intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kết quả điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp tuna

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

82
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu nhằm đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của phương pháp bốc hơi tuyến tiền liệt bằng kim qua niệu đạo (TUNA) trên bệnh nhân bướu lành tuyến tiền liệt có triệu chứng rối loạn trung bình và nặng. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kết quả điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp tuna

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT<br /> BẰNG PHƯƠNG PHÁP TUNA<br /> Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Vĩnh Tuấn*, Nguyễn Đạo Thuấn*, Đỗ Vũ Phương*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của phương pháp bốc hơi tuyến tiền liệt<br /> bằng kim qua niệu đạo (TUNA) trên bệnh nhân bướu lành tuyến tiền liệt có triệu chứng rối loạn trung bình<br /> và nặng.<br /> Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện bốc hơi tuyến tiền liệt bằng kim qua niệu đạo trên<br /> 41 bệnh nhân có bướu lành tuyến tiền liệt. Thực hiện cắm kim 2 thùy bên, với chiều dài tuyến tiền liệt từ<br /> 3,3 đến 5,6 cm. Vùng điều trị được giới hạn bên trên bởi mặt phẳng ngang dưới cổ bàng quang khoảng 1cm,<br /> giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ núi khoảng 1cm. Tất cả các bệnh nhân được điều trị TUNA<br /> dưới 5 – 10mg diazepam, kèm theo 10ml gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo. Thời gian điều trị trung bình<br /> khoảng 56 phút (30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân được ra viện trong ngày có mang theo ống thông Foley<br /> niệu đạo.<br /> Kết quả: Thể tích trung bình của tuyến tiền liệt là 59,4cm3 (từ 43 đến 82cm3). Sau điều trị 6 tháng, cải<br /> thiện điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,7 còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình khoảng<br /> 79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2. Thời gian lưu thông<br /> niệu đạo trung bình là 5,75 ngày.<br /> Kết luận: Với thời gian theo dõi 6 tháng, chúng tôi có nhận định rằng TUNA là phương pháp can thiệp<br /> có tính an toàn, hiệu quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL gây triệu chứng. Đây là phương pháp<br /> điều trị ít xâm hại, bệnh nhân xuất viện trong ngày.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> THE RESULTS OF TRANSURETHRAL NEEDLE ABLATION OF THE PROSTATE<br /> IN TREATING SYMPTOMATIC BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA<br /> Vu Le Chuyen, Nguyen Tuan Vinh, Vinh Tuan, Nguyen Dao Thuan, Do Vu Phuong<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 295- 300<br /> Purpose: We determine the safety and efficacy of transurethral needle ablation of the prostate in<br /> patients with moderate to severe symptoms of benign prostatic hyperplasia.<br /> Materials and Methods: Transurethral needle ablation of the prostate was performed on 16<br /> consecutive patients. For an average prostate of 3.3 to 5.6 cm. long treatments were performed in 2 separate<br /> planes at 2 lobes. The 2 planes were 1 cm. below the bladder neck and 1 cm. proximal to the verumontanum.<br /> The procedure was performed under local anesthesia using 10 cc 2% intraurethral lidocaine gel or<br /> supplemented with intravenous 5 to 10 mg diazepam. Mean length of each procedure was 56 minutes (range<br /> 30 to 80). All procedures were done on an outpatient basis and patients were released on the same operative<br /> day.<br /> Results: Mean prostatic volume on abdominal ultrasound was estimated at 59.4 cc (range 43 to 82).<br /> Following treatment the International Prostate Symptom Score decreased from a mean of 20.7 at baseline to<br /> 16.4 at 1 month, 10.6 at 3 months, 9.8 at 6 months. The peak flow rate improved from a baseline mean of 8.5<br /> to 10.4 at 1 months, 12.8 at 3 months and 15.2 at 6 months. The quality of life score improved from a<br /> * Bệnh viện Bình Dân<br /> <br /> Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân<br /> <br /> 1<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> baseline of 4.7 to 3.2, 1.9, and 1.04 at 1, 3 and 6 months, respectively. Foley catheters were left in place in all<br /> patients for an average of 4.75 days.<br /> Conclusions: After a followup of up to 6 months, we conclude that transurethral needle ablation of the<br /> prostate is an effective treatment for symptomatic benign prostatic hyperplasia. This procedure has minimal<br /> morbidity, and can be performed as an outpatient office procedure under local anesthesia in a significant<br /> number of patients.<br /> Việt nam, những trường hợp ban đầu chúng tôi<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> chưa khảo sát tiêu chuẩn chặt chẽ và không theo<br /> Bướu lành tuyến tuyến tiền liệt (BL TTL) là<br /> dõi được sau thủ thuật, nên chỉ 41 bệnh nhân<br /> bệnh tăng sản lành tính thường gặp nhất ở nam<br /> được lựa chọn trong nghiên cứu này.<br /> giới. Về mô học, BL TTL chiếm tỉ lệ trên 50%<br /> Tiêu chuẩn chọn bệnh<br /> nam giới ở tuổi 60, nhưng ở tuổi 80 có đến 3/4 số<br /> Các bệnh nhân có bướu tuyến tiền liệt với<br /> bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng rối loạn chức<br /> (4,6)<br /> các tiêu chuẩn sau:<br /> năng đường tiểu dưới .Hiện nay, cắt đốt nội<br /> soi tuyến tiền liệt vẫn là tiêu chuẩn vàng trong<br /> Điểm số I-PSS > 12 và QoL > 3.<br /> điều trị BL TTL. Mặc dù hiệu quả đạt được là rất<br /> Kết quả phép đo niệu dòng với trị số Qmax <<br /> lớn, nhưng CĐNS BL TTL có tỉ lệ biến chứng<br /> 12 ml/giây.<br /> khoảng 3 -18%(6).Những biến chứng quan trọng<br /> Trị số PSA huyết thanh < 4 ng/ml, hoặc có<br /> như chảy máu, xuất tinh ngược dòng, tiểu<br /> kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt lành tính khi<br /> không kiểm soát, hội chứng sau CĐNS và rối<br /> PSA > 4 ng/ml.<br /> loạn tình dục. Chính những biến chứng này, đòi<br /> Đặc biệt bệnh nhân thích được thực hiện<br /> hỏi cần có những phương pháp điều trị khác an<br /> bằng phương pháp điều trị này.<br /> toàn hơn. Trong rất nhiều phương pháp điều trị<br /> Tiêu chuẩn loại trừ<br /> BL TTL ít xâm hại, bốc hơi tuyến tiền liệt bằng<br /> - Đang có tình trạng nhiễm trùng tiểu thể<br /> kim qua niệu đạo (TUNA) sử dụng dòng điện<br /> hiện qua kết quả của các xét nghiệm sinh hóa<br /> gian mô tần số thấp, là phương pháp có nhiều<br /> nước tiểu: có hồng cầu, bạch cầu trong nước tiểu,<br /> ưu điểm, đặc biệt là bệnh nhân được điều trị<br /> nitrite nước tiểu dương tính hoặc có kết quả cấy<br /> ngoại trú. Điều trị bằng nhiệt gian mô trong<br /> nước tiểu dương tính.<br /> bệnh lý tim mạch đã có từ lâu, những năm gần<br /> đây, TUNA đang được thực hiện trên nhiều<br /> trung tâm niệu khoa trên thế giới. Tại bệnh viện<br /> Bình Dân, TP. HCM, phương pháp điều trị này<br /> đã được tiến hành từ năm 2005. Chúng tôi thực<br /> hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tính hiệu<br /> quả và độ an toàn của phương pháp trên bệnh<br /> nhân có BL TTL. Từ đó góp phần giúp các bác sĩ<br /> niệu khoa cũng như bệnh nhân lựa chọn<br /> phương pháp điều trị thích hợp cho từng hoàn<br /> cảnh cụ thể, nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất.<br /> <br /> -<br /> <br /> Đã được xác định ung thư tuyến tiền liệt.<br /> <br /> - Đã từng được phẫu thuật bóc bướu<br /> tuyến tiền liệt hoặc CĐNS bướu tuyến tiền liệt<br /> trước đây.<br /> -<br /> <br /> Có sỏi bàng quang kèm theo.<br /> <br /> - Có hẹp niệu đạo được phát hiện trước<br /> hoặc trong lúc thực hiện TUNA.<br /> - Các bệnh nhân có bệnh lý bàng quang<br /> thần kinh.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> <br /> Nghiên cứu hồi cứu mô tả gồm 41 bệnh<br /> nhân được lựa chọn theo tiêu chuẩn trên.<br /> <br /> Giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007,<br /> chúng tôi thực hiện TUNA được 86 bệnh nhân.<br /> Tuy nhiên đây là phương pháp rất mới mẽ tại<br /> <br /> Chuyên<br /> Đề HN KH KT BV Bình Dân<br /> 2<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> Phương thức thực hiện<br /> Đánh giá bệnh nhân trước và sau thủ thuật<br /> Tất cả các bệnh nhân đều được đánh giá chi<br /> tiết về tình trạng tổng quát cũng như tiết niệu<br /> qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng và các xét<br /> nghiệm cận lâm sàng cần thiết:<br /> -Khám phát hiện các rối loạn bàng quang<br /> thần kinh, khám sinh dục.<br /> -Hướng dẫn bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi<br /> I-PSS, và QoL.<br /> -Tổng phân tích nước tiểu, đo trị số PSA hyết<br /> thanh, đo kích thước 3 chiều tuyến tiền liệt qua<br /> siêu âm ngã bụng, đo lượng nước tiểu tồn lưu và<br /> trị số Qmax qua phép đo niệu dòng.<br /> Bệnh nhân được theo dõi sau thủ thuật 1, 3<br /> và 6 tháng, qua các thông số I-PSS, QoL và trị số<br /> Qmax qua phép đo niệu dòng.<br /> Vấn đề vô cảm trong thủ thuật<br /> Tất cả các bệnh nhân đều được sử dụng các<br /> thuốc an thần từ 5 – 10mg diazepam, kèm theo<br /> gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo 10ml trong<br /> quá trình thủ thuật. Chưa có bệnh nhân nào cần<br /> phải gây mê hoặc gây te tủy sống.<br /> Dụng cụ và thủ thuật thực hiện TUNA: (hình<br /> 1A,B)<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> đầu hơi cong, gắn 2 kim cách khoảng 1mm, có<br /> thể điều chỉnh thích hợp được. Khi đưa vào<br /> niệu đạo, 2 kim được xếp lại ở đáy cách đầu<br /> mũi khoảng 5 – 6 mm và có bao nilon bao bọc,<br /> nhằm tránh nhiệt làm thương tổn niêm mạc<br /> niệu đạo. Máy phát dòng điện tần số radio<br /> thấp (khoảng 460kHz) đến đầu kim. Dòng<br /> điện sẽ đốt nóng đầu kim cắm vào mô bướu<br /> tuyến tiền liệt, làm mô bướu được đốt nóng<br /> một vùng có nhiệt độ khoảng 100 – 1100C. Thời<br /> gian điều trị kéo dài khi đầu dò đo nhiệt độ<br /> niệu đạo khoảng 530C (đạt được sau 5 phút) và<br /> duy trì thêm khoảng 2 phút.<br /> Vùng mô niệu đạo tuyến tiền liệt được<br /> thực hiện cắm kim vào được gọi là vùng điều<br /> trị. Vùng này được giới hạn bên trên bởi mặt<br /> phẳng ngang dưới cổ bàng quang khoảng 1cm,<br /> giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ<br /> núi khoảng 1cm. Có nhiều tác giả thực hiện 4<br /> vị trí cắm kim trong vùng điều trị chia đều cho<br /> 2 thùy. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ thực hiện cắm<br /> kim tại 2 vị trí giữa vùng điều trị của mỗi thùy<br /> bên tuyến tiền liệt.<br /> Chiều dài của kim cắm được xác định bằng<br /> bán kính chiều ngang tuyến tiền liệt trừ cho<br /> 6mm, (khoảng cách an toàn cho vùng lân cận<br /> tuyến tiền liệt khi thực hiện đốt nhiệt). Năng<br /> lượng khởi đầu đốt nóng khoảng 3W, rồi tăng<br /> lên từ từ khoảng 4 – 5 phút, nhiệt độ niệu đạo<br /> đạt khoảng 530C. trong quá trình điều trị, đèn<br /> máy soi bàng quang nên đựoc tắt và nên bơm<br /> nước lạnh liên tục, nhằm tránh nhiệt độ niệu đạo<br /> tăng lên quá mức sẽ làm thương tổn niệu đạo.<br /> Sau khi đạt được một thùy, sẽ thực hiện tương<br /> tự ở thùy bên đối diện(1,4,6).<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> <br /> Hình 1. A- Cây cần lỏi của dụng cụ TUNA. B- 2 kim<br /> cắm có thể điều chỉnh được ở đầu dụng cụ.<br /> Dụng cụ trong thủ thuật TUNA bao gồm:<br /> một vỏ máy soi cứng chuyên biệt 22F được gắn<br /> với máy phát tần số radio. Một cây cần lỏi có<br /> <br /> Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân<br /> <br /> Từ giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007,<br /> chúng tôi thực hiện TUNA được 86 bệnh nhân.<br /> Tuy nhiên, chỉ 41 bệnh nhân được theo dõi sau<br /> thủ thuật và được chọn lựa đưa vào nghiên cứu<br /> này. Tuy nhiên, sau 6 tháng chỉ có 16 bệnh nhân<br /> tái khám. Các thông số cần theo dõi ghi nhận<br /> trước và sau điều trị được liệt kê trong bảng 1.<br /> <br /> 3<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> Bảng 1: Các thông số theo dõi bệnh nhân trước và<br /> sau thủ thuật TUNA<br /> Thời gian theo Trung bình Trung bình Trung<br /> dõi<br /> I-PSS<br /> bình QoL<br /> Qmax (ml/giây)<br /> Trước thủ thuật<br /> 8,5<br /> 20,7<br /> 4,7<br /> (41bn)<br /> Sau 1 tháng<br /> 10,4<br /> 16,4<br /> 3,2<br /> Sau 3 tháng<br /> 12,8<br /> 10,6<br /> 1,9<br /> Sau 6 tháng<br /> 15,2<br /> 9,8<br /> 1,04<br /> (16bn)<br /> <br /> Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 72,5<br /> (từ 55 đến 92 tuổi). Thể tích trung bình của tuyến<br /> tiền liệt là 59,4cm3 (từ 43 đến 82cm3), chiều dài<br /> trung bình của niệu đạo tuyến tiền liệt là 4,54cm<br /> (từ 3,3 đến 5,6cm). Sau điều trị 6 tháng, cải thiện<br /> điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,9<br /> còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình<br /> khoảng 79%, từ 4,8 đến 1,04. Cải thiện trị số<br /> Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,3 đến 15,2.<br /> Tất cả các bệnh nhân được ra viện về nhà trong<br /> ngày có mang theo ống thông Foley niệu đạo.<br /> Bệnh nhân được rút thông niệu đạo, uống thuốc<br /> kháng sinh và giảm đau kéo dài sau điều trị<br /> khoảng 3 – 7 ngày.<br /> Thời gian điều trị trung bình khoảng 56 phút<br /> (30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân đều chỉ được<br /> sử dụng các thuốc an thần 5 – 10mg diazepam<br /> tiêm mạch, kèm theo gel lidocain 2% bơm vào niệu<br /> đạo 10ml trong quá trình thủ thuật, 23 bệnh nhân<br /> có sử dụng thêm giảm đau bậc 3 pethidine 25 –<br /> 50mg bằng đường tĩnh mạch. Không có bệnh nhân<br /> nào phải gây mê hoặc gây tê tủy sống.<br /> Sau thủ thuật, hầu hết bệnh nhân đều bị tiểu<br /> máu nhẹ, tự hết sau vài ngày hoặc 2 tuần. Không<br /> có bệnh nhân nào phải truyền máu hoặc có triệu<br /> chứng rối loạn của tình trạng hấp thu dịch thủ<br /> thuật. Trung bình khoảng 2 lần thoát lưu nước<br /> bơm vào bàng quang trong quá trình thực hiện<br /> thủ thuật. Chúng tôi chưa thực hiện tắt đèn máy<br /> nội soi bàng quang trong lúc điều trị.<br /> <br /> Các biến chứng<br /> 36 bệnh nhân có cảm giác bỏng rát nhẹ trong<br /> niệu đạo khi thực hiện thủ thuật, tuy nhiên được<br /> giải quyết bằng thuốc giảm đau bậc 3 đường<br /> <br /> Chuyên<br /> Đề HN KH KT BV Bình Dân<br /> 4<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> tĩnh mạch. 26 bệnh nhân có cảm giác căng tức<br /> bàng quang, cần thoát lưu nước qua niệu đạo. 17<br /> bệnh nhân tiểu máu đại thể mức độ nhẹ, tự hết<br /> không cần nằm lại viện. Không có bệnh nhân<br /> nào có triệu chứng sốt nhiễm trùng sau thủ<br /> thuật.<br /> Một bệnh nhân 83 tuổi không bế tắc dòng<br /> tiểu dưới, nhưng có tình trạng tăng hoạt tính co<br /> bóp cơ bàng quang quá mức qua phép đo áp lực<br /> – niệu dòng, sau thủ thuật 1 tháng. Bệnh nhân<br /> này được điều trị bằng thuốc kháng đối giao<br /> cảm, và có cải thiện một phần triệu chứng tiểu<br /> gấp, tiểu lắt nhắt.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Bốc hơi TTL bằng kim qua niệu đạo (TUNA)<br /> là phương pháp can thiệp có tính an toàn, hiệu<br /> quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL<br /> gây triệu chứng. Tất cả 41 bệnh nhân trong<br /> nghiên cứu của chúng tôi đều chỉ thực hiện dưới<br /> thuốc tiền mê an thân và gây tê bằng gel qua<br /> niệu đạo mà không gây khó chịu nhiều cho bệnh<br /> nhân. Rõ ràng đây là phương pháp rất đơn giản.<br /> Những thông tin trên cũng giúp chúng tôi có<br /> nhận định rằng kỹ thuật TUNA có thể thực hiện<br /> trên bệnh nhân có BL TTL lớn, kích thước bướu<br /> có thể không phải là tiêu chuẩn loại trừ cho chỉ<br /> định điều trị bằng phương pháp này(6).<br /> Cơ chế tạo nên hiệu quả của TUNA trên mô<br /> BL TTL, cho đến nay vẫn đang được khám phá<br /> tích cực. Người ta tin rằng, dòng điện đi qua 2<br /> kim cắm vào mô tuyến tiền liệt tạo ra ma sát<br /> phân tử ở mức tế bào, kế quả tạo ra nhiệt đốt<br /> nóng chỉ có ở mô, không đốt nóng đầu dò điện<br /> cực(7). Nhiệt độ cao nhất được tìm thấy tại vùng<br /> mô quanh kim cắm, làm đông, khô cháy và hoại<br /> tử mô(2). Những thương tổn do điều trị tạo thành<br /> dần dần trong nhiều tháng, kết quả tạo nên<br /> những vùng khoang rỗng trong mô tuyến tiền<br /> liệt. Bằng siêu âm qua ngã trực tràng, Scott A.<br /> Kahn và cs nhận thấy những khoang rỗng trong<br /> mô tuyến tiền liệt sau điều trị TUNA 3 tháng.<br /> Trong khi đó, Schulman và cs(5) thực hiện TUNA<br /> của tuyến tiền liệt ngay trên những bệnh nhân<br /> đang phẫu thuật cắt tận gốc tuyến tiền liệt thì<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> chứng minh rằng, thương tổn tức thì của mô BL<br /> TTL chiếm một vùng 12 x 7mm trên đại thể, còn<br /> trên vi thể thì vùng thương tổn này là 30 x<br /> 15mm. Đồng thời cũng nhận thấy, niệu đạo và<br /> vỏ bọc tuyến tiền liệt vẫn không bị ảnh hưởng.<br /> Vỏ tuyến tiền liệt được bảo tồn là do nhiệt độ<br /> gian mô giảm nhanh chóng khi càng xa điện cực<br /> đầu kim, đã tạo nên bờ giới hạn rõ ràng giữa mô<br /> hoại tử và mô tuyến tiền liệt bình thường(2). Kích<br /> thước của vùng mô hoại tử phụ thuộc vào mức<br /> năng lượng sử dụng, chiều dài của kim cắm và<br /> thời gian duy trì dòng điện. Tất cả các yếu tố này<br /> đều có thể được bác sĩ điều chỉnh(4,6).<br /> Sau thời gian theo dõi, Scott A. Kahn và cs(6)<br /> nhận thấy, cổ bàng quang vẫn còn nguyên vẹn<br /> hoàn toàn. Chính vì vậy tránh được tình trạng<br /> xuất tinh ngược dòng. Trong nghiên cứu của<br /> chúng tôi, do tình trạng sức khỏe chung của<br /> bệnh nhân, chức năng tình dục ở những bệnh<br /> nhân này hầu như không còn, nên vấn đề có hay<br /> không tình trạng xuất tinh ngược dòng vẫn chưa<br /> được ghi nhận.<br /> Về tính hiệu quả của TUNA thì như thế nào?<br /> Đã có nhiều nghiên cứu báo cáo kết quả điều trị<br /> TUNA: Campo và cs – 1997(1) báo cáo nghiên cứu<br /> gồm 108 bệnh nhân, theo dõi tạ thời điểm 12 và<br /> 18 tháng gồm 45 bệnh nhân với điểm số I-PSS<br /> giảm từ 20,8 xuống tương ứng còn 6,2 ± 2,9 và<br /> 6,7 ± 3,8. Trị số Qmax tăng từ 8,2 ± 3,4 đến 15,9 ±<br /> 2,1ml/giây và 14,1 ± 2,5ml/giây. Theo dõi của<br /> Issa(11) sau 6 tháng trên 11 bệnh nhân cho thấy<br /> điểm số I-PSS giảm 62%, QoL giảm 70% và trị số<br /> Qmax tăng 73%. Trong nghiên cứu 41 bệnh nhân<br /> của chúng tôi, theo dõi sau 6 tháng, cải thiện<br /> điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,7<br /> còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình<br /> khoảng 79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số<br /> Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2.<br /> Như vậy, kết quả cải thiện các nghiên cứu về<br /> TUNA đều có ý nghĩa. Kết quả của chúng tôi có<br /> cao hơn một số nghiên cứu khác, có lẽ do tỉ lệ tái<br /> khám của bệnh nhân chúng tôi ít hơn nhiều. Chỉ<br /> những bệnh nhân có quan tâm đến tình trạng<br /> <br /> Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> sức khỏe của mình tái khám đầy đủ, làm cho<br /> tính hiệu quả của điều trị tăng lên.<br /> Chúng tôi và nhiều tác giả khác vẫn áp dụng<br /> chỉ 2 vị trí cắm kim điều trị trong TUNA, nên<br /> thời gian điều trị, cảm giác bỏng rát khó chịu ở<br /> niệu đạo, cũng như khả năng phải can thiệp gây<br /> mê hoặc gây tê tủy sống giảm hơn hẳn so với kết<br /> quả của tác giả Scott A. Kahn và cs(6). Họ đã sử<br /> dụng 4 vị trí điều trị (4 vị trí cắm kim chia đều<br /> cho 2 thùy). Tuy nhiên, tác giả này đã nêu lên<br /> một nhận xét rất có giá trị, đó là vấn đề kích<br /> thước tuyến tiền liệt không phải là yếu tố loại trừ<br /> trong thủ thuật TUNA, khi họ đã thực hiện trên<br /> những tuyến tiền liệt có kích thước lớn cho kết<br /> quả tương tự.<br /> Vì tính an toàn của TUNA, hầu hết các tác<br /> giả đều khuyến cáo không cần thiết phải ngần<br /> ngại khi cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tiếp<br /> sau thủ thuật(1,2,3,4,5,7). Cũng như vậy, 16 bệnh<br /> nhân của chúng tôi đều được ra viện trong ngày<br /> mà không có biến chứng đáng kể nào xảy ra.<br /> Scott A. Kahn và cs(6) cũng cho rằng những<br /> bệnh nhân già có sự dung nạp TUNA dưới gel<br /> lidocain 2% bơm niệu đạo kết hợp với thuốc an<br /> thần hơn là những bệnh nhân trẻ. Chính vì vậy,<br /> dù bệnh nhân già yếu nhưng chỉ cần không có<br /> biến dạng xương gây trở ngại đặt máy soi niệu<br /> đạo là có thể thực hiện tốt thủ thuật TUNA.<br /> Trong nhiều phương pháp điều trị ít xâm hại<br /> BL TTL có hiệu quả như laser, đốt nhiệt bằng vi<br /> sóng… thì TUNA có ưu điểm là bảo tồn được<br /> niêm mạc niệu đạo không bị thương tổn và chi<br /> phí cho đầu tư cơ bản ít hơn nhiều(1,6). Chưa kể<br /> đến ở các trung tâm niệu khoa của các nước tiên<br /> tiến, chi phí điều trị TUNA còn thấp hơn nhiều<br /> so với cắt đốt nội soi BL TTL. Tuy nhiên, ở Việt<br /> Nam do điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn,<br /> TUNA vẫn còn là phương pháp điều trị khá mới<br /> lạ, chỉ rất ít trung tâm niệu khoa tiến hành được,<br /> và chi phí điều trị còn cao hơn nhiều lần so với<br /> cắt đốt nội soi BL TTL.<br /> Một bệnh nhân của chúng tôi có tình trạng<br /> tăng hoạt tính co bóp cơ bàng quang quá mức, mà<br /> không có tình trạng bế tắc dòng tiểu dưới. Sau điều<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2