BỘ NỘI VỤ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NHỮNG TÍN NGƯỠNG TRONG TẾT CỔ TRUYỀN

VIỆT NAM Ở HÀ NỘI VÀ ẢNH HƯỞNG VỚI DU LỊCH

Khoá luận tốt nghiệp ngành : Văn hoá du lịch

Người hướng dẫn : PGS.TS Triệu Thế Việt

Sinh viên thực hiện : Trương Thị Thùy Linh

Mã sinh viên : 1805VDLA026

Lớp : Văn hóa Du lịch 18

Khóa : 2018-2022

Hà Nội – 2022

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... 6

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... 7

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 8

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 8

2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................... 9

3. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................... 9

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 9

5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................... 9

6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 10

Chương 1 .......................................................................................................... 11

TỔNG QUAN VỀ TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM ........................................ 11

1.1. Giới thiệu về Tết cổ truyền của người Việt ............................................... 11

1.1.1. Lịch sử hình thành Tết cổ truyền của người Việt ................................... 11

1.1.2. Đặc điểm về thời gian của Tết cổ truyền của người Việt......................... 12

1.1.2.1. Tiết khí trong năm................................................................................. 13

1.1.2.2. Các khí tiết và lễ tiết theo lịch pháp Mặt Trăng ..................................... 13

1.1.3. Không gian lễ hội của Tết cổ truyền ......................................................... 22

1.1.4. Các phong tục ngày Tết ........................................................................... 22

1.1.4.1. Tống Cựu Nghinh Tân .......................................................................... 23

1.4.1.2. Hạ Nguyên............................................................................................ 23

1.4.1.3. Tất niên ................................................................................................ 24

1.1.1.4. Giao thừa ............................................................................................. 24

1.4.2.5. Tri ân ................................................................................................... 24

1.4.1.6. Hóa vàng ............................................................................................. 25

1.4.1.7. Tết trồng cây ........................................................................................ 25

1.1.5. Các thú chơi ngày Tết ............................................................................. 26

1.1.5.1. Khai bút đầu xuân................................................................................. 27

1.1.5.2. Câu đối ................................................................................................. 27

1.1.5.3. Tranh Tết .............................................................................................. 28

1.1.5.4. Hoa trong ngày tết ................................................................................ 28

1.1.6. Ẩm thực ngày Tết ................................................................................... 29

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 33

Chương 2 .......................................................................................................... 34

TÍN NGƯỠNG VÀ NHỮNG BÀN LUẬN VỀ TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM Ở HÀ NỘI ............................................................................................... 34

2.1. Tín ngưỡng trong Tết Nguyên Đán ở Hà Nội ............................................ 34

2.1.1. Tống cựu nghinh tân .............................................................................. 34

2.1.2 Hạ Nguyên .............................................................................................. 35

2.1.3. Tất niên .................................................................................................. 38

2.1.4. Giao thừa ................................................................................................ 40

2.1.5. Tri ân ...................................................................................................... 43

2.1.6. Hóa vàng ................................................................................................ 46

2.1.7. Tết trồng cây ........................................................................................... 47

2.2. Những bàn luận về Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội .............................. 48

2.2.1. Những nét đẹp trong Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội .......................... 48

2.2.2. Nhưng bất cập trong Tết cổ truyền ở Hà Nội .......................................... 54

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 55

Chương 3 .......................................................................................................... 57

NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ TÍN NGƯỠNG TRONG TẾT CỔ TRUYỀN

VIỆT NAM Ở HÀ NỘI VÀ KHAI THÁC DU LỊCH ...................................... 57

TRONG DỊP TẾT CỔ TRUYỀN ..................................................................... 57

3.1. Những biến đổi về tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội ... 57

3.1.1. Biến đổi về quan niệm “Tết”của người Hà Nội ...................................... 57

3.1.2. Những biến đổi trong tín ngưỡng của Tết cổ truyền ở Hà Nội ............... 59

3.1.3. Biến đổi về mâm cỗ ngày Tết của người Việt ở Hà Nội .......................... 63

3.2. Những thuận lợi và khó khăn của việc đưa Tết Nguyên Đán vào khai thác du lịch .............................................................................................................. 65

3.2.1.Những thuận lợi ...................................................................................... 65

3.2.2. Những khó khăn .................................................................................... 66

3.3. Một số giải pháp để khai thác tài nguyên Tết Nguyên Đán trong du

lịch ..................................................................................................................... 68

3.3.1. Khai thác tài nguyên tĩnh ....................................................................... 68

3.3.2. Khai thác tài nguyên động ...................................................................... 71

3.3.3.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên Tết Nguyên Đán trong du lịch ..................................................................................................... 71

3.3.3.1. Cần có những nghiên cứu khoa học tổng thể về lễ hội Tết Nguyên Đán 71

3.3.3.2. Duy trì bảo tồn và phát triển các phong tục cổ truyền ngày Tết khuyến

khích các hoạt động vui xuân đón Tết của nhân dân .................................... 72

3.3.3.3. Đa dạng các loại hình du lịch, các chương trình tour trong dịp Tết ....... 73

3.3.3.4. Nâng cao chất lượng phục vụ trong dịp Tết ........................................... 78

3.3.3.5. Một số kiến nghị giải pháp trong việc khai thác Tết Cổ Truyền trong

kinh doanh du lịch....................................................................................... 80

3.3.4. Giải pháp gìn giữ giá trị truyền thống trong Tết cổ truyền ..................... 82

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 83

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 86

PHỤ LỤC.......................................................................................................... 87

LỜI CẢM ƠN

Đối với sinh viên năm tư chuyên ngành Văn hoá Du lịch của trường Đại

học Nội Vụ Hà Nội, khóa luận tốt nghiệp là một trong những minh chứng, là thành

quả sau bốn năm cố gắng học tập và rèn luyện. Ngoài những sự cố gắng hết mình

của bản thân, tôi sẽ không thể nào tự mình hoàn thành tốt công việc của mình nếu

như không có sự giúp đỡ tận tình chỉn chu và khoa học đến từ Phó Giáo sư Tiến

sĩ Triệu Thế Việt. Tôi xin chân thành được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy!

Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu bản thân tôi cũng đã nhận được rất

nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ tận tình từ các quý thầy cô trong khoa Quản lý Xã hội đã

tạo điều kiện để bản thân tôi được trưởng thành trong môi trường giáo dục nề nếp.

Xin được gửi lời cảm ơn đến các quý Thầy, Cô bộ môn, thầy giáo chủ nhiệm trong

suốt quá trình học tập đã truyền dạy cho tôi những kiến thức chuyên ngành thật

hữu ích và có giá trị sâu sắc đối với sự phát triển trong chặng đường cuối cùng

của thời sinh viên để tôi có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này!

Với điều kiện thời gian ngắn hạn cùng kinh nghiệm bản thân còn non trẻ

nên chắc chắn trong quá trình làm luận án không thể tránh khỏi sự thiếu sót. Tôi

rất mong nhận được sự chỉ bảo và nhận xét, đóng góp ý kiến đến từ quý thầy cô

giúp tôi nhận ra những hạn chế để bài đồ án của mình có thể hoàn thiện một cách

đầy đủ, nâng cao ý thức và kinh nghiệm để phục vụ cho công tác làm việc sau

này!

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả thực hiện

1

Trương Thị Thùy Linh

LỜI CAM ĐOAN

Trải qua thời gian miệt mài làm khóa luận, sơ suất có sai sót có. Được

sự thông cảm và tạo điều kiện từ phía nhà trường và PGS.TS Triệu Thế

Việt, một lần nữa, tôi xin được cam đoan đề tài này là thành quả của quá

trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự giúp đỡ khoa học và tận tình của

người Cha, người Thầy Triệu Thế Việt. Tất cả những nội dung trong đề tài

là sự thai nghén kiến thức và ấp ủ cùng niềm đam mê với những văn hóa

truyền thống dân tộc, “Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam

ở Hà Nội và ảnh hưởng với du lịch” là đề tài mà tôi xin được chọn. Những

thông tin thu thập trong bài đều có trích dẫn từ các nguồn chính thống để

bổ trợ cho quá trình nghiên cứu!

Tôi xin chân thành cám ơn!

Tác giả thực hiện

1

Trương Thị Thùy Linh

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tết truyền thống Việt Nam hay gọi là Tết Nguyên Đán – chỉ khi nhắc

tới những từ này, dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào: dù giàu sang, phú quý; dù

cơ cực, xa quê; dẫu bần hàn, thiếu thốn,… Nhắc đến Tết, ta liên tưởng ngay

đến những hình ảnh thuở xưa, nó luôn nằm đấy, án ngữ trong tâm thức, trong

cuộc đời của mỗi con người từ lúc thơ bé háo hức chờ manh áo mới mừng tuổi

ngày Tết cho đến độ trưởng thành, phải lo toan hết mọi việc, tự chịu trách

nhiệm của cuộc đời mình để khi về già được an nhàn tận hưởng Tết theo đúng

vị.

Với Tết Việt, đây đã trở thành một mỹ tục của dân ta, nó không chỉ đơn

thuần là thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới hay có thể bày bằng cách

khác đó là sự giao mùa. Hơn thế, Tết mang ý nghĩa tâm linh và nguồn cội, Xuân

về làm ta tươi sắc hơn, gắn bó hơn với quê hương và gia đình, mỗi Xuân đi qua

ta lại thêm tuổi mới, rồi lại lần nữa thốt lên tựa lời thơ Xuân Diệu:

“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

(Vội vàng – Xuân Diệu)

Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập và giao lưu nền văn hóa hiện đại như

bấy giờ, nhiều nét đẹp văn hóa được du nhập từ nước ngoài được dân ta nhanh

chóng tiếp thu trong khi đó, có những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt có nguy

cơ bị rơi vào quên lãng hoặc không được hiểu theo cách đúng nghĩa điển hình như

một số tín ngưỡng của Tết cổ truyền dân tộc đặc biệt là vùng đất Kinh Bắc, nơi

hội tụ những tín ngưỡng thu hút khách du lịch không chỉ nội địa mà còn cả quốc

tế... Trong khi đó, Tết truyền thống (Tết Nguyên Đán) lại là một thuần phong mỹ

tục mang đầy nét văn hóa Việt mang những đặc trưng riêng của người Việt Nam

mà không nơi nào có thể có. Nhận thấy được sự thay đổi này, tác giả mới khảo

sát tín ngưỡng cổ truyền ở Hà Nội để làm rõ những vấn đề về tín ngưỡng và ảnh 8

hưởng đến du lịch. Vì nó tác động mạnh mẽ đến hầu như các lĩnh vực trong cuộc

sống, là cơ hội và cũng là sự thách thức không hề nhỏ đến việc khai thác du lịch.

Thấu hiểu và nhìn nhận được tầm quan trọng của những vấn đề đó, tác giả đã chọn

đề tài “Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội và ảnh hưởng

với du lịch” với mục đích hệ thống lại một cách đầy đủ, ngắn gọn đồng thời qua

khóa luận lần này, bản thân có thể góp một phần nhỏ trong việc lưu giữ và quảng

bá, lưu truyền giá trị văn hóa cổ truyền xưa tóm gọn vỏn vẹn trong 3 chữ lớn lao

mang tên: “TẾT – NGUYÊN – ĐÁN”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Trình bày những nội dung cơ bản và những đặc điểm trong quá trình diễn

biến trong Tết truyền thống Việt Nam hiện nay, những ảnh hưởng của nó đối với

du lịch, đề ra một số giải pháp để khai thác du lịch trong dịp Tết cổ truyền Việt

Nam.

3. Ý nghĩa của đề tài

Hệ thống lại một cách đầy đủ về Tết truyền thống, qua đó, công trình

nghiên cứu này có thể sẽ là một tài liệu tham khảo cho những công trình có nội

dung tương tự.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu: Đây là phương pháp nghiên cứu địa

lý truyền thống để khảo sát thực tế. Qua khảo sát còn cho phép thu thập được

nguồn tài liệu quý giá phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Từ đó có những nhận

xét, đánh giá ban đầu để đưa ra một số đề xuất nhằm phát huy những ảnh hưởng

tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, nhằm bảo tồn và phát huy bán

sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt Nam.

- Phương pháp thống kê và phân tích: Đây là phương pháp nghiên cứu được

sử dụng để hệ thống lại những luật tục trong Tết truyền thống Việt Nam.

5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:

+ Những tín ngưỡng của Tết cổ truyền Việt Nam.

9

+ Những ảnh hưởng của tín ngưỡng đối với du lịch.

- Phạm vi nghiên cứu:

Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội và ảnh hưởng

đến du lịch.

6. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được kết

cấu làm 3 chương:

- Chương 1: Tổng quan về Tết cổ truyền Việt Nam.

- Chương 2: Những tín ngưỡng và bàn luận về Tết cổ truyền ở Hà Nội.

- Chương 3: Những biến đổi trong tín ngưỡng của Tết cổ truyền và việc

10

khai thác các giá trị tín ngưỡng phục vụ du lịch.

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

1.1. Giới thiệu về Tết cổ truyền của người Việt

1.1.1. Lịch sử hình thành Tết cổ truyền của người Việt

Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên một lãnh thổ. Mỗi

một dân tộc đều có một cái tết riêng của mình nhưng tất cả đều ăn Tết Nguyên

Đán. Tết Nguyên Đán được coi là tiêu biểu nhất và có phạm vi rộng lớn diễn

ra trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc Hán, “Nguyên” tức là sự bắt đầu, khởi

đầu mang tính sơ khai và “Đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên

âm phải là “Tiết Nguyên Đán”. Chỉ có gọi như vậy mới nói hết được tầm với

và chiều sâu tâm hồn của nếp sống truyền thống người Việt.

Một số nước chịu ảnh hưởng và du nhập từ văn hóa Trung Hoa nên lịch

pháp theo chu kỳ vận hành của mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết

Dương lịch (hay được gọi là Tết Tây). Theo quy luật 3 năm sẽ nhuận một tháng

của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày

21 tháng 1 (Dương) và sau ngày 19 tháng 2 (Dương) mà thường rơi vào khoảng

cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 (Dương). Thời gian nghỉ Tết thường thường sẽ kéo

dài trong khoảng 7 đến 8 ngày (cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới) tức 23

tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng.

Theo văn hóa học và Lễ hội học, Tết cổ truyền (Tết Nguyên Đán) là một

dịp lễ lạt, văn hóa theo mùa cho nên có thể xem Tết Nguyên Đán là một hội lễ

nông nghiệp, nghi thức nông nghiệp.

Vào thời cổ năm mới bắt đầu từ tháng Tý tức tháng 11 âm lịch, về sau do

ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa mới lấy tháng Dần làm tháng đầu năm.

Theo lịch sử Trung Hoa Tết Nguyên Đán có từ thời Tam Vương, Ngũ Đế:

Đời Tam Vương: Nhà Hạ chuộng màu đen, nên chọn tháng Dần là tháng

đầu năm tức tháng Giêng âm lịch.

Nhà Thương thích màu trắng, nên chọn tháng Sửu làm tháng đầu năm

11

tức tháng Chạp.

Qua nhà Chu (1050-256 TCN) ưa sắc đỏ, nên chọn tháng Tý làm tháng

đầu năm.

Các Vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới khai thiên lập địa nghĩa

là: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu có Đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra các

ngày Tết khác nhau.

Đến thời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời đổi ngày Tết vào ngày một

tháng nhất định là tháng Dần. Mãi đến thời Tần thế kỉ 3 TCN, Tần Thủy Hoàng

lại đổi qua tháng Hợi tức tháng 10. Cho đến khi nhà Hán trị vì(Hán Vũ Đế

(140TCN)) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng giêng) như đời nhà Hạ,

và từ đó về sau trải qua bao nhiêu thời đại không còn nhà vua nào thay đổi về

tháng Tết nữa.

Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm

giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê,

ngày thư năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người,

ngày thứ tám sinh ra ngũ cốc. Vì thế ngày Tết được kể từ ngày mồng 1 cho đến

hết ngày mồng 7 tháng Giêng .

1.1.2. Đặc điểm về thời gian của Tết cổ truyền của người Việt

Tết Nguyên Đán nói riêng và Lễ Tết nói chung đều gắn với thời gian nhất

định. Nó diễn ra theo thời vụ hàng năm. Tết nguyên Đán là lễ hội có thời gian

diễn ra dài nhất trong hệ thống lễ hội Tết ở Việt Nam.

Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống Lễ

Hội Việt Nam, mà phần Lễ cũng như phần Hội đều rất phong phú về cả nội

dung lẫn hình thức:

Phần Lễ các yếu tố linh thiêng bao giờ cũng diễn ra trước phần Hội. Lễ

kéo dài từ ngày 23 tháng Chạp cho đến hết ngày mồng 7 tháng Giêng Âm lịch.

Tức là bắt đầu từ lễ cúng Ông Táo cho đến lễ Khai Hạ (hạ cây Nêu) người

nông dân bắt đầu cày ruộng, những người không có việc thì đi chơi xuân.

Phần hội diễn ra khá dài và dài nhất trong các lễ hội Việt Nam. Nó kéo

dài tới ba tháng. Vì thế dân gian thường có câu ca dao:

12

“Tháng Giêng là tháng ăn chơi.

Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”

Ăn Tết xong là người dân bắt đầu đi trẩy hội, du xuân, cầu phúc, cầu cho

một năm mới bình an, hạnh phúc. Đây cũng là thời điểm để ngành du lịch bắt

đầu một mùa du lịch cho một năm mới, mở ra cơ hội lớn cho kinh doanh du

lịch.

1.1.2.1. Tiết khí trong năm

Theo văn hóa Đông Á thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước, do nhu

cầu canh tác đã có sự phân chia thời gian. Một năm 365 ngày được chia thành 4

mùa, mỗi mùa 3 tháng, gồm 8 tiết (Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập

Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí) và có 24 tiết khí (Lập xuân, Vũ thủy, Kinh

rập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí,

Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập

đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn) tương ứng với xuân, hạ,

thu, đông. Ứng với mỗi tiết sẽ có một thời khắc “giao thời”. Trong đó, tiết quan

trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức nói cách khác

là sự chuyển giao, tiếp biến giữa cái cũ và cái mới.

Tiết khí thực chất là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất khi quay

xung quanh Mặt Trời. Mỗi điểm đặc biệt này cách đều nhau 15 độ, hoặc mỗi tiết

khí cách nhau 15 ngày. Có thể nói, lịch 24 tiết khí là sản phẩm văn hóa tinh thần,

là kinh nghiệm được dân gian dày công đúc kết từ đời cha ông ta xưa.

1.1.2.2. Các khí tiết và lễ tiết theo lịch pháp Mặt Trăng

Nguyên nghĩa phát âm của Tết là “tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc

Hán, “Nguyên” tức là sự bắt đầu, khởi đầu mang tính sơ khai và “Đán” là buổi

sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”- là sự khởi

đầu của năm mới nhưng không nằm trong 24 tiết khí, mà nó nằm giữa tiết này với

tiết khác.

Lịch tiết khí vừa gắn tháng với tuần trăng, vừa gắn năm với thời tiết. Nông

nghiệp thường dùng lịch này để chỉ đạo sản xuất, canh tác theo thời tiết mỗi mùa.

Theo cách tính từ thời cổ đại, 24 tiết khí ứng với 4 mùa xuân, hạ, thu, đông.

Mỗi mùa đều có 6 ngày tiết khí. Tuy nhiên, khi phân loại, người xưa dựa vào 4 13

tiêu chí như sau:

8 tiết khí biểu thị sự nóng lạnh thay đổi cho nhau gồm: Lập xuân, Xuân

Phân; Lập Hạ, Hạ chí; Lập thu, Thu Phân; Lập Đông, Đông Chí.

5 tiết khí biểu thị nhiệt độ thay đổi gồm: Tiểu Thử, Đại Thử, Xử Thử, Tiểu

Hàn, Đại Hàn.

7 tiết khí biểu thị cho sự liên quan đến mưa, nước gồm: Vũ Thủy, Cốc Vũ,

Bạch Lộ, Hàn Lộ, Sương Giáng, Tiểu Tuyết, Đại Tuyết.

4 tiết khí biểu thị cho sự vật, hiện tượng gồm: Kinh Trập, Thanh Minh, Tiểu

Mãn, Mang Chủng.

Ý nghĩa của 24 tiết khí:

• Tiết Lập xuân

“Lập” có nghĩa là xác lập, đánh dấu. “Xuân” có nghĩa là mùa xuân. Vì

vậy, tiết Lập Xuân đánh dấu sự bắt đầu của mùa xuân, cũng như đánh dấu sự bắt

đầu của một năm mới.

Ngày dương lịch: Từ ngày 4 tháng 2 hoặc ngày 5 tháng 2 đến thời gian bắt

đầu tiết Vũ thủy.

Ý nghĩa: Theo quan niệm dân gian, đây chính là thời điểm đất trời hân hoan,

bắt đầu những điều tươi mới và may mắn. Theo góc độ thiên văn học, thì tiết Lập

Xuân đánh dấu một chu trình quỹ đạo mới của Trái đất khi quay quanh Mặt trời.

• Tiết Vũ Thủy

“Vũ” là mưa, “Thủy” là nước theo tiếng Hán thì Vũ Thủy là thời tiết mưa

ẩm ướt, mưa phùn, có gió thổi nhẹ.

Ngày dương lịch: Từ ngày 18 tháng 2 hoặc ngày 19 tháng 2 đến thời gian

bắt đầu tiết Kinh trập.

Ý nghĩa: Tiết khí Vũ thủy bắt đầu bằng những cơn mưa phùn nhỏ, người ta

gọi đó là những cơn mưa xuân mang tới sự thay đổi tươi mới cho đất trời. Độ ẩm

và ánh sáng ở tiết khí này tạo điều kiện thuận lợi cho cây cỏ muôn loài sinh sôi,

nảy nở. Đây cũng là thời gian người nông dân có thể tiến hành trồng trọt, cấy cày

để bắt đầu một vụ mới tươi tốt, hứa hẹn một mùa vụ bội thu.

14

• Tiết Kinh Trập

“Kinh” có nghĩa là kinh động, làm thức tỉnh, “Trập” có nghĩa là sâu bọ,

côn trùng. Như vậy “Kinh trập” có nghĩa là các loại côn trùng, sâu bọ được thức

tỉnh đến mùa sinh sôi, phát triển. Nôm na thì đây là tiết khí sâu nở sau một thời

gian ngủ đông.

Ngày dương lịch: Từ ngày 5 tháng 3 hoặc ngày 6 tháng 3 đến thời gian bắt

đầu tiết xuân phân.

Ý nghĩa: Kinh Trập cũng là lúc sâu bọ sinh sôi và phá hại mùa màng vụ

xuân của người dân. Chính vì vậy cần tiến hành phòng trừ sâu bệnh để bảo vệ

mùa màng, cây trái của mình. Tuy nhiên một vài loại cây ăn quả nhờ có côn trùng

mà quá trình thụ phấn nhanh chóng hơn.

• Tiết Xuân Phân

Theo lịch Trung Hoa cổ đại, Xuân Phân là điểm giữa của mùa xuân, là một

trong 24 tiết khí trong nông lịch. Theo định nghĩa này, thời điểm bắt đầu của nó

trùng với khái niệm điểm xuân phân. Tuy nhiên, theo khoa học phương Tây thì

xuân phân là thời điểm bắt đầu mùa xuân tại Bắc Bán cầu. Khi mà Mặt Trời xuất

hiện ở gần xích đạo nhất và đi lên hướng Bắc.

Ngày dương lịch: Từ ngày 20 tháng 3 hoặc ngày 21 tháng 3 đến thời gian

bắt đầu tiết Thanh minh.

Ý nghĩa: Tiết Xuân phân tượng trưng cho sự cân bằng âm dương, là tiết khí

cực kỳ tốt. Thời điểm này rất thích hợp để tiến hành những việc trọng đại như

đám cưới, đám hỏi.

• Tiết Thanh Minh

“Thanh” là trong xanh, còn “Minh” có nghĩa là sáng sủa. Khi những cơn

mưa phùn của mùa xuân đã hết, bầu trờ trở nên quang đãng, trong xanh là sang

tiết Thanh Minh.

Ngày dương lịch: Từ ngày 4 tháng 4 hoặc ngày 5 tháng 4 đến thời gian bắt

đầu tiết Cốc vũ.

Ý nghĩa: Tiết Thanh Minh từ lâu đã gắn liền với đạo đức, bổn phận con

người Việt Nam. Đây được coi là ngày giỗ tổ chung của dòng họ. Tiết khí này

còn gắn liền với tục tảo mộ đầu năm. Vì ngày này thời tiết ấm dần, cây cỏ tốt hơn 15

trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải đi tảo mộ, cắt cỏ, đắp thêm đất lên

mộ.

Nhân lúc đi tảo mộ, để tưởng nhớ ông bà, tổ tiên, người thân đã khuất, còn

có thể đi dạo chơi ngắm cảnh, nên gọi là Đạp Thanh. Nguyễn Du có câu:

Thanh Minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

• Tiết Cốc Vũ

“Cốc” chỉ ngũ cốc, còn “vũ” nghĩa là mưa. Tiết Cốc Vũ là thời điểm có

mưa lớn như những hạt ngũ cốc rơi, rất tốt cho cây cối mùa màng.

Ngày dương lịch: Từ ngày 20 tháng 4 hoặc ngày 21 tháng 4 đến thời gian

bắt đầu tiết Lập hạ.

Ý nghĩa: Tiết Cốc Vũ chính là mốc đánh dấu khi đất trời chuyển mình từ

xuân sang hè. Sau thời khắc này, những cơn gió lạnh sẽ hoàn toàn biến mất, thay

vào đó là nắng ấm của mùa hạ, rất tốt cho sự sinh trưởng của cây cối, hoa màu.

• Tiết Lập Hạ

“Lập” nghĩa là xác lập, đánh dấu, còn “Hạ” nghĩa là mùa Hạ. Vậy Lập Hạ

là tiết khí đánh dấu sự bắt đầu của mùa Hạ.

Ngày dương lịch: Từ ngày 5 tháng 5 hoặc ngày 6 tháng 5 đến thời gian bắt

đầu tiết Tiểu mãn.

Ý nghĩa: Thời tiết nắng nhiều mưa nhiều nên nóng ẩm liên tục. Đây là điều

kiện thuậ lợi cho vi khuẩn, sâu bọ, cỏ dại phát triển nhanh chóng. Thời gian này

cây trồng cũng phát triển, chuẩn bị vào vụ thu hoạch. Do đó, nên chăm sóc kỹ

lưỡng, bảo vệ mùa màng để tránh bị côn trùng phá hoại, nên làm cỏ để tránh việc

chúng mọc lây lan chiếm ánh sáng và dinh dưỡng của cây trồng.

• Tiết Tiểu Mãn

Tiểu mãn trong tiết khí được hiểu theo 2 nghĩa:

Nghĩa thứ nhất: “tiểu” là nhỏ bé, “mãn” nghĩa là đầy, biểu thị lượng nước

dồi dào. “Tiểu mãn” nghĩa là lũ nhỏ.

16

Nghĩa thứ hai: Tiểu mãn có nghĩa là sự bắt đầu đủ đầy về lương thực, thực

phẩm. Đây là thời điểm cây cối, hoa màu và ngũ cốc đang vào mùa kết hạt và sắp

sửa được thu hoạch, tuy nhiên chưa thực sự chín muồi.

Ngày dương lịch: Từ ngày 21 tháng 5 hoặc ngày 22 tháng 5 đến thời gian

bắt đầu tiết Mang chủng.

Ý nghĩa: Những đặc trưng của thời tiết cùng với sự phát triển của cây trồng,

vật nuôi trong Tiết Tiểu Mãn ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống con người, đặc

biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.

• Tiết Mang Chủng

“Mang” có nghĩa là vòi nhụy của các loại ngũ cốc, “chủng” nghĩa là hạt

giống nói chung. Tiết Mang Chủng khoảng thời gian mà các loại hạt ngũ cốc đã

được thụ phấn và phát triển đến độ chín muồi, có thể thu hoạch hoặc làm giống.

Ngày dương lịch: Từ ngày 5 tháng 6 hoặc ngày 6 tháng 6 đến thời gian bắt

đầu tiết Hạ chí.

Ý nghĩa: Tiết Mang Chủng có đặc điểm khí hậu riêng biệt thường xuyên

xuất hiện những cơn mưa bão và sự thích nghi của cây trồng, vật nuôi, Tiết Mang

Chủng thích hợp cho các công việc như: trồng trọt vụ trễ, phòng tránh bão lũ, thu

hoạch lương thực, trái cây.

• Hạ Chí

Hạ chí là thời điểm giữa mùa hè, thường rơi vào giữa năm. Cắc bán cầu vào

thời gian Hạ chí sẽ nghiêng về phía mặt trời nhiều hơn so với Nam bán cầu. Do

đó Bắc bán cầu nhận được lượng bức xạ lớn, thời gian của ngày dài hơn đêm, trời

lâu tối và nhanh sáng hơn. Thậm chí, một số thành phố ở Bắc Âu còn có hiện

tượng “đêm trắng”, chỉ có ban ngày mà hoàn toàn không có ban đêm.

Ngày dương lịch: Từ ngày 21 tháng 6 hoặc ngày 22 tháng 6 đến thời gian

bắt đầu tiết Tiểu thử.

Ý nghĩa: Vào Tiết Hạ Chí, thời tiết có ánh nắng gay gắt, nóng bức, bầu trời

xanh. Vì nhiệt độ cao nên thời tiết vô cùng oi bức, khô và nóng, nước bốc hơi rất

nhanh. Gió Tín phong và gió Mậu dịch hoạt động mạnh mẽ trên biển nên thường

tạo ra sự ngưng tụ của hơi nước dẫn đến những trận mưa lớn kéo dài, bão lũ, thiên

tai ảnh hưởng đến đời sống người dân. Nhiệt độ nóng ẩm, tạo điều kiện cho các 17

loài động thực vật phát triển mạnh, nguồn thức ăn rất dồi dào.

• Tiết Tiểu Thử

“Tiểu” là nhỏ bé, “Thử” là nóng bức. “Tiểu thử” biểu thị thời tiết nắng nhẹ,

chuẩn bị bước sang giai đoạn nóng cực điểm trong năm.

Ngày dương lịch: Từ ngày 7 tháng 7 hoặc ngày 8 tháng 7 đến thời gian bắt

đầu tiết Đại thử.

Ý nghĩa: Ánh sáng, độ ẩm và nhiệt độ trong tiết Tiểu Thử đều vẫn cao, tác

động lớn tới sự sinh sổi, phát triển của các hệ động thực vật. Trong khi cây trồng

có cơ hội phát triển nhanh thì nhiều loài cỏ có hại cũng bắt đầu xâm lấn mạnh mẽ.

Chim chóc, gia súc gia cầm, thủy hải sản hay côn trùng đều bước sang giai đoạn

hoạt động mạnh, không ngừng sinh sản và phát triển.

• Tiết Đại Thử

“Đại” nghĩa là to lớn, “Thử” là nóng nực, oi bức. Đại thử là giai đoạn trời

vô cùng oi bức, nắng nóng, là thời điểm nóng cực điểm trong năm.

Ngày dương lịch: Từ ngày 22 tháng 7 hoặc ngày 23 tháng 7 đến thời

gian bắt đầu tiết Lập thu.

Ý nghĩa: Đại Thử là thời điểm dương khí cực thịnh, vận động mạnh sẽ dễ

mất nước mà suy kiệt, nên hạn chế vận động, luyện tập nặng nhọc ngoài trời. Tìm

cách tránh nóng, giải nhiệt cho cơ thể, không nên làm việc liên tục trong thời gian

dài.

• Tiết Lập Thu

“Lập” có nghĩa là sự bắt đầu, “thu” chỉ mùa thu. Do vậy, Lập thu là thời

điểm bắt đầu mùa thu.

Ngày dương lịch: Từ ngày 7 tháng 8 hoặc ngày 8 tháng 8 đến thời gian bắt

đầu tiết Xử thử.

Ý nghĩa: Theo âm lịch, Lập thu rơi vào tháng 7 – hay còn gọi là tháng cô

hồn. Dân gian quan niệm, vào tháng này cửa Âm phủ được mở ra cho vong hồn

về dương gian thăm gia đình. Những vong hồn mà không được thờ cúng thì đi lại

khắp nơi. Chúng gây những điềm xấu và cản trở đường công danh sự nghiệp.

18

• Tiết Xử Thử

“Xử” là chấm dứt,“Thử” là nắng nóng. Vậy Xử thử là tình trạng nắng

nóng đã chấm dứt.

Ngày dương lịch: Từ ngày 23 tháng 8 hoặc ngày 24 tháng 8 đến thời gian

bắt đầu tiết Bạch lộ.

Ý nghĩa: Trong tiết Tiểu thử,nóng nực, oi bức đã hoàn toàn chấm dứt, khí

trời mát dịu, độ ẩm trong không khí cao, thời tiết vô cùng dễ chịu, lượng mưa

không nhiều, không khí lục địa hoạt động mạnh nên buổi sáng sớm và đêm tiết

trời se lạnh. Thời gian ngày và đêm không tương đối cân bằng. Trước những thay

đổi này, nhiều loài sinh vật sẽ có những thích nghi với môi trường.

• Tiết Bạch Lộ

“Bạch” nghĩa là màu trắng, “lộ” có nghĩa là sương mù. Tiết Bạch Lộ được

hiểu là thời gian bắt đầu xuất hiện sương mù.

Ngày dương lịch: Từ ngày 7 tháng 9 hoặc ngày 8 tháng 9 đến thời gian bắt

đầu tiết Thu phân.

Ý nghĩa: Vào tiết khí Bạch Lộ, một ngày có thể có thay đổi lớn về nhiệt độ.

Sáng và đêm nhiệt độ giảm nhanh, hơi nước ngưng tụ kết thành sương thường

đọng trên cỏ cây. Còn ban ngày vẫn có nắng nóng, thời tiết ấm áp. Tiết Bạch Lộ

kỵ nhất là phơi sương nên khi ra ngoài vào buổi tối hay sáng sớm, cần có biện

pháp hạn chế tiếp xúc với sương mù vào thời gian này.

• Tiết Thu Phân

“Phân” có nghĩa là phân chia làm hai phần bằng nhau, “thu” nghĩa là mùa

thu. Vậy tiết Thu phân là thời điểm giữa mùa thu.

Ngày dương lịch: Từ ngày 23 tháng 9 hoặc ngày 24 tháng 9 đến thời gian

bắt đầu tiết Hàn lộ.

Ý nghĩa: Vào tiết Thu phân do sự dịch chuyển về phía Nam của Mặt trời

nên ở bán cầu Bắc, ánh sáng và nhiệt độ vẫn tiếp tục giảm. Thời kỳ này, các loài

thực vật quang hợp kém, sự sống của muôn loài chuyển dần sang trạng thái tiềm

ẩn, chờ đợi cơ hội phát triển mới.

• Tiết Hàn Lộ

19

“Hàn” là lanh giá, “Lộ” nghĩa là sương. Như vậy Hàn lộ nghĩa là trong

thời điểm này có sương mù lạnh giá.

Ngày dương lịch: Từ ngày 8 tháng 10 hoặc ngày 9 tháng 10 đến thời gian

bắt đầu tiết Sương giáng.

Ý nghĩa: Tiết Hàn Lộ là thời điểm bắt đầu của mùa đông, dương khí dần

nhường chỗ cho âm khí, hoạt động sinh lý của cơ thể cũng cần thích nghi với sự

biến hóa tự nhiên này.

• Tiết Sương Giáng

Sương Giáng là thời điểm thường xuyên xuất hiện sương mù dày đặc,

không khí có độ ẩm cao gây hạn chế tầm nhìn.

Ngày dương lịch: Từ ngày 23 tháng 10 hoặc ngày 24 tháng 10 đến

thời gian bắt đầu tiết Lập đông.

Ý nghĩa: Vào Tiết Sương Giáng, có gió khô lạnh, nhiệt độ thấp khiến hơi

nước từ ao hồ, sông suối bốc lên để cân bằng lại khí quyển, dẫn tới hiện tượng

sương mù rất dày đặc. Do vậy, trong tiết này cần: chú ý chăm sóc cây trồng vật

nuôi, tăng cường bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất, hạn chế ra ngoài khi sương

dày đặc.

• Tiết Lập Đông

“Lập” là xác lập, bắt đầu, “đông” chỉ mùa đông. Vậy “lập đông” có nghĩa

là thời điểm bắt đầu của màu đông.

Ngày dương lịch: Từ ngày 7 tháng 11 hoặc ngày 8 tháng 11 đến thời gian

bắt đầu tiết Tiểu tuyết.

Ý nghĩa: Bước vào tiết Lập đông nên bình ổn, tĩnh lặng để xem xét lại bản

thân. Từ đó, có những ý tưởng mới cho những kế hoạch sắp tới, cần bao dung,

mềm mỏng, hành thiện và nên giúp đỡ người khác. Như vậy vừa giúp chúng ta có

tâm hồn thanh thản, cuộc sống lại thêm phần ý nghĩa, giúp tăng vận may, phúc

đức cho bản thân, gia đình và các thế hệ sau này.

• Tiết Tiểu Tuyết

“Tiểu” nghĩa là nhỏ bé, “tuyết” là những trận tuyết. Vậy “tiểu tuyết” là

khoảng thời gian mà ở bán Cầu bắc thường xảy ra những trận tuyết nhỏ, nhiệt độ

20

không khí hạ thấp.

Ngày dương lịch: Từ ngày 22 tháng 11 hoặc ngày 23 tháng 11 đến thời gian

bắt đầu tiết Đại tuyết.

Ý nghĩa: vào Tiết khí Tiểu Tuyết, không thấy rõ mặt trời, dương khí thịnh,

âm khí hư. Nhiệt độ hạ thấp, đất trời mù mịt, không mưa, khó thấy ánh sáng mặt

trời. Lúc này, cảnh tượng mùa đông bắt đầu xuất hiện ngập tràn.

• Tiết Đại Tuyết

“Đại” là to lớn, nên đại tuyết là thời điểm vô cùng lạnh giá, xuất hiện

những trận tuyết lớn, tuyết bao phủ dày đặc. Ở miền Bắc của Việt Nam, thời tiết

lạnh giá, không có tuyết (trừ Sapa).

Ngày dương lịch: Từ ngày 7 tháng 12 hoặc ngày 8 tháng 12 đến thời gian

bắt đầu tiết Đông chí.

Ý nghĩa: trong thời điểm này, các loài thực vật gần như là ngưng mọi hoạt

động, do điều kiện thời kiết lạnh buốt, khắc nghiệt, nên chúng chỉ duy trì sự trao

đổi chất ở mức độ thấp tối thiểu, lượng oxy sản sinh ra từ quá trình quang hợp

cũng không còn dồi dào như trước, đó là lí do vì sao, vào mùa đông thường thấy

cây cối khẳng khuyu vào mùa đông.

• Tiết Đông Chí

Theo Thiên văn học của phương Tây, đông chí đánh dấu sự bắt đầu mùa

đông ở bán cầu Bắc, và là sự bắt đầu mùa hè của bán cầu Nam. Còn theo phương

Đông thì tiết Đông chí chính là thời điểm chính giữa mùa đông.

Ngày dương lịch: Từ ngày 21 tháng 12 hoặc ngày 22 tháng 12 đến thời gian

bắt đầu tiết Tiểu hàn.

Ý nghĩa: Mặc dù tiết Đông Chí ở Việt Nam cũng chỉ là một dấu mốc thời

gian chứ không mang ý nghĩa gì quá đặc biệt. Tuy nhiên, nếu bạn muốn xem

phong thủy để tiến hàng những việc lớn thì cũng nên biết một số việc sau:

• Tiết Tiểu Hàn

“Tiểu” chỉ sự nhỏ bé; còn “Hàn” có nghĩa là lạnh. Tiểu hàn ứng với đặc

điểm khí hậu chớm lạnh. Đây chính là thời điểm khởi đầu của đợt lạnh đỉnh điểm.

Ngày dương lịch: Từ ngày 5 tháng 1 hoặc ngày 6 tháng 1 đến thời gian bắt

21

đầu tiết Đại hàn.

Ý nghĩa: Nước ta nằm hoàn toàn ở Bắc bán cầu, do đó những đặc điểm của

Tiết khí Tiểu Hàn ảnh hưởng rõ rệt đến thời tiết và khí hậu. Trong tiết tiểu hàn,

chú ý giữ ấm thân thể, tích trữ lương thực, chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán.

• Tiết Đại Hàn

“Đại” nghĩa là to lớn, “hàn” có nghĩa là lạnh. Vậy Đại hàn có nghĩa là thời

điểm cực kỳ lạnh giá.

Ngày dương lịch: Từ ngày 20 tháng 1 hoặc ngày 21 tháng 1 đến thời gian

bắt đầu tiết Lập xuân.

Ý nghĩa: Trong thời gian này, thời tiết rét lạnh cực điểm, nhiệt độ xuống rất

thấp, hầu hết không có mưa chỉ có gió rét buốt và sương hoặc băng giá. Bầu trời

thì u ám, hầu như không có nắng, độ ẩm không khí thấp, thời tiết khắc nghiệt.

1.1.3. Không gian lễ hội của Tết cổ truyền

Khác với các lễ hội truyền thống khác. Tết Nguyên Đán không phải là

của riêng một địa phương nào, mà nó là Tết của cả dân tộc Việt Nam. Tết

Nguyên Đán hay là Tết Cả là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm

vi phổ biến rộng lớn nhất từ Nam Quan đến Mũi Cà Mau và cả vùng hải đảo,

tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc.

Không gian linh thiêng của Lễ hội Tết Nguyên Đán diễn ra trên mọi nơi

từ không gian nhỏ bé của mỗi gia đình đến đình, chùa, miếu, các thành phố

lớn, các trung tâm đô thị, mọi ngóc ngách của mỗi con đường…. Tất cả đều

rầm rộ, hoành tráng.

Nhờ những đặc điểm về không gian, thời gian của lễ hội ấy Tết Nguyên

Đán đã trở thành một nguồn tài nguyên quý giá. Ngành du lịch cần phải nắm

và hiểu rõ về thời gian và không gian của lễ hội cùng với các hoạt động vui

chơi giải trí của lễ hội để khai thác nó một cách có hiệu quả.

1.1.4. Các phong tục ngày Tết

Các phong tục ngày Tết của người Việt được coi là nét đẹp văn hóa, nó

đã góp phần tạo nên bản sắc Tết của người Việt. Tết cổ truyền của người Việt

có nhiều phong tục hay thể hiện truyền thống văn hóa của dân tộc mà từ người

22

trẻ đến người già ai ai cũng biết.

Tết cổ truyền với những phong tục dựa trên nguyên tắc, Tết bắt đầu từ

ngày mồng một nhưng trên thực tế, Tết kể như đã chuẩn bị cả tháng trước.

Thời thái bình xa xưa, người ta đón Tết bằng tất cả tâm hồn, một cách nồng

nàn và trịnh trọng, theo những tục lệ như sau:

1.1.4.1. Tống Cựu Nghinh Tân

Trang hoàng nhà cửa là mục đầu tiên, chuẩn bị cho những ngày Tết. Xuất

phát từ quan niệm Tết Cả trước hết là Tết của gia đình nên ai cũng có ý thức

trang hoàng nhà cửa cho sạch đẹp cho những ngày đầu năm mới để đón chúa

xuân . Cách Tết chừng một tuần người ta đã bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, trang trí

nội thất mọi vật được lau chùi cẩn thận. Mọi người đi chợ Tết mua xắm đồ

đạc, chung nhau giết lợn gói bánh chưng sửa sang lại phần mộ của ông bà tổ

tiên với một đặc trưng Tết của người Việt mang tính cộng đồng .

Tập tục này thường được chuẩn bị từ sau ngày 23 tháng Chạp, thường được

chuẩn bị từ sau khi tiễn ông Táo về trời. Đó là lúc mọi người, mọi nhà thu dọn

thật sạch sẽ từ trong nhà ra ngoài ngõ, sơn sửa nhà cửa, lau chùi bàn ghế, sửa soạn

những mâm cơm tươm tất, vứt bỏ mọi thứ cũ, bẩn, xui xẻo ra khỏi nhà, cũng như

tống tiễn đi những khó khăn, vất vả trong suốt năm vừa qua và dành chỗ để đón

những điều may mắn, cát lành sắp tới trong năm mới.

1.4.1.2. Hạ Nguyên

Hạ nguyên là ngày tiễn Ông Công Ông Táo về trời, tức 23 tháng Chạp, cúng

cá chép để ông Táo cưỡi cá chép bay lên trời. Thời điểm cúng lễ tiễn các vị lên

trời là thời khắc rõ ràng nhất đánh dấu năm cũ sắp đi đến hồi cuối cùng.

Theo người xưa kể lại rằng, ông Công là vị thần cai quản đất đai trong nhà,

còn ông Táo là vị thần có nhiệm vụ trông coi việc bếp núp. Ông Công và ông Táo

được ông Trời phái xuống trần gian để theo dõi cũng như ghi chép mọi việc làm

thiện - ác của con người. Hằng năm, cứ vào mỗi dịp 23 tháng Chạp Âm lịch thì

các vị thần này lại cưỡi cá chép lên thiên đình để báo cáo mọi việc làm tốt và chưa

tốt của gia đình trong năm đó, từ đó thiên đình sẽ định đoạt công, tội.

Như vậy, theo quan niệm của người Việt thì ông Công và ông Táo chính là

những vị thần đoạt cát hung. Ngày tiễn ông Công, ông Táo lên trời mỗi gia đình 23

lại tất bật chuẩn bị nghi lễ cúng trang trọng với mong muốn cầu cho gia đình mình

mọi điều tốt đẹp nhất, luôn ấm no, hạnh phúc, bình an và thuận lợi.

1.4.1.3. Tất niên

Tất niên hay cúng tất niên, lễ tất niên, tiệc tất niên là một nghi thức nhằm

ghi nhận việc kết thúc một năm và chuẩn bị bước sang năm mới.

Tất niên có thể là một bữa tiệc, liên hoan cuối năm để bước sang năm mới

(Tết Tây) và là một phần trong nghi thức Tết diễn ra vào những ngày cuối năm

âm lịch, từ ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm

thiếu) được gọi là ngày tất niên.

Tất niên thường diễn ra vào buổi chiều và buổi tối ngày này, người ta làm

cỗ cúng tất niên sau đó dọn tiệc mời khách đến dự. Tất niên là lúc mọi người

quây quần bên nhau và bên những món thức ăn và cùng chào đón năm mới, giao

thừa là một phong tục tập quán lâu đời, mang nét đẹp văn hóa lâu đời của người

Việt.

1.1.1.4. Giao thừa

Giao thừa là giây phút thiêng liêng nhất, là chuyển giao giữa năm cũ và

năm mới, đúng 12h đêm của ngày cuối cùng trong năm. Theo Hán Việt từ điển

của Đào Duy Anh, “giao” tức là “cho”, “Thùa” tức là “nhận”. Giây phút năm

cũ như trao vương miện, ủy nhiệm lại cho năm mới.

Vào dịp này, nhiều quốc gia phương Tây và phương Đông thường tổ chức

bắn pháo hoa hoặc các l hội khác để chấm dứt năm cũ (tất niên) và đón mừng năm

mới vào đúng thời điểm 0 giờ 0 phút 0 giây ngày 1 tháng 1 đối với Tết Dương

lịch, đối với Tết Âm lịch, giao thừa là phút giây thiêng liêng lúc đêm 30 Tết, lúc

này khí tiết chuyển sang lập xuân, chính thức bắt đầu năm mới.

1.4.2.5. Tri ân

Quan niệm “mùng 1 Tết cha, mùng 2 Tết mẹ, mùng 3 Tết thầy” đã xuất

hiện từ rất lâu trong văn hóa của người Việt, nhưng người ta không xác định

được chính xác nguồn gốc của câu nói dân gian này. Trải qua hàng nghìn năm,

câu nói dân gian này đã trở thành một thành ngữ ăn sâu vào trong văn hóa

24

truyền thống của người Việt Nam. Nó hàm chứa ý nghĩa phân chia ngày thăm

Tết của các gia đình, mùng 1 Tết, mùng 2 Tết và mùng 3 Tết, nhằm mong muốn

sum vầy cùng cha mẹ, thể hiện đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn. Câu nói này

được nhắc đến nhằm nhắc nhở chúng ta phải biết tỏ lòng biết ơn công sinh

thành, dưỡng dục của cha mẹ và công giáo dục, truyền dạy kiến thức của các

thầy giáo, cô giáo.

1.4.1.6. Hóa vàng

Bắt nguồn từ quan niệm “dương sao âm vậy”, trong dân gian, người Việt

quan niệm rằng, chết chưa phải là hết mà là sự bắt đầu cho một cuộc đời khác ở

không gian, thế giới khác. Quan niệm “hồn” và “vía” vẫn duy trì đến bây giờ,

hai phần này gắn bó mật thiết không tách rời nhau. Khi chết, cõi âm cũng như

cõi dương, đều có các nhu cầu nơi trần thế, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng

thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con

người ở thế giới bên kia sống gần với dương gian.

Hầu hết mọi người đều cho rằng: lễ tết là ngày vui của con cháu thì ông bà

dưới âm cũng phải được hưởng. Hoá vàng chính là việc con cháu gửi đồ dùng,

tiền vàng đã chuẩn bị trên bàn thờ gia tiên trong dịp Tết cho người cõi âm.

Có những gia đình chỉ làm hết tết gói gọn trong gia đình. Nhưng cũng có

những người còn mời thông gia, hàng xóm thân thiết tới dùng cơm lễ hoá vàng,

coi như là dịp gặp mặt nhau ngày đầu xuân. Hóa vàng tiễn các cụ xong ai cũng có

cảm giác Tết đã hết. Người kinh doanh lại bắt đầu mở hàng kinh doanh như mọi

ngày. Người làm công việc khác cũng vậy. Nhưng dù làm bất cứ nghề gì đi chăng

nữa, ai ai cũng hy vọng lòng thành của mình được các cụ chứng giám và phù hộ

cho làm ăn suôn sẻ cả năm.

1.4.1.7. Tết trồng cây

Mồng một chơi nhà, mồng hai chơi ngõ, mồng ba chơi đình, hay Mồng một

Tết nhà, mồng ba Tết chuồng, mồng bốn mồng năm ra vườn Tết cây (theo dân

gian xưa):

Mùa xuân là Tết trồng cây

25

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân

(Hồ Chí Minh)

Mùa xuân trồng cây sẽ tạo nên màu xanh cho đất nước, xanh núi, xanh

sông, xanh đồng, xanh biển, góp phần bảo vệ mùa màng, bảo vệ xóm làng, bảo vệ

môi trường thiên nhiên, hạn chế được những thiệt hại mưa bão, sạt lở đất và xói

mòn.

Người dân Việt ta lấy ngày này để làm dấu mốc cho sự quay trở lại đời

sống phục vụ sản xuất, nhân giống cây trồng và trở lại đời sống thường nhật, trồng

một cây mới là khởi đầu cho một hành trình dài.

1.1.5. Các thú chơi ngày Tết

Nếu người Việt dành mùng Một Tết cho gia đình, mùng Hai cho thầy cô,

thì mùng Ba ắt là cho bè bạn. Rong chơi ngoài hội xuân chưa tròn ý nghĩa ngày

Tết, người Việt dành thêm những giây phút thâm trầm hơn với bạn bè qua

những thú tiêu khiển thanh tao có, bình dân có.

Tết là dịp để mọi người nghỉ ngơi, vui chơi. Một trong những thú chơi

ngày Tết của người Việt là đi chợ Tết. Người người nhà nhà đua nhau đi chợ

sắm Tết. Người ta đi chợ Tết để xem người, xem cảnh sinh hoạt Tết, xem hoa

quả cây cảnh, hưởng không khí Tết, họ mua vài vật kỷ niệm tặng bạn bè. Có

thể nói rằng chợ Tết đã trở thành một thú vui ngày xuân.

Chợ Tết: Chợ Tết có không khí khác hẳn với những phiên chợ thường

ngày trong năm. Mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết thường không phải để “có

cái ăn” mà đó là thói quen, là dậy lên không khí ngày lễ hội. Chợ Tết được bố

trí ở những bãi đất rộng, có thể chợ được thành lập ngay nơi chợ thường ngày

vẫn diễn ra chuyện bán mua. Nhưng trong chợ Tết, gần như tất cả “món ngon

vật lạ” đều được bày bán. Không khí Tết thấm đượm thật sự vào những ngày

này bởi cảnh người mua hàng nặng trĩu giỏ. Trong chợ Tết, người ta mới bày

bán những thứ mà quanh năm không thấy bán. Ví dụ như lá dong, lá chuối để

gói bánh chưng, củ kiệu, đu đủ làm dưa. Người ta bán những chiếc tháp làm

bằng bánh in bao giấy màu, những chiếc bánh ly bằng bột nếp hoặc bánh ngũ

sắc dùng để chưng lên bàn thờ. Chợ còn bán những thứ không ăn được, nhưng

vô cùng cần thiết cho ngày Tết như phong bao lì xì, giấy dán và bây giờ phong 26

trào viết chữ ngày Tết đang phục hồi trở lại. Nhưng cái thú mua sắm trong ngày

Tết vẫn là chuyện đương nhiên, gần như không một nhà nào lại không “đi sắm

Tết”. Dẫu rằng cách ăn, cách chơi Tết trải qua bao năm đã thay đổi cho phù hợp

với cuộc sống. Điều độc đáo ở chỗ là dù nhà giàu hay nghèo, nhu cầu mua sắm

ngày Tết là điều không thế thiếu.

1.1.5.1. Khai bút đầu xuân

Đầu năm, người Việt kiêng cữ rất kỹ từng lời ăn tiếng nói. Các học giả

còn cẩn trọng đến từng nét chữ, câu văn, nên các cụ mượn khói hương nghi

ngút và xác pháo đỏ hồng của ngày đầu năm để làm lễ khai bút. Nhân thi hứng

đó, các cụ làm thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm và viết lên giấy điều (là loại

giấy màu đỏ). Các bài thơ thường mang nội dung tán dương thiên nhiên hay

mang lời chúc lành cho năm mới. Đối với học trò, tục khai bút đầu xuân tượng

trưng cho lòng hiếu học của dân Việt. Học sinh Việt Nam cũng tin rằng khai

bút đầu xuân đem văn hay chữ tốt đến với họ trong năm mới.

1.1.5.2. Câu đối

Ngày Tết người Việt có thú chơi câu đối Tết - một thú chơi bộc lộ tư

tưởng và tình cảm rõ nét. Đó là những câu đối viết bằng bút lông trên giấy đỏ.

Câu đối ngày Tết thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhăm biểu

thị một ý chí quan điểm tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc

nào đó trong xã hội. Câu đối Tết làm ra để dán nhà, cửa, đền chùa… vào dịp

Tết Nguyên Đán.

Tục treo câu đối ngày Tết có nguồn gốc từ rất lâu đời như một nguồn

năng lượng lạc quan, giúp người chơi có thêm niềm tin bước sang năm mới sẽ

gặp nhiều điều tốt lành. Trên tấm giấy điều mùa xuân về qua nét viết theo lối

chữ hành tao nhã “tuế hữu tứ thời xuân tại thủ - Nhân chi bách hạnh hiếu vi

tiên” có nghĩa là: “Mỗi năm có bốn muà, xuân là mùa đầu tiên – Con người có

trăm tính, hiếu thảo là tính quý nhất”. Người biết chơi câu đối là người phải có

nhiều chữ, hiểu biết nhiều thì mới có thể hiểu hết được ý nghĩa của từng cặp

câu đối.

27

Câu đối thực ra gồm hai câu có số chữ bằng nhau và đối chọi nhau cả về

lời lẫn ý. Khi Hán học còn thịnh hành ở Việt Nam, câu đối được cả giới trí

thức lẫn giới bình dân ưa chuộng. Ngày Tết, người ta treo chúng lên hai bên

nhà để khách đến thăm cùng thưởng lãm với chủ. Câu đối được viết lên hai dải

giấy điều bằng mực Tầu nhũ kim (loại mực lấp lánh vàng hay bạc). Người viết

câu đối thường là các ông thầy đồ già trong làng, vốn có chữ tốt văn hay lại

thêm tài viết chữ đẹp. Nội dung câu đối Tết là những lời chúc lành đầu năm.

Sau này, câu đối không còn thịnh hành hay mang giá trị văn học nghệ thuật

nữa mà chỉ được xem như món hàng trang trí cho vui nhà trong những ngày

xuân.

1.1.5.3. Tranh Tết

Để trang hoàng nhà cửa vào dịp Tết cho sinh động hơn, người Việt chọn

mua vài bức tranh Đông Hồ treo trong nhà. Tranh Đông Hồ là đặc sản của làng

Đông Hồ, một làng nhỏ miền Bắc nước Việt. Tranh được in từ những ấn bản

gỗ lên giấy dó (loại giấy xốp, bền, và mịn, làm từ vỏ một thứ cây leo tên là

“dó”). Mực in tranh được pha chế bằng toàn chất liệu thiên nhiên: màu đen từ

tro của lá tre, màu trắng từ vỏ trứng, màu xanh từ lá chàm, màu đỏ từ quả mồng

tơi…. Tranh diễn tả lại những điển tích, truyện thần thoại, hoặc biến cố lịch sử

một cách hóm hỉnh, thông thường qua việc nhân cách hóa các động vật. Bức

“Gà Đàn” chẳng hạn, vẽ một bầy gà con, tượng trưng cho lời chúc “con cháu

đầy đàn” hay bức “Đại Cát”, vẽ một anh gà trống uy nghi, tượng trưng cho lời

chúc “an khang” nhân ngày đầu năm. Tranh Tết, nhất là tranh Đông Hồ, làm

tăng thêm sự thanh lịch của gian phòng khách và chắc cũng bộc lộ trình độ

hiểu biết nghệ thuật của chủ nhà đôi chút. Đó là những bức tranh dân gian giản

dị, hồn nhiên, gợi cảm, có phong cách độc đáo. Nhìn chung người ta thường

chọn những bức tranh mang nội dung an vui, chúc phúc, lộc tài, phú quý hay

tranh Tứ Bình.

1.1.5.4. Hoa trong ngày tết

Hoa là món trang trí không thể thiếu trong mỗi dịp lễ hội Việt Nam. Ở

miền Bắc, hoa đào nở rộ mỗi dịp xuân về. Ở miền Nam, hoa mai cũng đua sắc.

Vì thế, mai và đào là hai loại hoa đặc trưng cho ngày Tết. Hoa mai trưng vào 28

dịp Tết là giống mai vàng, trổ thành từng khóm nhỏ trên cành cây mong manh

cạnh những lộc non mơn mởn. Hoa đào màu hồng, cũng trổ thành khóm, thuộc

giống bích đào (chỉ có hoa, không đậu quả) mới quý. Nhiều gia đình tin rằng

những cành mai, đào nở rộ tươi tốt vào sáng mùng Một Tết sẽ đem lại sự thịnh

vượng cho cả năm.

Trong dịp Tết người Việt thường có những trò chơi trong hội xuân của

cộng đồng. Người xưa đã có lịch đi chơi “Mồng Một chơi ngõ, Mồng Hai chơi

xóm, Mồng Ba chơi đình”. Chơi đình ở đây có nghĩa là dự hội làng, tham gia

các trò chơi hoặc xem hội. Trong hội làng ngày Tết hầu như các trò chơi dân

gian có trong các lễ hội trong năm đều có trong dịp Tết như đánh cờ, đấu vật,

chơi đu, đánh đáo, chọi gà cờ tướng, cờ người, phụ nữ ca hát ông già chơi tổ

tôm.

Thông qua những thú chơi ngày Tết của người Việt chúng ta còn thấy nó

bộc lộ bản lĩnh, tính cách, thị hiếu và đặc biệt là bản sắc của dân tộc. Chúng

góp phần tạo nên một phong vị Tết cổ truyền của dân tộc mỗi khi Tết đến xuân

về. Thú chơi ngày Tết là một phần không thể thiếu trong lễ hội Tết Nguyên

Đán. Nếu thiếu nó thì sẽ mất đi phần nhộn nhịp của ngày Tết và đó cũng là sản

phẩm độc đáo của ngành du lịch, giảm đi phần nhàm chán của phần lễ.

1.1.6. Ẩm thực ngày Tết

Vào ngày Tết cổ truyền mọi gia đình Việt Nam đều bận rộn tiến hành các

nghi lễ cúng tổ tiên, đền chùa nhưng người ta không quên chú trọng chuẩn bị

chu đáo các món ăn cổ truyền ngày Tết. Người xưa có câu ca “Thịt mỡ, dưa

hành, câu đối đỏ - Cây Nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Đối với cuộc sống

lao động vất vả hàng ngày của người dân trong một năm thì người ta thường

lựa chọn những sản vật ngon nhất để dâng lên Tiên tổ, thần, thánh,... phục vụ

cho ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Tùy theo từng hoàn cảnh của từng gia đình

mà các món ăn ngày Tết có khác nhau nhưng không thể thiếu: bánh chưng, giò

lụa, cá kho, dưa hành,...

Đối với người miền Bắc bánh chưng là một món ăn cổ truyền trong dịp

Tết Nguyên Đán và chỉ có vào dịp Tết thưởng thức bánh chưng mới thấy hết sự 29

thi vị và cái ngon của nó.Trong các mâm cổ ngày Tết, bánh chưng nổi bật hơn cả

bởi màu xanh tươi đẹp mắt. Chiếc bánh bao hàm cả một ý nghĩa sâu xa đó là nó

có hình vuông nên tượng trưng cho đất; thịt mỡ, đậu xanh, lá dong tượng trưng

cho cầm thú, cỏ cây muôn loài. Còn lá xanh bọc ngoài mĩ vị để trong là ngụ ý

sống phải đùm bọc nhau và cũng là có ý muốn gửi ơn nuôi dưỡng của cha mẹ.

Bánh chưng xanh:

Gạo gói bánh phải chọn loại gạo nếp thật ngon thì nấu lên bánh mới dẻo,

mới thơm, để lâu ngày không bị sống lại. Tùy theo đặc điểm từng vùng có thể

thêm bớt gia giảm nhân bánh nhưng thông thường có: thịt, đậu, hành, hạt tiêu.

Nhân bánh cũng rất kén, phải là loại thịt ba chỉ (loại thịt dọi/ ba rọi có cả nạc lẫn

mỡ), đậu xanh chọn thứ tốt, hành củ thái lát.

Dù thời gian nấu bánh lâu (khoảng 14 tiếng) nhưng muốn nhân ngon, đậu

xanh phải hấp chín, sau đó giã nhỏ, vắt thành từng nắm nhỏ để khi gói cho vào

bánh cùng với thịt và hành.

Ðể có được chiếc bánh có màu xanh mướt khi bóc ra, thì khi gói lớp trong

cùng phải để mặt lá xanh tiếp giáp với gạo, còn mặt ngoài thì quay mặt xanh ra

ngoài để vẫn đảm bảo được thẫm mỹ cho chiếc bánh có màu xanh đẹp của lá.

Bánh phải gói hình vuông, đầy đủ góc cạnh thì khi đặt lên đĩa chiếc bánh mới

đẹp, hấp dẫn. Bánh muốn ngon phải gói hơi chặt tay vì nếu gói lỏng sau khi luộc

bánh sẽ bị nát, còn nếu gói quá chặt tay khi luộc hạt gạo nở ra sẽ làm bánh bị nứt

hay bục lá gói.

Có thể dùng khuôn để gói, nhưng theo kinh nghiệm của những người đã

từng gói bánh nhiều năm thì gói bánh bằng khuôn sẽ không vừa chặt tay, khi luộc

bánh dễ bị nứt. Sau khi luộc xong vớt bánh ra phải rửa qua nước lã để làm sạch

chất nhờn thì bánh sẽ lâu bị thiu, ôi. Sau đó đến công đoạn ép cho bánh chặt, có

thể dùng một tấm ván đặt lên những chiếc bánh xếp trên cùng một mặt phẳng và

để các vật nặng lên trên. Như vậy khi cắt bánh ăn sẽ không bị nát lại dẻo, cắn vào

miếng bánh vừa thơm vừa mát lại bùi.

Dưa hành:

30

Bánh chưng dẻo, béo, ăn dễ ngán đã có đĩa dưa hành chua chua, giòn giòn,

khiến cho người thưởng thức ăn được nhiều hơn, ngon miệng hơn. Có lẽ câu

“bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành”... cũng xuất phát từ đặc điểm này. Ðể có

lọ dưa hành muối ngon, các bà nội trợ đã phải chuẩn bị từ rất sớm, trước khi tết

đến khoảng 15-20 ngày. Hành củ tươi được lột vỏ ngoài, rửa sạch. Một số người

để nguyên cả vỏ muối, và khi dọn ra đĩa mới bóc lớp vỏ ngoài.

Hành muối phải chọn loại hành tím thì mới cay, loại hành trắng ít cay hơn

và không thơm ngon. Trước khi muối, hành phải được ngâm vào nước gạo vài

ngày để giảm bớt độ cay. Sau đó vớt ra, rửa sạch và để cho ráo nước. Kỹ thuật

muối hành cũng rất đơn giản, chỉ cần pha nước sôi hơi ấm với lượng muối vừa

phải, cho thêm vào một ít đường, hòa tan, sau đó cho hành vào và nén lại.

Thịt đông:

Ngày nay món thịt đông đã được cách điệu đi rất nhiều. Không chỉ dùng

nguyên liệu là thịt lợn để nấu mà một số gia đình còn nấu lẫn với thịt gà (đã bỏ

xương), hoặc nấu riêng thịt gà. Nhưng dù nguyên liệu chính là thịt gà hay thịt lợn

thì nồi thịt đông bao giờ cũng có thêm bì (da) lợn thái chỉ (để thịt dễ đông), mộc

nhĩ, (sau này thêm cả nấm hương). Ngoài món thịt đông truyền thống vào ngày

Tết thì cứ vào mùa đông Hà Nội lại xuất hiện món giò đông như một sự báo hiệu

một năm cũ sắp qua, một năm mới lại về.

Thịt đông sau khi nấu xong được múc ra từng chén con, phần đáy bát được

trang trí bằng những bông hoa được tỉa từ củ cà rốt. Như vậy, sau khi thịt ở bát

đã đông chỉ cần lật úp chiếc bát vào đĩa, cắt thịt hình chéo thành sáu hoặc tám

phần trông sẽ rất đẹp mắt. Nước thịt trong, nổi lên những bông hoa cà rốt màu

đỏ, lẫn với những mộc nhĩ, nấm hương trông thật ngon mắt.

Đối với người Miền Nam người ta thường gói bánh Tét chứ không gói

bánh chưng. Bánh Tét cung có nhiều loại: bánh Tét chay, bánh Tét ngọt, bánh

Tét mặn.

Trong ngày Tết người Việt thường làm giò lụa, chuẩn bị món cá kho. Cá

kho là một món ăn bình dị với vị ngon của cá, vị mặn của mắn muối và vị thơm

của riềng đã trở thành một món ăn không thể thiếu của mỗi gia đình.

31

Đối với bữa ăn ngày Tết thì dưa hành cũng là một món ăn truyền thống

không thể thiếu. Dưa hành không cần ăn nhiều chỉ điểm xuyết nhưng lại có vai

trò quan trọng trong suốt bữa ăn bởi nó có vị chua làm cho chúng ta cảm thấy

không bị ngấy khi ăn các món ăn từ thịt, cá. Nó góp phần tạo ra sự tổng hợp, hài

hòa, hợp khẩu vị trong các món ăn ngày Tết.

Ngoài các món ăn truyền thống trong dịp Tết nêu trên thì người Việt còn

có các món ăn khác cũng rất được ưa thích như: thịt gà luộc, canh miến, nem rán,

các món xào, thịt ba chỉ ninh với măng khô…. Tất cả đem đến một mâm cỗ thịnh

soạn ngày tết với đủ màu sắc và vị ngon.

Ngoài ra người Việt còn có một món ăn mang đậm hương vị ngày Tết và

chỉ đến Tết thì mới xuất hiện nhiều đồ là Mứt, với rất nhiều loại và thường được

đóng chung vào một hộp tạo nên rất nhiều mầu sắc như mứt cà chua, mầu vàng

của mứt sen, mầu trắng của mứt dừa…

Ngày Tết đầu xuân mọi người quây quần bên mâm cỗ với bánh chưng

xanh, dưa hành thịt mỡ, một cốc bia, rượu…bạn bè anh em đến chơi nhà vui vẻ

thưởng thức chút nước trà, ăn ít bánh kẹo, ít hạt dưa, hạt bí đã trở nên rất đỗi

quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.

Đã ăn thì phải đi kèm với uống, đồ uống trong ngày Tết thường dùng các

loại đồ uống như: chè tầu, chè sen, trà gừng, cà phê , các loại rượu nấu từ gạo,

rượu cúc, rượu sampanh…các loại bia.

Thành ngữ Việt Nam có câu "Đói giỗ cha, no ba ngày Tết". Tết đến, dù nghèo

khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày

Tết. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ

em, được ăn uống no nê, không những thức ăn ngon mà lại rất nhiều. Vì vậy mà

người ta đã gọi là "ăn Tết".

Bánh truyền thống: bánh chưng, bánh dầy, bánh tét... Đây là các loại bánh

đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày Tết ở Việt Nam. Bánh chưng và bánh dầy

còn được gắn với các sự tích cổ của các vua Hùng, tổ tiên của người Việt.

Cỗ Tết: dịp Tết người Việt thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ. Các món cỗ

32

trong nhiều gia đình có thể có bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương, miến

nấu lòng gà, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò mỡ, nộm,

dưa hành muối...

Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng và để dọn đãi khách. Mứt

có rất nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt táo, mứt dừa, mứt quất,

mứt sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt hạt sen, mứt chà-là... Kẹo bánh thì đa

dạng hơn như: kẹo thèo lèo, kẹo dừa, kẹo đậu phụng (kẹo cu-đơ), kẹo cau,... Ngoài

ra, Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang...

Tiểu kết chương 1

Ở chương 1 tác giả đã nêu được tổng quan về Tết cổ truyền Việt Nam. Làm

rõ được cơ sở hình thành của Tết Nguyên Đán, nêu ra đặc điểm về thời gian của

Tết cổ truyền, từ đó để hiểu rõ hơn về phong vị Tết ta bởi miền Bắc chính là cái

nôi Văn hóa nổi trội nhất của dân Việt. Bên cạnh đó còn chỉ ra một cách sơ lược

về các phong tục, tục lệ, không gian, về thú chơi và ẩm thực ngày Tết cổ truyền

của dân ta.

Ngoài ra đã nhận diện được kết cấu, những tín ngưỡng và những thuật ngữ

có liên quan đến Tết cổ truyền Việt Nam, từ đó làm căn cứ để ta có thể hiểu rõ

hơn về chương 2: Những tín ngưỡng và bàn luận về Tết cổ truyền Việt Nam tại

Hà Nội.

33

Chương 2

TÍN NGƯỠNG VÀ NHỮNG BÀN LUẬN VỀ TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT

NAM Ở HÀ NỘI

2.1. Tín ngưỡng trong Tết Nguyên Đán ở Hà Nội

Các phong tục ngày Tết của người Việt được coi là nét đẹp văn hóa, nó

đã góp phần tạo nên bản sắc Tết của người Việt. Tết cổ truyền của người Việt

có nhiều phong tục hay thể hiện truyền thống văn hóa của dân tộc mà từ người

trẻ đến người già ai ai cũng biết.

Tết cổ truyền với những phong tục dựa trên nguyên tắc, Tết bắt đầu từ

ngày mồng một nhưng trên thực tế, Tết kể như đã chuẩn bị cả tháng trước.

Thời thái bình xa xưa, người ta đón Tết bằng tất cả tâm hồn, một cách nồng

nàn và trịnh trọng, theo những tục lệ như sau:

2.1.1. Tống cựu nghinh tân

Nghi lễ Tống Cựu Nghinh Tân (20 tháng Chạp trở đi) không chỉ riêng ở Hà

Nội, bao gồm việc thực hành các tục lệ cổ là: Lễ ban sóc, phất thức; lễ cúng ông

Công, ông Táo, thả cá chép và lễ dựng cây nêu. Đây là các nghi thức được nhiều

đời vua tại Hoàng thành Thăng Long thực hiện mỗi dịp Tết đến, Xuân về. Cũng

theo tục lệ, trước đây chỉ khi nghi lễ trong hoàng cung kết thúc, dân chúng mới

tiến hành nghi lễ này tại tư gia. Là nơi Hoàng Thành Thăng Long tọa lạc, Hà Nội

trở nên nhộn nhịp và gấp rút hơn mỗi khi Tết đến xuân về.

Giao thừa đến, từ các quận các đường, các nhà riêng đến xóm, ngõ, đình,

chùa… nơi nơi đều có lễ trừ tịch (còn có tên là lễ giao thừa, vì cử hành đúng lúc

giao thừa), tiễn cũ và đón mới. Người ta làm lễ này để bỏ đi hết những điều xấu,

cũ kỹ của năm cũ và đón những điều mới mẻ, tốt đẹp của năm mới.

Công việc dọn dẹp tuy đơn giản nhưng lại ngốn rất nhiều thời gian. Đặc

biệt, với các bà, các chị vừa phải gánh vác công việc xã hội vừa phải chăm sóc tổ

ấm gia đình thì thời gian vào dịp cuối năm lại càng trở nên hiếm hoi hơn bao giờ

hết.

Cuối năm là thời gian các chị, các mẹ phải tất bật với: công việc công ty,

mua sắm đồ tết, chăm lo công việc nội ngoại, đi làm đẹp... Người người nhà nhà, 34

một năm làm việc mệt mỏi khi quay về đón Tết cũng phải tay trái cầm khăn tay

trái cầm vòi nước để lau chùi, kì cọ bàn ghế, phòng ốc,... để chuẩn bị cho dịp quan

trọng sắp tới mang tên Giao thừa.

Theo quan niệm không được quét nhà trong 3 ngày Tết nên mỗi người mỗi

việc đều bắt tay vào dọn vén và chuẩn bị, sắp xếp nhà cửa lại thật gọn gàng để

đầu năm mới, gia đình sẽ không phải động chổi hay có bất kỳ sự xê dịch nào để

tránh mất lộc.

Đây là cơ hội cho các bạn trẻ, các du khách về một phong tục truyền thống

có ý nghĩa vô cùng đặc biệt của Việt Nam, vừa là cơ hội để mở ra chuỗi các hoạt

động Tết tại Hoàng Thành Thăng Long, mỗi năm là một chủ đề hoàn toàn khác

nhau. Điểm nhấn của chuỗi các hoạt động này thường là không gian trưng bày về

nhà Nho với văn phòng tứ bảo, nhiều câu đối mang ý nghĩa sâu sắc, gửi gắm mong

muốn về những điều tốt lành, thịnh vượng trong năm mới. Bên cạnh đó còn có

không gian ngoài trời với nhiều khu vực được thiết kế hết sức tỉ mỉ, bay bổng,

trang trí bắt mắt với những hình ảnh quen thuộc trong ngày Tết cổ truyền như đèn

lồng, câu đối, cây nêu,... Tất cả làm toàn vẹn thêm bức tranh đa sắc rõ nét phong

vị ngày Tết.

2.1.2 Hạ Nguyên

Từ sáng sớm ngày 23 tháng Chạp, người dân Hà Nội tất bật chuẩn bị lễ

cúng tiễn ông Táo về trời theo truyền thống.

Từ sáng sớm, ở hầu hết các khu chợ ở Hà Nội, từ chợ sỉ chợ đầu mối đến

chợ đầu ngõ, quán tạp hóa đã tấp nập kẻ bán người mua. Có những khu chợ gần

nhà quá đông, nỗi lo không đi chợ sớm sẽ không có đồ cúng ưng ý nên tất cả như

tất bật, rộn rã, tay xách nách mang những món đồ cúng lễ. Các gian hàng bán đồ

cổ họp mỗi năm một lần vào dịp Tết Nguyên Đán trên phố Hàng Mã cũng bắt đầu

dọn hàng từ một vài hôm nay.

Ban thờ bao gồm:

+ Thường được đặt gần bếp, trên có bài vị;

+ Lư hương;

35

+ Bình hoa;

+ Mâm quả;

+ Bát nước.

Lễ vật cúng Táo Quân bao gồm:

+ Mũ ông công ba cỗ hay 3 chiếc (2 mũ đàn ông và 1 mũ phụ nữ);

+ Mũ đành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn; mũ Táo bà thì

không có cánh chuồn;

+ Cá chép;

+ Một số vàng thoi bằng giấy.

=> Các mũ được trang trí rất sặc sỡ, lấp lánh kim tuyến. Màu sắc của áo,

mũ thay đổi hằng năm theo ngũ hành:

+ Năm hành kim thì dùng màu vàng

+ Năm hành mộc thì dùng màu trắng

+ Năm hành thủy thì dùng màu xanh

+ Năm hành hỏa thì dùng màu đỏ

+ Năm hành thổ thì dùng màu đen.

Lễ vật cúng Táo quân chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện của từng gia đình,

nhưng đa số các gia đình ở Hà Nội đều chuẩn bị những món ăn bao gồm các món

ăn mặn, mang hương vị đặc trưng ngày Tết như: bánh chưng, gà (gà ngậm hoa

hồng),xôi, giò chả, cá chép, đĩa muối trắng cùng rượu và hoa quả... chọn những

nhành mai nhỏ có thể cắm trong lọ cũng được nhiều người dân lựa chọn để chuẩn

bị mâm lễ cúng Tết ông Công, ông Táo Điều đặc biệt phải có 3 bộ mũ áo, hài; một

hoặc 3 con cá chép (cá sống hoặc bằng giấy mã). Sách "Việt Nam phong tục" của

Phan Kế Bính ghi: "Mua hai mũ ông, một mũ bà để thờ và mua con cá chép để

làm ngựa cho Táo quân lên chầu trời".

Những năm 1990 trở về trước, ở miền Bắc, nhiều gia đình bất kể lễ vật

nhiều hay ít, luôn cố gắng có một đĩa bánh kẹo (bánh mật, kẹo mạch nha, kẹo lạc,

kẹo vừng, kẹo kéo...) hoặc một bát mật mía. Dân gian cho rằng Táo quân về chầu

Ngọc hoàng cần "ngọt giọng" tấu báo những điều tốt đẹp về gia đình mình, cầu

36

mong Ngọc hoàng ban phúc lành cho gia đình trong năm mới.

Người dân Hà Nội quan niệm, ngày này không chỉ là một nghi lễ truyền

thống, mà còn là dịp cả gia đình cùng ngồi quây quần bên mâm cơm, chuẩn bị

đón năm mới. Những đồ lễ vật cúng sẽ được đốt sau khi lễ cúng ông Táo được

diễn ra, sau đó lập bài vị mới cho Táo Quân mới, đốt bài vị cũ thay bằng bài vị

mới. Lễ xong thì hóa vàng, hóa luôn cả cỗ mũ năm trước. Mỗi vùng, miền sẽ có

những nét khác biệt làm nên văn hóa ở đây đó chính là:

+ Đối với miền Bắc, người ta thả cá chép còn sống xuống ao, sông,... cá

chép sẽ hóa rồng để ông cưỡi lên chầu trời;

+ Miền Trung người ta cúng một con ngựa giấy với yên, cương đầy đủ;

+ Miền Nam thì giản dị, người ta chỉ cúng mũ và đôi hia bằng giấy.

=> Dù mỗi miền đều có những nét văn hóa riêng nhưng có thể nói tục cúng

ông Táo đã trở nên rất quen thuộc và phổ biến, một nghi lễ những dịp cuối năm.

Từ đó, cũng thấy được sự trân trọng của dân ta đối với đời sống gia đình, công

việc bếp núc, việc chăm sóc dinh dưỡng cho mọi người, cũng như ý thức lối sống

nề nếp, cách ứng xử đúng mực của người Việt mỗi khi Tết đến xuân về.

Cả gia đình cùng thực hiện nghi thức cúng lễ trước bàn thờ để cầu mong

cho một năm mới sức khỏe, may mắn. "Nam mô a di đà phật/ Nay nhân ngày 23

tháng chạp/ Lòng chúng con dào dạt mênh mông/ Toàn gia quyến dốc một lòng/

Sắm lễ mọn dâng lên linh tọa...", trang phục chỉnh tề vừa đọc lời văn khấn vừa

chắp tay làm lễ. Khi hết một tuần hương sẽ đó lập bài vị mới cho Táo Quân mới,

đốt bài vị cũ thay bằng bài vị mới, thu dọn vàng mã trên bàn thờ để đem hóa vàng

và thả cá chép ở Hồ Tây tiễn ông Táo về trời. Tại nhiều nơi, người dân có quan

niệm phải thực hiện nghi lễ cúng ông Công, ông Táo trước 12 giờ trưa; trong khi

một số nơi khác thì quan niệm cúng trong ngày 23 tháng Chạp là được.

Người Hà Nội xưa quan niệm rằng, ngày Ông Công Ông Táo về trời thì đất

sẽ chẳng có ai cai quản và bảo vệ, cho nên cũng vào những ngày này, dân ta dựng

cây nêu để ngăn chặn việc quỷ xâm chiếm từ biển Đông. Nên hôm nay cũng là

ngày dựng nêu. Nằm trong chuỗi các hoạt động thường niên đón mừng năm mới

của phố cổ Hà Nội, nên năm nào cũng vậy, chương trình "Tết phố" tái hiện không

gian tết với những nét văn hóa truyền thống của người Hà Nội xưa đã tạo nên 37

không khí đón tết sôi động giữa lòng phố cổ trước thềm năm mới. Trên ngọn cây,

người ta treo lên một vòng tròn nhỏ rồi gắn nhiều vật dụng có tính biểu tượng vào

tùy theo mỗi địa phương, phong tục và dân tộc nhằm ngăn ngừa không cho ma

quỷ bén mảng đến nhà. Ngày dựng cây nêu người ta gọi là ngày lên nêu và ngày

7/1 âm lịch là ngày hạ nêu. Người Mường thường trồng cây nêu vào ngày 28/12

âm lịch, người H’mông dựng cây nêu trong lễ hội Gầu tào (cầu phúc hoặc cầu

mệnh) tổ chức từ ngày 3 - ngày 5 tháng Giêng Âm lịch. Với phần dựng cây nêu ở

Hà Nội, việc Cây Nêu được treo rất nhiều vật dụng khiến việc dựng thẳng, cố định

vào một điểm sao cho thẳng cần đến sự hỗ trợ của rất đông thanh niên khỏe mạnh.

Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma

quỷ hoặc những điều không may. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng

chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng

mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng

cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.

Tất cả đã cùng hòa chung vào bầu không khí vui tươi, hào hứng, phấn khởi

để chuẩn bị cho sự mong đợi sắp đến của toàn thể người dân Hà Nội nói riêng và

cả nước nói chung: TẾT – NGUYÊN – ĐÁN!

2.1.3. Tất niên

Tất niên có thể là một bữa tiệc, liên hoan cuối năm để bước sang năm mới

(Tết Tây) và là một phần trong nghi thức Tết diễn ra vào những ngày cuối năm

âm lịch, từ ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm

thiếu) được gọi là ngày tất niên.

Đây là dịp để các thành viên trong gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm

buổi tất niên, cùng nhìn lại năm cũ đã qua và hướng về một năm mới tốt đẹp hơn.

Ngoài ra, tùy vào phong tục tập quán ở mỗi vùng, việc cúng tất niên có thể được

gia chủ mời thêm bạn bè và người thân đến dự.

Mâm cúng tất niên của người Hà Nội được bày biện tương đối công phu,

bởi nó không chỉ đơn thuần là chuyện ăn, mà cao hơn nó thể hiện bộ mặt của gia

đình, dòng tộc. Với người Hà Nội, mâm cúng Tết càng đầy càng thể hiện lòng

thành kính với tổ tiên. Nếu so sánh với một bức tranh thì cỗ Tết Hà Nội xưa là 38

một bức tranh đa sắc màu nhưng không lòe loẹt. Nhìn vào mâm cỗ Tết, người ta

cũng biết được sự khéo léo, giỏi thu vén, sắp xếp của người đứng bếp. Nói đến

mâm cỗ Tết cổ truyền của người Hà Nội là nhắc đến những gì ngon nhất, tinh túy

nhất được thể hiện qua bàn tay người phụ nữ đảm đang, thanh lịch, dịu dàng của

người Tràng An. Những tinh túy của trời và đất đều được người ta dồn vào mâm

cỗ cổ truyền của dân tộc: tinh tế về hình thức, chế biến cầu kỳ tỉ mẩn, tượng trưng

cho tấm lòng thành kính của con cháu dâng lên tổ tiên và chư vị thánh thần trong

những ngày đầu năm, mong được phù hộ độ trì để có một năm may mắn, mùa

màng bội thu. Vì người Hà Nội xưa cũng quan niệm, cỗ Tết càng cầu kỳ càng tỏ

lòng thành kính với tổ tiên.

Bữa ăn gia đình của người Hà Nội mang một phong cách riêng từ bày đặt

mâm cỗ đến các món ăn thanh tịnh, đơn giản nhưng được bày đẹp mắt, thanh lịch

và cao quý. Người Hà Nội xưa thường bày cỗ thành nhiều tầng, ngăn cách giữa

các tầng lại có một chiếc mâm đồng nên dân gian mới gọi là “mâm cao cỗ đầy”

để chỉ mâm cỗ Tết của người Hà Thành vốn cầu kỳ, kỹ tính trong văn hóa ẩm

thực. Dù trọng “mâm cao cỗ đầy” nhưng không phải đĩa nào cũng ú ụ thức ăn.

Điều quan trọng nhất trong mâm cỗ Tết xưa của người Hà Nội là vừa phải có

nhiều món ăn, nhiều hương vị, vừa phải bày biện đẹp mắt, hấp dẫn thể hiện được

nghệ thuật ẩm thực thanh lịch, tinh tế.

Số lượng món ăn trên mâm cỗ Tết thường không cố định, không phải nhà

nào cũng giống nhau mà tùy thuộc nhiều vào hoàn cảnh, điều kiện của gia chủ để

bày cỗ, nhưng dù ít hay nhiều thì mâm cỗ nào cũng phải có đủ bánh chưng, dưa

hành, giò lụa, thịt gà và xôi. Dù đơn giản nhưng không hề qua loa, số lượng đĩa

và bát trên mâm cỗ cũng phải đảm bảo số lượng nhất định, thường thì 4 đĩa 4 bát

tượng trưng cho tứ trụ, 4 phương và 4 mùa. Bốn bát gồm chân giò lợn hầm măng,

bóng thả, miến và một bát mọc nấm. Bốn đĩa gồm thịt gà, thịt lợn, giò lụa và xôi.

Đó là mâm cỗ vừa phải của những nhà chưa có điều kiện. Còn đối với những gia

đình khá giả hơn có thể bày biện 6 đĩa 8 bát, 8 đĩa 8 bát tùy quan niệm mỗi người,

bởi số 6 và số 8 trong tiếng Hán đọc chệch sang có thể hiểu là lộc và phát, là điều

ai cũng mong muốn trong năm mới. Người Hà Nội khá giả xưa còn có cỗ “bát 39

trân” truyền thống với 8 bát, 8 đĩa. Cụ thể, 8 bát gồm: măng lưỡi lợn hầm chân

giò, bóng bì, mực nấu, su hào thái chỉ ninh kỹ, nấm thả, bóng cá mú trong suốt,

chim hầm nguyên con, gà tần. Trong đó 6 món đầu tiên là không thể thiếu còn 2

món cuối có thể thay đổi... 8 đĩa là: gà luộc, giò lụa, chả quế, trứng muối, dưa

hành, bánh chưng, dứa xào lòng gà và cá trắm đen kho. Nhà nào sang nữa thì có

thêm bát vây yến. Ngoài các món chính thì hầu hết nhà nào cũng có mứt hay chè

kho để làm món tráng miệng.

Cách bày biện mâm cúng tất niên không chỉ là sự đảm bảo về số lượng bát

đĩa nhất định trên mâm đồng, mà còn là cách trưng bày các món ăn truyền thống

- đây là tục lệ đẹp của dân tộc!

2.1.4. Giao thừa

Vào dịp này, Hà Nội sẽ là nơi hướng về của cả nước vì là tụ điểm bắn pháo

hoa hoặc các lễ hội khác để chấm dứt năm cũ (tất niên) và đón mừng năm mới vào

đúng thời điểm 0 giờ 0 phút 0 giây ngày 1 tháng 1 đối với Tết Dương lịch, đối với

Tết Âm lịch, giao thừa là phút giây thiêng liêng lúc đêm 30 Tết, lúc này khí tiết

chuyển sang lập xuân, chính thức bắt đầu năm mới.

Đón giao thừa luôn là thời khắc rất quan trọng, có ý nghĩa thiêng liêng, có

sức lay động lan tỏa rất lớn đối với đời sống tinh thần người Hà Nội trong dịp

Tết. Vì thế, hầu như mọi người đều thức để chờ đợi thời khắc đó. Đây là một dịp

để trai gái ăn diện thật đẹp, hẹn hò, dập dìu bên nhau đi chơi quanh Hồ Gươm

lung linh huyền ảo. Người già thì thi thoảng lại thắp nén nhang trên bàn thờ tổ

tiên hoặc vui đùa cùng mấy đứa cháu nhỏ. Bố mẹ tôi thường hay đi lễ chùa rồi

trở về nhà chuẩn bị cho cúng giao thừa.

Đón giao thừa ở Hồ Gươm bao giờ cũng là niềm say mê, háo hức của riêng

người Hà Nội. Cho dù thời tiết thế nào, khoảng 8 giờ đến 9 giờ tối, người Hà Nội

với những trang phục đẹp, lịch sự, sang trọng nhất từ mọi nơi, mọi nẻo phố đổ về

Hồ Gươm. Ðông nhất trong dòng người vẫn là lớp trai gái trẻ tuổi trở về Hồ Gươm.

Trên các vỉa hè không thiếu các cụ ông, cụ bà ăn vận sang trọng, lững thững đi

bách bộ đến với Hồ Gươm đêm giao thừa “ôn cố tri tân”, để được sống trong

không khí lễ hội thiêng liêng mỗi năm chỉ có một lần... Khoảng 10 giờ đêm, xung 40

quanh Hồ Gươm, người người đã đông như nêm đủ mọi lứa tuổi, gương mặt ai

cũng rạng rỡ, hồ hởi và phơi phới nét Xuân. Người Hà Nội ung dung thả bộ ngắm

nhìn, hít thở thật sâu, cảm nhận thật đầy đủ cái không khí, cái hơi thở của đất trời,

của lòng người ở chốn linh thiêng tích tụ hồn khí núi sông...

Người Hà Nội vốn trọng hình thức nên mâm cơm cúng tất niên không chỉ

gồm các món ăn ngon mà còn phải đủ lệ, về cơ bản thường có bóng, miến, măng,

mọc, giò, chả, xào, nộm... Kể từ thời khắc cúng tất niên đến hết Tết, việc thắp

hương, đốt trầm trên bàn thờ tổ tiên cũng được mọi nhà chăm lo một cách thành

kính. Sau bữa cơm tất niên, các thành viên trong gia đình sửa soạn cho đón giao

thừa.

Nói đến mâm cỗ Tết cổ truyền của người Hà Nội là nhắc đến những gì

ngon nhất, tinh túy nhất được thể hiện qua bàn tay người phụ nữ đảm đang, thanh

lịch, dịu dàng của người Tràng An. Những tinh túy của trời và đất đều được người

ta dồn vào mâm cỗ cổ truyền của dân tộc: tinh tế về hình thức, chế biến cầu kỳ tỉ

mẩn, tượng trưng cho tấm lòng thành kính của con cháu dâng lên tổ tiên và chư

vị thánh thần trong những ngày đầu năm, mong được phù hộ độ trì để có một

năm may mắn, mùa màng bội thu. Vì người Hà Nội xưa cũng quan niệm, cỗ Tết

càng cầu kỳ càng tỏ lòng thành kính với tổ tiên.

Theo tục lệ cổ truyền, không chỉ riêng Hà Nội, giao thừa được tổ chức nhằm

đón các vị hành khiển (12 vị). Họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội nên không kịp

vào nhà được, đây chính là nguyên do mà bàn cúng được được ở ngoài cửa chính

mỗi nhà. Đây là một trong những nguyên do có mâm cúng ngoài trời của người

Việt:

Giao thừa trong nhà Giao thừa ngoài trời

Cúng ông bà, tổ tiên. 12 vị hành khiển và hán quan.

Mâm lễ: các món ăn ngày Tết được Mâm lễ: việc bàn giao cực kỳ khẩn

chế biến mang thinh hoa để nhớ ơn trương nên họ chỉ có thể ăn vội hoặc

tổ tiên và cảm tạ trời đất. mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến

41

- Bánh chưng/ bánh tét lòng thành của gia chủ.

- Bánh kẹo Bao gồm:

- Mâm trái cây tươi ngũ quả

- Trên hương án có bình hương, 2

ngọn đèn dầu hoặc 2 ngọn nến. - Hoa tươi

- Hương nhang thơm

- Chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh

chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, - Đèn nến

- Vàng mã để làm nghi thức hoá rượu nước và vàng mã.

vàng sau khi khấn

- Lễ trừ tịch hay lễ “trừ ma quỷ”,

- Trà hoặc rượu. được cử hành vào lúc giao thừa nên

còn mang tên là lễ giao thừa.

Bao gồm:

- Cỗ mặn: Gà luộc nguyên con

- Giò lụa

- Bánh chưng hoặc xôi

- Một mũ cánh chuồn

- Vàng mã

- Đĩa hoa quả

- Đĩa muối, đĩa gạo

- Chén nước, chén rượu

- Hoa tươi, trầu cau

- Nhang thơm, nến cốc.

Vào ngày 30 Tết này, người Hà Nội còn có thói quen đi mua lá mùi già về

để tắm tất niên đón chào năm mới. Đó là loại cây lá và thân ngào ngạt mùi hương

rất thơm, thường có nhiều vào dịp Tết, mùi thơm của cây mùi già luôn gợi nhớ tới

ngày Tết.

Khi đồng hồ sắp quay tới 00h, đây có lẽ là lúc mà ai nấy đều hằng mong

đợi, cuối cùng năm mới đã đến. Đại gia đình quây quần bên nhau để xem Táo

42

quân – một chương trình tổng kết lại một năm trải qua của cả nước tóm gọn trong

những lời văn pha chút ngố nghịch. Vậy là năm mới đã đến! Tất cả như bỏ lại

phía sau!

2.1.5. Tri ân

Câu nói dân gian “mùng 1 Tết Cha, mùng 2 Tết Bạn, mồng 3 Tết Thầy” đã

trở thành một thành ngữ ăn sâu vào trong văn hóa truyền thống của người Việt

Nam. Nó hàm chứa ý nghĩa phân chia ngày thăm Tết của các gia đình, mùng 1

Tết, mùng 2 Tết và mùng 3 Tết, nhằm mong muốn sum vầy cùng cha mẹ, thể hiện

đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn. Câu nói này được nhắc đến nhằm nhắc nhở chúng

ta phải biết tỏ lòng biết ơn công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và công giáo

dục, truyền dạy kiến thức của các thầy giáo, cô giáo.

Có một Hà Nội bình yên đến nao lòng, một Hà Nội thấm đẫm hương vị của

sự bình yên. Đó là những cảm xúc của rất nhiều người đi đón chào 1 năm mới vào

sáng ngày mùng 1 Tết ở thủ đô Hà Nội. Không tiếng còi xe ồn ào, không chen lấn

nghẹt thở trong ma trận tắc đường, Hà Nội trong sáng mùng 1 Tết bỗng trở thành

thời điểm được nhiều người đặc biệt đón chờ. Không còn những con đường tấp

nập người qua lại, không còi xe inh ỏi từ sáng sớm tinh mơ, không còn những

thanh âm của một Thủ đô chật chội đất chật người đông. Những con phố đông

đúc ngày thường, những ồn ào của cuộc sống, giờ được thay thế bằng sự yên bình.

Sáng mùng 1 Tết của Hà Nội luôn là một sáng trời se se lạnh phảng phất

cơn mưa phùn đầu xuân, bao trùm khắp các con phố là sự yên tĩnh, trong veo đến

bình yên. Đỗ ngoài phố là những chiếc xe chở các gia đình đi chúc Tết, tiếng nói

cười cùng những cái bắt tay chào hỏi đầu năm... Và đó là một ngày hiếm hoi trong

365 ngày, Hà Nội được trả về với đúng sự dịu dàng, thanh lịch của nó. Đây là

ngày mà ai ai trong chúng ta cũng sẽ diện lên mình những bộ quần áo mới: Ngày

xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay

tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày

cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ

gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi

theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ

43

quần áo mới đó.

Ngày mùng Một Tết là ngày Tân niên cũng là ngày quan trọng nhất trong

toàn bộ dịp Tết. Sáng mùng Một Tết còn gọi là ngày Chính Đán, con cháu tụ họp

để dâng hương lên bàn thờ tổ tiên, sau đó chúc Tết ông bà, cha mẹ, các bậc cao

niên, huynh trưởng trong nhà. Lúc này, con cháu mừng thọ ông bà, trẻ nhỏ được

mừng tuổi. Từ sáng sớm đến chiều, dù Hà Nội chưa tạnh mưa, dòng người từ khắp

các nơi đổ về các ngôi chùa, đền, phủ cổ kính của Hà Nội vẫn không ngớt. Đi

thăm ông bà xong, mọi người sẽ tới các chùa: chùa Trấn Quốc, chùa Hà, chùa

Quán Sứ, đền Quán Thánh, phủ Tây Hồ, Hồ Gươm, cầu Thê Húc và Đền Ngọc

Sơn là một trong những địa điểm được nhiều gia đình lựa chọn trong ngày đầu

tiên của năm mới. Trong những ngày đầu năm Âm lịch này, rất nhiều người thích

đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng

một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành

và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước

điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm.

Từ sáng sớm đến chiều, dù Hà Nội chưa tạnh mưa, dòng người từ khắp các

nơi đổ về các ngôi chùa, đền, phủ cổ kính của Hà Nội vẫn không ngớt.

Thời tiết mưa xuân cùng với không gian tĩnh lặng đã khắc họa một Hà Nội

với vẻ đẹp cổ kính, khiến nhiều người không thể không say đắm. Trời mưa nhẹ là

dấu hiệu của một năm mát mẻ, mọi việc hanh thông. Qua mỗi năm, người Hà Nội

có xu hướng xuất hành du xuân sớm hơn, để có thể tận hưởng sự thanh bình, vắng

vẻ ngày mùng 1 Tết.

Sau khi nhận được lời chúc Tết, ông bà, cha mẹ thường tặng trẻ em tiền bỏ

trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn

no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là

Bát Tiên hoá thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu. Đây

là một mỹ tục tồn tại không chỉ riêng ở Hà Nội mà còn đối với cả Việt Nam ta!

Xuất hành và hái lộc, đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may

mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người dân Hà Nội phải chọn

ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ

thần... Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Hà Nội còn có tục bẻ 44

lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành

lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi

tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần,

Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với

miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các

đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.

Đầu Xuân, người có chức tước khai ấn; học trò, sĩ phu khai bút; nhà nông

khai canh; người buôn bán mở hàng lấy ngày... Sau ngày mùng Một, dù có mải

vui cũng chọn ngày để khai nghề (làm lấy ngày). Nếu như mùng Một tốt thì chiều

mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì Giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không

kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu

năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn

bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người

bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.

Ngày mùng Hai Tết, người dân tiếp tục hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng

sớm. Sau khi việc cúng lễ xong xuôi, việc thăm hỏi chúc Tết diễn ra thoải mái

hơn, người ta có thể đến chúc Tết họ hàng, bạn bè rất vô tư, thoải mái mà không

còn lo mình sẽ trở thành người xông nhà “bất đắc dĩ” cho gia chủ nữa. Đàn ông

chuẩn bị lập gia đình sẽ đến nhà cha mẹ vợ tương lai để chúc Tết, con gái đã đi

lấy chồng sẽ quay về nhà chúc Tết cha mẹ đẻ và họ hàng.

Ngày mùng Hai Tết, nhiều người ở Hà Nội bắt đầu đi chơi, du xuân hoặc

về quê nên các khu dân cư vắng bóng người, cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ thì ùn

tắc kéo dài suốt buổi trưa. Những chung cư, tuyến đường trung tâm vắng bóng

người, những hàng ăn đóng cửa nghỉ Tết, lác đác những bóng người ở Hà Nội đi

tập thể dục để tận hưởng bầu không khí tuyệt vời mà cái lạnh se se đầu xuân

mang lại.

Chuyện mùng ba tết thì liên quan đến tôn sư trọng đạo. Ngày xưa thầy đồ

dạy học đa số không có chuyện biên chế hay giáo chức ăn lương nhà nước như

bây giờ, trừ trường hợp đặc biệt do triều đình lập ra. Người học trước thông chữ

45

hoặc đỗ đạt dạy cho người học sâu. Học trò muốn học thì kiếm buồn câu xin

nhập môn và lạy thì hai lại. Đủ học trò, thì chọn ngày tế thánh rồi mở lớp. Học

hết chữ thầy này, nếu muốn theo đòi bút nghiên, trò lại tìm thì nhiều chữ hơn để

học lên.

Hòa vào dòng người đổ xô du hành, người dân Hà Nội đi chơi Tết đông.

Các tuyến phố quanh hồ Hoàn Kiếm và Hồ Tây ken đặc người, nhà ga đường sắt

cao tốc Cát Linh - Hà Đông luôn trong tình trạng quá tải. Tranh thủ sau khi đi

kính ơn Thầy của mình, người dân Hà Nội gác lại lo âu thường trực để đi tham

gia các lễ hội, các trò chơi dân gian như bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải

lương, hát chèo, đánh đu, thi leo cột mỡ; bài chòi và nhiều loại bài bạc cổ truyền

khác,... Tất cả như làm nên bức tranh tổng hòa cái Tết của người Hà Nội.

2.1.6. Hóa vàng

Mồng 4 Tết tức ngày hóa vàng, đây là có lẽ là giai đoạn mà người Hà Nội

cho rằng là cái Tết đã thực sự kết thúc! 3 ngày Tết đã khép lại, người thân trong

gia đình lần lượt đứng trước ban thờ gia tiên để mong những điều tốt đẹp cho một

năm nữa đã đến, vạn sự hanh thông gia đạo hạnh phúc.

Sau khi tàn một tuần nhang, gia chủ mang vàng mã xuống để hóa, cầu cho

ông bà nhận được và phù hộ độ trì cho con cháu.

Giáo Sư Lan cho biết, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,

vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới

bên kia sống gần với dương gian. Tục này nhằm cung cấp cho người đã khuất

tiền, quần áo (giấy), gậy đi đường (cây mía). "Các cụ về trời chỉ cần ít quần áo,

vật dụng đi đường cùng 5-10 nghìn đồng", ông Lan bày tỏ..

Theo một số chuyên gia văn hóa phương Đông, việc chọn ngày làm lễ hóa

vàng tùy thuộc vào mỗi gia đình, nhưng ở Hà Nội, hóa vàng chủ yếu từ mùng 3

đến khoảng mùng 10 Tết Nguyên đán. Điều quan trọng nhất là phải có lễ tạ gia

tiên, gia thần và chư vị thánh thần, phật. Theo quan niệm dân gian, có lễ tạ thì tấm

lòng của chủ nhà mới được người âm chứng giám.

Sau khi lễ, các gia chủ sẽ hóa vàng. Phần tiền, vàng của gia thần phải hóa

46

trước, tiền vàng, đồ dùng của tổ tiên hóa sau. Tục xưa, tại nơi đốt vàng mã, người

ta thường đặt vài cây mía dài. Dân gian cho rằng đây là đòn gánh để các linh hồn

dùng làm gậy chống, hay mang hàng hóa.

Trong thời gian gần đây do việc đốt vàng mã quá nhiều do thiếu nhận thức

gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và gây cháy lớn ở nhiều nơi. Do đó,

mọi người không nên quá lạm dụng việc đốt vàng mã quá nhiều, vừa tốn kém

không cần thiết và gây nguy hiểm và ô nhiễm môi trường sống ở Hà Nội.

2.1.7. Tết trồng cây

Mồng một chơi nhà, mồng hai chơi ngõ, mồng ba chơi đình, hay Mồng một

Tết nhà, mồng ba Tết chuồng, mồng bốn mồng năm ra vườn Tết cây (theo dân

gian xưa).

Hay:

Mùa xuân là Tết trồng cây

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân

(Hồ Chí Minh)

Vào buổi sáng ngày 11/1/1960, không khí Tết trồng cây đầu tiên mừng

Đảng, mừng Xuân thật sôi nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào Thủ đô đã

trồng cây ở Công viên Hồ Bảy Mẫu (nay là Công viên Thống Nhất). Mỗi mùa

xuân đến, Bác Hồ mong mỗi người dân Việt đón Tết vui vẻ, tiết kiệm, Tết cổ

truyền dân tộc với những ngày đầu năm có việc làm thiết thực: Tết trồng cây. Với

tầm nhìn chiến lược: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm

thì phải trồng người”. Tết trồng cây đánh dấu sự quay lại tăng gia sản xuất của

người dân từ cái nôi văn hóa nông nghiệp lâu đời, đặt dấu chấm cho kỳ nghỉ dài

của mỗi người.

Đến bây giờ, Tết trồng cây vẫn giữ nguyên giá trị với những người con Hà

Nội. Mùa xuân là Tết trồng cây sẽ tạo nên màu xanh cho đất nước, xanh núi, xanh

sông, xanh đồng, xanh biển, góp phần bảo vệ mùa màng, bảo vệ xóm làng, bảo vệ

môi trường thiên nhiên, hạn chế được những thiệt hại mưa bão, sạt lở đất và xói

mòn.

Đó là vì, mùa xuân ở Hà Nội có tiết trời ấm áp, khí hậu ôn hoà rất phù hợp

với sự sinh trưởng và phát triển của cây cối. Tết trồng cây đầu năm có ý nghĩa hết 47

sức to lớn, nó tạo nên một môi trường sống trong sạch và tốt đẹp hơn cho Thủ Đô;

con người được sống trong bầu không khí trong lành, thoải mái. Việc trồng cây

phủ xanh đồi núi trọc hay những vùng ven biển đang bị cát lấn có tác dụng ngăn

được bão lũ, chống xói mòn, giảm bớt những hậu quả do thiên tai mang lại, góp

phần làm giàu cho quê hương, đất nước. Trồng cây cho chúng ta một nguồn tài

nguyên phong phú để phát triển ngành công nghiệp gỗ, sản xuất ra những đồ vật

hữu dụng trong gia đình,..Trồng cây sẽ tạo ra được những quang cảnh đẹp hơn,

tạo nên cảnh quan kiến trúc thơ mộng, tôn thêm vẻ đẹp của nơi ở. Hơn nữa, cây

xanh còn có tác dụng điều hoà không khí, chống lũ, bảo vệ đất đai và góp phần

mang lại lợi ích cho sự phát triển kinh tế xã hội. Không có cây xanh, chúng ta khó

có thể tồn tại một cách bình yên và khoẻ mạnh được. Trồng cây, làm cho cây xanh

tươi và nơi nào cũng có cây xanh thì đất nước sẽ xanh tươi, khắp nơi sẽ tràn đầy

sự sống. Như thế, việc trồng cây thực sự đã và sẽ góp phần làm cho đất nước

“càng ngày càng xuân” .

Việc chơi hoa, chơi đào cũng là một nét đẹp trong việc yêu cây cối, hoa lá,

yêu cái đẹp của người dân Hà Nội. Không biết từ khi nào, hoa đào đã trở thành

một biểu tượng của mùa Xuân nói chung và của Tết Hà Nội nói riêng. Người Hà

Nội coi hoa đào như là sản vật quý giá mà trời đất ban tặng cho đất kinh kỳ ngàn

năm văn vật mỗi độ Xuân về. Dường như màu hồng thắm của hoa đào làm ấm lên

tiết trời Xuân dù vẫn còn se se lạnh của thời tiết cuối Đông. Hoa đào đã đi vào đời

sống tinh thần của người Hà Nội từ lúc nào không biết. Từ khoảng giữa tháng

Chạp, người ta đã tập kết rất nhiều cây quất, cây đào về những khu vực chợ hoa.

Đến sau 23 tháng Chạp thì toàn thành phố đã tràn ngập màu hồng thắm của hoa

đào, màu vàng của quất. Quất, đào còn theo sau xe của nhiều người bán len lỏi

khắp phố phường, ngõ hẻm. Nhưng phải kể đến chợ hoa trên phố Hàng Lược là

lâu đời nhất, rồi đến khu vực vườn hoa Hàng Đậu, Quốc Tử Giám, Nhật Tân, Nghi

Tàm, Thụy Khuê, Âu Cơ, Lạc Long Quân, dọc theo Đường Láng, Ngã Tư Sở…

Tất cả đều làm nên giá trị của Tết cổ truyền Việt Nam!

2.2. Những bàn luận về Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội

48

2.2.1. Những nét đẹp trong Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội

Tết cổ truyền với người Việt không chỉ đơn thuần là lễ hội mà còn là dịp

để trở về nguồn cội quê huơng, lưu lại những dấu ấn văn hóa riêng mang phong

vị riêng biệt. Tết vừa thiêng liêng, vừa gần gũi, thân thương. Tết không chỉ là hoạt

động văn hóa bình thường mà còn là cả hệ thống một chuỗi lễ nghi tuần tự, bị chi

phối bởi những phong tục tập quán cũng như tín ngưỡng.

Tết làm nên sự riêng biệt, là nét riêng không chỉ mang giá trị văn hóa nhân

văn sâu sắc mà còn mang đậm giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mà còn mang cả

giá trị thẩm mỹ!

• Giá trị văn hóa

Có thể nói, Tết là một sinh hoạt văn hóa cổ truyền hết sức quan trọng bởi

tấtcả mọi hoạt động làm ăn trong 1 năm đều đổ dồn và vì “một cái Tết êm đẹp”.

Tết không chỉ đơn thuần là sửa soạn , là thong dong hưởng thụ Tết, Tết ở đây là

sự bình an gia đạo khi quay trở về bên vòng tay cha mẹ, được thắp khấn nhang

cầu, bái ông bà. Còn được may mắn khoác lên mình tấm áo mới - ôi cảm giác bồi

hồi thuở còn bé chờ chực để trở về!

Nếu như trên thế giới ngày xưa, Tết là tìm về thì bây giờ, Tết là nơi để đi.

Sẽ đoàn tụ gia đình vào dịp cuối năm, còn đầu năm mới người ta sẽ đi du lịch tận

hưởng và coi như là phần thưởng cho bản thân suốt 365 ngày đằng đẵng đối chọi

với đời, với công việc!

Tết là sự tổng hòa của tất cả các lễ nghi, những phong tục tập quán, thể hiện

nét văn hóa đặc sắc và mãi trường tồn, dù bận bịu hay thiếu thốn, giàu sang hay

nghèo khó thì “mâm cơm ngày Tết cũng phải có nhàn mai - bánh chưng - mứt

Tết”.

Khách nước ngoài khi ghé thăm và đến với Việt Nam, người ta thường rất

dễ nhầm lẫn và đánh đồng Tết âm lịch của Việt Nam mới một số nước Phương

Đông khác, đặc biệt là tết của người Hoa. Nhưng khi tìm hiểu những nguồn gốc

sâu xa xét trên nhiều góc độ lại có rất nhiều sự khác biệt:

- Điều khác biệt đầu tiên: đó chính là chiếc bánh chưng (bánh tét), bánh

dầy. Người Hoa thường ăn các đặc sản này vào ngày tất niên. Với Việt ta, bánh

chưng bánh dầy còn là sự thể hiên của lòng uống nước nhớ nguồn, gắn liền với sự 49

tích các vua Hùng.

- Điểm khác biệt thứ hai: Vào thời điểm bắt đầu Tết, thời điểm không cố

định, liên tục thay đổi theo quan niệm của từng đại (không phụ thuộc tính thời

vụ), thì với Việt Nam, thời điểm bắt đầu Tết Nguyên Đán luôn là mùa xuân, mùa

khởi đầu của sự tái sinh, mùa khởi điểm của mùa vụ, của chu kỳ sinh trưởng của

cây cối (Xuân sinh - Hạ trưởng - Thu thu - Đông tàng).

- Điểm khác biệt thứ ba: là ngày 23 tháng Chạp. Theo quan niệm “Đông

tàng” tức mọi sự sẽ ngưng đọng đến Giao thừa là tròn 7 ngày - số 7 là số thiêng,

con số đại diện cho phần dương - cho nam cường “Hào khí Đông A”, là Đức Phật

sinh ra bước đi 7 bước. Nhận thức sâu sắc về “Đông tàng” nên dân ta mua cá chép

về thả, ngoài ý nghĩa là phương tiện, là công cụ giúp ông Táo về trời còn có ý

nghĩa đó là biểu trưng cho hình tượng con thuyền - phương tiện di chuyển của cư

dân Đông Nam Á cổ “Bắc đi mã, Nam đi chu”.

- Điểm khác biệt thứ tư: không thể không nhắc đến: cây Nêu. Cây Nêu hoàn

toàn là sản phẩm của cư dân phương Nam. Nó được biến thể từ cây bất tử, được

thu nhỏ lại và biến thành cây mía thờ dựng cạnh ban thờ tổ tiên.

- Điểm khác biệt thứ năm: chính là ông Táo. Ở Trung Hoa, thần bếp chỉ có

một người, là nam thần, gọi là Táo quân. Ở Việt Nam thì có cả gia đình nhà Táo,

ba vị ấy được nhân dân khái quát thành “Tam vị nhất thể”. Không chỉ đơn thuần

là canh giữ bếp mà còn là sự vun vén, bảo trợ, bình an gia đạo cầu sự đầm ấm đề

huề, bởi quan niệm “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, tức ý muốn nói ở đây,

3 vị thần này sẽ phù trợ cho phái nữ quán xuyến mọi việc cho gia chủ ấm êm.

- Điểm khác biệt thứ sáu: màu sắc trong dịp Tết. Với Trung Hoa, gam màu

chủ đạo chính là màu đỏ, Việt Nam cũng có sự ảnh hưởng sâu sắc và chọn tông

đỏ là gam mà chủ lực, nhưng bên cạnh đó, màu vàng của hoa mai, màu hoa đại

diện cho miền Nam thân yêu. Cho nên có thể nói, việc chọn màu sắc chỉ là sự giao

thoa văn hóa giữa 2 nước bạn nhà mà thôi!

Điểm khác biệt cuối cùng: dễ nhận thấy giữ Tết của Việt Nam và Trung

Quốc đó là người Việt có năm con Mèo còn người Trung Quốc lại thay vào đó là

50

năm con Thỏ. Đây chính là sự khác biệt giữa hai nền văn hóa...

Có thể nói, sự giao thoa văn hóa chính là cơ hội để đa dạng hóa và phong

phú thêm, làm nên nét riêng biệt đậm tính bản địa, hình thành nên những giá trị

mà chỉ khi ghé Viêt Nam du khách mới thực sự cảm nhận được!

• Giá trị văn hóa tâm linh

Tết Nguyên Đán có một giá tri tinh thần to lớn. Giá trị đó ẩn sâu trong

đời sống tâm linh của mỗi người. Trong mỗi gia đình và cộng đồng mà ta có

thể gọi chung là một giá trị tâm linh của văn hóa gia đình Việt Nam. Bởi trong

những ngày Tết mọi việc chỉ diễn ra trong gia đình với tất cả những thuần

phong, mỹ tục từ nhiều đời truyền lại, cuốn hút tất cả mọi người. trong những

ngày Tết người Việt hoàn toàn tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng

liêng, cái bí ẩn, tôn thờ những giá trị không vụ lợi mà rất trừu tượng mông

lung, có thể coi chúng là đời sống tâm linh.

Tết cổ truyền thắm đượm tình người trong trời đất, sâu thẳm nơi cội

nguồn, bản thể mà gia đình là cái nôi nuôi dưỡng nó. Những phong tục đậm

đà trong mấy ngày Tết diễn ra trong các gia đình tạo thành nếp nhà, làm nên

một giá trị tâm linh của văn hóa gia đình. Nhờ những ngày Tết con người được

trở về với chính mình. Dù ai đi đâu, ở đâu thì những ngày Tết cũng phải trở về

bên gia đình, là nơi thiêng liêng và để làm tròn bổn phận của mình với tổ tiên,

ông bà, cha mẹ, vợ con , lễ cúng giao thừa, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi,

thăm hỏi họ hàng….Trong những ngày Tết con người ai cũng trở nên tốt hơn

và mong mỏi cho người khác tốt đẹp hơn. Họ chúc nhau năm mới vạn sự tốt

lành….lời chúc đó xuất phát từ cái tâm lương thiện, nên nó chân thật không

phải những lời giả dối.

Tết là cuộc gặp gỡ đẹp nhất, thân thương nhất, ấm áp nhất của những

người thân trong gia đình mà đau đớn cho những ai phải xa nhà. Đặc biệt là

vào giây phút giao thừa thiêng liêng, vào giây phút ấy diễn ra cuộc gặp gỡ linh

diệu của từng người với các vị thần trong nhà, với các bậc tổ tiên, ông bà,

người thân đã khuất và cũng là cuộc gặp gỡ giữa con người và trời đất. Cuộc

gặp gỡ vô hình này tạo nên một giá trị tâm linh mà thiếu nó con người sẽ không

51

thể trở thành người.

Những giá trị tâm linh của gia đình trong ngày Tết đem đến cho con

người một sức sống bền vững. Đời sống tâm linh đó chính là hạt nhân bất biến

của gia đình và văn hóa gia đình. Những phong tục đẹp đẽ trong ngày Tết gia

đình Việt Nam còn là bài học đầu tiên về mối quan hệ giữa Trời- Đất, để con

người tìm cách sống hòa nhập với thiên nhiên theo nguyên lý Thiên- Địa –

Nhân hợp nhất của triết học phương Đông.

Những phong tục Tết tốt đẹp như sắm Tết, xông nhà, chúc Tết, mừng

tuổi... có vẻ như để chú trọng nuôi dưỡng tình cảm và các mối quan hệ giữa

con người với con người nhất là quan hệ gia đình, dòng tộc. Nhờ giữ gìn phong

tục người ta trở nên gần gũi, thân thiết hơn, các giá trị trở nên thiêng liêng hơn,

gắn bó sâu sắc với nhau hơn và trở thành bản sắc văn hóa, dấu ấn tinh thần của

mỗi cá thể và mỗi dân tộc. Không ít người có công việc phải xa quê hương,

bản quán nhưng mỗi khi Tết đến dù bận đến mấy cũng thu xếp trở về là bởi cái

nỗi nhớ những phong tục đó. Lại có những người Tết đến là dịp du xuân thông

thường, tùy năm tùy tuổi người ta chọn hướng xuất hành, chọn nơi thăm viếng,

thưởng ngoạn, khám phá. Hội nhập bây giờ chuyện du xuân càng thêm tấp nập.

Đi đề biết đó biết đây, biết mình giống ai, ai giống mình và khác nhau như thế

nào để hiểu thêm phong tục vừng đất khác, dân tộc khác…

• Giá trị tinh thần

Đằng sau tấm rèm mang tên những phong tục tập quán, tín ngưỡng trong

những ngày Tết luôn ẩn minh che đi những giá trị tinh thần tốt đẹp mà chỉ những

người yêu văn hóa, yêu đất nước yêu cội nguồn mới có thể khai phá ra được! Nhịp

sống đang dần vội hơn, con người dần trở thành cỗ máy lao đầu vào công việc

nên Tết chính là cánh cổng lôi họ ra khỏi guồng quay đó!

Họ biếu nhau những món quà Tết mang hương vị quê hương không rề rà

vật chất, bình dị đúng chất con người Việt Nam và chỉ mong cái nét đẹp đơn thuần

này sẽ mãi giữ được đúng phẩm vị, nguyên giá trị sơ khai của nó!

Tết Âm lịch là Tết của toàn dân tộc, là Tết của toàn dân, là Tết của 54 anh

em ruột thịt, chính cái tinh thần đoàn kết giản dị này nó kéo chúng ta lại làm một!

52

• Giá trị đạo đức

Các tín ngưỡng đều là những gì đã qua trải qua ngàn đời vẫn để lại, ẩn chứa

những giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc. Điển hình như:

- Tín ngưỡng cơ bản người tiểu nông Việt Nam chính là trồng lúa nước cổ

truyền;

- Ảnh hưởng từ nhận thức, tâm lý cộng với sự tác động từ Nho giáo hình

thành phong tục thờ cúng tổ tiên;

- Tục thờ cúng tổ tiên còn tồn tại bởi nhân nghĩa, cốt cách người Việt, nhớ

đến nơi phụng dưỡng nuôi nấng mình, truyền lại nòi giống thịt xương, là dịp thể

hiện lòng tôn kính.

Ngày xưa có câu “lời chào cao hơn mâm cỗ” quả không sai, được đúc kết

từ xa xưa và đến nay vẫn in nguyên giá trị. Những lời chúc Tết còn cao hơn gấp

bội lời chào ngày thường, nó thiêng liêng ấm áp, cởi mở từ chân tình, từ những

lời không sua nịnh chúm chím bé xinh của con cháu gửi đến ông bà cha mẹ. “Học

ăn, học nói, học gói, học mở”, từ một câu nói đến dáng ngồi, dáng đứng, từ cách

nâng chén đến bàn tay cầm đũa tất cả đều phải học. Những điều tưởng chừng như

vô vị, tầm thường nhưng nó lại làm nên nhân cách của mỗi người.

• Giá trị thẩm mỹ

Theo nhận xét của giáo sư Trần Quốc Vượng, ông cho rằng: “Một trong

những sức mạnh lạ lùng của ngày tết Nguyên Đán là nó mang lại cái đẹp cho mỗi

con người, khiến con người cảm thấy niềm vui, hạnh phúc, hy vọng...” và cũng

với sức mạnh ấy, hình như tết cũng ngầm bắt mỗi con người phải tự làm đẹp cho

mình, làm vừa lòng người khác, đem hy vọng đến cùng xung quanh, nghĩa là cũng

phải góp cái đẹp riêng của mình vào cái đẹp chung.

Đón năm mới, người người nhà nhà hào hứng lau dọn sạch sẽ ban thờ gia

tiên với ý nghĩa “tống cựu, nghênh tân” và chuẩn bị những trang phục đẹp nhất,

bắt mắt nhất để diện 3 ngày Tết. Quan niệm “đói quanh năm, no 3 ngày tết” thì

người Việt cũng cố gắng chăm chút tút tát lại bản thân nổ bật hơn ngày thường.

Người Việt ta luôn chọn những bộ màu sặc sỡ nhất bởi những màu tươi, hợp mệnh

sẽ mang lại bình an may mắn!

53

Trong nhiều thế kỷ, phụ nữ Bắc mặc áo tứ thân, dải yếm đào, khăn mỏ quạ

cùng nón quai thao. Dần dần theo thời gian, sự du nhập từ văn hóa phương Tây

đổ về, trang phục ngày càng có sự biến đổi rõ nét hơn, đa dạng và làm phong phú

thêm thời trang nước nhà.

Tục trưng mai và thưởng đào là đặc trưng 2 miền Nam Bắc, trang hoàng

nhà cửa, dùng cái đẹp tự nhiên để xua đuổi những điều xấu. Ngoài ra ta còn dán

giấy đỏ, chữ viết của ông đồ, trang trí những gam màu nổi bật, màu của sự may

mắn và màu của sự sống, là bình an, hạnh phúc.

Dù thành thị hay nông thôn, “đói cả năm no 3 ngày Tết”, giàu sang hay

nghèo khó thì mâm cơm Tết sẽ không thể thiếu. Mâm cỗ luôn được bày biện cho

đẹp mắt với những sắc màu rực rỡ. Được đặt trước ban thờ gia tiên hòa cùng ánh

đèn lung linh, ánh lên tình yêu thương kính trọng của con cháu dành cho ông bà

cha mẹ!

2.2.2. Nhưng bất cập trong Tết cổ truyền ở Hà Nội

Bên cạnh những nét văn hóa mang đậm tính nhân văn nâng cao đời sống

tinh thần – tín ngưỡng thì Tết Việt đang phải đứng trước những tồn tại cần khắc

phục.

- Do nhu cầu dịp Tết tăng cao, cầu lớn hơn cung nên không chỉ riêng ở Hà

Nội, giá thành chắc chắn sẽ có sự biến động. Các sản phẩm phục vụ dịp Tết được

sản xuất có giới hạn và chỉ phục vụ trong dịp Tết: mứt Tết, hoa Tết (đào, mai,

quất,...), các mặt hàng thực phẩm,... nên giá cả có sự tăng đột biến.

- Các công ty nước ngoài trên địa phận Hà Nội cho công nhân nghỉ Tết theo

quy định của Nhà nước nên công việc tạm thời bị ngưng trệ: hoạt động sản xuất

cầm chừng, tất cả các sản phẩm, các mặt hàng xuất khẩu bị chậm hơn dự kiến,

làm gián đoạn thời gian vận chuyển.

- Hà Nội là nơi tứ xứ đổ về, từ mọi miền tổ quốc quy tụ, nên với Tết Nguyên

Đán, đây là dịp nghỉ Lễ lớn nhất trong năm, lượng người về quê và du lịch tăng

cao trong khi đó cơ sở hạ tầng ở Hà Nội cũng không đủ đáp ứng nhu cầu gây ùn

tắc giao thông.

- Thời gian nghỉ Tết kéo dài nên nhiều người lao động có xu hướng ăn chơi

quá đà, nhậu nhẹt xuyên Tết gây ra những mặt tiêu cực không đáng có ảnh hưởng 54

đến xã hội.

- Hóa vàng là nghi lễ dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có từ lâu đời.

Quan niệm Dương sao Âm vậy đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của người

dân ở Hà Nội. Tuy nhiên, nghi thức hóa vàng đang dần bị lam dụng. Ở nhiều nơi,

việc đốt vàng mã đang bị thực hiện một cách thái quá vì người ta cho rằng dâng

cúng càng nhiều thì càng được thánh thần hay người âm phù hộ. Thực chất, đây

chỉ là sự “phô trương” với người trần, hơn thế nữa là để thỏa mãn thói thường

“con gà tức nhau tiếng gáy”. Nhiều gia đình đốt hàng chồng vàng mã như giấy

vàng, giấy bạc, vàng thoi tiền cùng quần áo, giày dép, nhà cửa, xe..., thậm chí có

người còn gửi người hầu, tỳ thiếp... có giá trị hàng trăm nghìn đồng cho người cõi

âm, dẫn đến sự lãng phí tiền của một cách không cần thiết, gây ô nhiễm môi

trường, điều này đáng phê phán.

- Các mặt hàng bán chuyên về tâm linh như: sách tử vi, tướng số, vạn sự

lịch được bày bán với những câu từ chèo kéo khách, lợi dụng lòng tin dân tình để

chuộc lợi. Điển hình như tại các điểm để người dân xuất hành đầu năm: chùa Trấn

Quốc, phủ Tây Hồ,...

- Dịch vụ bói toán, gieo quẻ, hóa quẻ, giải hạn bùng nổ làm ảnh hưởng mà

mất mát nhiều tài sản, tiền của của dân.

- Các biến thể lì xì làm mất đi nét đẹp đơn thuần ban đầu. Những phong

bao dày cộp vật chất, thang đo bằng tiền làm lu mờ tình cảm, bị biến tướng, không

còn trong sáng như xưa. Chọn ngày Tết để dễ dàng chấp nhận hơn,...

- Các tệ nạn (cờ bạc, cá độ, quay số trúng thưởng,...) xảy ra trong các dịp

Lễ, hội đầu năm làm xấu đi hình ảnh vốn có của Lễ Tết cổ truyền.

Tiểu kết chương 2

Ở chương 2 tác giả đã làm rõ một cách chi tiết về các luật tục Tết cổ truyền

của người dân ở Hà Nội, hệ thống lại một cách ngắn gọn, khoa học giúp ta có thể

hiểu rõ hơn những giai đoạn mà Tết đi qua và những luật tục mang đậm các giá

trị, từ đó có thể hiểu hơn về Văn hóa, những mỹ tục, những đạo lý thấm nhuần tư

tưởng Uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Bên cạnh đó còn

bàn luận về những vấn đề có liên quan: những giá trị của Tết cổ truyền mang lại, 55

nêu ra những bất cập, những tồn tại bên lề Tết Nguyên Đán, từ đó ta đi vào chương

cuối với những biến đổi giữa xưa và nay, đưa ra những giải pháp để khai thác du

lịch trong dịp lễ Tết cổ truyền Việt Nam.

56

Chương 3

NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ TÍN NGƯỠNG TRONG TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT

NAM Ở HÀ NỘI VÀ KHAI THÁC DU LỊCH TRONG DỊP TẾT CỔ

TRUYỀN

3.1. Những biến đổi về tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam ở Hà Nội

3.1.1. Biến đổi về quan niệm “Tết”của người Hà Nội

Quan niệm ngày Tết đối với người dân Việt Nam nói chung và người Hà

Nội nói riêng đều mang một ý nghĩa thiêng liêng, sâu sắc. Họ cho rằng, một năm

ăn nên làm ra hay thất bại, vui hay buồn, may mắn hay xúi quẩy phụ thuộc rất

nhiều vào dịp Tết Nguyên Đán. Bởi vậy, chẳng ai coi nhẹ việc “ăn Tết”.

Quanh năm suốt tháng, mọi người đều phải lo làm ăn để kiếm sống, cho

nên dù cách xa đến mấy, họ cũng cố gắng trở về để cùng đón Tết với người thân.

Nhà văn Băng Sơn cho rằng: “Tết là dịp dành cho sự sum họp gia đình. Mấy ngày

đầu năm mới ít ai đi ăn cơm khách, trừ thăm viếng, xông nhà, chúc Tết. Đêm giao

thừa người Hà Nội có tục lệ đi chơi xuân hái lộc. Toàn là thú chơi, niềm vui không

cần đến bát đĩa”.

Những ngày sát Tết, mỗi gia đình sẽ dọn dẹp nhà cửa, lau chùi sạch sẽ, bao

xái bàn thờ. Nhưng hơn hết đó là cái không khí rạo rực chờ đón của tất cả mọi

người. Các mẹ, các chị thì lo việc bếp núc, cỗ bàn, còn những người đàn ông, con

trai thì lo quét dọn nhà cửa, vườn tược, bàn thờ gia tiên cho trang nghiêm, sạch

đẹp. Từ ngày 23 Tết các gia đình làm cơm tiễn ông Táo về trời. Đến đêm Giao

Thừa phải có mâm cúng ông bà, rước ông bà về đón Tết. Xong rồi sau Tết lại tiễn

ông bà đi.

Ngày thường, rất hiếm khi tất cả các thành viên trong gia đình, dòng họ có

mặt đông đủ. Chỉ có ngày Tết mọi người trong gia đình mới có cơ hội để quây

quần bên nhau, cùng ăn cơm với nhau và cùng nhau hàn huyên tâm sự. Do vậy,

ngày Tết là ngày của sự đoàn tụ, là ngày để mọi người trở về với gia đình của

mình. Từ rất xa xưa, người Việt chúng ta đã biết thờ cúng ông bà, tổ tiên của

mình. Dù có nghèo khó đến mấy, mọi gia đình đều cố gắng sắm sửa một vài mâm

cổ để cúng ông bà, tổ tiên, mời ông bà tổ tiên cùng về đón Tết với con cháu. Việc 57

làm này đã tác động sâu sắc vào tâm thức của những người con đất Việt, nhắc nhở

mọi người nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà, cha mẹ, làm cho

lòng hiếu thảo trong mỗi người con được tiếp thêm sức mạnh, được nuôi lớn

không ngừng, trọng hiếu kính đạo, sống theo hiếu uống nước nhớ nguồn của dân

tộc ta.

Quan niệm về Tết trong thời kỳ hiện đại cũng có nhiều biến đổi cả về mặt

khái niệm lẫn hành vi. Bây giờ người ta quan niệm là “nghỉ Tết”, “chơi Tết” chứ

không còn là “ăn Tết”. Khi cái ăn, cái mặc không còn là vấn đề quan trọng trong

ngày Tết thì người ta hướng đến tinh thần nhiều hơn.

Đối với nhiều người hiện nay, Tết không hẳn là dịp trở về quê, hay ăn Tết

tại gia mà họ dành những ngày cuối năm để trở về nhà thăm ông bà cha mẹ mà

rồi sau đó thực hiện những chuyến đi ngắn: đi du lịch, đi nghỉ trong nước và ngoài

nước, khám phá những vùng đất mới, đi lễ cầu may, đi thăm bè bạn nơi xa… Xu

thế ăn Tết ở Hà Nội ngày nay, người dân không còn ăn Tết tại nhà nữa mà sẽ đi

du lịch, đi vào các tỉnh có khí hậu ấm hơn để thưởng Tết, như: Nha Trang, Khánh

Hòa, Phú Quốc,... để tránh cái rét đầu xuân, tặng cho bản thân thời gian được ngơi

nghỉ sau những tháng ngày mệt mỏi làm việc.

Đối với khách du lịch ở nước ngoài, người ta chọn Sapa làm điểm đến tại

không khí rất lạnh, họ quen với khí hậu ở nước ngoài. Dần dần cách thức ăn Tết

dần đổi khác.

Theo giáo sư Lê Văn Lan (chuyên gia nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc

tại Hà Nội): “Hiện nay người ta đang quên dần các phong tục ngày Tết và không

hiểu được hết các ý nghĩa tinh thần của việc đón Tết. Hỏi sự tích về ông Công,

ông Táo thì chẳng mấy người bây giờ biết nữa. Thậm chí họ còn biết lệch đi, biết

những biến tướng. Nếu hỏi về đêm Giao thừa. Thế nào là Giao thừa, thế nào là

Trừ tịch. Cũng chẳng mấy ai biết nữa”. [3]

Nếu như cái Tết cổ truyền của Hà Nội xưa thiên về những nghi thức, lòng

thành kính hướng đến nguồn cội tổ tiên, ông bà, thì bây giờ đó là một cái biến

58

tướng thiên về vật chất hưởng thụ, mà quên mất những ý nghĩa thiêng liêng sâu

xa, những giá trị tinh thần của ngày Tết phần nào đó được thể hiện rõ nét qua cách

chơi Tết của người Hà Nội khu vực Phố cổ.

3.1.2. Những biến đổi trong tín ngưỡng của Tết cổ truyền ở Hà Nội

Cùng với quá trình phát triển kinh tế của đất nước, những nét văn hoá truyền

thống của Việt Nam cũng đang dần bị ảnh hưởng và mai một bởi yếu tố ngoại lai.

Ngày nay nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên, có thể đáp ứng ngay không cần

phải đợi đến ngày Tết, chính vì vậy, ngày Tết không cần thiết phải có đủ: “Thịt

mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Hơn nữa,

những ngày lễ trên Thế giới đang dần đi vào cuộc sống của mỗi người dân, đặc

biệt là giới trẻ. Họ dường như ngày càng thích thú hơn với các ngày Tết Dương

Lịch, lễ Giáng Sinh, Lễ Tình yêu hơn là những ngày Tết truyền thống.

Văn hóa không bao giờ bất biến. Nó luôn luôn phải được thay đổi cho phù

hợp với thời đại, với trào lưu thế giới. Thời đại hội nhập đã đến, chúng ta không

còn quẩn quanh với cái quá cũ, nhưng có một điều cần suy xét cho thấu đáo, không

nên phá vỡ truyền thống nếu không cần thiết. Nhất là khi Tết là dịp các thể hiện

các phong tục cổ truyền, ví dụ như mâm cỗ Tết cổ truyền của người dân Hà Nội.

Tục gói bánh chưng bánh dày:

Chiếc bánh chưng không chỉ nhắc nhở mỗi người về một món ăn mang đậm

biểu trưng văn hóa của dân tộc, mà còn khiến cho mỗi người dân đất Việt tự hào

hơn, trân quý hơn một sản vật linh thiêng ngày Tết. Nó được xem như là biểu

tượng của Tết, là hiện diện cho đất nước có nền nông nghiệp lâu đời, là một tín

ngưỡng của dân tộc ta – tín ngưỡng phồn thực, ta có thể biết đến qua truyền thuyết

“bánh chưng bánh dày”. Chiếc bánh chưng là sự kết hợp một cách đầy ăn ý với

những nông sản hết sức thân thuộc như gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để

tạo ra hai loại bánh: bánh chưng và bánh dày-tượng trưng cho Trời và Đất-làm lễ

vật dâng vua cha.

Từ đó, việc thờ cúng bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán phản ánh được

nhiều bình diện cuộc sống. Chiếc bánh chưng không chỉ nhắc nhở mỗi người về

một món ăn mang đậm biểu trưng văn hóa của dân tộc, mà còn khiến cho mỗi

người dân đất Việt tự hào hơn, trân quý hơn một sản vật linh thiêng của ngày Tết 59

sum họp, như hồn của Tết Việt trường tồn mãi với thời gian. Dần dần, tục gói

bánh chưng đang dần lãng quên bởi những cuồng quay cuộc sống, ta lao đầu vào

công việc và không có thời gian ngơi nghỉ. Lúc chuẩn bị thì đã gần đến giao thừa,

họ sẽ chọn cách đi mua những chiếc bánh chưng được bày bán sẵn để không mất

thời gian và công sức. Tục gói bánh chưng bánh dày dần dần chỉ còn tổn tại ở một

vài gia đình, ông bà chú bác có thời gian và họ yêu cái mỹ tục đó.

Tục xin chữ ngày Tết:

Tục xin chữ – cho chữ truyền thống bị lãng quên gần hết thế kỷ XX. Sau

năm 1954, do quan niệm tục xin chữ đầu xuân và viết chữ Nho bị cho là tàn dư

của chế độ phong kiến nên người biết chữ Nho không ai dám viết và người dân

cũng không dám xin chữ. Một tục văn hóa đẹp gần như bị lãng quên. Bởi Nho học

như là một cản trở cho công cuộc Tây hóa và kinh dinh đất nước. Những ông đồ

cho chữ, những người xin chữ vắng đi khắp nơi từ thị thành đến thôn quê. Cứ

tưởng tập tục này sẽ bị chôn vùi không có cơ may tái xuất hiện trong đời sống

đương đại.

Nhưng thời gian trôi qua, tục xin chữ đang dần quay trở lại. Người ta dần

phát hiện ra những điều đẹp đẽ trong phong tục này. Ai cũng mong muốn có được

nhiều con chữ hơn để lập nghiệp khi vào đời. Nhưng cách thức đang dần đổi khác

đi, người ta không còn ra chợ chữ để xin chữ đầu năm mà ngược lại người ta sẽ

mua những tờ giấy đỏ có in bằng mực máy.

Tục xin xăm, xin quẻ đầu năm:

Ngày xưa, mỹ tục này được coi là một trong những nét đẹp không thể thiếu

được trong dịp Lễ, Hội của “tháng Giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng ngày nay, việc

quá tin vào thế giới tâm linh nên một bộ phận lớn người dân khi vào Lễ, Chùa,

Đình, Hội thì tục này đã dần biến tướng thành hành động mất kiểm soát, sẵn sàng

làm bằng mọi giá để giành cho mình một lá bùa, ấn may mắn đầu năm.

Hoặc người ta đã không còn tin vào những phong tục này, sẽ chỉ ở nhà

thưởng Tết để tránh chen chúc xô bồ.

Việc rút thẻ đầu năm bên cạnh những điểm tích cực cũng có những quẻ thẻ

không hoàn toàn đúng bởi ý nghĩa của các quẻ thẻ không rõ ràng, câu chữ diễn 60

đạt không chuẩn. Do đó đã tạo tâm lý bi quan, chán nản cho người đi rút thẻ trong

một thời gian dài.

Nhiều người làm nghề giải thẻ nhưng không am hiểu sâu sắc quẻ thẻ đã có

ý hiểu lệch, hiểu quá đi ý nghĩa của thẻ. Khi giải thẻ cho người dân, họ gieo cho

người đi xin thẻ một hy vọng quá lớn vào điều nó không bao giờ xảy ra hoặc quá

hoang mang về một điều xấu.

Rút quẻ đầu năm cũng giống như việc người dân đi xin lộc đầu năm. Do

đó, người dân không nên tin tưởng quá vào nội dung trong quẻ thẻ. Người dân rút

được quẻ thẻ với nội dung tốt hay xấu thì cũng nên vui vẻ, lạc quan để phấn đấu

cho một năm mới tốt lành.

Những nét văn hóa đặc sắc của Tết cổ truyền người Việt nằm sâu ở tầng

giá trị, mà giá trị của Tết truyền thống không phải ở hình thức. Trải qua bao biến

thiên của thời đại, đến nay, Tết Việt đã có nhiều thay đổi. Những thay đổi đó cũng

tác động đến suy nghĩ và nhận thức của các thế hệ sau này. Giữ gìn nét đẹp văn

hóa của Tết cổ truyền Việt Nam là trách nhiệm không của riêng ai. Bởi vậy, mỗi

công dân dù đang sinh sống trên đất nước mình, hay học tập, công tác và định cư

ở nước ngoài cần bảo tồn và phát huy những nét truyền thống văn hóa của Tết

Việt. Đồng thời cũng cần phê phán, đấu tranh loại bỏ những hủ tục lạc hậu trong

trong dịp Tết Nguyên đán, như: Hoạt động mê tín dị đoan; nạn cờ bạc, rượu chè;

các lễ hội phản cảm, tốn kém; các hiện tượng gây mất trật tự an ninh, an toàn xã

hội.

Mâm cỗ:

Trước kia, nói đến Tết là nói đến sự háo hức của trẻ nhỏ và tất bật của người

lớn lo chuẩn bị mâm cỗ cúng ông bà tổ tiên, mua mới đồ dùng sinh hoạt, cũng

như lên kế hoạch đi chơi dịp Tết. Trong tâm trí nhiều người già, mâm cỗ ngày Tết

phải chuẩn bị cả tháng trước đó. Nhưng thời đại bây giờ, cái gì cũng sẵn ngoài

chợ cái gì cũng sẵn nên không còn tâm lý tích trữ lương thực vào dịp Tết.

Bên cạnh đó cũng có rất nhiều phong tục đang dần mai một, ví dụ như tắm

tất niên bằng nước lá mùi già hoặc hương nhu. Cuộc sống hiện đại ngày nay với

bộn bề công việc, cùng với sự tiện lợi của rất nhiều sản phẩm dầu gội, sữa tắm, 61

nên không phải gia đình nào cũng sẽ đun một nồi nước mùi già, lá thơm trong

ngày 30 Tết để cả nhà tắm rửa.

Tống Cựu Nghinh Tân:

Những ngày cuối năm, người Việt có phong tục quét dọn nhà cửa sạch sẽ,

mua sắm đồ dùng, quần áo mới. Thay vì tự dọn dẹp thì người ta sẽ đi thuê dịch vụ dọn nhà trọn gói, tùy theo yêu cầu của từng gia đình.

Ngày Tết cũng có tục kiêng hót rác đổ đi, chỉ vun vào một góc, đợi vài ba

hôm mới đem đi đổ, với quan niệm quét nhà, hót rác ngày đầu năm mới là quét

hết tài lộc ra khỏi nhà. Cuộc sống hiện đại với nhiều sản phẩm robot quét nhà,

máy hút bụi,... Ít nhiều gia đình đã thay đổi thói quen này.

Đốt pháo đêm giao thừa:

Đốt pháo đêm giao thừa đến nay cũng không còn nữa. Người xưa đốt pháo

để trừ ma quỷ; tiếng pháo cũng được quan niệm tượng trưng cho tiếng sấm, liên

quan đến tín ngưỡng cầu mưa của nhóm cư dân làm nông nghiệp lúa nước, báo

hiệu cho một năm vụ mùa bội thu. Ngày xuân tiếng pháo cũng làm cho Tết thêm

vui, nhộn nhịp. Theo quy định của nhà nước ngày nay, để đảm bảo cho an toàn

của mỗi người dân chúng ta không còn được thấy cảnh đốt những bánh pháo hồng

treo trước cửa để đón chào năm mới. Mỗi người cần nghiêm chỉnh thực hiện theo

quy định để đảm bảo an toàn trong dịp Tết.

Tục hóa vàng:

Dần dần thay đổi ý nghĩa thuở ban đầu, xuất hiện từ quan niệm “Dương sao

Âm vậy”. Nhiều người cho rằng, càng đốt nhiều vàng mã thì càng thể hiện lòng

thành, càng thể hiện lòng thành kính dâng lên tổ tiên. Nhiều năm trở lại đây, việc

đốt các loại tiền vàng mã, đồ mã trong thực hành nghi lễ của người Việt đang có

xu hướng gia tăng và ngày càng khó kiểm soát. Việc lạm dụng vàng mã hiện nay

bộc lộ những vấn đề tiêu cực, làm mất đi giá trị đích thực tốt đẹp của thực hành

tín ngưỡng.

Không chỉ có vậy, một số tục lễ như đốt vàng mã cũng đã được nhiều người

hạn chế và thay đổi để bảo vệ môi trường, tránh lãng phí.

62

Lì xì:

Hay tục lì xì đầu năm cũng ít nhiều thay đổi, xưa kia lì xì chỉ là một số tiền

rất nhỏ để tượng nhưng cho sự may mắn nhưng ngày nay lì xì cũng có nhiều biến

tướng xảy ra, lợi dụng tục lì xì để biếu xén, trao qua đổi lại như món nợ đồng lần.

Bên cạnh đó nhiều người vẫn tìm ra những cách thay đổi để giữ gìn tục lì

xì này, thay vì tặng số tiền lớn người ta có thể tặng sách cho trẻ nhỏ.

Ngày xưa các cụ vẫn có câu: "Tháng Giêng là tháng ăn chơi", thế nhưng

giờ đây trong cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc chơi Tết chỉ được

hạn chế trong một vài ngày nhất định để mọi người nhanh chóng quay trở lại

guồng quay cuộc sống, đảm bảo yêu cầu công việc và năng suất lao động.

Trải qua bao biến thiên của thời đại, đến nay, Tết Việt đã có nhiều thay đổi.

Những thay đổi đó cũng tác động đến suy nghĩ và nhận thức của các thế hệ sau

này. Giữ gìn nét đẹp văn hóa của Tết cổ truyền là trách nhiệm không của riêng ai,

bởi vậy, mỗi người Hà Nội cần bảo tồn và phát huy những nét truyền thống văn

hóa của Tết Việt. Đồng thời cũng cần phê phán, đấu tranh loại bỏ những hủ tục

lạc hậu trong trong dịp Tết.

3.1.3. Biến đổi về mâm cỗ ngày Tết của người Việt ở Hà Nội

Trước đây, kinh tế chưa thực sự phát triển, cuộc sống của người dân còn

nhiều khó khăn. Những bữa cơm thường ngày tương đối đạm bạc. Chính vì vậy,

ngày đầu năm mới, các gia đình cố gắng chuẩn bị mâm cỗ thịnh soạn, gửi gắm

ước nguyện về tương lai no đủ, thịnh vượng hơn.

Các món ăn Tết Hà Nội ngày hôm nay nó luôn luôn đổi thay chẳng theo

một quy luật nào cả. Món ăn Hà Nội ngày nay “vốn là đặc sản từ tứ xứ đem đến.

Nhưng có một điều kiện là nó phải ngon. Ăn ngon mặc đẹp là nét đặc trưng, là

bản sắc, sắc thái riêng của Hà Nội”. Bên cạnh những món ăn truyền thống kể trên,

Hà Nội là nơi quy tụ của hầu hết các sản vật đất nước, những “của ngon vật lạ” từ

miền ngược đến miền xuối, từ miền núi đến miền biển. Nhưng mọi sự hội nhập ở

đây phải trải qua sự khó tính của người dân Thủ đô, để rồi sau đó tạo thành phong

cách ăn uống rất riêng, đậm nét Hà Nội.

Một ví dụ dễ thấy nhất là tục gói bánh chưng ngày Tết. Trước đây cứ đến

dịp Tết nhà nào cũng chuẩn bị gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, lá dong để gói và luộc 63

bánh chưng. Nhớ cảm giác khi còn nhỏ được quây quần với cha mẹ, các thành

viên trong gia đình ngồi trông một nồi bánh chưng đun trên bếp củi. Mùi khói

bếp, mùi lá dong, ,mùi của nồi nước hương mùi già đun ghé bên cạnh nồi bánh

chưng hòa quyện cùng chút hương thơm của khoai lang mật vùi bếp lửa,... là

những hương vị Tết xưa mà ở cuộc sống thành thị ngày nay khó có thể tìm thấy.

Cảm giác háo hức đợi vớt những chiếc bánh chưng nhỏ chín trước mà bố mẹ gói

cho con trẻ đem lại một không khí rất Tết.

Ngày nay, việc gói và dâng cũng vẫn còn đó, nhưng dường như không còn

nguyên vẹn. Ở thành phố, cũng chỉ có số ít gia đình còn giữ lại phong tục gói bánh

chưng, còn đa số gia đình muốn có bánh chưng dâng cúng sẽ đặt những người

chuyên làm bánh chưng hoặc ra chợ mua. Công cụ để nấu chín chiếc bánh chưng

ngày nay cũng có nhiều đổi thay, có nơi, có chỗ đã thay thế bằng nồi áp suất hoặc

lửa ga... Không khí Tết cũng vì thế mà nhạt dần.

Chính vì thế, ở nhiều nơi, mọi người đã vận động, khuyến khích nhau tiếp

tục thực hiện phong tục này để tìm lại hương vị ngày Tết. Thông qua các cuộc thi

gói bánh chưng, không khí Tết phần nào đã trở về với từng góc nhà, ngõ nhỏ.

Bánh chưng gợi nhớ đến Tết hay Tết gợi nhớ đến việc gói bánh chưng? Có lẽ, sự

hòa quyện đó đã trở thành một biểu trưng văn hóa của dân tộc Việt - Bánh chưng

biểu trưng cho Tết.

Bây giờ, đời sống thay đổi, ít ai quan tâm đến việc làm mứt Tết. Ở Hà Nội,

mọi người sẽ dễ dàng bắt gặp các tiệm mứt Tết đa dạng, từ những tiệm truyền

thống có thương hiệu riêng đến những tiệm vỉa hè mứt Tết được bày bán ngập

tràn trong các khay đựng. Thế nhưng, để tìm được tiệm quán có mứt Tết ngon

đúng điệu, sự dung hòa của chua, cay, vị ngọt và nhất là đảm bảo an toàn vệ sinh

như nhà làm lại chẳng hề dễ dàng chút nào. Người Việt Nam không bao giờ từ bỏ

những gì thuộc về truyền thống, và càng ngày người ta càng có xu hướng quay về

với truyền thống. Tuy nhiên, với thời kỳ hội nhập, họ cũng có những sự lựa chọn

mới thuận tiện hơn, sang trọng hơn để tiếp khách ngày Tết. Đó chủ yếu thay bằng

bánh kẹo ngoại nhập, cà phê, nước ngọt, rượu vang…

64

Quan niệm ăn Tết ngày một trôi theo với đời sống hiện đại, nhiều người

cho rằng, do phụ nữ ngày nay cũng tham gia công việc xã hội, không chỉ ở nhà

nội trợ, chăm sóc con cái như trước nên quỹ thời gian cũng eo hẹp đi, chính những

thay đổi này góp phần thay đổi diện mạo những cái Tết cổ truyền và không ai dám

khẳng định chắc chắn rằng bao lâu nữa thì những cái Tết năm xưa còn được lưu

giữ trong mỗi gia đình người Hà Nội.

Quan niệm ăn Tết ngày một trôi theo với đời sống hiện đại, chính những

thay đổi này góp phần thay đổi diện mạo những cái Tết cổ truyền và không ai dám

khẳng định chắc chắn rằng bao lâu nữa thì những cái Tết năm xưa còn được lưu

giữ trong mỗi gia đình người Hà Nội.

3.2. Những thuận lợi và khó khăn của việc đưa Tết Nguyên Đán vào khai

thác du lịch

3.2.1.Những thuận lợi

Nhờ có Lễ Tết cổ truyền mà du lịch có thêm những sản phẩm du lịch rất độc

đáo. Đồng thời du lịch Việt Nam hiện nay xét về bản chất nó là một loại hình du

lịch văn hóa. Vì vậy cần phải biết khai thác, sử dụng các giá trị của văn hóa truyền

thống để phát triển du lịch . Đây là một tiềm năng vô cùng to lớn và là một thế mạnh

của du lịch Việt Nam, bởi không một nước nào có nhiều lễ hội cổ truyền như ở Việt

Nam và không có một nước nào mang dấu ấn bản sắc văn hóa sâu sắc như lễ hội

Việt Nam.

Vào dịp Tết Nguyên Đán người dân được nghỉ Tết dài ngày và tập trung, đây

là điều kiện tất yếu cần phải có để tham gia vào hoạt động du lịch. Ngoài ra, trong

thời gian gần đây xuất hiện không chỉ ở người trẻ tuổi mà còn ở cả người lớn

tuổi có xu hướng chuyển từ “ ăn Tết” sang “chơi Tết”. Do trong năm bận rộn

không có điều kiện đi du lịch cùng gia đình nên họ tranh thủ nghỉ Tết dài ngày để

cùng gia đình đi du lịch. Tất cả những điều kiện trên đã thúc đẩy hoạt động du lịch

Tết phát triển.

Vào dịp Tết Nguyên Đán có nhiều điều kiện để phát triển nhiều loại hình du

lịch để làm nguồn tài nguyên Tết Nguyên Đán của người Việt thêm phong phú, hấp

dẫn, ví dụ như khách du lịch đi tìm hiểu nét sinh hoạt văn hóa ngày Tết của người

Việt ở chợ Tết kết hợp với du lịch mua sắm ở đây. Việt Kiều trong dịp này trở về

65

nước hay một bộ phận khách từ miền Nam ra miền Bắc hay ngược lại. Tết là dịp

nghỉ ngơi giải trí của đại bộ phận người dân bên cạnh đó du khách nước ngoài vào

Việt Nam tham dự Tết cũng muốn tham gia vui chơi giải trí nên phát triển loại

hình vui chơi giải trí. Nhiều lễ hội được tổ chức vào dịp Tết đến Xuân về nên phát

triển loại hình du lịch lễ hội, đường phố vào dịp Tết tưng bừng nhộn nhịp trang hoàng

lộng lẫy. Đặc biệt vào dịp Tết một số cửa hàng siêu thị giảm giá, khuyến mại có thể

phát triển loại hình du lịch City tour ngày Tết kết hợp với du lịch mua sắm.

Tết Nguyên Đán của người Việt là lễ hội lớn nhất diễn ra trên mọi miền của

đất nước do đó tỉnh, thành phố nào cũng có nguồn tài nguyên này thuận lợi cho việc

xây dựng nhiều tour du lịch tới các tỉnh, vùng miền khác nhau làm cho sự lựa chọn

tour của khách thêm phong phú. Từ đó đáp ứng được nhu cầu của du khách.

Ngoài ra Tết Nguyên Đán là nguồn tài nguyên du lịch phong phú nó bao gồm nhiều

yếu tố khác nhau như: chợ hoa ngày Tết, chợ Tết , ẩm thực, các nghi lễ, phong tục

ngày Tết, các hoạt động vui Xuân của nhân dân, cách người chuẩn bị Tết và ăn Tết

như thế nào. Do đó dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên này có thể xây dựng ra rất

nhiều sản phẩm du lịch Tết đáp ứng được nhiều mục đích cho nhiều đối tượng khách

như khách đi thưởng hoa thì xây dựng các tour gắn với chợ hoa, du khách đi hưởng

bầu không khí Tết thì xây dựng các tour du lịch tới các miền của đất nước…

3.2.2. Những khó khăn

Khó khăn lớn nhất của việc khai thác Tết Nguyên Đán trong kinh doanh du lịch

là Tết Nguyên Đán chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Do đó nó có thời vụ du lịch ngắn.

Điều đó làm cho nhu cầu du lịch tập trung lớn vào thời điểm này, nhất là 29 Tết đến

Mồng 3 Tết gây ra sự quá tải các điểm du lịch trong nước, tại các công ty du lịch

nhất là tại các công ty lữ hành có uy tín lượng khách du lịch đông khiến cho các công

ty không đáp ứng nổi đã phải từ chối nhận thêm khách gây lãng phí nguồn khách du

lịch. Do sự tập trung lớn vào thời điểm này khiến cho các công ty phải tăng công suất

sử dụng phương tiện như ô tô lên cao hơn, diện tích dành cho du khách bị

giảm….Điều đó dẫn tới giảm chất lượng du lịch. Mặt khác sự tập trung đông khách

cũng làm cho các đơn vị kinh doanh du lịch khó có thể đảm bảo tốt được chất lượng

phục vụ.

Vào dịp Tết Nguyên Đán khách tham gia du lịch thuộc nhiều ngành nghề và

66

lứa tuổi khác nhau do đó có những sở thích và nhu cầu khác nhau, đa dạng nên khó

có thể đáp ứng tốt các nhu cầu của tất cả các khách du lịch.

Vào dịp Tết đặc biệt trong những năm gần đây giá thực phẩm, giá xăng dầu…

thường tăng cao. Điều đó dẫn đến giá tour du lịch cũng tăng cao đã làm ảnh hưởng

tới lượng khách du lịch tham gia vào các tour. Mặt khác giá tour du lịch nội địa Tết

tăng cao làm cho khả năng cạnh tranh với các tour du lịch của các nước khác trong

khu vực thấp. Từ đó dẫn đến lượng khách nước ngoài vào Việt Nam giảm.

Mặt khác không phải ai cũng hiểu được Tết Nguyên Đán là một tài nguyên có

giá trị. Và không phải ai cũng hiểu hết được giá trị truyền thống của Tết Nguyên Đán

để mà đi sâu tìm hiểu và khám phá nó. Điều đó đã gây lãng phí nguồn tài nguyên

quý báu này.

Bên cạnh những hiệu quả đạt được thì việc khai thác tài nguyên tết nguyên đán

vào phục vụ nhu cầu du lịch còn nhiều mặt hạn chế như:

Chưa khai thác hết tiềm năng của Tết Nguyên Đán mặc dù đây là nguồn tài

nguyên nhân văn phong phú và to lớn. Mặc dù các sản phẩm văn hóa như: tranh dân

gian, câu đối, những bức thư pháp có thể đưa vào bày bán để làm quà lưu niệm cho

du khách nhưng hầu như lại không được bày bán tại các điểm du lịch, các khách sạn,

các trò chơi dân gian trong dịp tết cũng ít được đưa vào trong các tour du lịch Tết,

các phiên chợ tết chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu nét sinh hoạt văn hóa của du

khách. Bên cạnh đó nhiều khu vui chơi giải trí vẫn chưa đưa các yếu tố văn hóa ngày

Tết vào việc khai thác và phục vụ du lịch. Các công ty du lịch cũng chưa thực sự đưa

yếu tố văn hóa Tết vào các chương trình du lịch của mình, chưa xây dựng được các

tour du lịch ăn Tết cùng người dân.

Các chương trình quảng cáo về Tết Nguyên Đán của người Việt chưa thực sự

sâu đậm, chủ yếu các công ty du lịch chỉ đưa ra các tour du lịch khuyến mãi trong

dịp tết, các khách sạn thì quảng cáo về ẩm thực ngày tết và tiện nghi, các khu vui

chơi giải trí, các điểm đến du lịch mới chỉ đưa ra các chương trình hoạt động ngày

tết. Nhưng chưa thực sự chú trọng quảng bá giá trị văn hóa, các phong tục tập quán

ngày tết cổ truyền.

Tình trạng quá tải tại các công ty du lịch, các khách sạn, các điểm đến du lịch,

đặc biệt là các tỉnh phía Bắc luôn diễn ra trong các dịp Tết. Điều đó làm cho chất 67

lượng phục vụ không được đảm bảo, không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch.

Lượng khách tập trung quá đông trong dịp tết khiến cho các công ty du lịch không

đáp ứng được phải từ chối đơn đặt hàng của khách gây lãng phí nguồn khách. Tại

các khách sạn, nhà hàng do lượng khách quá đông đã không đảm bảo an toàn vệ sinh

thực phẩm, không đảm bảo được an ninh cho du khách.

Các công ty du lịch, các khách sạn nhà hàng chưa chủ động được mức giá làm

cho giá cả tăng lên. Các giá tua nội địa lên cao đã làm cho lượng khách tham gia các

tua du lịch không cao đặc biệt là lượng khách quốc tế.

Thời gian nghỉ tết không kéo dài, thời vụ khai thác tết nguyên đán trong kinh

doanh du lịch ngắn. Các công ty du lịch, các khách sạn, các nhà hàng, các điểm đến

du lịch chỉ tập trung khai thác từ 28 đến mùng bốn tết. Điều này gây lãng phí tài

nguyên và là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng quá tải trong dịp tết.

Vì lợi ích kinh tế mà các chương trình hoạt động Tết đã bị thương mại hóa, các

hoạt động văn hóa truyền thống ngày tết được trình diễn một cách thiếu tự nhiên, gây

nên sự nhàm chán cho du khách. Các giá trị truyền thống dần bị lu mờ do bị lạm

dụng bởi mục đích kinh tế. Nhiều điểm đến du lịch do lượng khách quá đông trong

dịp tết đã xảy ra tình trạng bắt chẹt khách, an ninh không được đảm bảo, thằng nhái,

hàng giả, được bày bán khắp nơi mà không có sự quản lý,...

3.3. Một số giải pháp để khai thác tài nguyên Tết Nguyên Đán trong du lịch

3.3.1. Khai thác tài nguyên tĩnh

Lễ hội Tết Nguyên Đán là một sinh hoạt văn hoá tổng hợp bao gồm các mặt

tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hoá nghệ thuật, linh thiêng và đời

thường.

Với không gian văn hóa rộng lớn ấy của Tết cổ truyền dân tộc, ngành du lịch

phải có kế hoạch khai thác hợp lý nhằm phát huy hết giá trị của nó. Cần có kế

hoạch đưa ra chiến lược Marketing hợp lý và chương trình quảng bá trên khắp mọi

miền đất nước. Đây là một công việc quan trọng và thông qua việc quảng bá giới

thiệu về Tết Cổ truyền của người Việt du khách sẽ có những hiểu biết rõ nét về những

nét văn hóa đặc sắc của ngày Tết. Thông qua đó du khách sẽ có cái nhìn tích cực

về nguồn tài nguyên này và mong muốn được tham gia du lịch để tìm hiểu về ngày

Tết ở Việt Nam. Quảng cáo chính là một công cụ để du lịch Tết của Việt Nam cạnh 68

tranh và xây dựng hình ảnh của mình trong tâm trí du khách đặc biệt là du khách

nước ngoài. Vì vào thời điểm này một số nước cũng diễn ra Tết Nguyên Đán như

Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…

Cần sử dụng các phương tiện quảng cáo như: tờ gấp, báo chí, tạp chí và một công

cụ hiệu quả nhất là Internet. Cần giới thiệu về tết Nguyên Đán của người Việt

một cách chi tiết cụ thể làm nổi rõ những nét độc đáo và đặc sắc nhất của ngày Tết

để tạo ra ấn tượng sâu đậm cho du khách đặc biệt là khách nước ngoài

Một phương tiện quảng bá hữu hiệu đó là chính bản thân mỗi du khách, bởi họ

là những người trực tiếp tham gia du lịch thì họ có cảm nhận sâu sắc nhất và sự

giới thiệu của họ sẽ đem lại nhiều niềm tin cho người khác

Các công ty du lich, các khách sạn nhà hàng, các điểm vui chơi giải trí tham gia

khai thác Tết Nguyên Đán nên tập trung phối hợp lại dưới sự chỉ đạo của ngành du

lịch mà cụ thể là ngành du lịch để tổ chức các chương trình quảng bá về du lịch Tết

của người Việt.

Không gian phần “Lễ” với ý nghĩa văn hóa tâm linh truyền thống, không gian

phần hội để mọi người được tham gia, vui chơi, giải trí, thưởng thức các di sản văn

hóa dân gian kể cả ẩm thực.

- Không gian linh thiêng của phần lễ : bao gồm một loạt các nghi thức như: lễ cúng

ông công ông Táo, lễ cúng tất niên, lễ tảo mộ, tống cựu nghênh tân, lễ cúng giao

thừa,…. Không gian linh thiêng của phần lễ Tết diễn ra ở mọi gia đình, ở đình,

đền, chùa - ở các thành phố lớn, các trung tâm đô thị, trung tâm hành chính văn

hóa….Với mục đích hướng về cội nguồn thể hiện tấm lòng tri ân đối với ông bà

tổ tiên. Phần lễ giữ vai trò quan trọng, là hạt nhân của lễ hội, được tổ chức long

trọng cầu kì.

Không gian linh thiêng của phần Lễ diễn ra theo một tôn ty trật tự trang nghiêm tôn

kính. Du lịch cần phải giới thiệu một cách tỉ mỉ, đưa du khách về tham gia các nghi

lễ đón Tết của người dân. Như thế mới tạo ra sự hấp dẫn đặc biệt cho du khách,

thông qua sự giới thiệu của hướng dẫn viên du khách sẽ hiểu hơn và cảm thấy thích

thú hơn.

Đối với lễ hội Tết Nguyên Đán phần Lễ giữ vai trò quan trọng và kéo dài

từ 23 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng. Chỉ riêng phần lễ cũng đủ làm nên sức 69

hấp dẫn cho du khách, nên xây dựng các chương trình đưa du khách, đặc biệt là

khách nước ngoài cùng tham gia nghi thức đón Tết cùng gia đình người Việt. Để cho

khách trực tiếp chứng kiến các nghi lễ đón Tết cổ truyền thì họ mới cảm thấy được

cái không khí thực sự của ngày Tết như đưa du khách cùng tham gia nghi thức đón

giao thừa. Đây là nghi thức quan trọng và được chuẩn bị rất kỹ lưỡng trong giờ phút

thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Giao Thừa - là giây phút thiêng

liêng nhất, là đúng 12 giờ đêm của ngày cuối cùng trong năm. Khi màn đêm buông

xuống, mọi con mắt đều chốc chốc lại hướng nhìn về phía đồng hồ để chờ đợi

giao thừa. Chuông nhà thờ đổ dồn dã, tiếng chuông đại hồng bên chùa ngân vang,

tiếng trống đình làng vang vọng, tất cả nhộn nhịp báo tin năm mới vừa đến. Giây

phút này năm cũ trao ủy nhiệm cuộc sống qua năm mới. Tặng phẩm đất trời được

trao truyền sang thế hệ mới.

Trước khi trời tối, bàn thờ cúng trời đất để sẵn ngoài lộ thiên và bàn thờ cúng

tổ tiên ở trong nhà đã được bầy biện sẵn. Phút giao thừa, người gia chủ mặc quần áo

tề chỉnh, thắp hương, hai tay chắp trước ngực khấn lễ mời hương linh ông bà, tổ

tiên về ăn Tết với gia đình và phù hộ cho gia đình con cháu gặp mọi điều tốt đẹp,

may mắn trong năm mới.

Tiếng pháo giao thừa nổ ran mọi nơi, trẻ con reo hò, tiếng nhạc mừng xuân

vang lừng báo hiệu phút giây thiêng liêng mầu nhiệm đã đến với tràn trề niềm vui

thịnh vượng.

Nhiều gia đình đi chùa lễ Phật đêm giao thừa, theo truyền thống họ thường hái

lộc, mang về nhà những nhánh cây có lá non nụ mới, như xin Phật được sự tươi mát

cùng phước lành mang về nhà.

Ngoài không gian linh thiêng trong phần lễ của Tết Cổ Truyền thì trong tháng

giêng âm lịch Việt Nam còn có nhiều lễ hội khác mà phần lễ cũng khá quan trọng

và được du khách lựa chọn để xuất hành đầu năm cầu phước lộc cho gia đình như:

Lễ hội khai ấn tại đền Trần Nam Định, Lễ hội Yên Tử, Lễ hội Phủ Giầy, Lễ hội

Tây Sơn Bình Định,...

- Không gian nhộn nhịp của phần hội: Phần hội tổ chức vui chơi giải trí, biểu diễn

văn hóa nghệ thuật. Yếu tố nuôi dưỡng lễ hội là kinh tế- xã hội và tự nhiên, nội

dung của phần hội không chỉ giữ nguyên những giá trị văn hóa truyền thống mà 70

luôn có xu hướng bổ sung thêm những thành tố văn hóa mới. Phần hội với các

trò chơi dân gian hấp dẫn du khách tham gia rất nhiệt tình như: Đánh đu, đấu vật,

chọi gà, cờ người, thi nấu ăn, thi sắp mâm ngũ quả, bắt chạch trong

chum…Trong dịp này nhiều lễ hội truyền thống cũng được tổ chức để phục

vụ nhu cầu vui chơi giải trí của du khách. Giá trị văn hóa truyền thống mà luôn

có xu hướng bổ sung thêm những thành tố văn hóa mới. Phần hội với các trò

chơi dân gian hấp dẫn du khách tham gia rất nhiệt tình như: Đánh đu, đấu vật,

chọi gà, cờ người, thi nấu ăn, thi sắp mâm ngũ quả, bắt chạch trong

chum…Trong dịp này nhiều lễ hội truyền thống cũng được tổ chức để phục

vụ nhu cầu vui chơi giải trí của du khách.

3.3.2. Khai thác tài nguyên động

Vào ngày đầu xuân người ta thường đi chơi nhiều hơn mức bình thường, kẻ đi

xa, người đi gần, trang phục lộng lẫy, hân hoan phấn khởi làm cho không khí đầu

xuân thêm rạo rực. Có lẽ ai cũng muốn dành ít thời gian để vãn cảnh thiên nhiên

đất trời, tận hưởng không khí trong lành với mùa xuân tươi đẹp. Đây là dịp các

công ty du lịch, các điểm vui chơi giải trí, các khách sạn nhà hàng thu hút được một

lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước. Vào dịp Tết mọi người được nghỉ

thời gian dài, vì thế mà người ta dành nhiều thời gian cho việc đi chơi.

3.3.3.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên Tết Nguyên Đán

trong du lịch

3.3.3.1. Cần có những nghiên cứu khoa học tổng thể về lễ hội Tết Nguyên Đán

Để có thể khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên Tết Nguyên Đán

thì cần có một nghiên cứu khoa học và tổng thể về lễ hội truyền thống Tết Nguyên

Đán. Trong đó phải chỉ ra giá trị tích cực của lễ hội. Phải chỉ ra đâu là tín ngưỡng

dân gian, đâu là mê tín dị đoan, đâu là những giá trị vốn có…. Phải đặt nó trong

chính cuộc sống hôm nay. Cần nghiên cứu đánh giá xem lễ hội Tết Nguyên Đán

đáp ứng nhu cầu gì cho xã hội đương đại và xã hội tương lai, sức bền vững của

nó đến đâu, có phải là nguồn tài nguyên vô tận hay không, sức hấp dẫn của lễ hội

trong những yếu tố, hoạt động, lễ thức nào…? Để từ đó người làm du lịch lựa chọn

biến thành sản phẩm du lịch như thế nào? Sản phẩm đó phục vụ cho đối tượng khách

71

nào? Phục vụ vào thời điểm nào cho phù hợp.

Đưa du khách đến với các chương trình du lịch lễ hội nhằm mục đích giới

thiệu với họ về đất nước và con người Việt Nam, giới thiệu các giá trị văn hoá tín

ngưỡng của lễ hội Tết Nguyên Đán cho du khách. Hay nói cách khác là giới thiệu

các giá trị “chìm”, bóc tách các lớp tín ngưỡng văn hoá ẩn tàng sâu trong các trò diễn

của lễ hội.

Tổ chức lễ hội Tết Nguyên Đán nhằm tôn vinh và quảng bá những giá trị văn

hoá truyễn thống của quê hương. Cần hạn chế bớt sự tham gia của diễn viên chuyên

nghiệp trong các hoạt động lễ hội, kịch bản hoá các chương trình dẫn đến các lễ hội

“na ná” nhau thậm chí còn làm biến dạng lễ hội cổ truyền. Du lịch Việt Nam muốn

phát triển được tất yếu phải khai thác và sử dụng các giá trị truyền thống, cách tân

và hiện đại hoá sao cho phù hợp, hiệu quả. Trong đó có kho tàng lễ hội truyền

thống. Đây là một thành tố đặc sắc của văn hoá Việt Nam, cho nên phát triển du

lịch lễ hội chính là sử dụng lợi thế, ưu thế của du lịch Việt Nam trong việc thu hút

và phục phụ khách du lịch. Bởi không một nước nào có nhiều lễ hội cổ truyền như

ở Việt Nam và không có một nước nào mang dấu ấn bẩn sắc văn hoá sâu sắc như lễ

hội Việt Nam.

3.3.3.2. Duy trì bảo tồn và phát triển các phong tục cổ truyền ngày Tết khuyến

khích các hoạt động vui xuân đón Tết của nhân dân

Các phong tục cổ truyền ngày Tết và các hoạt động vui xuân đón Tết của nhân

dân vừa là cơ sở để tạo ra các sản phẩm du lịch vừa là yếu tố thúc đẩy động cơ

đi du lịch của con người.

Bảo tồn các phong tục cổ truyền của Tết Nguyên Đán là nhiệm vụ của mỗi

công dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam và những người Việt Nam định cư ở

nước ngoài. Cần tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của nhân

dân nhất là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước về những giá trị đặc

sắc, những nét văn hoá truyền thống của Tết Nguyên Đán.

Khai thác Tết cổ truyền để phục vụ du lịch thì du lịch cũng phải trả ơn cho

nó. Du lịch phải có vai trò góp phần bảo vệ các giá trị văn hoá, các phong tục tập

quán tốt đẹp trong ngày Tết cổ truyền của người Việt, đồng thời phục vụ cho chính

ngành của mình. Các công ty du lịch cần có kế hoạch nghiên cứu thật kỹ lưỡng thị 72

trường Tết Nguyên Đán để đưa ra các sản phẩm du lịch độc đáo trong dịp Tết. Tổ

chức các tour du lịch ăn Tết tại nhà dân với những nghi thức đón Tết truyền

thống cho du khách tự thẩm nhận và tìm hiểu các phong tục tập quán ngày Tết và

đảm bảo những lợi ích kinh tế cho người dân….

Tăng cường tổ chức các hội chợ ngày xuân, hội hoa xuân, các buổi triển lãm

tranh Tết, tranh dân gian, thư pháp ngày Tết, hay hội chợ tham gia chế biến ẩm

thực ngày Tết… vừa là để làm sống dậy bản sắc truyền thống vừa là để thu hút

khách du lịch tham gia. Nhưng không nên lợi dụng nó biên nó trở thành một sản

phẩm của thời đại kinh tế thị trường.

Tổ chức lễ hội ngày xuân như lễ hội bánh chưng, bánh Tét, tổ chức lễ hội đường hoa

ngày Tết hay lễ hội đường phố ngày Tết bao gồm các yếu tố như ẩm thực, tranh

dân gian, câu đối, thư pháp, hoa được trưng bày và bán hai bên đường phố ….Những

hoạt động như trên vừa có thể phục vụ nhu cầu vui chơi ngày Tết vừa có tác dụng

làm sống dậy những nét văn hoá cổ truyền ngày Tết đã bị lãng quên như tranh dân

gian, câu đối ngày Tết… phục vụ đắc lực cho hoạt động du lịch. Bởi du khách sẽ

rất ấn tượng với những đường phố mang đậm hương vị ngày Tết cổ truyền của dân

tộc. Tổ chức các trò chơi dân gian, các buổi trình diễn nghệ thuật dân gian, nghệ

thuật sân khấu chèo, tuồng… để chúng không bị mai một trong cuộc sống hiện

đại và để phục vụ cho chu cầu vui chơi giải trí của du khách.

3.3.3.3. Đa dạng các loại hình du lịch, các chương trình tour trong dịp Tết

Kinh doanh ấn tượng Tết:

Trong kinh doanh du lịch việc tạo ra được ấn tượng cho khách du lịch là

một điều rất quan trọng. Đặc biệt là trong dịp Tết cổ truyền khách du lịch đến Việt

Nam là để tìm hiểu nét văn hóa độc đáo của ngày Tết và du khách cũng rất muốn

được tham gia du lịch để tìm hiểu về ngày Tết ở Việt Nam. Để thu hút được khách

du lịch đến với Việt Nam thì việc xây dựng hình ảnh của mình trong tâm trí du

khách là một điều quyết định thành công của ngành du lịch.

Du khách tham gia du lịch Tết cổ truyền thông qua lời giới thiệu của hướng

dẫn viên sẽ có những hiểu biết về phong tục ngày Tết, họ được thưởng thức các món

ăn ngày Tết, được tham gia các trò chơi dân gian vui nhộn ngày Tết. Đây là điều mà

khách du lịch cảm thấy rất ấn tượng và thích thú.

73

Các công ty du lịch tham gia kinh doanh trong dịp Tết cần lập ra các chương

trình hấp dẫn mang đặc trưng ngày Tết với những cái tên thật ấn tượng như: : “sắc

xuân hội ngộ”, “đảo ngọc Côn Sơn”, “Nha Trang biển gọi”, “Tết miệt vườn”, “Xuân

về trên đất cố đô”…..vì ngay cai tên cũng làm cho du khách cần phải chú ý. Các

khách sạn cần đưa ra những món ăn ngày Tết được chế biến công phu đẹp mắt. Các

khu vui chơi giải trí cần giới thiệu các chương trình đặc sắc đề cao yếu tố cổ truyền

cùng các trò chơi hấp dẫn. Sau đó phối hợp quảng bá để tạo ra một chiến dịch

quảng bá, tập hợp các sản phẩm du lịch Tết của các công ty du lịch, các khách

sạn nhà hàng, các khu vui chơi giải trí để đưa lên giới thiệu trên trang web giối thiệu

về Tết Nguyên Đán.

Ngành du lịch cần phải chú trọng tổ chức lễ khai trương mùa du lịch Tết có

qui mô lớn, hoành tráng đẹp mắt được truyền hình trực tiếp, đưa lên các trang

web để gây ấn tượng và thu hút sự chú ý của du khách. Lễ khai trương mùa du

lịch Tết cần được tổ chức có kịch bản trong đó phần giới thiệu về các phong tục, các

thú chới, ẩm thực ngày Tết được minh họa qua các chương trình biểu diễn nghệ

thuật như hát múa, tổ chức các chương trình nghệ thuật tái hiện lại khung cảnh ngày

Tết như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm, thi sắp mâm ngũ quả…

Cần tổ chức một chương trình lễ hội hoành tráng và ấn tượng mang tên “Tết

xưa- Tết nay”. Với những chương trình tái hiện Tết xưa tổ chức liên tục: tái hiện

Tết 3 miền Bắc - Trung - Nam thông qua chương trình ẩm thực truyền thống và

bán hàng rong lưu động bằng gióng, thúng, đòn gánh; biểu diễn cờ người, múa sạp,

đi cà kheo, biểu diễn võ thuật; luân phiên biểu diễn các loại hình hội trống mừng

xuân, ca Huế, hát bội, hát cải lương; trưng bày các tác phẩm hoa, cây cảnh cổ thụ;

các nghệ nhân viết thư pháp mừng xuân; hát sắc bùa mừng xuân...

Trong dịp Tết lượng khách đến du lịch rất đông vì vậy cần phải nâng cao chất

lượng phục vụ của nhân viên là một yếu tố quyết định lớn tới chất lượng phục

vụ khách du lịch trong dịp Tết nguyên Đán.

Cần có một cơ quan đúng tầm để xây dựng hình ảnh quốc gia trong mắt bạn bè

quốc tế để tiếp thị Du lịch cũng như các ngành kinh tế-văn hoá-xã hội khác. Người

dân cần phải được giáo dục để làm du lịch, xây dựng hình ảnh thân thiện với khách

du lịch quốc tế.

74

Các cơ sở dịch vụ thì cần có kế hoạch chuẩn bị đầy đủ sản phẩm du lịch có khả

năng cạnh tranh tốt về giá cả và chất lượng với các nước bạn. Các hiệp hội với vai

trò trung gian lại phải thể hiện được nhiệm vụ điều phối và thống nhất các hội viên

của mình.

Cần phải gây dựng ấn tượng tốt ban đầu cho du khách. Ngay từ những khâu

đầu tiên khi du khách bước chân đến Việt Nam như: Giải quyết nhanh gọn các

thủ tục hành chính cho du khách để lấy visa, người Việt cần tạo không khí làm việc

thân thiện, thái độ nhiệt tình giúp đỡ du khách trong quá trình làm thủ tục hành chính.

Tại các sân bay, bến cảng cần làm tốt các khâu chuẩn bị ban đầu khi đón tiếp ngay

từ khâu nhỏ nhất như khâu vệ sinh. Những điều ấy tuy nhỏ nhặt nhưng sẽ gây ấn

tượng xấu cho khách Du lịch.

Người được giao nhiệp vụ đón khách cần phải có nghiệp vụ chuyên môn, có

khả năng giao tiếp tạo được ấn tượng ngay từ phút ban đầu thông qua nụ cười tươi

tắn trên môi.

Kinh doanh ẩm thực ngày Tết

Ngày Tết Ẩm thực là một mảng rất quan trọng làm nên hương vị ngày Tết.

Tết là dịp để các nhà hàng, khách sạn giới thiệu những món ăn hấp dẫn và mang

đậm hương vị ngày Tết cho du khách. Bên cạnh đó cần tổ chức các hoạt động lễ

hội ẩm thực. Việt Nam là chiếc nôi ra đời nghề trồng lúa, người dân đã sớm đưa ẩm

thực trở thành nét văn hoá trong đời sống mỗi gia đình và cộng đồng. Để giữ gìn

truyền thống và ghi nhớ công ơn của tổ tiên, hàng năm, người dân cần phải tổ chức

lễ hội ẩm thực vùa để phục vụ nhân dân vừa là để phục vụ cho nhu cầu của khách

tham quan. Trong ngày hội các cuộc thi nấu cơm, thi làm cỗ, thi làm bánh... là những

trò chơi hấp dẫn du khách nhất bởi ngày thường không thể có . Tham gia trò chơi

du khách sẽ thấy được những nét độc đáo trong bữa cơm của người nông dân Việt

Nam. Đó là những sinh hoạt văn hoá hết sức có ý nghĩa.

Trong ngày hội ẩm thực phần lớn các trò chơi, trong đó có trò thi nấu cơm thì

các tục lệ nấu cơm thi đều được gắn với truyền thuyết Hùng Vương và Tản Viên.

Thi nấu cơm ở những điều kiện hết sức khó khăn như vừa đi vừa nấu, gánh nồi mà

nấu, ăn mía lấy bã làm củi hay cọ sát các thanh giang vào nhau để lấy lửa... vậy mà

người dự thi vẫn thổi được nồi cơm ngon. Thi nấu cơm - một hoạt động văn hoá 75

trở thành ngày hội diễn ra ở nhiều nơi trên cả nước đặc biệt là tại Đất Tổ Hùng

Vương( Phú Thọ). Trong ngày hội ẩm thực thì không thể thiếu hội thi làm bánh

chưng, thi bánh dầy là được nhiều nơi tổ chức. Bánh dầy bày vào mâm cỗ chay hay

cỗ mặn đều được. Bánh chưng và bánh dầy là hai thứ bánh “tiên chỉ” trong làng bánh

Việt Nam nhưng bánh chưng chỉ làm lễ vật tế thần linh nên không thi, bánh dầy cũng

là bánh đầu vị tế lễ thần linh vừa được đem ra thi tài bếp núc. Để có được bánh

ngon và dẻo, khâu đầu tiên là kén gạo, gạo được chọn làm bánh được tải ra mâm

thau và được chọn từng hạt. Gạo được xôi chín đem giã, giã xong thì bắt bánh.

Bánh được bắt bằng rượu và lòng đỏ trứng gà.

Ngoài ra cần tổ chức các chương trình giới thiệu món ăn ba miền như: tổ

chức lễ hội văn hóa ẩm thực mang tên “ngày hội quê tôi” để cho du khách thập

phương tham dự và tìm hiểu những nét sinh hoạt văn hóa của người dân Việt Nam.

Tại Hà Nội đã tổ chức lễ hội ẩm thực với 100 món ăn ngon đặc trưng ba miền, có bổ

sung một số món mới sưu tập được ở nhiều địa phương trong cả nước, như bún gỏi

già Sóc Trăng, bún súng Vũng Tàu, bánh canh Bến Có Trà Vinh, dê tái tương bần

Ninh Bình... Ngoài ra còn một số món đặc sắc vùng Tây Bắc và Tây Nguyên như

cơm lam, đọt mây, thắng cố, heo mọi nướng ống lồ ô, lợn quay kiểu Tây Bắc….

Một số làng nghề truyền thống cũng được tái hiện và du khách sẽ tận mắt xem

quy trình sản xuất những sản phẩm nổi tiếng như: đan rổ, làm cần xé, làm thúng,

dệt chiếu, dệt thổ cẩm, chằm nón lá, nấu rượu, làm... Bên cạnh đó cũng sẽ chế biến

tại chỗ các loại bánh kẹo như kẹo kéo, kẹo đậu phộng, kẹo dừa, mứt dừa... mà có lẽ

nhiều người đã ăn qua nhưng không biết cách làm như thế nào.

Công nghệ vui chơi giải trí:

Trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hoa ngày nay thì du lịch không thể

thiếu đi công nghệ của mình. Đặc biệt tại các khu vui chơi giải trí người ta áp dụng

rất nhiều công nghệ vào các hoạt động vui chơi giải trí xây dựng các chương trình

độc đáo để thu hút du khách thập phương như: khu du lịch Đầm Sen với các

chương trình nghệ thuật như lễ hội đường phố “Dế mèn du xuân”, chương trình

chiếu phim không gian ba chiều, các chương trình ca nhạc “xuân yêu thương”, “ hài

kịch”, “ hội ngộ cười” , rồi các chương trình thi cắm hoa, thi sắp mâm ngũ quả, viết

76

thư pháp….Công viên nước Hồ Tây với vườn Fuji dành cho trẻ em dưới 5 tuổi,

công viên Vầng Trăng có ô tô đụng, phòng chiếu phim ảo ảnh, thuyền đụng. Khu

du lịch Suối Tiên với các chương trình vui chơi giải trí như: Long Hoa Thiên Bảo,

Bí Mật Kho báu Cổ, xiếc ô tô bay, mô tô bay rất hấp dẫn du khách, thiếu nhi có thể

tham gia chơi đu quay, đu tiên….Nhìn chung tất cả các khu vui chơi giải trí đều có

những chương trình độc đáo phục vụ du khách trong dịp Tết Nguyên Đán.

Việc kết hợp du lịch Tết với các loại hình du lịch khác trong một tour vô

cùng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng tránh sự nhàm chán cho du khách.

Mặt khác, vào thời điểm này có số lượng du khách tham gia đông đảo việc phát

triển nhiều loại hình du lịch còn nhằm mục đích giới thiệu quảng bá về các loại

hình du lịch của Việt Nam. Khách quốc tế đến Việt Nam trong dịp Tết Nguyên

Đán chủ yếu là khách đến từ các nước Châu Âu và bà con Việt Kiều về thăm quê

hương, thăm Hà Nội. Với một lượng khách lớn và đa dạng như vậy đòi hỏi ngành

du lịch phải có sự chuẩn bị kĩ càng. Ngoài những tour truyền thống với những

điểm đến quen thuộc là các danh thắng trên non dưới biển nổi tiếng trong nước…

các công ty lữ hành cần phải ít nhiều tạo ra những tour Tết khá “độc” cho riêng

mình. Khi xây dựng tour điều quan trọng nhất là phải nắm bắt và đánh trúng tâm

lý của du khách:

- Đối với những du khách đến Việt Nam hướng sự quan tâm đến đời sống

tâm linh và đạo Phật thì cần tổ chức những tour dành cho du khách có thể thắp

hương cầu năm mới tốt lành tại các ngôi chùa có lịch sử tương đối lâu đơì ở Việt

Nam.

- Đối với những du khách muốn tìm hiểu và muốn có trải nghiệm tết cổ

truyền của Việt Nam thì phải làm cho du khách cảm nhận được không khí chuẩn

bị đón Tết đặc trưng của bà con tại những nơi như chợ tết, chợ hoa ngày tết…tạo

điều kiện cho du khách gói bánh chưng, bénh tét, trang trí nhà cửa, bày mâm ngũ

quả cùng các gia đình người Việt; hướng du khách đến các lễ hội truyền thống

đầu năm mới của người Việt, kết hợp với việc chú trọng tạo bầu không khí đầm

ấm, hạnh phúc bên người than trong khoảnh khắc giao thừa với những cảm xúc

77

thú vị trên dường du xuân.

- Đối với những du khách đến Việt Nam để thưởng thức ẩm thực các nhà

hàng, khách sạn cần chuẩn bị chương trình ẩm thực đặc trưng phục vụ du khách

trong và ngoài nước. Tổ chức các thực đơn đặc trưng ngày Tết gồm các món ăn

ngon ngày tết cổ truyền, tiệc giao thừa với đầy đủ giò lụa, bánh chưng (bánh tét),

bánh dày…

Ở miền Bắc có thể phát triển các loại hình du lịch liên quan đến tài nguyên

du lịch nhân văn như: du lịch lễ chùa, du lịch thăm quê hương, du lịch dã ngoại,

sau tết là mùa xuân với nhiều lễ hội diễn ra khắp miền Bắc của nhiều dân tộc vì

vậy mà có thể kết hợp du xuân với du lịch lễ hội.

Ở miền Nam, khí hậu ấm áp hơn vì thì có thể phát triển nhiều loại hình du

lịch hơn ở miền Bắc. Đó là các loại hình du lịch kết hợp giữa toàn nhiên nhân văn

và tài nguyên thiên nhiên như: du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch lễ hội,...

3.3.3.4. Nâng cao chất lượng phục vụ trong dịp Tết

Việc nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ trong dịp tết Nguyên Đán là rất

quan trọng vì vào thời điểm diễn ra Tết Nguyên Đán luôn xẩy ra tình trạng tập

trung nhiều khách du lịch trong các phương tiện giao thông, ở các nơi du lịch các

khu vui chơi giải trí gây ra giảm chất lượng phục vụ khách từ đó làm cản trở hoạt

động du lịch phát triển. Mặt khác vào thời vụ du lịch Tết số lượng du khách đông

đảo gồm cả trong và ngoài nước, Việt Kiều nên việc tạo ra chất lượng phục vụ

không tốt không chỉ có tác dụng quảng cáo cho chất lượng phục vụ trong dịp Tết

mà góp phần quảng cáo cho chất lượng phục vụ của ngành du lịch nước ta trong

suốt một năm. Việc nâng cao chất lượng phục vụ không phải nhiệm vụ của riêng

công ty du lich hay khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí cũng không phải

nhiệm vụ riêng lẻ của bên gửi khách hay bên nhận khách mà là sự phối hợp chặt

chẽ giữa các bên.

Đối với công ty du lịch:

Giảm cường độ tiếp xúc giữa khách với khách trên phương tiện vận chuyển

tức là đảm bảo đúng công suất của phương tiện vận chuyển để tạo ra sự thoải mái

cho du khách nhất là đối với tour dài ngày. Để thực hiện biện pháp này các công

ty có thể tăng số lượng phương tiện vận chuyển của mình, các công ty nhỏ hơn 78

cần bảo đảm uy tín, chất lượng tour du lịch, các công ty chưa khai thác Tết Nguyên

Đán nên tham gia đồng thời đảm bảo uy tín chất lượng để góp phần khắc phục

tình trạng quá tải tại các công ty lớn.

Tăng cường tiện nghi trên xe như máy điều hòa, ti vi… để du khách cảm

thấy an toàn và thoải mái vì họ không phải hao tổn sức khỏe trên cuộc hành trình.

Đưa nhiều loại hình du lịch vào tour du lịch Tết của du khách để tránh sự

nhàm chán tạo ra sức hấp dẫn như các tour ăn Tết cùng người dân ở vùng nông

thôn thì kết hợp với du khảo đồng quê, tham quan phong cảnh dã ngoại ở đây hay

các tour du lịch city tour ngày Tết thì kết hợp với du lịch mua sắm tại các phiên

chợ Tết và tham gia vui chơi giải trí tại các khu công viên.

Đáp ứng mọi nhu cầu chính đáng cho du khách kịp thời.

Tăng thêm những lợi ích cho du khách khi tham gia tour du lịch của công

ty như miễn phí bữa ăn sáng hay “lì xì” cho du khách. Hoa là nét độc đáo của

ngày Tết ở Việt Nam. Việc tặng du khách một bó hoa vào đầu và cuối chương

trình du lịch cũng có tác dụng làm tăng chất lượng phục vụ.

Đối với khách sạn:

Đa dạng các loại hình dịch vụ vì khách du lịch trong dịp này thuộc nhiều

lứa tuổi và nhiều ngành nghề khác nhau, mặt khác khách du lịch trong nước vào

dịp này thường đi theo nhóm gia đình còn khách nước ngoài cũng đến từ nhiều

quốc gia như mỹ, Anh, Nhật, Singapore…là những khách cao cấp do đó các dịch

vụ cũng phải có chất lượng cao.

Nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuậ phù hợp tương ứng với thứ hạng của khách

sạn, đáp ứng đúng nhu cầu thị hiếu của đối tượng khách.

Tăng cường ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vự

du lịch, phục vụ khách sạn trong dịp này tùy theo khả năng của mình.

Cân đối hợp lý giữa cung và cầu sản phẩm dịch vụ du lịch nhằm tổ chức

sản xuất và cung ứng kịp thời các nhu cầu của khách.

Việc kinh doanh thực khách trong dịp này cần tổ chức các bữa ăn có nhiều

món ngày Tết để du khách có cảm giác giống như đón Tết ở nhà. Đối với những

món an khác cần chế biến theo cách khác nhau từ đó tạo ra cho du khách cảm giác 79

mới và phong phú trong các món ăn. Các bữa ăn có thể tổ chức theo hình thức

tiệc hay buffet và đi kèm là các hình thức giải trí như ca nhạc, múa…Trong thực

đơn cần cố gắng đáp ứng các nhu cầu riêng của từng khách.

Đối với khu vui chơi giải trí (khu công viên giải trí):

Giảm cường độ tiếp xúc giữa các khách để tạo không gian cho khách thư

giãn.

Đảm bảo các cơ sở vật chất, kỹ thuật phải vận hành tốt và không xảy ra trục

trặc. Dù các công ty, khách sạn hay vui chơi giải trí thì đội ngũ nhân viên phục vụ

là yếu tố quyết định đến chất lượng phục vụ đặc biệt trong dịp Tết Nguyên Đán.

Phải trau dồi kỹ năng, thuần thục ngoại ngữ là yếu tố bắt buộc để phục vụ cho

khách quốc tế thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Ngoài ra là sức khỏe tốt, am hiểu

về ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Thái độ phục vụ phải luôn niềm nở, vui phải

được nêu cao tinh thần trách nhiệm, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ và có các hình

thức khen thưởng kỷ luật nghiêm minh để tránh tình trạng chán nản trong công

việc do cường độ làm việc cao.

3.3.3.5. Một số kiến nghị giải pháp trong việc khai thác Tết Cổ Truyền trong

kinh doanh du lịch

Thứ nhất: Tổng cục du lịch, bộ văn hóa và thể thao du lịch cùng các ngành

hữu quan cần phối kết hợp với các địa phương, đầu tư xây dựng các chương trình lễ

hội trọng điểm trong dịp Tết cổ truyền để thu hút khách. Tổ chức nghiên cứu cơ

bản và ứng dụng để xây dựng các lễ hội đặc sắc, từ đó khai thác giá trị nhiều mặt

của lễ hội Tết cổ truyền phục vụ kinh doanh du lịch.

Cần cụ thể hóa mục tiêu trên bằng việc nghiên cứu đầu tư xây dựng một số lễ

hội Tết đặc sắc ở các địa phương, nghiên cứu ảnh hưởng của nó tới xã hội, các tầng

lớp nhân dân trong nước và quốc tế. Tăng cường các hình thức quảng bá, giới thiệu

về lễ hội bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sinh động.

Thứ hai: Các công ty du lịch tổ chức liên kết giữa các địa phương để nắm vững

thời gian tổ chức lễ hội, nội dung lễ hội, trình tự các bước tiến hành, các nghi thức

diễn ra trong lễ hội…từ đó có kế hoạch xây dựng các chương trình tour du lịch với

thời gian và chu trình phù hợp với các đối tượng khách khác nhau. Đồng thời tổ

80

chức tốt công tác Marketing du lịch lễ hội Tết đối với từng loại du khách cho phù

hợp và hiệu quả với tính chất và nội dung của lễ hội. Đội ngũ hướng dẫn viên phải

qua các kênh thông tin tìm hiểu ưu thế về nội dung và các hình thức thể hiện trong

lễ hội để hướng dẫn cho du khách, làm nổi bật các giá trị nhiều mặt của lễ hội Tết

nói riêng và lễ hội truyền thống Việt Nam nói chung. Tạo sự thích thú, say mê khám

phá cho du khách. Hướng dẫn viên là cây cầu nối giữa du khách và nhân dân địa

phương, đồng thời đóng vai trò là sứ giả hòa bình “nối vòng tay lớn” liên kết giữa

cá nhân, tổ chức địa phương, đơn vị trong không gian văn hóa vùng miền.

Thứ ba: Đối với các điểm đến du lịch tổ chức lễ hội cần có sự sẵn sàng đón

tiếp du khách, phải đảm bảo về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng. Chính quyền

địa phương cần có các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn cho

du khách khi dến du lịch.

Tăng cường giáo dục ý thức cho người dân đối với sự viếng thăm của du khách. Cần

có thái độ niềm nở, thân thiện, nồng nhiệt trong quá trình đón khách tạo mối quan

hệ tình cảm gần gũi giữa người dân địa phương và du khách. Đồng thời du lịch

cần hỗ trợ một phần kinh phí cho người dân địa phương, tạo việc làm cho người

dân để họ thấy được giá trị của lễ hội đối với đời sống của họ. Từ đó họ sẽ có

ý thức bảo vệ, giừ gìn và quảng bá những nét đẹp truyền thống tới du khách.

Thứ tư: Các ngành kinh tế- xã hội cần phối kết hợp tham gia khai thác tài

nguyên Tết Nguyên Đán phục vụ nhu cầu của du khách. Lúc này các ngành kinh tế

cần tạo điều kiện tốt nhất đảm bảo mọi hoạt động diễn ra an toàn, lành mạnh.

Ngành giao thông vận tải đảm bảo về phương tiện đi lại cho du khách tham dự,

ngành điện đẩm bảo về nguồn điện trong suôt thời gian diễn ra Tết Nguyên Đán,

ngành công an thì phải đảm bảo an ninh, trật tự đài phát thanh truyền hình, báo

chí tham gia đưa tin và bài viết về Tết Nguyên Đán. Ngành kinh tế cần tập

trung đầu tư vốn cho những nơi tổ chức lễ hội, ngành nông nghiệp cần cung cấp

đầy đủ lương thực thực phẩm phục vụ cho ẩm thực ngày Tết.

Bản thân chính ngành du lịch cũng cần có những chính sách hợp lý như: tiến hành

giảm giá tour để thu hút khách và cần có chính sách giá phù hợp để không đẩy

mức giá lên cao, cần chuẩn bị một nguồn nhân lực đẩm bảo về số lượng và chất lượng

để có thể phục vụ được trong dịp Tết. Có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, 81

xây dựng các chương trình du lịch phong đáp đứng nhu cầu đăng kí tour của du

khách.

Thứ năm: Các ngành quản lý văn hóa, các điểm đến du lịch cần có sự chuẩn bị

chu đáo trong việc đón khách. Ngành quản lý văn hóa cần phối hợp chặt chẽ với

chính quyền sở tại trong việc đảm bảo an toàn cho du khách. Ổn định và an toàn là

yếu tố có ý nghĩa rất lớn đối với du khách và cơ quan cung ứng du lịch. Đường lối

chính sách nói chung, chính sách phát triển du lịch nói riêng có ảnh hưởng mang

tính quyết định đến sự phát triển du lịch của quốc gia hoặc của một đơn vị hành

chính cụ thể.

3.3.4. Giải pháp gìn giữ giá trị truyền thống trong Tết cổ truyền

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nét đẹp,

giá trị truyền thống của Tết cổ truyền Việt Nam. Mỗi cá nhân cần nhận thức sâu

sắc rằng, nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc là tài sản vô giá. Dù đời sống

vật chất và đời sống tinh thần, cấu trúc xã hội có thay đổi, nhưng hơn bao giờ hết,

cần tiếp tục vun trồng, nuôi dưỡng, phát huy những giá trị tốt đẹp của giá trị truyền

thống. Đặc biệt, cần chú trọng giáo dục cho thế hệ trẻ những giá trị văn hóa xưa

bằng cách tích cực, tăng cường tham gia những lễ hội đậm nét văn hóa cổ truyền

như: Ngày hội gói bánh chưng, bánh giày; tham gia các chợ Hoa, chợ Chữ; các

trò chơi dân gian đầu năm,... Đi thăm quan các di tích lịch sử, tưởng nhớ công ơn

của cha ông hướng về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.

Một thực tế không thể phủ nhận là sự phát triển rộng khắp của các phương

tiện nghe, nhìn hiện đại như hiện nay và ở một mức độ nào đó, là sự không kiểm

soát nổi nhiều nội dung mà các phương tiện đó chuyển tải, ít nhiều đã ảnh hưởng

đến việc nhận thức các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và tuyên truyền

lối sống phương Tây. Không ít người đã bị những lợi ích vật chất cám dỗ, làm tha

hoá, biến chất, chạy theo lối sống hưởng thụ, mà hầu như không quan tâm đến

truyền thống văn hóa dân tộc, đến lối sống truyền thống của người Việt Nam. Do

vậy, cần phải tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống lịch

sử nhằm vun đắp và phát huy niềm tự hào dân tộc cho nhân dân, đặc biệt là cho

82

lớp trẻ – những người chủ tương lai của đất nước, hướng họ đến với các giá trị

truyền thống tốt đẹp của dân tộc - cội nguồn tạo nên bản sắc văn hóa, cốt cách và

sức mạnh của con người Việt Nam.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng gia văn hóa mới trên cơ sở kế thừa, phát huy

những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu,

tiếp biến những giá trị tiến bộ, hiện đại. giữ gìn và phát huy các giá trị truyền

thống phải luôn gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật. Lên án, bài trừ những

hành vi gây ảnh hưởng đến văn hóa dân tộc trước thời đại hội nhập văn hóa bởi

gìn giữ bản sắc văn hóa trong thời hội nhập, cũng chính là bảo vệ những “giá trị

gốc” hay phần giá trị tinh hoa nhất của nền văn hóa dân tộc.

Thứ ba, xác lập bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc

tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, hiện nay, chúng ta đang có những cơ hội, điều kiện

thuận lợi để tiếp nhận các giá trị, tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm làm giàu thêm,

phong phú thêm các giá trị văn hóa của dân tộc mình. Nhưng, như đã nói ở trên,

toàn cầu hoá không chỉ tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi, mà còn đặt ra

vô vàn thách thức, khó khăn đối với mọi quốc gia, dân tộc. Để tồn tại và phát

triển trong bối cảnh toàn cầu hoá, về phương diện văn hoá, chúng ta cần tiếp cận

các giá trị văn hoá của nhân loại để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc, nhưng cũng

cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống để không đánh mất bản thân

mình; hơn nữa, phải biến các giá trị đó thành sức mạnh nội sinh nâng đất nước

ta lên tầm cao mới. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc. Chính vì vậy, chúng ta

cần phải xác lập được bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá hiện

nay để làm giàu thêm, phong phú thêm nội dung các giá trị truyền thống nhằm

tạo nên nền tảng văn hoá tinh thần cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Tiểu kết chương 3

Ở chương 3 tác giả đã chỉ ra được những biến đổi giữa xưa và nay trong

việc ăn Tết của người Việt: sự đổi khác trong: quan niệm “ăn Tết”, cách thờ cúng,

mâm cỗ, trang phục,... khái quát một cách rõ nét nhất, đưa ra những giải pháp,

cách thức nhằm nâng cao hiệu quả trong việc khai thác du lịch trong dịp tết cổ

truyền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Qua đó nhằm thúc đẩy sự phát

triển quy mô kinh tế không chỉ riêng ngành du lịch mà còn đối với sự phát triển 83

84

kinh tế toàn diện của cả nước thông qua “ngành công nghiệp không khói” này!

KẾT LUẬN

Hiện nay, không chỉ riêng nền Văn hóa Việt Nam đang đứng trước nguy cơ

dần đi vào quên lãng trước sự du nhập của các nền văn hóa khác cộng với sự phát

triển như vũ bão của các ngành như: công nghệ thông tin, kinh tế thương mại, đặc

biệt là trong quá trình xã hội hóa, toàn cầu hóa văn hóa.

“Văn hóa là cái còn lại cuối cùng sau khi mất đi tất cả”- Edouard Herriot,

là cái gốc của dân tộc, mất văn hóa là mất đi cội nguồn. Việc giữ gìn và truyền –

quảng bá văn hóa của dân tộc không chỉ đơn thuần là nhiệm vụ của mỗi một cá

nhân mà còn là toàn xã hội.

Văn hóa Việt, tín ngưỡng Việt trong Tết truyền thống dưới lăng kính của

ngành Du lịch nó chất đầy tiềm năng khi đưa vào khai thác. Bởi có lẽ đây là một

nét Văn hóa riêng mà không dễ ở đâu có được!

Trong những năm gần đây, đời sống của nhân dân ngày càng cao, cùng với

chính sách đãi ngộ của nhà nước cũng như các doanh nghiệp, đặc biệt là vào dịp

cuối năm, mức thưởng Tết cho cán bộ công nhân viên ngày càng cao, thời gian

nghỉ Tết dài hơn, vì thế mà nhu cầu đi du lịch vào dịp Tết Nguyên Đán của người

dân ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh các biện pháp nhằm khai

thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch này để tương xứng với tiềm năng vốn

có của nó, làm cho nó trở thành một trong những mũi nhọn của ngành du lịch Việt

Nam.

Tết cổ truyền là một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn chứa đựng nhiều

tiềm năng lớn, không chỉ ngành du lịch mà mọi công dân Việt Nam cần phải giữ

gìn và phát huy và cần có sự quan tâm đầu tư lớn để nó thực sự trở thành một

nguồn tài nguyên quý giá, để ta mãi tự hào về một nền văn hóa mang bề dày truyền

thống dân tộc, tự hào đất nước nghìn năm văn hiến đậm đà bản sắc dân tộc. Bên

cạnh đó cần đẩy mạnh các biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên

du lịch này để tương xứng với tiềm năng vốn có của nó, làm cho nó trở thành một

85

trong những sản phẩm mũi nhọn của ngành du lịch.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trung Du và miền núi phía Bắc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

2. Nhiều tác giả, Phong vị Tết Việt, NXB Phụ nữ, 2010.

3. Toan Ánh, Tìm hiểu về phong tục Việt Nam qua Tết – Lễ - Hội – Hè, NXB Văn

nghệ TP Hồ Chí Minh, 1988.

4. Trần Quốc Vượng, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1998.

5. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997.

6. Đặng Nguyễn Duy, Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt, NXB Giáo dục, 1996.

7. Nguyễn Công Bình: Đời sống xã hội ở vùng Bắc Bộ, Nxb. ĐHQG Tp.HCM,

2008.

8. P. Gourou: Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (bản dịch), Nxb. Trẻ, 2003.

9. Nguyễn Duy Hinh: Vài tư liệu có liên quan đến hệ thống thân tộc của người

Việt, Tạp chí Dân tộc học, số 2/1982.

10. Diệp Đình Hoa: Tìm hiểu làng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

11. Ngô Văn Lệ,(2003), Về quan hệ dòng họ của người Việt, Nxb. ĐHQG

86

Tp.HCM, 2003, trg.97-109.

PHỤ LỤC

Ảnh 1. Chợ Tết trong xã hội cũ

((Nguồn: http://anhxua.com/album/tet-o-mien-bac-viet-nam_165.html)

Ảnh 2. Chợ Tết cổ truyền xưa

(Nguồn: https://baomoi.com/tet-ha-noi-xua-truyen-thong-tram-nam-giu-den-tet-

87

nay/c/24964766.epi)

Ảnh 3. Cách bày biện ban thờ gia tiên

(Nguồn: https://laodong.vn/xa-hoi/cach-chuan-bi-mam-co-cung-va-van-khan-

mung-1-tet-de-cau-tai-loc-binh-an-591775.ldo)

Ảnh 4. Mâm cơm Tân niên

88

(Nguồn: http://hoiquandisan.com/mam-co-tet/)

Ảnh 5. Xông đất mồng 1 Tết

Nguồn: http://vanhoachoichu.vn/van-hoa-va-tet-cua-nguoi-ha-noi/)

Ảnh 6. Lì xì ngày Tết đầu năm

(Nguồn: http://lixidaunamu.vn/van-hoa-va-tet-cua-nguoi-ha-no/) 89

Ảnh 7. Nét đẹp xin chữ ngày Tết

(Nguồn: http://vanhoachoichu.vn/van-hoa-va-tet-cua-nguoi-ha-noi-xua/)

Ảnh 8. Đoàn tụ ngày Tết

90

(Nguồn: http://tetcotruyenvietu.vn/van-hoa-va-tet-co-truyen-viet-nam/.)

91