Hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
lượt xem 7
download
Bài viết đánh giá các quy định của Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động nhượng quyền thương mại. Tác giả chủ yếu bình luận thực tiễn thi hành pháp luật về các vấn đề: Khái niệm thuật ngữ “nhượng quyền thương mại”, chủ thể của quan hệ nhượng quyền thương mại, nội dung chính của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Từ đó, tác giả đề xuất sửa đổi một số quy định Luật thương mại năm 2005 và văn bản pháp lý có liên quan.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
- HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Vũ Thị Hoà Như1 Tóm tắt: Bài viết đánh giá các quy định của Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động nhượng quyền thương mại. Tác giả chủ yếu bình luận thực tiễn thi hành pháp luật về các vấn đề: khái niệm thuật ngữ “nhượng quyền thương mại”, chủ thể của quan hệ nhượng quyền thương mại, nội dung chính của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Từ đó, tác giả đề xuất sửa đổi một số quy định Luật thương mại năm 2005 và văn bản pháp lý có liên quan. Từ khoá: nhượng quyền thương mại, Luật thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại Những năm gần đây, nhượng quyền thương mại (NQTM) không còn xa lạ và là hoạt động có sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nhìn lại cả quá trình phát triển, hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam ngày càng khởi sắc và được đánh giá là một thị trường đầy hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh các thương hiệu trong nước nhượng quyền nổi tiếng như Cà phê Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô, đã xuất hiện các thương hiệu nổi tiếng ở nước ngoài như KFC, Lotteria, Jollibee, Mcdonalds, cà phê Starbucks được nhượng quyền tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam. Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nhượng quyền thương mại, việc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động NQTM là điều vô cùng cần thiết. Dưới góc độ pháp lý, trước năm 2005, hầu như chưa có một văn bản pháp luật nào đề cập một cách trực tiếp tới NQTM. Có thể nói, hoạt động NQTM ở Việt Nam mới chỉ được chính thức điều chỉnh trong Luật Thương mại 2005 cùng với một số văn bản hướng dẫn thi hành. Không thể phủ nhận, Luật Thương mại 2005 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới cho hệ thống pháp luật NQTM củaViệt Nam. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, sau 15 năm ban hành, các quy định này đã mất đi tính thời sự và không còn phù hợp với tình hình phát triển của hoạt động nhượng quyền đã ngày càng phức tạp và mới mẻ. Do đó, việc rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về NQTM và đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật là điều cần thiết trong bối cảnh hiện nay. 1 ThS, Đại học Luật Hà Nội 254
- Trong phạm vi bài viết, tác giả chủ yếu đánh giá việc thực thi pháp luật về NQTM dưới góc độ là một hoạt động thương mại, được điều chỉnh bởi Luật thương mại (2005) và các văn bản hướng dẫn. 1. Thực tiễn thi hành pháp luật về nhượng quyền thương mại theo Luật thương mại năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành Một là, hệ thống pháp lý về NQTM còn chưa thống nhất và mang tính rải rác Hiện nay, Luật thương mại năm 2005 là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất điều chỉnh hoạt động NQTM. Tuy nhiên, chỉ với 8 điều luật (Điều 284 đến Điều 291, Luật thương mại không thể bao quát được mọi khía cạnh pháp lý của hoạt động NQTM. Do đó, các văn bản dưới luật đã được ban hành tương đối nhiều để hướng dẫn thi hành luật. Có thể kể tên một số văn bản cơ bản như sau : nghị định của Chính phủ số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động NQTM, Thông tư của Bộ thương mại số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM, Nghị định của Chính phủ số 120/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 sửa đổi, bổ sung một số thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại trong đó có Nghị định số 35, Nghị định của Chính phủ số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương. Như vậy, đây là những văn bản điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ hẹp - luật chuyên ngành. Nếu xét trên góc độ rộng thì hệ thống văn bản luật còn được mở rộng ra nhiều hơn với sự tham gia của Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Cạnh tranh năm 2018, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2019, Luật Đầu tư năm 2020 và các Nghị định hướng dẫn về nghĩa vụ tài chính của các chủ thể trong quan hệ NQTM. Do đó, có thể đánh giá hệ thống pháp luật về NQTM còn đang nằm rải rác ở các văn bản khác nhau và thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan chuyên ngành, dẫn đến tình trạng dẫm chân lên nhau trong phạm vi cũng như đối tượng điều chỉnh giữa các luật với nhau. Hay nói cách khác, các quy định về NQTM chưa có sự thống nhất và phân chia hợp lý. Điều này phần nào gây ra khó khăn cho doanh nghiệp khi phải thực thi quy định pháp luật về NQTM. Hai là, khái niệm nhượng quyền thương mại còn mang tính liệt kê và chưa thể hiện được bản chất của hoạt động này 255
- Luật Thương mại 2005 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong các quy định về NQTM trong pháp luật Việt Nam khi lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về hoạt động NQTM trong một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao. Theo đó: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: - Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; - Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh2”. Định nghĩa của nhượng quyền thương mại tại Việt Nam được xây dựng theo cách mô tả và về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế, trong đó kết hợp các yếu tố của thương hiệu, hệ thống hoặc kiểm soát. Tuy nhiên, khái niệm này chưa làm rõ nghĩa vụ tài chính (nghĩa vụ thanh toán phí nhượng quyền) giữa các bên. Nhượng quyền thương mại là một loại hình hoạt động thương mại, có sự trao đổi ngang bằng giữa các bên tham gia quan hệ. Một mặt, pháp luật Việt Nam quy định khá nhiều các quyền, nghĩa vụ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền, mặt khác lại quên đi nghĩa vụ cơ bản nhất của bên nhận quyền đối với bên nhượng quyền trong quan hệ NQTM đó là trả phí nhượng quyền. Đây được đánh giá là một trong những thiếu sót của pháp luật về NQTM và cần phải được bổ sung khi ban hành quy định Luật thương mại mới. Bên cạnh đó, Luật thương mại năm 2005 và Nghị định số 35/2006/NĐ-CP có cùng một phương pháp khi quy định về “quyền thương mại”, đó là phương pháp liệt kê. Nghị đinh số 35/2006/NĐ-CP quy định quyền thương mại chỉ bao gồm các hoạt động nhượng quyền thương mại chung, nhượng quyền thương mại thứ cấp và các hợp đồng phát triển hoạt động nhượng quyền theo khu vực. Định nghĩa của "nhượng quyền thương mại" bao gồm: (i) Quyền được Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do Bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của Bên 2 Điều 284 Luật Thương mại 2005. 256
- nhượng quyền; (ii) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung; (iii) Quyền được Bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho Bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung; (iv) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền thương mại được bên nhượng quyền chuyển giao cho bên nhận quyền phong phú và đa dạng hơn rất nhiều. Việc quy định “cứng” các quyền và phát sinh thêm các khác niệm “quyền thương mại chung”, “hợp đồng phát triển quyền thương mại” là không cần thiết và gây khó khăn khi các bên tiến hành đàm phán hợp đồng NQTM. Ba là, điều kiện về bên nhượng quyền và bên nhận quyền còn chưa chặt chẽ Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại có tính chất tương đối phức tạp và đặc biệt nên không phải bất kỳ chủ thể nào cũng có thể tham gia vào quan hệ này. Theo quy định tại Nghị định 35/2006/NĐ-CP và Luật thương mại (2005), bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều phải là thương nhân, ở đây có thể hiểu bao gồm: doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã. Tại thời điểm năm 2005, việc không giới hạn mô hình kinh doanh cho bên nhượng quyền và bên nhận quyền là hợp lý vì NQTM đang là hoạt động còn khá mới mẻ và pháp luật muốn khuyến khích các chủ thể kinh doanh theo phương thức NQTM. Bên cạnh đó, quy định này cũng tạo cơ hội cho các thương nhân có quy mô nhỏ ở Việt Nam có cơ hội tham gia vào hệ thống nhượng quyền từ các thương hiệu nước ngoài. Tuy nhiên, đối với với bên nhận quyền, việc cho phép hộ kinh doanh – vốn là một mô hình kinh doanh quy mô nhỏ đã tạo ra nhiều rủi ro cho hệ thống nhượng quyền. Bài học từ hệ thống nhượng quyền G7 Mart của Trung Nguyên là một ví dụ điển hình. Khi muốn phát triển thương hiệu, Trung Nguyên đã sử dụng chuỗi cửa hàng phân phối bán lẻ G7 Mart để phát triển mạng lưới phân phối trên nền tảng là các cửa hàng tạp hoá sẵn có. Để trở thành thành viên của G7 Mart, các cửa hàng chỉ cần có vị trí kinh doanh thuận lợi, hợp đồng thuê nhà dài hạn trên 03 năm… là có thể gia nhập vào chuỗi cửa hàng bán lẻ. Do đó, chỉ trong thời gian ngắn, chuỗi cửa hàng G7 đã lên tới hàng nghìn cửa hàng. Tuy nhiên, do số lượng cơ sở nhận quyền tăng quá nhiều, công ty cổ phần Trung Nguyên không thể kiểm soát được, thêm vào đó, quy mô mỗi cửa hàng lại khác nhau và trình độ của chủ cửa hàng chưa đáp ứng được nên chuỗi cửa hàng G7 đã thất bại sau thời gian hoạt động không bao lâu. Với thương vụ này, Trung Nguyên đã rút kinh nghiệm và với hoạt động nhượng quyền quán cafe sau này, công ty đã đưa ra rất nhiều điều kiện về tài chính, kinh nghiệm và cơ sở đối với bên nhận quyền. 257
- Hiện nay khi trình độ của thương nhân đã phát triển đáng kể và hoạt động NQTM đã dần trở thành hoạt động quen thuộc trong nền kinh tế thì đã đến lúc, yêu cầu về mô hình hoạt động của các chủ thể trong quan hệ NQTM cần được nâng cao. Khi so sánh với pháp luật của một số quốc gia khác thì pháp luật nhượng quyền thương mại có yêu cầu cao hơn về hình thức tồn tại của các bên trong nhượng quyền thương mại phải là doanh nghiệp, mọi hình thức tồn tại khác đều không được chấp nhận. Cụ thể, theo pháp luật về NQTM của Trung Quốc, Điều 7, Các biện pháp điều chỉnh hoạt động NQTM Trung Quốc (2005) quy định: Bên nhượng quyền phải có các tiêu chuẩn sau: “Là doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật ….” Khoản 1 Điều 8, Các biện pháp điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại (2005) quy định: “Bên nhận quyền phải có các tiêu chuẩn: 1. Là doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế khác được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật3” Như vậy, pháp luật Trung quốc có yêu cầu khắt khe hơn pháp luật Việt Nam đối với các chủ thể trong quan hệ NQTM. Doanh nghiệp là một loại thương nhân có quy mô tương đối lớn, có hoạt động thương mại chuyên nghiệp và tính chất hiện đại hơn các mô hình thương nhân khác nên khi tham gia vào hệ thống NQTM thì khả năng thành công cũng cao hơn. Bốn là, quyền và nghĩa vụ các bên còn nhiều mâu thuẫn và chưa hợp lý Thứ nhất, về nghĩa vụ cung cấp tài liệu hướng dẫn của bên nhượng quyền Có thể nói, việc cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền cho các bên dự định nhượng quyền là rất quan trọng, bởi đây là cơ sở để bên nhận quyền quyết định có đồng ý nhận nhượng quyền hay không. Do đó, trong pháp luật quốc tế, nghĩa vụ cung cấp thông tin là việc làm bắt buộc của thương nhân nhượng quyền. Tại Bỉ, Luật quy định việc cung cấp thông tin trước khi ký hợp đồng liên quan đến các điều kiện để thiết lập mối quan hệ kinh doanh thương mại (Luật ngày 19/12/2005) quy định về các thông tin mà bên nhượng quyền cần phải cung cấp cho các bên nhận nhượng quyền ít nhất 1 3 Võ Thị Huyền My, luận văn “Pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới góc độ Việt Nam và tương quan so sánh với pháp luật một số quôc gia trên thế giới”, 2013 258
- tháng trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền. Luật cũng yêu cầu phải cung cấp bản thảo hợp đồng và các thông tin trước khi ký kết theo một danh sách bắt buộc. Nếu bên nhượng quyền không tuân thủ những quy định này của Luật thì hoạt động nhượng quyền sẽ bị vô hiệu quá trong vòng 2 năm kể từ khi hợp đồng được ký kết4. Tuy nhiên, Điều 287 Luật thương mại năm 2005 quy định các bên “có thỏa thuận khác”. Điều này có thể hiểu, bên nhượng quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện nghĩa vụ này. Nhìn từ góc độ của bên nhượng quyền, nếu được lựa chọn thì họ có thể không cung cấp thông tin hoặc thông tin cung cấp không đầy đủ để bên nhận quyền không đánh giá được chính xác tình hình. Như vậy, bên nhận quyền vốn là bên yếu thế hơn trong hoạt động NQTM thì càng trở lại bị động. Thứ hai, tồn tại mâu thuẫn giữa khoản 2 Điều 284 và khoản 2 Điều 287 Luật thương mại (2005) về hành vi kiểm soát và trợ giúp của bên nhượng quyền Theo điều 284 Luật thương mại (2005), bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Tuy nhiên Điều 287 lại quy định đây là nghĩa vụ của thương nhân nhận quyền “Đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho thương nhân nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại”. Sự không thống nhất này của Luật thương mại đã tạo cơ hội cho bên nhượng quyền từ chối thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ việc đào tạo, giúp đỡ chuyên môn cho bên nhận quyền. Không chỉ dừng lại ở đó, quy định không rõ ràng như này sẽ khiến các bên gặp khó khăn khi áp dụng cơ sở pháp lý để xác định hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Mặt khác, việc trợ giúp, đào tạo chuyên môn là hoạt động bắt buộc để bên nhận quyền có thể nắm bắt được công việc kinh doanh, đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của cả hệ thống NQTM. Đối với các quốc gia phát triển, họ coi việc đào tạo không chỉ cần thiết ở giai đoạn đầu mà còn là nghĩa vụ được lặp lại trong cả giai đoạn sau để đảm bảo những yêu cầu về tính đồng bộ của hệ thống NQTM. Do đó, việc Luật thương mại (2005) coi đây là quyền của bên nhượng quyền, có thể thực hiện hoặc không là quy định chưa thực sự hợp lý. Thứ ba, tồn tại mâu thuẫn giữa Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 35/2006/NĐ- CP và khoản 7 Điều 289 Luật thương mại (2005) về hoạt động nhượng quyền thứ cấp Về việc nhượng quyền lại cho bên thứ ba hay còn được gọi là nhượng quyền thứ cấp, Luật thương mại yêu cầu bên nhận quyền không được nhượng quyền lại trong 4 Báo cáo rà soát quy định của Luật pháp Việt Nam về nhượng quyền thương mại, ICB - 14 259
- trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền. Tuy nhiên Nghị định số 35/2006/NĐ-CP lại cho phép bên nhận quyền được chuyển giao quyền thương mại ngay cả khi không có xác nhận của bên nhượng quyền. Cụ thể, bên nhận quyền phải gửi yêu cầu bằng văn bản về việc chuyển giao quyền thương mại cho bên nhượng quyền trực tiếp, trong thời hạn 15 ngày, nếu bên nhượng quyền trực tiếp không có văn bản trả lời thì được coi là chấp thuận việc chuyển giao quyền thương mại của bên nhận quyền5. Quy định này có thể hiểu, dù cho lý do là gì và hoàn cảnh như thế nào thì sự im lặng của bên nhượng quyền mặc định được hiểu là sự đồng ý. Đây là một quy định không hợp lý bởi bên nhượng quyền mới thực sự là người chủ sở hữu thương hiệu và họ cần phải kiểm soát quá trình chuyển giao cũng như đối tác nhận nhượng quyền lại để đảm bảo sự an toàn cho cả hệ thống NQTM. Nên dù trong hoàn cảnh nào, sự đồng ý bằng văn bản của bên nhượng quyền mới là điều kiện cần thiết để bên nhận quyền sơ cấp nhượng quyền lại cho bên nhận quyền thứ cấp. Như vậy, sự mâu thuẫn trong các văn bản luật về nhượng quyền thương mại đang tồn tại và điều này cần phải được khắc phục để đảm bảo có hành lang pháp lý thống nhất và minh bạch. 2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về NQTM theo hướng thống nhất và phân chia nhiệm vụ rõ ràng Hiện nay trên thế giới có hai trường phái về xây dựng pháp luật NQTM: có một đạo luật cụ thể quy định về NQTM hoặc quy định pháp luật tồn tại ở nhiều đạo luật khác nhau. Rất ít các quốc gia lựa chọn phương án xây dựng luật riêng điều chỉnh về nhượng quyền thương mại bởi bản chất đây vẫn là một hoạt động thương mại của thương nhân. Theo như hệ thống pháp luật hiện hành, nhượng quyền thương mại đang được điều chỉnh bởi mỗi luật chuyên ngành. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được quy định trong Luật thương mại, các vấn đề liên quan đến đối tượng nhượng quyền được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ, hành vi kiểm soát của bên nhượng quyền được điều chỉnh bởi Luật cạnh tranh. Nếu tiếp tục giữ nguyên tinh thần như vậy thì cần có hoạt động rà soát trên diện rộng để đảm bảo tính thống nhất giữa các đạo luật. Bên cạnh đó, cần phải đặt việc hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới từ đó tạo ra hành lang pháp lý thống nhất. Có 5 Khoản 2 Điều 15 Nghị định 35/2006/NĐ- CP 260
- như vậy thì môi trường kinh doanh tại Việt Nam mới thực sự thuận lợi và phù hợp với các cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư. Hai là, xây dựng khái niệm mới về NQTM Pháp luật về NQTM cần có một khái niệm hoàn chỉnh hơn về NQTM và thể hiện được bản chất của hoạt động này, trong đó thể hiện được: (ii) các bên trong quan hệ độc lập với nhau về pháp lý, tài chính và kinh doanh; (ii) đối tượng của NQTM là một tập hợp (không giới hạn) tài sản thương mại vô hình thuộc sở hữu hợp pháp của bên nhượng quyền, gọi là quyền thương mại; (iii) bên nhượng quyền chuyển giao và kiểm soát việc sử dụng quyền thương mại của bên nhận quyền và nhận được phí nhượng quyền Với đề xuất này, khái niệm NQTM sẽ được tiếp cận theo hướng tương đối rộng, coi NQTM là việc một bên độc lập (bên nhận quyền) phân phối, kinh doanh sản phẩm dịch vụ dưới nhãn hiệu và các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ khác do một bên khác sở hữu (bên nhượng quyền); để làm được điều này bên nhận quyền phải trả một khoản phí và chấp nhận sự kiểm soát từ bên nhượng quyền. Khái niệm này không nhất thiết phải chỉ rõ đối tượng của NQTM (nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, hay khẩu hiệu kinh doanh…) là những yếu tố như cách làm của Luật Thương mại năm 2005. Thực tế hoạt động nhượng quyền đã chứng minh, việc phân phối kinh doanh có thể chỉ gắn với một vài yếu tố nhất định như tên thương mại (nhượng quyền G7 Mart) hay có sự kết hợp của nhiều yếu tố nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh (nhượng quyền của KFC, Lotterial). Do đó, đối với khái niệm NQTM, Luật thương mại chỉ cần chú trọng vào bản chất của nhượng quyền là quan hệ song vụ gồm hai hoạt động chính chuyển giao - kiểm soát và trả phí nhượng quyền. Còn đối tượng được chuyển giao giữa các chủ thể sẽ phụ thuộc vào nhu cầu và sự thỏa thuận của các bên. Ba là, hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ NQTM Thứ nhất, cần xây dựng một điều luật riêng về nghĩa vụ cung cấp bản giới thiệu về NQTM 261
- Hiện nay, bản giới thiệu về NQTM tồn tại với tư cách là một hoạt động trong nghĩa vụ cung cấp thông tin và nghĩa vụ này không bắt buộc phải thực hiện. Tuy nhiên, xét từ vai trò của văn bản này thì quan điểm cá nhân của tác giả cho rằng cần coi đây là một nghĩa vụ bắt buộc và thể hiện sự quan trọng của nghĩa vụ này bằng việc quy định tại một điều luật độc lập. Khi xây dựng điều luật về nghĩa vụ cung cấp bản giới thiệu về NQTM cần chú ý các vấn đề sau: - Nội dung của bản mô tả: đảm bảo đủ yêu cầu cung cấp thông tin chính xác liên quan đến hoạt động NQTM và quảng bá hình ảnh của bên nhượng quyền. Quy định hiện nay về bản mô tả nặng về quản lý hành chính mà không thể hiện rõ rệt được thông tin cơ bản của bên nhượng quyền. Do đó, nội dung của bản mô tả nên được yêu cầu theo hướng đảm bảo phải có nội dung sau: (i) Tình trạng của bên nhượng quyền và hệ thống NQTM, (ii) Khả năng tài chính của bên nhượng quyền, (iii) Phí mua và vận hành một cửa hàng được nhượng quyền, (iv) Điều kiện và quy định điều chỉnh mối quan hệ NQTM. - Cam kết về tính trung thực: chế tài sẽ được áp dụng nếu các thông tin trên là không đúng sự thật - Nghĩa vụ của bên nhận quyền: không được cung cấp thông tin này cho bên thứ ba nếu không được sự đồng ý của bên nhượng quyền. Thứ hai, rà soát kỹ thuật để đảm bảo quy định về các quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền không còn sự mâu thuẫn trong Luật thương mại Về quyền đào tạo và trợ giúp, Luật thương mại cần thống nhất coi đây là nghĩa vụ của bên nhượng quyền trong hoạt động NQTM để phù hợp với thông lệ quốc tế. Như đã phân tích ở trên, hoạt động đào tạo và trợ giúp đang được Luật thương mại quy định vừa quyền vừa là nghĩa vụ. Điều này đã tạo ra cơ hội cho bên nhượng quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ đào tạo và trợ giúp cho bên nhận quyền, hoặc thực hiện không đầy đủ dẫn đến bên nhận quyền không nắm bắt được kiến thức chuyên môn để vận hành hệ thống kinh doanh. Trong khi đó, bên nhận quyền đã phải trả một khoản phí không nhỏ để nhận lại quyền được đào tạo từ bên nhượng quyền. Vì vậy, hoạt động đào tạo và trợ giúp cần được Luật Thương mại thống nhất quy định trên tinh thần đây là nghĩa vụ bắt buộc của bên nhượng quyền theo hướng: (i) làm rõ những nội dung cần phải được đào 262
- tạo/trợ giúp kỹ thuật/hỗ trợ kỹ thuật, (ii) bên nhượng quyền không được lợi dụng quyền trợ giúp để can thiệp thô bạo vào hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền. Về chuyển giao quyền thương mại, cần thống nhất lại quan điểm giữa Luật thương mại và Nghị định 35/2006/NĐ-CP theo hướng cần có sự xác nhận của bên nhượng quyền, cụ thể là: (i) Việc chuyển giao quyền thương mại cần sự đồng ý của bên nhượng quyền, nếu trong hợp đồng NQTM được ký giữa bên nhượng quyền sơ cấp và bên nhận quyền sơ cấp đã có thỏa thuận về chuyển giao quyền thương mại thì bên nhận quyền không cần phải xin phép bên nhượng quyền; (ii) Việc chuyển giao quyền thương mại được thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo hợp đồng NQTM đã ký. Quy định như này vừa giúp bên nhượng quyền kiểm soát được hoạt động nhượng quyền lại đồng thời cũng hạn chế sự chậm trễ xử lý thông tin của bên nhận quyền. Thứ ba, quyền kiểm soát của bên nhượng quyền cần được quy định rõ ràng hơn để đảm bảo sự công bằng giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền Về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền, pháp luật thương mại cần cụ thể hoá kiểm soát những lĩnh vực nào, giới hạn kiểm soát để hạn chế sự can thiệp sâu vào hoạt động của bên nhận quyền. Bên nhượng quyền không được phép ấn định doanh thu của bên nhận quyền, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh hoặc quản lý nhân sự của bên nhận quyền - đây đều là những giới hạn kiểm soát mà luật nên đề cập tới. Mặt khác, khi quy định cụ thể về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền thì đây cũng chính là nghĩa vụ tuân thủ sự kiểm soát của bên nhận quyền. Bên nhận quyền phải chấp hành tuân thủ những yêu cầu mang tính hệ thống để đảm bảo cả chuỗi cửa hàng nhượng quyền được đồng bộ, nhất quán. Do đó, tác giả đề xuất quy định pháp luật được xây dựng cần có các thông tin sau: - Lĩnh vực bên nhượng quyền được kiểm soát - Cho phép bên nhượng quyền chỉ được kiểm soát theo các cách mà hai bên đã thống nhất và ghi nhận trong hợp đồng NQTM - Cam kết việc kiểm soát không vi phạm quyền tự do kinh doanh của bên nhận quyền Tóm lại, sự phát triển của hoạt động NQTM là một điều tất yếu trong bối cảnh Việt Nam là môi trường đầu tư hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Để hoạt động 263
- NQTM thực sự phát huy vai trò đối với nền kinh tế cần phải có một hàng lang pháp lý rõ ràng, minh bạch và khả thi. Trong bối cảnh Luật thương mại năm 2005 cần có lộ trình để sửa đổi, một nghị định mới về NQTM là cần thiết để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các chủ thể trong quan hệ NQTM và tạo ra điều kiện thuận lợi để đón nhận cơ hội mới cho hoạt động NQTM. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo rà soát quy định của Luật pháp Việt Nam về nhượng quyền thương mại, ICB-14 2. Võ Thị Huyền My, luận văn “Pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới góc độ Việt Nam và tương quan so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới”, 2013 3. Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành 264
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chủ thể hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản theo pháp luật Việt Nam
11 p | 61 | 14
-
Hoàn thiện pháp luật về chủ thể của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở
7 p | 77 | 9
-
Hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị vô hiệu - Bất cập và hướng hoàn thiện (LS. Vũ Văn Đoàn)
12 p | 27 | 8
-
Thực tiễn áp dụng pháp luật về tranh chấp “bán đất không bán nhà” qua một số vụ án (LS. Vũ Văn Đoàn)
14 p | 13 | 7
-
Giải pháp hoàn thiện công tác chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp 4.0
11 p | 17 | 7
-
Hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng dự án bất động sản
10 p | 44 | 7
-
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện thủ tục hành chính trong quản lý và chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình cá nhân trong Luật đất đai năm 2003
9 p | 123 | 6
-
Khó khăn, vướng mắc qua việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và kiến nghị hoàn thiện
7 p | 88 | 6
-
Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư
9 p | 44 | 6
-
Hoàn thiện Dự thảo Luật Đất đai về chuyển đổi, chuyển nhượng, ngân hàng đất nông nghiệp
15 p | 6 | 5
-
Hoàn thiện luật sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thị trường chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu
8 p | 38 | 5
-
Bất cập trong quy định pháp luật về điều kiện thành lập văn phòng công chứng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
14 p | 31 | 5
-
Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm an toàn pháp lý đối với hợp đồng mua bán, chuyển nhượng bất động sản
15 p | 8 | 4
-
Nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng trong nhượng quyền thương mại
14 p | 38 | 3
-
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chuyển đổi, chuyển nhượng đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay
7 p | 24 | 3
-
Tiếp tục hoàn thiện Luật Kinh doanh bảo hiểm
4 p | 26 | 2
-
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp: Số 22/2021
66 p | 39 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn