Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TĂNG SINH LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT<br />
BẰNG PHƯƠNG PHÁP TUNA<br />
Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Vĩnh Tuấn*, Nguyễn Đạo Thuấn*, Đỗ Vũ Phương*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của phương pháp bốc hơi tuyến tiền liệt<br />
bằng kim qua niệu đạo (TUNA) trên bệnh nhân bướu lành tuyến tiền liệt có triệu chứng rối loạn trung bình<br />
và nặng.<br />
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thực hiện bốc hơi tuyến tiền liệt bằng kim qua niệu đạo trên<br />
41 bệnh nhân có bướu lành tuyến tiền liệt. Thực hiện cắm kim 2 thùy bên, với chiều dài tuyến tiền liệt từ<br />
3,3 đến 5,6 cm. Vùng điều trị được giới hạn bên trên bởi mặt phẳng ngang dưới cổ bàng quang khoảng 1cm,<br />
giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ núi khoảng 1cm. Tất cả các bệnh nhân được điều trị TUNA<br />
dưới 5 – 10mg diazepam, kèm theo 10ml gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo. Thời gian điều trị trung bình<br />
khoảng 56 phút (30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân được ra viện trong ngày có mang theo ống thông Foley<br />
niệu đạo.<br />
Kết quả: Thể tích trung bình của tuyến tiền liệt là 59,4cm3 (từ 43 đến 82cm3). Sau điều trị 6 tháng, cải<br />
thiện điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,7 còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình khoảng<br />
79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2. Thời gian lưu thông<br />
niệu đạo trung bình là 5,75 ngày.<br />
Kết luận: Với thời gian theo dõi 6 tháng, chúng tôi có nhận định rằng TUNA là phương pháp can thiệp<br />
có tính an toàn, hiệu quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL gây triệu chứng. Đây là phương pháp<br />
điều trị ít xâm hại, bệnh nhân xuất viện trong ngày.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THE RESULTS OF TRANSURETHRAL NEEDLE ABLATION OF THE PROSTATE<br />
IN TREATING SYMPTOMATIC BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA<br />
Vu Le Chuyen, Nguyen Tuan Vinh, Vinh Tuan, Nguyen Dao Thuan, Do Vu Phuong<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 295- 300<br />
Purpose: We determine the safety and efficacy of transurethral needle ablation of the prostate in<br />
patients with moderate to severe symptoms of benign prostatic hyperplasia.<br />
Materials and Methods: Transurethral needle ablation of the prostate was performed on 16<br />
consecutive patients. For an average prostate of 3.3 to 5.6 cm. long treatments were performed in 2 separate<br />
planes at 2 lobes. The 2 planes were 1 cm. below the bladder neck and 1 cm. proximal to the verumontanum.<br />
The procedure was performed under local anesthesia using 10 cc 2% intraurethral lidocaine gel or<br />
supplemented with intravenous 5 to 10 mg diazepam. Mean length of each procedure was 56 minutes (range<br />
30 to 80). All procedures were done on an outpatient basis and patients were released on the same operative<br />
day.<br />
Results: Mean prostatic volume on abdominal ultrasound was estimated at 59.4 cc (range 43 to 82).<br />
Following treatment the International Prostate Symptom Score decreased from a mean of 20.7 at baseline to<br />
16.4 at 1 month, 10.6 at 3 months, 9.8 at 6 months. The peak flow rate improved from a baseline mean of 8.5<br />
to 10.4 at 1 months, 12.8 at 3 months and 15.2 at 6 months. The quality of life score improved from a<br />
* Bệnh viện Bình Dân<br />
<br />
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
<br />
1<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
baseline of 4.7 to 3.2, 1.9, and 1.04 at 1, 3 and 6 months, respectively. Foley catheters were left in place in all<br />
patients for an average of 4.75 days.<br />
Conclusions: After a followup of up to 6 months, we conclude that transurethral needle ablation of the<br />
prostate is an effective treatment for symptomatic benign prostatic hyperplasia. This procedure has minimal<br />
morbidity, and can be performed as an outpatient office procedure under local anesthesia in a significant<br />
number of patients.<br />
Việt nam, những trường hợp ban đầu chúng tôi<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
chưa khảo sát tiêu chuẩn chặt chẽ và không theo<br />
Bướu lành tuyến tuyến tiền liệt (BL TTL) là<br />
dõi được sau thủ thuật, nên chỉ 41 bệnh nhân<br />
bệnh tăng sản lành tính thường gặp nhất ở nam<br />
được lựa chọn trong nghiên cứu này.<br />
giới. Về mô học, BL TTL chiếm tỉ lệ trên 50%<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
nam giới ở tuổi 60, nhưng ở tuổi 80 có đến 3/4 số<br />
Các bệnh nhân có bướu tuyến tiền liệt với<br />
bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng rối loạn chức<br />
(4,6)<br />
các tiêu chuẩn sau:<br />
năng đường tiểu dưới .Hiện nay, cắt đốt nội<br />
soi tuyến tiền liệt vẫn là tiêu chuẩn vàng trong<br />
Điểm số I-PSS > 12 và QoL > 3.<br />
điều trị BL TTL. Mặc dù hiệu quả đạt được là rất<br />
Kết quả phép đo niệu dòng với trị số Qmax <<br />
lớn, nhưng CĐNS BL TTL có tỉ lệ biến chứng<br />
12 ml/giây.<br />
khoảng 3 -18%(6).Những biến chứng quan trọng<br />
Trị số PSA huyết thanh < 4 ng/ml, hoặc có<br />
như chảy máu, xuất tinh ngược dòng, tiểu<br />
kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt lành tính khi<br />
không kiểm soát, hội chứng sau CĐNS và rối<br />
PSA > 4 ng/ml.<br />
loạn tình dục. Chính những biến chứng này, đòi<br />
Đặc biệt bệnh nhân thích được thực hiện<br />
hỏi cần có những phương pháp điều trị khác an<br />
bằng phương pháp điều trị này.<br />
toàn hơn. Trong rất nhiều phương pháp điều trị<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
BL TTL ít xâm hại, bốc hơi tuyến tiền liệt bằng<br />
- Đang có tình trạng nhiễm trùng tiểu thể<br />
kim qua niệu đạo (TUNA) sử dụng dòng điện<br />
hiện qua kết quả của các xét nghiệm sinh hóa<br />
gian mô tần số thấp, là phương pháp có nhiều<br />
nước tiểu: có hồng cầu, bạch cầu trong nước tiểu,<br />
ưu điểm, đặc biệt là bệnh nhân được điều trị<br />
nitrite nước tiểu dương tính hoặc có kết quả cấy<br />
ngoại trú. Điều trị bằng nhiệt gian mô trong<br />
nước tiểu dương tính.<br />
bệnh lý tim mạch đã có từ lâu, những năm gần<br />
đây, TUNA đang được thực hiện trên nhiều<br />
trung tâm niệu khoa trên thế giới. Tại bệnh viện<br />
Bình Dân, TP. HCM, phương pháp điều trị này<br />
đã được tiến hành từ năm 2005. Chúng tôi thực<br />
hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tính hiệu<br />
quả và độ an toàn của phương pháp trên bệnh<br />
nhân có BL TTL. Từ đó góp phần giúp các bác sĩ<br />
niệu khoa cũng như bệnh nhân lựa chọn<br />
phương pháp điều trị thích hợp cho từng hoàn<br />
cảnh cụ thể, nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất.<br />
<br />
-<br />
<br />
Đã được xác định ung thư tuyến tiền liệt.<br />
<br />
- Đã từng được phẫu thuật bóc bướu<br />
tuyến tiền liệt hoặc CĐNS bướu tuyến tiền liệt<br />
trước đây.<br />
-<br />
<br />
Có sỏi bàng quang kèm theo.<br />
<br />
- Có hẹp niệu đạo được phát hiện trước<br />
hoặc trong lúc thực hiện TUNA.<br />
- Các bệnh nhân có bệnh lý bàng quang<br />
thần kinh.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
<br />
Nghiên cứu hồi cứu mô tả gồm 41 bệnh<br />
nhân được lựa chọn theo tiêu chuẩn trên.<br />
<br />
Giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007,<br />
chúng tôi thực hiện TUNA được 86 bệnh nhân.<br />
Tuy nhiên đây là phương pháp rất mới mẽ tại<br />
<br />
Chuyên<br />
Đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
2<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Phương thức thực hiện<br />
Đánh giá bệnh nhân trước và sau thủ thuật<br />
Tất cả các bệnh nhân đều được đánh giá chi<br />
tiết về tình trạng tổng quát cũng như tiết niệu<br />
qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng và các xét<br />
nghiệm cận lâm sàng cần thiết:<br />
-Khám phát hiện các rối loạn bàng quang<br />
thần kinh, khám sinh dục.<br />
-Hướng dẫn bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi<br />
I-PSS, và QoL.<br />
-Tổng phân tích nước tiểu, đo trị số PSA hyết<br />
thanh, đo kích thước 3 chiều tuyến tiền liệt qua<br />
siêu âm ngã bụng, đo lượng nước tiểu tồn lưu và<br />
trị số Qmax qua phép đo niệu dòng.<br />
Bệnh nhân được theo dõi sau thủ thuật 1, 3<br />
và 6 tháng, qua các thông số I-PSS, QoL và trị số<br />
Qmax qua phép đo niệu dòng.<br />
Vấn đề vô cảm trong thủ thuật<br />
Tất cả các bệnh nhân đều được sử dụng các<br />
thuốc an thần từ 5 – 10mg diazepam, kèm theo<br />
gel lidocain 2% bơm vào niệu đạo 10ml trong<br />
quá trình thủ thuật. Chưa có bệnh nhân nào cần<br />
phải gây mê hoặc gây te tủy sống.<br />
Dụng cụ và thủ thuật thực hiện TUNA: (hình<br />
1A,B)<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
đầu hơi cong, gắn 2 kim cách khoảng 1mm, có<br />
thể điều chỉnh thích hợp được. Khi đưa vào<br />
niệu đạo, 2 kim được xếp lại ở đáy cách đầu<br />
mũi khoảng 5 – 6 mm và có bao nilon bao bọc,<br />
nhằm tránh nhiệt làm thương tổn niêm mạc<br />
niệu đạo. Máy phát dòng điện tần số radio<br />
thấp (khoảng 460kHz) đến đầu kim. Dòng<br />
điện sẽ đốt nóng đầu kim cắm vào mô bướu<br />
tuyến tiền liệt, làm mô bướu được đốt nóng<br />
một vùng có nhiệt độ khoảng 100 – 1100C. Thời<br />
gian điều trị kéo dài khi đầu dò đo nhiệt độ<br />
niệu đạo khoảng 530C (đạt được sau 5 phút) và<br />
duy trì thêm khoảng 2 phút.<br />
Vùng mô niệu đạo tuyến tiền liệt được<br />
thực hiện cắm kim vào được gọi là vùng điều<br />
trị. Vùng này được giới hạn bên trên bởi mặt<br />
phẳng ngang dưới cổ bàng quang khoảng 1cm,<br />
giới hạn bên dưới bởi mặt phẳng ngang trên ụ<br />
núi khoảng 1cm. Có nhiều tác giả thực hiện 4<br />
vị trí cắm kim trong vùng điều trị chia đều cho<br />
2 thùy. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ thực hiện cắm<br />
kim tại 2 vị trí giữa vùng điều trị của mỗi thùy<br />
bên tuyến tiền liệt.<br />
Chiều dài của kim cắm được xác định bằng<br />
bán kính chiều ngang tuyến tiền liệt trừ cho<br />
6mm, (khoảng cách an toàn cho vùng lân cận<br />
tuyến tiền liệt khi thực hiện đốt nhiệt). Năng<br />
lượng khởi đầu đốt nóng khoảng 3W, rồi tăng<br />
lên từ từ khoảng 4 – 5 phút, nhiệt độ niệu đạo<br />
đạt khoảng 530C. trong quá trình điều trị, đèn<br />
máy soi bàng quang nên đựoc tắt và nên bơm<br />
nước lạnh liên tục, nhằm tránh nhiệt độ niệu đạo<br />
tăng lên quá mức sẽ làm thương tổn niệu đạo.<br />
Sau khi đạt được một thùy, sẽ thực hiện tương<br />
tự ở thùy bên đối diện(1,4,6).<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
<br />
Hình 1. A- Cây cần lỏi của dụng cụ TUNA. B- 2 kim<br />
cắm có thể điều chỉnh được ở đầu dụng cụ.<br />
Dụng cụ trong thủ thuật TUNA bao gồm:<br />
một vỏ máy soi cứng chuyên biệt 22F được gắn<br />
với máy phát tần số radio. Một cây cần lỏi có<br />
<br />
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
<br />
Từ giữa năm 2005 đến tháng 10 năm 2007,<br />
chúng tôi thực hiện TUNA được 86 bệnh nhân.<br />
Tuy nhiên, chỉ 41 bệnh nhân được theo dõi sau<br />
thủ thuật và được chọn lựa đưa vào nghiên cứu<br />
này. Tuy nhiên, sau 6 tháng chỉ có 16 bệnh nhân<br />
tái khám. Các thông số cần theo dõi ghi nhận<br />
trước và sau điều trị được liệt kê trong bảng 1.<br />
<br />
3<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
Bảng 1: Các thông số theo dõi bệnh nhân trước và<br />
sau thủ thuật TUNA<br />
Thời gian theo Trung bình Trung bình Trung<br />
dõi<br />
I-PSS<br />
bình QoL<br />
Qmax (ml/giây)<br />
Trước thủ thuật<br />
8,5<br />
20,7<br />
4,7<br />
(41bn)<br />
Sau 1 tháng<br />
10,4<br />
16,4<br />
3,2<br />
Sau 3 tháng<br />
12,8<br />
10,6<br />
1,9<br />
Sau 6 tháng<br />
15,2<br />
9,8<br />
1,04<br />
(16bn)<br />
<br />
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 72,5<br />
(từ 55 đến 92 tuổi). Thể tích trung bình của tuyến<br />
tiền liệt là 59,4cm3 (từ 43 đến 82cm3), chiều dài<br />
trung bình của niệu đạo tuyến tiền liệt là 4,54cm<br />
(từ 3,3 đến 5,6cm). Sau điều trị 6 tháng, cải thiện<br />
điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,9<br />
còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình<br />
khoảng 79%, từ 4,8 đến 1,04. Cải thiện trị số<br />
Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,3 đến 15,2.<br />
Tất cả các bệnh nhân được ra viện về nhà trong<br />
ngày có mang theo ống thông Foley niệu đạo.<br />
Bệnh nhân được rút thông niệu đạo, uống thuốc<br />
kháng sinh và giảm đau kéo dài sau điều trị<br />
khoảng 3 – 7 ngày.<br />
Thời gian điều trị trung bình khoảng 56 phút<br />
(30 – 80 phút). Tất cả các bệnh nhân đều chỉ được<br />
sử dụng các thuốc an thần 5 – 10mg diazepam<br />
tiêm mạch, kèm theo gel lidocain 2% bơm vào niệu<br />
đạo 10ml trong quá trình thủ thuật, 23 bệnh nhân<br />
có sử dụng thêm giảm đau bậc 3 pethidine 25 –<br />
50mg bằng đường tĩnh mạch. Không có bệnh nhân<br />
nào phải gây mê hoặc gây tê tủy sống.<br />
Sau thủ thuật, hầu hết bệnh nhân đều bị tiểu<br />
máu nhẹ, tự hết sau vài ngày hoặc 2 tuần. Không<br />
có bệnh nhân nào phải truyền máu hoặc có triệu<br />
chứng rối loạn của tình trạng hấp thu dịch thủ<br />
thuật. Trung bình khoảng 2 lần thoát lưu nước<br />
bơm vào bàng quang trong quá trình thực hiện<br />
thủ thuật. Chúng tôi chưa thực hiện tắt đèn máy<br />
nội soi bàng quang trong lúc điều trị.<br />
<br />
Các biến chứng<br />
36 bệnh nhân có cảm giác bỏng rát nhẹ trong<br />
niệu đạo khi thực hiện thủ thuật, tuy nhiên được<br />
giải quyết bằng thuốc giảm đau bậc 3 đường<br />
<br />
Chuyên<br />
Đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
4<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
tĩnh mạch. 26 bệnh nhân có cảm giác căng tức<br />
bàng quang, cần thoát lưu nước qua niệu đạo. 17<br />
bệnh nhân tiểu máu đại thể mức độ nhẹ, tự hết<br />
không cần nằm lại viện. Không có bệnh nhân<br />
nào có triệu chứng sốt nhiễm trùng sau thủ<br />
thuật.<br />
Một bệnh nhân 83 tuổi không bế tắc dòng<br />
tiểu dưới, nhưng có tình trạng tăng hoạt tính co<br />
bóp cơ bàng quang quá mức qua phép đo áp lực<br />
– niệu dòng, sau thủ thuật 1 tháng. Bệnh nhân<br />
này được điều trị bằng thuốc kháng đối giao<br />
cảm, và có cải thiện một phần triệu chứng tiểu<br />
gấp, tiểu lắt nhắt.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Bốc hơi TTL bằng kim qua niệu đạo (TUNA)<br />
là phương pháp can thiệp có tính an toàn, hiệu<br />
quả trong thời gian ngắn, trong điều trị BL TTL<br />
gây triệu chứng. Tất cả 41 bệnh nhân trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi đều chỉ thực hiện dưới<br />
thuốc tiền mê an thân và gây tê bằng gel qua<br />
niệu đạo mà không gây khó chịu nhiều cho bệnh<br />
nhân. Rõ ràng đây là phương pháp rất đơn giản.<br />
Những thông tin trên cũng giúp chúng tôi có<br />
nhận định rằng kỹ thuật TUNA có thể thực hiện<br />
trên bệnh nhân có BL TTL lớn, kích thước bướu<br />
có thể không phải là tiêu chuẩn loại trừ cho chỉ<br />
định điều trị bằng phương pháp này(6).<br />
Cơ chế tạo nên hiệu quả của TUNA trên mô<br />
BL TTL, cho đến nay vẫn đang được khám phá<br />
tích cực. Người ta tin rằng, dòng điện đi qua 2<br />
kim cắm vào mô tuyến tiền liệt tạo ra ma sát<br />
phân tử ở mức tế bào, kế quả tạo ra nhiệt đốt<br />
nóng chỉ có ở mô, không đốt nóng đầu dò điện<br />
cực(7). Nhiệt độ cao nhất được tìm thấy tại vùng<br />
mô quanh kim cắm, làm đông, khô cháy và hoại<br />
tử mô(2). Những thương tổn do điều trị tạo thành<br />
dần dần trong nhiều tháng, kết quả tạo nên<br />
những vùng khoang rỗng trong mô tuyến tiền<br />
liệt. Bằng siêu âm qua ngã trực tràng, Scott A.<br />
Kahn và cs nhận thấy những khoang rỗng trong<br />
mô tuyến tiền liệt sau điều trị TUNA 3 tháng.<br />
Trong khi đó, Schulman và cs(5) thực hiện TUNA<br />
của tuyến tiền liệt ngay trên những bệnh nhân<br />
đang phẫu thuật cắt tận gốc tuyến tiền liệt thì<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
chứng minh rằng, thương tổn tức thì của mô BL<br />
TTL chiếm một vùng 12 x 7mm trên đại thể, còn<br />
trên vi thể thì vùng thương tổn này là 30 x<br />
15mm. Đồng thời cũng nhận thấy, niệu đạo và<br />
vỏ bọc tuyến tiền liệt vẫn không bị ảnh hưởng.<br />
Vỏ tuyến tiền liệt được bảo tồn là do nhiệt độ<br />
gian mô giảm nhanh chóng khi càng xa điện cực<br />
đầu kim, đã tạo nên bờ giới hạn rõ ràng giữa mô<br />
hoại tử và mô tuyến tiền liệt bình thường(2). Kích<br />
thước của vùng mô hoại tử phụ thuộc vào mức<br />
năng lượng sử dụng, chiều dài của kim cắm và<br />
thời gian duy trì dòng điện. Tất cả các yếu tố này<br />
đều có thể được bác sĩ điều chỉnh(4,6).<br />
Sau thời gian theo dõi, Scott A. Kahn và cs(6)<br />
nhận thấy, cổ bàng quang vẫn còn nguyên vẹn<br />
hoàn toàn. Chính vì vậy tránh được tình trạng<br />
xuất tinh ngược dòng. Trong nghiên cứu của<br />
chúng tôi, do tình trạng sức khỏe chung của<br />
bệnh nhân, chức năng tình dục ở những bệnh<br />
nhân này hầu như không còn, nên vấn đề có hay<br />
không tình trạng xuất tinh ngược dòng vẫn chưa<br />
được ghi nhận.<br />
Về tính hiệu quả của TUNA thì như thế nào?<br />
Đã có nhiều nghiên cứu báo cáo kết quả điều trị<br />
TUNA: Campo và cs – 1997(1) báo cáo nghiên cứu<br />
gồm 108 bệnh nhân, theo dõi tạ thời điểm 12 và<br />
18 tháng gồm 45 bệnh nhân với điểm số I-PSS<br />
giảm từ 20,8 xuống tương ứng còn 6,2 ± 2,9 và<br />
6,7 ± 3,8. Trị số Qmax tăng từ 8,2 ± 3,4 đến 15,9 ±<br />
2,1ml/giây và 14,1 ± 2,5ml/giây. Theo dõi của<br />
Issa(11) sau 6 tháng trên 11 bệnh nhân cho thấy<br />
điểm số I-PSS giảm 62%, QoL giảm 70% và trị số<br />
Qmax tăng 73%. Trong nghiên cứu 41 bệnh nhân<br />
của chúng tôi, theo dõi sau 6 tháng, cải thiện<br />
điểm số I-PSS trung bình khoảng 53%, từ 20,7<br />
còn 9,8. Cải thiện điểm số QoL trung bình<br />
khoảng 79%, từ 4,7 đến 1,04. Cải thiện trị số<br />
Qmax trung bình khoảng 80%, từ 8,5 đến 15,2.<br />
Như vậy, kết quả cải thiện các nghiên cứu về<br />
TUNA đều có ý nghĩa. Kết quả của chúng tôi có<br />
cao hơn một số nghiên cứu khác, có lẽ do tỉ lệ tái<br />
khám của bệnh nhân chúng tôi ít hơn nhiều. Chỉ<br />
những bệnh nhân có quan tâm đến tình trạng<br />
<br />
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
sức khỏe của mình tái khám đầy đủ, làm cho<br />
tính hiệu quả của điều trị tăng lên.<br />
Chúng tôi và nhiều tác giả khác vẫn áp dụng<br />
chỉ 2 vị trí cắm kim điều trị trong TUNA, nên<br />
thời gian điều trị, cảm giác bỏng rát khó chịu ở<br />
niệu đạo, cũng như khả năng phải can thiệp gây<br />
mê hoặc gây tê tủy sống giảm hơn hẳn so với kết<br />
quả của tác giả Scott A. Kahn và cs(6). Họ đã sử<br />
dụng 4 vị trí điều trị (4 vị trí cắm kim chia đều<br />
cho 2 thùy). Tuy nhiên, tác giả này đã nêu lên<br />
một nhận xét rất có giá trị, đó là vấn đề kích<br />
thước tuyến tiền liệt không phải là yếu tố loại trừ<br />
trong thủ thuật TUNA, khi họ đã thực hiện trên<br />
những tuyến tiền liệt có kích thước lớn cho kết<br />
quả tương tự.<br />
Vì tính an toàn của TUNA, hầu hết các tác<br />
giả đều khuyến cáo không cần thiết phải ngần<br />
ngại khi cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tiếp<br />
sau thủ thuật(1,2,3,4,5,7). Cũng như vậy, 16 bệnh<br />
nhân của chúng tôi đều được ra viện trong ngày<br />
mà không có biến chứng đáng kể nào xảy ra.<br />
Scott A. Kahn và cs(6) cũng cho rằng những<br />
bệnh nhân già có sự dung nạp TUNA dưới gel<br />
lidocain 2% bơm niệu đạo kết hợp với thuốc an<br />
thần hơn là những bệnh nhân trẻ. Chính vì vậy,<br />
dù bệnh nhân già yếu nhưng chỉ cần không có<br />
biến dạng xương gây trở ngại đặt máy soi niệu<br />
đạo là có thể thực hiện tốt thủ thuật TUNA.<br />
Trong nhiều phương pháp điều trị ít xâm hại<br />
BL TTL có hiệu quả như laser, đốt nhiệt bằng vi<br />
sóng… thì TUNA có ưu điểm là bảo tồn được<br />
niêm mạc niệu đạo không bị thương tổn và chi<br />
phí cho đầu tư cơ bản ít hơn nhiều(1,6). Chưa kể<br />
đến ở các trung tâm niệu khoa của các nước tiên<br />
tiến, chi phí điều trị TUNA còn thấp hơn nhiều<br />
so với cắt đốt nội soi BL TTL. Tuy nhiên, ở Việt<br />
Nam do điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn,<br />
TUNA vẫn còn là phương pháp điều trị khá mới<br />
lạ, chỉ rất ít trung tâm niệu khoa tiến hành được,<br />
và chi phí điều trị còn cao hơn nhiều lần so với<br />
cắt đốt nội soi BL TTL.<br />
Một bệnh nhân của chúng tôi có tình trạng<br />
tăng hoạt tính co bóp cơ bàng quang quá mức, mà<br />
không có tình trạng bế tắc dòng tiểu dưới. Sau điều<br />
<br />
5<br />
<br />