intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khí tượng biển - Chương 7

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

118
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

KHÍ HẬU BIỂN ĐÔNG Khí hậu được hiểu là sự tiếp diễn có quy luật của các quá trình khí quyển ở một nơi nào đó do tác dụng tương hỗ lâu năm giữa bức xạ mặt trời, hoàn lưu khí quyển, điều kiện mặt đệm và được đặc trưng bằng thời tiết nhiều năm của nơi đó. Khoa học chuyên nghiên cứu điều kiện hình thành khí hậu và chế độ khí hậu được gọi là Khí hậu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khí tượng biển - Chương 7

  1. CHƯƠNG VII KHÍ HẬU BIỂN ĐÔNG Khí hậu được hiểu là sự tiếp diễn có quy luật của các quá trình khí quyển ở một nơi nào đó do tác dụng tương hỗ lâu năm giữa bức xạ mặt trời, hoàn lưu khí quyển, điều kiện mặt đệm và được đặc trưng bằng thời tiết nhiều năm của nơi đó. Khoa học chuyên nghiên cứu điều kiện hình thành khí hậu và chế độ khí hậu được gọi là Khí hậu học. Như vậy, có 3 nhân tố hình thành khí hậu đó là: Bức xạ mặt trời, hoàn lưu khí quyển và điều kiện mặt đệm và nó bao hàm cả thời tiết bình thường lẫn thời tiết đặc biệt. 7.1 Các nhân tố hình thành khí hậu 7.1.1 Bức xạ mặt trời 1) Bức xạ mặt trời thiên văn: Bức xạ mặt trời do trái đất nhận được trên bề mặt nằm ngang ở giới hạn trên cùng của khí quyển hoặc trên mặt đất nằm ngang nếu như không bị khí quyển làm hao phí đi gọi là bức xạ mặt trời thiên văn. Bức xạ mặt trời thiên văn do các nhân tố thiên văn (ρ, δ, ω, các vết đen mặt trời...) quy định. a) Các đại lượng đặc trưng của bức xạ mặt trời thiên văn: - Hằng số mặt trời I0: là cường độ bức xạ mặt trời thiên văn ứng với khoảng cách trung bình ρ giữa trái đất và mặt trời. Thực ra hằng số mặt trời I0 có thay đổi do: vết đen mặt trời luôn thay đổi; thay đổi do sai số đo đạc, tính toán... - Độ cao mặt trời hO: là nhân tố quan trọng quyết định cường độ bức xạ mặt trời và để xác định khí hậu. Độ cao mặt trời hO phụ thuộc vào vĩ độ địa lý và các đại lượng thiên văn như xích vĩ δ và góc giờ mặt trời ω: hO = f(ϕ, δ, ω) - Độ dài ban ngày (ngày mặt trời) Độ dài ban ngày là khoảng thời gian từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn (tại những lúc mặt trời mọc, lặn độ cao mặt trời bằng 0). - Cường độ bức xạ mặt trời thiên văn: được biểu thị bằng định luật Lămbe: a2 I = I0 2 sin hO ρ Trong đó: I: cường độ bức xạ mặt trời thiên văn; I0: hằng số mặt trời; a: bán kính quỹ đạo trái đất; ρ: khoảng cách giữa trái đất và mặt trời. b) Tổng lượng ngày, năm của bức xạ mặt trời thiên văn: - Ta có thể tính tổng lượng ngày, năm của bức xạ mặt trời thiên văn dựa trên cơ sở sau: Có thể biểu thị lượng bức xạ mặt trời thiên văn dW có cường độ bức xạ mặt trời thiên văn I đến một đơn vị diện tích bề mặt nằm ngang là 1 cm2 trong thời gian là dt bằng công thức: dW = I . dt Tổng lượng ngày và tổng lượng năm của bức xạ mặt trời thiên văn đến trái đất có thể nhận được bằng cách lấy tích phân biểu thức trên với vế phải có cận tích phân lần
  2. lượt ứng với thời gian là góc giờ mặt trời ω (ngày) và hoàng kinh mặt trời l (năm) tương ứng. - Theo tính toán tổng lượng ngày bức xạ mặt trời thiên văn có thể rút ra các nhận xét sau: + Nếu khí quyển hoàn toàn trong suốt, mặt địa cầu là đồng nhất thì tình hình khí hậu sẽ phụ thuộc vĩ độ ϕ: dọc theo ϕ khí hậu sẽ đồng nhất; có thể chia khí hậu trên địa cầu thành 5 đới: 1 đới khí hậu xích đạo, 2 đới khí hậu ôn đới và 2 đới khí hậu cực. + Tổng lượng bức xạ thiên văn ngày dao động nhiều nhất ở cực, ít nhất ở xích đạo. + Mùa hạ, tổng lượng bức xạ thiên văn ngày thay đổi theo vĩ độ ϕ có dạng kép: cực đại ở cực và vĩ độ ϕ = 40o; cực tiểu ở xích đạo và vĩ độ ϕ = 60o; mùa đông có dạng đơn: cực đại ở xích đạo, cực tiểu ở cực; biên độ biến trình lớn hơn mùa hạ. + Nếu so sánh giữa Bắc bán cầu và Nam bán cầu thì mùa hè tổng lượng bức xạ thiên văn ngày ở Bắc bán cầu nhỏ hơn ở Nam bán cầu, mùa đông thì ngược lại. - Theo tính toán tổng lượng năm bức xạ mặt trời thiên văn có thể rút ra các nhận xét sau: + Lượng bức xạ thiên văn mùa hè ít thay đổi theo vĩ độ, ở vĩ độ từ 20o đến 30o là lớn nhất, và ở cực là nhỏ nhất và bằng 83% ở xích đạo. + Lượng bức xạ thiên văn mùa đông giảm nhanh theo vĩ độ, nhanh nhất ở vĩ độ trung bình từ vĩ độ 40o đến vĩ độ 60o. + Chênh lệch tổng lượng bức xạ thiên văn 2 mùa tăng theo vĩ độ, do đó chênh lệch nhiệt độ Δt tăng theo vĩ độ (lớn nhất ở cực). + Tổng lượng bức xạ thiên văn năm ở gần cực và xích đạo thay đổi theo vĩ độ không lớn, thay đổi lớn nhất ở vĩ độ trung bình, do đó građiăng nhiệt độ theo kinh hướng và cường độ hoạt động của không khí tăng. 2) Bức xạ mặt trời đến bề mặt trái đất a) Bức xạ trực tiếp - Bức xạ trực tiếp có thể: là bức xạ trực tiếp khi trời không mây (nhiều khi gọi tắt là bức xạ có thể). Bức xạ có thể phụ thuộc vào vĩ độ ϕ, độ trong suốt khí quyển P. Có thể xác định cường độ bức xạ trực tiếp có thể bằng cách đo đạc trực tiếp hoặc tính toán. - Bức xạ trực tiếp thực tế: là bức xạ trực tiếp ứng với trường hợp có mây. Bức xạ trực tiếp thực tế phụ thuộc vào vĩ độ ϕ, độ trong suốt khí quyển P, lượng và dạng mây. Cũng có thể xác định bức xạ trực tiếp thực tế bằng cách đo đạc trực tiếp hoặc tính toán. b) Bức xạ khuếch tán - Bức xạ khuếch tán trong điều kiện không mây: Bức xạ khuếch tán trong điều kiện không mây cũng phụ thuộc vào vĩ độ ϕ, độ trong suốt khí quyển P. Cũng có thể xác định bức xạ khuếch tán bằng cách đo đạc trực tiếp hoặc bằng các công thức tính toán.
  3. - Bức xạ khuếch tán trong điều kiện có mây: Bức xạ khuếch tán trong điều kiện có mây phụ thuộc vào vĩ độ ϕ, độ trong suốt khí quyển P, lượng mây n. Cũng có thể xác định bức xạ khuếch tán trong điều kiện có mây bằng cách đo đạc trực tiếp hoặc tính toán. c) Bức xạ tổng cộng (tổng xạ) Bức xạ tổng cộng bằng tổng của bức xạ trực tiếp và khuếch tán. Sự phân bố tổng xạ trên trái đất khá phức tạp: nhỏ nhất ở cực (80 kcal/cm2năm), lớn nhất ở sa mạc nhiệt đới (200 kcal/cm2 năm) - đó là do ảnh hưởng của lượng mây; biến trình ngày của tổng xạ có dạng kép và biến trình năm có dạng đơn. c) Bức xạ hữu hiệu - Albedo - Bức xạ hấp thụ: Trị số Albedo (A) là đại lượng đặc trưng cho mức độ phản xạ bức xạ của bề mặt đệm nhận bức xạ. Nếu bề mặt đệm có nhiều thành phần khác nhau thì lấy trị số Albedo bằng trị số Albedo trung bình A . Bức xạ phản xạ là phần năng lượng bức xạ mặt trời bị mặt đất phản xạ trở lai . Bức xạ phản xạ được tính theo công thức: Wfx = A .Wtc. Bức xạ hấp thụ là phần năng lượng bức xạ mặt trời mà mặt đất hấp thụ được. Bức xạ hấp thụ sẽ được tính: Wht = (1 - A )Wtc = k .Wtc ( k là khả năng hấp thụ trung bình của bề mặt hoạt động). - Bức xạ hữu hiệu E0: Khác với các loại bức xạ trên, bức xạ hữu hiệu là bức xạ sóng dài. Bức xạ hữu hiệu trong điều kiện trời không mây rút ra từ các công thức tính bức xạ mặt đất, bức xạ khí quyển. Sau đó, tùy theo các khu vực ta có thể cộng thêm số hiệu chỉnh. Số hiệu chỉnh này có liên quan đến nhiệt độ được cho dưới dạng các bảng tính sẵn. Với điều kiện bầu trời có mây, công thức tổng quát tính bức xạ hữu hiệu có dạng: E0(n) = E0.f(n) Trong đó: E0(n) và E0: bức xạ hữu hiệu trong điều kiện trời có mây và không mây; f(n): hàm số biểu thị ảnh hưởng của mây. d) Cân bằng bức xạ và cân bằng nhiệt của mặt đất - Cân bằng bức xạ bề mặt đất: Phương trình cân bằng bức xạ bề mặt trái đất Rđ có dạng: Rđ = Wtc (1 − A ) – E0(n) Trong ngày, Rđ có cân bằng dương, âm và bằng 0 (khi độ hO = 10 - 150). Trong năm, biến trình Rđ có dạng đơn; riêng vùng có gió mùa lại có dạng kép: cực đại phụ vào tháng IX cực tiểu phụ vào tháng VIII (do ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa). Phân bố Rđ trên địa cầu nhìn chung có dạng đới: Rđ > 0 ở vùng vĩ độ thấp; Rđ < 0 ở vùng vĩ độ cao; Rđ ≈ 0 ở vùng vĩ độ ϕ = 400 (vào mùa đông), vùng vĩ độ ϕ = 700 (vào mùa hè). Trên thực tế Rđ nói chung là cân bằng dương. Tnh địa đới của Rđ ở Nam bán cầu thể hiện rõ hơn ở Bắc bán cầu; ở lục địa bị phá vỡ nhiều hơn trên biển, đại dương (biển chỉ bị phá vỡ khi có ảnh hưởng của các dòng hải lưu).
  4. - Cân bằng nhiệt bề mặt đất: Phương trình cân bằng nhiệt của bề mặt trái đất có dạng: Rđ = LW + P + V Trong đó : LW: dòng nhiệt bốc hơi hay ngưng tụ; V: dòng nhiệt đối, loạn lưu, P: dòng nhiệt trao đổi với lớp thổ nhưỡng. Qua tính toán thì nếu xét trung bình nhiều năm trên toàn địa cầu thì mặt đất nhận được bao nhiêu nhiệt lại toả đi bấy nhiêu để đảm bảo trạng thái cân bằng. - Phương trình cân bằng nước: Phương trình cân bằng nước tổng quát trên địa cầu: X=W+Y+P Trong đó: X: lượng mưa; W: lượng bốc hơi; Y: dòng chảy mặt; P = yP + b với: yP : dòng chảy dưới đất; b : hàm lượng ẩm đất. Xét trung bình nhiều năm ta có: Y + yP = 0 ; b = 0 Do đó: X=W Như vậy, xét trung bình nhiều năm trên toàn bộ địa cầu thì bốc hơi bao nhiêu sẽ cho mưa bấy nhiêu. 4) Tính toán các giá trị trung bình tháng cân bằng năng lượng bề mặt đối với các trạm ở biển. Theo Budyko(1963), tổng lượng bức xạ R được xác định từ số liệu khí hậu theo công thức sau: R = (Q + q)0 (1 – a) (1 – an – bn2) - εσTs4(11,7 – 0.23e (1 – cn) Trong đó: e: áp suất bão hoà (mb) trên bề mặt của nhiệt độ Ts; b: hệ số không đổi và bằng 0,38; a và c: các tham số phụ thuộc độ cao mây. Để xác định a và c, Budyko xác định giá trị trung bình của chúng theo vĩ độ được trình bày trong bảng (7.1) dưới đây: Bảng 7.1: Giá trị trung bình của a, c theo vĩ độ Vĩ đ ộ A C Vĩ đ ộ a c 0o 45o 0.38 0.38 5o 50o 0.40 0.50 0.40 0.72 10o 55o 0.40 0.52 0.41 15o 60o 0.39 0.55 0.36 0.76 20o 65o 0.37 0.59 0.25 25o 70o 0.35 0.18 0.80 30o 75o 0.36 0.63 0.16 35o 80o 0.38 0.15 0.84 40o 85o 0.38 0.68 0.14 0.86
  5. Giá trị (Q +q): Tổng lượng bức xạ tới thường được tổng hợp gần đúng từ số liệu quan trắc trực xạ lập ra các bản đồ phân bố trung bình cho cả khu vực theo vĩ độ cho từng tháng. Giá trị albedo thay đổi theo độ dài sóng và góc tới của tia bức xạ: i −1 2 Albedo = 100( ) i +1 Trong đó i là chỉ số khúc xạ của bề mặt biển. ở nhiệt độ 20oC chỉ số i thay đổi trong khoảng từ 1,333 (đối với nước sạch) đến 1,340 (đối với nước biển có độ muối tới 380/00 – thông thường nước biển co độ muối là 350/00). Giá trị Albedo được xác định gần đúng cho từng khu vực, trên bề mặt nước vào khoảng 17,3% (Anderson 1954). Bức xạ mặt trời tới bề mặt trái đất không phải được hấp thụ toàn bộ ngay, do vì tính chất tự nhiên bề mặt trái đất là rất khác nhau. Cường độ hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời phụ thuộc vào 2 yếu tố là độ dài bước sóng và quy mô thảm thực vật bề mặt. Đối với môi trường nước sạch có tới 55% năng lượng bức xạ mặt trời của các tia tới mặt đất được hấp thụ tới độ sâu 10cm và 18% tới độ sâu 10m. 7.1.2 Hoàn lưu khí quyển 1) Hoàn lưu chung khí quyển a) Một số sơ đồ hoàn lưu chung khí quyển - Sơ đồ hoàn lưu nhiệt: Sơ đồ hoàn lưu hoàn lưu nhiệt đã được đề cập trong chương IV, ở đây xin nhắc lại những nét cơ bản nhất như sau: Khi không xét đến sự quay của trái đất thì: không khí ở mặt đất đi từ cực về xích đạo còn trên cao thì ngược lại. Khi có xét đến sự quay của trái đất thì: ở vùng nhiệt đới và vùng cực dưới thấp tồn tại một đới gió có thành phần hướng Đông còn trên cao lại tồn tại đới gió có thành phần hướng Tây; ở vùng ôn đới bao trùm một đới gió Tây dày từ thấp lên cao. Như vậy, trong sơ đồ hoàn lưu nhiệt bao gồm cả thành phần kinh hướng và vĩ hướng của hoàn lưu chung. - Sơ đồ hoàn lưu vĩ hướng trung bình: Sơ đồ hoàn lưu vĩ hướng trung bình được ứng dụng khá rộng rãi. Có thể tóm tắt sơ đồ hoàn lưu vĩ hướng trung bình như sau: ở vùng vĩ độ thấp tồn tại một đới gió Đông bao phủ cả tầng thấp. ở vùng vĩ độ trung bình thịnh hành một đới gió Tây dày và mở rộng dần theo độ cao với tốc độ gió tăng dần. Tại hai vùng cực tồn tại đới gió Đông tương đối thấp và trên cao là đới gió Tây. Trên sơ đồ hoàn lưu vĩ hướng trung bình chúng ta thấy: đới tín phong và phản tính phong (được quan niệm là do sự mở rộng của đới gió Tây xuống vùng vĩ độ thấp); các dòng chảy xiết trên các đới front hành tinh trên cao và thành phần hoàn lưu kinh hướng tuy là thành phần nhỏ song lại có ý nghĩa rất lớn trong hoàn lưu chung và quá trình khí quyển.
  6. - Hoàn lưu quy mô lớn theo chiều nằm ngang: Để nghiên cứu hoàn lưu quy mô lớn theo chiều nằm ngang người ta dùng các bản đồ mặt đất và bản đồ trên cao trung bình: ở mực biển: Đới gió tín phong ở vùng nhiệt đới hình thành rõ rệt trên biển. Trên lục địa và ấn Độ dương đới gió tín phong thể hiện không rõ. Đới không gió xích đạo di chuyển theo chuyển động biểu kiến của mặt trời: khi ở phía Bắc bán cầu, khi ở phía Nam bán cầu. Các trung tâm cao áp cận nhiệt trên các đại dương là các khu vực gió yếu (do tác dụng của dòng giáng). Đới gió Tây thịnh hành ở vĩ độ trung bình ở trên cao: Hoàn lưu gió Tây khống chế cả vùng vĩ độ trung bình và vĩ độ cao. Ngoài các dòng vĩ hướng Tây - Đông, còn tồn tại các vận động kinh hướng theo các sống, các rãnh có kích thước cỡ hành tinh. Các rãnh, các sống này đóng vai trò rất quan trọng trong việc trao đổi không khí theo chiều Bắc Nam. ở Nam bán cầu, do mặt đệm tương đối đồng nhất nên gió Tây ổn định, phạm vi hoạt động và cường độ của nó ít thay đổi; ít có nhiễu động lớn như ở Bắc bán cầu. Nếu ta đem chập bản đồ AT với OT ta có trường nhiệt áp với rãnh lạnh, sống nóng trùng với rãnh thấp, sống cao song hơi lệch một chút về phía Tây. Do đó trên các lục địa vào mùa đông có bình lưu lạnh ở phía Đông, bình lưu nóng ở phía Tây vào mùa hè thì ngược lại. b) Biến đổi của hoàn lưu khí quyển - Biến đổi năm của hoàn lưu khí quyển: + Biến đổi hoàn lưu gió Tây ở Bắc bán cầu: Vị trí của dòng chảy xiết trong đới gió Tây biến đổi lớn trong năm: trung bình tháng I ở vị trí Nam nhất; tháng VIII ở vị trị Bắc nhất; ổn định nhất là tháng XII đến tháng III và từ tháng VIII đến tháng X. Từ tháng III, tháng IV di chuyển nhanh về phía Bắc; tháng V hồi phục về phía Nam và tháng VI đi nhanh lên phía Bắc. ở châu á, gió Tây chia làm 2 nhánh vòng qua cao nguyên cao nguyên Tây Tạng và hợp lại trên không phận của Nhật Bản. Nhánh dòng chảy xiết phía Nam của đới gió Tây ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam. Nó xuất hiện vào tháng X, đến tháng VI đột ngột mất đi. Vận tốc gió trung bình khoảng 40 m/s có khi lên đến 100 m/s (tại ϕ = 300 mực 200-300 mb). + Biến đổi vị trí đường sống cao áp phó nhiệt đới: Tháng XII đường sống cao áp phó nhiệt đới đạt vị trí Nam nhất, tháng III - IV di động chậm lên phía Bắc, tháng VI di động nhanh và đạt tới vị trí Bắc nhất vào tháng VII. Tháng IX rút nhanh xuống phía Nam, tháng X di chuyển chậm dần và tháng XII trở lại đạt tới vị trí Nam nhất. Như vậy, hoàn lưu chung khí quyển vào mùa hè và mùa đông về cơ bản là ổn định, chỉ có thời kỳ chuyển tiếp ngắn giữa hai mùa mới có những biến đổi nhảy vọt. - Biến đổi ngắn hạn của hoàn lưu khí quyển: Biến đổi ngắn hạn của hoàn lưu khí quyển là quá trình kiến lập và phá hoại hoàn lưu vĩ hướng. Khi hoàn lưu vĩ hướng với các hệ thống sóng dài hướng Tây - Đông phát triển không ổn định, biên độ tăng, khoảng cách giữa các sóng ngắn lại dần dần chồng chất lên nhau, dẫn đến sóng dài trên cao đổ vỡ tạo thành các cao áp chướng ngại và áp thấp bị cắt, tạo điều kiện cho không khí trao đổi theo chiều Bắc Nam và khi đó hoàn lưu vĩ hướng nhường chỗ cho hoàn lưu kinh hướng. Có thể xem gió mùa Đông Bắc ở
  7. phần lãnh thổ phía Bắc nước ta là một ví dụ về biến đổi ngắn hạn của hoàn lưu khí quyển. Nghiên cứu biến đổi ngắn hạn của hoàn lưu khí quyển có tác dụng với dự báo thời tiết hạn vừa và hạn dài. 2) Khối không khí - front khí hậu a) Khí đoàn khí hậu: * Các loại khí đoàn khí hậu: (1) Khí đoàn địa cực hoặc phó địa cực: gồm các cao áp Bắc Mỹ, Gơrelen và Nam Cực. (2) Khí đoàn cực: gồm các khí đoàn cực lục địa và các khí đoàn cực hải dương. - Khí đoàn cực lục địa: hình thành trên các đại lục, ví dụ như các cao áp Xibêri, Canada, mùa đông giới hạn phía Nam có thể lùi xuống phía Nam một chút. - Khí đoàn cực hải dương: Do khí đoàn cực lục địa di chuyển lên Đông Bắc Thái Bình Dương và Đại Tây Dương mà tạo thành. (3) Khí đoàn nhiệt đới: còn gọi là khối không khí cận nhiệt đới, bao gồm các khí đoàn nhiệt đới lục địa và các khí đoàn nhiệt đới hải dương. - Khí đoàn nhiệt đới hải dương: các cao áp phó nhiệt đới. - Khí đoàn nhiệt đới lục địa: mùa đông hình thành ở các sa mạc nhiệt đới; mùa hè ở phía Nam lục địa vùng vĩ độ trung bình. (4) Khí đoàn xích đạo: phát nguồn là đới lặng gió xích đạo. (5) Khí đoàn gặp tuỳ ý: khối không khí bất kỳ lưu lại lâu ở một vùng nào đó, hấp thụ đặc tính vùng ấy tạo thành. (6) Khí đoàn hỗn hợp: khối không khí biểu hiện sự sự hỗn hợp khó phân biệt các loại không khí ở trong đó. * Đặc tính của khí đoàn khí hậu: Đặc tính của khối không khí thể hiện qua đặc tính khí hậu của nơi phát nguồn và các vùng mà nó đi qua. Đặc tính của khối không khí bị biến đổi khi di chuyển thể hiện sự biến tính của khối không khí. Sự biến tính này bao gồm biến tính theo kinh hướng, vĩ hướng và ảnh hưởng đến khí hậu cả một vùng rộng lớn. Có thể dựa vào đặc tính của khối không khí theo mùa và hoàn lưu khí quyển làm tiêu chuẩn để phân vùng khí hậu. b) Front khí hậu * Các loại front khí hậu: Lấy các bản đồ trung bình nhiều năm của tháng I và tháng VII để làm đặc trưng cho chế độ theo mùa, ta nhận thấy: - Tháng I: Trên bản đồ khí hậu vào tháng I có các front sau: (1) Front Bắc cực và front Nam cực: Front Bắc cực nằm ở khu vực Bắc Âu á, Bắc Mỹ; trên quần đảo Bắc cực thuộc châu Mỹ và một số front lẻ tẻ khác. Front Nam cực chưa rõ vị trí. (2) Front cực: Front cực ở Bắc Bán cầu nằm ở vùng rìa xoáy thuận Itsland, ở khu
  8. vực Địa Trung Hải, Nam Hoa Kỳ, Bắc Tây Tạng (vĩ độ 30-500N); ở Nam Bán cầu, front cực nằm vây quanh vĩ độ 40-600S. (3) Front nhiệt đới: Front nhiệt đới còn gọi là dải hội tụ nhiệt đới. Chỉ có một dải hội tụ nhiệt đới khi ở Bắc Bán cầu khi ở Nam Bán cầu. - Tháng VII: Trên bản đồ khí hậu vào tháng VII các front khí hậu trên vẫn tồn tại song vị trí của nó dịch lên phía Bắc so với tháng I. Quy luật của sự vận chuyển front khí hậu như sau: từ tháng I đến tháng VII các front dịch dần lên phía Bắc; còn từ tháng VII đến tháng I chúng lại chuyển dần xuống phía Nam. * Đặc tính khí hậu của front: Khu vực hay có front đi qua thì khí hậu biến động nhiều. Front cực là nơi hoạt động nhộn nhịp của các xoáy thuận, nghịch ở vùng ôn đới; dải hội tụ nhiệt đới (front nhiệt đới) thường gắn liền với các xoáy thuận nhiệt đới và bão ở vùng nhiệt đới. 3) Đặc trưng hoàn lưu của các đới khí hậu a) Hoàn lưu vĩ độ thấp: Hoàn lưu ở vĩ độ thấp là hoàn lưu tín phong. Đặc trưng hoàn lưu vĩ độ thấp thể hiện ở các điểm sau đây: - Đới cao áp cận nhiệt biến đổi, đứt đoạn thì đới tín phong cũng biến đổi và đứt đoạn. Cao áp cận nhiệt chỉ tồn tại trên biển và đại dương nên tín phong cũng chỉ tồn tại trên biển và đại dương. Theo chiều thẳng đứng tín phong trên các đại dương không đồng đều. - Phía Đông đại dương trong đới tín phong có nghịch nhiệt gọi là nghịch nhiệt tín phong. (nghịch nhiệt nén). Nghịch nhiệt tín phong mỏng dần từ cận nhiệt về xích đạo. Phía Tây đại dương tín phong tương đối đồng đều do có dòng hải lưu nóng theo rìa cao áp lên vĩ độ cao. b) Hoàn lưu vĩ độ trung bình: Hoàn lưu ở vĩ độ trung bình là hoàn lưu gió Tây (đôi khi còn lan cả xuống vùng vĩ độ thấp). Đặc trưng của hoàn lưu vĩ độ trung bình thể hiện ở các điểm sau đây: - ở Bắc bán cầu, trên bản đồ khí hậu mùa ta thấy: đới gió Tây phân bố không đều trên lục địa và biển, bị nhiễu động và biến đổi theo mùa. Về mùa đông, cả tầng đối lưu gió Tây thịnh hành. Riêng ở rìa Nam các cao áp lục địa có gió Đông thổi không khí lạnh sang phía Tây và Tây Nam; ở rìa Tây các xoáy thuận (Alêuchiên, Itsland) có dòng không khí lạnh từ Bắc xuống Nam lập thành front, thúc đẩy sự hình thành các xoáy thuận, xoáy nghịch trên front có quy mô lớn, từ đó có dòng kinh hướng thúc đẩy sự trao đổi và biến tính của không khí theo chiều Bắc Nam. Về mùa hè, trên cao hoàn lưu gió Tây đóng vai trò chủ đạo; dưới thấp gió Tây men theo rìa Bắc cao áp cận nhiệt Aso xâm nhập vào châu Âu, theo rìa Tây cao áp Hawoai xâm nhập vào châu á dưới dạng gió Đông Nam ẩm ướt khác xa với gió Đông Bắc lạnh khô vào mùa đông.
  9. - ở Nam bán cầu, trên bản đồ khí hậu mùa ta thấy: Do đặc điểm của trường áp ở Nam bán cầu không có áp thấp ở vĩ độ trung bình nên hoàn lưu gió Tây quanh năm ổn định. và có tốc độ lớn hơn ở Bắc bán cầu. c) Hoàn lưu Bắc cực và Nam cực: Hoàn lưu Bắc cực và Nam cực còn được gọi là hoàn lưu địa cực mà ở trên cao gió từ vĩ độ trung bình thổi về cực, còn ở dưới thấp gió thổi từ cực về vĩ độ trung bình. Đặc trưng của hoàn lưu địa cực thể hiện ở các điểm sau đây: - Gần mặt đất ở 2 vùng cực có tầng nghịch nhiệt lan từ mặt đất đến khoảng 2 km được hình thành chủ yếu là do dòng giáng; có mù bức xạ do băng tuyết tan có nhiều hơi nước. - Biến đổi nhiệt độ của vùng địa cực rất rõ: mùa đông rất lạnh, mùa hè tuy có mặt trời song mây, mù làm giảm yếu bức xạ; mất nhiệt do tuyết tan nên nhiệt độ vẫn thấp. Nguyên nhân duy trì nền nhiệt độ thấp ở Nam cực là hoàn lưu gió Tây mạnh và ổn định đã ngăn cản sự trao đổi nhiệt theo chiều Bắc - Nam và băng tuyết bao phủ cản trở đến việc tăng nhiệt do bức xạ. 4) Các đặc trưng của hoàn lưu khí quyển trên biển Đông Có thể khái quát đặc trưng của hoàn lưu khí quyển trên Biển Đông như sau: - Các trường khí áp hình thế synop tự nhiên trên Biển Đông vừa mang tính ổn định vừa mang tính bất ổn định cao. Không đâu trên thế giới chế độ hoàn lưu bình thường lại bị nhiễu động mạnh mẽ như ở khu vực Đông Nam á, trong khi đó Biển Đông lại nằm ở vị trí trung tâm khu vực. Trong mùa đông, không khí có nguồn gốc cực đới có thể xâm nhập đến phía nam Biển Đông, ngược lại trong mùa hè đường hội tụ nhiệt đới có thể vượt qua Biển Đông vào phía nam lục địa Trung Quốc. - Các hình thế synop tự nhiên trên Biển Đông mang bản chất không liên tục. Tính bất liên tục thể hiện ở sự “giao tranh” ảnh hưởng từ các trung tâm tác động khác nhau đối với khu vực. Chế độ gió mùa đông bắc trong mùa đông thường bị ngưng trệ bởi ảnh hưởng trội lên của tín phong (xuất phát từ rìa tây nam áp cao đông Trung Hoa và áp cao cận nhiệt đới Thái Bình Dương) làm cho thời tiết mùa đông có những biến động mãnh mẽ và bị phân hoá rõ rệt theo phương kinh tuyến. Trong mùa hè, chế độ gió trên Biển Đông được hình thành từ hai luồng khác nhau, luồng gió tây gây ra gió Tây Nam, luồng gió đông là tín phong đông nam với nhiều nhiễu động như bão, dải hội tụ nhiệt đới, hai luồng gió mùa này vừa hoạt động độc lập, vừa đan xen, thậm chí có khi chúng còn bị gió mùa đông bắc lấn xuống “chèn ép” nhất là trong những thời kỳ đầu và cuối mùa hè ,vì vậy những hình thái khí áp và synop tự nhiên trên Biển Đông rất phong phú và liên tục biến động. - Đặc trưng thống kê của các trường khí áp hình thế synop Biển Đông. Qua bảng (7.2) và (7.3) dưới đây ta có thể rút ra một số nhận xét chính như sau: + Trong thời kỳ nghiên cứu (30 năm với tổng số ngày là 10856) có 4793 ngày chiếm 41,1% tổng số ngày các hình thế liên quan với cao áp lạnh, 1773 ngày chiếm 10,8% tổng số ngày các hình thế liên quan với bão, 860 ngày chiếm 7,9% tổng số ngày các hình thế liên quan với áp cao phó nhiệt đới, 1352 ngày chiếm 12,4% tổng số ngày
  10. các hình thế liên quan với các nhiễu động nhiệt đới khác, 932 ngày chiếm 8,6 % tổng số ngày trường áp tương đối bằng phẳng, hình thế KXĐ (bảng 7.3). + Hai hình thế có tần suất xuất hiện lớn (trên 10%) là ĐB2 và ĐB1 (là hai hình thế của mùa đông). Năm hình thế có tần suất xuất hiện ít (dưới 1%) là PNĐ2, HLBX, B3, ĐĐ2, và ĐĐ1. + Bảng (7.2) được xếp theo thứ tự giảm dần: 5 hình thế đầu tiên chiếm tần suất 53,7% ; 11 hình thế hình thế đầu chiếm 82,2% ; 16 hình thế đầu chiếm tần suất 96,5% tổng số ngày trong năm. - Trong 16 hình thế đầu có 5 hình thế xảy ra chủ yếu trong mùa đông (chiếm tần suất 43,9%), 8 hình thế xảy ra trong mùa hè (chiếm tần suất 36,8%), 3 hình thế có thể xảy ra trong cả hai mùa (chiếm tần suất 15,8%). - Thời gian tồn tại trung bình mỗi đợt hình thế dài nhất là 4,3 ngày/đợt thuộc hình thế CAĐTH, ngắn nhất là 1,9 ngày/đợt thuộc hình thế HT1. Nhìn chung các hình thế có số ngày kéo dài trung bình mỗi đợt từ 2 đến 3 ngày. Bảng 7.2: Phân bố tổng số ngày tồn tại các hình thế synop hoạt động trên Biển Đông theo tháng trong 30 năm (1969-1998) Số ngày ∑ Tháng tr.b/ XII 30 % Hình I II III IV V VI VII VIII IX X XI đợt, thế năm cơn ĐB2 382 250 150 103 12 2 133 362 385 1779 16.3 2.8 ĐB1 354 287 190 84 6 3 50 111 196 1281 11.7 2.5 TN1 10 9 27 126 244 343 228 48 2 1037 9.5 3.7 KXĐ 22 57 91 141 189 75 101 56 127 55 10 8 932 8.5 2.2 ĐB3 180 200 220 93 2 12 27 103 837 7.7 2.6 HT2 2 90 88 69 83 259 146 737 6.8 2.8 B1 4 21 60 116 104 118 68 22 2 515 4.7 2.5 RTB-ĐN 5 14 47 77 114 127 73 28 9 494 4.5 2.6 ĐB1R 101 36 22 6 2 25 155 123 470 4.3 2.8 B2 5 8 8 17 26 42 24 71 144 83 33 461 4.2 2.7 CAĐTH 13 23 112 262 11 5 426 3.9 4.3 TN2 8 22 93 114 40 98 41 2 418 3.8 2.7 HT3 4 8 13 17 33 10 3 57 163 29 6 343 3.1 3.3 TN3 5 22 31 61 84 43 34 32 2 4 318 2.9 2.9 P N Đ1 6 36 121 49 47 31 15 7 312 2.9 2.8 HT1 9 21 47 54 40 171 1.6 1.9 P N Đ2 33 2 18 16 27 96 0.9 3.7 HLBX 3 2 12 15 23 23 8 86 0.8 1.9 B3 1 6 5 1 1 41 21 84 0.8 2.3 ĐĐ2 1 3 9 13 28 2 56 0.5 3.7
  11. ĐĐ1 2 4 44 3 1 54 0.5 2.8 Bảng 7.3: Phân bố số ngày tồn tại các hình thế synop hoạt động trên Biển Đông trung bình tháng và năm từ 1969 đến 1998 Số Số Tháng ngày ngày tr.b/ % I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Tr.b/ đợt, Năm Hình thế cơn ĐB2 12.7 8.3 5.0 3.4 0.4 0.1 4.4 12.1 12.8 59,3 16.3 2.8 ĐB1 11.8 9.6 6.3 2.8 0.2 0.1 1.7 3.7 6.5 42,7 11.7 2.5 TN1 0.3 0.3 0.9 4.2 8.1 11.4 7.6 1.6 0.1 34,6 9.5 3.7 KXĐ 0.7 1.9 3.0 4.7 6.3 2.5 3.4 1.9 4.2 1.8 0.3 0.3 3,1 8.5 2.2 ĐB3 6.0 6.7 7.3 3.1 0.1 0.4 0.9 3.4 27,9 7.7 2.6 HT2 0.1 3.0 2.9 2.3 2.8 8.6 4.9 24,6 6.8 2.8 B1 0.1 0.7 2.0 3.9 3.5 3.9 2.3 0.7 0.1 17,2 4.7 2.5 RTB-ĐN 0.2 0.5 1.6 2.6 3.8 4.2 2.4 0.9 0.3 16,5 4.5 2.6 ĐB1R 3.4 1.2 0.7 0.2 0.1 0.8 5.2 4.1 15,7 4.3 2.8 B2 0.2 0.3 0.3 0.6 0.9 1.4 0.8 2.4 4.8 2.8 1.1 15,4 4.2 2.7 CAĐTH 0.4 0.8 3.7 8.7 0.4 0.2 14,2 3.9 4.3 TN2 0.3 0.7 3.1 3.8 1.3 3.3 1.4 0.1 13,9 3.8 2.7 HT3 0.1 0.3 0.4 0.6 1.1 0.3 0.1 1.9 5.4 1.0 0.2 11,4 3.1 3.3 TN3 0.2 0.7 1.0 2.0 2.8 1.4 1.1 1.1 0.1 0.1 10,6 2.9 2.9 P N Đ1 0.2 1.2 4.0 1.6 1.6 1.0 0.5 0.2 10,4 2.9 2.8 HT1 0.3 0.7 1.6 1.8 1.3 5,7 1.6 1.9 P N Đ2 1.1 0.1 0.6 0.5 0.9 3,2 0.9 3.7 HLBX 0.1 0.1 0.4 0.5 0.8 0.8 0.3 2,9 0.8 1.9 B3 0.2 0.2 0.3 1.4 0.7 2,8 0.8 2.3 ĐĐ2 0.1 0.3 0.4 0.9 0.1 1,9 0.5 3.7 ĐĐ1 0.1 0.1 1.5 0.1 1,8 0.5 2.8 7.1.3 Điều kiện mặt đệm 1) ảnh hưởng của hải lục đối với khí hậu a) ảnh hưởng của sự phân bố hải lục đến các yếu tố khí tượng: - ảnh hưởng của sự phân bố hải lục đến chế độ nhiệt độ của không khí: Biên độ ngày trên biển và đại dương không lớn chỉ khoảng 1o đến 2oC; trên lục địa rất lớn từ 14o đến 15oC, lớn nhất ở sa mạc và thảo nguyên khô ráo có thể đạt đến vài chục độ. Biên độ năm trên biển và hải dương nhỏ hơn trên lục địa khoảng 7-8 lần. Đường đẳng nhiệt qua bờ biển bị uốn cong đi.
  12. Nếu so sánh về chế độ nhiệt thì ở Nam bán cầu ôn hoà hơn Bắc bán cầu. Tháng nóng nhất ở Nam bán cầu có nhiệt độ thấp hơn tháng nóng nhất ở Bắc bán cầu khoảng 5oC. Tháng lạnh nhất ở Nam bán cầu có nhiệt độ cao hơn tháng lạnh nhất ở Bắc bán cầu khoảng 2- 3oC. - ảnh hưởng của hải lục đến phân bố khí áp và chế độ gió: dưới tác động của bức xạ mặt trời, mùa đông hình thành áp cao trên lục địa và áp thấp trên biển; còn mùa hè thì ngược lại. Dẫn đến ở một số nơi hình thành chế độ gió mùa (loại gió mùa ngoại nhiệt đới). Tốc độ gió ở trên biển lớn hơn nhiều so với tốc độ gió trên lục địa. Khắp nơi, dọc các vùng ven biển đều có hoạt động của hoàn lưu địa phương gió đất và gió biển. - ảnh hưởng của hải lục đến tình hình ẩm ướt của không khí rất rõ rệt: Lượng hơi nước có trong không khí trên biển lớn hơn lượng hơi nước có trong không khí trên lục địa. Mùa hè độ ẩm tương đối của không khí giảm dần từ biển vào sâu trong lục địa, mùa đông thì ngược lại. Không khí trên biển mang nhiều hơi ẩm thổi vào lục địa tạo điều kiện hình thành mây nhiều ở các các bờ biển hứng gió, càng đi vào sâu lục địa mây càng giảm. Sương mù trên lục địa chủ yếu là sương mù bức xạ còn sương mù trên biển lại chủ yếu là sương mù bình lưu và sương mù bốc hơi. Mưa vào ban đêm (mưa trong biến trình ngày) và mưa vào mùa đông (mưa trong biến trình năm) dễ hình thành và chiếm ưu thế trên biển và đại dương; còn mưa vào ban ngày và mưa vào mùa hè lại chiếm ưu thế trên lục địa. b) ảnh hưởng của dòng hải lưu đến khí hậu - Các dòng hải lưu làm tăng thêm hoặc dịu bớt sự chênh lệch về nhiệt độ của các vùng mà nó đi qua. Hải lưu lạnh làm tăng độ ổn định của tầng kết, làm suy yếu sự trao đổi của không khí theo chiều thẳng đứng; hải lưu nóng làm tăng độ bất ổn định của tầng kết nên thúc đẩy quá trình đối, loạn lưu. - Các dòng hải lưu nóng thúc đẩy, hải lưu lạnh làm giảm quá trình bốc hơi nên ảnh hưởng đến độ ẩm không khí. Không khí bên trên các dòng hải lưu lạnh thường tạo thành nghịch nhiệt với tầng kết ổn định và ít cho mưa; còn ngược lại ở các khu vực có các dòng hải lưu nóng đi qua thường cho mưa nhiều. c) ảnh hưởng của lớp phủ thực vật đến khí hậu - Chế độ nhiệt của không khí ở vùng có lớp phủ thực vật điều hoà hơn vùng không có lớp phủ thực vật. Biên độ ngày, biên độ năm của biến trình nhiệt độ không khí ở vùng có lớp phủ thực vật nhỏ hơn nhiều so với vùng không có lớp phủ thực vật. - Lượng bốc hơi ở nơi có lớp phủ thực vật (bốc thoát hơi nước) lớn hơn lượng bốc hơi trên mặt nước song lại nhỏ hơn lượng bốc hơi có thể trên mặt đất trơ trụi; bốc hơi ở rừng cây nhỏ hơn bốc hơi trên mặt cỏ. Trong các lớp phủ thực vật khác nhau, độ ẩm không khí cũng khác nhau. Khi có tán lá nước bốc hơi lên không chuyển được đi xa nên độ ẩm trong rừng cây tăng. - Lớp phủ thực vật ảnh hưởng lớn đến tình hình giáng thủy. Do ảnh hưởng của độ nhám (bìa rừng, độ gồ ghề của rừng cây...) mà lượng mưa tăng lên. Lượng mưa ở rừng một phần bị giữ lại bởi tán, do đó cần thận trọng khi tổ chức đo đạc ở rừng cây và sử dụng số liệu đo. 2) ảnh hưởng của địa hình đến khí hậu
  13. a) ảnh hưởng của địa hình đến bức xạ mặt trời - Càng lên cao do độ dài lộ trình của tia sáng mặt trời ngắn, độ trong suốt khí quyển tăng dần mà cường độ bức xạ mặt trời tăng dần; do bụi và hơi nước trong không khí giảm, bức xạ hữu hiệu tăng mà cán cân bức xạ lại giảm dần. - Phương vị sườn dốc thay đổi thì bức xạ mặt trời trên mặt sườn dốc thay đổi. Có thể nhận thấy một cách định lượng trong công thức: I’ = I [sinhO cosβ + cos hO sinβ cos(A-a) Trong đó: I , hO và A: cường độ bức xạ, độ cao và phương vị mặt trời. A, β: phương vị, góc nghiêng của mặt nhận ánh sáng với mặt nằm ngang. b) ảnh hưởng của địa hình đến nhiệt độ - Độ cao địa hình ảnh hưởng đến nhiệt độ thể hiện ở quy luật giảm nhiệt độ theo độ cao. Trên các đỉnh núi cao, nhất là núi có tiết diện nhỏ, biến thiên của nhiệt độ gần giống như trong khí quyển tự do. Trên các cao nguyên, sự biến đổi nhiệt độ theo thời gian rất lớn: vào ban ngày (mùa hè) nhận nhiều bức xạ nên nhiệt độ đất và nhiệt độ không khí tăng; vào ban đêm (mùa đông) hơi nước bụi ít... nhiệt độ đất và nhiệt độ không khí giảm. - Dạng địa hình ảnh hưởng lớn đến nhiệt độ không khí: địa hình dạng lồi (đồi, núi, sườn dốc) có thể làm biên độ nhiệt ngày (năm) giảm; còn địa hình dạng lõm (thung lũng, lòng chảo) có thể làm biên độ nhiệt ngày (năm) tăng. Dạng địa hình khác nhau làm cho tầng kết γ khác nhau: γ ở sườn Bắc khác với γ ở sườn Nam; γ ở giữa đỉnh và thung lũng lớn hơn γ giữa hai thung lũng cùng độ cao; γ ở vùng lõm hẹp khá lớn, xấp xỉ bằng trị số γk. c) ảnh hưởng của địa hình với hoàn lưu khí quyển - Trên quy mô lớn, có thể nói địa hình ảnh hưởng quyết định đến hướng và tốc độ gió, đặc biệt là hướng gió. Đa số các trường hợp, dưới tác động của địa hình, gió thổi theo hướng của các dãy núi lớn. Khi gặp các dạng địa hình lồi, tốc độ gió giảm sau đó đổi hướng: nếu tầng kết ổn định hoặc địa hình cao đơn lẻ thì không khí sẽ rẽ ra hai bên; nếu tầng kết bất ổn định hoặc địa hình kéo dài, độ cao địa hình không lớn thì không khí sẽ vượt lên trên đỉnh, tại sườn đón và khuất gió hình thành các xoáy có trục nằm ngang. Khi gió đổi hướng thì tốc độ gió tăng lên. Khi gặp các dạng địa hình lõm và các thung lũng, gió đổi hướng và tốc độ gió giảm đi; đặc biệt khi gặp các thung lũng hẹp, khe hẹp tốc độ gió sẽ tăng lên. - Trên quy mô nhỏ, địa hình đã tạo ra hoàn lưu địa phương như gió phơn. Gió phơn ở đây có thể là phơn điển hình hoặc phơn do xoáy nghịch khống chế ở sườn khuất gió. Địa hình cũng là nguyên nhân gây lên các hoàn lưu địa phương khác nữa như gió sườn dốc, gió núi, gió thung lũng và các hoàn lưu cục bộ khác. d) ảnh hưởng của địa hình đến tình hình ẩm ướt - ảnh hưởng của địa hình đến độ ẩm không khí thể hiện ở chỗ: độ ẩm tuyệt đối, độ hụt bão hoà và điểm sương đều giảm theo độ cao địa hình. Còn độ ẩm tương đối lại ít thay đổi theo độ cao, chỉ khi có tồn tại lớp nghịch nhiệt mới thay đổi theo độ cao một cách đáng kể. Biến trình ngày và năm của các đặc trưng độ ẩm cũng thay đổi theo dạng địa hình.
  14. - Mây và sương mù ở các vùng núi cao, các sườn dốc nhiều hơn ở dưới thấp. Địa hình đồi núi về ban ngày (mùa hè) thịnh hành mây đối lưu, mù chiều tối hay cho dông; còn ban đêm (mùa đông) thịnh hành mây, sương mù bức xạ có thể ở dạng tằng bao quanh núi. Địa hình lõm, mây ít đi, thường là sương mù, mù bức xạ (đặc biệt về ban đêm - mùa đông) mây càng ít ở các thung lũng hẹp nghèo hơi ẩm. Tại sườn đón gió mây được tăng cường, còn khi sang sườn khuất gió mây bị tiêu tan do tác dụng của phơn. - Giáng thuỷ tăng theo độ cao đạt tới độ cao giáng thuỷ lớn nhất, sau đó lại có xu hướng giảm. Giáng thuỷ phụ thuộc vào phương vị sườn dốc với hướng của dòng không khí, dưới tác động kết hợp của dòng không khí mang hơi ẩm với phương vị sườn dốc của địa hình mà tạo thành dốc mưa và dốc khô. Ngoài ra, địa hình còn ảnh hưởng rõ rệt đến biến trình ngày của mưa: ở đỉnh và sườn mưa cực đại vào chiều hoặc chiều tối; ở chân, đáy, thung lũng mưa cực đại vào ban đêm; ở bình nguyên mưa cực đại vào sáng sớm. 3) Lớp xáo trộn và điều kiện lớp mặt đại dương Nguồn cung cấp nhiệt cho đại dương chủ yếu là bức xạ mặt trời, chuyển qua lớp nước bề mặt. Lớp xáo trộn có độ sâu khoảng 100m cũng là lớp hấp thụ được nhiều nhất năng lượng bức xạ mặt trời. Bức xạ tia hồng ngoại được hấp thụ ở lớp mỏng trên bề mặt đại dương vài chục cm. Mức độ hấp thụ bức xạ mặt trời của đại dương phụ thuộc nhiều vào tính chất quang học và các chất hữu cơ, trầm tích lơ lửng, chế độ các dòng động lực biển của mỗi khu vực. Thông lượng mặt trời và tốc độ đốt nóng trong đại dương chủ yếu ở lớp bề mặt và giảm theo độ sâu và hàm số mũ. Như vậy tại lớp nước mặt nơi luôn xảy ra các quá trình trao đổi tương tác kết quả hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời và bốc hơi truyền nhiệt của đại dương trở lại khí quyển để duy trì sự cân bằng nhiệt. Khí quyển và đại dương tương tác trong hệ thống khép kín thông qua ứng suất gió, dòng năng lượng và các thành phần ẩm nhiệt và hình thành ra các hệ thống sóng trọng trường, dòng chảy trôi bề mặt. Lớp xáo trộn cũng như biến động mùa của các nêm nhiệt chính là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quá trình tương tác đó. Các sóng quy mô nhỏ dưới dạng khuyếch tán phân tử chỉ hoạt động trong lớp mỏng bề mặt có độ dày vài chục cm và tần suất của hệ thống sóng này được xác định qua biểu thức: ω = (gk + γk)1/2 Trong đó γ đặc trưng cho lực ứng suất bề mặt, người ta chọn γ vào khoảng 72.5 cm3/s2 đối với môi trường nước – khí quyển có nhiệt độ 200C. Tuy nhiên phải chú ý rằng giá trị này thay đổi khá nhiều tuỳ thuộc vào momen động lượng từ khí quyển chuyển qua môi trường nước, các tham số của nó là độ gồ ghề bề mặt, điều kiện bốc hơi cũng như các yếu tố biến đổi khí hậu khác. Các sóng khuyếch tán phân tử này tập trung chủ yếu ở hệ thống sóng ngắn l < 2π (γ/g)1/2 ≈ 1.7 cm. Hệ thống sóng này tạo nên độ gồ ghề tầng mặt. Độ gồ ghề mặt đệm được xác định qua biểu thức: γ 3 / 4 u*2a gσ (ξ ) u*2a Z0 = F( , , ) g 1 / 4 v w gv a u*2a g
  15. Trong đó u*a tốc độ ma sát mặt lớp biên biển – khí quyển, đại lượng u*a vào khoảng 0.02 – 0.03 của tốc độ gió bề mặt, đại lượng này tăng dần khi giá trị log (g/fVgió); σ(ξ) ≈ 0.2 Vgió/g. (Tốc độ gió ở độ cao 10m trên tàu biển); Vw , Va: tốc độ gió thành phần theo kinh vĩ hướng; F là đại lượng đặc trưng cho số Reynold: c0 2 xc F ≈( ) exp(− 20 ) u*a u *a c ≥ 1; F ≈ (10 Re)-1; Giá trị u *a Tại lớp bề mặt, lớp biên Ekman của đại dương được xem là lớp xáo trộn có quy mô biến động theo phương thẳng đứng với độ dày: * uw H E = x0 f Trong đó vai trò của quá trình rối và lực Coriolis là đáng kể; x0 ≈ 0.2 ; U*w ≈ 1 và f lấy trung bình 10-4s-1 ; Với các tham số này, độ dày HE ≈ 20m. Trong lớp xáo trộn Ekman, tốc độ dòng chảy trôi Vav = U*w/x0 ≈ 5cm/s tương ứng với thời gian tác động của gió trên đó là 3g. Như vậy ta có thể coi gió ở đây biến đổi trong phạm vi của quy mô synop và dòng chảy trong lớp Ekman là tựa dừng. Hệ phương trình mô tả dòng chảy trong lớp Ekman có dạng: 1 ∂τ x ∂ξ + = − fv . g ∂x S w ∂z 1 ∂τ y ∂ξ + = fu g . ∂y S w ∂z Trong đó ξ: giá trị mực nước, biến động theo giá trị trung bình; Sw : mật độ nước biển; τx , τy ứng suất gió theo các trục. Hệ phương trình trên có thể xác định trung bình cho toàn bộ lớp Ekman: * uw Vav = −τ x / fS w H E = x0 ở đây ứng suất gió xác định theo trục x cùng với hướng gió. Nghiên cứu về lớp biên Ekman sẽ có một mục riêng chi tiết hơn. 7.2 Đặc điểm chung của các vùng khí hậu Biển Đông Miền khí hậu biển Đông bao gồm các vùng khí hậu trên toàn bộ phần thềm lục địa với nhiều đảo và quần đảo trên biển Đông - vùng biển ở phía Đông nước ta. ở vùng bờ, dọc theo ven biển Quảng Ninh có hàng nghìn cù lao lớn nhỏ trong vịnh Bái Tử long với một số đảo khá lớn như Cái Bầu, Cát Bà, quần đảo Cô Tô... Từ vịnh Hạ long đến mũi Cà mau, rải rác có những đảo nhỏ như Hòn Mê, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù lao Ré, Cù lao Chàm, quần đảo Côn Sơn…
  16. Ngoài khơi, chính giữa vịnh Bắc bộ là đảo Bạch Long Vĩ. Xa hơn nữa, ngoài biển Đông còn có vô số những đảo san hô quây quần thành hai vùng quần đảo: quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc ngang vĩ độ của các tỉnh Trung Trung bộ (Bình – Trị – Thiên) và quần đảo Trường Sa ở phía Đông nam ngang vĩ độ các tỉnh Nam bộ. Trên vùng biển phía Tây, trong vịnh Thái Lan, chúng ta cũng có nhiều đảo, trong đó có đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất nước ta. Có thể phân ra 3 vùng khí hậu: vùng khí hậu ven biển và 2 vùng khí hậu ngoài khơi. Khí hậu vùng ven biển vẫn giữ các đặc điểm không khác biệt nhiều lắm so với khí hậu vùng duyên hải lân cận trên đất liền, song các thuộc tính khí hậu hải dương cũng được biểu hiện ở một chừng mực nào đó; còn khí hậu vùng phía Bắc và khí hậu vùng phía Nam Biển Đông có đặc điểm tiêu biểu chung của khí hậu hải dương rõ rệt. 7.2.1 Khí hậu vùng ven biển Vùng ven biển của biển Việt nam bao gồm một dải bờ biển kéo dài từ Bắc xuống Nam với trên 3000 km đường bờ và vô số các đảo và quần đảo. Thuộc tính khí hậu hải dương ở các miền ven biển và các đảo gần bờ cũng được biểu hiện ở một chừng mực nào đó. Những nét tiêu biểu này của khí hậu hải dương có thể nêu tóm tắt như sau: - Mùa hè mát và mùa đông ấm hơn so với đất liền, do đó những biên độ hàng năm của nhiệt độ nhỏ hơn so với đất liền. - Nhiệt độ tối cao thường thấp hơn, nhiệt độ tối thấp thường cao hơn so với đất liền dẫn đến biên độ ngày của nhiệt độ cũng rất nhỏ so với đất liền. - Độ ẩm nói chung cao hơn trong đất liền và ít biến đổi trong năm. - Gió mạnh hơn trong đất liền rõ rệt, tần suất lặng gió rất nhỏ. - Một số các hiện tượng thời tiết mang tính đặc trưng khác có liên quan đến nguyên nhân hình thành với trong đất liền như: sương mù trên biển thường là sương mù bình lưu chứ không phải là sương mù bức xạ như trong đất liền và thời gian hay xuất hiện nhất chậm lại đến cuối mùa đông sang đầu mùa hạ chứ không phải ngay từ đầu mùa đông như trong đất liền; hoặc dông trên biển thường phát triển về đêm và sáng chứ không phải là chiều tối như trong đất liền. Tuy nhiên, các đảo ở gần bờ có khí hậu không khác biệt nhiều lắm so với vùng duyên hải lân cận trên đất liền, đặc biệt là chế độ nhiệt và chế độ mưa ẩm trên các đảo này đều mang những đặc điểm cơ bản của khí hậu vùng đất liền lân cận; ví dụ: các đảo thuộc vịnh Bái Tử long, xếp vào vùng khí hậu vùng Đông Bắc hoặc các đảo thuộc vịnh Thái Lan xếp vào vùng khí hậu Nam Bộ... 7.2.2 Khí hậu vùng phía Bắc Biển Đông Nằm trải rộng cả khu vực ngoài khơi phía Bắc biển Đông, khí hậu vùng phía Bắc biển Đông có những đặc điểm cơ bản sau: - Về chế độ nhiệt: Có thể nói chế độ nhiệt vùng phía Bắc biển Đông rất dịu, nhiệt độ trung bình nhiều năm vào khoảng 260 - 27oC. Mặc dù có vị trí ở những vĩ độ tương đối cao, song ở đây hầu như không còn có mùa đông lạnh nữa (ngay cả các nơi có vĩ độ cao của lãnh hải). Tháng nóng nhất nhiệt độ
  17. trung bình cũng chỉ lên tới 31oC (tháng V); tháng lạnh nhất nhiệt độ trung bình vẫn còn đạt đến 230 - 24oC (tháng I) cao hơn đất liền cùng vĩ độ tới 3 – 40C. Do đó, chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hạ ở đây giảm xuống đáng kể so với đất liền; sự chênh lệch này tăng dần từ Bắc xuống Nam. Biên độ ngày của nhiệt độ khá nhỏ, chỉ vào khoảng 3 – 40C, nhỏ hơn trên dưới 10C so với ở các đảo gần bờ và nhỏ hơn tới 1 – 20C so với các vùng bờ biển. Tuy số liệu quan trắc về nhiệt độ không khí trên biển Đông chưa đủ dài, song theo các chuyên gia khí hậu thì nhiệt độ tối cao tuyệt đối ở vùng biển phía Bắc biển Đông không vượt quá 35oC và nhiệt độ tối thấp tuyệt đối không xuống dưới 15oC. - Về chế độ mưa ẩm: Chế độ mưa có sự phân chia phù hợp với chế độ gió mùa. Mùa mưa trùng với mùa gió mùa mùa hạ và mùa ít mưa trùng với mùa gió mùa mùa đông. Mùa ít mưa kéo dài từ tháng XII đến tháng V với lượng không quá ít, trung bình mỗi tháng ít mưa nhất vào tháng I, II, III có lượng mưa vào khoảng 20 – 40 mm với từ 5 – 7 ngày mưa; các tháng còn lại có lượng mưa trung bình vào khoảng 50 – 70 mm. Mùa mưa tập trung vào nửa cuối mùa hạ từ tháng VIII đến tháng XI với lượng mưa tháng tăng đều xấp xỉ từ 150 mm đến 200 mm và đến tháng X là tháng có lượng mưa lớn nhất đạt 230 mm. Số ngày mưa trong 3 – 4 tháng giữa mùa mưa vào khoảng trên dưới 15 ngày; ít có trường hợp mưa lớn, lượng mưa trong 24 giờ cũng chỉ đạt trên dưới 200 mm. Tuy vậy, điều đáng lưu ý là lượng mưa năm ở vùng Bắc biển Đông này khá nhỏ, chỉ khoảng 1200 mm/năm, tương đương với giá trị vào loại thấp nhất trên đất liền với số ngày mưa vào khoảng 110 ngày trong năm. Độ ẩm không khí quanh năm cao, trung bình vào khoảng 84 - 85%; chỉ có vào thời kỳ thịnh hành của không khí có nguồn gốc lục địa của mùa đông độ ẩm mới hơi giảm một chút xuống khoảng 82%. - Chế độ gió: Nhìn chung, trên vùng Bắc biển Đông, hướng gió trong từng mùa rất ổn định và đặc biệt lộng gió. Mùa đông hướng thịnh hành là Đông Bắc với tần suất vượt quá 50%; rồi đến hướng Bắc với tần suất trên 25%. Mùa hè hướng thịnh hành là hướng Nam với tần suất vượt quá 50%; rồi đến hướng Tây Nam với tần suất gần 30%. Về tốc độ gió: mùa đông gió mạnh hơn, trung bình vào khoảng 6 - 7 m/s; còn mùa hè trung bình vào khoảng 5 – 6 m/s. Khắp nơi trên toàn vùng hầu như không có trường hợp lặng gió và gió yếu dưới 1,5 m/s thì rất ít. áp thấp nhiệt đới và bão hoạt động trên Biển Đông có thể xuất hiện ngay trên Biển Đông hoặc có nguồn gốc từ Thái Bình Dương với sự xuất hiện trung bình hàng năm vào khoảng 3,4 cơn. Cường độ bão rất lớn, gây ra gió mạnh (có thể > 50 m/s), sóng to có sức phá hoại rất ghê gớm. Tuy bão rất mạnh song mưa do bão gây nên quan trắc được ở đây lại không lớn bằng ở các vùng đất liền ven biển. 7.2.3 Khí hậu vùng Nam Biển Đông Nằm trải rộng cả khu vực ngoài khơi phía Nam biển Đông, khí hậu vùng phía Nam biển Đông là khí hậu gió mùa mang tính chất xích đạo rõ rệt, với những đặc điểm cơ bản sau:
  18. - Về chế độ nhiệt: Vùng Nam Biển Đông có nền nhiệt độ cao và hầu như không có sự biến thiên qua các mùa. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 26 - 27oC. Dạng biến trình năm của nhiệt độ mang tính chất xích đạo là biến trình kép với biên độ khá nhỏ. Cực đại chính rơi vào tháng nóng nhất là tháng IV với giá trị là 27,5oC, cực đại phụ xảy ra vào tháng IX với giá trị là 27oC. Tháng cực tiểu rơi vào tháng II là tháng lạnh nhất với giá trị là 25,5oC. - Chế độ mưa ẩm: Lượng mưa vùng Nam Biển Đông tương đối lớn và có sự phân chia rõ rệt theo mùa: mùa mưa và mùa ít mưa. Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 2000 mm/năm với hơn 150 ngày mưa. Mùa mưa bắt đầu vào tháng V cùng với sự bắt đầu hoạt động của gió mùa mùa hạ nhưng kết thúc muộn hơn vào tháng XII nửa đầu mùa đông. Mùa mưa này được chia thành 2 thời kỳ mưa nhiều vào đầu và cuối mùa, còn xen giữa chúng là thời kỳ ngắn tương đối ít mưa vào khoảng tháng VIII). Thời kỳ nhiều mưa nhất là ba tháng X, XI, XII với lượng mưa trung bình vào khoảng 250-300 mm/tháng với số ngày mưa trung bình khoảng 20 ngày mỗi tháng. Mùa ít mưa là các tháng còn lại, lượng mưa cũng không phải quá ít, trung bình mỗi tháng lượng mưa cũng đạt được trên dưới 50 mm với 5 – 7 ngày mưa. - Chế độ gió, ẩm vùng Nam Biển Đông tương tự như vùng phía Bắc Biển Đông, tức là: hướng gió thịnh hành rất ổn định theo mùa và tốc độ gió lớn, độ ẩm không khí cao và ít thay đổi trong năm. áp thấp nhiệt đới và bão hoạt động ở vùng Nam Biển Đông ít hơn, muộn hơn và cường độ yếu hơn nhiều so với phía Bắc Biển Đông. Trung bình năm chỉ có khoảng 1,3 cơn bão. Tuy vậy, những năm gần đây nhiều khi bão đã là nhân tố gây thiệt hại rất đáng kể. 7.3 Các đặc trưng khí hậu của biển Đông 7.3.1 Trường áp và trường gió 1) Trường áp: Vùng biển ngoài khơi và ven bờ biển Việt nam chịu sự chi phối của hai hệ thống khí áp chính sau: - Cao áp Xi bê ri (lục địa châu á) phát triển rất mạnh về mùa đông, trị số áp suất ở vùng trung tâm (Bai can) xấp xỉ 1.035 mb khống chế ảnh hưởng suốt từ tháng X năm trước đến tháng III năm sau với cường độ mạnh nhất vào các tháng XII và tháng I. Trong giai đoạn hoạt động mạnh, lưỡi cao áp có thể khống chê cả vịnh Bắc bộ; còn trong giai đoạn suy yếu lại chịu ảnh hưởng của vùng cao áp tồn tại ở phía Đông Bắc của biển. - áp thấp ấn Độ - Pakitstăng phát triển do nguyên nhân nhiệt lực về mùa hè, có tâm tại Irăng với áp suất thấp hơn 1.000 mb khống chế ảnh hưởng suốt từ tháng V đến tháng IX với cường độ mạnh nhất vào các tháng VI và VII. Ngoài ra, lãnh hải biển Đông còn chịu ảnh hưởng của áp thấp Alêuchiên (Bắc Thái Bình Dương) sâu với trị số áp suất ở vùng trung tâm xấp xỉ 1.002 mb vào mùa đông; và cao áp phó nhiệt đới (Tây Bắc Thái Bình Dương) phát triển mạnh với trị số áp suất ở vùng trung tâm xấp xỉ 1.025 mb và rãnh thấp xích đạo vào mùa hè. Vào mùa đông,
  19. rãnh áp thấp xích đạo lùi xuống phía Nam và hoạt động ở phía Đông Nam biển Đông; còn vào mùa hè, dải hội tụ nhiệt đới hoạt động liên kết với vùng áp thấp Bắc bộ và trong nhiều trường hợp có thể kết hợp cả với áp thấp Vân Nam Trung Quốc tạo nên một dải áp thấp kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dải cao áp cận nhiệt ở Nam bán cầu (Đông Nam Thái Bình Dương) di chuyển lên phía Bắc vá ảnh hưởng đến phần phía Nam biển Đông. Nhìn chung, trị số khí áp trên khu vực lãnh hải biển Đông có xu thế chung giảm dần từ Bắc xuống phía Nam vào mùa đông, còn vào mùa hè thì ngược lại có xu hướng giảm dần từ Nam lên Bắc. Hình (7-1a, b) là các bản đồ trường áp trên biển Đông vào tháng I và VII. 2) Trường gió a) Trên biển Đông: Trên biển Đông, tương ứng với hai hệ thống khí áp chính chi phối ảnh hưởng phần lãnh hải là hai chế độ gió mùa thổi luân phiên nhau: gió mùa Đông Bắc vào mùa đông và gió mùa Tây Nam vào mùa hè. Điều đặc biệt là hướng gió thình hành của cả hai hệ thống gió mùa Đông Bắc và Tây Nam lại trùng vói trục lớn của biển Đông, nghĩa là vào mùa đông hướng gió là Đông Bắc, còn vào mùa hạ là hướng Tây Nam. Đối với các vùng ở ven biển nước ta, hướng gió có thay đổi do ảnh hưởng của địa hình từng vùng. - Trong thời kỳ mùa đông, gió mùa Đông Bắc hầu như hoạt động ở nửa phần phía Bắc của lãnh hải. Tần suất gió mạnh tới cấp 7 – 8 (vào khoảng 14-20 m/s), chiếm khoảng 5-10%. ở vịnh Bắc bộ, gió mùa Đông Bắc mạnh và ổn định. Thời gian gió mùa Đông Bắc thổi từ cuối tháng IX hoặc đầu tháng X năm trước cho đến cuối tháng III hoặc giữa tháng IV năm sau. Vùng ven biển miền Trung, gió mùa Đông Bắc có khi mạnh hoặc vừa, có khi nhẹ, thậm chí có khi bị ngắt quãng bởi gió mùa Tây Nam. Trong thời kỳ gió mùa Đông Bắc mạnh thường gây biển động. ở phần phía Bắc Biển Đông, gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng X năm trước cho đến cuối tháng III hoặc đầu tháng IV năm sau. Tốc độ gió trung bình từ 4 - 6 m/s, gió mạnh nhất đạt 20 – 24 m/s. Cá biệt khi xuất hiện áp thấp nhiệt đới, hoặc bão, tốc độ gió có thể lên tới 28 – 30 m/s. Vùng phía Nam biển Đông không chịu ảnh hưởng của gió mùa cực đới, gió mùa Đông Bắc ở đây chính là tín phong của Bắc bán cầu. Tốc độ gió trung bình từ 5 – 7 m/s, tốc độ gió mạnh nhất có thể lên tới 18 – 20 m/s khi và chỉ khi áp thấp nhiệt đới hoặc bão xuất hiện. - Trong thời kỳ mùa hè, gió mùa Tây Nam xuất hiện đều ở vùng biển phía nam; ở đây thường thấy gió mùa Tây Nam thổi từ tháng V đến tháng VIII, có khi đến cuối tháng IX. ở gần bờ biển nhiều khi người ta còn quan trắc thấy gió đất thổi vào ban đêm và về sáng, sau đó lại tiếp tục là gió mùa Tây Nam thổi suốt cả ngày, tốc độ gió nhẹ vào khoảng 2-3 m/s. ở vịnh Bắc bộ và ven biển Trung bộ, gió mùa Tây Nam thổi không đều vì có nhiều nhiễu động khí quyển như dông, bão. Nơi đây còn xuất hiện gió Nam, ở Bắc bộ thổi vào tháng
  20. VI và đầu tháng VII, ở ven biển Trung bộ vào cuối tháng IV và tháng V. Theo số liệu thực đo thì gió mùa mùa hạ ở đây có tốc độ vừa phải, ít khi vượt quá cấp 4 – cấp 5. ở gần bờ biển, gió biển và gió đất trùng với gió mùa do bị lệch hướng bởi ảnh hưởng điều kiện địa phương của bờ biển. ở phần phía Bắc Biển Đông, gió thịnh hành có hướng Nam hoặc Đông Nam, cũng có khi gió hướng Tây Nam. Tốc độ gió trung bình từ 3 - 5 m/s; tốc độ gió mạnh nhất từ 20 – 22 m/s; trong những cơn bão mạnh tốc độ gió có thể đạt tới 30 – 40 m/s. Đặc biệt, khu vực phía Bắc biển Đông là nơi có nhiều áp thấp nhiệt đới và bão; cường độ bão ở khu vực này cũng lớn. ở phần phía Nam Biển Đông, gió thịnh hành có hướng Tây Nam; tốc độ gió trung bình từ 4 – 6 m/s, gió mạnh nhất lên tới 20 -22 m/s và khi có bão mạnh tốc độ gió mạnh nhất có thể lên tới 30 m/s. Bão hoạt động trên vùng phía Nam biển Đông ít hơn, chậm hơn và cường độ cũng yếu hơn so với vùng biển phía Bắc. - Trong năm, vào tháng IX và tháng IV là thời kỳ chuyển tiếp giữa hai mùa gió. Khi đó, hướng gió thay đổi, tốc độ gió yếu và phụ thuộc vào từng vùng cụ thể trên biển. b) ở vịnh Thái lan: Vịnh Thái lan là vùng biển khuất gió, ở đây có hệ thống gió đất – gió biển thổi đều đặn, do đó hướng và tốc độ gió thường thay đổi theo chu kỳ ngày đêm. - Về mùa đông, bắt đầu từ tháng XII gió mùa Đông Bắc chi phối vùng biển này, tốc độ gió thay đổi nhiều và cũng có nhiều ngày lặng gió; đặc biệt ở bờ biển phía Tây của vịnh thường quan trắc thấy gió mạnh đột ngột. Từ tháng II gió trên vịnh đổi hướng Đông Nam, tuy vậy đôi khi vẫn có gió Đông Bắc và có những ngày gió mạnh đột ngột. Từ tháng III đến tháng V là thời kỳ thịnh hành của gió Đông Nam hoặc gió Nam với sự xen kẽ những ngày có gió đất và gió biển. - Về mùa hè, đây là thời kỳ của gió mùa Tây Nam. ở vịnh Thái lan gió mùa Tây Nam bắt đầu thổi từ cuối tháng V hoặc đầu tháng VI. Đáng lưu ý là ở đây, thường xuất hiện gió mạnh có kèm theo mưa lớn. Nhìn chung, trên vịnh Thái lan chế độ gió không ổn định theo mùa như ở vịnh Bắc bộ mà thường thay đổi và hay có gió mạnh đột ngột về cả mùa đông lẫn mùa hè. Ngoài ra, một trong những nguyên nhân quan trọng để tạo nên hướng gió ở vịnh Thái lan không ổn định là do sự hoạt động của gió đất và gió biển. 7.3.2 Trường nhiệt ẩm a) Nhiệt độ không khí: - Nhiệt độ không khí trung bình năm ở vịnh Bắc bộ, Trung bộ Việt nam và phần phía Bắc Biển Đông dao động từ 2205C đến 2605C. Về mùa đông, nhiệt độ không khí trung bình tháng I đạt từ 150C đến 170C. Về mùa hè, nhiệt độ không khí trung bình tháng VII đạt từ 270C đến 290C. Nhiệt độ không khí trung bình năm ở phía Nam biển Đông và vịnh Thái lan vào dao động vào khoảng 270C đến 280C. - Biến trình năm của nhiệt độ không khí ở vùng biển phía Bắc với một cực đại duy nhất vào tháng VI, tháng VII và một cực tiểu vào tháng I. Nhiệt độ trung bình thấp nhất do gió mùa Đông Bắc xảy ra ở vùng biển phía Bắc với nhiệt độ nhỏ hơn 200C,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2