intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kết quả ban đầu mở dạ dày ra da qua nội soi

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

57
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả ban đầu và kinh nghiệm mở dạ dày ra da qua nội soi, nghiên cứu được thực hiện từ 12/2007 đến 7/2012, và tiến hành trên 26 bệnh nhân mất khả năng nhai nuốt hiệu quả và ghi nhận những khó khăn trong khi thực hiện, vị trí đặt ống thông, thời gian thực hiện và các biến chứng sớm sau thủ thuật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kết quả ban đầu mở dạ dày ra da qua nội soi

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012<br /> <br /> KẾT QUẢ BAN ĐẦU MỞ DẠ DÀY RA DA QUA NỘI SOI<br /> Lê Quang Nhân*, Nguyễn Thúy Oanh**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Mở dạ dày ra da qua nội soi (MDDRDQNS) để nuôi dưỡng và giải áp dạ dày đã được thực<br /> hiện gần 20 năm qua nhưng ở Việt Nam ít được nhắc đến.<br /> Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả ban đầu và kinh nghiệm MDDRDQNS.<br /> Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả cắt ngang. Từ 12/2007 đến 7/2012, chúng tôi đã thực hiện cho<br /> 26 bệnh nhân mất khả năng nhai nuốt hiệu quả và ghi nhận những khó khăn trong khi thực hiện, vị trí đặt ống<br /> thông, thời gian thực hiện và các biến chứng sớm sau thủ thuật.<br /> Kết quả: 26 bệnh nhân gồm 12 nam, 14 nữ. Tuổi trung bình 60 ± 10. Tất cả đều được MDDRDQNS kiểu<br /> kéo. Thời gian thực hiện MDDRDQNS trung bình 15 phút ± 7, không có chảy máu trong và sau thủ thuật,<br /> không có nhiễm trùng chân ống thông. Tái khám sau MDDRDQNS 1 tháng, 5 tháng, không có trường hợp nào<br /> xảy ra biến chứng.<br /> Kết luận: MDDRDQNS là một phương pháp an toàn, hiệu quả với nhiều ưu điểm như không cần gây mê,<br /> thực hiện nhanh giúp nuôi ăn qua đường ruột lâu dài cho bệnh nhân mất khả năng nhai nuốt.<br /> Từ khóa: Mở dạ dày ra da qua nội soi, giải áp dạ dày.<br /> <br /> SUMMARY<br /> INITIAL RESULTS OF PERCUTANEOUS ENDOSCOPIC GASTROSTOMY<br /> Le Quang Nhan, Nguyen Thuy Oanh<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 36 - 39<br /> Background: Percutaneous endoscopic gastrostomy (PEG) was introduced over 20 years ago as a method of<br /> enteral feeding and gastric decompression, but there were very few studies of PEG in Viet Nam.<br /> Aims: To introduce our initial results and experiences in performing PEG.<br /> Methods: A prospective study. From 12/2007 to 7/2012, we have performed PEG on 26 patients with any<br /> permanent inability of effectively swallow and recorded the difficulties in performing PEG, site of putting tube,<br /> time for procedure and early complications.<br /> Results: 26 patients: 12 men, 14 women. Average age of patients was 60 ± 10. All of the PEG were<br /> performed by “pull” technique. Average time of performing PEG was 15 min ± 7, with no bleeding during and<br /> after the procedure, and no peristomal infection. No complication was found during the follow-up examinations<br /> after performing PEG.<br /> Conclusion: PEG is a safe and effective procedure which has many advantages such as: no need for general<br /> anesthesia, rapid performance in order to give enteral feeding in patients with inability of effectively swallow.<br /> Keywords: Percutaneous endoscopic gastrostomy, gastric decompression.<br /> * Khoa Ngoại Tiêu hóa – Gan mật, Khoa Nội soi, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM<br /> ** Bộ môn Ngoại, ĐHYD TP.HCM, Khoa Nội soi, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM<br /> Tác giả liên lạc: ThS BS Lê Quang Nhân, ĐT: 0908853389,<br /> Email: nhan.lq@umc.edu.vn<br /> <br /> 36<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Mở dạ dày ra da qua nội soi (MDDRDQNS)<br /> để nuôi ăn và giải áp dạ dày đã được thực hiện<br /> gần 20 năm qua, ngày nay kỹ thuật này đã dần<br /> dần thay thế phẫu thuật trong việc giải quyết bài<br /> toán nuôi dưỡng lâu dài cho những bệnh nhân<br /> mất khả năng nhai nuốt hiệu quả vì có ưu điểm<br /> không cần gây mê, thực hiện nhanh và nhẹ<br /> nhàng cho bệnh nhân.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> Đây là nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang.<br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Từ tháng 12/2007 đến 7/2012, chúng tôi đã<br /> thực hiện MDDRDQNS cho 26 bệnh nhân cần<br /> được nuôi ăn qua đường ruột do mất khả năng<br /> nhai nuốt: 5 bệnh nhân Xơ cứng cột bên teo cơ,<br /> 19 bệnh nhân Di chứng nhồi máu não, 1 bệnh<br /> nhân Teo trám não, 1 bệnh nhân Parkinson.<br /> Chúng tôi dùng dụng cụ MDDRDQNS 24 –<br /> S và áp dụng kỹ thuật kéo của Pondy –<br /> Gauderer cho tất cả các trường hợp(1). Tất cả<br /> bệnh nhân nằm ngửa và được soi thực quản dạ<br /> dày tá tràng để phát hiện các bất thường. Sau đó<br /> dạ dày được bơm hơi căng để cho thành trước<br /> dạ dày áp sát thành bụng. Xác định vị trí mặt<br /> trước thân vị trên da qua ánh đèn nội soi được<br /> nhìn rõ qua thành bụng(2), vị trí này thường<br /> tương ứng với ¼ bụng trên trái, khoảng 3 cm<br /> dưới bờ sườn trái. Khi xác định được vị trí thích<br /> hợp, đánh dấu và sát khuẩn. Gây tê với 5 ml<br /> Lidocaine 1% da thành bụng, mô dưới da và lớp<br /> cơ. Trong quá trình gây tê, kim có thể đưa càng<br /> vào sâu trong dạ dày càng tốt, nhờ đó một lần<br /> nữa vị trí và hướng chọc được xác định. Rạch da<br /> 0,5 – 1 cm, sau đó đưa kim luồn qua thành bụng<br /> vào dạ dày. Khi nhìn thấy phần catheter bên<br /> ngoài và cả kim qua nội soi thì rút kim. Chú ý<br /> bịt lỗ ngoài của catheter trong suốt các bước sau<br /> đó để tránh làm xẹp dạ dày. Qua catheter, luồn 1<br /> sợi chỉ prolene vào dạ dày. Người nội soi kẹp<br /> sợi chỉ bằng thòng lọng, rồi kéo sợi chỉ đồng<br /> thời với dây soi ra ngoài qua miệng. Sau đó ống<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> thông được đính chặt vào đầu này sợi prolene.<br /> Kéo nhẹ nhàng đầu kia của sợi prolene, ống<br /> thông sẽ trượt qua miệng, thực quản, dạ dày và<br /> qua vách dạ dày. Catheter sẽ được rút ra cùng<br /> trong quá trình kéo này. Khi kéo căng ống<br /> thông, thành trước của dạ dày sẽ ép sát vào<br /> thành bụng nhờ có một đĩa chặn đầu trong ống<br /> thông. Soi dạ dày kiểm tra đầu trong ống thông<br /> có sát vào niêm mạc dạ dày và có chảy máu<br /> không. Cuối cùng ống thông được cố định phía<br /> ngoài cũng bằng một đĩa, kéo đĩa sát da, không<br /> quá chặt. Nếu không có biến chứng, có thể bắt<br /> đầu bơm sữa qua ống thông 8 giờ sau.<br /> Ghi nhận những khó khăn trong khi thực<br /> hiện, vị trí đặt ống thông, thời gian thực hiện,<br /> thời gian hồi phục, biến chứng sớm sau thủ<br /> thuật.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Trong thời gian trên, chúng tôi đã thực hiện<br /> MDDRDQNS kiểu kéo cho 26 bệnh nhân (12<br /> nam, 14 nữ), tuổi trung bình 60 ± 10, tất cả<br /> không có tiền căn phẫu thuật vùng bụng.<br /> Thời gian thực hiện MDDRDQNS trung<br /> bình 15 phút ± 7, không có chảy máu trong và<br /> sau thủ thuật, không có nhiễm trùng chân ống<br /> thông. Tái khám sau MDDRDQNS 1 tháng, 5<br /> tháng, không có trường hợp nào xảy ra biến<br /> chứng.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> MDDRDQNS là một phương pháp giúp đặt<br /> ống thông vào dạ dày xuyên da mà không cần<br /> phẫu thuật. Chủ yếu có hai kỹ thuật được áp<br /> dụng: kỹ thuật kéo của Ponsky - Gauderer và kỹ<br /> thuật đẩy của Russell. Trong kỹ thuật kéo, ống<br /> thông được kéo qua miệng, thực quản, xuyên<br /> thành dạ dày ra da, ngược lại trong kỹ thuật<br /> đẩy, ống thông được đặt từ ngoài da xuyên qua<br /> thành dạ dày. Nhiều nghiên cứu cho thấy không<br /> có khác biệt đáng kể về tỉ lệ tử vong và biến<br /> chứng của 2 kỹ thuật này, trong đó tỉ lệ tử vong<br /> 1-3% và tỉ lệ biến chứng 10-40%. Cả hai phương<br /> pháp đều có các ưu và khuyết điểm riêng(3). Khi<br /> rút bỏ ống thông, đầu ống thông MDDRDQNS<br /> <br /> 37<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012<br /> <br /> kiểu kéo bị cắt bỏ có thể làm tắc ruột trong khi<br /> đó chỉ cần xả khí bong bóng đầu ống thông<br /> MDDRDQNS kiểu đẩy là có thể rút bỏ ống<br /> thông dễ dàng(7). Phương pháp kéo có thể gây<br /> hiện tượng gieo rắc tế bào ác tính hay vi trùng<br /> dọc theo đường dạ dày - da do phải kéo ống<br /> <br /> thông qua vùng hầu họng và thực quản gây<br /> nhiễm trùng hay di căn vết rạch da. Trong<br /> trường hợp hẹp thực quản do hóa chất hoặc ung<br /> thư, phương pháp đẩy giúp thực hiện thành<br /> công cao hơn phương pháp kéo.<br /> <br /> Hình 1: Chọn vị trí chọc kim dưới quan sát nội soi dạ dày. Hình 2: Chọc kim qua da xuyên thành dạ dày.<br /> Cả hai phương pháp đều có các chống chỉ<br /> định tương đối là tăng áp cửa, do tuần hoàn<br /> bàng hệ ở da, báng bụng hay thẩm phân phúc<br /> mạc, các rối loạn đông máu hay đang điều trị<br /> kháng đông có tiền căn phẫu thuật dạ dày,<br /> không thể nhìn thấy ánh đèn nội soi qua thành<br /> bụng. Nếu không thấy ánh đèn qua thành bụng,<br /> nguy cơ có biến chứng khi đưa mù ống thông<br /> qua da rất cao, do đó cần quan sát dưới siêu âm<br /> để xác định vị trí chọc.<br /> MDDRDQNS có thể được thực hiện trong<br /> phòng nội soi hay tại giường bệnh tại khoa săn<br /> sóc đặc biệt và được thực hiện bởi hai người: 1<br /> người điều khiển máy soi và 1 người thực hiện<br /> động tác chọc qua da xuyên thành dạ dày.<br /> <br /> Hình 3: Ống thông được kéo qua miệng, thực quản,<br /> xuyên thành dạ dày ra da.<br /> <br /> Hình 4: Cắt ngắn ống thông sau khi thực hiện xong<br /> MDDRDQNS kiểu kéo.<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian<br /> thực hiện MDDRDQNS ngắn, 15 phút ± 7,<br /> <br /> 38<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012<br /> không có chảy máu trong và sau thủ thuật,<br /> không có nhiễm trùng chân ống thông, tái khám<br /> không có biến chứng sớm nào xảy ra. Do các<br /> bệnh nhân cần nuôi ăn qua ống thường gầy yếu,<br /> do kém dinh dưỡng, sức đề kháng kém nên rất<br /> dễ bị nhiễm trùng, nhiễm nấm. Biến chứng<br /> nhiễm trùng trong tháng đầu là 10-40% nhưng<br /> có thể giảm thấp khi dùng kháng sinh, trong<br /> nghiên cứu chúng tôi chưa gặp nhiễm trùng vết<br /> rạch da do đã dùng kháng sinh điều trị ngay từ<br /> đầu(6), tác giả Lee ghi nhận có 7% bệnh nhân sau<br /> MDDRDQNS kiểu kéo bị nhiễm trùng ngay vết<br /> rạch da(4,5).Trong y văn thế giới, đa số nhiễm<br /> trùng ở vết rạch da, rất hiếm khi gây viêm phúc<br /> mạc. Đa số các trường hợp rỉ dịch quanh lỗ mở<br /> dạ dày không quan trọng, nếu gây viêm da<br /> quanh chân ống thông nhiều, cần thay ống<br /> thông có đường kính lớn hơn. Ngoài ra có thể<br /> xảy ra tụt ống thông 1-4% do bệnh nhân giựt<br /> mạnh ống thông… Nếu ống thông bị tụt ra, phải<br /> nhanh chóng đặt lại ống thông mới, loại có nút<br /> hay ống Foley và khi đặt lại phải cẩn thận tránh<br /> làm thủng rách đường hầm. Tắc ống thông đa<br /> số trường hợp là do cặn lắng thức ăn hoặc thuốc<br /> hay do tụt đầu trong ống thông vào lớp dưới<br /> niêm mạc. Nếu tiếp tục nuôi ăn bằng ống trong<br /> trường hợp tụt ống thông vào lớp dưới niêm<br /> mạc, có thể gây viêm phúc mạc do phá hủy<br /> đường hầm. Do đó cần dặn dò, hướng dẫn thân<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Soi Tiêu Hóa<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> nhân bệnh nhân về cách chăm sóc và nuôi ăn<br /> qua ống thông. Cần nội soi kiểm tra nếu không<br /> thể làm thông ống bằng cách bơm nước.<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> MDDRDQNS là một phương pháp an toàn,<br /> hiệu quả với nhiều ưu điểm như không cần gây<br /> mê, thực hiện nhanh và là một kỹ thuật ít xâm<br /> hại cho bệnh nhân mất khả năng nhai nuốt tạm<br /> thời hoặc vĩnh viễn.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> Akkersdijk WL (1995). Percutaneous endoscopic gastrostomy:<br /> comparison of push and pull methods and evaluation of<br /> antibiotic prophylaxis. Endoscopy. 27: 313-16.<br /> Anis MK, Abid S, Jafri W, et al. (2006). Acceptability and<br /> outcomes of the percutaneous endoscopic gastrostomy (PEG)<br /> tube placement- patients ‘and care ivers’ perspectives. BMC<br /> Gastroenterology 6: 37-41.<br /> Gauderer MWL., PonskN JL., Izant RJJ (1980). Gastrostorny<br /> without laparotomy: a percutaneous endoscopic technique. I<br /> Pediatria Surg 15: 971-75.<br /> Lee TH, Shih LN, Lin JT (2007). Clinical experience of<br /> percutaneous endoscopic gastrostomy in Taiwanese patients-310<br /> cases in 8 years. J Formos Med Assoc 106 (8): 685-89.<br /> Ljungdahl M, Sundbom M (2006). Complication rate lower after<br /> percutaneous endoscopic gastrostomy than after surgical<br /> gastrostomy: a prospective, randomized trial. Sur Endosc 20:<br /> 1248-51.<br /> Lynch CR, Fang JC (2004). Prevention and management of<br /> complications of percutaneous endoscopic gastrostomy (PEG)<br /> tubes. Practical Gastroenterology 22: 66-76.<br /> Miller RE, Winkler WP, Kotler OP (1988). The. Russell<br /> percutaneous endoscopic gastrostamy, key technical steps.<br /> Gastrointest Endosc 34: 339-42.<br /> <br /> 39<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1