intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

KẾ HOẠCH “THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT”

Chia sẻ: Thao Luu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

710
lượt xem
92
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công tác xã hội là một ngành khoa học tương đối non trẻ trên thế giới, tính chất chuyên nghiệp mới được hình thành hơn 100 năm nay măc dù có nguồn gốc hình thành từ xa xưa. Tuy vậy ngày nay trong xã hội hiện đại Công tác xã hội đã và đang không ngừng khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của mình trong xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: KẾ HOẠCH “THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT”

  1. DANH SÁCH NHÓM CÙNG ĐI THỰC TẾ LỜI NÓI ĐẦU Công tác xã hội là một ngành khoa học tương đối non trẻ trên thế giới, tính chất chuyên nghiệp mới được hình thành hơn 100 năm nay măc dù có nguồn gốc hình thành từ xa xưa. Tuy vậy ngày nay trong xã hội hiện đại Công tác xã hội đã và đang không ngừng khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của mình trong xã hội.
  2. Công tác xã hội là sự vận dụng các lý thuyết khoa học về hành vi con người và hệ thống xã hội nhằm xây dựng và thúc đẩy sự thay đổi liên quan đến vi trí, địa vị, vai trò của các các nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế tiến tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đối tượng phục vụ - thân chủ của Công tác xã hội là những nhóm, cá nhân yếu thế được nhân viên Công tác xã hội bằng chuyên môn nghiệp vụ của mình sẽ giúp thân chủ phục hồi các chức năng, khơi dậy các khả năng tiềm ẩn của bản thân thân chủ để họ tự giải quyết vấn đề gặp phải. Nhân viên Công tác xã hội không “ làm hộ, làm cho, làm thay “ các thân chủ. Như vậy trên cơ sở đó ta có thể nhận định rằng: “Công tác xã hội tuy là một ngành khoa hoc mới, một nghề mới nhưng là một ngành, một nghề có tính nhân văn sâu sắc.” Chúng em - những sinh viên năm thứ ba bộ môn Công tác xã hội trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh được trang bị những lý thuyết, kỹ năng, phương pháp thực hành Công tác xã hội và hơn hết được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của TS. Đỗ Hạnh Nga. Chúng em đã quyết định tổ chức chuyến đi thực tế tại Cơ sở nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em khuyết tật Thiên Phước để có thể “Học đi đôi với hành”, những lý thuyết, phương pháp, kỹ năng đã được học của ngành Công tác xã hội. Chúng em xin chân thành cảm ơn Ban quản lý và các cán bộ công nhân viên của Cơ sở nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em khuyết tật Thiên Phước, địa chỉ Ấp lô 6, xã An Nhơn Tây, Củ Chi, TP HCM đã tạo điều kiện, tận tình giúp đỡ chúng em trong chuyến đi thực tế này! Chúng em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Đỗ Hạnh Nga người đã tận tình chỉ bảo, dìu dắt chúng em bước những bước đi đầu tiên trong cuộc đời làm nhân viên Công tác xã hội!
  3. PHẦN I. BẢN KẾ HOẠCH CHUYẾN ĐI THỰC TẾ VÀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐHKHXH & NV TP HCM BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC ---00--- TP. HCM, ngày 1 tháng 04 năm 2011 KẾ HOẠCH “THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT”
  4. MỤC ĐÍCH- YÊU CẦU THỰC HÀNH I. 1. MỤC ĐÍCH Tạo mối quan hệ với Cơ sở nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em khuy ết tật - Thiên Phước . Góp phần giúp đỡ các em trong việc sinh hoạt hàng ngày và giúp đỡ - các xơ chăm sóc các em Vận dụng lý thuyết vào thực tế để nâng cao kỹ năng trong Công Tác - Xã Hội với người Khuyết tật cho bản thân. 2. YÊU CẦU Sự phối hợp chặt chẽ giữa nhóm thực hành với cơ sở. - Các thành viên trong nhóm tham gia tích cực vào các bu ổi th ực hành và - các hoạt động để đạt được hiệu quả cao. ĐỐI TƯỢNG- ĐỊA ĐIỂM- THỜI GIAN- THÀNH VIÊN NHÓM II. 1. ĐỐI TƯỢNG Trẻ bị hội chứng Down, - Trẻ bại não, - Trẻ chậm phát triển trí tuệ. - 2. ĐỊA ĐIỂM THỰC TẬP: Ấp lô 6, xã An Nhơn Tây, Củ Chi, TP HCM 3. THỜI GIAN: 06/04/2011 – 27/04/2011. 4. THÀNH VIÊN NHÓM Lưu Thị Phương Thảo - Phạm Thị Tú - Trần Trang Thanh - KẾ HOẠCH CỤ THỂ VÀ PHÂN CHIA CÔNG VIỆC III.
  5. NỘI THỜI Người thực hiện STT DUN GIAN THỰ G C HÀN H Tuần Tuần Tuần Tuần 1 2 3 4 Chiề Chiề Chiề Chiề Sán Sán Sán Sán g u g u g u g u Xin giấy xác x Cả 1. nhận của nhà nhóm trường Làm quen với x Cả 2. x các xơ và các nhóm em Cả 3. Trông các em x x x x x x x X trong khu trò nhóm chơi ( cầu trượt, ngồi ngựa quay, thú nhún …) Cùng các xơ x Cả 4. x x x x x x x cho các em ăn nhóm bữa trưa và tráng miệng. Quét dọn, lau x Cả 5. x x x x x x x vệ sinh nhóm Dạy các em x Cả 6. x x x x x x x vẫn còn ý thức nhóm được hành động của mình
  6. phụ các xơ thu dọn khăn ăn. Cả 7. Cho các em x x x x x x x x ngủ trưa. nhóm Cả 8. Cho các em ăn x x x x x x x x xế phụ các xơ nhóm Hướng dẫn x Cả 9. x x x x x x x các em vệ sinh nhóm cá nhân. PHẦN II. NỘI DUNG II.1.Tổng quan người khuyết tật
  7. Ở Việt nam có câu ‘giàu hai con mắt, khó hai bàn tay’ để nói đến sự quý giá của những bộ phận này trên cơ thể một con người trong cuộc sống hàng ngày. Nói rộng hơn nữa, những khuyết tật về mặt cơ thể hay tinh thần mà một con người phải gánh chịu là cản trở rất lớn đối với họ trong cuộc sống. Những con số thống kê gần đây ở Việt nam cho thấy có từ khoảng 5 đến 12 triệu người khuyết tật chiếm khoảng 15% dân số. Một tỷ lệ lớn nếu so với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Họ đang sống ra sao? Tâm tư nguyện vọng của họ là gì? Với dân số khoảng 85 triệu người, thì có đến gần 12 triệu người khuyết tật. Họ là những người vốn đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập và làm việc do những khiếm khuyết về cơ thể và tinh thần, cộng thêm vào đó là những kỳ thị của xã hội, và những thiếu thốn về trợ giúp từ phía chính phủ. Trong tổng số 32 triệu trẻ em ở Việt Nam, trẻ khuyết tật có khoảng 1,1 triệu em, chiếm khoảng 3,4% so với trẻ em cùng độ tuổi. Hiện nay mới chỉ có khoảng gần 269 nghìn em, chiếm 24,22% số trẻ khuyết tật được đi học ở các loại hình trường lớp.Trẻ khuyết tật là đối tượng thiệt thòi nhất trong số những trẻ em thiệt thòi. Trẻ khuyết tật thường được phân thành các nhóm sau: trẻ
  8. khiếm thính, trẻ khiếm thị, trẻ khó khăn về học, trẻ khó khăn về vận động, trẻ khó khăn về ngôn ngữ, trẻ đa tật và trẻ có các dạng khuyết tật khác. Dưới góc độ giáo dục, trẻ khuyết tật được hiểu là trẻ có khiếm khuyết về cấu trúc, suy giảm về chức năng cơ thể dẫn đến gặp khó khăn nhất định trong hoạt động cá nhân, tập thể, xã hội và học tập theo chương trình giáo dục phổ thông (chưa được một nửa chỉ số 50% mà Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 đề ra cho năm 2005). Như vậy, hiện nay vẫn có hơn 800 nghìn trẻ khuyết tật chưa được đến trường. Trong số trẻ khuyết tật đã đi học có tới 32,99% số trẻ bỏ học. Trong cả nước còn khoảng 2,57% số trẻ em chưa có cơ hội đến trường vì lý do khuyết tật. Nếu tình trạng này kéo dài thì chỉ 99% số trẻ em trong độ tuổi đến trường vào năm 2010 (Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010) khó có thể đạt được. Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống. Giáo dục hòa nhập là "hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội". Hòa nhập không có nghĩa là "xếp chỗ" cho trẻ khuyết tật trong trường lớp phổ thông và không phải tất cả mọi trẻ đều đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong mục tiêu giáo dục. Giáo dục hòa nhập đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để mọi học sinh phát triển hết khả năng của mình. Sự hỗ trợ cần thiết đó được thể hiện trong việc điều chỉnh chương trình, các đồ dùng dạy học, dụng cụ hỗ trợ đặc biệt, các kỹ năng giảng dạy đặc thù...Trong những năm qua, cùng với sự phát triển giáo dục nói chung, giáo dục trẻ khuyết tật đã đạt được những thành quả quan trọng về nhiều mặt. Hệ thống quản lý giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành ở 64 tỉnh, thành phố và bước đầu đi vào hoạt động.
  9. Mạng lưới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên cho giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành và đang phát triển. Các chương trình giáo dục trẻ khuyết tật được xây dựng và triển khai thực hiện. Phương thức giáo dục hòa nhập phù hợp hoàn cảnh nước ta đang ngày càng được áp dụng rộng rãi. Số trẻ khuyết tật đi học ngày càng tăng. Đến nay có hơn 269.000 trẻ khuyết tật được đi học trong các trường, lớp hòa nhập và 7000 trẻ trong các trường chuyên biệt. Giáo dục hòa nhập cũng đứng trước những thời cơ lớn. Tuy nhiên, thực trạng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế. Cộng đồng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong việc giáo dục trẻ khuyết tật và về khả năng phát triển của trẻ khuyết tật khi được giáo dục, trong đó có cả cha mẹ, cán bộ giáo dục và giáo viên của các trường.Cơ sở vật chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn kém về chất lượng và thiếu về số lượng, chủng loại. Các cơ sở giáo dục trẻ khuyết tật chưa có những trang thiết bị tối thiểu cần thiết để dạy trẻ khuyết tật như sách giáo khoa và đồ dùng dạy học đặc thù cho từng loại trẻ khuyết tật.Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy trẻ khuyết tật chưa được đào tạo, bồi dưỡng đủ về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu đi học ngày càng tăng của trẻ khuyết tật. Hầu hết đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp chưa được bồi dưỡng kiến thức về giáo dục trẻ khuyết tật và quản lý chuyên môn trong trường trẻ khuyết tật học hòa nhập. Số giáo viên được đào tạo chính quy và tại chức về giáo dục trẻ khuyết tật, trình độ đại học mới có 339 người và trình độ cao đẳng là 688 người. Số lượng này không đáp ứng đủ nhu cầu của gần 35.000 trường học từ mầm non đến trung học cơ sở trong cả nước mà mới chỉ đáp ứng được ở những nơi có chương trình dự án. Vì vậy nên hơn 800.000 trẻ khuyết tật chưa được đến trường. Đặc biệt ở những vùng nông thôn, vùng xa, vùng sâu hầu hết trẻ khuyết tật không được đi học. Năng lực đào tạo giáo viên dạy trẻ khuyết tật của các trường sư phạm còn rất thấp hoặc không có. Cả nước mới
  10. có 7 cơ sở đào tạo có khoa, tổ giáo dục đặc biệt. Vì vậy, số giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng quá ít không thể đáp ứng được việc triển khai giáo dục trẻ khuyết tật ở quy mô lớn trong cả nước.Ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục, trẻ khuyết tật chưa chính thức và còn quá ít. Nguồn ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, mặc dù được tăng liên tục trong những năm qua, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có mục chi riêng. Vì vậy đầu tư cho đào tạo, cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, đồ dùng dạy học đặc thù, đáp ứng nhu cầu giáo dục trẻ khuyết tật hầu như chưa có. Giáo dục trẻ khuyết tật có nguy cơ không thể duy trì và phát triển ổn định trong giai đoạn tới. Cơ chế chính sách về giáo dục trẻ khuyết tật chưa đủ để bảo đảm cho việc xây dựng, quản lý và phát triển hệ thống giáo dục trẻ khuyết tật. Các dịch vụ hỗ trợ đồng bộ chưa bảo đảm những điều kiện phù hợp sự tham gia của trẻ khuyết tật trong hệ thống giáo dục quốc dân; công tác quản lý giáo dục trẻ khuyết tật chưa hợp lý và kém hiệu quả, chưa hình thành được các mối quan hệ phối hợp hữu cơ chặt chẽ, thiếu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương. Công tác nghiên cứu, giáo dục trẻ khuyết tật chưa được đầu tư về nhân lực và kinh phí. Những vấn đề về thực hiện và lý luận chưa được nghiên cứu, tổng kết, đánh giá một cách đúng mức. Bất cập này đã dẫn đến mâu thuẫn. Mục tiêu vĩ mô, chính sách quốc gia là đúng đắn, hợp lòng dân, hợp xu thế thời đại, nhưng không có nguồn nhân lực và giải
  11. pháp triển khai thực hiện.Thực hiện Quyền về cơ hội giáo dục trẻ khuyết tật, theo Chỉ thị số 01-2006/CT-TTg, ngày 6-1-2006 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao nhiệm vụ: biên soạn và trình Thủ tướng Chính phủ Chiến lược và kế hoạch hành động giáo dục trẻ khuyết tật giai đoạn 2006 -2010 và định hướng đến năm 2015. Mục tiêu của chiến lược giáo dục trẻ khuyết tật là đến năm 2015 hầu hết trẻ khuyết tật Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng và được trợ giúp để phát triển tối đa tiềm năng, tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội, trong đó mục tiêu cụ thể là đến năm 2010 bảo đảm cho 70% trẻ khuyết tật được đi học. Để thực hiện được những mục tiêu đó, giáo dục trẻ khuyết tật cần có những giải pháp lớn đó là xây dựng hệ thống chính sách quốc gia về giáo dục trẻ khuyết tật. Phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục trẻ khuyết tật. Phát triển hệ thống hỗ trợ giáo dục trẻ khuyết tật. Nâng cao năng lực quản lý giáo dục trẻ khuyết tật và tăng cường sự phối hợp liên ngành trong chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật. II.2. Tổng quan cơ sở Cơ sở nuôi dưỡng và bảo trợ trẻ em khuyết tật Thiên Phước là đơn vị phi chính phủ tự trang trải kinh phí hoạt động, có tư cách pháp nhân. Cơ sở Thiên Phước trực thuộc Uỷ ban Đoàn kết Công giáo, chịu sựu quản lý nhà nước, trực tiếp bởi ủy ban nhân dân Huyện Củ Chi và sở Lao Động Thương Binh và Xã Hội hướng dẫn về nghiệp vụ ( Quyết định thành lập số 8128/QĐ –UB – VX ngày 30/12/1999). Với chức năng và nhiệm vụ tiếp nhận, nuôi dưỡng, chữa trị, phục hồi chức năng và tổ chức học tập cho trẻ em khuyết tật, bại não bị nhiễm chất độc hóa học, mồ côi hoặc cha mẹ quá nghèo.
  12. Kinh phí: do cơ sở tự vận động và cơ sở được phép tiếp nhận sự giúp đỡ về tài chính của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo đúng quy định của Pháp Luật. Sau hơn 1 năm xây dựng, cơ sở Thiên Phước đã có một ngôi nhà khang trang với diện tích đủ nuôi 100 trẻ. Ngày 5/8/2001 cơ sở chính thức nhận 8 cháu vào nuôi dưỡng. Đối tượng: các em bị bệnh hiểm nghèo từ 3 tuổi đến 12 tuổi do bị nhiễm chất độc da cam, bị bại não, không cử động được, bị viêm phổi, sương thủy tinh, thủy úng nước, mồi côi hoặc cha mẹ quá nghèo. Điều kiện được cơ sở tiếp nhận: các em có hoàn cảng trên được cơ sở tiếp nhận, gia đình nghèo được địa phương xác nhận, trẻ nhỏ bị bỏ rơi các nơi đem về nuôi. Cơ sở nuôi đến 12 tuổi, em nào có goia đình thì trả lại cho gia đình, còn em nào mồi côi thì nuôi cho đến khi chết. Thống kê sơ bộ về các căn bệnh mà các em mắc phải: bị bại liệt cơ thể, một số bị bệnh về não, thần kinh, bệnh down, đời sống thực vật, dị tật bẩm sinh, 1/3 trẻ mắc chứng xương giòn... Hiện mái ấm đang nuôi dưỡng 72 em, bao gồm 18 em tuổi từ 1 đến 3 tuổi và 30 em khoảng 5 đến 9 tuổi, số còn lại là các em từ 9 đến 11 tuổi.Số lượng các cô bảo mẫu là 22 cô trong đó có 12 người là sơ, 10 người dân ở gần cơ sở xin vào làm. Với số các cô bảo mẫu như vậy thì trung bình 1 cô sẽ phải trăm sóc cho từ 2 đến 4 cháu. Các cô phải chăm sóc các em cả ngày lẫn đêm, có cháu mỗi lần ăn phải cạy miệng mới đút được cháo, có
  13. cháu vừa bị khiếm thị vừa bi khiếm thính, có cháu không có hậu môn… nên việc chữa chị và phục hồi chức năng là rất hạn chế và đậy là một quá trình lâu dài và tốn kém nhưng khả năng phục hồi và hòa nhập cộng đồng rất ít. Theo lịch sinh hoạt hằng ngày của các cháu thì 6h thức dậy, sau đó được các sơ tắm rửa, cho ăn sáng. Những cháu nào còn tư duy được đôi chút như hai anh em Bình - Thuận (tên thật là Cong - Quẹo có lẽ vì tay chân của chúng giống như những thanh sắt ngắn ngủn, dẹp lép và được bẻ cong một cách kỳ lạ), Đủ (mù cả hai mắt), Ở (không có mắt)… thì được các sơ chữa trị bằng vật lý trị liệu hay dạy cho chúng cách tự chăm sóc bản thân hằng ngày như mặc áo quần, đánh răng, rửa mặt... Tiếp đến là ăn trưa, nghỉ trưa, ăn xế… “Thời khoá biểu hằng ngày của các cháu cứ hoài như vậy thôi chứ không có thay đổi gì đâu, vì phần lớn chúng chẳng biết gì, chỉ ăn rồi nằm…” - sơ Marie Dương Thị Sướng cho biết thêm. Đứng đầu cơ sở nhân đạo này là Linh mục Phan Khắc Từ. Một người đàn ông khả kính, từ gương mặt, lời nói đến cử chỉ, việc làm... đều toát lên nét nhân hậu, quả quyết. Ông kể... Việc xây dựng cơ sở này được hình thành từ năm 1999. Một vị Linh mục người Hàn Quốc, sau khi đến Việt Nam, chứng kiến nỗi đau nhân loại do chất độc màu da cam gây nên, đã tự nguyện ủng hộ kinh phí để xây dựng một cơ sở nhận nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em nạn nhân chất độc màu da cam. Tháng 8 năm 2001, sau khi xây dựng xong nhà cửa, cơ sở tiếp nhận 8 cháu đầu tiên vào nuôi dưỡng, chăm sóc. Đến năm 2002 tăng lên 22 cháu, năm 2003 có
  14. 30 cháu... và đến nay, đã có 108 cuộc đời tật nguyền non trẻ được đón nhận đến đây. Gần 40 thầy, cô bảo mẫu và cán bộ, nhân viên trong 2 cơ sở này là những người cha, người mẹ của các cháu, những người đã sinh ra các cháu lần thứ hai. Và đương nhiên, lần sinh này các cháu được trở về với cuộc sống làm người một cách cao nhất trong những gì có thể. 108 cháu là 108 mảnh đời, 108 số phận. Chăm sóc đứa trẻ bình thường đã khó, chăm sóc những đứa trẻ tật nguyền, một cô nuôi dưỡng 3-4 cháu là một công việc vô cùng nan giải. Các cháu đều bị các chứng bệnh như: Bại não, tâm thần, gồng cứng, hội chứng down, não úng thủy, dị tật... một số cháu bị mù lòa, câm điếc, tê liệt, mọi sinh hoạt phải thực hiện một chỗ. Không thất vọng, mặc cảm về hoàn cảnh tật nguyền của các cháu, những người mẹ đảm nhiệm công việc trực tiếp chăm sóc các cháu là các nữ tu và những phụ nữ giàu lòng nhân ái. Những ngày đầu ở Thiên Phước, việc nuôi dưỡng và chăm sóc các em rất khó khăn, thiếu thốn đủ điều, nhìn các em ai cũng chạnh lòng. Vậy mà giờ đây khi quay lại Thiên Phước, ai cũng ngỡ ngàng trước sự đổi thay của nó. Các em
  15. được nuôi dưỡng và chăm sóc trong một môi trường tuy chưa phải là lý tưởng nhưng so với các nơi khác thì Thiên phước là số một. Các em sống trong một không gian sạch, đẹp, mọi thứ đi dần vào nề nếp. Những người chăm sóc nuôi dưỡng các em đều có tấm lòng vị tha, giống như nhũng người mẹ. Người thân của các em mỗi lần đến đây đều thực sự hài lòng. Các mạnh thường quân rất yên tâm khi đồng tiền, bát gạo của mình được bỏ vào đúng nơi, đúng chỗ. Song Thiên Phước còn đó những khó khăn. Toàn bộ kinh phí để chăm sóc và nuôi dưỡng các em đều dựa vào lòng hảo tâm của mọi người. Bình quân mỗi tháng cơ sở cần tối thiểu khoảng vài chục triệu triệu đồng, chỉ riêng tiền mua tả lót cho các em xấp xỉ hai mươi triệu đồng. Toàn bộ các nhân viên tại cơ sở hoạt động rất tích cực. Ban lãnh đạo Thiên Phước đang ấp ủ những hoài bão lớn. Họ muốn việc nuôi dưỡng chăm sóc cho các em ngày một hoàn thiện, làm vơi đi những nỗi đau cho các em. Họ muốn cơ sở Thiên Phước ngày một văn minh hiện đại. Một kế hoạch mang tính nhân văn đang thai nghén. Đó là kế hoạch chăm sóc tại cộng đồng, bởi số trẻ em khuyết tật và nhiễm chất độc da cam trong xã hội còn quá nhiều mà các trung tâm chăm sóc nuôi dưỡng không đủ khả năng để tiếp nhận. Chủ yếu của kế hoạch là mời những chuyên viên có trình độ quốc tế huấn luyện phương pháp chăm sóc và nuôi dưỡng cho những người đang trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng các em và hàng tháng hỗ trợ kinh phí cho họ. Kế hoạch này được lãnh đạo thành phố, các ban ngành quan tâm và nhiệt tình ủng hộ. Uy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh vừa cấp bốn nghìn mét vuông đất cho cơ sở Thiên Phước tại Quận 8 để xây dựng trung tâm mới và để thực hiện hoài bão trên. Thiên Phước nung nấu một ước mơ là sớm được triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh, tạo ra một phần kinh phí nhằm ổn định việc chăm sóc và nuôi dưỡng các em và cũng để giúp cho các em khuyết tật, lớn tuổi, bước vào đời. Song, để sản xuất kinh doanh được trong hoàn cảnh hiện nay thực sự là một thách đố, cần và cần rất nhiều sự chung tay, góp sức của nhà
  16. nước và của chính quyền địa phương và của các mạnh thường quân. Các cô đã được cơ sở gửi đi đào tạo về chuyên môn y tế, kỹ năng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tật nguyền. Vừa qua, tổ chức Trẻ em bị nhiễm chất độc da cam ở Paris (Pháp) đã cử hai chuyên viên xã hội đến Thiên Phước đào tạo tại chỗ trong vòng 9 tháng cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, bảo mẫu của cơ sở. Nhìn chung tại Cơ sở nuôi dưỡng và bảo trợ trẻ em khuyết tật Thiên Phước đã đáp ứng được phần nào cho cuộc sống của các trẻ khuyết tật tại đây, góp phần làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. PHẦN III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÃ HỘI III.1. Mục tiêu đề ra
  17. Tạo mối quan hệ với Cơ sở nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em khuyết tật - Thiên Phước . Góp phần giúp đỡ các em trong việc sinh hoạt hàng ngày và giúp đỡ - các xơ chăm sóc các em Vận dụng lý thuyết vào thực tế để nâng cao kỹ năng trong Công Tác - Xã Hội với người Khuyết tật cho bản thân. III.2. Thuận lợi Được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các Cô trong trung tâm. - Được trung tâm tận tình đón tiếp. - Các em trong trung tâm ngoan và rất quý chúng em khi đến chơi với các - em . Sự nhiệt tình của chính bản thân các thành viên trong nhóm dành cho - trẻ khuyết tật. III.3. Tiếp cận và lấy thông tin từ trẻ khuyết tật 1. Cách tiếp cận. Làm quen với các em vẫn còn nhận thức và có khả năng sinh hoạt - Cùng chơi với các em - 2. Lấy thông tin thân chủ. Các chi tiết về thân chủ và các thành viên trong gia đình: 2.1. Họ tên thân chủ: Bùi Tuấn Anh Tuổi: 12 tuổi Giới tính: nam Quá trình ở tại cơ sở: 3 năm Họ và tên cha: Bùi Tuấn Hiếu Tuổi: 45 tuổi Chỗ ở hiện tại: An Nhơn Tây, Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp: nhân viên công ty mỹ phẩm Kao
  18. Họ và tên mẹ: Nguyễn Giáng Hương Tuổi: 42 tuổi Chỗ ở hiện tại: An Nhơn Tây, Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh. Chân dung gia đình 2.2. Nhà cửa, đồ đạc, hàng xóm: qua quá trình em xuống vãng gia nhà trẻ khuyết tật em thấy đây là một gia đình có mức sống tương đ ối, nhà c ửa khá cao ráo và thoáng mát, dạng nhà cấp 4, đồ đạc trong nhà đ ược sắp x ếp g ọn gang, có mối quan hệ thân mật với hàng xóm xung quanh. Tổ chức sắp xếp trong nhà: người chồng giữ kinh tế gia đình và mọi công việc 2 vợ chồng đều bàn bạc với nhau sau đó người chồng sẽ là người quy ết định. Tình trạng kinh tế: ở mức trung bình và cũng có cuộc sống khá ổn định. Thu nhập hàng tháng: 9.000.000VNĐ hàng tháng cho 2 vợ chồng, đã có nhà cửa, không phải đi thuê mướn đồ đạc gì trong nhà cả. Tiền bạc được 2 vợ chồng sử dụng khá hợp lý, với mức thu nhập trên 2 vợ chồng trang trải về tiền ăn hàng ngày, nhưng cũng không đáng bao nhiêu vì đã ăn 1 bữa cơm trong công ty rồi, và chỉ phải đóng ti ền h ọc phí , s ố ti ền d ư gi ả để dành cho con đi chữa trị bệnh. Mô tả về công việc: 2 vợ chồng làm tổ trưởng trong dây chuyền đóng hộp các sản phẩm mỹ phẩm như sữa tắm, sữa rửa mặt… công vi ệc không có gì nặng nhọc lắm chỉ hơi áp lực khi vào những tháng cuối năm, công vi ệc nhi ều và đến khuya 2 vợ chồng mới đi làm về. Hành vi sức khỏe 2.3. Các vấn đề về sức khỏe: 2 vợ chồng lấy nhau khi đã khá l ớn tu ổi và v ẫn quyết định sinh con, tiền sử bệnh tật: cả 2 vợ chồng trước khi l ấy nhau đ ề không có bệnh tật gì mãn tính. Người vợ mang thai ở độ tuổi 30 => con b ị b ệnh Down, nhưng đã phát hiện và được can thiệp sớm nên tình trạng bệnh của
  19. người con có tiến triển rất nhiều. Tại cơ sở bé Hiếu, tình trạng của bé vào loại khá so với các em khác tại cơ sở. em tự làm công việc sinh hoạt hàng ngày cho chính bản thân mình được như rửa mặt, rửa tay trước khi ăn cơm và cũng ngồi đọc Kinh được mặc dù giọng nói hơi ngọng, và bé Hi ếu còn giúp đ ỡ cho các bạn khác trong việc rửa tay ăn cơm, sau khi ăn cơm xong bé còn ph ụ giúp các Xơ quét nhà và xếp lại ghế. 12 tuổi nh ưng bé Hi ếu r ất nh ỏ con có nhiều nếp nhăn trên chán, các ngón tay và chân rất ngắn, em rất ngoan và r ất hiếu khách, khi chúng em tới các bé ùa ra kéo vào khu v ực m ấy em đang ch ơi và chúng em đã tiếp cận được các em rất nhanh. Các thói quen về sức khỏe: trước đây khi chưa lấy nhau, 2 vợ chồng có bệnh gì đều đi bênh viện để khám và trong quá trình mang thai người vợ cũng thường xuyên quan tâm đến con của mình, vẫn đi khám định kì và làm theo những lời chỉ định của bác sĩ. Các mối quan hệ trong gia đình 2.4. Quan hệ vợ chồng: rất tốt. Quan hệ giũa con cái và cha mẹ: rất thương yêu và đùm bọc con Quan hệ giữa các anh em trong gia đình: các an hem luôn quan tâm, hỏi han nhau, chia sẻ với nhau lúc hoạn nạn, khó khăn. 3. Mô tả trẻ khuyết tật tại mái ấm
  20. Ở cơ sở có rất nhiều dạng khuyết tật khác nhau, mỗi em một loại, nh ưng nhóm mà chúng em tiếp cận ngay khi vào cơ sở là các em bị bệnh Down, bị b ệnh Down những mỗi em cũng có những biểu hiện khác nhau, có em thì không đi được, phải bò, có em thì chân tay vẩy liên t ục, có em thì nói b ị ng ọng r ất n ặng, …. Và ở trên lầu của cơ sở là các em bị liệt hoàn toàn, chỉ nằm yên 1 chỗ và mọi sinh hoạt đều do các Cô phục vụ và biểu hiện quan các hình ảnh mà trong quá trình đi thực tế chúng em đã thu thập được:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0