KHẢO CỨU MỘT SỐ CHỢ LÀNG Ở THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI THỜI MẠC<br />
TRƯƠNG THỊ THU THẢO<br />
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Thành Hóa Châu là nơi đóng lỵ sở của thừa tuyên Thuận Hóa dưới<br />
thời Lê - Mạc. Cùng với việc hoàn thiện phần đô, xây dựng Hóa Châu thành<br />
trung tâm chính trị – quân sự vững chắc ở vùng biên viễn phương Nam, phần<br />
thị cũng phát triển tiệm tiến dần như một quy luật tất yếu mang tính chất bổ<br />
trợ, với những hoạt động nhộn nhịp của các chợ làng chủ yếu ở khu vực<br />
xung quanh Hóa Thành. Thông qua những ghi chép trong Ô Châu cận lục<br />
của Dương Văn An, chúng tôi phục dựng lại diện mạo chợ làng Thừa Thiên<br />
Huế dưới thời Mạc trong mối tương quan với phần đô Hóa Thành để thấy<br />
được quá trình đô thị hóa đầu tiên trên vùng đất Thừa Thiên Huế.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Giống như bao làng Việt khác, làng xứ Huế là một thực thể xã hội nên quá trình phát sinh,<br />
phát triển của nó cũng là quá trình vận hành theo quy luật vận động và phát triển của các<br />
hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Do đó, trong việc nghiên cứu về làng xã Thừa<br />
Thiên Huế, có thể xét từ nhiều góc độ khác nhau nhưng không thể hiểu thực chất nếu<br />
không chú ý đúng mức đến lĩnh vực kinh tế - nhân tố quyết định sự tồn tại của bất kỳ một<br />
thiết chế xã hội nào. Nông nghiệp với vấn đề nổi bật là diễn trình phát triển của chế độ<br />
ruộng đất, hay thủ công nghiệp với sự hình thành và phát triển của các nghề và làng nghề<br />
thủ công truyền thống đã là mảng đề tài hấp dẫn, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên<br />
cứu. Trong khi đó, thương nghiệp làng xã với hoạt động chủ yếu của chợ làng vẫn là một<br />
vấn đề mở, cần có sự quan tâm nghiên cứu một cách thoả đáng, hệ thống hơn để thấy<br />
được quá trình hình thành, phát triển; vai trò, vị trí của nó trong lịch sử. Bước đầu, chúng<br />
tôi tiến hành khảo cứu về một số chợ làng ở Thừa Thiên Huế vào thời Mạc, đặt cơ sở cho<br />
việc nghiên cứu chợ làng ở vùng đất này trong các thời kỳ kế tiếp.<br />
2. MỘT SỐ CHỢ LÀNG THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI THỜI MẠC<br />
Kể từ khi trở thành một bộ phận của lãnh thổ Đại Việt vào năm 1306, xứ Thuận Hóa nói<br />
chung và Thừa Thiên Huế nói riêng chỉ được điểm xuyết sơ lược trong An Nam chí<br />
nguyên của Cao Hùng Trưng, Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Mãi cho đến năm 1555,<br />
vùng đất này mới được phác họa khá rõ nét trong tác phẩm Ô Châu cận lục của Dương<br />
Văn An 1. Thông qua những trang mô tả, liệt kê vừa mang tính tổng luận vừa có tính cụ<br />
1<br />
<br />
Theo soạn giả Dương Văn An, sách này xuất phát từ hai bản ghi chép về phủ Tân Bình và phủ Triệu<br />
Phong của hai nho sinh đồng hương với soạn giả. Năm 1553, nhân về quê cư tang, ông gặp được hai bản<br />
thảo này, liền khảo cứu thêm trong sử sách và vận dụng những điều mắt thấy tai nghe, chỗ rườm rà thì bỏ<br />
bớt, chỗ sơ sài thì bổ sung, hoàn tất vào năm 1555, đặt tên mới là Ô Châu cận lục. Như vậy, những điều<br />
mà ông ghi chép trong tác phẩm xảy ra vào khoảng những năm 40, 50 (hoặc trước đó) của thế kỷ XVI,<br />
tương ứng với thời gian vùng đất này đặt dưới sự cai quản của nhà Mạc từ năm 1527 (khi nhà Mạc được<br />
thiết lập) cho đến năm 1554 (khi quân Mạc đóng ở đây bị quân nhà Lê đánh bại). Mặt khác, căn cứ vào<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 04(16)/2010: tr. 88-95<br />
<br />
KHẢO CỨU MỘT SỐ CHỢ LÀNG Ở THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI THỜI MẠC<br />
<br />
89<br />
<br />
thể của ông, những phong cảnh núi sông, sản vật, thuế khóa, phong tục tập quán, thành<br />
trì, chợ búa, cầu ải, trạm dịch, bến đò, địa danh các làng xã đã trở thành những mảnh<br />
ghép trong bức tranh xứ Thuận Hóa sau hai thế kỷ rưỡi xây dựng và phát triển:<br />
“…Chốn đồng ruộng lấy việc cày cấy, nuôi tằm tơ làm chính. Miền sông biển lấy nghề<br />
muối mắm làm kho của trời cho… Tôm cá đánh bắt ở sông hồ, nơi nào chẳng có. Gỗ<br />
nứa lấy từ rừng xanh, tùy loại mà dùng. Xóm thôn trù mật, gà gáy chó sủa inh tai…” [2,<br />
tr. 62]. Rõ ràng, đời sống kinh tế - xã hội của cư dân lúc bấy giờ đã tương đối ổn định,<br />
đặc biệt là cư dân ở vùng Hóa Châu - nơi đóng trị sở của thừa tuyên Thuận Hóa.<br />
Với tư cách là trọng trấn vùng biên viễn phương Nam, thành Hóa Châu 2 từng trải qua<br />
bao phen binh lửa và nhiều lần được triều đình quan tâm tu bổ, sửa chữa, trở thành một<br />
cứ điểm phòng ngự quan trọng, vững chắc về mặt quân sự và đồng thời là trung tâm<br />
chính trị của xứ Thuận Hóa. Điều này đã được Dương Văn An phản ánh qua phần mô tả<br />
về thành Hóa Châu: “Hóa Thành ở địa phận huyện Đan Điền. Từ sông cái Đan Điền<br />
chảy ở phía Tây, một nhánh sông con tách ra rồi đổ vào trong thành. Phía hữu ngạn<br />
sông con này nào các dinh thự, trường học, ty Đô, ty Thừa, nha môn phủ Triệu<br />
Phong (người trích dẫn nhấn mạnh) mọc san sát. Sông cái Kim Trà bọc ở phương Nam,<br />
phá quành phía Bắc, trằm ở đông, mênh mông ước muôn nghìn khoảnh. Quanh bốn<br />
phía đều có sông nước bao bọc, giữa là tòa thành cao ngất trăm trĩ, tỏa rộng như một<br />
đụn mây dài. Vị trí đó thật xung yếu như có bàn tay thợ tạo sắp đặt vậy” [2, tr. 89]. Bên<br />
cạnh nguồn sử liệu, kết quả các đợt khảo sát thực địa của các nhà nghiên cứu cũng cho<br />
thấy thành Hóa Châu có cấu trúc hoàn chỉnh, quy mô to lớn, mặt thành hướng về phía<br />
biển, lấy hệ thống sông ngòi làm hào lũy tự nhiên, khoá chặt lấy thủy khẩu ở ngã ba<br />
Sình – nơi sông cái Kim Trà (sông Hương) và sông Đan Điền (sông Bồ) hợp làm một<br />
dòng chảy về phá Tam Giang gọi là Linh Giang. Tại đây, “tùng thông ở dinh hiến sát,<br />
vườn hoa huyện đường, bình phong phủ chưởng vệ (người trích dẫn nhấn mạnh) đều<br />
nối nhau san sát hai bên bờ” [2, tr. 26]. Cùng với việc xây dựng, mở rộng và hoàn thiện<br />
từng bước phần đô (thành); phần thị cũng phát triển tiệm tiến dần như một quy luật tất<br />
yếu mang tính chất bổ trợ, với những phố phường, chợ búa 3.<br />
2.1. Chợ Thế Lại<br />
Ở mục thành - thị, chợ Thế Lại là một trong số ba ngôi chợ lớn của vùng Thuận Hóa<br />
được Dương Văn An đề cập đến: “Chợ Thế Lại ở xã Thế Lại huyện Kim Trà. Đằng<br />
trước là ngã ba sông khuất khúc, phía sau cũng có ngòi nước uốn quanh. Lầu son gác<br />
tía ngang dọc như bàn cờ, chi chít tựa sao giăng. Thôn hoa nội biếc, đất rộng người<br />
đông. Nghìn khe cùng đổ đến rất thuận cho thuyền bè, ngã lớn thông thương mọi nẻo,<br />
thật tiện về đường bộ. Thương nhân đua nhau đến mở quán ở đó, người sang vật quý tụ<br />
tập bán buôn tấp nập. Gà gáy đầu mọi người đã lục tục thức dậy, đúng ngọ thì nhộn<br />
nội dung của tác phẩm, có thể thấy rằng, địa danh Ô Châu mà soạn giả sử dụng bao hàm cả hai Châu Ô,<br />
Lý (hay Thuận Hóa) – tức là dải đất kéo dài từ Quảng Bình đến Bắc Quảng Nam hiện nay.<br />
2<br />
Thành Hóa Châu hiện nay thuộc địa phận hai xã Quảng An, Quảng Thành, huyện Quảng Điền, tỉnh<br />
Thừa Thiên Huế.<br />
3<br />
Quy luật hình thành thành thị này cũng là quy luật chung, phổ biến của nhiều thành thị ở phương Đông.<br />
<br />
90<br />
<br />
TRƯƠNG THỊ THU THẢO<br />
<br />
nhịp cực điểm. Lều quán dựng la liệt suốt Đông Tây, cửa hàng mở dài ngắn đủ cỡ. Nào<br />
cờ xanh phướn biếc, chỗ của mối lái phú thương; nào lụa là gấm vóc, nơi hội tụ đủ<br />
hàng tốt của tứ xứ. Đây là một thắng cảnh của Châu Ô” [2, tr. 90]. So với hai ngôi chợ<br />
Đại Phúc – nơi đô hội của vùng Thổ Rí và chợ Thuận – nơi tấp nập của Thuận Châu thì<br />
chợ Thế Lại được Dương Văn An giới thiệu rõ nét, đầy đủ hơn về vị trí, cách thức bố trí<br />
các hàng quán, thời gian họp chợ, các mặt hàng buôn bán ở chợ… Điều này cho thấy,<br />
đến giữa thế kỷ XVI, chợ Thế Lại đã trở thành một địa điểm sinh hoạt buôn bán sầm uất<br />
và có thể xem là ngôi chợ lớn nhất của đạo Thuận Hóa lúc bấy giờ. Về địa danh Thế<br />
Lại, dịch giả Văn Thanh – Phan Đăng đã phân tích rằng: “Thế Lại là chữ để phiên âm<br />
Tlài – âm cổ của Trài. Xét về ngữ âm học lịch sử, những thư tín còn lại của các giáo sĩ<br />
truyền đạo phương Tây cho thấy dạng âm cổ ấy vẫn còn thông dụng tại bản địa cho đến<br />
sau năm 1709” [2, tr. 90]. Lấy cách cắt nghĩa địa danh này để đối chiếu với những<br />
thông tin do Cadière điều tra và cung cấp trong cuốn Kinh thành Huế – Địa danh, chúng<br />
ta sẽ thấy có một sự trùng khớp và hợp lý. Khi đề cập đến vị trí số 84 – Đông Bắc môn,<br />
Cadière viết: “Đông Bắc Môn tức vọng lâu X của người Pháp – tên thường gọi là cửa<br />
Kẻ Trài. Theo các chỉ dẫn đề ra, xưa kia, trước mặt cửa này, phía bên kia của Hộ<br />
Thành Hà phía Đông, ở địa phận làng Thế Lại, có một phường hội, tại đấy, người ta<br />
buôn bán các sản phẩm thủ công, đồ dùng bằng đồng, tơ lụa, sơn mài… từ Bắc kỳ đưa<br />
vào, và được chỉ định với tên Hang Trài. “Trài” có nghĩa là “mái lợp ngói không vữa”,<br />
có thể cửa hàng của những người này được lợp mái theo kiểu như thế và từ đó mà có<br />
tên gọi ấy” [3, tr. 103]. Ở vị trí số 124, Cadière còn cho biết: “Cầu Thế Lại mở đường<br />
chảy cho phần còn lại, ở phần hạ lưu, của nhánh sông đã bị lấp và bị nắn lại khi Gia<br />
Long xây dựng Kinh thành Huế. Tên gọi khác: Cầu Kẻ Trài” [3, tr. 115]. Những thông<br />
tin trên giúp chúng ta có thể rút ra những nhận định bước đầu về tên gọi và vị trí của<br />
chợ Thế Lại:<br />
Thứ nhất, chợ và làng Thế Lại có tên tục là Kẻ Trài. Điều này xuất phát trên ba cơ sở: 1.<br />
Cách phân tích nguồn gốc tên gọi Thế Lại của dịch giả Văn Thanh – Phan Đăng; 2. Sự<br />
tồn tại của một phường hội buôn bán các sản phẩm hàng hóa từ Bắc Kỳ đưa vào có tên<br />
gọi là Hang Trài, đóng trên địa phận làng Thế Lại và đây có thể là tiền thân của chợ Thế<br />
Lại nổi tiếng với đủ đồ hàng Nam Bắc vào giữa thế kỷ XVI; 3. Đến thời điểm năm<br />
1933, khi Cadière hoàn chỉnh và đăng tải bài nghiên cứu Kinh thành Huế – Địa danh 4,<br />
chúng ta thấy rằng, cửa Đông Bắc và cầu Thế Lại vào thời điểm này vẫn có tên thường<br />
gọi là cửa và cầu Kẻ Trài. Điều này chứng tỏ rằng, Hán danh Thế Lại cũng chính là tục<br />
danh Kẻ Trài.<br />
Thứ hai, trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa tên gọi Thế Lại và Kẻ Trài, chúng ta có<br />
thể xác định được vị trí của chợ Thế Lại: nằm đối ngạn với cửa Kẻ Trài, phía bên kia<br />
sông đào Đông Ba, trên đoạn cuối của đường Bạch Đằng hiện nay thuộc địa phận của<br />
<br />
4<br />
<br />
Bài nghiên cứu này đăng trong tạp chí B.A.V.H năm 1933, hiện nay đã xuất bản thành sách. Trong lời<br />
tựa của sách, Cadière nói rằng ông đã sưu tầm những ghi chú về vấn đề này trong vòng 30 năm.<br />
<br />
KHẢO CỨU MỘT SỐ CHỢ LÀNG Ở THỪA THIÊN HUẾ DƯỚI THỜI MẠC<br />
<br />
91<br />
<br />
làng Thế Lại Thượng 5. Bên cạnh đó, Cadière còn cung cấp một thông tin quan trọng<br />
giúp chúng ta có thêm cứ liệu để khẳng định vị trí nêu trên của chợ Thế Lại là chính<br />
xác: “Cầu Thế Lại mở đường chảy cho phần còn lại, ở phần hạ lưu, của nhánh sông đã<br />
bị lấp và bị nắn lại khi Gia Long xây dựng Kinh thành Huế”. Căn cứ vào các bản đồ An<br />
Nam tứ chí lộ đồ thư của Nho sinh trúng thức Đỗ Bá vẽ cuối thế kỷ XVII và Giáp ngọ<br />
niên bình Nam đồ của Đoan quận công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774 [6, tr. 93 & 145] 6,<br />
chúng ta thấy có một con sông nhỏ thông với sông Hương từ trên thượng lưu, chảy<br />
ngang qua đô thành Phú Xuân rồi đổ vào sông Hương. Con sông nhỏ này chính là sông<br />
Kim Long, phần hạ lưu của nó đã bị lấp và bị nắn lại khi Gia Long xây dựng Kinh thành<br />
Huế (nay chỉ còn đoạn sông chảy trong kinh thành chính là sông Ngự Hà, hồ Tịnh<br />
Tâm); khi chưa bị điều chỉnh dòng chảy, rất có thể phần hạ lưu của sông Kim Long<br />
chảy vắt qua đường Đào Duy Anh hiện nay, nối liền với khúc cuối (nay vẫn còn mang<br />
dáng vẽ khuất khúc của một con sông tự nhiên) của sông đào Đông Ba – tức là đoạn<br />
chảy vòng qua đồn Mang Cá nhỏ (Trấn Bình Đài) rồi hợp lưu với sông Hương, nhưng<br />
đây chỉ là một nhánh của hạ lưu sông Kim Long; thực tế, tại đây, sông Kim Long chia<br />
làm hai nhánh, một nhánh chảy qua cầu Thanh Long đi qua các làng Thế Lại, Lạc Hộ,<br />
An Quán rồi đổ ra sông Hương và một nhánh chảy qua cầu Thế Lại với dòng chảy như<br />
trên đã nêu 7, tạo ra ngã ba sông như Dương Văn An mô tả: “Đằng trước (chợ) là ngã<br />
ba sông khuất khúc”.<br />
Như vậy, nhờ có địa thế thuận tiện về giao thông thủy bộ, gần các quan nha, công thự;<br />
đất tốt, dân đông, chợ Thế Lại đã trở thành trung tâm buôn bán sầm uất của vùng Thuận<br />
Hóa vào giữa thế kỷ XVI.<br />
Sang thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, chợ Thế Lại có lẽ vẫn tiếp tục tồn tại<br />
nhưng không còn giữ được vị trí bậc nhất như xưa do khả năng thu hút nguồn hàng<br />
mạnh của phố cảng Thanh Hà cùng một số chợ khác cận dinh phủ.<br />
Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi nhà Nguyễn lấy đất xây dựng kinh thành, chợ phải di dời.<br />
Địa bạ ngày mồng 2 tháng 10 năm Gia Long thứ 14 (2/11/1815 DL) của làng Thế Lại<br />
Thượng cho biết: Năm Bính Dần (1806), làm chợ mới hết 2 mẫu 3 sào 1 thước 2 tấc 5<br />
phân” [10, tr. 72]. Đó là chợ Phú Bình, thuộc phường Phú Bình, TP. Huế hiện nay, nằm<br />
ở gần góc đông bắc kinh thành Huế. Sau khi kinh thành Huế được xây dựng, khu đất cũ<br />
5<br />
<br />
Thế Lại là một trong 60 xã của huyện Kim Trà thuộc phủ Triệu Phong xứ Thuận Hóa được Dương Văn<br />
An nhắc đến trong Ô Châu cận lục năm 1555. Về sau, không rõ thời điểm cụ thể, xã Thế Lại được tách<br />
thành hai xã Thế Lại Thượng và Thế Lại Hạ, chỉ thấy Lê Quý Đôn (1726 – 1784) liệt kê trong Phủ biên<br />
tạp lục soạn năm 1776. Bấy giờ Thế Lại Thượng và Hạ thuộc tổng Phú Xuân, huyện Hương Trà. Đầu thế<br />
kỷ XIX, khi vua Gia Long lấy đất xây dựng kinh thành Huế, đất làng Thế Lại Thượng bị mất khoảng 193<br />
mẫu (dẫn theo tài liệu [10, tr.447]). Hiện nay làng Thế Lại Thượng nằm trong địa phận phường Phú Hội,<br />
TP Huế, Thế Lại Hạ nằm về phía Tây Bao Vinh, thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà.<br />
6<br />
Hai bản đồ này được in trong tập Hồng Đức bản đồ.<br />
7<br />
Điều này được phản ánh qua đoạn trích về sông Kim Long của Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức:<br />
“Trước kia cửa sông ở phía đông chợ Kim Long… cầu Thanh Long, cầu Thế Lại đều là những chỗ đường<br />
sông cũ chảy qua; từ Thế Lại, Lạc Hộ đến các xã An Quán, còn có đường sông chảy vào hạ lưu sông<br />
Hương” [8, tr. 126].<br />
<br />
92<br />
<br />
TRƯƠNG THỊ THU THẢO<br />
<br />
nơi chợ Thế Lại tọa lạc được quy hoạch thành phố Đông Hội - một bộ phận cấu thành<br />
khu phố phía đông thành vào thời Nguyễn: “Từ phía bắc cầu Thế Lại đến 3 phố ở góc<br />
Trấn Bình Đài trở lên; từ niên hiệu Gia Long đều lợp ngói, nhà ngói liên tiếp, người<br />
Hán Thanh ở lộn buôn bán hàng hóa và các sản vật đều đủ” [9, tr. 134]. Đó chính là<br />
diện mạo của chợ Thế Lại qua các thời kỳ.<br />
2.2. Chợ Đan Lương<br />
Nay thuộc địa phận làng Phú Lương A, xã Quảng Thành, huyện Quảng Điền. Tục danh<br />
chợ Cầu. Tên gọi này xuất phát từ địa thế của chợ - nằm bên cầu Đan Điền nổi tiếng là<br />
cây cầu bậc nhất xứ Thuận Hóa lúc bấy giờ: “Ở chợ Đan Lương, huyện Đan Điền, phía<br />
đông chợ có một con ngòi đổ về, trên ngòi là nhịp cầu. Trên cầu có dựng mái nhà hình<br />
cầu vồng vắt ngang, trông như lưng cá voi vươn lên tầng không…” [2, tr. 90]. Về thời<br />
gian họp chợ, Dương Văn An cho biết: “chợ Đan Lương đông từ nửa đêm” [2, tr. 63].<br />
Tuy nhiên, khi khảo sát thực địa, chợ Đan Lương đã có một vài sự thay đổi. Phía đông<br />
chợ có một con ngòi đổ về - con ngòi này là một nhánh của sông Bồ, trước mặt chợ có<br />
một bến sông, phía tây là cây cầu nhỏ bằng xi măng bắc qua con ngòi thay thế cây cầu<br />
có mái nhà hình cầu vồng hiện không còn dấu tích. Chợ Cầu ngày nay đông vào buổi<br />
chiều và chỉ tụ họp khoảng tầm từ 2h–5h chiều, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu của cư<br />
dân trong làng. Chợ Cầu tuy không còn nổi tiếng với hình ảnh ngôi chợ làng nằm cạnh<br />
cây cầu Đan Điền nổi tiếng hay với mặt hàng “vôi” đã đi vào ca dao “mua vôi chợ<br />
Quán, chợ Cầu” nhưng sự hiện diện của hai cây cổ thụ tỏa bóng ôm trọn khu chợ vẫn là<br />
một minh chứng cho sự tồn tại lâu đời của ngôi chợ cổ này.<br />
2.3. Chợ Lại Ân<br />
Nay thuộc địa phận làng Lại Ân, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang. Tục danh chợ Sình<br />
hoặc chợ Đình. Sình là tên Nôm của làng Lại Ân, một trong những làng cổ hình thành<br />
khá sớm của xứ Thuận Hóa. Từ xưa, Lại Ân đã nổi tiếng với nghề làm tranh tín ngưỡng<br />
dân gian, với hội vật làng Sình và đặc biệt, với đại danh lam Sùng Hóa - ngôi chùa công<br />
thuộc loại lớn của vùng Hóa Châu: “Chùa Sùng Hóa ở xã Lại Ân huyện Tư Vinh… Đến<br />
kỳ lễ hội, quan lại ba ty vệ trấn, nha môn đều tề tựu đông đúc, áo mão lễ nhạc nhộn<br />
nhịp như mây tụ. Có chuyện gì cầu đảo ở đây tất đều được ứng nghiệm” [2, tr. 94].<br />
Vùng đất văn vật, giàu truyền thống này cũng được Dương Văn An nhắc đến như một<br />
địa điểm thịnh đạt về thương nghiệp: “Làng Lại Ân nghe gà gáy sáng giục khách buôn<br />
tranh tiền giành lợi” [2, tr. 81]; hay “Đồ chén bát của phương Bắc bán ở các chợ Thế<br />
Lại, chợ Lại Ân giá rất đắt” [2, tr. 37]. Về mặt địa thế, bên trái chợ là đình làng Lại<br />
Ân8, kề sát đình là cổ tự Sùng Hóa, cách một đoạn tới làng Triêm Ân lúa thơm nức<br />
tiếng, từng “lấy buôn bán làm nghiệp” [2, tr. 64]; trước mặt có sông Hương uốn khúc<br />
rồi hội thủy với sông Bồ tạo thành ngã ba lớn, từng là nơi đóng các quan nha, công thự<br />
đối ngạn nhau ở hai bên bờ; bên phải có một bến đò ngang qua làng Thanh Phước để<br />
đến với Hóa Thành cách đó không xa. Với địa thế thuận lợi, tiện đường giao thông và<br />
<br />
8<br />
<br />
Do vậy, chợ có tục danh là chợ Đình [9, tr. 140].<br />
<br />