TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015<br />
<br />
<br />
<br />
Khai thác yếu tố ngoài văn bản trong dạy – học<br />
Văn học dân gian ở trường đại học<br />
Exploiting elements outside the text of teaching and learning Folklore at university<br />
<br />
ThS. Mai Thị Huệ<br />
Trường Đại học Đồng Nai<br />
<br />
M.A. Mai Thi Hue<br />
The University of Dong Nai<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Qua kinh nghiệm thực tế giảng dạy chúng tôi thấy tự học, tự nghiên cứu là một trong những cách học<br />
tốt nhất. Cách học này giúp người học nâng cao trình độ kiến thức, nhanh chóng chiếm lĩnh vấn đề cần<br />
tìm hiểu. Mỗi ngành học, môn học có thể áp dụng cách tự học khác nhau. Ở bài viết này, chúng tôi đề<br />
cập đến vấn đề cách tự học, tự nghiên cứu trong bộ môn Văn học dân gian ở trường đại học từ phương<br />
diện khai thác các yếu tố ngoài văn bản của bộ môn này trong giảng dạy ở trường đại học.<br />
Từ khóa: kinh nghiệm, tự học, tự nghiên cứu, văn học dân gian Việt Nam…<br />
Abstract<br />
Through practical teaching experience, we realize that self-study and research is one of the best ways of<br />
learning. It helps students improve their academic level, grasping the subject more quickly. For different<br />
fields and academic subjects, different methods of self – study should be used. This paper discusses self<br />
– study and research methods in the popular literature subject in colleges with regards to making use of<br />
– document element of this subject in teaching at the university.<br />
Keywords: methodology, self-study and research, Vietnamese folklore…<br />
<br />
<br />
1. Mở đầu hơn trong thực tiễn hoạt động dạy và học.<br />
Tự học, tự nghiên cứu là một trong Hai tác giả Phạm Gia Đức - Phạm Đức<br />
những cách học tích cực, nếu không muốn Quang đã viết “Cốt lõi là tự học, là quá<br />
nói là tích cực nhất. Tự học (Teach trình phát triển nội tại trong đó chủ yếu là<br />
oneself) hiểu một cách đơn giản là tự mình tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong<br />
tư duy, sử dụng năng lực (bao gồm tất cả phú giá trị mình bằng cách thu nhận xử lí<br />
các năng lực về trí tuệ, tình cảm, cơ bắp…) và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri<br />
của mình để chiếm lĩnh tri thức, biến thức bên trong của con người mình”(1).<br />
những tri thức của nhân loại thành sở hữu Giáo sư Văn Như Cương cũng cho rằng<br />
riêng của mình. Cách học này quyết định “Tự học là phương pháp tốt nhất để phát<br />
một phần lớn đến việc chiếm lĩnh kiến thức huy trí tuệ, để nắm vững kiến thức và linh<br />
của cá nhân người học nhằm giúp người hoạt áp dụng”(2)<br />
học ứng dụng kiến thức đó một cách tốt Văn học dân gian (VHDG) với tư cách<br />
<br />
60<br />
là một bộ phận cấu thành nền văn học dân Thứ nhất, người học thiếu hẳn một<br />
tộc không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nền tảng tri thức liên ngành để tiếp cận và<br />
việc hình thành và phát triển của nền văn cảm thụ đầy đủ các giá trị văn hoá, thẫm<br />
học viết mà còn có mối quan hệ chặt chẽ, mỹ của tác phẩm. Mỗi tác phẩm VHDG là<br />
không thể tách rời với lịch sử, văn hoá của một tác phẩm văn hoá, ẩn chứa nhiều mã<br />
dân tộc. Với tính chất như vậy “nền văn văn hoá, lịch sử và các biểu tượng, kiến<br />
học nói” (để phân biệt với “nền văn học thức liên ngành. Xin đơn cử một ví dụ:<br />
viết”) sớm được đưa vào giảng dạy trong Việc tiếp cận truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh<br />
nhà trường ở nhiều cấp học. Riêng ở Đại rất cần đến nền tảng tri thức liên ngành và<br />
học, VHDG là phân môn có thời lượng đến kiến thức thể loại (trong tự sự dân gian).<br />
5 đơn vị học trình hoặc một học phần 3 tín Nếu kiến thức thể loại cho phép sinh viên<br />
chỉ. Đây là môn học có những đặc trưng giải quyết vấn đề thể loại của văn bản<br />
riêng, đòi hỏi người dạy và người học cần (truyền thuyết hay thần thoại) thì kiến thức<br />
có những phương pháp phù hợp để đạt liên ngành như lịch sử, khí tượng thuỷ văn<br />
được mục tiêu dạy – học. Một trong những (của sông Hồng), dân tộc học… sẽ giúp các<br />
cách thức đó chính là việc khai thác các em có được cái nhìn toàn vẹn về các giá trị<br />
yếu tố ngoài văn bản trong quá trình dạy – văn hoá của tác phẩm này. Tiếp cận theo<br />
học. Xuất phát từ thực tiễn dạy học ở Đại hướng này, sinh viên sẽ thấy, truyện Sơn<br />
học Đồng Nai, bài viết của chúng tôi tập Tinh Thuỷ Tinh hàm chứa những tri thức<br />
trung nghiên cứu việc vận dụng những yếu dân tộc học, đó là chế độ quần hôn đang<br />
tố ngoài văn bản trong dạy – học môn Văn dần bị thay bằng chế độ hôn nhân một vợ<br />
học dân gian trong trường Đại học, giúp một chồng. Cùng với chế độ hôn nhân ấy là<br />
phục vụ tốt hơn công tác này trong quá tục thách cưới, tục con gái lấy chồng cư trú<br />
trình giảng. bên nhà chồng, tục lại mặt sau đám cưới…<br />
2. Nội dung Và đặc biệt truyện còn phản ánh 2 tín<br />
2.1. Thực tế giảng dạy VHDG hiện nay ngưỡng quan trọng bậc nhất của người Việt<br />
trong Trường Đại học Đồng Nai là là tín ngưỡng thờ tự nhiên (tục thờ thần<br />
Như đã nói ở trên, VHDG có những núi) và thờ cúng con người (tục thờ các vị<br />
đặc trưng riêng, bản thân tác phẩm VHDG anh hùng có công lao lớn với cộng đồng,<br />
cần được nhìn nhận như một quá trình; thờ các vị tổ tiên khai sáng đất nước…).<br />
trong mối quan hệ với các yếu tố văn hoá Như vậy, việc xác định vai trò và vị trí của<br />
lịch sử và đặc điểm diễn xướng của từng truyện này trong hệ thống truyền thuyết<br />
thể loại. Đặc trưng này tạo nên những giá người Việt cũng trở nên dễ dàng hơn<br />
trị đặc biệt của tác phẩm VHDG đồng thời (truyện phản ánh một thời kỳ huy hoàng,<br />
cũng gây không ít khó khăn trong quá trình quan trọng bậc nhất trong lịch sử dân tộc:<br />
tiếp nhận nó. Thực tế giảng dạy phân môn Thời kì Hùng Vương dựng nước). Và tất<br />
VHDG Việt Nam ở Trường Đại học Đồng nhiên, những băn khoăn về tính đa chủ đề<br />
Nai, chúng tôi nhận thấy việc dạy – học của truyện cũng được giải quyết. Sinh viên<br />
VHDG chưa đạt được kết quả như mong hoàn toàn có thể tự giải thích vì sao về bản<br />
đợi có nhiều nguyên nhân, xuất phát từ chất truyện là thần thoại nhưng sách giáo<br />
nhiều phía (trong nội dung bài viết này chỉ khoa trong chương trình phổ thông lại gọi<br />
xin nói về người học). là truyền thuyết và muốn dạy theo chủ đề<br />
<br />
61<br />
này (chủ đề ngợi ca lao động, khắc phục trong việc tìm kiếm tài liệu để đọc và khả<br />
những trở ngại của thiên nhiên (lũ lụt) của năng tương tác với giáo viên là chưa cao.<br />
người Việt cổ để tổ chức đời sống, tạo Khả năng làm việc theo nhóm để giải quyết<br />
dựng nền móng cho một nền văn minh lúa nhiệm vụ học tập của các em cũng hạn chế.<br />
nước sau này). Về điều này, tác giả Trần Minh Hường,<br />
Việc thiếu hẳn nền tảng tri thức liên cũng cho rằng: “… trong thực tế hiện nay,<br />
ngành dẫn đến có rất nhiều câu hỏi (hoặc đa số sinh viên chưa ý thức một cách đầy<br />
vấn đề) chúng tôi đặt ra, sinh viên còn lúng đủ về vấn đề tự học. Họ đang lúng túng<br />
túng hay trả lời “đúng mà chưa trúng”, nhất trong việc tự chiếm lĩnh tri thức, nhưng<br />
là những câu hỏi mang tính “hàn lâm”. vấn đề quan trọng hơn là tính thụ động. Rất<br />
Chẳng hạn: “Qua ví dụ cụ thể, anh (chị) nhiều giáo viên ở các trường ĐH, CĐ đã<br />
hãy nêu điểm giao thoa giữa các thể loại than phiền về việc ứng dụng phương pháp<br />
VHDG” thì sinh viên trả lời loanh quanh, dạy học mới chưa thực sự hiệu quả. Một<br />
hoặc sự cảm thụ tác phẩm VHDG chưa trong những nguyên nhân quan trọng của<br />
cao, có khi ngây ngô nếu không muốn nói thất bại này chính là ở người học” [Trần<br />
là sai lệch (ví như yêu cầu bình giảng bài Minh Hường (2006), “Tự học – Bí quyết<br />
ca dao: “Rủ nhau xuống bể mò cua…” sinh thành công”, GDTĐ số tháng 7](3).<br />
viên nhầm “bể” là dụng cụ đựng nước Thứ ba, việc dạy – học tác phẩm<br />
mưa; quả mơ nhầm với “mơ” ngâm đường VHDG hiện nay chủ yếu tiếp cận trên văn<br />
ở Hà Nội… rồi cứ thế mà thắc mắc, mà bản ngôn từ. Điều này không sai nhưng<br />
“tán” (!). Hay khi người dạy yêu cầu kể, chưa hoàn toàn phù hợp với đặc trưng loại<br />
đọc một số tác phẩm VHDG như truyện hình foklore này. Chúng ta biết rằng, tác<br />
thần thoại, truyện cười, truyện ngụ ngôn, phẩm VHDG luôn gắn với môi trường diễn<br />
sử thi, truyện thơ, thành ngữ, …có rất xướng, tính thực hành sinh hoạt. Nói cách<br />
nhiều sinh viên không kể và đọc được, đặc khác, đây chính là nơi bộc lộ tất cả các đặc<br />
biệt là những thể loại, tác phẩm VHDG của điểm và giá trị của nó. Nhìn nhận, tiếp cận<br />
dân tộc thiểu số (như truyện thơ hay sử VHDG trong môi trường diễn xướng là<br />
thi). Vì sao lại có cách hiểu, cách cảm đưa tác phẩm trở về đúng môi trường sản<br />
trong tình trạng trên? Phải chăng do chưa sinh và hành dụng của nó. Chẳng hạn, dạy<br />
thực sự tạo cho mình một thói quen tự học, về ca dao dân ca (đặc biệt giao duyên) và<br />
tự nghiên cứu tìm tòi đọc tài liệu dẫn đến hát ru sinh viên không thể “hình dung” môi<br />
vốn kiến thức về VHDG quá ít? trường diễn xướng mà cần được thấy, trải<br />
Thứ hai, tính thụ động trong học tập nghiệm quan sát mới cảm hết được giá trị<br />
của sinh viên là một trở ngại vô cùng lớn của nó. Điều này ở các trường Đại học và<br />
trong việc tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm Cao đẳng về cơ bản là chưa thực hiện được<br />
VHDG. Mặc dù trong quá trình giảng dạy, do những hạn chế về điều kiện thời gian và<br />
ngay từ đầu phân môn, giảng viên đã cung cơ sở vật chất. Việc đưa sinh viên đi thực<br />
cấp cho sinh viên Đề cương chi tiết học tế, điền dã phục vụ cho việc học tập học<br />
phần theo từng vấn đề, giới thiệu tài liệu phần này là khó khả thi bởi những quy<br />
bắt buộc, tài liệu tham khảo liên quan,… định về thời gian, cơ chế… Rõ ràng, nếu<br />
để định hướng cho sinh viên nghiên cứu. chỉ tiếp cận trên bình diện ngôn từ văn bản<br />
Tuy nhiên, tính chủ động của sinh viên thì không thể khai thác hết các giá trị và ý<br />
<br />
62<br />
nghĩa của tác phẩm. Đây cũng là hạn chế được…<br />
nói chung không chỉ ở trường chúng tôi mà Khác với văn học viết, VHDG có<br />
còn ở nhiều trường khác được các đồng những đặc điểm, thuộc tính (hay đặc trưng<br />
nghiệp chia sẻ. cơ bản): tính tập thể, tính truyền miệng,<br />
2.2. Khai thác các yếu tố ngoài tính vô danh, tính biểu diễn (hoặc diễn<br />
văn bản – một định hướng đề xuất xướng), tính dị bản, tính đa chức năng và<br />
Để cảm thụ được hết cái hay, cái đẹp nguyên hợp. Tính đa chức năng và tính<br />
của VHDG chúng ta không chỉ tìm hiểu nguyên hợp là hai mặt của một vấn đề (tính<br />
VHDG bằng văn bản ngôn từ (dĩ nhiên văn nguyên hợp sản sinh ra tính đa chức năng.<br />
bản ngôn từ là yếu tố cốt lõi) mà phải tìm Tính đa chức năng phản ánh tính đa ngành,<br />
hiểu nó trong văn hóa dân gian, trong môi đa lĩnh vực nghệ thuật và khoa học trong<br />
trường sinh thành, tồn tại, biến đổi và phát sáng tác dân gian). Về chức năng VHDG,<br />
triển của nó. Có nghĩa, chỉ khi hòa mình ngoài bốn chức năng chung của văn học<br />
vào các sinh hoạt của dân gian nơi diễn nói chung, VHDG còn có chức năng quan<br />
xướng VHDG ta mới thấy hết được sự hồ trọng chủ yếu là chức năng thực hành trong<br />
hởi, phấn khởi, vui nhộn (lễ hội) hay sự tán đời sống. Chính vì thế, tiếp nhận tác phẩm<br />
thành, đau thương, không đồng tình (giao VHDG ngoài văn bản ngôn từ ta cần phải<br />
tiếp),… trong từng cử chỉ, điệu bộ, thái độ, có môi trường tồn tại thực hành của nó. Có<br />
động tác, không gian, âm thanh… mà ở thể khái quát bằng sơ đồ sau và so sánh nó<br />
văn bản ngôn từ VHDG không thể thấy với văn học viết:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Văn học<br />
Văn học viết<br />
dân gian<br />
<br />
<br />
<br />
Rõ ràng, tiếp nhận VHDG không chỉ một thành tố của văn hóa dân gian chỉ có<br />
trên văn bản ngôn từ mà tiếp nhận nó như thể phát huy đầy đủ chức năng thẩm mĩ khi<br />
nó tồn tại sinh thành và biến đổi. Nói cách gắn bó với các thành tố khác”(4) hay tác giả<br />
khác, ngoài văn bản ngôn từ ta cần tìm hiểu Chu Xuân Diên: “là thành phần chủ yếu<br />
VHDG ở các yếu tố ngoài ngôn từ và trong trong tổng thể sinh hoạt văn hóa nghệ thuật<br />
tính liên văn bản. Tuy nhiên, cũng cần phải dân gian, văn bản văn học dân gian Việt<br />
thấy rằng, trong môi trường lớp học hiện Nam đậm dấu vết của những thành phần<br />
nay, để thực hiện được việc tìm hiểu yếu tố không phải văn học của tổng thể đó”(5).<br />
ngoài văn bản hãy còn không ít khó khăn. Đặc trưng của VHDG tạo ra những yếu tố<br />
Dù vậy, không thể không làm. Nói như tác ngoài văn bản ngôn từ, nếu người tìm hiểu<br />
giả Đinh Gia Khánh: “Nghệ thuật ngữ văn, bỏ đi những yếu tố ấy thì tác phẩm VHDG<br />
<br />
63<br />
không còn là bản thân nó nữa. (các yếu tố tự sự, trữ tình, kịch kết hợp)<br />
1. Nhận diện các yếu tố ngoài văn bản dẫn đến sự tổng hợp về phương pháp sáng<br />
Hiểu một cách đơn giản, yếu tố ngoài tác; tổng hợp về phương tiện nghệ thuật<br />
văn bản là các yếu tố không nằm trong văn (vũ, nhạc, động tác…). Điều này sinh ra<br />
bản tác phẩm (được in ấn trong sách, giáo tính liên văn bản của VHDG.<br />
trình) mà có liên quan đến các giá trị, nội 2. Tổ chức thực hiện nhằm khai thác<br />
dung, ý nghĩa của tác phẩm. Những yếu tố triệt để các yếu tố ngoài văn bản<br />
ngoài văn bản có thể là các làn điệu dân Các hình thức tổ chức rất đa dạng, có<br />
ca, các cách thức diễn xướng, phương thức thể sử dụng một hình thức, cũng có thể kết<br />
tồn tại, sự vận động trong đời sống dân hợp vài ba hình thức với nhau. Có thể kể<br />
gian, các chức năng sinh hoạt thực hành xã đến một số hình thức sau:<br />
hội của VHDG. Cũng có những yếu tố - Sân khấu hóa để một phần nào đó tái<br />
được nhắc đến trong văn bản nhưng chỉ có hiện không khí dân gian, hoàn cảnh giao<br />
thể cảm nhận được khi chính người tiếp tiếp. Ngoài phần thực hành được quy định<br />
cận được trải nghiệm. Chẳng hạn, trong trong “phần cứng” của chương trình học tín<br />
truyền thuyết nói đến tính thiêng (ngài hiển chỉ, cần thiết tổ chức thêm những giờ/ đêm<br />
linh, hiển thánh, hoặc ngôi đền rất thiêng, sinh hoạt để diễn một trích đoạn chèo<br />
người dân thường ra đó cầu tự…). Chi tiết Quan âm Thị Kính hoặc Xúy Vân giả dại<br />
này được mô tả khá đơn giản và rất dễ bị hay một trích đoạn tuồng Nghêu, Sò, Ốc,<br />
bỏ qua khi tiếp cận từ mặt ngôn từ. Tuy Hến,…Ở Trường Đại học Đồng Nai hoàn<br />
nhiên, tính thiêng lại là một đặc trưng quan toàn có khả năng thực hiện hình thức này<br />
trọng của truyền thuyết. Đây là cơ sở niềm (giảng viên, sinh viên nghiên cứu tự tập<br />
tin của nhân dân đối với các vị anh hùng có hoặc mời chuyên gia như cô Lưu Thị Kim<br />
công với dân với nước. Tính thiêng chỉ Cúc, nguyên giảng viên của Trường ĐN đã<br />
được cảm nhận đầy đủ khi người tiếp nhận từng đóng vai Xúy Vân rất hay trên sân<br />
tham dự, trải nghiệm ở môi trường diễn khấu Đại học Vinh)<br />
xướng (tham gia vào lễ, tế trong lễ hội - Diễn kể về một truyện truyền thuyết,<br />
chẳng hạn…). Ngoài ra, có thể kể đến các truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, chèo...<br />
yếu tố ngoài văn bản một cách khái quát Yêu cầu SV phải tập và tự thể hiện, có thể<br />
như ở các chức năng và loại hình của tác thực hiện kể bằng cách phân vai.<br />
phẩm VHDG như: - Thi đố, cá cược ở hình thức câu đố,<br />
- Chức năng ứng dụng thực hành: bao đồng giao để thấy được sự vui nhộn, phấn<br />
gồm môi trường (lễ hội, sinh hoạt, lao khởi, hồ hởi, thi đua, tranh tài, hay hả hê, ủ<br />
động, vui chơi, giải trí, giao tiếp…) sinh dột…<br />
thành, tồn tại, phát triển, biến đổi; cử chỉ, - Thực hành nói diễn cảm, có vần<br />
điệu bộ, thái độ…; nhạc, vũ…; không gian, điệu, vận dụng cách nói đệm/ nói xen ca<br />
không khí dân gian. dao, tục ngữ, vè. Chẳng hạn: cho 2 bạn cãi<br />
- Loại hình nguyên hợp: VHDG không nhau thật hăng, đang cao trào thì bạn thứ 3<br />
chỉ có ý thức thẩm mĩ về mặt ngôn từ mà xuất hiện can ngăn: “Thôi mà, một sự nhịn<br />
còn là khoa học (truyện thần thoại, tục là chín sự lành đấy bạn ạ”v.v…<br />
ngữ…), triết học, tôn giáo, đạo đức; tính - Hát hò đối đáp dân ca, hát ru…các<br />
chất tổng hợp về phương thức biểu hiện vùng miền nước ta. Đã dạy và học VHDG,<br />
<br />
64<br />
cả người dạy lẫn người học (nhất là người lũy được tri thức VHDG. Điền dã là một<br />
dạy) tối thiểu phải trang bị cho mình “nằm phương pháp tối thiết của dạy - học VHDG<br />
lòng” một số câu hát xoan, hò, lý, ví, dặm, vì qua đó người học sẽ được làm quen với<br />
ru Bắc bộ, ru Nam bộ,…Trên cơ sở đó phải công tác thu thập tài liệu, xử lí tài liệu, bảo<br />
biết phát hiện trong SV những em ham quản tài liệu và sử dụng tài liệu hiệu quả.<br />
thích, có năng khiếu để tổ chức những buổi Hình thức học qua cách điền dã giúp người<br />
hát này (hoặc kết hợp khi đi điền dã, du học trực tiếp tiếp xúc với văn bản trong dân<br />
lịch,…) gian, trực tiếp tiếp xúc với những người<br />
- Giả thiết tình huống, hoàn cảnh giao sáng tác lưu truyền, với không khí dân gian<br />
tiếp để hiểu tác phẩm VHDG với những ý thực mà qua nguồn tài liệu sách vở nào<br />
nghĩa khác nhau trong văn cảnh khác nhau cũng không thể có được. Nói như<br />
tạo ra… bởi nó là văn học ứng dụng nên ai Iu.M.Xôcôlôp (1889-1941): “Cần phải coi<br />
cũng có thể vận dụng. Ví dụ: câu ca dao là đã lỗi thời rồi, cái thời mà nhà nghiên<br />
“Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu giải cứu folklore có thể không kiêm nhà sưu<br />
yếm cho chàng sang chơi”, chỉ khi đưa câu tầm và nhà quan sát trực tiếp sự tồn tại của<br />
ca dao trên vào giả dụ hoàn cảnh giao tiếp folklore trong đời sống thực tế”.(6)<br />
trực tiếp ta mới thấy tình cảm của cô gái 3. Kết luận<br />
bộc lộ như thế nào với chàng trai một cách Trong phạm vi một bài viết, chúng tôi<br />
đúng mức (phải trực tiếp nhìn, nghe thái chưa có dịp đề cập đến toàn bộ nội dung<br />
độ, nét mặt, cử chỉ, giọng nói ta mới thấy công tác dạy - học Văn học dân gian ở<br />
cô gái đang thổ lộ tình yêu mãnh liệt, có trường Đại học đã được đề cập tới khá<br />
phần táo bạo nhưng không kém phần tế nhị nhiều trong các giáo trình, sách chuyên<br />
dịu dàng của cô gái với chàng trai, với khảo,… mà chỉ tập trung vào một khía<br />
mong ước và sự “mách nước” cho chàng cạnh: khai thác các yếu tố ngoài văn bản.<br />
trai rút gần khoảng cách). Hoặc câu tục Nhưng ngay ở khía cạnh này, do nhiều<br />
ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” là câu nguyên nhân khác nhau nên chúng tôi cũng<br />
khuyên người nhưng tùy vào người ứng chưa đề cập được đầy đủ, thấu đáo những<br />
dụng trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau nội dung của nó.<br />
cho ra nghĩa khác nhau: khuyên mua đồ Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là: tự<br />
dùng, khuyên chọn người, khuyên cách tìm hiểu, nghiên cứu VHDG đối với người<br />
sống, khuyên rèn tính cách v.v… dạy, người học hay người yêu thích bộ<br />
- Ứng dụng công nghệ thông tin: xem môn này là một trong những phương pháp<br />
ca hát, lễ hội, diễn truyện...bằng phim ảnh, học hữu ích nhất. Tất nhiên, khi nghiên cứu<br />
âm thanh. Điều này rất tốt và quen thuộc VHDGVN chúng ta phải có phương pháp,<br />
nhưng cần lưu ý: chỉ vận dụng chứ nhất phải dựa vào các tiêu chí cụ thể, vào đặc<br />
thiết không lạm dụng. thù của VHDG mà nghiên cứu, tìm hiểu và<br />
- Điền dã: Ngoài công tác điền dã quy khai thác các yếu tố ngoài văn bản là một<br />
định trong chương trình để SV làm quen trong các phương pháp đó. Với những gợi<br />
việc sưu tầm, thu thập tài liệu, cần linh ý về các phương pháp tự học, tự nghiên<br />
động tổ chức nhóm/ lớp tận dụng các lễ hội cứu VHDGVN nói trên, chúng tôi hi vọng<br />
ở địa phương, các buổi giỗ tiền hiền ở dòng rằng điều đó sẽ ít nhiều mang lại hiệu quả<br />
họ hay lễ hội đình làng để SV hiểu và tích tốt cho mọi người trong việc nghiên cứu,<br />
<br />
65<br />
dạy và học môn VHDG. Chúng tôi mong 6. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam,<br />
Tập 1, Nxb Giáo Dục.<br />
sao việc tự học, tự nghiên cứu sẽ tạo thành<br />
một thói quen - một phương pháp học tích TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
cực và các hoạt động ngoài văn bản này sẽ<br />
khơi nguồn cảm hứng say mê, yêu thích 1. Nguyễn Bích Hà (2006), (Tuyển chọn và giới<br />
thiệu), Văn học dân gian Việt Nam- Tác phẩm<br />
của người dạy cũng như người học đối với dùng trong nhà trường, Nxb Thanh Niên.<br />
môn VHDG. 2. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học dân gian<br />
Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2004.<br />
Chú thích 3. Nguyễn Xuân Lạc (1998), “Giảng dạy VHDG<br />
1. Phạm Gia Đức – Phạm Đức Quang (2007), Giáo theo thi pháp VHDG”, Văn học dân gian Việt<br />
trình dạy học sinh trung học cơ sở tự lực tiếp cận Nam trong nhà trường, Nxb Giáo dục.<br />
kiến thức toán học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.<br />
4. Bùi Mạnh Nhị (2008), Văn học dân gian<br />
2. http://vov.vn/xa-hoi/gs-van-nhu-cuong-tu-hoc-la- những tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục.<br />
phuong-phap-tot-nhat-223662.vov<br />
5. Bùi Mạnh Nhị (2008), (chủ biên), Văn học<br />
3. http://web.hanoi.edu.vn/newsdetail.asp?NewsId=2<br />
654&CatId=102 dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb<br />
Giáo dục.<br />
4. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn<br />
hóa dân gian. Nxb Khoa học Xã hội. 7. Hoàng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam,<br />
5. Chu Xuân Diên (1989), Văn hóa dân gian – những Nxb Giáo dục, 1998.<br />
lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 20/5/2015 Biên tập xong: 15/8/2015 Duyệt đăng: 20/8/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
66<br />