intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khoa Nghiên cứu văn học trong các hệ thống khoa học

Chia sẻ: Milu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

63
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khoa nghiên cứu văn học là khoa học về nghệ thuật ngôn từ, về sự sáng tạo ngôn từ. Lịch sử và phạm vi của nó rất rộng lớn, hệ thuật ngữ của nó rất phong phú.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khoa Nghiên cứu văn học trong các hệ thống khoa học

  1. Khoa Nghiên cứu văn học trong các hệ thống khoa học Khoa nghiên cứu văn học là khoa học về nghệ thuật ngôn từ, về sự sáng tạo ngôn từ. Lịch sử và phạm vi của nó rất rộng lớn, hệ thuật ngữ của nó rất phong phú. Có thể gọi chúng là một hệ thống kiến thức nhất định về nghệ thuật ngôn từ: nghiên cứu văn học so sánh - lịch sử (komparativistika), phương pháp xã hội học, phương pháp tiểu sử, chủ nghĩa cấu trúc, chú giải văn bản cổ, v.v… Đó là một hệ thống kiến thức về sự sáng tạo ngôn từ, nhưng bản thân khoa nghiên cứu văn học mang tính chất đa phương án chỉ là tiểu hệ thống của một lĩnh vực kiến thức rộng lớn hơn vốn được gọi là ngữ văn học. Khoa học này gồm hai bộ phận: khoa học về văn học và ngôn ngữ học. Hệ thống kiến thức khoa học này đã từng là một hệ thống độc lập và rộng rãi. Việc nghiên cứu văn học và ngôn ngữ mang tính chất tổng hợp, nhưng vào đầu thế kỷ XX, khi việc chuyên ngành hoá các nghiên cứu khoa học mang tính chất cụ thể hơn được bắt đầu, thì ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học dường như tách khỏi nhau. Điều
  2. đó, tất nhiên, đã mang lại một số kết quả khả quan bằng cách mở rộng những khả năng của cả hai lĩnh vực khoa học về ngôn từ, song những tổn thất té ra còn nhiều hơn là những thu hoạch. Mỗi một lĩnh vực đó, do được chi phối bởi khuynh hướng tự trị, đã thôi không sử dụng “những dịch vụ” của nhau nữa, điều này đã tạo ra những khó khăn trong việc phân tích cụ thể các văn bản nghệ thuật. Nhưng kinh nghiệm thực tế của việc nghiên cứu sáng tác nghệ thuật và, chẳng hạn, của ngôn ngữ sinh hoạt đã đòi hỏi những nỗ lực tương hỗ từ phía hai bộ phận của khoa ngữ văn vốn về mặt thuật ngữ nói chung vẫn là đặc quyền của khoa học trong các trường đại học, còn trong các văn kiện xác nhận đối với các bộ môn khoa học tương ứng trong các viện nghiên cứu trực thuộc Viện Hàn lâm, người ta không thấy từ “ngữ văn”. Điều này cũng được phản ảnh trong tên gọi các đơn vị của Viện Hàn lâm: có hai viện riêng là Viện Văn học và Viện Ngôn ngữ. Tuy nhiên, kinh nghiệm nêu trên cần đến sự liên kết của hai phương pháp đó. C hẳng hạn, khi chúng ta nhận xét việc dịch một từ từ hệ thống ngôn ngữ thông t hường sang hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật, chúng ta thấy r õ nhu cầu đánh giá sự c huyển đổi ấy đồng thời bằng hai bộ môn khoa học - bằng khoa học nghiên c ứu văn học và bằng khoa ngôn ngữ học vốn đ ược liên kết lại bởi từ “ngữ văn”: chẳng hạn câu nói thông thường “thời gian trôi nhanh quá” đ ược chuyển thành câu thơ: “Hỡi t hời gian vun vút trôi, ngươi hãy phóng nhanh lên”. S ự phân hoá khoa học những khái niệm trong lĩnh vực này đã xuất hiện do ả nh hưởng của sự chuyên ngành hoá nói chung trong tất cả các hệ thống khoa học c ủa thế kỷ XX, đặc biệt trong lĩnh vực của cái gọi là những khoa học chính xác. Bản t hân s ự xác định cuối c ùng này đối với những hình thái khoa học tự nhiên c ủa kiến t hức về mặt khách quan d ường như đã không thừa nhận tính chính xác của ph ương p háp trong các lĩnh vực nhân văn. Nhưng sinh thời, Viện sĩ D. Likhachev đã nói rất đ úng rằng không chỉ vật lý và toán học mà ngay cả khoa nghiên c ứu văn học cũng có tính chính xác riêng c ủa nó. Ở thời đại ngày nay, khi việc đối lập giữa “vật lý học” và “thơ tr ữ t ình” vốn có lợi cho vế thứ nhất không c òn mang tính chất thời t hượng nữa, thì các khoa học nhân văn, kể cả ngữ văn học, đ ã có đ ược một cuộc sống mới. Và điều đó nói lên rằng các ki ến thức nhân văn và các kiến thức khoa học tự nhiên có thể không đối lập lại nhau mà xích lại gần nhau. Trong trường hợp này,
  3. k hi nói về ngữ văn học, ta có thể nhận thấy rằng việc các nhà ngôn ngữ học và các nhà nghiên c ứu văn học c ùng chung sức để p hân tích một cách có hệ thống những dạng tác phẩm rất khác nhau về mặt bố cục và phong cách là quan trọng đến nhường nào. N hà ngữ văn học xuất chúng (chính là nhà ngữ văn học chứ không chỉ là nhà ngôn ngữ học, như ông có thể làm cho người ta ngộ nhận là như vậy qua những công trình chuyên ngành c ủa mình). R.A. Budagov, người đã bổ sung nhiều kiến giải quan trọng vốn xét cho c ùng, có liên quan đến việc ông tích cực bảo vệ những luận điểm về việc phục hồi ngữ văn học, cho học thuyết về việc xây dựng tác phẩm nghệ thuật, trên cơ sở của sự thống nhất giữa khoa nghi ên c ứu văn học và khoa ngôn ngữ học đã có thể khám phá ra một số điều bí ẩn vốn gắn liền với những h ình t hái tr ần thuật, như đ ối thoại, chẳng hạn. Như mọi người đều biết, nhà triết học - nhà nghiên c ứu văn học lỗi lạc M.M. Bakhtin đã dành cho vấn đề này nhiều sự quan tâm trong nghiên c ứu. Nhưng những nhận xét của Budagov đã thúc đẩy một cách đáng kể việc giải quyết vấn đề về đối thoại nghệ thuật. Chẳng hạn, Budagov phân t ích một trong những cuộc đối tho ại trong Anna Karenina c ủa L. Tolstoi: “Tôi bao giờ cũng ngạc nhiên về cách diễn đạt r õ ràng và chính xác c ủa chồng bà, - nàng (nữ công tước Besti) nói - N hững khái niệm tiên nghiệm đã trở nên dễ hiểu đối với tôi k hi ông ấ y nói. - D ạ vâng! - Anna nói, nở một nụ c ười sung s ướng và không hiểu một lời nào trong câu nói c ủa Besti với mình” (Budanov R.A. N gôn ngữ v à lời nói trong nhãn quan của con người, Tập I, 2000, tr.256). Tr ường hợp này, theo ý c ủa nhà nghiên c ứu, d ường như là kiểu đối thoại kép: một mặt, đó là cuộc đối thoại mang tính chất ngữ nghĩa, ở đây d ường như không có đối thoại, bởi lẽ Anna hoàn toàn không hiểu những điều mà Besti nói với nàng; mặt khác đó là cuộc đối thoại bằng lời nói, cuộc đàm đạo giữa Anna và Besti. Phương diện thứ nhất, phương diện ngữ nghĩa là thuộc lãnh vực phân tích nghiên c ứu văn học, còn cuộc đối thoại bằng lời nói thì được nghiên cứu tr ước hết bằng những phương tiện phân tích ngôn ngữ học. Thí dụ này về sự khác biệt giữa các nguy ên t ắc phân tích khoa học về một trong những hình thái c ốt truyện - lời nói của tác phẩm nghệ thuật - c ho thấy r õ sự
  4. tồn tại cần thiết của ngữ văn học, hoặc, chí ít, sự tồn tại không thể thiếu của mối liên hệ giữa nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học. N hững phương pháp nghiên c ứu mối t ương quan giữa lịc h s ử ngôn ngữ chuẩn mực và ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật trong một thời đại nhất định là có hiệu q uả cao. Nếu thiếu điều đó th ì chúng ta, chẳng hạn, không thể hiểu đ ược rằng tại sao Lev Tolstoi lại có thái độ phê phán đ ối với công thức của A.Pushkin: “S ự dối trá cao thượng đối với chúng ta c òn quý hơn là vô số những chân lý thấp hèn”. Lev Tolstoi cho rằng chân lý không thể có định ngữ, nó chỉ có một mà thôi. Nhưng P ushkin có lẽ đã hiểu chân lý như là sự thật, mà s ự thật, do yếu tố chủ quan, có thể có đ ịnh ngữ ấy, nhưng chỉ có ngôn ngữ học vốn nghiên c ứu lịch sử ngôn ngữ chuẩn mực nói chung mới có khả năng đ ưa ra cách đánh giá đúng đ ắn về công thức của P ushkin, bởi lẽ ở thời Pushkin chưa có s ự phân biệt rạch r òi giữa hai khái niệm chân lý và s ự thật, còn ở t hời Tolstoi thì s ự khác biệt đã xuất hiện. Với sự hỗ trợ của ngôn ngữ học, nghi ên c ứu văn học đ ược giải thoát khỏi t huyết tương đối. Cho d ù việc phân tích nghiên c ứu văn học đ ược thực hiện trên bất cứ cấp độ phương pháp luận nào chăng nữa thì nó vẫn hầu như không bao giờ thoát ra khỏi sự hướng tới việc tuyệt đối hoá tính t ương đ ối. Phương pháp văn hoá - lịch sử c ường điệu quá mức sự phụ thuộc của văn bản nghệ thuật vào những nhân tố k hách quan khác nhau, vào nh ững nhân tố xã hội và văn hoá. Còn ngôn ngữ học với hệ thống quy chế “chuẩn mực” đ òi hỏi sự hiện hữu của những yếu tố tuyệt đối trong văn bản đó. Có thể nói rằng, với sự hỗ trợ của hệ thống ấy th ì những chân lý tuyệt đối có thể đ ược t ìm thấy. Đặc quyền của nghiên c ứu văn học thường là cái được gọi là sự thật nghệ thuật c hứ không phải chân lý. Tiếp sau ngôn ngữ học, lí luận chung về nhận thức, tức l à triết học, tr ước hết là mĩ học - một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của nó - có quyền đòi hỏi mối liên hệ mật thiết với nghiên c ứu văn học. V ì thế, người ta thường bắt đầu nghiên cứu ngôn ngữ của tác phẩm văn học từ ngữ nghĩa học của nó, tức là t ừ lãnh vực có liên quan đến ý nghĩa và sự thay đổi ý nghĩa của từ. Tại sao nhiều nh à nghiên cứu lại làm như vậy? Bởi vì việc chi tiết hoá hình t ượng một cách cụ t hể thuộc về lĩnh vực của cái thẩm mỹ - t heo công thức cổ điển của A. Baumgarten về quyền ưu tiên
  5. c ủa cái cụ thể - cảm tính, của cái vật thể trong bản chất của cái đẹp. Nghệ thuật ngôn t ừ là một trong những hình thái thẩm mỹ cao nhất của hiện thực, do đó mới có sự cần thiết phải hướng tới luận điểm của Baumgarten, nh ưng không chỉ hướng tới ô ng ta. Lĩnh vực của cái thẩm mỹ trong văn học l à vô cùng r ộng lớn. Trong đó có t ính độc lập t ương đối của cái đẹp nhưng đồng thời cũng có cả sự phụ thuộc của cái đẹp vào những hình thức khác của đời sống tinh thần. Vào những thời kỳ của sự hỗn hợp nghệ thuật, tức là c ủa sự hoàn toàn không có tách biệt giữa các hình thái nhận thức, cái thẩm mỹ đ ược nhìn nhận như cái phát sinh từ cái sinh học hoặc từ cái thực dụng. Chẳng hạ n, ngư ời ta cho rằng trong C a khúc của các ca khúc c ủa Solomon, cái đẹp đ ược xác định bằng những từ biểu thị niềm khoái cảm về mặt sinh lý: em xinh quá, đôi môi em ngọt nh ư mật ong. Cái nguyên t ắc về sự phụ thuộc trực tiếp của cái thẩm mỹ vào cái thực dụng còn được lưu giữ ở các thời kỳ sau này. Trong thiên trường ca Ai s ống sung sư ớng trên đất nước Nga? c ủa N. Nekrasov, các nhân vật tranh luận với nhau về việc xem lúa mạch đen hay kiều mạch, thứ nào đẹp hơn và các ý k iến thiên về lúa mạch đen vì thứ ngũ cốc này “nuôi s ống mọi người”. Lúa mạch đen gần gũi với ng ười nông dân của Nekrasov hơn, và bởi vậy họ ca ngợi vẻ đẹp của nó. Đây chính l à quan điểm thực d ụng đối với cái đẹp. Văn học cũng ghi nhận nhiều ví dụ tương tự. Trong Nàng Bạch Tuyết c ủa A.Ostrovski, nàng Bạch Tuyết hỏi mẹ: tại sao mọi vật chung quanh lại đẹp nh ư thế? N gười mẹ thông minh liền trả lời cô con gái: “Hỡi Bạch Tuyết! Vĩnh biệt con gái c ủa mẹ. Tâm hồn con đã tràn ngập hương vị yêu thương”. Như vậy là cội nguồn của cái thẩm mỹ ở đây té ra là một trạng thái t ình cảm và đạo đức đặc biệt - đ ó là t ình yêu. Song, tất nhiên, trong cuộc sống mọi cái cũng có thể đảo ng ược: cảm xúc thẩm mỹ không chỉ có thể đ ược nảy sinh bởi một trạng thái đạo đức này khác mà chính bản thân nó cũng có thể sinh ra một t rạng thái khác. Pigmalion, ng ười nặn t ượng Galatei, thông qua khoái c ảm thẩm mỹ đ ã đ i đến t ình yêu. Vấn đề không phải ở chỗ những cảm xúc nào nảy sinh sớm hơn còn những cảm xúc nào thì muộn hơn mà ở mối liên hệ tất yếu giữa chúng. Trong khi đồ chiếu vẫn đề t riết học - t hẩm mỹ đó vào sáng tác nghệ thuật với t ư cách là một hình thái thẩm mỹ của cuộc sống, chúng
  6. ta đồng thời cũng làm cho nghệ thuật mất đi tính độc lập, chúng ta đặt nó v ào s ự p hụ thuộc trực tiếp với những h ình thái khác c ủa sự nhận thức và s ự miêu tả hình t hái đạo đức, hình thái xã hội và t hậm chí có thể cả hình thái chính tr ị. Sau khi c hứng minh tính độc lập của sự thụ cảm thẩm mỹ nhờ sự hỗ trợ của những tiền đề triết học đúng đắn, chúng ta cũng có thể chứng minh cả tính độc lập của sự sáng tạo nghệ thuật và bằng cách đó cũng nhấn mạnh ý ngh ĩa lịch sử và xã hội của nó. Đứng bên cạnh mỹ học là một hệ thống kiến thức cũng rất cần thiết cho nghiên c ứu văn học - đó là xã hội học. Với sự hỗ trợ của xã hội học vào thời gian gần đây có thể đ ưa những sửa đổi có tính chất nguy ên tắc vào cách lý giả i đặc tr ưng c ủa nghệ thuật và, do đó, c ủa văn học do Hegel đ ưa ra (“tư duy bằng hình t ượng”. Tính hình t ượng đại diện cho đặc tr ưng đ ã nêu trên, xét về thực chất, như một đặc đ iểm về hình thức của sáng tạo nghệ thuật. X ã hội học khoa học cho phép khám phá ra những cội nguồn đặc thù c ủa nội dung nghệ thuật. Chúng giới thiệu tâm lý x ã hội c ủa con người trong ý thức thường nhật của họ, ý thức này là cái nhìn không mang t ính hệ thống của con người đối với thế giới. Điều đó nhân thể cũng giải thích bản c hất dân c hủ của nghệ thuật hay của văn học: ý thức th ường nhật vốn có ở tất cả mọi người. Khi người nghệ sĩ hướng tới hình thái ý thức không mang tính hệ thống như vậy (những ấn t ượng, sự nhận xét mang tính chất cảm xúc, v.v...), anh ta đ ã b iến t ư duy đó thành hệ t hống quan điểm, tức là tạo ra hệ t ư tưởng nghệ thuật. Xã hội học là cơ sở của việc biểu thị bằng thuật ngữ một hệ thống đặc biệt của nghi ên cứu văn học - đó là phương pháp xã hội học trong nghiên cứu văn học. Nó đặc biệt p hổ cập trong thời kỳ truyền bá quan điểm duy vật về nghệ thuật và văn học (c ùng với nhiều phương án lý giải, chẳng hạn “hệ t ư tưởng tâm lý” của V.F. Pereverzev). Văn học là một hiện t ượng lịch sử, vì thế đã nảy sinh một cách tự nhiên luận đ iểm về mối liên hệ gần gũi giữa nghiên cứu văn học và khoa học lịch sử. Điều đó k hông chỉ liên quan tới việc đánh giá các thời kỳ và các giai đo ạn phát triển văn học, mà còn liên quan tới cả việc lý giải tác phẩm cụ thể. Trong tr ường hợp này, việc nắm vững những kiến thức chuyên ngành, những kiến thức về t hể loại hay về cách t ổ chức khác của trần thuật là không phải bao giờ cũng đủ, mà cần phải có sự c hi viện của các tài liệu lịch sử với t ư cách là một khoa học. Sau đây là một vài ví
  7. d ụ tiêu biểu. Có sự định nghĩa về cái gọi là “sự thống nhất nghệ thuật” và một số hình thái c ủa tính ước lệ, chẳng hạn thủ pháp nghịch dị (grotesque). Ở đây chúng ta k hông thể thoả mãn chỉ bằng những thuật ngữ nghiên cứu văn học mà thiếu sự hỗ trợ về mặt thông tin của khoa học lịch sử. Chẳng hạn, vở h ài k ịch N ỗi khổ vì thông minh c ủa A.Griboedov. Như mọi người đều biết, ở đây được áp dụng một khái niệm có liên quan đến bố cục của chủ nghĩa cổ điển với sự thống nhất về thời gian, địa đ iểm và hành đ ộng, mặc dầu đây là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa xét theo các nguyên t ắc lý giải t ính cách nghệ thuật. Song điều đó không giúp cho việc hiểu được, chẳng hạn, một lớp trong vở kịch, khi Chaski hỏi Repetilov: “Các vị l àm ầ m ĩ gì thế? Và chỉ thế thôi sao?”. Nên hiểu câu hỏi này như thế nào? Vấn đề là ở c hỗ câu hỏi ấy xuất hiện trong hồi th ứ ba của vở kịch sau khi nh à viết kịch trở về từ Kavkaz là nơi ông b ị đ ưa đi phát vãng nh ư một người tham gia những cuộc hội họp ầ m ĩ với những lời lẽ quá trớn chống lại chính phủ, và ở đ ó ông bắt đầu viết vở kịch này. Ông trở về Moskva và biết rằng những c uộc hội họp công khai của những người trí thức yêu chuộng tự do đã được tổ chức thành các hội bí mật nhằm chuẩn b ị cho cuộc khởi nghĩa tháng Chạp t ương lai. Và Griboedov đã bày tỏ, d ù không p hải d ưới hình thức cụ thể, sự cảm thông với chiến thuật mới của những người yêu c huộng tự do. Do đó mới có câu hỏi: “Các vị làm ầ m ĩ cái gì thế? Và chỉ thế thôi sao?”. Rõ ràng là những tư liệu lịch sử về việc vở kịch đ ã đ ược viết ra như thế nào t hật là quan trọng để ta hiểu được thế giới quan của ng ười nghệ sĩ. Một ví d ụ khác có liên quan t ới việc phân tích hình thái thứ hai của tính ước lệ - ở đây nói đến thủ pháp nghịch dị châm biếm của M. Saltykov - S hedrin. Khi nhà văn công b ố tác phẩm châm biếm Lịch sử một thành phố vào những năm 1860, có nhiều độc giả đã đ i t ìm trong các nhân vật của cuốn sách sự giống nhau với những nhà hoạt động lịch sử có thật của quá khứ (thế kỷ XVIII - đ ầu thế kỷ XIX). Tuy S hedrin đ ã trả lời rằng ông không định tranh luận với cái thế giới của những kẻ lỗi t hời. Có ý kiến phản đối ông: đây nhé, viên thị tr ưởng Vicont du Chario rất giống vua Aleksandr đệ nhất. Trong tác phẩm, Vicont đ ược gọi là con ngư ời tử tế. M à c hính những người đ ương thời cũng gọi vua Aleksandr đệ nhất nh ư vậy. Song
  8. S hedrin vẫn một mực khẳng định rằng ông không tranh c ãi với q uá khứ. Vậy tính t hời sự của nhân vật châm biếm là ở c hỗ nào? Trong khi đ ọc kỹ cuốn sách và so sánh các nhân vật của nó với các nhân vật lịch sử đ ương thời, độc giả có thể phỏng đoán rằng h ình t ượng viên thị tr ưởng chính là nhà báo M.N. Katkov. V ấn đề là ở c hỗ trong việc khắc hoạ nhân vật này có một c hi tiết: ông ta thích thay đổi chính kiến. M à đó chính là s ự ám chỉ đối với Katkov là người khởi đầu sự hoạt động của mình bằng mưu toan kết thân với V.G. Belinski và bằng việc dự các buổi thuyết tr ình c ủa Giáo sư T.N. Granovski, trong đó có k hông ít tư tưởng phóng túng tự do. Sau này, ông ta hùa theo những người theo chủ ngh ĩa tự do vốn hành đ ộng theo nguyên t ắc “dù chỉ là chút ít” và kết thúc sự nghiệp c ủa mình bằng những hành đ ộng “phù hợp với sự đê tiện”. N goài ra, bản thân t ước hiệu “tử t ước” (vicomte) chứa đựng sự ám chỉ rằng nh à báo phản động khét tiếng, c hủ nhiệm tờ tạp chí t in tức Nga Katkov luôn mơ ư ớc có đ ược t ước hiệu quý tộc cao vốn là đối t ượng giễu cợt từ phía các nh à thơ. Chính bằng cách đó đã xuất hiện sự tổng hợp của hai cách tiếp cận đối với văn bản nghệ thuật: cách tiếp cận ngữ văn v à cách tiếp cận lịch sử. Trong khi B. Slucki viết những câu nổi tiếng về “các nhà vật lí” và “các nhà thơ trữ tình” thì cái gọi là các khoa học chính xác dường như chiếu cố tới những vấn đề nhân văn và bắt đầu đề xuất các phương pháp của mình. Như vậy là đã xuất hiện ngôn ngữ học toán học, c òn nhà toán học nổi tiếng là Viện sĩ A.N. Kolmogorov thì đã công bố những bài viết của mình về Majakovski và những nhà thơ khác. Trong một thời gian nhất định, cái đó đã trở thành “mốt” trong việc nghiên cứu. Phương pháp này có những kết quả khả quan bởi lẽ sự tổng k ê các chỉ số định lượng trong câu thơ có thể làm sáng tỏ vẻ đặc thù về chất của nó, vả lại, các nhà nghiên cứu văn học truyền thống (L.I. Timofeev...) cũng làm như vậy. Nhưng những thời kỳ mới đã đến, và trong s ố “các nhà vật lý” người ta nghe thấy những lời tuyên bố: “Chúng ta đưa Gagarin lên trời trên đôi vai của Pushkin và Tolstoi”. Những lời ấy là của Viện sĩ vật lý V. Legasov. Trong cách lý giải của V. Legasov, sáng tác của Pushkin và Tolstoi được nhìn nhận như sự thăng hoa của tinh thần cao cả nhất là niềm tin.
  9. Khi ấ y, những ưu thế về phương pháp luận cũng thay đổi. Trong khi đọc những bản tốc ký về các cuộc hội thảo quốc tế của các nhà lịch sử khoa học, có thể nhận thấy rằng các học giả khoa học ấy đ ã bắt đầu thiên về kết luận sau đây: cái t hời mà khi vật lý học là “cầu tr ượt” đối với mọi khoa học, đã trôi qua và đến thay t hế nó là vi sinh học và sinh học phân tử, t hời đại của chúng sẽ rất ngắn, tiếp sau đó là k ỷ nguyên c ủa các khoa học nhân văn vốn có khả năng “gợi ý” về mặt ph ương p háp luận cho các loại kiến thức về khoa học tự nhi ên, điều đó đã ở một mức độ nhất định đang diễn ra hiện nay. Tại Thuỵ Sĩ, trong Trun g tâm Nghiên c ứu Hạt nhân Q uốc tế đang chín muồi một ý t ưởng về việc xây dựng Viện Công nghệ cao mang t ính chất nhân văn. Tại đây, ng ười ta đề xuất một lý thuyết cho rằng những kiến t hức nhân văn, nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật, mỹ học v à nghiên c ứu văn học, có t hể có ảnh hưởng tới các hình thái vật lý và k ỹ thuật của các công tr ình nghiên c ứu và sản xuất. Tác giả của những d òng viết này đã có d ịp tham gia vào việc xây dựng một số công tr ình, trong đ ó đã đ ược làm sáng t ỏ, chẳng hạn, vấn đề “điều chỉnh th ời gian”, t ức là người ta tr ù tính giảm bớt thời gian trong việc sản xuất máy móc và t hiết bị (xem Arshinov V.I, Kulberg N.N., Nikolaev P.A., Shkundenkov V.N., Theo dòng sông th ời gian, Tula, 2002; Borev Ju B., Nikolaev P.A., Shkundenkov V.N, Nước Nga: điề u hành thời gian trong vũ trụ, Tula, 2006; Shkundenkov V.N., Th ời gian và vẻ đẹp, Tula, 2004). Cơ sở của những kiến nghị khoa học này là việc sử dụng hiệu quả của sự phi t uyến tính thời gian, điều này d ựa vào việc áp dụng trong nghiên c ứu khoa học một p hươ ng pháp khá nổi tiếng, đặc biệt là ở N ga, phương pháp c ủa những quyết định “ đẹp”. Trong khi nghiên c ứu vấn đề tổng hợp giữa các khoa học nhân văn và tự nhiên, chúng tôi đã đ i đến kết luận rằng chỉ một mình s ự hoàn thiện về mặt thẩm mỹ và nghệ thuật của bản t hân quá trình s ản xuất và sản phẩm cuối c ùng c ủa nó mới đạt được mục đích thực tiễn lớn lao là cắt giảm thời gian. Ý t ưởng này không phải làm mới. Ngay từ thời Phục hưng, Leonardo da Vinci vĩ đại đã nói với các học trò c ủa mình: Hãy đ i và nhìn những đám mây và dùng trí tưởng tượng của mình vẽ thêm vào trong đó những vật thể nào đấy: cây cối, súc vật, con ngư ời, và như thế các em sẽ phát triển ở n ơi mình những năng khiếu sáng tác
  10. t hẩm mỹ, nhưng chỉ khi nào những năng khiếu ấy đạt tới sự căng thẳng tột c ùng t hì k iến thức chuyên sâu c ủa các em mới có được cú hích mạnh mẽ, và các em nhanh c hóng hoàn thành công việc chuyên môn c ủa mình. Cho nên ý thức thẩm mỹ là chất k ích thích mãnh liệt cho hoạt động thực tiễn. Ý t ưởng đó sau này được phát triển trong các công trình c ủa Viện sĩ Nga B.V. Raushenbakh (nhà khoa học trong lãnh vực cơ học và các quá trình đ iều khiển). Không phải ngẫu nhiên mà Raushenbakh không ch ỉ tích cực nghiên c ứu c ơ học mà còn nghiên c ứu cả hội hoạ Nga, đặc biệt là tranh tượng thánh. Hiển nhiên, trong những điều kiện ấy, sự gần gũi giữa vật lý học v à nghệ thuật học, nhất là nghiên c ứu văn học, có hiệu quả tốt đối với tất cả các loại h ình nhận thức và sáng tạo. S ự thừa nhận như vậy trên phương diện lý luận về tầm quan trọng tổng thể, bộ môn khoa học về văn học của chúng ta ch ưa bao giờ có được. Do đó, cần phải nhận xét rằng quá tr ình ả nh hưởng này c ủa các khoa học nhân văn là thuận lợi đối với bản thân chúng. Trong những điều kiện ấy, khoa nghi ên c ứu văn học cũng có thể t ìm đ ược một vị trí xứng đáng cho mình trong hệ thống kiến thức khoa học 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2