intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khả năng sử dụng chúng trong phòng trừ sâu hại ở Việt Nam - Các loại ong kí sinh họ Braconidae: Phần 2

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:173

154
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Các loại ong kí sinh họ Braconidae (Hymenoptera) và khả năng sử dụng chúng trong phòng trừ sâu hại ở Việt Nam: Phần 2 - Khuất Đăng Long gồm nội dung Chương IV - Đặc điểm sinh vật học - sinh thái học của một số loài ong kí sinh điển hình thuộc họ Braconidae, Chương V - Vai trò của các loại ong kí sinh họ Braconidae và khả năng lợi dụng chúng trong phòng trừ các loài sâu hại cây trồng nông nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khả năng sử dụng chúng trong phòng trừ sâu hại ở Việt Nam - Các loại ong kí sinh họ Braconidae: Phần 2

  1. Chương IV ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC VÀ SINH THÁI HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI ONG KÝ SINH ĐIỂN HÌNH THUỘC HỌ BRACONIDAE 1. Đặc điểm sinh vật học và hình thái các pha trước trưởng thành của một số loài OKS 1. 1. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởng thành ở Apanteles cypris Nixon Đây là loài OKS chuyên hóa ở sâu non cuốn lá nhỏ Cnaphalocrocis medinalis Guénee hại trên lúa. Sau khi ong vũ hóa được 3 giờ, trong buồng trứng của ong cái chưa phân biệt được rõ trứng thành thục, kích thước của buồng trứng rất nhỏ. Điều này chứng tỏ trứng được hình thành khá chậm trong buồng trứng. Sau khi vũ hóa được từ 20 đến 24 giờ, nếu ong cái được ăn nước đường 10%, hoặc mật ong, trong buồng trứng của ong cái đã xuất hiện trứng đã thành thục, lúc này kích thước của buồng trứng tăng lên rõ rệt. Trứng thành thục có hình dạng như quả bí dài, một đầu phình rộng, một đầu thót nhỏ lại và kéo dài ra (hình 105a). Chiều dài của trứng đạt từ 0,28-0,34mm, chỗ rộng nhất gần 0,09mm. Sau khi trứng OKS được đẻ vào cơ thể sâu non vật chủ được 3 giờ, chiều dài của trứng đạt từ 0,35-0,40mm, còn sau 24 giờ, chiều dài của trứng đã đạt đến 0,55-0,62mm. Như vậy, sau khi trứng đã được đẻ vào sâu non của vật chủ 3 và 24 giờ, sự tăng kích thước chiều dài của trứng tương ứng 1,2-1,4 lần và 1,8-1,9 lần (bảng 3). So với trứng thành thục trong buồng trứng, sau khi được đẻ vào cơ thể sâu non vật chủ, sự tăng kích thước của trứng không đáng kể so với trứng ở loài Cotesia ruficrus (Haliday).
  2. Khuất Đăng Long 198 Hình 105. Hình thái các pha phát triển trước trưởng thành của Apanteles cypris Nixon (theo Vũ Quang Côn, Khuất Đăng Long, 1989) a. Trứng thành thục trong buồng trứng, b. Ấu trùng đầu tuổi 1 và hàm phóng to, c. Ấu trùng cuối tuổi 2 và đầu, d. Ấu trùng đầu tuổi 3 và hàm phóng to Trong cơ thể sâu non cuốn lá nhỏ, trứng của OKS A. cypris phát triển từ 2-3 ngày. Nhiệt độ của không khí vào các tháng 10 hàng năm ở khu vực ngoại thành Hà Nội dao động từ 20-280C, nhiệt độ này có ảnh hưởng không rõ rệt đến thời gian phát triển của trứng. Kết quả theo dõi sự phát triển của ấu trùng ký sinh A. cypris trong cơ thể sâu non C. medinalis cho thấy, sự phát triển của các pha ong non qua 3 tuổi. Điều này cũng giống như kết luận của nhiều tác giả khi nghiên cứu các đại diện của OKS thuộc họ Braconidae, ấu trùng của ký sinh đều có 3 tuổi (Sweetman, 1964; De Bach, 1964; Vũ Quang Côn, 1986). Ấu trùng tuổi 1 (hình 105b) sau khi nở được 1 ngày có chiều dài từ 0,31-0,35mm, chiều rộng đầu từ 0,11-0,12mm. Đặc điểm dễ nhận thấy ở ấu trùng tuổi 1 ở chỗ chúng có hàm to và khỏe, không tương xứng với chiều dài của thân. Đây cũng là đặc điểm khác với ấu trùng ở loài C. ruficrus. Thông thường, trong một cơ thể sâu non cuốn lá nhỏ, thường quan sát thấy có từ 2-3 ấu trùng OKS, đôi khi lên đến 4- 5 ấu trùng cùng tuổi 1 (Vũ Quang Côn, 1989). Điều này khẳng định số trứng mà một ong cái A. cypris đẻ vào cơ thể của một sâu non từ 2-5 trứng. Sự cạnh tranh trong loài xảy ra ở giai đoạn ấu trùng ký sinh tuổi 1. Trong sự cạnh tranh, ưu thế thuộc về ấu trùng có hàm to và khỏe hơn, chúng sẽ giết chết các ấu trùng khác để khi chuyển sang tuổi 2, trong cơ thể sâu non vật chủ chỉ còn 1 ấu trùng ký sinh phát triển. Thời gian phát triển của ấu trùng tuổi 1 từ 2-3 ngày.
  3. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 199 Như vậy, ở loài A. cypris, ấu trùng ký sinh tuổi 1 có hàm to và khỏe là đặc điểm đặc trưng cho loài OKS có kén đơn. Hiện tượng cạnh tranh trong loài xảy ra dữ dội và quá trình loại trừ lẫn nhau xảy ra ngay ở giai đoạn ấu trùng tuổi 1 (Salt, 1961; Vũ Quang Côn, 1988, 1989). Ấu trùng tuổi 2 (hình 105c) có phần đầu nhỏ đi, phần thân bắt đầu kéo dài ra, chiều ngang đầu và phần ngực gần như bằng nhau, từ 0,50- 0,55mm, gấp 4 lần so với chiều dài thân ấu trùng tuổi 1. Phần đuôi của ấu trùng ký sinh co lại và phân thành 2 thùy, hàm của ấu trùng ít nhọn hơn. Dọc cơ thể của ấu trùng xuất hiện hệ thống hô hấp đã phân nhánh theo các đốt. Thời gian phát triển của ấu trùng tuổi 2 từ 5-7 ngày. Ấu trùng tuổi 3 (hình 105d) tiếp tục lớn lên về chiều dài, thân dài từ 4,5-5,0mm, chiều ngang tăng lên không đáng kể so với ấu trùng tuổi 2. Chiều rộng đầu từ 0,65-0,70mm, phần thùy đuôi co lại rất rõ mặc dù vẫn còn tồn tại. Lúc này, cơ thể của ấu trùng có sự phân đốt rõ ràng, đặc điểm thấy được rõ nhất lúc này ở ấu trùng có hàm phát triển nhọn hơn so với ấu trùng tuổi 2. Hàm nhọn và có nhiều răng có thể giúp cho ấu trùng cắn thủng vỏ cơ thể sâu non vật chủ để chui ra bên ngoài làm kén và hóa nhộng. Thời gian phát triển của ấu trùng tuổi 3 từ 7-9 ngày. Ở loài A. cypris, tuổi 3 của ấu trùng ký sinh có thể coi như kết thúc ngay sau khi ấu trùng thành thục cắn thủng vỏ cơ thể sâu non vật chủ và chui ra ngoài làm kén. Bảng 3. Sự thay đổi kích thước trứng ở hai loài nội ký sinh Apanteles cypris và Cotesia ruficrus trước và sau khi đẻ trứng vào cơ thể sâu non Kích thước Sự tăng kích Kích thước trứng sau trứng trong thước của Loài ký Thời gian khi đẻ vào sâu non buồng trứng trứng sinh theo dõi (mm) (mm) (lần) Dài Rộng Dài Rộng Dài Rộng 0,12 0,02 0,15 0,03 1,3 1,2 sau 3 giờ Apantele 0,14 0,05 0,18 0,06 1,5 1,5 s cypris 0,35 0,06 2,9 3,0 sau 24 giờ 0,46 0,18 3,4 3,6 10,35 1,2 sau 3 giờ Cotesia 0,50 1,4 ruficrus 0,03 0,03 0,55 1,8 sau 24 giờ 0,35 0,07 0,65 1,9
  4. Khuất Đăng Long 200 1. 2. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởng thành của Apanteles hanoii Tobias et Long Apanteles hanoii là loài OKS khá phổ biến ở sâu non cuốn lá đậu đỗ Omiodes indicate (F.). Trứng thành thục trong buồng trứng ong cái có hình quả mướp, màu trắng đục, chiều dài 0,1-0,15mm. Ong cái có thể đẻ 1-3 trứng vào trong một sâu non, nhưng chỉ có 1 ấu trùng OKS phát triển đến thành thục để chui ra làm kén ngoài cơ thể vật chủ. Ong non thành thục sau khi đã chui ra khỏi cơ thể sâu non để làm kén có màu trắng vàng, chiều dài thân 3,5-4,0mm. Bảng 4. Thời gian phát triển pha trước trưởng thành của A. hanoii (theo Đặng Thị Dung, 2005) Thời gian phát triển (ngày) Số cá thể theo dõi Tổng cộng (ngày) Trong vật chủ Ngoài vật chủ 35 8-12 (9,6) 4-6 (5,2) 14,8 36 7-10 (8,7) 4-6 (4,9) 13,6 40 7-10 (8,4) 3-6 (4,5) 12,9 Trung bình 8,94±0,72 5,43±0,78 13,77±0,82 Trước khi vào nhộng, ấu trùng ong có chiều dài thân còn khá lớn và có màu trắng, sau dần chuyển sang màu trắng đục và bắt đầu dệt kén, quá trình này kéo dài trong 1-2 giờ. Đến ngày thứ 3, nhộng nằm trong kén có màu nâu đến nâu đen, chiều dài nhộng từ 2,2- 2,8mm. Kích thước này gần như không thay đổi cho đến khi ong trưởng thành vũ hóa. Trong điều kiện nhiệt độ từ 25-270C, độ ẩm trên 85%, thời gian phát triển trong sâu non vật chủ trung bình 8,94±0,72 ngày, ngoài vật chủ 5,43±0,78 ngày. Thời gian phát triển các pha trước trưởng thành kéo dài từ 12-19 ngày, trung bình 13,77±0,82 ngày (bảng 4). 1. 3. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởng thành của ong vàng Bracon onukii Watanabe Loài OKS này thường gặp ở nhóm sâu đục thân hại trên lúa và mía như Chilo suppressalis, Scirpophaga incertulas, S. nivella (Pyralidae), Sesamia inferens (Noctuidae).
  5. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 201 Ấu trùng ký sinh ở tuổi nhỏ có màu trắng sữa, kích thước nhỏ, chúng sống bên trong cơ thể sâu non vật chủ, ấu trùng tuổi 3 tăng kích thước khá nhanh, trong một sâu non vật chủ phát triển từ 4-5 ấu trùng ký sinh, chiều dài thân đạt tới 3,5-4,0mm, ở tuổi này chúng có thể cắn thủng vỏ cơ thể sâu non và sống bên ngoài như một loài ngoại ký sinh, lúc này cơ thể có màu hồng, sau từ 2-3 ngày cơ thể có thể tăng lên tới 5-7mm (hình 106c). Cơ thể ấu trùng thành thục có sự phân đốt rõ ràng, có thể nhìn rất rõ hệ thống hô hấp bên trong lớp vỏ của cơ thể (hình 106c, sau khi rời khỏi sâu non vật chủ, chúng bắt đầu dệt kén, kén có màu trắng mỏng, hình trụ, nhộng dài 4,0-4,5mm, chỗ rộng nhất 1,5-2,0mm. Nhộng thường nằm bên dưới vỏ cơ thể của sâu non vật chủ đã chết. Nhộng trần đã hình thành mầm cánh và râu, cơ thể phân rõ thành đầu, ngực và bụng (hình 106d). Thời gian dệt kén có thể kéo dài đến 2 ngày, trong điều kiện phòng thí nghiệm vào tháng 8-9, giai đoạn nhộng kéo dài từ 9-14 ngày. . Hình 106. a. Hình thái đầu ấu trùng, b. Hàm ong trưởng thành, c. Ấu trùng ong tuổi 3, d. Tiền nhộng Trong tự nhiên, khả năng vũ hóa từ kén của OKS đạt khá cao, tới 73%, tỷ lệ ong cái vũ hóa thấp hơn so với ong đực, 40% ở ong cái so với 80% ở ong đực. 1. 4. Hình thái và sự phát triển của các pha trước trưởng thành của Cotesia ruficrus (Haliday) Đây là loài OKS rất quan trọng ở sâu non nhóm sâu cắn gié lúa Mythimna separata và M. venalba, cắn lá ngô Mythimna separata, M. loreyi. Loài OKS này có thể đẻ một lúc nhiều trứng vào cơ thể một sâu non của vật chủ. Ở ong cái Cotesia ruficrus, phần lớn số lượng trứng thành thục được hình thành sau khi ong cái vũ hóa từ kén được 3 giờ, sau thời gian này trở đi, số lượng trứng thành thục trong buồng trứng của ong cái tăng lên không đáng kể.
  6. Khuất Đăng Long 202 Trứng thành thục trong buồng trứng của OKS C. ruficrus có kích thước rất nhỏ, chiều dài từ 0,12-0,14mm, rộng 0,02-0,05mm. Trứng thuôn dài giống như quả bí dài, hơi phình rộng ở một phía, đầu kia thót hẹp lại (hình 107a). Ngay sau khi được đẻ vào trong cơ thể của sâu non 2-3 giờ, kích thước của trứng chưa tăng đáng kể so với kích thước trứng đã thành thục trong buồng trứng, chiều dài và chiều rộng đều tăng lên 1,2-1,5 lần (bảng 3). Tuy nhiên, sau 24 giờ kích thước trứng tăng lên đáng kể, chiều rộng tăng 2,9-3,4 lần và chiều dài tăng lên từ 3,0-3,6 lần, lúc này trứng ký sinh đã chuyển sang giai đoạn đầu của quá trình phân chia tế bào, vì vậy kích thước tăng lên đáng kể. Đây là đặc điểm khác so với nhiều loài OKS mà ở chúng có sự tăng đáng kể của trứng ngay khi được đẻ vào cơ thể vật chủ (De Bach, 1964). Trứng ký sinh C. ruficrus phát triển trong cơ thể sâu non vật chủ từ 3-5 ngày. Thời gian phát triển của trứng còn phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ và độ ẩm của không khí. Sâu non vật chủ có kích thước khác nhau cũng có ảnh hưởng đến sự phát triển của trứng ký sinh. Trong cơ thể sâu non sâu cắn lá ngô M. separata, trứng C. ruficrus có thời gian phát triển dài hơn, từ 4-5 ngày. Các giai đoạn tuổi của ấu trùng ký sinh phát triển trong cơ thể sâu non ở các loài cắn gié lúa và cắn lá ngô Mythimna spp. không có sự khác nhau. Ấu trùng tuổi 1 (hình 107b) lúc mới nở từ trứng có chiều dài từ 0,35-0,40mm, trên cơ thể ấu trùng đã phân biệt được phần đầu và thân, thân có 10 đốt, đốt cuối bụng có chiều dài hơn các đốt giữa từ 2-2,5 lần, vào ngày thứ 3 ấu trùng ở vào cuối tuổi 1 (hình 107c), chiều dài thân tăng lên từ 0,4 đến 0,6 lần, còn vào thời kỳ cuối tuổi 2, đốt bụng cuối cùng thắt nhỏ hẹp lại rất rõ nhìn giống như chiếc đuôi (hình 107e), ấu trùng ký sinh di chuyển tích cực về phía đầu của sâu non vật chủ. Sự di chuyển này của ấu trùng trong cơ thể của sâu non phù hợp với kích thước và nhu cầu cần thức ăn của chúng. Cơ thể ấu trùng ký sinh tuổi 2 có ba phần rõ rệt (hình 107d): đầu, thân và đuôi. Phần đuôi do phát triển từ đốt cuối cùng có thể thấy rõ ngay từ tuổi 1. Ấu trùng tuổi 2 dài từ 0,6-1,7mm, lúc này có thể thấy rõ toàn bộ hệ thống hô hấp qua lớp vỏ trong suốt của ấu trùng, giai đoạn cuối tuổi 2, chiều dài của ấu trùng ký sinh tăng lên đáng kể, đạt từ 1,5-2,5mm. Thời gian phát triển của ấu trùng tuổi 2
  7. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 203 từ 4-5 ngày (bảng 5), chiều dài của ấu trùng ký sinh đạt cao nhất vào ngày thứ 11, vào thời điểm này, có tới 30-35% tổng số ấu trùng tuổi 2 đã di chuyển chiếm nửa trước trong khoang cơ thể sâu non vật chủ. Việc di chuyển của ấu trùng OKS dừng lại cho đến khi chúng phân bố đều trong toàn bộ khoang cơ thể của sâu non vật chủ (hình 108). Chính vì vậy, vào thời điểm này, phần đuôi ở ấu trùng tuổi 2 phát triển mạnh để có thể dễ dàng di chuyển trong khoang cơ thể của sâu non. Hình 107. Hình thái các pha phát triển trước trưởng thành của Cotesia ruficrus (Haliday) a. Trứng thành thục trong buồng trứng, b. Ấu trùng đầu tuổi 1, c. Cuối tuổi 1, d. Ấu trùng đầu tuổi 2 và e. cuối tuổi 2, f. Ấu trùng đầu tuổi 3, g. Ấu trùng cuối tuổi 3 So với kích thước của toàn bộ cơ thể, ấu trùng ký sinh ở tuổi 2 có phần đầu nhỏ hơn nhiều so với phần đầu của ấu trùng tuổi 1, hệ thống hô hấp kéo dài và phân nhánh ở các đốt nhưng chưa lộ rõ lỗ thở trên vỏ cơ thể. Một đặc điểm khác nữa ở loài ong kén chùm C. ruficrus là ấu trùng tuổi 2 có hàm nhỏ, đây có thể là đặc điểm đặc trưng cho các loài OKS nhiều kén, cùng một lúc tồn tại nhiều ấu trùng có tuổi như nhau trong cơ thể một sâu non vật chủ. Ở loài C. ruficrus chúng tôi không thấy có hiện tượng loại trừ lẫn nhau giữa những ấu trùng ký sinh cùng tuổi. Thực nghiệm cho thấy, trong cùng một cơ thể sâu non loài cắn lá ngô Mythimna separata, số lượng ấu trùng ký sinh phát triển từ
  8. Khuất Đăng Long 204 giai đoạn tuổi nhỏ tới khi đạt thành thục để chui ra ngoài làm thành kén gần như không có sự thay đổi rõ rệt. Kiểm định bằng xác suất thống kê snedecor cho thấy, với độ tin cậy 95%, số lượng ấu trùng ký sinh phát triển trong một sâu non vật chủ và số kén được tạo thành từ một sâu non nằm trong cùng một tập hợp (bảng 7). Tuy nhiên, sự cạnh tranh ở ấu trùng ký sinh C. ruficrus có xảy ra trong trường hợp thực nghiệm khi cho ong cái ký sinh tiếp xúc với sâu non đã bị nhiễm ký sinh trước đó bởi chính nó hoặc ong cái khác, điều này bắt buộc ong cái đẻ trứng và kết quả là đã tạo ra cùng một lúc trong cơ thể một sâu non vật chủ tồn tại ấu trùng ký sinh có tuổi khác nhau, khi đó sẽ xảy ra sự cạnh tranh giữa hai nhóm ấu trùng ong cùng loài nhưng có tuổi khác nhau. Hình 108. Quá trình di chuyển của ấu trùng ký sinh Cotesia ruficrus trong cơ thể sâu non cắn lá ngô Mythimna separata Tuổi 3 ấu trùng ký sinh trải qua hai giai đoạn phát triển, giai đoạn thứ nhất ấu trùng tuổi 3, thời gian phát triển của tuổi này trong cơ thể sâu non vật chủ kéo dài từ 2-3 ngày, sau đó ấu trùng đạt đến thành thục và rời khỏi cơ thể sâu non chui ra ngoài và bắt đầu dệt kén bên ngoài cơ thể vật chủ. Ở giai đoạn đầu, kích thước ấu trùng dao
  9. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 205 động từ 0,5-4,0mm, phần đuôi ấu trùng nhỏ lại, sự phân bố của ấu trùng trong khoang cơ thể sâu non vật chủ tương đối đồng đều (hình 108). Do ít có nhu cầu thức ăn, sự di chuyển của chúng không cần thiết nữa, phần đuôi ấu trùng teo dần, ấu trùng ký sinh chuẩn bị chuyển sang môi trường bên ngoài cơ thể sâu non vật chủ (hình 107f). Giai đoạn thứ hai kéo dài trong khoảng thời gian rất ngắn, từ 60-90 phút, đó là thời gian từ lúc ấu trùng đã cắn thủng lớp vỏ cơ thể sâu non vật chủ và chui ra bên ngoài. Vị trí lỗ đục trên cơ thể sâu non vật chủ không theo một chỗ nhất định do sự phân bố ấu trùng ký sinh gần như đồng đều trong khoang cơ thể sâu non, ấu trùng có thể chui ra từ mọi phía: trên lưng, dưới bụng hoặc hai bên sườn cơ thể sâu non. Sau khoảng thời gian từ 60-90 phút, ấu trùng ký sinh đã dệt xong kén và chuyển sang giai đoạn tiền nhộng. Giai đoạn tiền nhộng của Cotesia ruficrus kéo dài 1 ngày. Ấu trùng C. ruficrus sau khi chui ra khỏi cơ thể sâu non vật chủ để làm kén chưa xác định rõ đầu, ngực và bụng, mặc dù khi đó đã phân đốt rõ ràng (hình 107g). Chỉ sau khi đã dệt xong kén, các giai đoạn phát triển trước trưởng thành của ký sinh coi như đã kết thúc. Bảng 5. Thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành ở Apanteles cypris và Cotesia ruficrus theo các tháng trong năm Nhiệt độ Thời gian phát triển của các pha ký sinh O Loài ký Loài ( C) Ấu Ấu Ấu sinh vật chủ Tiền Độ ẩm Trứng trùng trùng trùng Nhộng nhộng (%) tuổi 1 tuổi 2 tuổi 3 Sâu cuốn Tháng X Apantel lá nhỏ 25-28 2-3 3 4-6 4-6 1 3-5 es Cnaphaloc 85-90 cypris rocis medinalis Tháng XI 2-3 4 5-6 6-8 1 4-6 Cắn lá ngô Tháng II Mythimna 20-25 3-4 2-3 4-5 2-3 1 6-7 Cotesia separata 90-95 ruficrus Cắn gié lúa Tháng X Mythimna 25-28 4-5 3-5 4-5 3-5 1 7-9 venalba 85-90 Như vậy, loài ong kén chùm trắng C. ruficrus là loài nội ký sinh thực thụ, các pha trước trưởng thành được xem như có hai giai đoạn phát triển khác nhau, giai đoạn đầu (trứng và ấu trùng) phát
  10. Khuất Đăng Long 206 triển trong cơ thể của vật chủ, còn giai đoạn cuối (ấu trùng và nhộng), ấu trùng phát triển bên ngoài cơ thể của vật chủ. Trong cả hai giai đoạn phát triển, điều kiện nhiệt độ và độ ẩm của không khí có ảnh hưởng khá rõ rệt đến thời gian phát triển của chúng. Kết quả theo dõi qua các tháng khác nhau trong năm cho thấy mức độ ảnh hưởng của hai yếu tố này đến thời gian phát triển các pha trước trưởng thành của C. ruficrus (bảng 5). Từ bảng 5 có thể nhận thấy rằng, thời gian phát triển trong cơ thể sâu non vật chủ qua các tháng khác nhau có dao động lớn hơn so với thời gian phát triển bên ngoài cơ thể vật chủ. Như vậy, có thể thấy được rằng ngoài ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ và độ ẩm đến sự phát triển ấu trùng ký sinh, ảnh hưởng gián tiếp của nhiệt độ và độ ẩm thông qua thời gian phát triển nhanh hoặc chậm lại của chính sâu non vật chủ có chứa ấu trùng ký sinh ở bên trong. Ở đây, cơ thể sâu non vật chủ đã đóng vai trò là môi trường sống của ấu trùng ký sinh và sự phát triển của chúng phụ thuộc vào môi trường đặc biệt này. Bảng 6. Sự phân bố của ấu trùng ong loài Cotesia ruficrus trong cơ thể theo tuổi sâu non sâu cắn lá ngô Mythimna separata Chiều Số lượng ấu trùng ong Số ngang Chiều dài trong sâu non Tuổi Tổng số sâu đầu cơ thể ấu sâu ấu trùng non sâu trùng ong Có ở nửa trước Có ở nửa sau non ong mổ non (mm) sâu non sâu non (mm) Số Số (%) (%) lượng lượng 2 2 0,6 0,30 27 2 7,4 25 92,6 3 7 0,9-1,0 0,46 152 16 10,5 136 89,5 4 5 1,4-1,5 0,60 109 21 19,3 88 80,7 5 7 1,8-2,0 1,73 104 40 38,5 64 61,5 5 7 2,1-2,3 2,83 131 61 46,6 70 53,4 Từ bảng 5 còn có thể nhận thấy rằng, thời gian phát triển bên trong cơ thể sâu non vật chủ qua các tháng khác nhau có dao động lớn hơn so với thời gian phát triển bên ngoài cơ thể vật chủ. Điều này có thể được giải thích như sau, ngoài ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ và độ ẩm đến sự phát triển ấu trùng ký sinh, nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng gián tiếp thông qua thời gian phát triển nhanh hoặc chậm lại của chính sâu non vật chủ, sâu non vật chủ là môi trường sống của ấu trùng ký sinh đã quyết định sự phát triển nhanh hay chậm của ấu trùng ký sinh sống bên trong.
  11. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 207 Bảng 7. Mối liên hệ giữa số lượng ấu trùng OKS Cotesia ruficrus trong 1 sâu non và số kén tạo thành từ 1 vật chủ Tần suất bắt gặp số Tần suất bắt gặp số Giới hạn Giá trị lượng ấu trùng ong có lượng kén được tạo lớp trung bình trong 1 sâu non thành từ 1 sâu non 45 - 2 6 2 2 χ = 11,60 < χ (0,05, 9) = 16,92 1. 5. Hình thái và sự phát triển các pha trước trưởng thành của Cotesia vestalis (Haliday) Từ năm 1993, loài OKS này lần đầu tiên đã được chúng tôi ghi nhận từ sâu tơ hại rau họ Thập tự dưới tên Apanteles plutellae (Khuất Đăng Long, 1993), đây là loài khá phổ biến trên sâu tơ Plutella xylostella hại rau vụ đông. Về sau, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu loài OKS này và sử dụng hai tên khoa học khác nhau là Apanteles plutellae Kurdjumov và Cotesia plutellae (Kurdjumov). Trong công trình này, dựa theo tài liệu tu chỉnh danh pháp mới nhất của quốc tế (Taxapad, 2005), chúng tôi chính thức sử dụng tên có hiệu lực Cotesia vestalis (Haliday, 1834). Như vậy, ở Việt Nam, những tên loài trước đây như Apanteles plutellae hoặc Cotesia plutellae đều là tên đồng vật của Cotesia vestalis (Haliday). Đây là loài OKS kén đơn trắng, từ một sâu non sâu tơ luôn luôn chỉ phát triển được một kén (hình 109d). Trứng thành thục trong buồng trứng ở ong cái có hình quả bí dài (hình 109a), nhộng được hình thành bên trong kén sau 24 giờ đã có thể phân biệt rõ các bộ phận của cơ thể như đầu, ngực và bụng (hình 109b,c).
  12. Khuất Đăng Long 208 Hình 109. Hình thái các pha trước trưởng thành của Cotesia vestalis a. Trứng thành thục, b. Nhộng 1 ngày tuổi (mặt lưng), c. Nhộng 1 ngày tuổi (mặt bụng) và d. Kén sau khi ong vũ hóa Sau khi vũ hóa từ kén, ong cái có khả năng tìm kiếm sâu non vật chủ để đẻ trứng. Tuy nhiên, khả năng đẻ trứng của OKS có sự khác nhau đáng kể giữa ong cái đã được giao phối và chưa được giao phối. Kết quả thực nghiệm với loài ong kén đơn trắng Cotesia vestalis, ký sinh chuyên hóa ở sâu tơ Plutella xylostella hại rau họ Thập tự, cho thấy, sau khi đã được ghép cặp và giao phối với ong đực, mỗi ong cái có thể đẻ trứng vào từ 5-6 sâu non vật chủ, trong điều kiện thí nghiệm tương tự, ong cái không được ghép đôi và giao phối chỉ có thể đẻ trứng vào 1-2 sâu non vật chủ (bảng 8). Bảng 8. So sánh khả năng đẻ trứng ở Cotesia vestalis Số sâu Tuổi Số sâu non bị nhiễm ký sinh Lần thí Số OKS non tiếp sâu non nghiệm thí nghiệm SL (♀ : ♂) SL (♀ : ♂) SL (♀ : ♂) 1 lần (ngày) 1 1♀+1♂ 3 1-2 3 (1 : 2) 2 (1 : 1) 1 (1 : 0) 2 1♀+1♂ 3 1-2 3 (2 : 1) 1 (0 : 1) 1 (1 : 0) 3 1♀+1♂ 3 1-2 2 (1 : 1) 2 (2 : 0) 1 (0 : 1) 4 1♀ 3 1-2 2 (0 : 2) 1 (0 : 1) 0 (-) 5 1♀ 3 1-2 1 (0 : 1) 1 (0 : 1) 1 (0 : 1) 6 1♀ 3 1-2 2 (0 : 2) 0 (-) 0 (-) Thực nghiệm còn cho thấy, ở loài C. vestalis, sau khi ong vũ hóa, sự có mặt sâu non sâu tơ ở tuổi thích hợp (thường là tuổi 1 và 2) là yếu tố kích thích sự ghép cặp ở ong trưởng thành và quá trình
  13. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 209 đẻ trứng của ong cái xảy ra ngay sau khi đã được giao phối. Số liệu ở bảng 8 cho thấy, trong cả hai trường hợp ong cái được giao phối cũng như không được giao phối, số lượng sâu non vật chủ bị một ong cái ký sinh đẻ trứng đều giảm dần ở những lần tiếp xúc về sau (sau 20-24 giờ). Điều này chứng tỏ tuổi sinh lý của ong cái loài C. vestalis có ảnh hưởng rõ rệt đến nhịp điệu đẻ trứng của OKS. Hiện tượng OKS cái đã được giao phối có khả năng đẻ trứng nhiều hơn so với những ong cái không được giao phối cũng đã được tác giả khác nghiên cứu ở loài OKS kén trắng chùm Cotesia glomerata, ký sinh ở sâu bướm trắng hại cải Pieris rapae (Tagawa, 1987), hoặc ở loài ong kén đơn trắng C. vestalis (Velasco, 1982). Cả hai loài OKS này cũng tìm thấy ở Việt Nam, trong số đó C. vestalis có phân bố ở tất cả các vùng trồng rau, đặc biệt trên rau vụ đông ở các tỉnh miền Bắc (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), còn ở Sa Pa (Lào Cai) và Đà Lạt (Lâm Đồng) loài C. vestalis xuất hiện quanh năm, riêng loài C. glomerata chỉ còn thấy có phân bố ở khu vực núi cao Sa Pa, Lào Cai (Khuất Đăng Long, 2005). Đối với loài ong kén đơn trắng C. vestalis, trong trường hợp không được giao phối, ong cái ký sinh chỉ sinh ra các cá thể đực ở thế hệ con cháu (bảng 8). Hiện tượng xử nữ sinh này (đơn tính đực) cũng gặp ở loài Cotesia kariyai, ký sinh ở sâu đo xanh hại lúa Naranga aenescens (Khuất Đăng Long & Vũ Quang Côn, 1988). Sâu tơ được chứng minh là loài có vòng đời ngắn (Mai Phú Quý và nnk., 2000), vòng đời của loài OKS Cotesia vestalis cũng khá ngắn. Trong điều kiện phòng thí nghiệm, vào các tháng khác nhau trong năm, thời gian các pha phát triển của loài OKS này như sau: giai đoạn trong cơ thể sâu non (trứng và ấu trùng ong) từ 5-12 ngày, trung bình 7,5 ngày; thời gian phát triển ngoài vật chủ từ 4- 10 ngày, trung bình 5,1 ngày; thời gian sống của OKS trưởng thành có dao động rất lớn phụ thuộc vào nhiệt độ các tháng trong năm. Vào mùa đông và mùa xuân ở các tỉnh đồng bằng phía Bắc (từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau), tuổi thọ của ong cái kéo dài hơn so với các tháng mùa hè, tuổi thọ của ong trưởng thành từ 2 đến 9 ngày. Sâu non sâu tơ có 4 tuổi, kết quả phân tích số sâu tơ bị chết khi có ấu trùng OKS chui ra cho thấy, sâu non thường chết ở tuổi 4 với chiều ngang đầu sâu non 0,6mm, số sâu non bị chết ở tuổi này
  14. Khuất Đăng Long 210 chiếm tới 83,3%, số còn lại 16,7% sâu non chết ở tuổi 3 với chiều ngang đầu là 0,4mm. Thực nghiệm trong phòng cũng cho thấy, ong cái loài C. vestalis thường đẻ trứng vào những sâu non tuổi 1 và 2 (sâu non 2-3 ngày tuổi). Trên thực tế sâu non 1 ngày tuổi đã là ở tuổi 1, tuy nhiên, khi mới nở từ trứng, sâu non 1 ngày tuổi có cơ thể rất nhỏ, vì vậy có khả năng ong cái ký sinh C. vestalis không lựa chọn sâu non 1 ngày tuổi để đẻ trứng. Kết quả này cũng đã được một số tác giả khác nghiên cứu và đã kết luận tương tự (Vũ Thị Chỉ và nnk., 2002). Cũng theo những kết luận của các tác giả trên, số kén được tạo thành từ sâu non chỉ gặp tập trung ở sâu non 2 và 3 ngày tuổi, tương ứng số lượng ong vũ hóa được hình thành từ sâu non ở hai lớp tuổi này là 15,4% và 54,5%. Thực nghiệm của chúng tôi xác định mỗi ong cái có thể đẻ trứng vào 3-5 sâu non sâu tơ, một số tác giả khác kết luận ong cái C. vestalis có thể ký sinh tới 7-8 sâu tơ (Velasco, 1982), còn các tác giả khác (Vũ Thị Chỉ và nnk., 2002) kết luận có trường hợp mỗi ong cái ký sinh C. vestalis tạo ra được từ 25-30 kén. Ở đây, có thể thấy rằng, khả năng của một ong cái ký sinh cho sâu non sâu tơ dao động rất lớn. Tuy nhiên, xét theo số lượng ong của thế hệ con cháu từ một ong cái ký sinh không cao so với số kén được tạo ra. Cũng theo Vũ Thị Chỉ và nnk. (2002), số OKS ở thế hệ con cháu từ một ong cái ban đầu thường dao động từ 5-10 cá thể. 1. 6. Đặc điểm phát triển các pha trước trưởng thành của Dacnusa sibirica Telenga ký sinh dòi đục lá Liriomyza sativa hại trên đậu đỗ Đây là loài OKS ở pha dòi của ruồi đục lá hại đậu đỗ, loài này có phân bố rất rộng. Trứng đã thành thục trong buồng trứng có kích thước rất nhỏ, chiều dài từ 0,02 đến 0,04mm (trung bình 0,03mm), chiều rộng dưới 0,01mm, trứng có màu trắng trong đến màu trắng đục, khi sắp nở trong cơ thể dòi ruồi trứng chuyển sang màu nâu sáng. Theo Hà Quang Hùng (2002), thời gian phát triển trung bình của các pha trước trưởng thành như sau: trứng 2,87 ± 0,08; ấu trùng tuổi 1:1,08 ± 0,08; ấu trùng tuổi 2:1,90 ± 0,07; ấu trùng tuổi 3:1,88 ± 0,08; tổng thời gian phát triển của ấu trùng là: 5,75 ± 0,12; thời gian phát triển của pha nhộng là: 5,56 ± 0,29 (bảng 9).
  15. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 211 Bảng 9. Kích thước và thời gian các pha trước trưởng thành của loài Dacnusa sibirica ký sinh ruồi đục lá đậu đỗ Liriomyza sativa (theo Hà Quang Hùng, 2002) Kích thước trung bình Thời gian phát triển Pha phát triển (mm) trung bình (ngày) Dài: 0,028 Trứng 2,87 Rộng: 0,010 Dài: 0,021 Ấu trùng tuổi 1 1,08 Rộng: 0,008 Dài:0,029 Ấu trùng tuổi 2 1,90 Rộng: 0,008 Dài: 0,029 Ấu trùng tuổi 3 1,88 Rộng: 0,007 Tổng thời gian phát triển ấu - 5,75 trùng Dài:0,028 Nhộng 5,56 Rộng: 0,009 Ong cái 1,04 Vòng đời 12,58 Từ số liệu ở bảng 9 cho thấy, chiều dài của các pha phát triển trước trưởng thành ở loài D. sibirica ít có dao động lớn từ pha trứng đến ấu trùng trưởng thành ở tuổi 3, chiều dài của trứng, ấu trùng các tuổi và của nhộng gần 0,3mm. Ấu trùng có ba tuổi, tổng thời gian phát triển của ấu trùng từ tuổi 1 đến tuổi 3 và thời gian phát triển của nhộng ký sinh gần như nhau. 1. 7. Hình thái và sự phát triển các pha trước trưởng thành của Microplitis manilae Ashmead Ở Việt Nam, trong tập hợp 9 loài OKS thuộc giống Microplitis ở sâu khoang Spodoptera litura, loài Microplitis manilae thường chiếm ưu thế hơn cả (Khuất Đăng Long, 2007), đây là loài OKS thường gặp ở sâu khoang S. litura, ngoài ra, loài này còn gặp ở một số loài sâu hại khác thuộc họ ngài Đêm Noctuidae như sâu xanh Helicoverpa armigera, sâu keo Spodoptera mauritia¸ sâu đục quả đậu đỗ Maruca vitrata. Trứng OKS có hình quả dưa chuột, trứng có màu trắng trong, sau 24 giờ đẻ vào trong sâu non vật chủ, chiều dài
  16. Khuất Đăng Long 212 trung bình của trứng là 0,39±0,026mm và chỗ rộng nhất là 0,096±0,015mm (hình 110a). Ấu trùng OKS có 3 tuổi, ấu trùng tuổi 1 có phần đầu rất phát triển (hình 110b), đốt cuối cùng thót hẹp tạo thành như chiếc đuôi nhọn. Ấu trùng tuổi 3 có chiều dài cơ thể từ 1,7-3,65mm, trung bình 2,48±0,029mm; chiều rộng từ 0,55-1,4mm, trung bình 0,97±0,11mm (bảng 10), vỏ xác lột ra từ ấu trùng ong tuổi 2 còn nằm lại ở các đốt cuối bụng. Cơ thể ấu trùng OKS chuyển dần từ màu trắng sang màu trắng đục. Vào giai đoạn cuối tuổi 3, ấu trùng chuyển dần sang màu vàng đậm (hình 110b). Khi ấu trùng tuổi 3 thành thục, chúng cắn thủng vỏ cơ thể sâu non rồi chui ra làm kén bên ngoài cơ thể sâu non vật chủ. Thời gian ấu trùng ong dệt kén kéo dài từ 90-150 phút. Nhộng OKS dạng trần nằm trong kén. Kén có màu nâu xám, hình bầu dục, chiều dài trung bình của kén 3,52±0,08mm, chiều rộng trung bình 1,14±0,05mm. Hình 110. a. Hình thái trứng; b. Ấu trùng ong tuổi 3 M. manilae Thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành của OKS M. manilae phụ thuộc khá rõ vào điều kiện nhiệt độ và độ ẩm của không khí. Trong điều kiện nhiệt độ trung bình 290C, độ ẩm 83,7%, thời gian phát triển trong vật chủ kéo dài 7-11 ngày, trung bình 7,76±0,26 ngày, thời gian phát triển ngoài vật chủ từ 4-8 ngày, trung bình 4,29±0,19 ngày. Thời gian trước đẻ trứng của OKS kéo dài từ 4-8 giờ. Vòng đời của OKS M. manilae dao động trong khoảng 10-15 ngày, trung bình 12,04±0,49 ngày (bảng 11).
  17. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 213 Bảng 10. Kích thước các pha trước trưởng thành của M. manilae Kích thước (mm) Pha phát triển Số đo Min Max Trung bình Trứng 1 ngày trong Dài 0,35 0,48 0,39±0,026 sâu non Rộng 0,05 0,15 0,096±0,015 Dài 1,7 3,65 2,48±0,29 Ong non cuối tuổi 3 Rộng 0,55 1,4 0,97±0,11 Dài 3,3 3,7 3,52±0,08 Kén Rộng 1,3 1,6 1,44±0,05 Dài thân 2,6 3,1 2,91±0,08 Ong đực Cánh trước 4,8 5,5 5,21±0,11 Dài thân 2,6 3,55 3,01±0,14 Ong cái Cánh trước 5,25 5,9 5,53±0,099 Bảng 11. Thời gian phát triển các pha của OKS M. manilae (tOC=29OC, độ ẩm 85%) Số cá thể Thời gian phát triển các pha (ngày) Pha phát dục theo dõi Trong vật chủ 153 7 11 7,76±0,26 Ngoài vật chủ 67 4 8 4,29±0,19 Trưởng thành trước đẻ 4 4 giờ 8 giờ 0,27±0,05 trứng Vòng đời - 10 15 12,04±0,49 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển các pha trước trưởng thành của một số loài OKS 2. 1. Apanteles cypris Nixon Giai đoạn tiền nhộng và nhộng kéo dài trong kén của hầu hết các loài OKS đều phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện nhiệt độ và độ ẩm của không khí. Tại khu vực Hà Nội, đối với loài ong kén đơn trắng A. cypris, trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm từ tháng 6 đến tháng 9, với nhiệt độ trung bình từ 27-280C, thời gian phát triển của ấu trùng OKS trong cơ thể vật chủ sâu cuốn lá nhỏ C. medinalis dao động từ 3-10 ngày, thời gian phát triển ngoài vật chủ từ 2-8 ngày. Trong khi đó,
  18. Khuất Đăng Long 214 với điều kiện nhiệt độ vào các tháng từ 10 đến 11, thời gian phát triển trong vật chủ và ngoài vật chủ tương ứng là 13-31 ngày và 4- 19 ngày (bảng 12). Bảng 12. Thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành ở Apanteles cypris theo các tháng trong năm (theo Vũ Quang Côn, Khuất Đăng Long, 1989) Thời gian phát triển (ngày) Nhiệt độ Tổng thời O ( C) Trong cơ thể sâu Tháng Ngoài cơ thể sâu non gian trung non Độ ẩm (%) bình (ngày) Phạm Trung Trung Phạm vi vi bình bình 28,7 VI 3-9 7 2-7 4 11 80-85 28,3 VIII 5-9 7 2-5 3,8 12,8 85,0 27,2 IX 6-10 8 4-8 5,6 13,6 85,0 26,2 X 13-20 15,5 4-14 6,7 24,2 85 24,6 XI 16-31 20,8 10-19 12,2 33,0 85-90 2.2. Cotesia vestalis Haliday Ở các tỉnh phía Bắc, loài OKS này thường có mặt liên tục trên rau họ Thập tự vào mùa đông khi nhiệt độ không khí xuống khá thấp, còn ở vùng trồng rau Đà Lạt, loài này có mặt và hoạt động gần như liên tục trên rau. Ở đây, nhiệt độ có ảnh hưởng khá rõ rệt đến sự tồn tại và phát triển của loài OKS này. Theo Hồ Thị Thu Giang (2003), thời gian phát dục của các pha phát triển ở loài OKS Cotesia vestalis càng ngắn khi nhiệt độ tăng cao từ 150C đến 350C. Cụ thể ở nhiệt độ 150C, thời gian trung bình phát triển từ giai đoạn trứng đến khi ấu trùng thành thục chui ra làm kén là 22,1 ngày, giai đoạn nhộng (phát triển trong kén) là 15,1 ngày, còn sự phát triển của hai giai đoạn này tương ứng ở nhiệt độ 250C là 8,2 và 5,2 ngày, ở nhiệt độ 350C, thời gian phát triển của hai pha này chỉ còn 4,5 và 3,8 ngày.
  19. Chương IV. ĐẶC ĐIỂM SVH VÀ STH MỘT SỐ LOÀI OKS ĐIỂN HÌNH HỌ BRACONIDAE 215 Thời gian sống của ong trưởng thành loài C. vestalis cũng giảm đi rất rõ rệt khi nhiệt độ tăng lên, cụ thể ở nhiệt độ 150C, thời gian sống trung bình của trưởng thành ký sinh là 19,5 ngày, ở nhiệt độ 250C, thời gian sống của ong chỉ là 11,1 ngày, còn ở nhiệt độ cao 350C, thời gian sống trung bình của ong chỉ là 3,1 ngày (Hồ Thị Thu Giang, 2003). Mặc dù loài OKS C. vestalis có phân bố toàn cầu, chúng có sự thích nghi về nhiệt độ trong phạm vi rộng (rộng nhiệt), tuy nhiên, chúng lại chỉ hoạt động có hiệu quả nhất vào thời kỳ mùa đông ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, còn ở vùng nhiệt đới, loài OKS này chỉ hoạt động mạnh ở khu vực núi cao với khí hậu á nhiệt đới. Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm vào các tháng khác nhau đến thời gian phát triển các pha trước trưởng thành cũng được theo dõi ở loài ong kén đơn khác như Cotesia vestalis, loài OKS quan trọng ở sâu tơ Plutella xylostella (bảng 13). Ở đây, có thể thấy giữa tháng 12 và tháng 1 năm sau ít có sự khác nhau rõ rệt giữa nhiệt độ và độ ẩm không khí, thời gian phát triển các pha trước trưởng thành có sự khác nhau không rõ rệt. Bảng 13. Thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành ở Cotesia vestalis theo các tháng trong năm Thời gian phát triển (ngày) Nhiệt Trong cơ thể Ngoài cơ thể sâu Tổng thời độ (OC) Tháng sâu non non gian trung Độ ẩm Phạm Trung Phạm Trung bình (ngày) (%) vi bình vi bình 16-26 XII 8-9 8,4 8-9 6,2 14,6 85-90 18-28 I 7-8 7,6 5-6 5,5 13,1 85-90 Những kết quả nghiên cứu về loài C. vestalis cho thấy khi nhiệt độ tăng lên, thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành giảm đi rất rõ rệt, thời gian sống của ong trưởng thành giảm đi. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ 200C đến 300C, hiệu quả ký sinh tính qua số lượng sâu non bị nhiễm bởi một ong cái ký sinh có sự khác nhau không lớn. Kết quả theo dõi trong một số năm ở khu vực phụ cận Hà Nội đã cho thấy, hiệu quả ký sinh ở loài C. vestalis đạt
  20. Khuất Đăng Long 216 cao nhất (53,4%) ở nhiệt độ 250C, đạt 43% ở nhiệt độ 200C, 30% ở nhiệt độ 300C, trong khi đó tỷ lệ ký sinh thường chỉ đạt gần 10% ở nhiệt độ 31-350C. 2. 3. Dacnusa sibirica Telenga Theo dõi thời gian sống của ong trưởng thành loài D. sibirica trong những điều kiện nhiệt độ khác nhau cho thấy, nhiệt độ tăng cao, thời gian sống của ong trưởng thành giảm đi rất rõ rệt. Trong trường hợp được tiếp xúc bình thường với vật chủ, đối với ong trưởng thành sau khi vũ hóa được giao phối cũng như không được giao phối, nhiệt độ tăng từ 200C đến 350C làm giảm đáng kể thời gian sống của OKS (bảng 14). Tuy nhiên, trong hai trường hợp, hiệu quả ký sinh đối với ruồi đục lá của ong cái có giao phối cao hơn so với ong cái không được giao phối. Bảng 14. Ảnh hưởng của nhiệt độ trong phòng thí nghiệm đến thời gian sống của OKS Dacnusa sibirica (theo Hà Quang Hùng, 2002) Ong cái không giao phối Ong cái đã giao phối Nhiệt độ Số ấu trùng Số ấu trùng Thời gian Thời gian (OC) sống trung ruồi bị sống trung ruồi bị nhiễm/ 1 ong nhiễm/ 1 ong bình (ngày) bình (ngày) cái cái 20 11,3 13,9 13,6 18,1 25 7,8 20,6 10,0 26,6 30 5,1 17,6 9,7 21,4 35 3,6 10,4 4,0 11,6 3. Mối quan hệ qua lại giữa các pha phát triển của OKS với sự phát triển của sâu non vật chủ 3. 1. Apanteles cypris Nixon Kết quả theo dõi các pha trước trưởng thành của OKS kén đơn trắng A. cypris cho thấy, thời gian phát triển của các pha này phụ thuộc khá rõ vào nhiệt độ và độ ẩm của không khí vào các tháng khác nhau (bảng 12). Trong đó, thời gian phát triển trong sâu non vật chủ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2