầu thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20 bắt nguồn từ yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và do chính quyền tư sản ở các nước tư bản công nghiệp phát động. Tiến trình toàn cầu hóa hiện nay cũng do các nước tư bản phát triển - đằng sau nó là các tập đoàn xuyên quốc gia - phát động, trước hết là vì lợi ích của các nước, các tập đoàn này. Chính vì thế, quá trình toàn cầu hóa hiện nay là "bất cân đối". Sự "bất cân đối" không chỉ ở các lĩnh vực mà quá trình này đặt ra và giải quyết. Trong khi chú ý đến nội dung kinh tế, nó đã không quan tâm đầy đủ đến các vấn đề xã hội, an sinh và môi trường. Bất cân đối còn thể hiện ở sự phân phối lợi ích trong toàn cầu hóa là không cân bằng. Các nước công nghiệp phát triển được lợi nhiều hơn, các nước đang phát triển và chậm phát triển chịu nhiều thua thiệt ». Nguồn: Nhân Dân Điện tử ngày 17/01/2005. Mặc dầu vậy, giải pháp vấn đề không phải là đối đầu với các nước phát triển, mà là cùng hợp tác với họ, tìm lợi thế cạnh tranh để phát triển. Chính bài học của Trung Quốc, với lợi thế nhân công rẻ, nền kinh tế năng động, sáng tạo, nhiều năm liền xuất siêu sang Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản cho thấy một nước đang phát triển vẫn có thể « thắng » trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, và các nước đang phát triển không nhất thiết là luôn luôn ít được lợi hơn trong quá trình hội nhập. 10.8. YẾU TỐ TRUNG QUỐC Với số dân hiện nay là 1,6 tỉ người, thu nhập bình quân đầu người trên 1000 USD/năm, Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ ba trên thế 347
- giới, sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Với tốc độ phát triển kinh tế 10% /năm như hiện nay, Trung Quốc đang trở thành một trong những động lực phát triển kinh tế thế giới và một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới. Một số người lo ngại sự lớn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc, kéo theo sự lớn mạnh của lực lượng quân sự Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến an ninh trong khu vực. Sự lo ngại này tuy chính đáng, song cũng nên lưu ý rằng trong tương lai gần Trung Quốc cũng không muốn trở thành tác nhân gây chiến trong vùng, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế. Hơn nữa, khi quyền lợi của các tập đoàn đa quốc gia có mặt ở hầu hết các nước Đông Nam Á, việc gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc nhất định không khỏi gây quan ngại đến các tập đoàn đa quốc gia, vốn cũng đang «đóng quân» ở nhiều nơi trên đất Trung Quốc. Một số người khác lo ngại rằng Trung Quốc quá mạnh về hàng dệt may hay đồ chơi, Việt Nam sẽ khó lòng cạnh tranh. Điều đó có thể đúng trong tương lai gần. Tuy nhiên cũng không nên quên rằng giá nhân công lao động ở Việt Nam hiện đang thấp hơn Trung Quốc, và vì vậy sẽ có những làn sóng đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam. Hơn nữa, kể cả khi Trung Quốc có thể chiếm lĩnh khu vực hàng hóa chất lượng trung bình, thì các nước như Việt Nam vẫn có thể tìm được những « chỗ lách» (niche) ở phân khúc hàng chất lượng cao, nếu các doanh nghiệp Việt Nam biết chú trọng đến chất lượng, xây dựng thương hiệu. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng nếu các doanh nghiệp Việt Nam không cải thiện chất lượng thì sẽ rất khó cạnh tranh trong môi trường toàn cầu do hàng hóa ngoại nhập, dù từ Trung Quốc hay từ đâu. Sau cùng, đa số ý kiến hiện nay đều cho rằng việc Trung Quốc phát triển vượt bậc là điều may mắn cho châu Á. Khi Trung Quốc thoát nghèo, họ sẽ mua nhiều hàng hơn, nhất là từ các nước xung quanh như Việt Nam. Việc Việt Nam xuất khẩu nhiều hoa quả, thuốc lá, hàng gia dụng sang Trung Quốc trong thời gian qua là minh chứng cho điều này. Người Trung Quốc sẽ đi du lịch nhiều hơn, đầu tư nhiều hơn ở các nước xung quanh, gia tăng số lượng người lao động, thúc đẩy kinh tế ở những nước này phát triển. Sau cùng, quá trình phát triển kinh tế ở Trung Quốc sẽ dẫn đến quá trình xây dựng xã hội công dân và dân chủ, và vì vậy khả 348
- năng Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự ảnh hưởng đến an ninh thế giới cũng vì thế mà giảm bớt. 10.9. THIẾT LẬP ĐỊNH CHẾ THƯƠNG MẠI ĐA PHƯƠNG Định chế thương mại đa phươngđang dần hình thành trong WTO. Một thí dụ điển hình là các Hội nghị Bộ trưởng, DSB – Hội đồng giải quyết tranh chấp thương mại WTO cũng như Trung tâm Giải quyết Tranh chấp về Đầu tư (ICSID). Tuy nhiên, tính độc lập, chí công vô tư của các cơ quan này cũng đang có vấn đề và cần phải hoàn thiện. Nếu để ý kỹ, chúng ta thấy rằng Thành viên ICSID hay DSB chủ yếu là các chuyên gia từ các nước phát triển. Dù muốn hay không, họ cũng không hoàn toàn vô tư khi xét xử tranh chấp theo hướng thấu hiểu các nhu cầu chính đáng của các nước đang phát triển. Các bản án bồi thường thiệt hại hàng tỷ đô la của ICSID đối với Chính phủ của các nước, hay các phán quyết của DSB mà các quan điểm thường thiên về ý kiến của các nước phát triển, hay các vụ kiện phá giá gần đây của các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy các định chế thương mại đa phươngcần phải được phát triển theo hướng quan tâm đến quyền lợi của các nước đang phát triển hơn. Bài viết sau đây cho thấy rõ điều này. Hộp 10.2. ICSID còn gay hơn bán phá giá Công ước ICSID (International Center for Settlement of Investment Dispute – Công ước thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế về Giải quyết Tranh chấp Đầu tư) thành lập cách đây hơn 40 năm. ICSID là một định chế trọng tài do Ngân hàng Thế giới (World Bank, hay Bank for Reconstruction and Development) thành lập nhằm giải quyết tranh chấp giữa một quốc gia Thành viên Công ước ICSID và nhà đầu tư của một quốc gia Thành viên khác (Điều 25). Theo Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (BTA), Việt Nam cam kết sẽ tích cực chuẩn bị tham gia Công ước ICSID. Sau khi gia nhập, có nguy cơ là các vụ tranh chấp đầu tư liên quan đến Chính phủ Việt Nam như vụ Trịnh Vĩnh Bình (đầu tư trồng rừng ở Vũng Tàu) hay vụ Phú Mỹ Hưng (thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án bất động sản) có thể bị đưa ra giải quyết tranh chấp tại ICSID. Nếu thua kiện, Chính phủ Việt Nam, hay nói khác đi là người dân đóng thuế, có thể phải gánh chịu các khỏan bồi thường thiệt hại hàng trăm triệu USD. Ngòai ra, khái niệm “đầu tư” trong các HĐTM rất rộng, 349
- đủ để các nhà đầu tư có thể khiếu kiện bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Trong HĐTM Việt-Mỹ, “đầu tư” được hiểu bao gồm cả sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, hay đấu thầu xây lắp, mua sắm của Chính phủ, nông sản v.v. Đây là điều chúng ta nên thấy trước để phòng hay chuẩn bị. Trên thực tế, trong 5 năm trở lại đây, ICSID là kinh nghiệm cay đắng của nhiều quốc gia đang phát triển. Pakistan hiện đang bị ba nhà đầu tư nước ngòai kiện tại ICSID, với mức yêu cầu bồi thường lên tới 1 tỷ USD. Vụ thứ nhất là của công ty kiểm định Thụy sỹ SGS đòi Pakistan bồi thường hơn 120 triệu USD do chấm dứt trước thời hạn hợp đồng dịch v8ụ kiểm định tàu thủy, một hành vi bị coi như vi phạm Hiệp định Thương mại (HĐTM) Pakistan- Thụy Sỹ 1996. Vụ thứ hai là của công ty xây dựng Italia Impregilo, tham gia xây dựng đập thủy điện Ghazi Barotha, đòi bồi thường 450 triệu USD. Dựa vào HĐTM Pakistan-Italia, Impregilo cho rằng Cơ quan phát triển nước và năng lượng Pakistan đã vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ hợp đồng. Công ty Thổ Nhĩ Kỳ Bayinder cũng có khiếu kiện tương tự về gian lận trong đấu thầu xây dựng xa lộ. Tháng ba vừa qua, trong một vụ trọng tài tranh chấp về đầu tư, Chính phủ Cộng hòa Séc đã bị buộc phải bồi thường 353 triệu USD cho tập đòan Central European Media (CME) của Hà Lan, do vi phạm HĐTM Hà Lan- Séc. CME cho rằng Ủy ban Truyền hình Séc đã tước đọat quyền đầu tư của CME vào đài truyền hình TV Nova của CH Séc, đối xử bất bình đẳng và không bảo vệ quyền đầu tư của CME. Trên đà thắng lợi của vụ kiện CME, Saluka Investments, một công ty con của tập đòan tài chính Nomura của Nhật Bản đã đưa CH Séc ra trọng tài ICSID, đòi bồi thường 1 tỷ USD, do bị phân biệt đối xử trong đầu tư vào Ngân hàng quốc doanh đã cổ phần hóa IPB. Nhiều công ty khác cũng toan tính khởi kiện như vậy. Các vụ tranh chấp trọng tài tại ICSID thường được giữ bí mật giữa các bên. Công chúng không được biết thông tin chi tiết cũng như các bằng chứng. Vì thế, rất khó biết các tranh chấp đã được quyết định như thê nào và Chính phủ nên rút kinh nghiệm gì cho những lần sau. Các nhà đầu tư lại thường không sẵn sàng thương lượng với Chính phủ, vì khả năng thắng kiện tại ICSID rất cao, do các Thành viên Hội đồng trọng tài ICSID chủ yếu từ các nước phát triển và không phải hòan tòan vô tư. Trong năm 2005, chỉ có 20 trong số 68 trọng tài viên được bổ nhiệm là từ các nước đang phát triển. Vì vậy, nhiều khi Chính phủ các nước đang phát triển đã chi rất nhiều tiền cho luật sư mà vẫn “tiền mất tật mang”. Chính phủ CH Séc, hay nói đúng hơn là người dân Séc, đã chi hơn 10 triệu USD phí luật sư trong vụ kiện CME (chưa tính thuế GTGT). 350
- Có người nói, bồi thường từ các phán quyết ICSID cũng là cái giá phải trả để được hội nhập, để được xuất khẩu hàng ra nước ngòai hay để được nhà đầu tư nước ngòai vào Việt Nam. Song hai điều này chưa hẳn liên quan đến nhau. Câu hỏi đặt ra phải là: chúng ta hay con cháu chúng ta được lợi gì từ những khoản tiền bồi thường khổng lồ như thế? Tuyệt đối không. Vì vậy, phải làm thế nào để những tranh chấp như thế này không xảy ra? Để tránh “quả búa tạ” ICSID, việc đầu tiên là phải phòng thủ từ xa ngay từ khi ký các HĐTM, đừng nên để những cái bẫy không đáng có, đến khi vào thực tế, Chính phủ mới “ngã ngửa”. Để làm điều này, nên để ý định nghĩa của từ “đầu tư” trong các HĐTM sao cho chúng không quá rộng. Thứ hai là phải rất giỏi về luật và nắm vững nội dung các HĐTM khi chấp thuận hay từ chối một dự án đầu tư, đấu thầu hay chuyển giao công nghệ, vì một dự án khi đã chấp thuận rất khó rút lại, hay một hợp đồng đã ký kết hay “được coi như đã ký” rất khó chấm dứt. Thứ ba là cần cải cách hành chính theo hướng minh bạch và công bằng ở mọi ngành, mọi cấp, vì không ai có thể biết đươc lúc nào Chính phủ sẽ bị vạ lây (do bị khởi kiện ra ICSID) từ hành vi của một cơ quan nhà nước. Thứ tư là khi xảy ra tranh chấp, Chính phủ phải lôi kéo về phía mình một số tập đòan đa quốc gia làm “đồng minh”, vì họ sẽ là những tiếng nói có trọng lượng chống lại phía khiếu kiện – là những tập đòan đa quốc gia khác. Các tập đòan đa quốc gia không phải lúc nào cũng có lợi ích giống nhau. Việc khai thác mâu thuẫn hay tìm điểm tương đồng về lợi ích là một trong những kỹ năng mà các chuyên viên của Chính phủ cần có. Cuối cùng, nên quan tâm đến vai trò của luật sư trong các phiên hòa giải và tranh chấp. Thật ra, vai trò của luật sư không chỉ là những người cung cấp tri thức về luật, mà còn là những quân sư họach định chiến lược và những “cầu nối văn hóa” khi hai bên chưa hiểu nhau. Nhiều khi, tranh chấp phát sinh do nhà đầu tư chưa hiểu về văn hóa Việt Nam, hơn là do khó khăn từ phía Nhà nước Việt Nam. Chuyển giá, khiếu kiện ICSID, cũng như kiện chống bán phá giá, hay thậm chí bị dẫn độ do ghi sai tên sản phẩm, là một vài trong số những cạm bẫy của quá trình hội nhập. Chúng ta không quá e sợ, song cũng không nên quá chủ quan, nhất là đối với những vấn đề còn mơ hồ. Lê Nết, Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 7/2006 Có lẽ, đến một lúc nào đó cần xây dựng một định chế WTO giống như tòa án. Ở đó, các chuyên gia DSB hay ICSID không thể giải thích các quy định của WTO theo ý chí chủ quan của mình. Một cơ chế như tòa án sẽ có « hội thẩm » từ các nước đang phát triển để phản biện lại 351
- quan điểm của các « thẩm phán ». Hơn hết, cần có Tòa án riêng (tương tự Toà án Hiến pháp ở nhiều nước) để giải thích các văn bản pháp luật của WTO theo đúng tinh thần thật của chúng. 10.10. VAI TRÒ CỦA WTO TRONG VIỆC BẮT KỊP HỘI NHẬP KINH TẾ TOÀN CẦU Sự ngưng trệ của Vòng Đàm phán Doha tháng 10 vừa qua làm nhiều người bi quan về vai trò của WTO trong việc bắt kịp hội nhập kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, Tuyên bố Hà Nội tháng 11/2006 của các nhà lãnh đạo Thành viên Tổ chức APEC, kêu gọi các nước Thành viên WTO quay lại Vòng Đàm phán Doha cho thấy rằng rồi ra các Thành viên cũng không sẵn sàng từ bỏ mục tiêu đàm phán cũng như cơ chế WTO. Hiện nay, đây vẫn là cơ chế hiệu quả nhất để thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển, mặc dù đặt ra một số điều kiện để buộc các nước phát triển nhượng bộ để đổi lại một số thỏa thuận khác, cũng không sẵn sàng từ bỏ mục tiêu của Vòng Đàm phán Doha, vốn sẽ đem lại ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế thế giới. Xét cho cùng, vai trò của WTO sẽ tùy thuộc vào lợi ích của các quốc gia, và đặc biệt là lợi ích của các tập đoàn kinh tế toàn cầu. Mục đích của các tập đoàn toàn cầu là làm sao sản xuất với chi phí thấp nhất và ít phải đóng thuế nhất, bán với giá cao nhất. WTO sẽ vẫn còn thích hợp cho mục tiêu này. Các quốc gia đang phát triển dù nhận thấy điều này, vẫn không có cách nào làm khác hơn là chấp nhận – vì chống đối đồng nghĩa với cô lập và tụt hậu. 10.11. THÁCH THỨC CỦA CÁC THỎA THUẬN THƯƠNG MẠI VÀ TỰ DO THƯƠNG MẠI NHIỀU BÊN Hiệp định Tự do Thương mại nhiều bên (free trade agreements - FTA), hay các hiệp định Thương mại song phương (bilateral trade agreement) thông thường cung cấp mức ưu đãi cho các quốc gia đối tác tốt hơn so với các Thành viên WTO. Việc này sẽ dẫn đến mối quan ngại là quá nhiều FTA sẽ làm cho cơ chế thương mại toàn cầu trở nên kém 352
- hiệu quả. Thí dụ hàng hóa Việt Nam tuy có thể nhập khẩu vào Hoa Kỳ, song vẫn chịu thuế suất cao hơn so với hàng hóa từ Mexico, nơi đã ký với Hoa Kỳ và Canada Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Như vậy, hàng hóa Việt Nam và Mexico không thể cạnh tranh với nhau bình đẳng. Mối quan ngại này có thể có cơ sở, song về lâu dài khi các Vòng Đàm phán WTO tiếp diễn, thuế suất sẽ tiếp tục giảm cho các Thành viên WTO. Vì vậy, lợi thế của hàng hóa từ các nước Thành viên FTA so với hàng hóa từ các nước Thành viên WTO cũng vì thể mà trở nên không đáng kể. Xét cho cùng, vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có thể giảm giá thành sản phẩm, tăng chất lượng hơn nữa được không. Việc Intel quyết định đầu tư ở Việt Nam chứ không phải ở Mexico cho thấy lợi thế về khoảng cách vận chuyển hay thuế suất thấp cũng chỉ có ảnh hưởng vừa phải. Các lợi thế đó nhiều khi không ý nghĩa bằng các lợi thế khác như cơ chế chính sách minh bạch, ưu đãi thuế và giá nhân công rẻ. 10. 12. ẢNH HƯỞNG CỦA VÒNG ĐÀM PHÁN DOHA ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM Do lộ trình rất bận rộn cho việc kết thúc đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam và kết thúc Vòng đàm phán Doha, Việt Nam rất khó có cơ hội tác động tới kết quả Vòng đàm phán Doha. Tuy nhiên, Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và người dân Việt Nam vẫn cần cập nhật diễn biến của Vòng đàm phán Doha. Chúng ta cần nắm vững các vấn đề liên quan khi là Thành viên WTO, đánh giá những lợi ích từ DDA, dự báo liệu DDA có thể làm các Thành viên WTO đòi hỏi các cam kết cao hơn từ Việt Nam. Rất may là điều mà chúng ta lo ngại nhất - Việt Nam gia nhập WTO sau khi kết thúc Vòng đàm phán Doha đã không xảy ra. Nếu không, chúng ta phải “trả hai lần” nếu không đạt được những ảnh hưởng tích cực đối với những cam kết khác của Vòng đàm phán Doha. Tuy nhiên khi phân tích sâu hơn, chúng ta cũng không nên quá lo ngại về những ảnh hưởng của Vòng đàm phán Doha, bởi lẽ là nước gia nhập sau, nền kinh tế của chúng ta cũng đã khá mở để thoả mãn các yêu cầu của Vòng đàm phán Doha. Thật ra, Vòng đàm phán Doha sẽ tạo ra không ít cơ hội cho nông dân Việt Nam, do thị trường nông sản thế giới công 353
- bằng, cải thiện (giảm bảo hộ; xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu…). Tất nhiên, chúng ta có thách thức, do đã mở cửa thị trường nông sản nhiều hơn so với cam kết theo lộ trình Doha, tuy nhiên cạnh tranh sẽ làm cho các nhà sản xuất lưu ý hơn trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm, và người có lợi là người tiêu dùng. 10.12.1 Tác động của Vòng đàm phán Doha trong lĩnh vực nông nghiệp Vòng đàm phán Doha có tác động đến nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, tác động của Doha và việc gia nhập WTO mang tính vĩ mô và dài hạn. Ngược lại, tác động của các hiệp định Tự do Thương mại (FTA) sẽ xảy ra trong tương lai gần, với mức độ lớn hơn. Hiện tại, đối với vấn đề tiếp cận thị trường nông sản, chúng ta chỉ bảo hộ bằng thuế. Thực sự là, chúng ta đã thuế hoá các biện pháp phi thuế như hạn ngạch thuế quan (TRQ) hay biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG). Về chính sách thuế nhập khẩu, thuế nhập khẩu bình quân của hàng nông sản là 24,5% với 12 mức thuế từ 0%-100%. Do nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người dân và an ninh lương thực, nông sản được bảo hộ qua thuế cao hơn sản phẩm khác (24,5%/18% bình quân chung). Cụ thể là: - Mức thuế thấp (0-10%), áp dụng cho: vật tư nông nghiệp (giống cây trồng, giống vật nuôi), nguyên liệu công nghiệp chế biến (Ngô, khô dầu đậu tương, bông…) - Mức thuế trung bình (15-30%): rau quả tươi, sữa, thịt tươi, đông lạnh các loại. - Mức thuế cao (40-50%): sản phẩm chế biến (đường, thịt, rau quả, chè, cà phê hoà tan, bột dinh dưỡng…). - Mức rất cao (60-100%): rượu bia, thuốc lá (không khuyến khích tiêu dùng). Khi Việt Nam tham gia WTO, mở cửa thị trường, mức giảm thuế nông sản sẽ trở nên đáng kể (trừ đồ uống, rượu bia và thuốc lá) là 17,1% 354
- (từ 22% xuống 18%). Như vậy, sẽ có ngành, có doanh nghiệp không hiệu quả bị phá sản, tạo sức ép về tài chính, xã hội Về các biện pháp phi thuế, Quyết định 46/2001/QĐ-TTg của TTCP (2001-2005) đã xoá bỏ hầu hết các biện pháp phi thuế. Về các trợ cấp, như đã nêu ở các chương trước, quy định của WTO phân loại các loại trợ cấp ra thành ba loại : a) Nhóm chính sách Hộp Xanh lá cây (các loại trợ cấp không nằm trong nhóm (b) và (c) dưới đây, b) Trợ cấp “Chương trình phát triển”: - Trợ cấp đầu tư; - Trợ cấp đầu vào cho người nghèo, có thu nhập thấp hoặc ở các vùng khó khăn; - Hỗ trợ chuyển đổi cây thuốc phiện sang cây khác. c) Nhóm chính sách Hộp Hổ phách. Theo đó, các nước Thành viên phải cam kết cắt giảm nếu vượt quá mức tối thiểu. Mức tối thiểu đặt ra là 5% giá trị sản lượng nông nghiệp đối với các nước phát triển, và 10% giá trị sản lượng nông nghiệp đối với các nước đang phát triển. Nếu đối chiếu với chính sách của Việt Nam, thì cơ cấu trợ cấp trong nước của VN giai đoạn 1999-2001 như sau: Hộp Xanh lá cây: 84,5%, Chương trình Phát triển: 10,7%, và Hộp Hổ phách: 4,9% (nhỏ hơn mức tối thiểu). Nhóm Hộp Xanh lá cây bao gồm các trợ cấp về kết cấu hạ tầng nông nghiệp, khuyến nông, đào tạo, phòng trừ dịch bệnh, v.v... Nhóm “Chương trình phát triển” bao gồm trợ cấp đầu tư: vốn đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, trợ cấp đầu vào cho người nghèo, có thu nhập thấp hoặc ở các vùng khó khăn: Lãi suất tín dụng ưu đãi cho người nghèo; hỗ trợ chuyển đổi cây thuốc phiện sang cây khác. Các loại chương trình này có quy mô rất hạn chế. Các trợ cấp Hộp Hổ phách bao gồm hỗ trợ lãi suất mua tạm trữ gạo, cà phê, thịt lợn, bông, có mức hỗ trợ dưới mức tối thiểu. Chính sách của Việt Nam trong giai đoạn 1999- 2001 bao gồm cả việc bù lỗ xuất khẩu (cà phê, gạo, thịt 355
- lợn); thưởng xuất khẩu (gạo, cà phê, chè, hạt tiêu, thịt lợn, rau quả). Sang giai đoạn 2003 - 2005, Việt Nam đã loại bỏ dần các trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ của Việt Nam thường mang tính giải quyết tình thế, chưa được xây dựng thành chương trình trước. Diện mặt hàng, số lượng hàng được hưởng tuỳ thuộc vào tình hình thực tế (không đảm bảo tính minh bạch). Đối tượng được hưởng trợ cấp chủ yếu là doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ chưa xây dựng được các tiêu chí để tạo sự bình đẳng giữa các đối tượng. Trong khi đó, hỗ trợ trực tiếp cho nông dân (người sản xuất), nhất là dân nghèo, vùng khó khăn còn ít. Đây là những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm nhiều hơn để vận dụng được những điều kiện mà WTO đặt ra. Xin tham khảo hộp dưới đây: Hộp 10.3. Gia nhập WTO: Thách thức với nông nghiệp và đói nghèo ở Việt Nam Lương Văn Tự, Thứ trưởng Bộ Công thương Cuộc cạnh tranh đối với những nông dân tham gia xuất khẩu nông sản và những nông dân sản xuất phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước sẽ gia tăng trên mọi phương diện, có thể dẫn đến hạ giá sản phẩm. Điều đó có hại cho nông dân và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại bộ phận dân nghèo đang sống ở vùng nông thôn, hoặc là hộ sản xuất nhỏ hoặc là người dân không đất làm thuê. Nền kinh tế nông thôn và kế sinh nhai của họ phụ thuộc vào việc họ có bán được sản phẩm làm ra với một giá cả hợp lý hay không. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, việc mở cửa thị trường không nhất thiết mang lại giá rẻ cho người nghèo thành thị; lợi nhuận dường như rơi vào túi các công ty nhập khẩu hay chế biến lớn. Hơn nữa, giá lương thực rẻ của ngày hôm nay có thể gây tác động lâu dài đến khả năng tự chủ lương thực của một quốc gia trong tương lai. Nông dân Việt Nam có thế mạnh về một số sản phẩm xuất khẩu mà có thể tiếp tục duy trì hoặc mở rộng trong tương lai (như gạo, hạt tiêu, điều). Song, một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước sẽ gặp khó khăn vì Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh về những sản phẩm này (như đường, ngô, sản phẩm sữa và thịt). 356
- Hơn nữa, nhiều sản phẩm mà Việt Nam đang cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (như gạo) hay sẽ nhập khẩu ngày càng nhiều (như ngô) được Chính phủ các nước giàu trợ cấp ở mức độ cao cũng như được bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan. Chính phủ Mỹ hang năm trợ cấp 10 tỷ USD cho các chủ trang trại trồng ngô, hay 3.6 tỷ USD cho trang trại sản xuất gạo. Hay một con bò EU được trợ cấp 2.62 USD mỗi ngày, nhiều hơn thu nhập của nông dân nghèo Việt Nam. Thách thức đối với việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vất (SPS) ngay sau khi Việt Nam trở thành thanh viên WTO là rất lớn. Hiệp định này đòi hỏi sự hài hoà các tiêu chuẩn quốc gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản. Đây là mốt thách thức lớn đặc biệt cho những người sản xuất nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu vùng xa, và chắc chắn phải mất một thời gian để hoàn thành. Ngân hàng Thế giới ước tính chi phí thực thi một Hiệp định là 100 triệu USD, trong khi nguồn lực của Chính phu còn hạn chế trong việc tăng cường nguồn lực cho việc xoá đói giảm nghèo. Hơn nữa, việc dựa vào nguồn lao động rẻ tiền để cạnh tranh xuất khẩu các mặt hang nông lâm thuỷ hải sản sẽ không khả thi và không bền vững trong giai đoạn tới khi nền kinh tế tiếp tục phát triển ở Việt Nam. Do đó vấn đề nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hang xuất khẩu là vấn đề ưu tiên chiến lược cho phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Nguồn :http://wto.dddn.com.vn/Web/ContentDetail.aspx?distid=101&lang =vi-VN Nếu việc bãi bỏ dần các loại trợ câp theo lộ trình đàm phán Doha không gây ảnh hưởng đáng kể đến nông nghiệp Việt Nam, thì việc giảm thuế đối với mặt hàng nông nghiệp trên toàn cầu sẽ tạo những cơ hội đáng kể cho hàng hoá Việt Nam. Mức giá cao hơn trên thị trường quốc tế mang lại lợi ích cho các sản phẩm gạo, ngô, ngũ cốc, rau quả, thực phẩm, dệt may của Việt Nam. Các nhóm hàng chính được hưởng lợi từ tăng xuất khẩu là gạo, thuỷ sản, dệt may. Mặt khác, do cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, xuất khẩu ngô ít được hưởng lợi hơn, trong khi hoa quả, cà phê và các nông sản xuất khẩu khác có thể giảm. Trước tình hình đó, Việt Nam cần nâng cao năng lực cung để tận dụng các cơ hội tiếp cận thị trường. Để đạt được các lợi ích từ vòng Doha, năng lực cạnh tranh và cải cách thương mại trong nước đóng vai trò thiết yếu. 357
- 10.12.2. Vòng đàm phán Doha và thị trường hàng hóa phi nông sản Việt Nam Qua quá trình nhiều năm trưởng thành và phát triển, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển với tương đối đầy đủ các phân ngành cơ bản cần thiết cho yêu cầu phát triển 1 nền kinh tế. Chúng ta có thể phân thành 3 nhóm ngành chính: - Nhóm các ngành có khả năng cạnh tranh như dệt may, da giày, công nghiệp chế biến và đóng tàu; - Nhóm các ngành cơ khí, hoá dầu, hàng tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp; - Nhóm các ngành công nghiệp chế tạo. Những ngành này đã và đang đáp ứng tốt hơn nhu cầu của bản thân nền kinh tế cũng như tham gia tích cực vào việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ với các thị trường trong khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng sản xuất bình quân toàn ngành những năm gần đây khá cao (15,7%/năm). Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong cơ cấu GDP tăng trong năm 2006 đạt 50% (tăng 16% so với năm 2004 và 2005). Như đã trình bày ở các phần trước, WTO chỉ cho phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan với mức thuế bình quân ngày càng giảm và chỉ trong những bối cảnh nhất định mới cho phép sử dụng một số biện pháp phi thuế với những điều kiện cụ thể. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải giảm thuế nhập khẩu với mức thuế trung bình thấp (mức trung bình áo dụng cho các nước đang phát triển là khoảng 12%). Các hàng rào phi thuế (hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan, trợ cấp…) cũng phải dỡ bỏ trong một thời gian nhất định. Đối với việc giảm thuế, kể từ thời điểm nộp đơn xin gia nhập WTO, Việt Nam đã bắt đầu từng bước điều chỉnh các chính sách thuế trong đó có thuế đối với các sản phẩm công nghiệp. Trong quá trình đàm phán song phương với 28 đối tác, Việt Nam đã cam kết trên 10.600 dòng thuế, cụ thể: - Khoảng 3.800 dòng thuế phải cắt giảm (35.5%); 358
- - Khoảng 3.700 dòng ràng buộc ở mức hiện hành (34.5%); - Khoảng 3.170 dòng ràng buộc theo mức thuế trần (30%); Đối với Việt Nam, hơn 9.400 dòng thuế công nghiệp đã được cam kết với mức cắt giảm khoảng 24% so với hiện hành. Trong trường hợp của ngành công nghiệp hoá chất, Việt Nam đã tham gia Hiệp định ngành với mức thuế cam kết rất thấp, bảo hộ về thuế quan của Nhà nước đối với ngành là không còn nữa, ngành công nghiệp hoá chất chưa phát triển của VN sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Việt Nam cũng đã cam kết bãi bỏ trợ cấp trực tiếp đối với các hoạt động xuất khẩu và khuyên khích tiêu dùng trong nước kể từ thời điểm gia nhập. Ngoài ra, các hình thức khuyến khích đầu tư sẽ được bãi bỏ sau 7 năm kể từ khi gia nhập. Việt Nam cũng đã rà soát và điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với các quy định của WTO. Trên thực tế, mức cam kết của Việt Nam trong đa phương và song phương trong lĩnh vực công nghiệp gần như đã đáp ứng được các yêu cầu về cắt giảm thuế quan và phi thuế quan trong vòng Doha. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận từ cơ hội và thách thức do việc gia nhập WTO cũng như ảnh hưởng từ kết quả của Vòng Đàm phán Doha đối với ngành công nghiệp Việt Nam, Việt Nam cần tăng cường một số nội dung về: - Việc thực thi các chính sách thương mại mới về chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ, đối kháng; - Khuyến khích các doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại để tăng khả năng thâm nhập thị trường cho các doanh nghiệp công nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rõ và tăng cường hệ thống quy tắc quốc tế chống bán phá giá (AD), trợ cấp (đặc biệt trong lĩnh vực thuỷ sản), các biện pháp chống trợ cấp (CVD), các hiệp định Thương mại khu vực. Các “quy tắc’’ này quan trọng đối với Việt Nam, vì chúng có thể ảnh hưởng tới các nhà xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam có thể sử dụng các quy tắc đó trong tương lai. Tuy nhiên cần lưu ý là các quy tắc AD và CVD hiện nay có thể thay đổi sau Vòng 359
- Đàm phán Doha, do đó cần có sự điều chỉnh quy định trong nước tương ứng. 10.12.3 Ảnh hưởng của Vòng Đàm phán Doha đối với các ngành dịch vụ của Việt Nam Việc tăng cường sự tham gia của Việt Nam vào thương mại dịch vụ quốc tế sẽ đem lại nhiều cơ hội xuất khẩu các dịch vụ có tính cạnh tranh sang thị trường các Thành viên WTO. Cải thiện việc cung cấp các dịch vụ hiệu quả hơn, có chất lượng hơn và hiệu quả hơn về mặt chi phí cho những người sử dụng dịch vụ trong nước, bao gồm cả các ngành công nghiệp và cá nhân. Hàng hóa xuất khẩu phụ thuộc vào các đầu vào là dịch vụ như: vận tải, chuyển phát nhanh, phân phối, truyền thông, tài chính, bảo hiểm, kinh doanh, dịch vụ sau bán hàng và dịch vụ tái chế. Tự do hóa dịch vụ sẽ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu của các ngành chế tạo, khai mỏ, nông nghiệp, thực phẩm và các ngành phi dịch vụ và thúc đẩy năng suất và khả năng cạnh tranh của các ngành này. Ngoài ra, tự do hóa dịch vụ sẽ đóng góp vào thu hút đầu tư nước ngoài, cải thiện cơ sở hạ tầng của một nước, ví dụ như vận tải, viễn thông, dịch vụ tài chính (ngân hàng và bảo hiểm), dịch vụ kinh doanh, du lịch, thương mại điện tử, v.v. Tự do hóa dịch vụ cũng sẽ thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển các ngành hiện đại có giá trị gia tăng cao và bí quyết liên quan cũng như năng lực của nguồn nhân lực trong nước. Về cơ bản, tự do hóa dịch vụ sẽ giúp Việt Nam tăng cường tăng trưởng kinh tế cũng như tạo thêm việc làm và xóa đói nghèo. Tất nhiên, các cơ hội này cần được hỗ trợ bởi các chính sách phù hợp của Chính phủ cũng như các hành vi thương mại. Mặt khác, tự do hoá dịch vụ có thể có chi phí kinh tế và cạnh tranh khốc liệt hơn trên các thị trường dịch vụ của Việt Nam. Và có thể những thách thức này có thể phải được giải quyết thông qua các chính sách phù hợp, ví dụ xây dựng năng lực, đào tạo, v.v. Là một nước mới gia nhập, ở giai đoạn cuối của vòng Doha, Việt Nam sẽ không bị các Thành viên WTO khác đưa ra các yêu cầu mở cửa 360
- thị trường quá mức. Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng Hồng Kông (đoạn 56) thừa nhận tình hình đặc biệt của các nước mới gia nhập, những nước đã đưa ra các cam kết sâu rộng về mở cửa thị trường trong tiến trình gia nhập của mình. Tuyên bố cam kết rằng tình hình này sẽ được xem xét trong các cuộc đàm phán của Vòng Đàm phán Doha. Quan trọng nhất, Việt Nam sẽ thu được lợi ích từ các cam kết GATS mà các Thành viên WTO đã hoặc sẽ đưa ra. Tất cả các cam kết này sẽ được giành cho Việt Nam trên cơ sở MFN. Điều này sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu cho các ngành dịch vụ mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh như du lịch, vận tải hàng không và vận tải biển, bưu chính, viễn thông, v.v. Là Thành viên mới của WTO, Việt Nam sẽ phải chấp nhận các kết quả của Vòng Doha đối với các quy tắc của GATS, tức là về tự vệ đặc biệt, mua sắm công, trợ cấp và quy định trong nước. Hiện nay chưa thể đưa ra dự đoán về kết quả, và đặc biệt là những thay đổi về mặt pháp lý có thể có bên cạnh những thay đổi mà Việt Nam đã thực hiện trong khuôn khổ gia nhập WTO. Mặt khác, tự do hóa dịch vụ cũng có thể dẫn tới những chi phí chuyển đổi kinh tế cần được thực hiện thông qua các chương trình xây dựng năng lực và hỗ trợ. Cần có thời gian để hướng tới một môi trường cạnh tranh đồng thời có thể tạo ra các gánh nặng quan trọng về sự dư thừa, chuyển đổi khu vực hoặc về mặt chuyên môn, các yêu cầu đào tạo bổ sung, v.v. Tổng hợp lại, những biến chuyển này sẽ tăng cường ích lợi dài hạn từ các dịch vụ có chất lượng cao, chi phí thấp có được từ quá trình tự do hóa dịch vụ của Việt Nam. Kết quả này lại thúc đẩy tiến trình cải cách kinh tế trong nước cũng như tiến trình hội nhập vào hệ thống thương mại quốc tế. 10.12.4. Ảnh hưởng của Vòng Đàm phán Doha đối với việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam Khi đã trở thành Thành viên WTO, Việt Nam sẽ phải thực thi các kết quả Vòng Đàm phán Doha thông qua quy định trong nước của mình. 361
- Tùy thuộc vào các kết quả này, Việt Nam có thể phải đưa ra một số thay đổi trong quy định về TRIPs của mình, bên cạnh các thay đổi mà Việt Nam đã đưa ra trong tiến trình gia nhập WTO. Tuy nhiên, những thay đổi có thể xảy ra này dường như hạn chế về quy mô, do các vấn đề TRIPs đang được đàm phán hiện nay là rất cụ thể và dường như không đòi hỏi thay đổi cơ bản về quy định pháp lý. Việt Nam có lẽ chỉ quan tâm hạn chế tới việc tăng cường bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho rượu do Việt Nam không phải là nhà xuất khẩu rượu lớn sang các thị trường này. Trong khi đó, thách thức lớn nhất của Việt Nam lại ở phía các biện pháp thực thi. Cơ chế thực thi tuy đã được cải tiến và chế tài đã được tăng sau khi ban hành Luật Sở hữu Trí tuệ, song các tiêu chí xác định hành vi xâm phạm, cũng như các tiêu chí để xử lý một hành vi xâm phạm theo thủ tục dân sự, hành chính hay hình sự lại không cụ thể, vì thế rất khó có thể xử lý các hành vi xâm phạm theo đúng mức độ. Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mới sau Doha cũng cho phép sử dụng giấy phép cưỡng chế để nhập khẩu các loại thuốc đã được cấp bằng sáng chế trong trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng có thể đem lại nhiều lợi ích tiềm năng cho Việt Nam. Tuy nhiên, cần xem xét kỹ lưỡng chi phí và lợi ích trước khi sử dụng lựa chọn này. 362
- Chương XI HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC PGS.TS. Trần Đình Thiên Viện Kinh tế Việt Nam GIỚI THIỆU Hội nhập khu vực đang tăng lên mạnh mẽ nhờ sự bùng nổ các hiệp định Thương mại ưu đãi khu vực (RTAs) và các khu vực thương mại tự do (FTAs) trong thời gian cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Đây là một hiện tượng và xu hướng đáng chú ý vì nó đang tạo ra những mối quan ngại cho việc thiết lập và đạt được các hiệp định Thương mại đa phương trong khuôn khổ các thể chế thương mại và kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, các hiệp định Thương mại ưu đãi khu vực và các khu vực thương mại tự do đang góp phần tích cực làm cho quá trình hội nhập của các khu vực trên thế giới tăng lên. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét một số vấn đề chủ yếu liên quan đến hội nhập kinh tế khu vực. Chúng ta sẽ xem động cơ nào dẫn đến hội nhập được đẩy mạnh, các qui định của các thể chế thương mại toàn cầu về hội nhập khu vực và các khu vực thương mại tự do như thế nào, xem xét một số khối (block) thương mại khu vực chính hiện nay trên thế giới, và cuối cùng xem xét Việt Nam đang chuẩn bị gì và như thế nào để tăng cường hội nhập toàn cầu và khu vực. 11.1. HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ ĐỘNG CƠ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC 11.1.1. Hội nhập kinh tế và cơ sở của tăng cường hội nhập kinh tế Khái niệm “hội nhập kinh tế khu vực” thường được dùng để chỉ quá trình tăng cường liên kết kinh tế và làm giảm căng thẳng trong quan hệ kinh tế của các quốc gia trong một khu vực nhất định. Các hiệp định hội nhập kinh tế khu vực thường tập trung chủ yếu vào việc giảm và dỡ 363
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phù Nam - nơi gặp gỡ và giao lưu văn hóa
9 p | 131 | 23
-
Xuất khẩu cà phê Việt Nam vào thị trường EU - 4
13 p | 105 | 15
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 1
26 p | 70 | 13
-
Vai trò của người Hoa trong việc hình thành và phát triển các trung tâm thương mại ở Nam Bộ (Thế kỷ XVII-XIX)
12 p | 117 | 13
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 1
27 p | 103 | 10
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 6
26 p | 100 | 9
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 7
27 p | 98 | 7
-
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 9
22 p | 83 | 5
-
Chính sách thúc đẩy thương mại hóa của khoa học và công nghệ thế giới: Phần 2
112 p | 8 | 4
-
Sử dụng chiến lược bản đồ tư duy để cải thiện kỹ năng nói của sinh viên năm thứ hai khoa tiếng Anh, Đại học Thương mại
9 p | 76 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn