ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
VŨ THỊ THANH XUÂN
KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN- TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
VŨ THỊ THANH XUÂN
KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN- TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ XHCN
MÃ SỐ: 5.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.,TS., NGUYỄN XUÂN THẮNG
HÀ NỘI - 2004
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày nay, xu hƣớng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang gia
tăng mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia, dân
tộc.Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nƣớc trở thành một tất yếu kinh tế.
Năm 2003, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã bắt đầu có hiệu lực trong
khu vực và điều này đã đặt ra rất nhiều thách thức cũng nhƣ cơ hội cho các nƣớc
thành viên mới nhƣ Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar. Không chỉ có vậy,
tháng 11 năm 2002, Hiệp định khung về khu vực mậu dịch tự do ASEAN +
Trung Quốc đã đƣợc ký kết. Nhƣ vậy, từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) đến Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), sẽ mang
đến nhiều cơ hội và thách thức cho các nền kinh tế ASEAN, đặc biệt là tác động
của ACFTA đối với các nƣớc thành viên mới càng trở nên bức thiết hơn bao giờ
hết. Điều này giúp chúng ta tận dụng đƣợc những thuận lợi, khắc phục những
khó khăn, khai thác có hiệu quả những cơ hội do ACFTA đem lại trong quá trình
nƣớc ta hội nhập khu vực và thế giới.
Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn vấn đề "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam " làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã đƣợc nhiều nhà khoa
học, các nhà quản lý và hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu. Có nhiều
công trình về vấn đề này đã đƣợc công bố và các kết quả nghiên cứu đó đã có
tác dụng đáng kể đối với thực tiễn đổi mới và phát triển ở nƣớc ta. Trong khi đó,
do ACFTA là vấn đề mới nên chúng ta chƣa có nhiều công trình nghiên cứu lớn
mà chỉ có những bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí và những báo cáo trong
những hội thảo khoa học.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Góp phần làm rõ thực chất, nội dung của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN- Trung Quốc và những tác động của nó đối với các nƣớc thành
viên ACFTA và Việt Nam
- Đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng và hội
nhập của Việt Nam trong ASEAN nói chung, trong ACFTA nói riêng.
Nhiệm vụ:
- Luận giải vai trò của ACFTA đối với quá trình phát triển kinh tế của các
nƣớc trong khu vực.
- Phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức do ACFTA đem lại đối
với Việt Nam.
- Đề xuất một số kiến nghị về đối sách của Việt Nam trong việc phát huy
những thế mạnh của mình để tận dụng những cơ hội mà ACFTA đem lại
cũng nhƣ để giảm thiểu những tác động tiêu cực của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu là ACFTA và sự tham gia của các bên có liên quan
trong đó có Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào các lĩnh
vực: Thƣơng mại và đầu tƣ . Khung thời gian nghiên cứu là từ khi bắt đầu có
đàm phán để ký kết Hiệp định khung ACFTA cho đến nay. Tuy nhiên, do
ACFTA vừa mới thành lập, nên các phân tích về chƣơng trình của nó chủ yếu
nặng về khía cạnh phân tích định tính và dự báo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị, duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thực chất và chiều hƣớng của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc
- Chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực cùng những thuận lợi và khó
khăn của ACFTA đối với các nƣớc.
3
- Đƣa ra một số giải pháp để khắc phục những bất lợi, nâng cao khả năng
phát triển và hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chƣơng.
Chƣơng I - Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN - Trung Quốc.
Chƣơng II - Những tác động của ACFTA đối với các nƣớc thành viên
ASEAN và Trung Quốc.
Chƣơng III - Phƣơng hƣớng và một số giải pháp thực hiện ACFTA của Việt
Nam.
4
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH ACFTA
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức liên kết thƣơng mại của hai nƣớc
hay nhiều nƣớc với nhau. Thông qua khu vực mậu dịch tự do, các nƣớc mở rộng
trao đổi buôn bán và mở rộng các hình thức hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế.
Ngày nay khái niệm thƣơng mại có nội hàm rộng hơn nhiều, không chỉ bó hẹp ở
lĩnh vực thƣơng mại hàng hoá, mà nó còn liên quan đến đầu tƣ, dịch vụ, sở hữu
trí tuệ, thậm chí đã mở rộng đến cả các vấn đề nhƣ: lao động, điều chỉnh việc
làm, vấn đề môi trƣờng, thƣơng mại điện tử. Nội hàm của thƣơng mại quốc tế
không chỉ đƣợc mở rộng mà nội dung ngày càng sâu sắc thêm.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một hình thức liên kết thƣơng
mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Trƣớc đây đàm phán, thoả thuận,
thực hiện cắt giảm thuế quan, hạ thấp và xoá bỏ hàng rào phi quan thuế là nội
dung trọng tâm của AFTA. Nhƣng từ cuối những năm 1990, AFTA đã thể hiện
rõ ràng xu hƣớng mở rộng nội dung sang các vấn đề lớn của quan hệ kinh tế
quốc tế nhƣ đầu tƣ, dịch vụ, sở hữu trí tuệ liên quan đến thƣơng mại, thƣơng mại
điện tử và những vấn đề khác.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) là hình thức liên
kết thƣơng mại giữa ASEAN và Trung Quốc. Trong Hiệp định khung, hai bên
khẳng định việc thành lập ACFTA có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tăng cƣờng
hợp tác kinh tế vốn có giữa hai bên mà còn giúp mở rộng cơ hội mậu dịch và đầu
tƣ song phƣơng. Nội dung hợp tác của ACFTA đƣợc thoả thuận trên rất nhiều
lĩnh vực. Đó cũng là xu hƣớng chung của các khu vực mậu dịch tự do trên thế
giới, nó không nằm ngoài khuôn khổ Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO).
Mục tiêu của AFTA cũng nhƣ của ACFTA là thúc đẩy sự hợp tác kinh tế,
trao đổi buôn bán giữa các bên tham gia nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
5
các nƣớc trong khu vực và trên thị trƣờng thế giới. Thông qua đó nhằm thu hút
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, nâng cao khả năng huy động và phân bổ nguồn lực
giữa các nền kinh tế nhằm thích ứng với những chuyển biến và những điều kiện
chung của thƣơng mại thế giới, thúc đẩy nền kinh tế của các nƣớc thành viên.
1.1.2. Các lý thuyết về tự do hoá thƣơng mại
Lý thuyết về thƣơng mại quốc tế
Ngay từ giữa thế kỷ 16, trƣờng phái trọng thƣơng đã chú ý tới vai trò quan
trọng của ngoại thƣơng trong việc làm tăng của cải của quốc gia. Đến thế kỷ 18,
đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tƣ sản cổ điển Anh Adam Smith đã đƣa ra
khái niệm "lợi thế tuyệt đối" để lý giải nhận định trên. Theo ông các nƣớc trên
thế giới buôn bán với nhau vì họ khác nhau và vì họ cùng có lợi.Với lý thuyết
"Lợi thế tuyệt đối", A.dam Smith đã chỉ ra rằng các nƣớc có thể dựa vào sự
chuyên môn hoá sản xuất và các điều kiện tự nhiên khác nhau của mình để lựa
chọn mặt hàng sản xuất phù hợp và cho năng suất cao. Sau đó, thông qua trao
đổi quốc tế thì các nƣớc đều có lợi.
Ngoài những khác biệt về điều kiện thiên nhiên và vị trí địa lý, giữa các
nƣớc còn có sự khác biệt về năng suất lao động, nhu cầu thị trƣờng, khả năng
cung ứng và sử dụng các nguồn lực. Để thể hiện đầy đủ sự khác biệt giữa các
nƣớc theo những tiêu chí nhƣ vậy, các nhà kinh tế đã đƣa ra quan điểm về lợi thế
so sánh hay lợi thế tƣơng đối. Quan điểm này đƣợc thể hiện thông qua nhiều mô
hình khác nhau, trong số đó phải kể đến mô hình Ricardo, mô hình các yếu tố
chuyên biệt của Paul Samuelson, mô hình Heckscher- Ohlin, mô hình thương
mại chuẩn. Chúng đƣợc coi là những mô hình cơ bản để giải thích về nguồn gốc
những lợi ích từ thƣơng mại.
Ra đời vào đầu thế kỷ 19, mô hình Ricardo đƣợc coi là mô hình đơn giản
nhất lý giải về nguồn gốc những lợi ích từ thƣơng mại. Mô hình này giả định
rằng chỉ có một yếu tố duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất - đó là lao động
và nó đƣợc di chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác, các nƣớc khác nhau
chỉ vì năng suất lao động trong các ngành công nghiệp khác nhau và mức lợi tức
6
không đổi theo qui mô. Nếu không có thuế quan và chi phí vận chuyển không
đáng kể, các nƣớc thƣờng xuất khẩu hàng hoá mà họ sản xuất có hiệu quả và
nhập khẩu hàng hoá mà họ sản xuất tƣơng đối kém hiệu quả. Điều này hàm ý
rằng: “các nƣớc sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm
mà họ làm ra với chi phí tƣơng đối, hay chi phí cơ hội thấp hơn các nƣớc khác”
[3, 327]. Nhƣ vậy, việc chuyên môn hoá sản xuất dựa trên cơ sở lợi thế so sánh
sẽ giúp cho các nƣớc có điều kiện trao đổi hàng hoá với nhau và làm cho họ
cùng có lợi. Những lợi ích từ thương mại có thể được thể hiện thông qua việc
mở rộng khả năng tiêu dùng của các bên trao đổi và nâng cao hiệu quả sản
xuất. Nhƣng nếu so sánh với thực tiễn thƣơng mại quốc tế, mô hình này còn
nhiều hạn chế và đôi khi còn đƣa ra những phán đoán sai lệch nhƣ: Thứ nhất,
việc chuyên môn hoá sản xuất hoàn toàn mà mô hình đòi hỏi là không thể có
đƣợc trong thực tiễn. Thứ hai, do giả định rằng lao động có thể di chuyển tự do
và không tốn kém giữa các ngành, mô hình Ricardo đã đƣa ra phán đoán không
sát với thực tế khi cho rằng thƣơng mại không tác động lên sự phân phối thu
nhập trong nội bộ các nƣớc. Thứ ba, mô hình Ricardo đã bỏ qua vai trò của lợi
thế nhờ qui mô - một nguồn gốc của trao đổi quốc tế.
Để góp phần khắc phục những hạn chế trong mô hình Ricardo, Paul
Samuelson và Ronald Jones đã lý giải nguồn gốc của thƣơng mại và các lợi ích
tiềm tàng của nó thông qua mô hình các yếu tố chuyên biệt. Mô hình này giả
định rằng có nhiều yếu tố khác ngoài lao động tham gia vào quá trình sản xuất,
trong đó lao động là yếu tố linh hoạt, tức có thể tham gia vào nhiều ngành sản
xuất khác nhau, còn các yếu tố khác là chuyên biệt, tức chúng chỉ tham gia vào
một ngành sản xuất nhất định nào đó. Với bất kỳ mức giá nào của sản phẩm (tức
không phải do ngƣời sản xuất quyết định), mô hình các yếu tố chuyên biệt cho
thấy sự có mặt của các yếu tố chuyên biệt trong quá trình sản xuất đã tạo điều
kiện cho các nƣớc có thể thay đổi mức cung hàng hoá ra thị trƣờng, khi họ thay
đổi lƣợng yếu tố chuyên biệt đƣợc sử dụng. Do có sự khác nhau trong cung ứng
các yếu tố giữa các nƣớc, nên mỗi nƣớc sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất
7
mặt hàng nào cần nhiều yếu tố chuyên biệt mà nó sẵn có (nƣớc có nhiều vốn sẽ
tập trung sản xuất hàng công nghiệp, còn nƣớc có nhiều đất đai thì sản xuất hàng
thực phẩm). Khi đó, thông qua thƣơng mại, các nƣớc có thể trao đổi với nhau
những hàng hoá mà họ có điều kiện sản xuất tốt hơn.
Trong lý thuyết thƣơng mại quốc tế, bên cạnh mô hình các yếu tố chuyên
biệt, còn có một mô hình khác giải thích nguồn gốc của thƣơng mại thông qua
sự khác biệt về nguồn lực. Đó là mô hình Heckscher- Ohlin, hay còn gọi là mô
hình tỷ lệ các yếu tố, do hai nhà kinh tế học Thuỵ điển Eli Heckscher và Bertil
Ohlin đƣa ra vào những năm 30 của thế kỷ XX. Mô hình này đƣợc xây dựng dựa
trên giả thuyết nền kinh tế có hai yếu tố sản xuất (ví dụ lao động và đất đai) và
chúng đều có thể tham gia vào hai ngành sản xuất khác nhau (có tỷ lệ lao động-
đất đai sử dụng vào sản xuất khác nhau). Trong mô hình này, không có yếu tố
nào là chuyên biệt cả. Ngoài ra, để giải thích nguồn gốc của thƣơng mại, mô
hình Heckscher- Ohlin còn giả định rằng hai nƣớc buôn bán với nhau chỉ có một
sự khác biệt duy nhất là ở các nguồn lực – một nƣớc có tỷ lệ lao động - đất đai
cao hơn nƣớc kia (nghĩa là nó tƣơng đối giàu có hơn về lao động), trong khi có
rất nhiều điểm giống nhau – nhu cầu về hàng hoá, mức giá tƣơng đối, công nghệ.
Với các điều kiện khác nhƣ nhau và không đổi, nƣớc tƣơng đối giàu có hơn
về lao động sẽ tập trung vào việc sản xuất hàng hoá cần nhiều lao động hơn, còn
nƣớc kia, do giàu có hơn về đất đai sẽ tập trung vào việc sản xuất hàng hoá cần
nhiều đất đai. Sự dồi dào tƣơng đối về nguồn lực này gây ra tác động thiên lệch
lên khả năng sản xuất của các nƣớc tham gia thƣơng mại và mỗi nƣớc có thiên
hƣớng xuất khẩu loại hàng hoá mà nó cung tƣơng đối lớn hơn. Có thể nói một
cách khái quát rằng các nƣớc có thiên hƣớng xuất khẩu hàng hoá cần nhiều yếu
tố sản xuất mà nƣớc họ có dồi dào.
Trong ba mô hình trên, các nhà kinh tế học mới chỉ tập trung giải thích
nguồn gốc và tác động của thƣơng mại trên cơ sở những thay đổi trong cung
tƣơng đối của hàng hoá trên thị trƣờng, mà chƣa chú ý đến những thay đổi trong
cầu tƣơng đối, đặc biệt khi nó bị hạn chế bởi khả năng thu nhập của dân chúng.
8
Mô hình thƣơng mại chuẩn sẽ cho chúng ta một bức tranh sát với thực tế hơn
về thƣơng mại quốc tế, khi nó đặt thƣơng mại trong mối quan hệ với sản xuất và
tiêu dùng. Trong mô hình thƣơng mại chuẩn, chuyên môn hoá không hoàn
toàn đã đƣợc sử dụng để xác định khả năng sản xuất của các nƣớc. Điều này có
nghĩa là, mỗi nƣớc sẽ sản xuất nhiều hơn những mặt hàng mà nó có lợi thế so
sánh, trong khi nó vẫn sản xuất những mặt hàng khác nhƣng với số lƣợng hạn
chế. Trong mô hình này, giả thuyết nhu cầu tƣơng đối là không đổi đã bị loại bỏ,
nó đƣợc xác định từ sở thích tiêu dùng của các cá nhân và bị giới hạn bởi khả
năng thu nhập của họ.
Khi có thƣơng mại, mức cung tƣơng đối hàng hoá của thế giới đƣợc xác
định từ khả năng sản xuất của tất cả các nƣớc tham gia thƣơng mại và mức cầu
tƣơng đối - từ sở thích của chúng. Sự tăng trƣởng kinh tế ở một nƣớc (sự mở
rộng khả năng sản xuất thông qua sự gia tăng các nguồn lực hoặc cải thiện hiệu
quả sử dụng chúng) gây tác động lên phúc lợi của các nƣớc còn lại thông qua
điều kiện mậu dịch - mức giá của hàng xuất khẩu so tƣơng đối với hàng nhập
khẩu, theo hai hƣớng khác nhau. Khi các yếu tố khác không đổi, nếu điều kiện
mậu dịch của một nƣớc đƣợc cải thiện hơn, thì sự cải thiện đó thúc đẩy sự tăng
trƣởng ban đầu ở trong nƣớc đó, nhƣng lại gây tổn thƣơng cho các nƣớc khác.
Ngƣợc lại, khi điều kiện mậu dịch của nƣớc này giảm đi, thì sự giảm đi đó sẽ
làm mất đi một số tác động thuận lợi đến tốc độ tăng trƣởng trong nƣớc, nhƣng
lại có lợi cho các nƣớc còn lại. Hƣớng tác động lên điều kiện mậu dịch này phụ
thuộc vào bản chất của sự tăng trƣởng. Thông qua mô hình thƣơng mại chuẩn,
có thể thấy rõ thƣơng mại không những tác động mạnh lên phân phối thu nhập
trong nội bộ một nƣớc mà nó còn tác động lên phân phối thu nhập quốc tế thông
qua điều kiện mậu dịch. Mỗi nƣớc có thể đƣợc lợi hoặc bị thiệt hại từ thƣơng
mại quốc tế tuỳ thuộc vào xu hƣớng tăng trƣởng kinh tế, việc áp dụng thuế quan
nhập khẩu hay trợ cấp xuất khẩu.
Qua các mô hình thƣơng mại quốc tế, có thể đi đến kết luận rằng các nƣớc
buôn bán với nhau hoặc vì họ khác biệt về các nguồn lực, về công nghệ, hoặc vì
9
họ khác biệt nhau về lợi thế kinh tế nhờ qui mô, hoặc vì cả hai lý do đó. Thƣơng
mại luôn mang lại lợi ích cho các nƣớc tham gia và các lợi ích này là tiềm tàng.
Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực mở
Từ những năm 1980 quá trình liên kết và hợp tác kinh tế ở các khu vực và
trên phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hoá kinh tế, thƣơng mại và đầu tƣ
trở thành xu hƣớng bao trùm. Lý thuyết Chủ nghĩa khu vực mở đƣợc APEC
khởi xƣớng đã trở thành một trào lƣu kinh tế đƣợc rất nhiều nƣớc thực hiện.
Tổ chức APEC ra đời nhƣ một đáp ứng đúng lúc đối với yêu cầu và lợi ích
của của các nền kinh tế ở Châu Á- Thái Bình Dƣơng vốn đang ngày càng tuỳ
thuộc lẫn nhau hơn. Không giống nhƣ các tổ chức khu vực khác (đặc biệt là EU),
ngay từ ban đầu, APEC không nhấn mạnh đến mục tiêu tạo lập hệ thống ƣu đãi
thuế quan, liên minh thuế quan hay thị trƣờng chung, mà nhấn mạnh tới việc
tăng cƣờng hệ thống thƣơng mại đa phƣơng mở. Điều này đƣợc lý giải bởi hai lý
do. Một là, APEC là tập hợp của các nền kinh tế rất đa dạng về trình độ phát
triển, chế độ chính trị- xã hội cũng nhƣ điều kiện lịch sử văn hoá. Vì thế, các
nƣớc đang phát triển nhƣ ASEAN, NIEs không muốn thành lập khu vực tự do
hoá và bị lệ thuộc một cách bất bình đẳng vào các nền kinh tế lớn hơn, có trình
độ phát triển cao hơn nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Ôxtrâylia và Canada. Hai là, các nền
kinh tế APEC đặc biệt là các nƣớc Đông Á phụ thuộc rất lớn vào môi trƣờng
kinh tế thế giới. Sự tăng trƣởng của các nền kinh tế Nhật Bản, NIEs và ASEAN
trong những năm 1970 và1980 chủ yếu nhờ vào sự thành công của chiến lƣợc
hƣớng vào xuất khẩu, do vậy, họ rất muốn duy trì một hệ thống thƣơng mại toàn
cầu mở và ổn định. Việc cát cứ sẽ là điều bất lợi trƣớc hết đối với những thành
viên APEC có nền kinh tế, thƣơng mại phát triển cao.
Nguyên tắc quan trọng nhất của APEC trong quá trình thực hiện khu vực tự
do hoá kinh tế và thƣơng mại là "phù hợp với WTO". Theo đó, các chƣơng trình
hợp tác của APEC không đi ngƣợc lại với những nguyên tắc đã đƣợc qui định tại
WTO. Ngoài ra, nói một cách rộng hơn, chủ trƣơng của APEC là theo đuổi "chủ
nghĩa khu vực mở". Những nguyên tắc của "chủ nghĩa khu vực mở" của
10
APEC bao gồm: i) APEC là diễn đàn mở cửa và không mang tính chất tự bảo
vệ; ii) APEC thừa nhận sự khác biệt tồn tại giữa các nền kinh tế thành viên;
iii) APEC có thái độ thực tế về việc thúc đẩy trao đổi thƣơng mại; và iv) các
nền kinh tế thành viên APEC không đƣợc thực hiện phân biệt đối xử. Nói
cách khác, "chủ nghĩa khu vực mở" của APEC đồng nghĩa với việc APEC
không thi hành chính sách "loại trừ" và phân biệt đối xử, mà thay vào đó,
thực hiện chính sách cởi mở với qui định các hiệp định đƣợc nhất trí trong
APEC sẽ đƣợc áp dụng ra ngoài khu vực APEC. [37]. Trên cơ sở đó, khu
vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng của APEC là nền tảng để thúc đẩy tự do hoá
kinh tế, thƣơng mại toàn cầu. Ngày nay, lý thuyết “Chủ nghĩa khu vực mở”
đƣợc phát triển mạnh mẽ ở các nƣớc với sự ra đời của các khối liên kết khác
nhau ở các khu vực khác nhau. Lý thuyết "Chủ nghĩa khu vực mở" đã trở
thành một trào lƣu kinh tế ở khắp thế giới.
Sự phục hồi và phát triển của lý thuyết chủ nghĩa tự do mới
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ 20 cho đến nay, có sự phục hồi và phát
triển mạnh mẽ của những lý thuyết kinh tế chủ nghĩa tự do mới. Các quốc gia
trên thế giới đã nhận ra rằng, để phát triển nền kinh tế của quốc gia mình thì cần
phải chấp nhận điều tiết bằng cơ chế thị trƣờng. Đó là: 1/ thị trƣờng khuyến
khích hoạt động của kinh tế tƣ nhân, tạo thuận lợi cho một nền kinh tế đa thành
phần; 2/ Thị trƣờng có thể đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của tiêu dùng và sản xuất
lại ít tốn kém hơn; 3/ Thị trƣờng linh hoạt và mềm dẻo hơn các cơ quan nhà
nƣớc nên nó dễ thích nghi với những thay đổi nhanh chóng trên thực tế.
Thực tiễn đã chứng minh không có nƣớc nào trên thế giới thành công trong
chiến lƣợc phát triển kinh tế của mình mà không có nền kinh tế thị trƣờng tự do.
Đặc biệt, sự thành công của các nƣớc NIEs, ASEAN là một bằng chứng cho thấy
tăng cƣờng sự tự điều tiết dựa trên nguyên tắc thị trƣờng và dỡ bỏ những rào cản
để thị trƣờng phát triển tự do là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn
đến sự thành công.
Thêm vào nữa, ngƣời ta bắt đầu cảm nhận thấy cái giá của việc không phải
11
là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là có thật: mất đi thế đàm phán
trong các cuộc đàm phán đa phƣơng; bỏ lỡ các cơ hội hƣởng lợi từ bên ngoài và
sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá.
Nhƣ vậy, với những cơ sở lý luận của ích lợi thƣơng mại đƣa lại cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của lý thuyết “chủ nghĩa khu vực mở” do APEC khởi
xƣớng đã thúc đẩy hơn nữa sự ra đời của các khối liên kết thƣơng mại ở tầm khu
vực và sự phục hồi tƣ tƣởng của chủ nghĩa tự do mới. ACFTA ra đời cũng là phù
hợp với xu hƣớng chung của thế giới.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI ACFTA
1.2.1. Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hoá đang là xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc
tế hiện đại. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành một xu thế của nền kinh tế
thế giới, trong đó tự do hoá thƣơng mại là nội dung nổi trội. Trong thực tế, một
nền kinh tế toàn cầu hoá không phải là một hiện tƣợng hoàn toàn mới mẻ, nó đã
đƣợc ngƣời ta nói đến cách đây khoảng một thế kỷ, khi liên kết kinh tế quốc tế
bắt đầu đƣợc phát triển. Lúc này, tính toàn cầu chỉ đƣợc thể hiện thông qua việc
cắt giảm các hàng rào thƣơng mại và đƣợc nảy sinh từ khả năng cắt giảm chi phí
vận chuyển do sự phát triển của đƣờng sắt và đƣờng thuỷ.
Trong những năm gần đây, toàn cầu hoá đã là một xu thế bao trùm của nền kinh
tế thế giới. Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày nay không chỉ bó hẹp
trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế, mà nó còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau của
đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, để phát triển, mọi nƣớc trên thế giới cần phải chấp
nhận nó và cố gắng cải cách nền kinh tế của mình sao cho có thể tranh thủ đƣợc tối
đa các lợi ích mà quá trình này mang lại. Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá
đƣợc tăng cƣờng rất mạnh mẽ trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy nhiều tổ chức
liên kết kinh tế mở rộng. Liên minh Châu Âu (EU) mở rộng tới phía Trung và
Đông Âu. APEC có xu hƣớng dần dần thể chế hoá khu vực cho mình. Ấn Độ
đƣa ra sáng kiến thành lập tổ chức vành đai Ấn Độ Dƣơng, nhằm tạo ra một
12
không gian địa- kinh tế mới. Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đẩy
mạnh thƣơng mại từ Alaska đến Nam cực... Nhƣ vậy, các chƣơng trình tự do hóa
thƣơng mại khu vực đang đƣợc phát triển rất rầm rộ. Thông qua việc ký kết các
BẢNG 1. MỘT SỐ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI KHU VỰC VỚI SỰ THAM GIA CỦA CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN (TÍNH ĐẾN NĂM 1997)
Tên hiệp định
Viết tắt
Thành viên
Hiệp ƣớc lome lần thứ tƣ ACP
70 nƣớc gồm các nƣớc đang phát triển ở Châu Phi,
Caribe và TBD với Cộng đồng châu Âu
Thị trƣờng chung An-đơ
ANCOM Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela
(Hiệp ƣớc An-đơ)
Tổ chức hợp tác kinh tế
APEC
Australia, Brunei, Canada, Chile, Trung Quốc, Hồng công,
Châu Á- TBD
Nhật bản, Indonexia, Hàn Quốc, Malaysia, NiuDilan,
Mexico, Papua New Guine, Philippines, Singapore, Đài
Loan, Thái Lan, Mỹ, Nga, Peru và Việt Nam.
Hiệp hội các quốc gia
ASEAN
Indonexia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan,
Đông Nam Á
Lào, Brunei, Myanma, Campuchia, và Việt Nam .
Cộng đồng hợp tác kinh tế
CARICO
Antigua và Barbuda, Bahamas, Barbado, Belize,
và
thị
trƣờng
chung
M
Dominica, Grenada, Guyana, Jamaica, Montserrat,
Caribe
St.Kitt và Nevi, St.Lucia, St.Vincent và Grenadina,
Surinam, Trinidad và Tobago.
Khu vực mậu dịch tự do
AFTA
Indonexia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan,
ASEAN
Lào,Brunei, Myanmar, Campuchia, và Việt Nam .
Liên minh kinh tế và thuế
UDEAC
Cameroon, Chad,Gabon, Công–gô, Cộng hòa Trung
quan Trung Phi
Phi.
Thị trƣờng Trung Mỹ
CACM
Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras,
Nicaragoa.
Khu vực mậu dịch tự do
CEFTA
Cộng hòa Séc, Hungary, Balan, Cộng hòa Slovac,
Slovenia, Rumania.
Trung Âu
Cộng đồng kinh tế Tây
CEAO
Benin, Burkina Faso, Cape Verdo, Cote dlvoire, Nhóm
Phi
đảo Gambia, Mali, Ni –ghê, Sênêgal, Togo
Cộng đồng Đông Phi
EAC
Kênia, Tanzania, Uganda.
hiệp định thƣơng mại đa bên, nhiều khối thƣơng mại tự do đã đƣợc thành lập.
13
Hiệp hội kinh tế Đông Á
EAEG
Brunei, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Lan,
Thái Lan, Philíppin, Inđônêxia, Malayxia, Singapor,
Nhật bản.
Hội đồng hợp tác vùng
GCC
Bahrain, Co–oét, Oman, Quata, ả rập Xe –út, Các tiểu
vƣơng quốc ả rập thống nhất.
vịnh
Khu vực mậu dịch tự do
LAFTA
Achentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Peru,
Ecuado, Mexico, Paragoay, Urugoay, Venezuela.
Mỹ latinh
Hiệp hội liên kết Mỹlatinh LAIA
Achentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Peru,
Ecuado, Mexico, Paragoay, Urugoay, Venezuela
Mercosur
(thị
trƣờng
MERCOS
Achentina, Brazil, Paragoay, Urugoay.
chung Nam Mỹ)
UR
Hiệp định mậu dịch tự do
NAFTA Mỹ, Canada, Mexico.
Bắc Mỹ
Khu vực mậu dịch Nam Á SAFTA
Bănglađẻt, Butan, ấn độ, Manđivơ, Nêpan, Pakistan,
Srilanka.
Cho đến nay, đã có trên 100 liên minh thƣơng mại đƣợc ra đời, tập trung
chủ yếu ở Châu Âu và Châu Mỹ. Ở Châu Á, tuy các hiệp định thƣơng mại tự do
không nhiều (theo số liệu của JETRO thì có 3 liên minh, nhƣng theo WTO thì có
10 vì nó bao hàm cả các liên minh chỉ mới ký kết trên giấy tờ chứ chƣa đƣợc
thực hiện), nhƣng chúng đƣợc đánh giá là thực hiện rất tích cực và đạt kết quả
ban đầu đáng khích lệ. Các khối thƣơng mại tự do này có thể là do các nƣớc phát
triển và các nƣớc đang phát triển cùng thành lập nên nhƣ NAFTA, APEC,
MERCOSUR, SAFTA. Cần ghi nhận thêm rằng các khối thƣơng mại tự do mới
thành lập đều đƣợc định hƣớng ra thị trƣờng thế giới rộng lớn, chứ không mang
tính hƣớng nội nhƣ các khối thƣơng mại đƣợc thành lập trƣớc đây.
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
sự phát triển liên kết thƣơng mại khu vực. Đó là:
a) Sự gần gũi về địa lý: Do có sự gần gũi về địa lý, các nƣớc thành viên của
khối thƣơng mại tự do hy vọng trao đổi thƣơng mại giữa họ sẽ đƣợc tăng cƣờng
14
hơn vì chi phí vận tải và viễn thông thấp hơn, đồng thời lại đáp ứng đƣợc yêu
cầu muốn vƣơn ra thị trƣờng thế giới của các nhà sản xuất địa phƣơng.
b) Do những nhu cầu chính trị của các nước thành viên: Các hiệp định
thƣơng mại khu vực góp phần tích cực trong việc ổn định bầu không khí chính
trị trong vùng và chống lại những mối đe doạ từ bên ngoài. Có thể chứng minh
điều này qua những ví dụ từ thực tế. Việc tham gia vào liên minh Châu Âu đã
làm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ bùng nổ chiến tranh dƣới bất kỳ dạng nào
giữa Pháp và Đức. Mối hiềm khích giữa Achentia và Braxin đã đƣợc xoá bỏ khi
họ tham gia vào MERCOSUR. Mối quan hệ giữa các nƣớc lớn ở vùng Châu Á-
Thái Bình Dƣơng đã đƣợc cải thiện đáng kể nhờ sự ra đời và hoạt động của
APEC.
c) Đáp ứng nhu cầu của các nước về một thể chế thương mại đa phương
trong điều kiện các vòng đàm phán của GATT/WTO chưa đạt kết quả mong đợi:
Sau khi kết thúc Vòng Urugoay, mức thuế quan trung bình trên thế giới đã giảm
đáng kể và các nƣớc bắt đầu chuyển sang đàm phán về việc xoá bỏ các rào cản
phi quan thuế cũng nhƣ các vấn đề liên quan đến hoạt động của các thị trƣờng
mở cửa nhƣ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp và thƣơng mại dịch vụ.
Thế nhƣng, đàm phán về các vấn đề này không những đòi hỏi nhiều thời gian,
mà trong nhiều trƣờng hợp không đạt đƣợc hiệu quả mong muốn. Trƣớc thực tế
đó, các nƣớc hy vọng thông qua các hiệp định thƣơng mại khu vực, các vấn đề
mà WTO đang cần giải quyết sẽ đƣợc giải quyết nhanh chóng hơn, do số lƣợng
thành viên ít hơn. Không dừng lại ở đó, đa số các hiệp định thƣơng mại khu vực
đƣợc hình thành hiện nay đều cố gắng đáp ứng những yêu cầu pháp lý của WTO
đến mức tối đa có thể. Để đƣợc coi là có tính pháp lý theo WTO, các hiệp định
khu vực cần đáp ứng ba tiêu chuẩn sau: cần phải bao hàm phần lớn thƣơng mại
của các nƣớc thành viên, phải hạn chế tối đa khả năng xuất hiện các trở lực
thƣơng mại mới đối với các nƣớc không phải là thành viên và phải đạt đƣợc chế
độ thƣơng mại tự do sau một thời hạn nhất định (thƣờng là không quá 10 năm).
Các liên minh khu vực quan trọng nhƣ EU và NAFTA đã đáp ứng rất tốt các chỉ
15
tiêu này và chúng là nền tảng của hệ thống thƣơng mại đa phƣơng sau này.
Chính vì vậy, có thể nói các khối thƣơng mại tự do khu vực giữ vai trò bổ sung,
chứ không phải là thay thế hệ thống thƣơng mại toàn cầu.
Hiện nay, với vòng đàm phán Đô ha đang diễn ra rất khó khăn và đặc biệt
là sự thất bại của Hội nghị Can cun gần đây cho thấy rằng, các nƣớc phát triển và
đang phát triển đã không đạt đƣợc sự đồng thuận cao trong chƣơng trình phát
triển Đô ha. Điều này là do thiếu sự nỗ lực cần thiết để củng cố vai trò và hiệu
quả của hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Đây là nguyên nhân chủ yếu đã thúc đẩy
mạnh mẽ xu hƣớng hình thành chủ nghĩa khu vực và ra đời các FTA song
phƣơng và khu vực nhƣ ACFTA, trong thời gian gần đây.{27,74}
d) Là bước thử nghiệm để tham gia tự do hóa thương mại toàn cầu: Trong
điều kiện thế giới chƣa sẵn sàng cho thƣơng mại tự do ở mức toàn cầu, khi tham
gia một hiệp định thƣơng mại khu vực nào đó, các nƣớc thành viên có cơ hội làm
quen với tự do hoá ở cấp cao hơn và từ đó có kinh nghiệm để tham gia vào hợp
tác đa phƣơng. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu còn cho rằng trong phạm vi tổ
chức thƣơng mại khu vực, các nƣớc thành viên có cơ hội khảo cứu và thử
nghiệm các giải pháp cho các vấn đề thƣơng mại phức tạp hơn mà hệ thống
thƣơng mại toàn cầu chƣa thể đề cập đến.
Khi tham gia vào WTO, cũng nhƣ các tổ chức thƣơng mại khu vực, các
nƣớc đang phát triển có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thƣơng mại.
Hiện tại, vị thế của các nƣớc đang phát triển trong các tổ chức quốc tế nói chung
và các tổ chức thƣơng mại nói riêng đã tăng lên rõ rệt. Ngày nay, không chỉ các
nƣớc Mỹ và Châu Âu đƣợc lợi từ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, mà các
nƣớc đang phát triển cũng bắt đầu thu lợi từ cơ chế này. Ví dụ vào tháng 8/2003,
các công ty dệt may của Mỹ yêu cầu chính phủ áp dụng hạn ngạch đối với bốn
chủng loại sản phẩm là đồ lót, quần áo ngủ, găng tay và sợi len. Theo Viện
nghiên cứu sản xuất dệt may của Mỹ, xuất khẩu của Trung Quốc có thể khiến
cho ngành công nghiệp dệt may của nƣớc này phá sản trong vòng 5 năm tới.
Trung Quốc lại thuyết phục Mỹ dỡ bỏ các biện pháp bảo hộ và cũng tuyên bố sẽ
16
đƣa vụ kiện ra trƣớc WTO, đồng thời có thể trả đũa vào sản phẩm nông nghiệp
nhập khẩu từ Mỹ [7]. Có thể nói, các nƣớc đang phát triển đã biết tận dụng
những cơ chế trong các tổ chức thƣơng mại nhằm xoá dần tình trạng bất bình
đẳng giữa nƣớc lớn và nƣớc phát triển với các nƣớc đang phát triển. Đây là một
trong những lý do làm cho tự do hoá thƣơng mại khu vực mở trở thành làn sóng
đƣợc phát triển mạnh mẽ trên phạm vi thế giới trong những năm gần đây.
Các khối liên kết thƣơng mại khu vực xuất hiện có nhiều nguyên nhân nhƣ
đã trình bày ở trên và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đƣợc ra
đời cũng không nằm ngoài những nguyên nhân đó. Tuy nhiên, nguyên nhân quan
trọng nhất theo các nhà nghiên cứu thì do những nhu cầu về kinh tế và chính trị
của các nƣớc thành viên đặc biệt là Trung Quốc khi muốn thể hiện vai trò bá chủ
của mình trong khu vực.
1.2.2. Những yếu tố nội tại từ sự phát triển của ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN ) đƣợc thành lập vào năm
1967 với sự tham gia của năm nƣớc là Thái lan, Indonexia, Malayxia, Singapore
và Philipin. Vào năm 1984, tổ chức này kết hợp thêm thành viên thứ 6 là Brunei.
Bƣớc sang thập niên 90, dƣới tác động của quá trình toàn cầu hoá và khu vực
hoá trong nền kinh tế thế giới, nhu cầu mở rộng ASEAN ra toàn khu vực Đông
Nam Á đã trở nên cấp thiết. Vì vậy, chỉ trong vòng 5 năm, từ 1995-1999, bốn
nƣớc còn lại trong khu vực là Việt Nam, Lào, Myanma và Cămpuchia lần lƣợt
trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Sự ra đời của ASEAN là do sự
tƣơng đồng về vị trí địa- kinh tế, địa- chính trị... ASEAN là một khối kinh tế-
thƣơng mại khu vực liên kết 10 quốc gia không đồng nhất, nếu xét về tổng thể.
Với 10 thành viên, ASEAN đã trở thành một thị trƣờng khu vực rộng lớn với
dân số trên 490 triệu ngƣời, diện tích gần 4,2 triệu kilômét vuông và liên kết
mạnh vào nền kinh tế thế giới - xuất khẩu của toàn khối đã đạt 6,3% tổng xuất
khẩu của thế giới vào năm 1996 (tỷ trọng lớn nhất so với các khối kinh tế
thƣơng mại khác của các nƣớc đang phát triển ). Các nƣớc ASEAN không chỉ
khác nhau về diện tích đất đai, dân số, thu nhập theo đầu ngƣời, mức tăng
17
trƣởng kinh tế và xuất khẩu (bảng 2), mà còn khác nhau về thể chế chính trị
và trình độ phát triển kinh tế.
ASEAN kể từ khi thành lập đã coi hợp tác kinh tế là một trong những nội
dung hợp tác chủ yếu trong các hoạt động của Hiệp hội “Thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế” là ƣu tiên hàng đầu trong số các mục tiêu của Hiệp hội. Từ
“Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN” thông qua năm 1976; “Tuyên bố
Singapore năm 1992” và “Hiệp định khung về tăng cƣờng hợp tác kinh tế
ASEAN ” thông qua năm 1992 và đến “Tầm nhìn ASEAN năm 2020” thông
qua năm 1997, mục tiêu và phƣơng hƣớng hợp tác kinh tế của ASEAN có
những thay đổi và điều chỉnh nhƣng nội dung hợp tác kinh tế ASEAN ngày
càng đƣợc mở rộng ra các lĩnh vực và hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn. Các
chƣơng trình hợp tác của ASEAN với tính cách là một cộng đồng khu vực
mậu dịch tự do đƣợc thông qua nhƣ hợp tác về thƣơng mại, thoả thuận ƣu đãi
thƣơng mại rồi đến khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Có thể khẳng định
ASEAN coi phát triển kinh tế là một nhu cầu cấp thiết trong đó quá trình tự
do hoá thƣơng mại là việc cần thiết phải tiến hành.
Quan điểm ủng hộ tự do hoá thƣơng mại của các nƣớc thành viên
ASEAN tiếp tục đƣợc củng cố, khi họ quyết định thành lập khu vực mậu dịch
tự do ASEAN và ủng hộ triệt để tƣ tƣởng chủ đạo của APEC về “Chủ nghĩa
khu vực mở”. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã đƣợc ra đời tại
Hội nghị thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ tƣ 1-1992 tại Singapore, đánh dấu một
giai đoạn mới trong quá trình hợp tác kinh tế khu vực. Theo “Tuyên bố
Singapore” mậu dịch tự do trong nội bộ khu vực sẽ đƣợc thực hiện vào năm
2008 và sau đó đƣợc đẩy lên sớm hơn vào năm 2003. Mục tiêu cơ bản là
“tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của ASEAN nhƣ một cơ sở sản xuất quốc tế
nhằm cung cấp hàng hoá ra thị trƣờng thế giới”.
Sự ra đời của AFTA là phù hợp với xu thế chung của nền kinh tế thế giới,
phù hợp với diễn biến tình hình chính trị và an ninh trong khu vực, đáp ứng
những đòi hỏi của liên kết kinh tế khu vực trong kỷ nguyên sau chiến tranh lạnh.
18
Mặc dù ASEAN là 1 khối kinh tế- thƣơng mại khu vực liên kết 10 quốc gia
không đồng nhất, nhƣng vẫn đƣợc coi là khối thƣơng mại thành công nhất trong
những tổ chức liên kết kinh tế khu vực của các nƣớc đang phát triển. Sự tăng
trƣởng và phát triển kinh tế của các nƣớc thành viên đó chính là sự nỗ lực cải
cách và hội nhập của từng nƣớc, là kết quả của đƣờng lối phát triển kinh tế đúng
đắn của mỗi nƣớc thành viên.
Đông Nam Á là vùng tập trung nhiều tuyến đƣờng giao thông quốc tế và ở
vị trí tiếp giáp, trung chuyển giữa Phƣơng Đông và Phƣơng Tây, với vị trí nhƣ
vậy, ASEAN luôn thu hút sự chú ý của các nƣớc lớn trong và ngoài khu vực.
Mong muốn đƣợc phát triển ổn định và độc lập, nhiều quốc gia Đông Nam Á từ
lâu đã nhận thấy rằng, cần kết thành một khối tạo nên sự gần gũi về chính trị,
kinh tế giữ đƣợc độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế. Những năm gần đây các
nhà lãnh đạo ASEAN càng khẳng định quyết tâm tăng cƣờng hợp tác quốc tế để
nâng cao sức mạnh của nền kinh tế quốc gia, khai thác tốt những tiềm năng của
khu vực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế một cách ổn định trong xu hƣớng
toàn cầu.
Kể từ khi thành lập, quá trình hội nhập kinh tế của các nƣớc ASEAN đƣợc
tiến hành trên 30 năm. Những sự hợp tác mà ASEAN đã, đang và sẽ thực hiện
không ngoài mục đích làm cho kinh tế quốc gia của từng thành viên phát triển,
vấn đề việc làm và công bằng xã hội ở mỗi nƣớc đƣợc cải thiện. Hơn nữa trong
điều kiện thị trƣờng ngày một khó khăn, hợp tác kinh tế ASEAN còn nhằm mục
tiêu tăng khả năng cạnh tranh của mỗi nƣớc trên thị trƣờng thế giới. Qua tất cả
các giai đoạn, tất cả những yếu tố: tình hình chính trị thế giới, những xu hƣớng
biến động chung về mọi mặt trên toàn cầu, những sự cố chính trị của mỗi nƣớc,
tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới đều có tác động lớn đến sự phát triển
kinh tế từng quốc gia cũng nhƣ sự hợp tác kinh tế của khu vực.
Tuy thời điểm khởi đầu của AFTA về cơ bản là thuận lợi, song trong quá
trình thực hiện, các nƣớc thành viên ASEAN đã gặp phải không ít khó khăn. Ban
19
đầu chủ yếu là những khó khăn mang tính chất kỹ thuật, sau đó là những khó
khăn do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra vào tháng 7/1997 gây ra.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực tuy đã gây ra hậu quả nặng nề cho
nhiều nƣớc nhƣ tốc độ tăng trƣởng giảm sút, thất nghiệp gia tăng, nợ nần thêm
chồng chất, làm tăng nguy cơ bất ổn về chính trị, nhƣng đồng thời nó cũng mang
lại cho chính các nƣớc này những cơ hội để phát triển. Cho đến nay, ở nhiều
nƣớc nền kinh tế đã đi vào ổn định, kim ngạch ngoại thƣơng tính bằng đồng
nội tệ đều có xu hƣớng tăng lên do giá của chúng đã giảm tƣơng đối so với
đồng đô la Mỹ. Kết hợp với việc kiềm chế nhập khẩu, một số nƣớc đã có
thặng dƣ trong cán cân thanh toán vãng lai [34, 174; 35, 194]. Sự phục hồi
nhanh chóng của các nƣớc này chủ yếu do sự quan tâm hơn đến việc điều chỉnh
các chính sách liên quan, trong đó có chính sách tỷ giá hối đoái - vấn đề mà từ
trƣớc đến nay dƣờng nhƣ bị lãng quên trong quá trình tự do hoá thƣơng mại khu
vực.
Sau khủng hoảng tài chính- tiền tệ vào tháng 7 năm 1997, với tinh thần
quyết tâm theo đuổi chủ nghĩa tự do kinh tế và trách nhiệm đối với các cam
kết tại các tổ chức quốc tế, cụ thể APEC và WTO, tháng 12 năm 1998, tại Hội
nghị thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ sáu tổ chức ở Hà nội, các nƣớc thành viên
ASEAN đã khẳng định quyết tâm thực hiện chƣơng trình về Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN bằng việc đẩy thời gian thực hiện AFTA từ năm 2008 lên sớm
hơn vào năm 2003. Điều đó thể hiện quyết tâm phát triển liên kết kinh tế khu
vực sâu hơn nữa, đẩy mạnh cơ cấu và hội nhập kinh tế nhằm đƣa ASEAN trở lại
với vị trí là một khu vực phát triển kinh tế năng động nhất trên thế giới, nhƣ
trƣớc khi xảy ra khủng hoảng. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Bali (Inđônêxia)
vào 7/10/2003 đã quyết định xây dựng ASEAN thành một cộng đồng kinh tế
(AEC) vào năm 2020. Theo đó, ASEAN sẽ trở thành một thị trƣờng duy nhất, có
cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch
vụ, đầu tƣ, tƣ bản và nhân công có tay nghề. ASEAN cũng sẽ hợp tác và liên kết
20
chặt chẽ hơn trong các lĩnh vực kinh tế chuyên ngành, công nghệ, khoa học, phát
triển nguồn nhân lực, thông tin, thể chế… Nhƣ vậy, với tiến trình này, trong hai
thập niên tới, ASEAN sẽ tiến gần hơn về phía một thị trƣờng chung. Nhƣng
ASEAN cũng không hoàn toàn là một khối kinh tế đóng theo kiểu EU, mà có
khuynh hƣớng “mở” với nhiều hình thái liên kết kinh tế với đối tác bên ngoài.
Các khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), ASEAN – Ấn Độ
(AIFTA), ASEAN – Nhật Bản (AJCEP/FTA), Đối tác kinh tế chặt chẽ ASEAN
– CER, Hợp tác và liên kết kinh tế ASEAN – EU, ASEAN – Mỹ trong khuôn
khổ Hiệp định về thuận lợi hóa thƣơng mại và đầu tƣ (TIFA), Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN – Mỹ và Khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trong tƣơng
lai… sẽ tạo nên một mạng lƣới dày đặc các liên kết có tâm là ASEAN.
19
20
BẢNG 2. MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CÁC NƢỚC ASEAN
Dân số
Diện tích
GDP
GNP (xếp
GNP theo
Tỷ lệ biết
Tăng trƣởng
Tăng trƣởng xuất
Tên nƣớc
(triệu
(nghìn
(tỷ USD)
hạng theo
đầu ngƣời
chữ ở ngƣời
GNP trung
khẩu trung bình
ngƣời)
km2)
1996
WB)
(USD) 1996
lớn (%)
bình năm (%)
hàng năm (%)
1995 – 1996
1965- 1996
1996
Cam-pu- chia
10
177
3,1
103
300
67
Indonexia
197
1812
213,4
22
1080
84
6,7
5,6
21
Malayxia
329
89,8
35
4370
83,5
6,8
9,5
46
Myanma
658
83,5
72
Philipin
298
83,3
36
1160
94,5
3,5
6,3
3
Singapore
1
93
33
30550
91
8,3
12,2
5
Lào
231
1,9
115
400
56
60
Thái Lan
511
177,5
24
2960
94
7,3
11,2
75
Việt Nam
325
21,9
56
290
93,5
0,3
Brunây
5,7
88
Mức trungbình của thế giới
5310
70
3,1
5,8
Nguồn: WB (1998), Wold Development Indicators 1998
21
1.2.3. Những yêu cầu trong tiến trình phát triển của Trung Quốc
Cải cách của Trung Quốc bắt từ năm 1978. Tại Hội nghị Trung ƣơng 3
khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc trong khi quyết định chuyển trọng điểm
công tác của Đảng và Nhà nƣớc sang xây dựng kinh tế, đã có những quyết sách
quan trọng đối với cải cách mở cửa. Hay Cải cách mở cửa là quyết sách quan
trọng quyết định vận mệnh của Trung Quốc{23}. Đặng Tiểu Bình nói rằng
“Xem xét kinh nghiệm lịch sử, lý do chính yếu làm cho Trung Quốc chìm vào
tình trạng đình trệ trong một thời gian dài là chính sách cô lập. Kinh nghiệm chỉ
ra rằng, sự phát triển của Trung Quốc không thể tách rời khỏi thế giới”. Chính
sách mở cửa đã thúc đẩy sự giao lƣu kinh tế, kỹ thuật và văn hoá giữa Trung Quốc
và thế giới, thúc đẩy quá trình nghiên cứu quản lý kinh tế vĩ mô trong một môi
trƣờng kinh tế mở, đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật và tích luỹ kiến thức, duy trì sự phát
triển bền vững của nền kinh tế thế giới. Kết quả của cuộc cải cách đạt đƣợc là vô
cùng to lớn, với chính sách này đã làm cho Trung Quốc, một quốc gia lớn đang
phát triển, hiện thực hoá một cách thành công phát triển kinh tế thông qua việc mở
cửa ra thế giới bên ngoài; Giúp Trung Quốc chuyển đổi một cách thành công từ
một nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trƣờng; Chính sách này giúp Trung
Quốc không chỉ vƣợt qua cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và sự suy giảm kinh
tế toàn cầu, mà còn thực sự thu hút nhiều FDI nhất thế giới trong năm 2002 và
2003 cùng với tổng kim ngạch thƣơng mại vƣợt mức 600 tỷ USD và tăng GDP ở
mức 8%. [40]
Cải cách mở cửa đã thúc đẩy kinh tế – xã hội của Trung Quốc phát triển
nhanh chóng. Hơn 20 năm cải cách mở cửa là thời kỳ mà nền kinh tế – xã hội
Trung Quốc phát triển nhanh nhất, nguồn lực của đất nƣớc đƣợc tăng cƣờng
nhiều nhất, nhân dân đƣợc lợi nhiều nhất. Nền kinh tế phát triển nhanh đã thu
hẹp rất nhiều khoảng cách của Trung Quốc so với các nƣớc phát triển. Tính theo
tỷ giá hối đoái của Ngân hàng thế giới, tổng sản lƣợng kinh tế của Trung Quốc
năm 1997 đứng thứ 7 trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh,
Italia. Sản lƣợng của rất nhiều sản phẩm công- nông nghiệp quan trọng của
22
Trung Quốc đã đứng vào nhóm các sản phẩm hàng đầu thế giới.
Có thể thấy những kết quả đạt đƣợc của Trung Quốc là vô cùng to lớn. Từ
đó tạo thế và lực cho Trung Quốc tham gia sâu sắc hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trƣớc xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, Trung Quốc nhận ra rằng cần phải tích cực tham
gia vào quá trình này, đó là con đƣờng duy nhất để Trung Quốc tiếp tục nhận
đƣợc những lợi ích, tận dụng đƣợc thời cơ về dịch chuyển lớn trên phạm vi toàn
cầu về vốn, kỹ thuật, ngành nghề do toàn cầu hóa đem lại, tiến hành chuyển đổi
cơ cấu nguồn lực thông qua các con đƣờng nhƣ phát triển mậu dịch, sử dụng vốn
nƣớc ngoài… nhằm đẩy mạnh liên tục sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Ngƣợc lại, Trung Quốc rút ra khỏi quá trình này thì sẽ không nhận đƣợc lợi ích
từ toàn cầu hóa kinh tế, mà có thể sẽ rơi vào cái vòng luẩn quẩn nhƣ trƣớc khi
mở cửa, đó là: đóng cửa- lạc hậu- đóng cửa{11}. Vì vậy, Trung Quốc hội nhập
sâu sắc vào nền kinh tế thế giới là một tất yếu. Bên cạnh đó, với vị thế là một
quốc gia lớn Trung Quốc cũng đang muốn gia tăng ảnh hƣởng của mình đối với
các nƣớc trong khu vực. Điều này đã thúc đẩy sự liên kết mạnh mẽ giữa Trung
Quốc với các nƣớc trong khu vực.
Với những nỗ lực cải cách và hội nhập cùng với sự nỗ lực đàm phán đến
tháng 10-2001, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới
(WTO). Đây là một mốc quan trọng đánh dấu tiến trình mở cửa đối ngoại của
Trung Quốc đã bƣớc vào giai đoạn mới. Việc gia nhập WTO là sự kiện có ý
nghĩa nhất kể từ khi Trung Quốc bắt đầu những cuộc cải cách kinh tế. Với tƣ
cách thành viên WTO sẽ đảm bảo rằng, những nỗ lực cải cách theo hƣớng thị
trƣờng này sẽ tiếp tục tăng nhanh bằng việc mở cửa nền kinh tế cho những đối
tác cạnh tranh trong và ngoài nƣớc, hạn chế tối đa mọi sự thay đổi. Nó sẽ giúp
Trung Quốc thực hiện đƣợc mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản phẩm trong nƣớc
(GDP) vào năm 2010 và trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Với sự gia nhập WTO, Trung Quốc càng có điều kiện thuận lợi trong việc thúc
đẩy hợp tác khu vực.
23
Một nƣớc Trung Quốc phát triển sẽ có tác dụng kích thích cả khu vực, dẫn
tới tăng mạnh về mặt thƣơng mại và đóng vai trò thúc đẩy cải tổ kinh tế trên bình
diện rộng lớn hơn. Nhƣng bên cạnh đó, Trung Quốc gia nhập WTO có thể sẽ
thúc đẩy vị trí cạnh tranh vốn đã cao kinh khủng của nƣớc này lên ngang với
phần còn lại của khu vực. Có thể khẳng định với việc gia nhập WTO, Trung
Quốc đã tác động mạnh đến các nƣớc trong khu vực theo cả hƣớng tích cực cũng
nhƣ tiêu cực. Việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm nƣớc này có thêm nhiều
láng giềng lẫn kẻ thù ở Châu Á. Là một cƣờng quốc đang lên, đƣơng nhiên vai
trò vƣợt trội của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với những cản trở về mặt kinh tế
đối với các nƣớc láng giềng.
Để khắc phục những điểm tiêu cực cũng nhƣ khai thác triệt để mối lợi do
việc Trung Quốc gia nhập WTO, các nƣớc trong khu vực đang bắt đầu có những
biện pháp phản ứng. Việc hình thành ACFTA cũng không nằm ngoài mục đích
của các nƣớc ASEAN và nó cũng là một sự bổ sung quan trọng cho các lợi thế
của ASEAN và Trung Quốc mà trong đó sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên.
1.2.4. Nhu cầu hợp tác kinh tế trong khu vực Đông Á
Ngày nay, Bắc Mỹ, Châu Âu và Đông Á đã trở thành ba trụ cột của nền
kinh tế thế giới. Nhƣng trong đó Đông Á lại là khu vực duy nhất còn lại trên thế
giới mà chƣa có một khối kinh tế khu vực nhƣ EU hoặc NAFTA. Mức độ hợp
tác kinh tế ở Đông Á lại bị xếp vào loại thấp nhất so với EU và NAFTA. Vì vậy,
gần đây nhu cầu hợp tác khu vực Đông Á đã đƣợc quan tâm. Nhu cầu này đƣợc
bắt nguồn từ sự phát triển của chủ nghĩa khu vực, từ cuộc khủng hoảng tài chính
ở Đông Á và xu hƣớng tăng cƣờng các mối quan hệ cá nhân tại khu vực Đông Á.
Hiện nay, Hiệp định mậu dịch tự do khu vực đã đƣợc ký kết rất nhiều giữa các
nƣớc trong khu vực, qua đó có thể thấy việc thành lập những khu vực mậu dịch
tự do ở qui mô khu vực đƣợc các nƣớc coi nhƣ một chính sách thƣơng mại mang
tính chiến lƣợc hơn là chính sách để đảm bảo an toàn trong trƣờng hợp hệ thống
thƣơng mại toàn cầu không phát huy đƣợc tác dụng. Sự tham gia tích cực vào
khu vực mậu dịch tự do của các nƣớc nhằm chuẩn bị bƣớc vào chủ nghĩa khu
24
vực, đồng thời tích luỹ kinh nghiệm về toàn cầu hoá thông qua hội nhập kinh tế.
Bên cạnh đó, khi khủng hoảng tài chính năm 1997 đã làm cho các nƣớc
Đông Á nhận thức ra sự cần thiết phải tăng cƣờng hợp tác kinh tế trong khu vực.
Để ngăn chặn việc khủng hoảng lan ra từ nƣớc này qua nƣớc khác, các nƣớc Đông
Á đã cảm nhận đƣợc sự cần thiết phải tăng cƣờng hợp tác trong khu vực hơn nữa.
Thêm nữa, việc phát triển những mối quan hệ cá nhân là một yếu tố quan
trọng trong việc đẩy nhanh các cuộc thảo luận diễn ra gần đây về chủ nghĩa khu
vực tại Đông Á. Cùng với việc thảo luận về hợp tác kinh tế giữa Đông Á và
Châu Âu trong khuôn khổ ASEM, các nƣớc Đông Á cũng đang cân nhắc sự cần
thiết phải củng cố lại vị thế của mình trong khu vực so với EU. Tại Hội nghị
thƣợng đỉnh ASEAN +3 diễn ra vào năm 1997 khi Thủ Tƣớng Mohamet
Mahathir của Malaysia mời các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc tham dự với tƣ cách không chính thức vào lễ kỷ niệm 30 năm thành lập tổ
chức ASEAN. Việc khởi đầu này đã thúc đẩy nhanh các cuộc thảo luận về sự
hợp tác và hợp nhất về kinh tế giữa các nƣớc trong khu vực Đông Á. Cả 3 nƣớc
Đông Bắc Á đang tỏ thái độ tích cực hơn đối với việc thành lập khu vực mậu
dịch tự do Đông Á. Trung Quốc đã đề xuất việc thành lập khu vực mậu dịch tự
do với ASEAN tại Hội nghị Thƣợng đỉnh ASEAN + 3 vào tháng 11/2002. Liệu
phải chăng Trung Quốc đang muốn thể hiện vai trò là ngƣời cầm đầu cho hội
nhập kinh tế tại khu vực Đông Á này? Câu trả lời là ACFTA ra đời cũng không
nằm ngoài nguyên nhân đó. Bên cạnh đó, ACFTA còn phản ánh nhu cầu hợp tác
kinh tế khu vực Đông Á và nó xuất phát từ lợi ích của cả hai phía là ASEAN và
Trung Quốc.
Về kinh tế:
Ngày nay, môi trƣờng kinh tế toàn cầu không còn thuận lợi cho ASEAN
nhƣ trƣớc đây để ASEAN tiếp tục chủ nghĩa khu vực mở. Sự suy thoái kinh tế ở
Mỹ, Nhật và EU trong năm 2000 gây ra bởi sự bùng nổ của lĩnh vực công nghệ
cao, sự thất bại của WTO ở Seattle, sự nổi lên của chủ nghĩa đơn phƣơng, một
triển vọng mờ nhạt cho vòng đàm phán mới của WTO và hàng loạt các cuộc biểu
25
tình chống đối trên khắp thế giới có thể tác động chuyển một ASEAN hƣớng
ngoại thành ASEAN hƣớng nội. Tuy nhiên, ASEAN không thể dễ dàng quay trở
lại một hiệp hội hƣớng nội vì: Thứ nhất, các nƣớc thành viên đã hội nhập sâu
sắc vào nền kinh tế thế giới cả về mặt thị trƣờng xuất khẩu lẫn FDI hay cả hai
mặt này. Nói cách khác mô hình tăng trƣởng nhờ xuất khẩu đã làm cho ASEAN
phụ thuộc nhiều vào bên ngoài. Thứ hai, các chiến lƣợc hƣớng nội đòi hỏi phải
có thị trƣờng nội địa đủ lớn để tạo ra cầu cho sản xuất. Thị trƣờng khu vực của
ASEAN chƣa hội nhập đầy đủ để có thể cho phép Hiệp hội đi theo hƣớng hƣớng
nội. Giải pháp thoả hiệp đối với ASEAN để giảm bớt sự phụ thuộc vào thị
trƣờng bên ngoài mà vẫn không hƣớng nội là tiến theo hƣớng khu vực mở có
chọn lọc với Trung Quốc thông qua thành lập ACFTA.
Một yếu tố nữa thúc đẩy bắt đầu thành lập ACFTA là nhu cầu của ASEAN
muốn tạo dựng khuôn khổ hợp tác có thể kiềm chế ảnh hƣởng tiềm năng của
việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với thị trƣờng nội khối. Dƣới sự cạnh tranh
quyết liệt của Trung Quốc, đặc biệt từ khi Trung Quốc là thành viên WTO,
ASEAN phải tìm cách để biến quan hệ cạnh tranh tiềm tàng với Trung Quốc
thành quan hệ hợp tác. Ngay cả khi chƣa phải là thành viên của WTO, Trung
Quốc đã có lợi thế tuyệt đối so với ASEAN về hàng dệt may/quần áo, các ngành
công nghiệp đòi hỏi nhiều nhân công và hàng điện tử. Các mặt hàng điện máy,
các công cụ liên quan đến kính mắt/đồng hồ treo tƣờng/đồng hồ đeo tay, phƣơng
tiện giao thông vận tải chiếm 70% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc
của ASEAN. Trong giai đoạn 1993 đến 1999, khối lƣợng nhập khẩu từ Trung
Quốc vào ASEAN tăng nhanh chóng, với tốc độ tăng trƣởng cao hơn nhiều lần
so với mức tăng của kim ngạch nhập khẩu các hàng hoá này từ các nƣớc khác
trên thế giới vào ASEAN. Vì vậy, điều quan trọng là ASEAN phải tìm kiếm một
khuôn khổ làm việc có thể giúp kiềm chế tác động tiêu cực đối với thị trƣờng của
nó do việc Trung Quốc vào WTO mang lại. ACFTA có thể là một khuôn khổ làm
việc nhƣ vậy.
Thông qua ACFTA, ASEAN có điều kiện thuận lợi đẩy mạnh xuất khẩu
26
hàng hoá vào thị trƣờng khổng lồ hơn 1,2 tỷ ngƣời tiêu dùng Trung Quốc.
Đối với FDI, ASEAN đã không ngừng bị sức ép sao cho trở nên có thuận
lợi hơn từ phía các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Do đó, đối với ASEAN, tác động
nghiêm trọng nhất của việc Trung Quốc gia nhập WTO là nguy cơ giảm sút tỷ
phần FDI. Sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra, luồng FDI vào ASEAN đã suy giảm
nghiêm trọng. Giá trị tuyệt đối của luồng FDI vào ASEAN giảm từ 32,5 tỷ năm
1997 xuống còn 13,8 tỷ năm 2000. Đối với Trung Quốc, các luồng FDI tăng gấp
10 lần từ mức 3,5 tỷ năm 1990 (chiếm 10% tổng số FDI vào các nƣớc đang phát
triển) lên 40,77 tỷ đôla Mỹ vào năm 2000 (chiếm 17% tổng FDI vào các nƣớc
đang phát triển). Xu hƣớng suy giảm của luồng FDI vào ASEAN về giá trị tƣơng
đối cũng nhƣ về giá trị tuyệt đối so với Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục giảm
trong tƣơng lai. Sự suy giảm này sẽ trở nên tồi tệ hơn khi viễn cảnh mà ngƣời ta
vẽ ra về các công ty Trung Quốc, một khi nền kinh tế Trung Quốc đã đƣợc củng
cố, sẽ bắt đầu đầu tƣ ra nƣớc ngoài không tỏ ra khả thi cho lắm. Một trong những
lý do để các công ty đầu tƣ ra nƣớc ngoài là nhằm tránh những hàng rào thuế
quan cao hoặc nhằm tận dụng những yếu tố đầu vào với giá thành thấp tại nƣớc
nhập khẩu ví dụ nhƣ công nhân, tài nguyên thiên nhiên,.... Xét cả hai lý do trên,
ASEAN sẽ không phải là một điểm đầu tƣ có lãi đối với các nhà đầu tƣ Trung
Quốc. Với tƣ cách là thành viên của WTO, Trung Quốc sẽ đƣợc hƣởng lợi từ
mức thuế quan thấp của các nƣớc ASEAN là thành viên của WTO. Nền kinh tế
Trung Quốc vẫn có lợi thế là có nhiều ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động có tay nghề thấp. Do những lợi thế này, các công ty Trung Quốc có thể sẽ
ƣu tiên đầu tƣ vào các lĩnh vực và khu vực kém phát triển trong nền kinh tế
Trung Quốc hơn là đầu tƣ ra nƣớc ngoài. Đầu tƣ trong nƣớc có thể sẽ còn trở nên
hấp dẫn hơn một khi chính phủ Trung Quốc đƣa ra các chính sách khuyến khích các
công ty trong nƣớc và nƣớc ngoài đầu tƣ hoặc tái đầu tƣ vào những tỉnh kém phát
triển của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, quy mô của nền kinh tế Trung Quốc sẽ
còn trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tƣ ASEAN làm ăn tại Trung Quốc.
27
ASEAN đang và sẽ tiếp tục đầu tƣ thặng dƣ vào Trung Quốc. Tuy việc thành lập
khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ không trực tiếp giải quyết việc
ASEAN ở thế bất lợi hơn Trung Quốc trong việc cạnh tranh thu hút đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài. Việc suy giảm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào ASEAN là một
trong những nguyên nhân thúc đẩy việc thành lập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN –Trung Quốc. Khu vực mậu dịch tự do này sẽ góp phần giảm đi những
rủi ro và những bất trắc, do đó góp phần thu hút thêm nhiều nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài cho cả hai bên.
ACFTA là khuôn khổ hợp tác để Trung Quốc điều tiết cạnh tranh của
ASEAN. Trong các thập kỷ qua, những ƣu đãi thƣơng mại và tự do hoá đầu tƣ ở
một số lĩnh vực và khu vực đã làm cho nền kinh tế trong nƣớc Trung Quốc bị
phân mảnh và đứt đoạn. Trong khi các vùng ven biển đang chuyển hƣớng sang
các ngành công nghiệp dùng nhiều vốn con ngƣời và công nghệ thì các vùng
phía tây vẫn rất phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và các ngành công nghiệp
sử dụng nhiều lao động không tay nghề. Sự phát triển không đồng đều này có thể
là nguyên nhân tiềm tàng cho các rối loạn về chính trị và xã hội. Trong giai đoạn
tới của cải cách kinh tế của Trung Quốc có thể sẽ tập trung vào hội nhập thị
trƣờng trong nƣớc và san bằng sự chênh lệch kinh tế xã hội bên trong Trung
Quốc nhằm dập tắt các nguyên nhân tiềm tàng của sự bất ổn chính trị và xã hội.
Do sự gần gũi về địa lý và sự tƣơng đồng về lợi thế cạnh tranh, đặc biệt trong
các sản phẩm sử dụng lao động không tay nghề, cạnh tranh từ phía ASEAN có
thể dẫn đến làm tồi tệ thêm sự chênh lệch kinh tế xã hội giữa các vùng địa lý của
Trung Quốc. Vấn đề này có thể dẫn đến việc sử dụng các biện pháp hạn chế đối
với việc tăng nhập khẩu từ ASEAN. Tuy nhiên, Trung Quốc chịu sự ràng buộc
của các luật lệ của WTO và do đó không dễ dàng áp dụng các biện pháp hạn chế
thƣơng mại đơn phƣơng nào đối với các hàng hoá nhập khẩu từ ASEAN. Bởi
vậy, ACFTA có thể tạo ra một khuôn khổ cho phép Trung Quốc kiểm soát hàng
hoá nhập khẩu của ASEAN vào Trung Quốc ngoài những luật lệ của WTO.
ACFTA với tƣ cách là một giải pháp cho việc bất ổn định của thị trƣờng
28
xuất khẩu của ASEAN và Trung Quốc. ASEAN và Trung Quốc sẽ cạnh tranh
với nhau tại thị trƣờng của các nƣớc thứ ba. Thị trƣờng xuất khẩu chính của
ASEAN và Trung Quốc cũng nhƣ cấu thành xuất khẩu của ASEAN và Trung
Quốc sang các thị trƣờng này hầu nhƣ giống nhau. Hai bên cùng xuất khẩu hàng
dệt may, quần áo, máy móc, hàng điện tử sang thị trƣờng Mỹ, Nhật Bản và EU.
Nhƣng hiện nay cạnh tranh tại thị trƣờng nƣớc thứ ba chƣa gay gắt bằng
cạnh tranh tại thị trƣờng nội địa của cả ASEAN và Trung Quốc. Tại thị trƣờng
Mỹ, trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã đƣợc hƣởng quy chế tối huệ quốc, mà sau
này đã đƣợc đổi tên thành quy chế thƣơng mại bình thƣờng. Do đó, hàng xuất
khẩu của ASEAN, đặc biệt là hàng xuất khẩu của các nƣớc ASEAN cũ đã phải
cạnh tranh với hàng Trung Quốc tại thị trƣờng Mỹ. Cho dù Trung Quốc gia nhập
WTO, thị phần nhập khẩu của ASEAN và Trung Quốc vào thị trƣờng Mỹ sẽ
không bị thay đổi một cách đáng kể. Đối với thị trƣờng EU, mặc dù Trung Quốc
là thành viên của WTO và đƣợc hƣởng lợi từ quá trình cắt giảm thuế quan đối
với hàng dệt may theo quy định tại Hiệp định về hàng dệt may của WTO, nhƣng
do việc thực thi Hiệp định này bị trì hoãn, do đó cạnh tranh của Trung Quốc tại
thị trƣờng EU sẽ không tăng lên đáng kể trong thời gian ngắn và hàng dệt may
của ASEAN xuất khẩu qua EU sẽ tiếp tục đƣợc đảm bảo nhờ những thoả thuận
về hạn ngạch dệt may giữa hai bên.
Yếu tố khác thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc tiến tới thành lập ACFTA là
việc tìm kiếm những thị trƣờng thay thế cho những thị trƣờng đang ngày càng bị
thu hẹp lại tại Mỹ, Nhật Bản, EU. Một điều mà ngày càng hiển nhiên là việc phụ
thuộc quá nhiều vào thị trƣờng của nƣớc thứ ba đang tỏ ra phản tác dụng đối với
cả ASEAN lẫn Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế 1997 cùng
sự suy giảm của nền kinh tế thế giới mới đây đã chỉ ra rằng đây là lúc Trung
Quốc và ASEAN phải đa dạng hoá thị trƣờng xuất khẩu của mình, đặc biệt là
nhằm tối ƣu hoá các tiềm năng của thị trƣờng nội địa của cả hai bên. Đứng trƣớc
những bất lợi mà thị trƣờng xuất khẩu truyền thống tại các nƣớc thứ ba đang
mang lại cho ASEAN và Trung Quốc thì việc thành lập khu vực mậu dịch tự do
29
ASEAN và Trung Quốc là cần thiết.
Về chính trị
Mong muốn của Trung Quốc gìn giữ sự ổn định khu vực.
Có rất nhiều nhà kinh tế đã đặt câu hỏi: tại sao ý tƣởng thành lập ACFTA
lại đƣợc bắt đầu từ phía Trung Quốc khi mà thậm chí không có ACFTA, với tƣ
cách là một thành viên của WTO, Trung Quốc đã có thể có đƣợc khả năng thâm
nhập thị trƣờng đối với các thị trƣờng chính của ASEAN trừ thị trƣờng của các
nƣớc thành viên mới. Đó là, việc Trung Quốc có thể và sẵn sàng nhận vai trò của
một cƣờng quốc kinh tế trong khu vực. Trung Quốc có ý định gây ảnh hƣởng
trong khu vực bằng cách lấp đầy chỗ trống của một nƣớc nắm quyền lãnh đạo
trong khu vực. Ý định này đƣợc hỗ trợ của sức mạnh kinh tế đã tích luỹ trong
suốt hai thập kỷ qua. Thêm nữa, Trung Quốc lo ngại ASEAN ở ngã ba đƣờng có
thể dễ dàng bị lôi kéo. Xu hƣớng ASEAN chuyển từ hiệp hội hƣớng ngoại sang
hiệp hội hƣớng nội là rất có thể do các điều kiện kinh tế chính trị bất lợi trong
khu vực và trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đã ảnh hƣởng
tới vai trò chính trị và xoá đi các thành tựu kinh tế của ASEAN. Những nhà quan
sát bi quan đang bắt đầu tự hỏi liệu ASEAN vẫn còn cần thiết đứng trên phƣơng
diện chính trị và kinh tế. Đã có cuộc khủng hoảng niềm tin trầm trọng đối với
ASEAN. Khả năng Trung Quốc gia nhập WTO đến khi khu vực này vừa mới
phục hồi vào năm 2000. Do sự gần gũi về địa lý, tính tƣơng đồng về lợi thế so
sánh và các quan hệ lịch sử với Trung Quốc, khả năng Trung Quốc gia nhập
WTO gây ra các mối sợ hãi rộng khắp và nỗi lo lắng băn khoăn ở Đông Nam Á
về sự canh tranh ác liệt với Trung Quốc về FDI và thị phần, những cái có ý
nghĩa sống còn đối với quá trình hồi phục của ASEAN. Các mối sợ hãi và lo
lắng này có thể dễ dàng và nhanh chóng chuyển thành các biện pháp đối phó có
thể bất lợi cho Trung Quốc trong việc mở rộng ảnh hƣởng trong vùng Đông Nam
Á.
Một ASEAN hƣớng nội có thể sẽ thiệt hại cho lợi ích chính trị của Trung
Quốc tại khu vực Đông Nam Á trong ngắn hạn. Nhƣng trong dài hạn, tác động
30
không lợi này sẽ rất có thể chuyển sang lĩnh vực kinh tế. Khi mà các nƣớc Đông
Nam Á phục hồi từ cuộc khủng hoảng và trở nên hội nhập hoàn toàn Trung
Quốc sẽ có thể mất đi thị phần trong thị trƣờng thống nhất này nếu nó không ủng
hộ thiết lập các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với hiệp hội này ngày hôm nay.
Trong bối cảnh này, việc thành lập ACFTA đã đƣợc Trung Quốc khuyến
cáo nhằm làm dịu mối lo lắng khắp nơi trong khu vực Đông Nam Á rằng tự do
hoá thƣơng mại với Trung Quốc sẽ là trò chơi có tổng bằng không đối với
ASEAN. Việc thành lập ACFTA là một quyết định đúng lúc của Trung Quốc khi
mà dƣờng nhƣ ASEAN không còn nhiều sự lựa chọn ngoài việc đồng ý.
Mong muốn về chính trị của ASEAN là có một khu vực hòa bình, ổn định
và hợp tác cùng có lợi. Bên cạnh đó, những mối quan hệ chặt chẽ giữa ASEAN
và Trung Quốc còn có thể làm giảm áp lực mà một số nƣớc ASEAN đang cảm
nhận từ việc mở rộng cuộc chiến chống khủng bố vào các nƣớc ASEAN. Đồng
thời, ASEAN muốn ngăn ngừa nguy cơ bành trƣớng quân sự của Trung Quốc
đối với khu vực này và lôi kéo Trung Quốc vào hợp tác kinh tế là một cách để
ASEAN ngăn chặn sự bành trƣớng này.
Ngoài ra, ACFTA ra đời còn phản ánh xu thế hội nhập khu vực của các
nƣớc Đông Á. Theo các nhà kinh tế Nhật Bản, sau khi cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ ở Châu Á xảy ra, những ngƣời Đông Á nhận ra rằng họ đã tự chăm
sóc mình trong nỗi khốn khó của mình và không phụ thuộc vào các thế lực bên
ngoài. Vậy làm thế nào để họ có thể vạch ra một cơ chế phối hợp chính sách để
chống lại khủng hoảng? Làm thế nào để nuôi dƣỡng môi trƣờng kinh tế phù hợp
với sự năng động của Châu Á. Câu trả lời một cách tự nhiên đối với họ chính là
bƣớc vào địa hạt của chủ nghĩa khu vực. Năm 1998, Hàn Quốc và Nhật Bản đã
chính thức tuyên bố rằng họ sẽ từ bỏ giải pháp bấy lâu là chỉ tham gia vào
GATT/WTO và theo đuổi giải pháp nhiều tầng nấc bao gồm việc tham gia vào
chủ nghĩa khu vực và đa phƣơng trong chính sách thƣơng mại quốc tế của mình.
Mục tiêu cuối cùng của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đông Nam Á
đó chính là sự hội nhập toàn khu vực Đông Á. Với đầu tầu tích cực về phía
31
Trung Quốc, các lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã nhanh chóng tuyên bố
thành lập ACFTA. Sáng kiến ACFTA đƣợc xem nhƣ là bằng chứng mạnh mẽ
rằng Đông Á sẽ bƣớc vào kỉ nguyên của chủ nghĩa hội nhập.
32
CHƢƠNG II
ACFTA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁC
NƢỚC THÀNH VIÊN ASEAN VÀ TRUNG QUỐC
2.1. HIỆP ĐỊNH KHUNG ACFTA VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NÓ
2.1.1. Diễn tiến ra đời của Hiệp định khung ACFTA
Quan hệ ASEAN – Trung Quốc bắt đầu từ năm 1991, khi Trung Quốc
đƣợc mời tham dự hội nghị Ngoại trƣởng ASEAN lần thứ 24 tại Cuala Lămpơ
với tƣ cách là khách mời của nƣớc chủ nhà Malaixia, đánh dấu sự mở đầu quan
hệ hiệp thƣơng ASEAN-Trung Quốc. Đến tháng 3-1996, Phó thủ tƣớng kiêm Bộ
trƣởng Ngoại giao Trung Quốc gửi thƣ cho chủ tịch uỷ ban Thƣờng trực ASEAN
đề nghị nâng quan hệ tƣ vấn ASEAN-Trung Quốc lên thành quan hệ đối thoại
đầy đủ. Không chỉ dừng lại ở đó, quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc ngày
càng đƣợc mở rộng và hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
Tại Hội nghị Thƣợng đỉnh ASEAN- Trung Quốc 6/11/2001 tại Brunây, các
nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã phê chuẩn đề nghị việc một Hiệp định
hợp tác kinh tế khung và thiết lập một khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung
Quốc trong 10 năm. Trong đó các nhà lãnh đạo cũng xác định năm lĩnh vực ƣu
tiên để hợp tác trong tƣơng lai là Nông nghiệp, Công nghệ thông tin viễn thông,
đầu tƣ tƣơng hỗ và phát triển Lƣu vực Mê-Kông.
Về lĩnh vực nông nghiệp: Theo Hiệp định khung Trung Quốc- AMAF, các
Bộ trƣởng Nông nghiệp của các nƣớc thành viên ASEAN và Trung Quốc đã
thông qua chƣơng trình nghị sự hợp tác giữa hai bên. Một bản ghi nhớ dự thảo
về hợp tác nuôi trồng thuỷ sản trung và dài hạn giữa ASEAN và Trung Quốc đã
đƣợc xây dựng và thảo luận và đƣợc Tổng Thƣ ký ASEAN thay mặt cho các
nƣớc thành viên ASEAN và Bộ trƣởng Nông nghiệp Trung Quốc kí kết vào
tháng 10 năm 2002. Bản ghi nhớ dự kiến sẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện
giữa ASEAN và Trung Quốc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phát triển nguồn nhân lực: Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lƣợc, tạo nền
33
tảng cho hợp tác chung giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực khác.
Phát triển nguồn nhân lực sẽ đem lại sự hiểu biết sâu sắc hơn cho ASEAN và
Trung Quốc thông qua trao đổi liên kết giữa các chuyên gia, quan chức và các
lĩnh vực hợp tác này.
Công nghệ thông tin và liên lạc (ITC): Trong nền kinh tế tri thức, ITC đóng
vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sản lƣợng cao giúp thúc đẩy sự tăng trƣởng kinh
tế. ASEAN và Trung Quốc cho rằng hợp tác trong lĩnh vực ITC cần đƣợc coi
là một công cụ để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế. Một số dự án đã
đƣợc xây dựng nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin về xây dựng viễn thông, luật
lệ và qui định mạng, an ninh thông tin, phát triển nhân lực và công nghệ thông
tin tạo ra một môi trƣờng chính sách thuận lợi cho việc phát triển công nghệ
thông tin liên lạc.
Phát triển tiểu vùng Mêkông: ASEAN và Trung Quốc đang hợp tác chặt
chẽ trong các chƣơng trình và dự án phát triển tiểu vùng Mêkông trong các
khuôn khổ khác nhau nhƣ Tiểu vùng Mêkông mở rộng (GMS), Hợp tác Phát
triển Lƣu vực Mêkông ASEAN và uỷ Hội sông Mêkông
Các động thái kể trên trong hợp tác ASEAN – Trung Quốc đã đặt nền tảng vững
chắc cho sự phát triển một khu vực thƣơng mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc.
Ý tƣởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và
Trung Quốc xuất phát từ đề xuất của Thủ tƣớng Trung Quốc Chu Dung Cơ tại
Hội nghị thƣợng đỉnh không chính thức ASEAN lần thứ 4 tổ chức vào 11/2000.
Trong năm này, Trung Quốc còn thoả thuận sẽ tăng cƣờng hợp tác và đƣa ra
những hạng mục hợp tác cụ thể nhƣ khai thác sông Mêkông, xây dựng tuyến
đƣờng sắt xuyên á...
Đến năm 2001, những thoả thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN đã có
những bƣớc tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết lập khu vực
không có vũ khí hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác hữu nghị Đông Nam
Á, cam kết đầu tƣ 5 triệu USD để nạo vét sông Mêkông và tài trợ 1/3 chi phí xây
dựng tuyến đƣờng cao tốc Băng Kốc- Côn Minh. Đặc biệt, Hội nghị giữa những
nhà lãnh đạo ASEAN- Trung Quốc tổ chức vào ngày 6/11/2001 tại Banda Seri
34
Begawan- Brunei, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và 10 nƣớc ASEAN đã đi đến
nhất trí về việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc trong
vòng 10 năm, đồng thời chính thức uỷ quyền cho các bộ trƣởng và quan chức
của hai bên đàm phán vấn đề này.
Từ sau khi đạt đƣợc thoả thuận thành lập ACFTA đến nay, hai bên đã nỗ
lực xúc tiến các công tác thúc đẩy tiến trình ra đời của ACFTA. Các tổ chức nhƣ
Uỷ ban đàm phán thƣơng mại ASEAN- Trung Quốc (TNC) và Hội đồng thƣơng
mại ASEAN –Trung Quốc đã đƣợc thành lập. Đồng thời các cuộc gặp giữa các
nhà lãnh đạo hai bên để đàm phán về phát triển hợp tác kinh tế thƣơng mại đã diễn
ra liên tục trong năm qua nhƣ: Cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cao cấp
ASEAN –Trung Quốc (SEOM) lần thứ 3 hồi tháng 5/2002 tại Bắc Kinh, Hội thảo
quốc tế về hợp tác trong thƣơng mại, đầu tƣ và phát triển ASEAN –Trung Quốc
diễn ra vào tháng 6 tại Côn Minh Trung Quốc, Diễn đàn về hợp tác ASEAN –
Trung Quốc vào tháng 8 tại Kuala Lumpur- Malayxia, Hội nghị bộ trƣởng kinh tế
ASEAN – Trung Quốc lần thứ nhất vào tháng 9 tại Brunei, cuộc gặp giữa các
quan chức kinh tế cấp cao của hai bên vào tháng 10 tại Singapore.... Bên cạnh đó,
còn có rất nhiều các cuộc viếng thăm của các nhà lãnh đạo cũng nhƣ của các
nhóm khảo sát của hai bên đến Trung Quốc và ASEAN để tìm hiểu thị trƣờng và
tìm kiếm cơ hội.
Với những nỗ lực của hai bên qua một năm, ngày 4/11/2002, tại Hội nghị
thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ 8 diễn ra tại Phnom Penh- Cămpuchia, Trung Quốc
và 10 nƣớc ASEAN đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa
Trung Quốc và ASEAN. Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, nó chính thức
đánh dấu sự bắt đầu của quá trình thành lập ACFTA- khu vực mậu dịch tự do
lớn nhất trên thế giới với gần 1,8 tỷ dân và cũng là khu vực mậu dịch tự do lớn
nhất của các nƣớc đang phát triển. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc cam kết thành
lập khu vực mậu dịch tự do với các nƣớc khác trên thế giới, đặc biệt lại là với
một tổ chức khu vực của 10 nƣớc ASEAN. ACFTA đƣợc coi là một mốc lịch sử
quan trọng trong quan hệ kinh tế, chính trị Trung Quốc- ASEAN, mở ra thời kỳ
phát triển mới cho quan hệ hợp tác giữa hai bên trên các lĩnh vực, trƣớc hết là
35
trên lĩnh vực kinh tế- thƣơng mại.
2.1.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện giữa ASEAN- Trung Quốc
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc
ký ngày 4/11/2002 gồm tổng cộng 16 điều và 4 phụ lục kèm theo. Nội dung
chính của hiệp định đƣợc chia làm 2 phần: Phần 1 từ điều 3 đến điều 6 đề cập
đến thƣơng mại hàng hoá, thƣơng mại dịch vụ, đầu tƣ và EHP; Phần 2 là điều 7
đề cập đến hợp tác kinh tế trên các lĩnh vực khác. Còn lại từ điều 8 đến điều 16
gồm các qui định khung về thời gian của các chƣơng trình hợp tác, về chế độ đãi
ngộ MFN, các ngoại lệ chung, cơ chế giải quyết tranh chấp, kế hoạch đàm phán
và một số điều khoản khác liên quan đến sự sửa đổi, hiệu lực... của Hiệp định.
Hiệp định này sẽ chính thức có hiệu lực vào 1/7/2003. Các nội dung chính
của Hiệp định như sau:
Phần 1- Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA )
Phần này có 4 điều qui định những nguyên tắc cơ bản định hƣớng cho việc
đàm phán thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc bao gồm các
lĩnh vực thƣơng mại hàng hoá, thƣơng mại dịch vụ và đầu tƣ (các điều 3,4,5).
Đặc biệt hai bên sẽ thực hiện EHP nhằm mang lại ngay một số lợi ích và tạo
bƣớc đột phá ban đầu trong quá trình thành lập ACFTA (điều 6).
Về thƣơng mại hàng hoá (điều 3):
Hai bên sẽ tiến hành đàm phán để thiết lập khu vực mậu dịch tự do đối với
hàng hoá vào năm 2010 với 6 nƣớc thành viên cũ của ASEAN (ASEAN-6); vào
năm 2015 đối với 4 nƣớc thành viên mới của ASEAN. Các phiên đàm phán bắt
đầu từ năm 2003 và kết thúc trƣớc 30 tháng 6 năm 2003. Việc đàm phán cắt
giảm thuế quan sẽ đƣợc định hƣớng bởi các nguyên tắc chính sau:
- Các mặt hàng là đối tƣợng cắt giảm thuế quan đƣợc chia thành hai danh
mục chủ yếu: Danh mục thông thƣờng và danh mục nhạy cảm.
- Đối với hàng hoá thuộc danh mục thông thƣờng, ASEAN –6 và Trung
Quốc sẽ cắt giảm và loại bỏ thuế quan theo lộ trình từ ngày 01 tháng 01 năm 2005
36
đến 2010. Đối với bốn nƣớc thành viên mới của ASEAN, lộ trình cắt giảm thuế
quan sẽ dài hơn 5 năm, bƣớc đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 và kết thúc vào
năm 2015. Cách thức cắt giảm thuế quan phụ thuộc vào kết quả các phiên đàm
phán tiếp theo.
- Đối với hàng hoá thuộc danh mục nhạy cảm, sẽ có cơ chế cắt giảm thuế
quan linh hoạt hơn, với thời hạn kết thúc, thuế suất cuối cùng và số lƣợng giới
hạn mặt hàng sẽ đƣợc đàm phán sau.
- Các bên có quyền áp dụng các biện pháp để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo
vệ giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ, bảo vệ đạo đức xã hội, sức khoẻ và cuộc
sống của con ngƣời và động thực vật, phù hợp với điều XX của Hiệp định
GATT.
Ngoài ra, Hiệp định khung cũng xác định thêm những vấn đề sẽ tiếp tục
đàm phán bao gồm:
Các qui tắc chi tiết điều chỉnh việc cắt giảm thuế quan, gồm cả quy -
tắc có đi có lại;
Quy tắc xuất xứ hàng hoá; -
Quy tắc xử lý đối với hạn ngạch thuế quan; -
Sửa đổi cam kết; -
Các biện pháp phi thuế quan; -
- Các qui tắc điều chỉnh các biện pháp tự vệ, trợ cấp và chống trợ
cấp; chống bán phá giá;
- Các biện pháp tạo thuận lợi và thúc đẩy bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
có hiệu quả.
Về thương mại dịch vụ
Do vấn đề tự do hoá thƣơng mại dịch vụ rất phức tạp, cần có thời gian để
xem xét và đàm phán, Hiệp định khung chỉ đƣa ra phƣơng hƣớng chung nhất,
trong đó qui định các cuộc đàm phán sẽ tập trung vào 3 vấn đề: xoá bỏ dần sự
phân biệt giữa các bên trong thƣơng mại hàng hoá, mở rộng phạm vi tự do hoá
thƣơng mại dịch vụ theo GATS (Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ của
WTO), tăng cƣờng hợp tác trong dịch vụ giữa các bên để nâng cao hiệu quả và
37
tính cạnh tranh, cũng nhƣ để đa dạng hoá các hình thức cung cấp và phân phối
dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ tƣơng ứng của các bên.
Về đầu tư
Cũng nhƣ đối với lĩnh vực thƣơng mại dịch vụ, lĩnh vực đầu tƣ cũng chỉ
đƣợc đề cập trên góc độ chung nhất trong Hiệp định khung, theo đó, các bên
đồng ý bƣớc vào đàm phán để tiến hành tự do hoá đầu tƣ, tăng cƣờng hợp tác
trong đầu tƣ, thuận lợi hoá đầu tƣ và nâng cao tính minh bạch của các nguyên tắc
và qui định đầu tƣ và đƣa ra các biện pháp bảo hộ đầu tƣ.
Về chương trình thu hoạch sớm (EHP)
- Với mục tiêu sớm thực hiện hoá hiệu quả hợp tác của các bên, ASEAN và
Trung Quốc nhất trí về một EHP với việc cắt giảm thuế quan nhanh đối với một
số mặt hàng và tiến hành ngay các chƣơng trình hợp tác trong một số lĩnh vực.
Việc cắt giảm thuế quan, các nƣớc ASEAN và Trung Quốc sẽ cùng cắt
giảm nhanh đối với các mặt hàng nông sản từ Chƣơng 1 đến 8 của biểu thuế
nhập khẩu, trừ một số mặt hàng mà mỗi nƣớc có thể tạm thời không tham gia.
Nếu một nƣớc loại trừ một mặt hàng mà mỗi nƣớc có thể ra khỏi EHP thì sẽ
không đƣợc hƣởng các ƣu đãi của các nƣớc khác đối với mặt hàng đó. Ngoài ra,
từng nƣớc ASEAN có thể thoả thuận song phƣơng với Trung Quốc cắt giảm thuế
quan nhanh với một số mặt hàng cụ thể nằm ngoài các chƣơng trình từ Chƣơng 1
đến 8.
Đối với ASEAN – 6 và Trung Quốc, việc cắt giảm thuế quan xuống 0% sẽ
đƣợc thực hiện trong giai đoạn từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 đến ngày 01 tháng
01 năm 2006. Các nƣớc thành viên mới của ASEAN đƣợc hƣởng đối xử đặc biệt
và khác biệt nên có lịch trình cắt giảm dài hơn, cụ thể:
Đối với Việt Nam: từ ngày 01/01/2004 đến ngày 01/ 01/2008.
Đối với Lào, Myanma: từ ngày 01/01/006 đến ngày 01/01/ 2009.
Đối với Cămpuchia: từ ngày 01/01/2006 đến ngày 01/01/2010.
- Lịch trình cắt giảm thuế giữa Trung Quốc với các nƣớc ASEAN trong EHP.
Đối với Trung Quốc và các nƣớc ASEAN 6
38
Không muộn hơn
Không muộn hơn
Không muộn hơn
Loại sản phẩm
1/1/2004
1/1/2005
1/1/2006
1 (> 15%)
10%
10%
0%
2 (> = 5%, < 15%)
5%
0%
0%
3. (< 5%)
0%
0%
0%
Đối với các nƣớc thành viên ASEAN mới
Không
Không
Không
Không
Không
Không
Không
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
Nƣớc
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
1/1/2004
1/1/2005
1/1/2006
1/1/2007
1/1/2008
1/1/2009
1/1/2010
Việt Nam
20%
15%
10%
5%
0%
0%
0%
20%
14%
8%
0%
0%
Lào và
Myanma
Campuchia
20%
15%
10%
5%
0%
Các sản phẩm loại 1: thuế suất > = 30%
Không
Không
Không
Không
Không
Không
Không
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
Nƣớc
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
1/1/2004
1/1/2005
1/1/2006
1/1/2007
1/1/2008
1/1/2009
1/1/2010
Việt Nam
10%
10%
5%
5%
0%
0%
0%
Lào và
10%
10%
5%
0%
0%
Myanma
Campuchia
10%
10%
5%
5%
0%
Các sản phẩm loại 2: thuế suất > = 15% và < 30%
Các sản phẩm loại 3: thuế suất < 15%
Nƣớc
Không
Không
Không
Không
Không
Không
Không
Các sản phẩm loại 2: thuế suất > = 15% và < 30%
39
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
muộn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
hơn
1/1/2004
1/1/2005
1/1/2006
1/1/2007
1/1/2008
1/1/2009
1/1/2010
5%
0 - 5%
0%
0%
0%
Việt Nam
10%
10%
5%
5%
0 -5%
0%
0%
Lào và
Myanma
Campuchia
5%
5%
0 - 5%
0 – 5%
0%
Việt Nam cũng đã cam kết tham gia EHP với hầu hết các mặt hàng trong
các Chƣơng từ 1 đến 8, chỉ loại trừ 15 dòng thuế của nhóm mặt hàng gồm: thịt
gia cầm các loại, trứng gà vịt, một số loại hoa quả có múi.
Phần 2: Các lĩnh vực hợp tác kinh tế
Tại điều 7, qui định các lĩnh vực và biện pháp hợp tác kinh tế. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ Hiệp định khung, ASEAN và Trung Quốc mới dừng lại ở việc
xác định các lĩnh vực hợp tác, trong đó có các lĩnh vực ƣu tiên hợp tác (Điều 7.1)
và một số các biện pháp hợp tác dự kiến (Điều 7.3). Kế hoạch triển khai cụ thể
sẽ do hai bên tiếp tục nghiên cứu và phát triển trên cơ sở thoả thuận sau này.
ASEAN và Trung Quốc thống nhất trƣớc mắt sẽ tăng cƣờng hợp tác trong 4
lĩnh vực ƣu tiên là nông nghiệp, công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực,
đầu tƣ và thúc đẩy sáng kiến hợp tác phát triển lƣu vực sông Mêkông. Thời gian
tới hợp tác sẽ đƣợc mở rộng sang các lĩnh vực khác nhƣ ngân hàng, tài chính, du
lịch, công nghiệp, vận tải, vô tuyến viễn thông, sở hữu trí tuệ, xí nghiệp vừa và
nhỏ, môi trƣờng, công nghệ sinh học, thuỷ sản, lâm nghiệp, khai khoáng, năng
lƣợng, tiểu vùng phát triển....
Một phần quan trọng của nội dung hợp tác kinh tế là giành ƣu đãi cho các
nƣớc thành viên mới của ASEAN thông qua các chƣơng trình hỗ trợ kỹ thuật
khác nhằm giúp đỡ các nƣớc này trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển
thƣơng mại và đầu tƣ với Trung Quốc (Điều 7.4).
Hợp tác kinh tế còn đƣợc qui định một phần trong EHP, chủ yếu nhằm xúc
tiến các dự án đang triển khai trong khuôn khổ hợp tác trƣớc đây giữa ASEAN
40
và Trung Quốc (đƣợc chi tiết tại phụ lục 5). Đáng lƣu ý là các hợp tác này dành
ƣu tiên cho một số dự án mà Việt Nam đang tham gia ví dụ nhƣ kế hoạch phát
triển tổng thể khu vực tiểu vùng sông Mêkông mở rộng hay các chƣơng trình hỗ
trợ kỹ thuật cho các nƣớc ASEAN mới xây dựng năng lực hội nhập khu vực và
thúc đẩy quá trình gia nhập WTO.
Phần 3 – Các điều khoản thực hiện
Phần 3 có 9 điều, xác định các biện pháp thực thi Hiệp định khung, trong
đó có nội dung đáng chú ý là Trung Quốc sẽ dành cho các nƣớc ASEAN chƣa là
thành viên của WTO đƣợc hƣởng đối xử Tối huệ quốc đối với tất cả các cam kết
trong khuôn khổ WTO (Điều 9). Đây là một ƣu đãi rất có ý nghĩa đối với doanh
nghiệp của các nƣớc ASEAN mới để thâm nhập thị trƣờng Trung Quốc một cách
bình đẳng trong mọi lĩnh vực thƣơng mại hàng hoá, thƣơng mại dịch vụ, đầu tƣ.
2.2. TÁC ĐỘNG CỦA ACFTA ĐỐI VỚI CÁC NƢỚC THÀNH VIÊN ASEAN
VÀ TRUNG QUỐC
2.2.1. Tình hình quan hệ kinh tế thƣơng mại giữa Trung Quốc và
ASEAN trong những năm gần đây.
Trung Quốc và các nƣớc ASEAN đã có quan hệ kinh tế thƣơng mại từ lâu,
tuy nhiên chỉ từ sau khi Trung Quốc thực hiện bình thƣờng hoá quan hệ ngoại
giao với các nƣớc Đông Nam Á thì quan hệ kinh tế mới phát triển mạnh. Điều
này đƣợc thể hiện bởi hơn 100 hiệp định kinh tế song phƣơng đƣợc ký kết giữa
Trung Quốc và ASEAN. Cùng với quá trình phát triển kinh tế và mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại của các nƣớc ASEAN và Trung Quốc, quan hệ kinh tế
thƣơng mại giữa ASEAN và Trung Quốc cũng ngày càng đƣợc thúc đẩy. Một số
nét chính trong một số lĩnh vực nổi bật của quan hệ kinh tế thƣơng mại giữa hai
bên trong những năm gần đây.
Quan hệ thƣơng mại:
Kim ngạch xuất nhập khẩu:
Quan hệ thƣơng mại trong những năm gần đây giữa hai bên chịu ảnh hƣởng
chủ yếu của sự tăng trƣởng kinh tế của mỗi bên và công cuộc hiện đại hoá kinh
tế của Trung Quốc cùng với sự giảm thuế MFN của Trung Quốc. Kim ngạch
41
thƣơng mại song phƣơng giữa Trung Quốc và ASEAN không ngừng tăng qua các
BẢNG 3. KIM NGẠCH THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC– ASEAN TỪ 1990- 2001
năm.
Năm
1990 1991 1992 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
Kim
4,4
7,96
9,3
13
18,4 20,4
25
23,5 27,2 39,5 41,6
ngạch
Đơn vị tính: tỷ USD
Nguồn: MOFTEC (Bộ hợp tác kinh mậu Trung Quốc) - Thống kê Hải quan
Trung Quốc
Kim ngạch buôn bán giữa hai bên có những bƣớc tăng trƣởng nhanh
chóng. Năm 1990, kim ngạch thƣơng mại hai bên chỉ đạt 4,4 tỷ USD, đến
năm 2001 kim ngạch đã đạt 41,6 tỷ USD, tăng gần 9,5 lần.Từ đầu thập kỷ 90
đến nay, ngoại trừ năm 1998 kim ngạch có giảm chút ít so với năm 1997 do
ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng khu vực, còn lại thƣơng mại hai bên đều
tăng. Đặc biệt, trong hai năm 2000 và 2001, khi tình hình kinh tế toàn cầu
đang suy giảm, thƣơng mại hai bên vẫn duy trì mức tăng trƣởng rõ rệt, đó là
thành tích đáng khích lệ. Hiện nay, ASEAN là bạn hàng lớn thứ 5 của Trung
Quốc, sau Mỹ, Hồng Kông, Nhật Bản và EU, còn Trung Quốc là bạn hàng lớn
thứ 6 của ASEAN. Kim ngạch thƣơng mại của Trung Quốc với từng nƣớc
trong khối ASEAN có sự chênh lệch khá lớn.
BẢNG 4. KIM NGẠCH NGOẠI THƢƠNG GIỮA TRUNG QUỐC
VỚI TỪNG NƢỚC THÀNH VIÊN ASEAN
Đơn vị: triệu USD
1999
2000
2001
XNK XK
NK XNK XK
NK XNK XK
NK
ASEAN
27.202 12.275 14.927 39.522 17.341 22.181 41.615 18.385 23.230
Singapore 8.563 4.502 4.061 10.821 2.565 5.480 9.425 3.220 6.205
Malaysia 5.279 1.674 3.605 8.045 2.565 5.480 9.425 3.220 6.205
42
Indonexia 4.830 1.779 3.051 7.464 3.062 4.402 6.725 2.837 3.888
Thái Lan 4.216 1.436 2.780 6.624 2.243 4.381 7.050 2.337 4.713
Philippines 2.287 1.379
908 3.142 1.464 1.678 3.566 1.620 1.946
Việt Nam 1.318
964
354 2.466 1.537
929 2.815 1.804 1.011
Myanmar
508
407
101
621
496
125
632
497
135
Campuchia 160
104
56
224
164
60
240
206
24
Brunei
8
8
0
74
13
61
165
17
148
Lào
32
22
10
41
34
7
62
54
8
Chú thích: XK- xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN
NK- nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN
Nguồn: Thống kê Hải quan Trung Quốc
Bạn hàng lớn nhất trong khối của Trung Quốc là Singapore. Năm 2001,
trong tổng số kim ngạch buôn bán 41,6 tỉ USD giữa ASEAN và Trung Quốc thì
riêng kim ngạch buôn bán Singapo –Trung Quốc đã đạt 10,9 tỷ USD chiếm hơn
26%. Bạn hàng lớn thứ hai trong khối của Trung Quốc là Malayxia với kim
ngạch song phƣơng đạt gần 9,5 tỷ USD. Tiếp đó là Thái Lan 7 tỉ USD và
Inđônêxia 6,7 tỉ USD. Đối với các nƣớc ASEAN còn lại, kim ngạch thƣơng mại
với Trung Quốc còn rất nhỏ, chỉ đạt dƣới 4 tỉ USD, đặc biệt những nƣớc
Myanma, Cămpuchia, Brunây, Lào thì quan hệ buôn bán với Trung Quốc chỉ đạt
rất ít chƣa đến 1 tỉ USD.
Trƣớc đây, trong cán cân thƣơng mại ASEAN – Trung Quốc, ASEAN
thƣờng rơi vào tình trạng nhập siêu. Song bảng trên cho thấy những năm gần
đây, ASEAN thƣờng xuất siêu sang Trung Quốc, năm 1999 con số xuất siêu này
là hơn 2,65 tỉ USD, năm 2000 và 2001 ASEAN xuất siêu hơn 4,8 tỉ USD. Tuy
nhiên, đối với những nƣớc ASEAN mới nhƣ Việt Nam, Myanma, Lào,
Cămpuchia thì thƣờng thâm hụt thƣơng mại với Trung Quốc.
Về cơ cấu hàng xuất nhập khẩu
Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc và ASEAN có những
bƣớc tiến triển đáng kể. Trƣớc đây, các nƣớc ASEAN (trừ Singapo) vốn là
43
những nƣớc có nền kinh tế phát triển phụ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên và
những hàng hoá sơ cấp. Đầu những năm 90, hai mặt hàng xuất khẩu hàng đầu
của các nƣớc ASEAN – 6 sang ASEAN là chất đốt và gỗ. Hai mặt hàng này chiếm
đến hơn 50% tổng giá trị xuất khẩu của ASEAN – 6 sang Trung Quốc. Đến nay cơ
cấu hàng này đã thay đổi theo hƣớng tích cực. Trong các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu
của ASEAN sang Trung Quốc là các sản phẩm máy móc, thiết bị điện tử, các khoáng
sản, nhựa, giấy, bột giấy, gỗ, máy móc và thiết bị điện tử đã chiếm tỉ trọng lớn (48%)
trong tổng giá trị xuất khẩu của ASEAN – 6 sang Trung Quốc. Đối với 4 nƣớc
ASEAN còn lại thì hàng hoá xuất khẩu sang Trung Quốc đa số là nguyên liệu và
những mặt hàng sơ chế, đặc biệt là hàng hoá nông sản và tài nguyên thiên nhiên. Tuy
nhiên, kim ngạch của những nƣớc này còn chiếm tỷ lệ nhỏ nên không ảnh hƣởng
nhiều đến cơ cấu hàng xuất nhập khẩu chung giữa hai khối.
Các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN chủ yếu là các mặt
hàng chế tạo nhƣ máy móc, thiết bị điện tử, hàng may mặc, giày dép, kim loại,
hoá chất, khoáng sản ... trong đó, máy móc thiết bị điện tử cũng chiếm tỷ trọng
BẢNG 5. CƠ CẤU HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA TRUNG QUỐC VÀ ASEAN- 6
lớn nhất và tỷ trọng này ngày càng tăng. (xem bảng)
Các mặt hàng xuất khẩu chính của ASEAN sang Trung Quốc
1993
2000
Mặt hàng
Nhập khẩu
(%) Mặt hàng
Nhập khẩu
(%)
(triệu USD)
(triệu USD)
Khoáng sản
1,5
32,4 Máy móc, thiết bị
16,4
48,4
điện tử
Gỗ và các sản
1,0
22,6 Khoáng sản
4,5
13,4
phẩm từ gỗ
Máy móc, thiết
0,6
12,4 Nhựa
2,2
6,6
bị điện tử
Chất béo, dầu
0,4
8,4 Giấy, bột giấy
1,0
3,1
động thực vật
Nhựa
2,8
0,3
4,4 Gỗ và các sản phẩm
0,9
từ gỗ
44
Tổng cộng
3,7
80,2 Tổng cộng
25
74,3
Các mặt hàng xuất khẩu chính Trung Quốc sang ASEAN
1993
2000
Máy
móc,
0,9
20,8 Máy móc, thiết bị
12,9
51,7
thiết bị điện tử
điện tử
Hàng dệt may,
0,7
15,7
Hàng dệt may, quần
2,6
10,5
quần áo, giày dép
áo, giày dép
Rau quả
0,5
11,6
Kim loại cơ bản và
1,6
6,4
các sản phẩm KL
Kim
loại cơ
0,5
10,6
Các sản phẩm hoá
1,3
5,4
chất
bản và các sản
phẩm KL
Khoáng sản
0,5
10,5
Khoáng sản
1,3
5,1
Tổng cộng
3,1
69,2
Tổng cộng
19,7
79,1
ASEAN 6 gồm Brunei, Singapo, Malaixia, Indonexia, Philipin, Thailand.
Số liệu nay 2000 chỉ tính từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2000
Nguồn: ASEAN Secretariat
Trong cơ cấu xuất nhập khẩu của cả hai bên Trung Quốc và ASEAN sang
bên kia, tỷ trọng các mặt hàng chế biến đã tăng lên. Trong số những mặt hàng
chế biến, tỷ lệ các mặt hàng có hàm lƣợng vốn cao nhƣ máy móc và thiết bị cũng
tăng lên, tỷ lệ các mặt hàng có hàm lƣợng lao động cao giảm dần. Trong đó hiện
nay các mặt hàng máy móc thiết bị điện tử đều có xu hƣớng chiếm tỷ trọng lớn
nhất.
Quan hệ đầu tƣ
Đầu tƣ của các nƣớc ASEAN vào Trung Quốc
ASEAN là một trong những khu vực cung cấp nguồn vốn nƣớc ngoài quan
trọng của Trung Quốc. Trong vòng thời gian từ năm 1991 đến 1998, vốn FDI
thực hiện của ASEAN vào Trung Quốc luôn luôn tăng, từ 90 triệu USD năm
1991 lên 4,22 tỷ USD năm 1998. Vốn FDI thực hiện năm 1999, 2000 có giảm
45
sút chút ít, năm 1999 đạt 3,29 tỷ USD, năm 2000 đạt 2,84 tỷ USD, nguyên nhân
chủ yếu là do ASEAN thời kỳ này đang ở giai đoạn khôi phục kinh tế, không thể
mở rộng đầu tƣ ra nƣớc ngoài.
Tuy có xu hƣớng tăng nhanh nhƣng tổng vốn đầu tƣ của ASEAN vào
Trung Quốc vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp so với tổng đầu tƣ nƣớc ngoài vào
Trung Quốc. Theo thống kê của Bộ hợp tác kinh mậu Trung Quốc (MOFTEC),
tính đến năm 2001 tổng cộng có 17972 dự án đầu tƣ của các nƣớc ASEAN vào
Trung Quốc, trị giá vốn đầu tƣ cam kết đạt 53,468 tỷ USD, chiếm 7,2% tổng giá
trị vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào Trung Quốc, vốn FDI thực hiện đạt 26,175 tỷ
USD, chiếm 6,6% tổng FDI thực hiện của Trung Quốc.
Trong các nƣớc ASEAN, Singapo là nƣớc đầu tƣ vào Trung Quốc lớn nhất,
chiếm tới gần 65% tổng FDI của cả ASEAN vào Trung Quốc với số vốn FDI đạt
16,9 tỷ USD (tính đến năm 2000), sau đó là Malayxia và Thái Lan nhƣng số FDI
của hai nƣớc này vào Trung Quốc kém hơn nhiều so với Singapo. Các nƣớc
ASEAN còn lại có kim ngạch đầu tƣ vào Trung Quốc rất nhỏ, đặc biệt là đầu tƣ
của Campuchia, Myanmar, Lào, Việt Nam và Bruney hầu nhƣ không đáng kể.
46
BẢNG 6. ĐẦU TƢ CỦA CÁC NƢỚC ASEAN VÀO TRUNG QUỐC.
(đến hết năm 2000 và 2001)
Nƣớc
Số hạng mục Vốn cam kết Số vốn thực hiện
35,381
16,992
9122
Singapore
2031
Malaysia
4,936
2,203
760
Indonexia
1,591
0,837
2880
Thái Lan
4,971
1,994
1369
Philippines
2,564
1,029
373
Việt Nam
0,375
0,086
146
Myanmar
0,194
0,034
24
Campuchia
0,022
0,007
14
Brunei
0,036
0,0004
14
Lào
0,025
0,005
23,191
ASEAN đến hết năm 2000
16733
50,095
26,175
ASEAN đến hết năm 2001
17972
53,468
Tổng ĐTNN vào Trung
390025
745, 391
395,223
Quốc tính đến hết 2001
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: Bộ hợp tác kinh mậu Trung Quốc (MOFTEC)
Những lĩnh vực đầu tƣ chủ yếu của các nƣớc ASEAN vào Trung Quốc là
chế tạo, năng lƣợng, khai thác bất động sản, tài chính dịch vụ, địa chất khoáng
sản... đầu tƣ của ASEAN sang Trung Quốc chủ yếu tập trung tại các đặc khu
kinh tế, vùng mở cửa ven biển, chủ yếu do ngƣời Hoa thực hiện, nguyên nhân
chính là do cộng đồng ngƣời Hoa ở các nƣớc ASEAN khá nhiều và họ nắm giữ
nhiều ngành kinh tế chủ chốt ở một số nƣớc ASEAN nên họ tích cực đầu tƣ về
quê hƣơng của mình.
Đầu tƣ của Trung Quốc vào các nƣớc ASEAN
Hiện nay, ASEAN không còn là thị trƣờng đầu tƣ chính của Trung Quốc
47
nữa. Đến hết năm 2001, chỉ có 740 dự án đầu tƣ của các doanh nghiệp Trung
Quốc vào các nƣớc ASEAN với tổng vốn đầu tƣ là 1,091 tỷ USD trong đó, vốn
của bên Trung Quốc chỉ đạt 655 triệu USD. Nƣớc nhận vốn đầu tƣ nhiều nhất
của Trung Quốc trong khối là Thái Lan cũng chỉ đạt gần 88 triệu USD, con số
này còn quá khiêm tốn, sau đó là Campuchia với số vốn 85 triệu USD;
Singapore 68,6 triệu USD; Myanmar 48,58 triệu USD; với Malaysia và Việt
BẢNG 7. ĐẦU TƢ CỦA TRUNG QUỐC VÀO ASEAN
Nam, vốn đầu tƣ của Trung Quốc cũng chỉ đạt hơn 30 triệu USD năm 2000.
(Tính đến hết năm 2000 và 2001)
Số doanh nghiệp ĐTNN
Tổng vồn
Vốn của bên
Nƣớc
của Trung Quốc
Trung Quốc
đầu tƣ
Việt Nam
41
48,77
31,00
Lào
15
44,04
29,37
Campuchia
50
110,83
85,00
Myanmar
30
146,38
48,58
Thái Lan
219
201,05
87,98
Malaysia
92
69,34
33,90
Singapore
161
78,35
68,62
Indonexia
50
159,07
59,62
Philippines
34
34,98
14,60
Tổng cộng đến hết
692
892,80
458,66
năm 2000
Tổng cộng đến hết
740
1091,00
655,00
năm 2001
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ hợp tác kinh mậu Trung Quốc (MOFTEC)
Các lĩnh vực đầu tƣ chủ yếu của Trung Quốc vào ASEAN là bao thầu các
công trình sản xuất, buôn bán và dịch vụ, công nghiệp rừng, khai thác mỏ, sản
48
xuất linh kiện TV, động cơ diezen, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác lao động và
bao thầu công trình chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tƣ của Trung Quốc ở các nƣớc
ASEAN. Nhiều ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp Trung Quốc ở
ASEAN cũng ngày càng đƣợc mở rộng sang các lĩnh vực khác nhƣ gang thép,
thực phẩm, hàng tiêu dùng, khai khoáng, thuỷ sản, máy móc, tài chính... Tuy
nhiên, trọng điểm kinh doanh các ngành nghề của các doanh nghiệp Trung Quốc
vẫn là khai thác các nguồn tài nguyên và ngành công nghiệp gia công để xuất khẩu.
2.2.2. Cơ hội và thách thức đối với các nƣớc trong ACFTA
ASEAN và Trung Quốc vốn là những nƣớc cạnh tranh nhau trên thị trƣờng
thế giới thậm chí cả trên thị trƣờng của chính những nƣớc này về nhiều mặt hàng
xuất khẩu. Việc các nƣớc ASEAN và Trung Quốc quyết định thành lập ACFTA
là bƣớc tiến tích cực xây dựng quan hệ đối tác kinh tế gần gũi hơn là quan hệ
cạnh tranh trƣớc đây giữa hai bên.
Mặc dù ASEAN và Trung Quốc là những nƣớc có nhiều điểm tƣơng đồng,
có trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế khá giống nhau, nhƣng điều này không có
nghĩa là hai bên sẽ không có những không gian phát triển kinh tế từ ACFTA
trong tƣơng lai. Trên thực tế, các nƣớc có cơ cấu kinh tế nhƣ nhau hoàn toàn có
thể thiết lập một tổ chức nhất thể hoá kinh tế, đem lại sự phát triển cho mỗi
nƣớc.
Chẳng hạn trong EU, các nƣớc Đức, Anh, Pháp, Ý, Hà Lan, Bỉ... đều có cơ
cấu kinh tế giống nhau, mặc dù vậy, EU đã xây dựng thành công trên cơ sở xây
dựng một qui tắc thị trƣờng thống nhất, thực hiện cạnh tranh công bằng và sản
xuất toàn bộ. Hàng hoá, tƣ bản, lao động... di chuyển tự do trong khu vực đã tạo
điều kiện để tối ƣu hoá sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy có trở ngại
là ngôn ngữ khác nhau nên việc di chuyển lao động chƣa hoàn toàn tự do trong
EU nhƣng sự di chuyển vốn và hàng hoá đã bù lại đƣợc nhƣợc điểm này. Điều
này cho thấy nhất thể hoá kinh tế sẽ ngày càng có lợi cho việc xây dựng thị
trƣờng cạnh tranh bình đẳng, mở rộng hợp tác thƣơng mại, đầu tƣ...
Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, việc thành lập ACFTA là một mô hình hợp tác
49
thích hợp cho cả hai bên trong thời điểm này và hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ
hội cho tất cả các nƣớc thành viên của khối.
2.2.2.1 Cơ hội cho các nước trong ACFTA
Khi ACFTA đƣợc thành lập sẽ mang lại lợi ích cho mọi quốc gia trong khu
vực. Các nƣớc có cơ hội tiếp cận thị trƣờng rộng lớn hơn với dân số trên 1,7 tỷ
ngƣời tiêu dùng có tổng GDP đạt xấp xỉ 2000 tỷ USD vào năm 2003. Do có sự
tƣơng đồng cả về trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế, ASEAN và Trung Quốc
sẽ không tạo ra sự cạnh tranh trực diện. Ngƣợc lại, nó sẽ tăng cƣờng tính đa dạng
của các mặt hàng xuất khẩu, phát huy lợi thế nhờ qui mô và thúc đẩy việc hình
thành sức cạnh tranh thống nhất của hàng hoá, dịch vụ của ASEAN và Trung
Quốc đối với thị trƣờng thế giới. Thông qua ACFTA các nƣớc trong khu vực sẽ
có điều kiện bổ sung các nguồn lực cho mình và theo đó, các nƣớc trong khu vực
sẽ giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trƣờng bên ngoài.
Cơ hội cho ASEAN
Giảm bớt sự phụ thuộc vào những thị trường bên ngoài
Nền kinh tế nói chung và đặc biệt là xuất nhập khẩu của các nƣớc ASEAN
thể hiện rất rõ tính phụ thuộc vào bên ngoài. Xuất khẩu của đa số các nƣớc
ASEAN, đặc biệt là ASEAN –5, phụ thuộc chủ yếu vào những bạn hàng chính là
Mỹ, Nhật Bản, EU. Kim ngạch xuất khẩu sang 3 thị trƣờng này chiếm tới gần
60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan, 64% xuất khẩu của Philippines,
hơn 50% của Indonexia và Malaysia, 45% của Singapore. [43]
Sự quá phụ thuộc vào các thị trƣờng nƣớc ngoài nhƣ Mỹ, Nhật Bản, EU
nhất là thị trƣờng Mỹ, ảnh hƣởng rất nhiều đến tính phục hồi và ổn định của nền
kinh tế Đông Nam Á. Đặc biệt là nhiều năm trở lại đây, tình trạng nền kinh tế
Mỹ ảnh hƣởng rất lớn đến kinh tế và xuất khẩu của các nƣớc ASEAN, ví dụ nhƣ
25% kinh tế Singapore phụ thuộc vào xuất khẩu sang Mỹ, ở Malaysia con số này
là 18%, các nƣớc nhƣ Thái Lan và Philippines thì tỷ lệ này trên 10% [43]. Tăng
trƣởng kinh tế của các nƣớc ASEAN năm 2001 gặp rất nhiều khó khăn do
nguyên nhân chủ yếu nhất là tốc độ tăng trƣởng kinh tế của thị trƣờng xuất khẩu
50
lớn nhất của khu vực này- nền kinh tế Mỹ suy giảm và kinh tế Nhật tiếp tục suy
thoái. Điều này cho thấy sự bấp bênh khi phụ thuộc vào một số ít thị trƣờng xuất
khẩu, chủ yếu là Mỹ, Nhật Bản của các nƣớc ASEAN.
Trung Quốc gia nhập WTO và thành lập khu vực mậu dịch tự do với
ASEAN sẽ mở cửa hơn nữa cho thị trƣờng này, ít nhất cũng giúp ASEAN có
thêm thị trƣờng xuất khẩu mới và động lực tăng trƣởng kinh tế, dần dần giảm bớt
sự phụ thuộc của nền kinh tế ASEAN vào các nền kinh tế lớn này.
Có điều kiện thuận lợi đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào thị trường khổng
lồ hơn 1,2 tỷ người tiêu dùng của Trung Quốc.
Theo Hiệp định khung ACFTA, Trung Quốc sẽ giảm và bãi bỏ thuế nhập
khẩu đối với hầu hết các mặt hàng trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến
2010. Đặc biệt theo EHP, Trung Quốc sẽ thực hiện giảm thuế xuống còn 0%,
trƣớc thời gian này đối với một số hàng nông sản cho cả 10 nƣớc ASEAN và
giành ƣu tiên về thời gian thực hiện EHP chậm hơn cho các nƣớc ASEAN mới.
Các nƣớc Việt Nam, Lào (chƣa gia nhập WTO) còn đƣợc Trung Quốc cho hƣởng
ƣu đãi về MFN nhƣ những nƣớc thành viên của WTO. Với những biện pháp này,
hàng hoá của các nƣớc ASEAN sẽ có cơ hội thâm nhập nhiều hơn vào thị trƣờng
Trung Quốc.
Tuy một bộ phận tƣơng đối lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung
Quốc và ASEAN là những mặt hàng cạnh tranh nhau nhƣng điều này không có
nghĩa là sau khi ACFTA đƣợc thành lập, các mặt hàng của ASEAN sẽ không có
sức cạnh tranh với hàng của Trung Quốc. Điều đáng lƣu ý là hai bên có nhiều
mặt hàng có thể bổ sung cho nhau. Một số nhóm hàng của ASEAN vẫn có lợi
thế so sánh hơn Trung Quốc hoặc thậm chí trong cùng một nhóm hàng mỗi bên
vẫn có những nét đặc thù riêng nên các sản phẩm cũng khác nhau.
Cụ thể nhƣ mặt hàng máy móc thiết bị điện tử vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay của Trung Quốc và các nƣớc ASEAN –4. Các
mặt hàng Trung Quốc xuất sang ASEAN hầu hết là hàng điện tử tiêu dùng hoặc
máy móc thiết bị điện tử chuyên dụng và ASEAN xuất sang Trung Quốc chủ yếu
51
là những phụ kiện và thiết bị điện tử. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chính của
Singapore sang Trung Quốc năm 2000 là van điện, các linh kiện của máy xử lý
dữ liệu và các phụ kiện khác cho thiết bị điện công nghiệp, 57% xuất khẩu của
Philippines là những hàng hoá sản xuất công nghiệp chế tạo từ chất bán dẫn còn
phần lớn hàng xuất khẩu của Thái Lan và Philippines sang Trung Quốc là máy
bán dẫn, vi mạch và thiết bị điện... [41]. Do vậy, ASEAN vẫn có thể tăng xuất
khẩu phụ kiện và thiết bị điện tử của mình vào Trung Quốc. Hơn nữa, hai năm
qua, các nƣớc ASEAN vấp phải vấn đề xuất khẩu sang Mỹ và Nhật Bản do kinh
tế hai nƣớc này đang lâm vào suy thoái, trong khi đó ở Trung Quốc lĩnh vực linh
kiện điện mới phát triển nên có nhu cầu nhập khẩu lớn, vì thế Trung Quốc sẽ đẩy
mạnh nhập khẩu nhiều linh kiện điện tử từ ASEAN với mức thuế quan ƣu đãi
của thị trƣờng này đem lại.
Đặc biệt, các mặt hàng nông sản của ASEAN sẽ là những mặt hàng dễ dàng
thâm nhập vào thị trƣờng Trung Quốc nhất. Các hàng nông sản mà ASEAN có
thể tăng xuất khẩu với số lƣợng lớn vào Trung Quốc là các loại nông sản nhiệt
đới, số hàng lƣơng thực nhƣ gạo, bắp, lúa mỳ, đậu nành... mía đƣờng, dầu thực
vật, các hoa quả nhiệt đới, thực phẩm và các loại rau quả.
Cơ hội này có đƣợc chủ yếu là do ASEAN có nhiều loại nông sản có tính
bổ sung lớn đối với Trung Quốc. Nhiều loại hoa quả chỉ đƣợc sản xuất ở những
vùng có thời tiết nóng ở Đông Nam Á mà Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu lớn.
ASEAN vốn có lợi thế về các loại mặt hàng nông sản cần nhiều diện tích đất trồng
trọt nhƣ gạo, ngô, lúa mỳ, mía đƣờng... trong khi Trung Quốc có diện tích đất
trồng trọt bình quân đầu ngƣời thấp nên cần nhập khẩu nhiều mặt hàng này. Đồng
thời, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ phải nhập nhiều hàng nông sản nhất
là những sản phẩm lƣơng thực trọng yếu. Quan trọng nhất trong Hiệp định khung
của ACFTA là việc giảm, bãi bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan của Trung
Quốc áp dụng đối với các mặt hàng nông sản chủ yếu nhƣ thực phẩm, rau và hoa
quả - những mặt hàng đƣợc ƣu tiên giảm thuế đầu tiên theo EHP. Do vậy, ASEAN
sẽ có nhiều cơ hội để tăng xuất khẩu những hàng nông sản nói trên sang Trung
52
Quốc.
Nhờ việc giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong ACFTA, các mặt
hàng may mặc, đồ da, giấy và vật liệu in, hoá chất, cao su, thép... cũng là những mặt
hàng mà ASEAN cũng có nhiều lợi thế để xâm nhập vào thị trƣờng Trung Quốc vì
đây hầu hết là những nguyên liệu quan trọng để phục vụ cho những ngành sản xuất
đang có xu hƣớng chuyển dịch sang chế biến thành phẩm của Trung Quốc hiện nay.
Cơ cấu kinh tế của Trung Quốc đang chuyển từ mô hình tập trung nhiều
vốn và lao động sang tập trung nhiều vốn và công nghệ, nên nhu cầu nhập khẩu
vốn và công nghệ của nƣớc này sẽ tăng cao. Đây cũng là cơ hội cho các nƣớc
ASEAN đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trƣờng Trung Quốc.
Điểm quan trọng ở đây là việc giảm thuế của Trung Quốc đối với các nƣớc
ASEAN trong EHP sẽ tạo sự tự do hóa nhập khẩu hoa quả tƣơi và một số mặt
hàng nông sản khác. Tất nhiên, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, việc giành
những đãi ngộ thuế quan và phi thuế quan ƣu đãi sẽ không chỉ đối với các nƣớc
ASEAN mà còn với tất cả các nƣớc thành viên còn lại của WTO. Tuy nhiên, thời
gian thực hiện cam kết của Trung Quốc đối với WTO là năm 2005, trong khi đó,
thì theo EHP, năm 2006 sẽ là năm mà Trung Quốc đã hoàn thành xong việc giảm
thuế đối với nhiều mặt hàng xuống mức 0% cho cả 10 nƣớc ASEAN, đặc biệt
các nƣớc ASEAN mới lại đƣợc kéo dài thời gian hoàn thành giảm thuế muộn
hơn đến 2010 và đƣợc Trung Quốc cho hƣởng quy chế MFN nhƣ những thành
viên của WTO. Nhƣ vậy, các nƣớc ASEAN sẽ đƣợc hƣởng những ƣu đãi của
Trung Quốc sớm hơn, cũng có nghĩa là sẽ đƣợc hƣởng những lợi ích sớm hơn so
với các nƣớc thành viên WTO khác trƣớc khi Trung Quốc mở cửa thị trƣờng của
mình đối với hầu hết các nƣớc khác trên thế giới.
Thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc và
cả công ty nước ngoài.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997 đã làm cho môi trƣờng kinh
tế của Châu Á xấu đi và ảnh hƣởng lớn đến đầu tƣ nƣớc ngoài vào các nƣớc
ASEAN. Tuy nhiên, ASEAN đã và đang nỗ lực cải thiện môi trƣờng đầu tƣ của
53
mình. Về phía Trung Quốc, nƣớc này không bị ảnh hƣởng nhiều bởi cuộc khủng
hoảng khu vực. Trải qua nhiều năm phát triển, thực lực của các doanh nghiệp
Trung Quốc không ngừng nâng cao.
Cùng với nhu cầu tăng trƣởng kinh tế hơn nữa và điều chỉnh cơ cấu sản
xuất, đầu tƣ ra nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc chắc chắn sẽ tăng.
Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc đang đẩy mạnh chính sách “hƣớng ngoại”, nhà
nƣớc Trung Quốc đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng
đầu tƣ ra nƣớc ngoài. ASEAN là những nƣớc láng giềng, điều kiện địa lý
thuận tiện, cùng với những ƣu đãi để tự do hoá đầu tƣ trong khu vực
ACFTA... ASEAN sẽ là thị trƣờng đầu tƣ ƣu tiên hàng đầu của Trung Quốc, ít
nhất là trong tƣơng lai gần.
Mặt khác, sẽ có ngày càng nhiều các công ty của Châu Âu, Châu Mỹ và
Nhật Bản đến đầu tƣ vào ACFTA để tận dụng những điều kiện ƣu đãi trong
khuôn khổ ACFTA nhƣ chính sách đầu tƣ minh bạch, môi trƣờng đầu tƣ thông
thoáng, giảm bớt những rào cản đối với việc di chuyển các nguồn vốn, tài
nguyên, hàng hoá… đồng thời là để thực hiện chiến lƣợc thâm nhập toàn thị
trƣờng Châu Á nói chung của các công ty này, cho nên đầu tƣ của các công ty
này vào ASEAN cũng sẽ tăng.
Hơn nữa, Trung Quốc đang là nƣớc đứng đầu thế giới về thu hút đầu tƣ, số
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào Trung Quốc hiện nay đã rất cao, chính phủ Trung
Quốc đang có những chính sách hạn chế sự tăng trƣởng của số vốn đầu tƣ này
nhằm cải thiện chất lƣợng số vốn này đi vào chiều sâu và mặt khác, để giảm sự
cạnh tranh giữa một số ngành sản xuất trong nƣớc với những ngành sản xuất cùng
loại của các công ty nƣớc ngoài ở thị trƣờng Trung Quốc, giảm tình trạng sản xuất
dƣ thừa một số mặt hàng của Trung Quốc hiện nay... Do vậy, rất có thể một số nhà
đầu tƣ nƣớc ngoài sẽ xem xét đầu tƣ vào thị trƣờng ASEAN để tận dụng những ƣu
đãi của ACFTA, tránh những hạn chế hiện nay của thị trƣờng Trung Quốc đối với
họ.
Về phía các nƣớc ASEAN, sau khi ACFTA ra đời, các doanh nghiệp
54
ASEAN cũng sẽ thúc đẩy mạnh hơn đầu tƣ vào thị trƣờng Trung Quốc vốn đang
rất hấp dẫn các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. ASEAN có lợi thế hơn các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài khác vào Trung Quốc vì sẽ đƣợc hƣởng nhiều những ƣu đãi từ thị
trƣờng Trung Quốc trong khuôn khổ một khu mậu dịch tự do giữa hai bên, cộng
thêm với những ƣu thế vốn có của Trung Quốc về một thị trƣờng rộng lớn, ổn
định, kinh tế phát triển nhanh bền vững và nguồn lao động rẻ sẽ là một địa điểm
đầu tƣ hấp dẫn đối với các doanh nghiệp ASEAN.
Phát triển hơn nữa một số ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và
khai thác tài nguyên.
Trung Quốc có một nền tảng sản xuất công nghiệp đƣợc nhất thể hoá, có
khả năng cung cấp nhiều ngành sản xuất hỗ trợ nhƣ thiết bị gia công, chế biến,
các linh kiện trung gian và linh kiện điện tử, đặc biệt nền công nghiệp hiện nay
của Trung Quốc về cơ bản đã là một nền công nghiệp tƣơng đối phát triển và
hiện đại, có một hệ thống trang thiết bị tiên tiến và phƣơng thức quản lý hiện đại
nhanh chóng đuổi kịp hoặc tiếp cận trình độ tiên tiến của quốc tế. Trong khi đó,
nhìn chung các nƣớc ASEAN đều thiếu những ngành sản xuất hỗ trợ này hoặc
phát triển chƣa đủ mạnh. Nếu hợp tác với Trung Quốc, ASEAN sẽ học hỏi kinh
nghiệm, nhập khẩu máy móc và công nghệ, cùng với sự hỗ trợ của Trung Quốc,
sẽ đẩy mạnh những ngành này phát triển hơn, đồng thời có thể tự sản xuất những
máy móc, thiết bị hỗ trợ cung cấp cho sản xuất công nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù đa số các nƣớc ASEAN là những
nƣớc sản xuất nông nghiệp lớn, nhiều nƣớc đứng đầu về nông sản xuất khẩu
nhƣ: Thái Lan và Việt Nam là những nƣớc đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo,
Malaysia đứng đầu thế giới về xuất khẩu cọ dầu, Indonexia đứng đầu thế giới về
xuất khẩu hạt tiêu, Indonexia và Thái Lan đứng thứ 1 và 2 thế giới về xuất khẩu
cao su... Tuy nhiên, nền nông nghiệp của hầu hết các nƣớc ASEAN, đặc biệt là
ASEAN mới còn lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật còn yếu kém, thiếu nhiều máy
móc nông nghiệp và công nghệ hiện đại nên có thể sản lƣợng đạt cao nhƣng giá
trị xuất khẩu chƣa tƣơng xứng với sản lƣợng phần lớn do năng suất thấp, chất
55
lƣợng nông sản chƣa đồng đều. Trong khi đó Trung Quốc lại có thế mạnh về lĩnh
vực này với nhiều máy móc công nghệ tiên tiến. Bởi vậy, sau khi ACFTA đƣợc
thành lập, quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc đƣợc tăng cƣờng, các
nƣớc ASEAN sẽ có thể nhập khẩu hoặc đƣợc Trung Quốc hỗ trợ máy móc nông
nghiệp hiện đại của Trung Quốc để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển,
nâng cao năng suất sản xuất nông nghiệp của mình, từ đó nâng cao hiệu quả xuất
khẩu sản lƣợng nông sản vốn rất lớn ở ASEAN.
Mặt khác, hầu hết các nƣớc ASEAN đều là những nƣớc giàu tài nguyên, có
rất nhiều nguồn khoáng sản, lâm sản quí... phục vụ cho sản xuất nhƣng khả năng
khai thác còn hạn chế. ASEAN sẽ có cơ hội tận dụng những hỗ trợ về máy móc,
kỹ thuật của Trung Quốc để khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú ở các nƣớc ASEAN, cũng nhƣ nâng cao năng suất của ngành công
nghiệp này. Đồng thời, từ đó có thể tăng đƣợc việc xuất khẩu tài nguyên sang
chính thị trƣờng Trung Quốc vốn đang có nhu cầu lớn về tài nguyên để phục vụ
cho phát triển kinh tế của nƣớc này.
Các nƣớc ASEAN cũng có thể đƣợc Trung Quốc hỗ trợ trong những ngành
sản xuất mới nhƣ chế biến thực phẩm hoặc ngành dƣợc phẩm vốn rất phát triển ở
Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc vẫn đƣợc các công ty đa quốc gia coi là cơ
sở sản xuất lớn của thế giới, tuy nhiên sẽ có ngành công nghiệp khác nhƣ công
nghiệp chế biến tài nguyên, công nghiệp nguyên liệu thô mà các nƣớc ASEAN
sẽ có cơ hội tận dụng để phát triển, vừa là nhân tố bổ sung cho kinh tế Trung
Quốc.
Phát triển ngành dịch vụ sang Trung Quốc
Sự tăng trƣởng của Trung Quốc sẽ có lợi cho ngành dịch vụ của ASEAN.
Nhu cầu về giáo dục chất lƣợng cao, y tế, dịch vụ và sản phẩm tiêu dùng của
ngƣời dân Trung Quốc ngày càng lớn. Các nƣớc ASEAN sẽ có không gian lớn
để phát triển các ngành này sang Trung Quốc. Đặc biệt, cơ hội kiếm việc làm
cho những nhà chuyên môn tronglĩnh vực dịch vụ nhƣ: tƣ vấn pháp luật, quản lý,
kiến trúc sƣ, kế toán và chủ ngân hàng chắc chắn sẽ tăng.
56
Về du lịch, số khách du lịch Trung Quốc vào các nƣớc ASEAN rất lớn và
mỗi năm trung bình có tới 2,5 triệu khách du lịch Trung Quốc đến ASEAN,
riêng năm 2001, con số này đã đạt hơn 3 triệu ngƣời. Quốc hội Trung Quốc đã
phê chuẩn cho công dân Trung Quốc đƣợc du lịch tự túc sang 21 nƣớc và khu
vực, 10 nƣớc ASEAN đều nằm trong số này. Hơn nữa việc tự do hoá thƣơng mại
dịch vụ trong đó có du lịch trong ACFTA sẽ giúp các nƣớc ASEAN nhận đƣợc
một khoản thu nhập lớn từ các du khách Trung Quốc đồng thời góp phần tăng
cƣờng giao lƣu về văn hoá giữa hai bên.
Đẩy mạnh hợp tác kinh tế với những tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc.
Trung Quốc đang thực hiện chiến lƣợc “Đại khai phá miền Tây”, với hàng
loạt các chính sách ƣu đãi của Trung Quốc. Các tỉnh nhƣ Vân Nam, Quảng
Tây.... của Trung Quốc giáp ranh với các nƣớc ASEAN đều nằm trong chiến
lƣợc mở rộng phía Tây này. Đồng thời những tỉnh này đang tích cực thực hiện
những đƣờng lối chính sách của nhà nƣớc, sẽ đi trƣớc trong việc áp dụng một số
biện pháp về hợp tác trong quá trình xây dựng ACFTA. Đây là thời cơ tốt để các
doanh nghiệp ASEAN thâm nhập vào thị trƣờng miền Tây Trung Quốc, tìm
kiếm các cơ hội hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp ở các tỉnh này.
Các tỉnh và khu tự trị vùng biên giới của Trung Quốc nhƣ Vân Nam, Tây
Tạng, Quảng Tây có tính bổ sung rất lớn đối với các nƣớc ASEAN, đặc biệt là
những nƣớc ASEAN giáp biên giới của Trung Quốc nhƣ Việt Nam, Lào,
Campuchia về nhiều mặt nhƣ cơ cấu tài nguyên, cơ cấu công nghiệp và hàng
hoá...Các nƣớc ASEAN có cơ hội đẩy mạnh mậu dịch biên giới với các nƣớc
này, xuất khẩu một số mặt hàng cơ bản nhƣ gỗ, khoáng sản, nông sản, thuỷ hải
sản, nhập khẩu kim loại màu, hoá chất, các mặt hàng tiêu dùng, nguyên liệu xây
dựng. Ngoài ra, các nƣớc Myanmar, Lào, Việt Nam có thể hợp tác với các tỉnh
này trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, sản xuất nông nghiệp. Đồng thời cũng
có thể hợp tác để phát triển ngành du lịch vì các ƣu đãi của ACFTA tạo điều kiện
cho các thủ tục thông quan qua cửa khẩu biên giới sẽ đƣợc đơn giản hoá, các
tuyến đƣờng giao thông vận tải cũng nhƣ cơ sở hạ tầng qua biên giới giữa Trung
57
Quốc và các nƣớc ASEAN sẽ phát triển hơn nữa.
Thúc đẩy đoàn kết nội bộ khối ASEAN, đẩy nhanh quá trình thực hiện
AFTA, AIA, AICO... và những chương trình hợp tác của ASEAN.
Việc ký kết các FTA song phƣơng đƣợc hiểu là sự ký kết giữa từng nƣớc
với nhau, nhƣng cũng còn đƣợc hiểu là sự ký kết của một nƣớc với một khu vực.
ACFTA đƣợc nhìn nhận là một khu vực mậu dịch tự do song phƣơng giữa một
bên là Trung Quốc với một bên là toàn khối ASEAN. Vì vậy, các nƣớc ASEAN sẽ
đoàn kết hơn để cùng hiệp lực với tƣ cách là một khối thống nhất cùng tham gia
hội nhập vào ACFTA. Hơn nữa, các nƣớc ASEAN đều có những lợi ích cũng nhƣ
cùng phải đối mặt với những thách thức chung do ACFTA mang lại, do đó, sẽ
cùng hợp nhất để bảo vệ quyền lợi của mình trong quá trình thực hiện ACFTA.
Mặt khác, lộ trình thực hiện các chƣơng trình hợp tác trong ACFTA rất gần
với lộ trình thực hiện các chƣơng trình của ASEAN nhƣ AFTA, AIA, AICO,...
Trong khi thực hiện để hoàn thành ACFTA, các bƣớc giảm và xoá bỏ hàng rào
thuế quan, phi thuế quan và các bƣớc tiến hành tự do hoá thƣơng mại, đầu tƣ,
hợp tác trong các lĩnh vực của ACFTA sẽ giúp thúc đẩy nhanh tiến trình thực
hiện AFTA, AIA, AICO... của ASEAN.
Những cơ hội đối với Trung Quốc
Thâm nhập mạnh mẽ vào thị trường ASEAN với những hàng hoá vốn đã có
sức cạnh tranh lớn của mình
Trung Quốc hiện đƣợc coi là “công xƣởng” của thế giới và hàng hoá của
Trung Quốc vốn có lợi thế rất lớn so với các nƣớc khác trên thế giới nhờ chi phí
sản xuất thấp và vì vậy, sức cạnh tranh về giá cả rất cao so với những mặt hàng
cùng loại trên thế giới. Đối với các nƣớc ASEAN, sau khi các nƣớc này thực
hiện nghĩa vụ giảm, bãi bỏ thuế và hàng rào phi thuế cùng với những biện pháp
khác về thuận lợi hoá thƣơng mại, đồng thời cùng với việc mở rộng cửa hơn thị
trƣờng các nƣớc ASEAN sau khi khối này hoàn thành AFTA, hàng hoá Trung
Quốc sẽ càng có khả năng thâm nhập mạnh hơn vào thị trƣờng ASEAN.
Các mặt hàng của Trung Quốc đƣợc hƣởng lợi nhiều nhất từ việc cắt giảm
58
thuế quan của ASEAN là: thiết bị vận tải, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, sản
phẩm xăng dầu, than đá, hoá chất, cao su, khoáng sản, xe máy, ôtô...
- Về các mặt hàng nông sản, Trung Quốc có thể xuất khẩu sang ASEAN các
mặt hàng nông sản cần nhiều lao động nhƣ rau, hoa quả và những nông sản ôn đới
mà các nƣớc ASEAN rất cần nhập khẩu nhƣ táo, lê, cam quýt, nho , măng tây, cà
chua....
- Cơ cấu xuất nhập khẩu giữa ASEAN và Trung Quốc, có thể thấy rằng các mặt
hàng kỹ thuật của ASEAN ngày càng có xu hƣớng thiên về nhập khẩu hơn là xuất
khẩu nên với những ƣu đãi thuế quan của thị trƣờng ASEAN cùng với lợi thế giá rẻ,
Trung Quốc có thể đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng này sang các nƣớc ASEAN.
- Ngoài ra, còn nhiều mặt hàng khác Trung Quốc có thể tăng xuất khẩu
sang ASEAN nhƣ các dụng cụ và thiết bị dùng trong sinh hoạt gia đình, đồ chơi,
vải vóc, thiết bị điện, vật liệu xây dựng... cũng là những mặt hàng mà Trung
Quốc có sức cạnh tranh mạnh so với các nƣớc ASEAN.
Bên cạnh việc loại bỏ thuế quan nhƣ Hiệp định khung của ACFTA, điều
quan trọng hơn nữa là việc loại bỏ các hàng rào phi thuế mà hiện nay ASEAN
đang áp dụng và Trung Quốc coi đây là việc phân biệt đối xử với hàng Trung
Quốc nhằm khống chế và hạn chế hàng Trung Quốc thâm nhập thị trƣờng
ASEAN sẽ càng tạo thuận lợi hơn nữa cho hàng Trung Quốc, vốn đã có chân
đứng khá vững chắc trên thị trƣờng ASEAN, thâm nhập mạnh hơn vào thị trƣờng
ASEAN.
Thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời thu được nhiều
lợi từ việc tăng cường đầu tư vào các nước ASEAN.
Đầu tƣ trực tiếp (FDI) vào Trung Quốc có chiều hƣớng ngày càng gia tăng
mạnh mẽ. Khi năm thứ hai liên tiếp đứng ở vị trí số một trong danh sách các
nƣớc thu hút nhiều FDI nhất thế giới, Trung Quốc đã trở thành một hiện tƣợng
của đầu tƣ thế giới năm 2002- 2003.Vào thời điểm cuối tháng 9/2001, Trung
Quốc đã phê duyệt 382.930 đề án FDI với trị giá hợp đồng đã đƣợc ký lên đến
726,066 tỷ USD trong đó 380,82 tỷ đã đƣợc đƣa vào thực hiện. Với việc Trung
59
Quốc trở thành thành viên WTO (ngày 12/11/2001) FDI vào Trung Quốc ngày
càng tăng mạnh hơn. Tính toàn năm 2001, FDI của Trung Quốc đã đạt gần 47 tỷ
USD. [47] Năm 2002, FDI vào Trung Quốc đã đạt gần 50 tỷ USD, đến năm
2003 FDI vào Trung Quốc đạt 57,24 tỷ USD [7]. Trung Quốc đạt đƣợc những
thành tích trên về thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài là do có một môi trƣờng thuận lợi,
hấp dẫn và ổn định, tình trạng tham nhũng và quan liêu hành chính ngày một cải
thiện. So với các nƣớc ASEAN, môi trƣờng đầu tƣ của Trung Quốc hấp dẫn hơn
nhiều. Do đó, nếu khu vực thƣơng mại tự do đƣợc thiết lập thì FDI càng đƣợc
chuyển dịch vào Trung Quốc nhiều hơn vì Trung Quốc vốn đã có ƣu thế hơn về
chi phí lao động, nguồn lực và qui mô sản xuất, sẽ càng trở nên hấp dẫn hơn một
khi FDI đƣợc hƣớng tới thị trƣờng rộng lớn ACFTA.
Đồng thời, các doanh nghiệp Trung Quốc cũng sẽ đƣợc hƣởng lợi nhiều từ
việc đẩy mạnh đầu tƣ vào các nƣớc ASEAN. Với chiến lƣợc “hƣớng ngoại”
đang đƣợc tăng cƣờng cộng thêm với những ƣu đãi tại thị trƣờng các nƣớc
ASEAN khi ACFTA ra đời, đầu tƣ nƣớc ngoài của Trung Quốc sẽ tăng nhanh
chóng. Qua đó, một mặt các doanh nghiệp Trung Quốc vừa có thể thâm nhập
mạnh vào thị trƣờng các nƣớc này, vừa có thể tận dụng đƣợc những ƣu đãi ở các
nƣớc này thu đƣợc nhiều lợi nhuận hơn. Ví dụ, các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ
dễ dàng hơn trong việc tận dụng đồng thời cơ chế của AFTA khi mà các nƣớc
trong khu vực này hoàn thành việc dành cho nhau những ƣu đãi về thuế và phi
thuế - những ƣu đãi trong ACFTA sắp tới để đầu tƣ vào xây dựng các nhà máy
sản xuất ở các nƣớc ASEAN và tiêu thụ ở chính các nƣớc trong ASEAN, từ đó
tiết kiệm đƣợc nhiều chi phí, thu đƣợc lợi nhuận cao... Đây sẽ là cơ hội lớn cho
các doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài của Trung Quốc.
Tận dụng cơ hội hợp tác khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
của các nước ASEAN
Trung Quốc có một số tài nguyên có trữ lƣợng rất lớn, tuy nhiên do dân số
đông nên theo đầu ngƣời thì đây lại là một nƣớc nghèo tài nguyên. Diện tích đất
trồng trọt bình quân theo đầu ngƣời của Trung Quốc rất thấp, khoảng
60
0,8ha/ngƣời, chỉ bằng 26% mức trung bình của thế giới. Ngoài ra, Trung Quốc
cũng đang rất thiếu một trong những tài nguyên là nguyên liệu phục vụ cho sản
xuất, để đáp ứng nhu cầu tăng trƣởng kinh tế nhanh chóng hiện nay của nƣớc
này. Hiện nay, khoảng hơn 10 loại khoáng sản quan trọng của Trung Quốc có trữ
lƣợng thấp, không đủ cho nhu cầu tăng trƣởng kinh tế trong đó có dầu mỏ, khí
đốt,vàng, đồng, kim cƣơng, quặng sắt... Trong khi đó, hiện Trung Quốc tiêu
dùng 1/5 năng lƣợng thế giới, 1/4 than đá, 1/4 sắt thép thế giới. Khi đẩy mạnh
hợp tác với ASEAN trong khuôn khổ ACFTA, Trung Quốc sẽ đƣợc lợi nhiều từ
ASEAN vốn là những nƣớc giàu tài nguyên thiên nhiên. Trung Quốc có thể tận
dụng nhập khẩu từ ASEAN các khoáng sản và hoá chất nhƣ sắt, đồng, thép,
nhôm, thiếc, kali, thạch cao, vonfram... hoặc những tài nguyên để phục vụ sản
xuất.
Đồng thời, những tài nguyên nông nghiệp là lƣơng thực của ASEAN cũng sẽ
giúp Trung Quốc khắc phục việc thiếu diện tích đất trồng trọt bình quân hiện nay.
Có điều kiện để phát triển các loại hình dịch vụ mới
Dịch vụ mới, nhất là dựa trên công nghệ mới chƣa thực phát triển ở Trung
Quốc nhƣ về tài chính và thị trƣờng chứng khoán, trong khi ở các nƣớc ASEAN
phát triển nhƣ Singapore, Indonexia, Thái Lan, Malaysia... những ngành này
phát triển đƣợc khá lâu và tƣơng đối mạnh. Vì vậy, Trung Quốc sẽ học tập đƣợc
nhiều kinh nghiệm trong những nghiệp vụ về tài chính, ngân hàng, thị trƣờng
chứng khoán, bảo hiểm... và một số lĩnh vực khác.
Bên cạnh đó, những ngành tƣ vấn, giáo dục, quản lý cơ sở hạ tầng, kế
hoạch đô thị... cũng khá phát triển ở những nƣớc ASEAN- 6 và nhờ vậy, các
nƣớc ASEAN sẽ có thể hỗ trợ cho Trung Quốc trong những ngành này.
Góp phần thực hiện thành công chiến lược đại khai phá miền Tây, phát
triển kinh tế ở các tỉnh miền Tây Nam lạc hậu.
Các tỉnh biên giới phía Tây Nam của Trung Quốc nhƣ Vân Nam, Tây Tạng,
khu tự trị Quảng Tây... vốn là những vùng còn đang lạc hậu, kinh tế chậm phát
triển nhất so với các tỉnh và thành phố khác của Trung Quốc, thu nhập bình quân
61
trên đầu ngƣời của các tỉnh này là 600-650 USD/ ngƣời thấp hơn so với mức
bình quân cả nƣớc là trên 1000 USD/ngƣời. Khi ACFTA đƣợc thực hiện, sẽ có
nhiều những ƣu đãi lẫn nhau giữa các tỉnh này và các nƣớc ASEAN, đặc biệt là với
những nƣớc ASEAN láng giềng gần kề với Trung Quốc nhƣ Việt Nam, Lào,
Campuchia... ACFTA sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế và thƣơng mại của
các tỉnh này phát triển, tăng cƣờng xuất khẩu của các tỉnh này vào thị trƣờng
ASEAN hơn nữa, đẩy mạnh quá trình thực hiện chiến lƣợc đại khai phá miền Tây
của Trung Quốc.
Ví dụ như trong lĩnh vực thương mại, các nƣớc ASEAN là thị trƣờng chính
của các hàng hoá xuất khẩu của các tỉnh miền Tây Trung Quốc này, trong đó chủ
yếu là những mặt hàng tiêu dùng, dệt may, thực phẩm, máy móc, điện tử... -
những mặt hàng lợi thế của các tỉnh này so với các nƣớc ASEAN. Đồng thời,
những tỉnh nhƣ Vân Nam, khu tự trị Quảng Tây nhập khẩu đƣợc rất nhiều những
mặt hàng lâm sản, khoáng sản, nguyên vật liệu... từ các nƣớc ASEAN, vốn là
những mặt hàng mà các tỉnh này đang thiếu.
Mặt khác, khi ACFTA đƣợc thực hiện, hàng hoá lƣu thông giữa các nƣớc
ASEAN và Trung Quốc sẽ tăng lên nhanh chóng, những tỉnh này sẽ trở thành cửa
ngõ quan trọng thông quan những hàng hoá buôn bán giữa ASEAN và Trung
Quốc. Những tỉnh này cũng có thể tận dụng cơ chế AFTA của các nƣớc ASEAN
sau khi hoàn thành vào năm 2003 để phát triển thƣơng mại quá cảnh của các hàng
hoá lƣu thông trong các nƣớc ASEAN, đặc biệt quá cảnh qua Việt Nam, Lào…
Bằng cách dùng những máy móc công nghệ khai thác hiện đại của mình,
các tỉnh biên giới của Trung Quốc cũng có thể hợp tác khai thác tài nguyên của
các nƣớc ASEAN nhƣ khoáng sản, điện năng, gỗ... hợp tác với các nƣớc
ASEAN trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Đồng thời,
các tỉnh này cũng có cơ hội tăng đầu tƣ vào các nƣớc ASEAN trong cả lĩnh vực
sản xuất và thƣơng mại dịch vụ.
Một số cơ hội chung cho cả ASEAN và Trung Quốc
Ngoài những cơ hội riêng cho ASEAN và Trung Quốc, việc thành lập
62
ACFTA còn mang lại một số cơ hội chung cho cả hai bên:
- Nâng cao vị thế của các nước thành viên ACFTA, giảm những rủi ro từ
bên ngoài
Trung Quốc đã trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới với
hơn 1,2 tỷ dân, ASEAN cũng là một thị trƣờng rộng lớn gần 500 triệu dân. Đây
đều là những nƣớc có tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh vào loại bậc nhất trên thế
giới. Hai nền kinh tế này liên kết với nhau, một mặt sẽ càng thúc đẩy kinh tế của
các nƣớc thành viên trong khối phát triển hơn nữa, và mặt khác, cũng tạo nên
một sức mạnh chung về kinh tế cũng nhƣ về chính trị của toàn khối. ACFTA sẽ
là một khối kinh tế lớn mạnh đối trọng với những khối kinh tế khác trên thế giới
nhƣ Mỹ, EU, NAFTA... Nhƣ vậy, vị thế của các nƣớc trong ACFTA nói riêng và
của các nƣớc Châu Á nói chung sẽ đƣợc nâng cao trên trƣờng quốc tế, đồng thời
ACFTA sẽ có lợi thế hơn trong những cuộc đàm phán quốc tế với các nƣớc và
khu vực khác trên thế giới với tƣ cách là một khu vực mậu dịch tự do có qui mô
lớn nhất thế giới. Hơn nữa, với tiềm lực kinh tế lớn mạnh của cả khu vực kinh tế
Trung Quốc-ASEAN rộng lớn, đặc biệt là một nền kinh tế Trung Quốc phát triển
mạnh mẽ, mối liên hệ kinh tế đƣợc tăng cƣờng giữa các nƣớc thành viên,
ACFTA sẽ trở thành một khối kinh tế đủ mạnh để giảm thiểu những rủi ro từ bên
ngoài khu vực, đồng thời các nƣớc trong khối sẽ tự tin hơn để cùng nhau đối phó
khi có những rủi ro, tác động từ bên ngoài ảnh hƣởng đến kinh tế- xã hội của
mỗi nƣớc nói riêng và của toàn khối nói chung.
- Phân bổ nguồn vốn hợp lý, nâng cao hiệu quả, năng suất và sức cạnh
tranh của các nền kinh tế thành viên.
ACFTA ra đời tạo ra một thị trƣờng rất rộng lớn với tài nguyên phong phú
hơn. Qui mô thị trƣờng rộng mở hơn giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ cho phép
khai thác các nguồn lực kinh tế một cách tối ƣu. Các doanh nghiệp trƣớc khi hội
nhập sản xuất dƣới mức công suất tối đa sẽ có thể đạt hiệu suất nhờ chi phí giá
thành đơn vị rẻ hơn vì sản xuất cho một thị trƣờng tiêu thụ lớn hơn. Đồng thời
các doanh nghiệp của hai bên cũng có thể nâng cao năng suất nhờ việc bãi bỏ các
63
rào cản trong khu vực sẽ buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh và tăng tính đổi
mới, sáng tạo của họ.
Các nguồn lực trong nền kinh tế cũng sẽ đƣợc phân phối hợp lý hơn. Nguồn
vốn, lao động, hàng hoá đƣợc di chuyển tự do trong khu vực sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế. Các nguồn vốn nhàn rỗi sẽ đƣợc sử dụng vào
những khu vực đầu tƣ có lợi hơn, có nhiều công ăn việc làm đƣợc tạo ra hơn.
Theo đánh giá của Ban thƣ ký ASEAN bằng việc sử dụng Dự án phân tích
thƣơng mại toàn cầu, ACFTA sẽ lam tăng GDP trung bình của các nƣớc ASEAN
0,95, tƣơng đƣơng 5,4 tỷ USD trong khi GDP Việt Nam tăng cao nhất, còn của
Trung Quốc tăng 0,27% tƣơng đƣơng 2,2 tỷ USD (xem bảng)
BẢNG 8. TÁC ĐỘNG CỦA ACFTA TỚI GDP THỰC TẾ CỦA MỘT SỐ
NƢỚC ASEAN VÀ TRUNG QUỐC
GDP thực tế Mức tăng tuyệt Mức tăng tƣơng đối Nƣớc (triệu USD) đối
Indonexia 204.031,4 2.267,8 1,12%
Malaysia 98.032,3 1.133,5 1,17%
Philippines 71.167,1 229,1 0.32%
Singapore 72.734,9 753,3 1,05%
Thái Lan 165.516,0 673,6 0,41%
Việt Nam 16.110,9 339,1 2,15%
Trung Quốc 815.163,0 2.214,0 0,27%
Nguồn: Nhóm chuyên gia ASEAN-Trung Quốc về hợp tác kinh tế -ACEGEC
Sau khi thành lập ACFTA, cùng với sự mở rộng tự do hoá thƣơng mại, đầu tƣ
và hợp tác kinh tế kỹ thuật, trao đổi trình độ kỹ thuật giữa hai bên sẽ giúp nâng cao
năng lực sản xuất và trình độ sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp
các nƣớc. Đồng thời, do trình độ sản xuất đƣợc nâng cao, chất lƣợng sản phẩm sản
xuất ra sẽ tốt hơn, mặt khác với tính kinh tế nhờ qui mô cộng đặc tính giá thành rẻ
vốn có từ trƣớc của các sản phẩm của cả Trung Quốc và các nƣớc ASEAN, hàng
64
hoá của các nƣớc này sẽ nâng cao tính cạnh tranh hơn trên thị trƣờng quốc tế, từ đó
cũng có tác dụng tốt để thúc đẩy mở rộng thị trƣờng quốc tế của cả hai bên.
- Đẩy nhanh tốc độ thực hiện chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông
Mêkông, từ đó mang lại nhiều lợi ích hơn cho các nước ASEAN và Trung Quốc
tham gia chương trình này
Hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông là một trong những nội dung quan
trọng trong chƣơng trình hợp tác đã đƣợc đề cập trong Hiệp định khung giữa
ASEAN và Trung Quốc. Vì vậy, sau khi ACFTA ra đời, các chƣơng trình hợp
tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông sẽ đƣợc thực hiện nhanh hơn, đặc biệt là
chƣơng trình hợp tác phát triển lƣu vực sông Mêkông ASEAN (AMBDC) và
chƣơng trình hợp tác tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS).
Trong khuôn khổ của hai chƣơng trình này, các dự án về xây dựng cơ sở hạ
tầng sẽ đƣợc ƣu tiên thực hiện và trong tƣơng lai gần nhất là hai dự án xây dựng
tuyến đƣờng sắt Singapore- Côn Minh và tuyến đƣờng cao tốc Băng Cốc- Côn
Minh nhƣ đã đƣợc nêu trong Hiệp định khung. Các dự án về giao thông đƣợc
thực hiện xong sẽ tạo cơ sở hạ tầng thuận tiện cho việc giao lƣu giữa các nƣớc
ASEAN và Trung Quốc trong việc phát triển thƣơng mại và dịch vụ tiểu vùng.
Bên cạnh đó, chƣơng trình hợp tác tiểu vùng sông Mêkông với bƣớc tiến
quan trọng đạt đƣợc trong Hội nghị thƣợng đỉnh GMS đƣợc tổ chức lần đầu tiên
ở Campuchia vào 3/11/2002. Theo “Tầm nhìn GMS”, các nƣớc thành viên
trongtiểu vùng (gồm Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Myanmar và Trung
Quốc) sẽ trở thành một cộng đồng các quốc gia hoà hợp, thịnh vƣợng, bình đẳng,
thống nhất, phát triển bền vững, đặc biệt GMS sẽ tiến tới xoá bỏ tình trạng nghèo
đói vẫn đang tồn tại ở một số nƣớc thành viên kém phát triển hơn. Đồng thời, với
việc các nƣớc thành viên đƣa ra tuyên bố chung cao cấp về GMS, việc Trung
Quốc tham gia hiệp định về thuận lợi hoá thƣơng mại về di chuyển ngƣời và hàng
hoá sẽ tạo cơ sở hạ tầng và 6 nƣớc thành viên ký Hiệp định về thƣơng mại năng
lƣợng liên chính phủ... cộng với việc thực hiện các dự án trong khuôn khổ GMS
về 7 lĩnh vực trọng điểm, sẽ không chỉ tạo ra cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc đẩy
65
mạnh thƣơng mại, đầu tƣ giữa các nƣớc trong tiểu vùng mà còn góp phần cho việc
phát triển giao lƣu văn hoá, du lịch giữa các dân tộc trong GMS. Các dự án về
hoàn thiện hành lang kinh tế nối các nƣớc trong tiểu vùng sẽ đẩy mạnh giao lƣu
thƣơng mại, đầu tƣ, trong đó có một bộ phận quan trọng từ thƣơng mại biên giới.
Các dự án của GMS cũng giúp các nƣớc thành viên khai thác có hiệu quả
các tài nguyên của sông Mêkông, tận dụng cơ hội về nguồn lực, về trao đổi lao
động. Phát triển ngành du lịch vốn đang là tiềm năng của các nƣớc này, đồng
thời bảo vệ môi trƣờng của tiểu vùng sông Mêkông. Ngoài ra, một lợi ích quan
trọng nữa mà GMS mang lại là giúp thu hẹp khoảng cách phát triển không đồng
đều giữa các nƣớc trong tiểu vùng, nhất là những nƣớc thành viên mới, tăng
cƣờng tính bổ sung giữa các nƣớc để mở ra cơ hội phát triển bền vững cho toàn
khu vực.
- Bên cạnh thương mại và đầu tư, ACFTA sẽ thúc đẩy hợp tác giữa Trung
Quốc và ASEAN ở nhiều lĩnh vực khác
Sau khi ACFTA đƣợc thành lập, các doanh nghiệp hai bên sẽ càng có điều
kiện thuận lợi hơn nữa để tìm hiểu và giao lƣu, nắm rõ hơn nữa tình hình thị
trƣờng của nhau, có lợi cho việc đẩy mạnh hợp tác và mở rộng các lĩnh vực hợp
tác, đẩy mạnh hiệu quả và tốc độ phát triển của quan hệ kinh tế thƣơng mại trong
khu vực.
Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác giữa các nƣớc trong lĩnh vực thƣơng mại,
đầu tƣ, ACFTA cũng sẽ mang lại cơ hội hợp tác giữa các nƣớc thành viên ở
những lĩnh vực quan trọng khác nhƣ thông tin liên lạc và phát triển nguồn nhân
lực. Trong lĩnh vực nông nghiệp, đây là một trong những lĩnh vực đƣợc ƣu tiên
hàng đầu bên cạnh lĩnh vực thƣơng mại và đầu tƣ, do hầu hết các nƣớc trong
khối ACFTA là những nƣớc đi lên từ nông nghiệp và hiện nay nông nghiệp vẫn
là một ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của các nƣớc này. Có thể
thấy danh mục giảm thuế các mặt hàng của EHP trong Hiệp định khung của
ACFTA chủ yếu tập trung vào các mặt hàng nông sản. Đây sẽ là cơ hội tốt để
các nƣớc trong ACFTA đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản trong nội bộ khối,
66
cung cấp cho nhau những nông sản mà nƣớc khác đang thiếu hoặc kém lợi thế so
sánh hơn, tăng tính bổ sung lẫn nhau trong lĩnh vực nông nghiệp.
Cùng với “Biên bản ghi nhớ về hợp tác nông nghiệp” vừa đƣợc các nhà
lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc ký kết tại Hội nghị thƣợng đỉnh ASEAN 8, các
nƣớc trong ACFTA cũng sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để tăng cƣờng sự hợp tác
trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất, hiệu quả của sản xuất nông
nghiệp, giúp ngành nông nghiệp các nƣớc trong khu vực phát triển hơn nữa,
đồng thời nâng cao chất lƣợng, tăng tính cạnh tranh của các hàng nông sản xuất
khẩu.
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hai bên có cơ hội, học hỏi kinh nghiệm
của nhau để phát triển ngành công nghệ thông tin liên lạc, hình thành một mạng
lƣới thông tin tiên tiến trong nội bộ khối. Đồng thời, với những chƣơng trình trợ
giúp phát triển và hỗ trợ kỹ thuật giữa các nƣớc, đặc biệt là các nƣớc thành viên
mới, ngành công nghệ thông tin liên lạc nói riêng và công nghệ nói chung sẽ
cùng phát triển mạnh mẽ hơn.
Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hai bên sẽ có thể tăng cƣờng trao
đổi cả đội ngũ lao động đơn giản và đặc biệt là những cán bộ khoa học có trình
độ cao, những chuyên gia, kỹ sƣ, cử nhân tri thức đóng góp cho sự phát triển nền
kinh tế mỗi nƣớc nói riêng và cả khu vực nói chung.
Trong tƣơng lai các nƣớc thành viên ACFTA sẽ có cơ hội phát triển quan
hệ hợp tác phát triển trên nhiều lĩnh vực khác nữa nhƣ: tài chính ngân hàng, hợp
tác về công nghiệp, du lịch, giao thông vận tải, viễn thông, sở hữu trí tuệ, lâm và
ngƣ nghiệp, khai khoáng, năng lƣợng...
Thông qua sự hợp tác về kinh tế, các nƣớc thành viên ACFTA có thể còn
thúc đẩy sự hợp tác về văn hóa, an ninh, chính trị và về vấn đề bảo vệ môi
trƣờng.
2.2.2.2. Những thách thức đối với Trung Quốc và ASEAN khi tham gia
67
ACFTA
Đối với các nước ASEAN
ASEAN và Trung Quốc có rất nhiều các yếu tố cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế
của các nƣớc ASEAN và Trung Quốc có nhiều nét tƣơng đồng nhƣng kinh tế
Trung Quốc lại có quy mô lớn hơn quy mô kinh tế của cả 10 nƣớc ASEAN cộng
lại. Hơn nữa, Trung Quốc cũng có tiềm lực kinh tế với nhiều ngành lớn mạnh
hơn đa số các nƣớc ASEAN. Vì vậy, khi mở cửa hơn đối với Trung Quốc, các
nƣớc ASEAN sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, nhất là trong lĩnh vực
thƣơng mại và đầu tƣ, đặc biệt là các nƣớc ASEAN mới có trình độ phát triển
chậm hơn.
Việc Trung Quốc gia nhập WTO đã gây ra sự lo sợ đối với Đông Nam Á.
Dƣờng nhƣ các nƣớc này có nhiều thứ để lo ngại hơn. Đầu tƣ nƣớc ngoài đổ vào
Trung Quốc nhiều hơn vào Đông Nam Á, cơn lũ hàng Trung Quốc giá rẻ trong
các ngành sử dụng nhiều lao động, cộng thêm các mặt hàng điện tử tinh vi mà
Trung Quốc đang sản xuất và việc chấm dứt hạn ngạch hàng dệt vào năm 2005
đang góp phần tạo nên sức ép xấu cho Đông Nam Á. Thêm vào nữa đó là tàn
tích của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 và suy thoái bong bóng hậu công
nghệ năm 2001, nhƣ vậy ngƣời ta có thể hiểu đƣợc tại sao tâm trạng giới kinh
doanh và chính trị trong khu vực lại ảm đạm đến thế. ASEAN sẽ phải đối mặt
với những thách thức sau:
Hàng hoá Trung Quốc thâm nhập vào thị trường ASEAN mạnh hơn, từ đó
một số ngành sản xuất sẽ bị thua thiệt.
Đem so sánh mức thâm nhập của hàng hoá hai bên vào thị trƣờng của nhau,
thì hàng hoá của Trung Quốc sẽ thâm nhập vào thị trƣờng ASEAN nhiều hơn cả
về số lƣợng và chủng loại. Đây là một thách thức lớn đối với các nƣớc ASEAN
vốn đã tràn ngập hàng hoá Trung Quốc trên thị trƣờng nhƣ hiện nay.
Hiện tại, thuế suất của Trung Quốc đang ở mức bình quân 16,9%, trong đó
mức cao nhất không vƣợt quá 100%. Khoảng 30% các dòng thuế của Trung
Quốc ở mức trên 20%. Thuế suất cao nhất của Trung Quốc đƣợc áp dụng cho
68
các mặt hàng thực phẩm, xe cộ, hàng dệt và phụ liệu, giày dép, mỡ và dầu ăn.
Những mặt hàng này đang phải chịu thuế suất trên 10% trong khi các nƣớc
ASEAN hiện đang áp dụng thuế suất trên 20% cho những mặt hàng này. So với
thuế suất hiện nay đang đƣợc áp dụng, nếu cắt giảm, sẽ tạo nhiều thuận lợi cho
hàng Trung Quốc thâm nhập thị trƣờng ASEAN hơn là hàng của ASEAN thâm
nhập thị trƣờng Trung Quốc.
Trong quan hệ thƣơng mại với Trung Quốc, các nƣớc ASEAN nhƣ
Singapore, Bruney, Việt Nam, Campuchia, và Lào đều đang nhập siêu. Sau khi
thành lập ACFTA, việc cắt giảm thuế của các nƣớc ASEAN sẽ làm tăng tình
trạng nhập siêu của các nƣớc ASEAN.
Hơn nữa, xem xét cơ cấu nhập khẩu giữa ASEAN và Trung Quốc, ta có thể
thấy các mặt hàng kỹ thuật và cơ bản ASEAN ngày càng có xu hƣớng thiên về
nhập khẩu hơn là xuất khẩu. Cho nên trong tƣơng lai gần, nếu không có gì thay
đổi, thƣơng mại giữa hai bên sẽ phát triển theo chiều hƣớng này, dẫn đến một sự
tăng trƣởng đáng kể của hàng Trung Quốc thâm nhập vào ASEAN, làm cho
ASEAN càng nhập siêu hơn.
Những mặt hàng của ASEAN sẽ phải đối mặt với thách thức cạnh tranh lớn
nhất của Trung Quốc sẽ là những ngành có hàm lƣợng lao động cao nhƣ các sản
phẩm dệt may, quần áo, giày dép, các mặt hàng tiêu dùng... và cả một số mặt
hàng tập trung nhiều vốn và công nghệ nhƣ ngành sản xuất máy tính, máy in...
và một số sản phẩm, thiết bị điện tử khác và những ngành sản xuất thay thế hàng
nhập khẩu khác. Các mặt hàng này của Trung Quốc sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với
các hàng hoá cùng loại của ASEAN trên thị trƣờng quốc tế và thậm chí ngay trên
thị trƣờng của chính các nƣớc ASEAN.
Thị trƣờng các nƣớc ASEAN sẽ phải chịu áp lực mở cửa đối với các hàng
hoá có sức cạnh tranh mạnh của Trung Quốc, đặc biệt đối với các nƣớc ASEAN
mới thì áp lực này càng mạnh. Tuy đã đƣợc hƣởng nhiều ƣu đãi nhƣ đƣợc lùi
thời gian hoàn thành ACFTA và EHP chậm hơn 5 năm so với các nƣớc còn lại
trong khối, đƣợc đƣa ra một số danh mục loại trừ trong thực hiện EHP ... nhƣng
69
với trình độ phát triển nhƣ hiện nay, các nƣớc này vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn để
thực hiện cam kết trong ACFTA. Trong khi Trung Quốc sẽ không ngừng đẩy
mạnh thâm nhập sâu vào thị trƣờng những nƣớc này, hàng hoá những nƣớc này
sẽ khó cạnh tranh đƣợc với hàng hoá của Trung Quốc.
Nguy cơ suy giảm vốn đầu tư nước ngoài do sức ép cạnh tranh từ thị
trường Trung Quốc
Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn của các nƣớc ASEAN. Ban thƣ ký
ASEAN đã tỏ ra lo lắng cho tƣơng lai đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở khu vực này.
Họ đã cảnh báo rằng, về phƣơng diện này, “Trung Quốc chiếm ƣu thế nổi trội
hơn ASEAN ”. Hiện nay, Trung Quốc đã chiếm giữ khoảng 80% đầu tƣ của
quốc tế vào Châu Á, dòng chảy FDI vào Trung Quốc đã gấp 4 lần dòng chảy vào
ASEAN. Trung Quốc là một thị trƣờng lớn và năng động. Các nhà quản lý kinh
tế của nƣớc này điều khiển nền kinh tế vƣợt qua những giai đoạn tồi tệ nhất của
cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á mà chẳng bị hệ quả gì. Các nhà lãnh đạo chính
trị Trung Quốc thể hiện quyết tâm thực hiện các cam kết WTO, nghĩa là, bằng
việc thúc đẩy tự do hoá thị trƣờng của mình, Trung Quốc chắc chắn sẽ củng cố
thêm niềm tin của các nhà đầu tƣ và hạ thấp chi phí kinh doanh ở nƣớc này xuống.
Ngƣợc lại, ASEAN là một khu vực đa dạng và nhiều khác biệt về trình độ
phát triển , về chế độ, về văn hoá và kinh tế- xã hội ... Ảnh hƣởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế đã để lộ ra những điểm yếu trong cơ cấu và chính sách kinh
tế, làm xói mòn niềm tin của các nhà đầu tƣ, theo Ban thƣ ký ASEAN, khu vực
này sẽ “ăn không ngon, ngủ không yên” với Trung Quốc trên cƣơng vị là một
nhà xuất khẩu hàng điện tử. Năm 1986, mặt hàng điện và máy móc chỉ chiếm
2,82% trong tổng số hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Năm 1998, con số này
nhảy vọt lên tới 23,7% trong một cơ sở xuất khẩu lớn hơn nhiều. Thị phần của
Trung Quốc trong thị trƣờng hàng điện tử Mỹ từ 9,5% năm 1992 đã lên tới
21,8% trong năm 1999. Trung Quốc còn là trung tâm sản xuất hàng điện tử gia
dụng của thế giới. Theo một nghiên cứu chƣa đƣợc công bố của Nhật Bản, Trung
Quốc sản xuất 29% ti vi màu và máy giặt trên thế giới, 32% máy điều hoà nhiệt
70
độ và 50% máy phôtôcopy [20]. Máy tính cá nhân để bàn của Trung Quốc trên
thế giới từ 4% năm 1996 tăng lên 21% năm 2000, thời điểm mà bản thân ngành
công nghiệp toàn cầu này tăng mạnh. Trong cùng thời gian này thị phần của
ASEAN giảm mạnh, từ 17% xuống còn 6%. Tình hình ổ cứng cũng tƣơng tự khi
thị phần của Trung Quốc trên thế giới tăng từ 1% năm 1996 lên 6% năm 2000.
Trong giai đoạn này ASEAN chứng kiến thị phần của mình giảm từ 83% xuống
còn 77%, gần bằng mức mà Trung Quốc giành đƣợc. Thị phần mặt hàng bàn
phím máy tính của Trung Quốc nhảy vọt từ 18% lên 38% trong thời kỳ 1996-
2000, trong khi ASEAN giảm từ 57% xuống còn 42%. {20}
ASEAN đang mất dần thị phần ở Mỹ vào tay Trung Quốc, khi mà hàng
điện tử xuất khẩu vào Mỹ của họ đã tăng lên tới 35 tỷ đôla, gấp 2,5 lần trong thời
kỳ 1996-2000. Trong cùng thời kỳ, xuất khẩu của ASEAN lên tới 40 tỷ đôla,
tăng 60%. Bên cạnh mặt hàng thành phẩm, xuất khẩu linh kiện của Trung Quốc
cũng đang tăng lên. Báo cáo của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBTC)
cảnh báo: “Sẽ nảy sinh sự cạnh tranh với các nhà sản xuất linh kiện Nhật Bản ở
ASEAN”. Với lý thuyết kinh tế truyền thống cho thấy rằng, nền thƣơng mại tự
do hơn cho phép các nƣớc chuyên môn hoá lĩnh vực nào mà họ làm tốt nhất. Sự
phát triển của Trung Quốc trong ngành chế tạo sẽ buộc các nƣớc Đông Nam Á
hoặc tự mình tiến bộ hoặc tìm các hoạt động khác. Lại thêm tình hình chính trị
bất ổn định ở một số nƣớc nhƣ Indonexia, Philippines... nên đầu tƣ nƣớc ngoài
vào ASEAN đã giảm sút trong mấy năm gần đây. Trong khi đó, Trung Quốc với
thế mạnh về thị trƣờng, nhân công, sự ổn định về kinh tế và chính trị cộng với cải
cách sau khi gia nhập WTO, đã hấp dẫn đầu tƣ nƣớc ngoài không ngừng tăng lên và
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với tổng đầu tƣ vào các nƣớc Châu Á. Đây sẽ là một
thách thức trực tiếp với các nƣớc ASEAN, vì sẽ có thể các công ty nƣớc ngoài sẽ di
chuyển địa điểm đầu tƣ từ ASEAN sang Trung Quốc sau khi ACFTA đƣợc thành
lập.
Môi trƣờng đầu tƣ của Trung Quốc hiện nay thuận lợi, hấp dẫn và ổn định hơn
nhiều so với ASEAN. Trung Quốc đang có chính sách kiềm chế mức tăng trƣởng
FDI vào nƣớc này ở mức độ nhất định nhƣng sự hấp dẫn từ bản thân môi trƣờng
71
đầu tƣ của Trung Quốc vẫn mạnh hơn nhiều so với những chính sách hạn chế này,
có nghĩa là đầu tƣ nƣớc ngoài vào Trung Quốc vẫn nhiều hơn là vào các nƣớc
ASEAN. Do đó, nếu ACFTA đƣợc thiết lập thì FDI càng dịch chuyển vào Trung
Quốc nhiều hơn vì Trung Quốc, vốn đã hấp dẫn hơn về chi phí lao động, nguồn lực
và quy mô sản xuất, giờ càng trở nên hấp dẫn hơn một khi FDI đƣợc mở rộng vào
ASEAN.
Mặc khác, chi phí nhân công thấp ở Trung Quốc cũng có thể là một thách
thức trực tiếp đối với các nƣớc ASEAN. Vì lực lƣợng lao động với chi phí nhân
công thấp này dần dần sẽ đủ lớn mạnh để học hỏi tích luỹ kinh nghiệm đang bắt
đầu chuyển thành lực lƣợng lao động với chi phí nhân công cao hơn. Sự dịch
chuyển lực lƣợng lao động trong nƣớc của Trung Quốc sẽ dễ dàng hơn so với sự
dịch chuyển lực lƣợng lao động của các nƣớc ASEAN chủ yếu vì các nƣớc
ASEAN dù sao vẫn là thị trƣờng khác biệt còn thị trƣờng Trung Quốc là thống
nhất. Chi phí nhân công của một số nƣớc thành viên của ASEAN có thể thấp hơn
của Trung Quốc nhƣng những mặt về cơ sở hạ tầng nhƣ chi phí điện, nƣớc, điện
thoại quốc tế, phí vận tải đƣờng biển và hàng không đều cao hơn Trung Quốc rất
nhiều. Theo số liệu của ASEAN, lƣơng bổng ở Trung Quốc thấp hơn ở
Philipines khoảng 20%, chỉ bằng một phần ba so với Malaysia và bằng một phần
tƣ so với Thái Lan. Nhƣng giá nhân công rẻ chỉ là một phần trong những thách
thức mà ASEAN phải đối mặt. Trung Quốc không chỉ đông công nhân hơn mà
còn có đông công nhân lành nghề hơn. Báo cáo của JBTC còn lƣu ý thêm nhiều
vấn đề khác nữa. Hàng năm ở Trung Quốc có 420.000 kỹ sƣ tốt nghiệp, trong
khi đó con số này ở Thái Lan là 15.000, ngay cả nƣớc Nhật hùng mạnh cũng chỉ
có 160.000. [20]. Những yếu tố này càng cho thấy, so sánh về môi trƣờng đầu tƣ
thì các nƣớc ASEAN không còn hấp dẫn nhiều so với Trung Quốc, cho nên
ASEAN chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ Trung Quốc trong lĩnh vực thu hút đầu
tƣ này.
Một số thách thức khác
Công trình nghiên cứu của ASEAN đã cảnh báo rằng: “sự cạnh tranh giữa
Trung Quốc và các nƣớc ASEAN sẽ căng thẳng hơn trong các sản phẩm sử dụng
72
nhiều lao động nhƣ dệt, quần áo, hàng tạp phẩm và hàng điện tử”. Trung Quốc
đang nổi nên nhƣ một cơ sở sản xuất lớn của cả thế giới, điều này sẽ làm cho một
số ngành sản xuất của các nƣớc ASEAN một mặt bị thua thiệt bởi sự cạnh tranh
của hàng hoá Trung Quốc, mặt khác sẽ khiến nền kinh tế các nƣớc ASEAN bị
khống chế bởi những ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ này của Trung Quốc,
nhất là những ngành tập trung nhiều lao động nhƣ hàng tiêu dùng, hàng dệt, may
mặc, giày dép, đồ chơi, thực phẩm, đồ uống... và cả một số ngành tập trung nhiều
vốn và công nghệ nhƣ các máy móc, thiết bị điện tử, máy tính, chất bán dẫn...
Ngoài ra, môi trƣờng đầu tƣ của Trung Quốc đã thu hút nhiều công ty có
công nghệ cao và mới cũng nhƣ các công ty đa quốc gia (MNC) vì chính sách
của Trung Quốc trong tƣơng lai gần là thu hút công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm
quản lý và các nhân tài của nƣớc ngoài. Do đó, Trung Quốc sẽ cố “đẩy” các công
nghệ hiện tại sang các nƣớc kém phát triển hơn để đổi lấy công nghệ cao hơn.
Việc thiết lập Khu vực thƣơng mại tự do sẽ đẩy việc chuyển giao công nghệ này
sang các nƣớc ASEAN, đặc biệt sang các nƣớc thành viên mới, đây sẽ là một
thách thức lớn nữa đối với ASEAN.
Bên cạnh những thách thức trên, nếu một nƣớc Trung Quốc rộng lớn mà
có những bất ổn về anh ninh chính trị xã hội thì cũng sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đối
với các nƣớc láng giềng ASEAN….
Đối với Trung Quốc
Sự chệch hướng trong lĩnh vực đầu tư của nguồn FDI
Nguồn FDI vào Trung Quốc ngày càng tăng, sau khi Trung Quốc gia nhập
WTO và thành lập khu vực mậu dịch tự do với ASEAN, FDI vào Trung Quốc sẽ
còn tăng nhiều nữa. Đây là một hiện tƣợng tốt với Trung Quốc, tuy nhiên đằng
sau hiện tƣợng này còn nhiều thách thức. Hiện nay, một số học giả Trung Quốc
đã biểu hiện sự lo lắng về nguồn vốn nƣớc ngoài chảy vào Trung Quốc. Lý do
bởi vì chất lƣợng vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào Trung Quốc chƣa thật tốt. Đa số
những nguồn vốn này chỉ tập trung vào những lĩnh vực thiên về chiều rộng nhƣ
các ngành sản xuất gia công, chất lƣợng thấp, các ngành tập trung nhiều lao
động, có rất ít số vốn này đầu tƣ vào những ngành kỹ thật cao và những ngành
73
cạnh tranh mang tính lâu dài.
Ngoài ra, còn tình trạng một lƣợng lớn vốn của Trung Quốc bị thất thoát ra
nƣớc ngoài và tình trạng nguồn vốn chủ yếu xuất phát từ một số ít thị trƣờng nhƣ
Hồng Kông, Đài Loan và một số ít nƣớc đang phát triển khác từ Châu Á, còn
vốn từ các nƣớc Mỹ, EU, Nhật Bản chƣa nhiều. Những điều này sẽ thách thức
lớn đối với Trung Quốc khi ngày càng có nhiều vốn nƣớc ngoài chảy vào thị
trƣờng này.
Một số sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh
mạnh từ các nước ASEAN
Nền nông nghiệp của Trung Quốc trƣớc đây vốn đƣợc bảo hộ mạnh mẽ.
Các mặt hàng nông sản của Trung Quốc, đặc biệt là các mặt hàng lƣơng thực
thực phẩm đều có thuế suất nhập khẩu khá cao hoặc hạn ngạch nhập khẩu thấp
nhƣ hạn ngạch nhập khẩu đối với lúa mì là 7,3%, gạo là 2,66%, ngũ cốc 4,5%,
bông là 0,74%, dầu ăn 2,5%... hoặc thuế nhập khẩu đối với thịt bò là 45%,
phomat là 50%, thịt heo 20%.... [44]. Trong khi đó, ACFTA sẽ thực hiện giảm
thuế trƣớc tiên đối với các mặt hàng nông sản, đặc biệt theo EHP Trung Quốc phải
giảm thuế đầu tiên đối với các nông sản trong đó chủ yếu là lƣơng thực thực phẩm
với 10 nƣớc ASEAN và do vậy, các nông sản này của Trung Quốc sẽ phải chịu áp
lực lớn từ việc giảm thuế. Việc thực hiện giảm thuế hàng nông sản theo đúng cam
kết của Trung Quốc sẽ gặp khó khăn vì mức giảm thuế khá lớn do mức thuế bảo hộ
trƣớc đây cao.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp của Trung Quốc sẽ phải chịu sức ép, giảm sản
xuất, đặc biệt là những ngành sản xuất lúa mỳ, ngô, bông, dầu ăn, mía đƣờng,
đậu nành....và sẽ phải nhập khẩu một số lƣợng lớn từ các nƣớc ASEAN do đây
chủ yếu là những nông sản mà ASEAN có lợi thế cạnh tranh mạnh hơn. Với
thách thức này, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ gia tăng mạnh mẽ ở
khu vực nông thôn Trung Quốc. Điều này sẽ góp thêm phần vào sự bất ổn định
về kinh tế- xã hội của Trung Quốc.
Chịu ảnh hưởng tiêu cực từ sự bất ổn định trong chính trị, xã hội của các
74
nước ASEAN
Tình hình chính trị, xã hội của một số nƣớc ASEAN nhƣ Indonexia,
Philippines, Campuchia… vốn đã có nhiều nhân tố phức tạp, bất ổn định. Đặc
biệt, hiện nay ở Indonexia và Philippines tình hình chính trị đang diễn ra hết sức
phức tạp nhƣ những xung đột diễn ra ngay trong nƣớc và cả sự đe doạ của chủ
nghĩa khủng bố đến các nƣớc này… Ngoài ra, giữa các nƣớc thành viên ASEAN
còn tồn tại những vấn đề có nguy cơ bùng nổ xung đột, gây mất ổn định. Đây có
thể là những nhân tố không tốt ảnh hƣởng đến Trung Quốc, một khi Trung Quốc
có mối quan hệ “thành viên” trong một định chế với các nƣớc ASEAN. Khi hai
bên đã thành lập một FTA, tuy đây chỉ là hợp tác trên phƣơng diện kinh tế nhƣng
tình hình an ninh, chính trị của những nƣớc ASEAN có thể ảnh hƣởng đến kinh
tế và thậm chí cả chính trị của Trung Quốc ở mức độ nhất định.
Ngoài ra khi ACFTA đƣợc thành lập, cả Trung Quốc và ASEAN sẽ cùng
phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhƣ: tình trạng buôn lậu qua biên giới, di
cƣ bất hợp pháp vì đây là những nƣớc láng giềng; tình trạng an ninh chính trị bị
đe doạ do ảnh hƣởng của một số nƣớc ASEAN lan ra toàn khu vực; tình trạng
phân phối không đồng đều dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nền
kinh tế trong khu vực và cả những ngành kinh tế trong mỗi nƣớc trong ngắn hạn.
Nhƣ vậy, việc thành lập ACFTA sẽ đem lại nhiều cơ hội cũng nhƣ những
thách thức đối với ASEAN và Trung Quốc. Nhƣng nếu xét riêng biệt thì ASEAN
- 4 trong đó có Việt Nam có thể sẽ gặp phải nhiều khó khăn và thách thức khi
thực hiện ACFTA.
2.2.3. Triển vọng của ACFTA
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc đã
đƣợc ký tháng 11/2002, trong đó quy định thành lập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc. Mốc hoàn thành thực hiện đối với ASEAN-6 và Trung
Quốc là 2012 và đối với Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar là 2015. Từ
tháng 1/2004, hai bên sẽ bắt đầu thực hiện lịch trình cụ thể cắt giảm thuế quan,
phi thuế quan, tự do hóa dịch vụ và đầu tƣ đang diễn ra và sẽ hoàn tất vào giữa
năm 2004. Nhƣ vậy, ACFTA đƣợc tiến hành rất nhanh theo đúng lịch trình. Việc
75
ACFTA đƣợc thành lập sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên về hiệu quả kinh tế
nhƣ đã phân tích ở trên. Thêm nữa, ACFTA cũng sẽ giúp tạo ra tinh thần cộng
đồng giữa ASEAN và Trung Quốc. Điều này sẽ tạo thêm cơ sở hỗ trợ cho ổn
định kinh tế ở Đông Á và cho phép ASEAN và Trung Quốc gây đƣợc ảnh hƣởng
tới hệ thống thƣơng mại đa phƣơng. Nhƣng tính khả thi của ACFTA còn phụ
thuộc rất nhiều vào mức độ mà mỗi bên có thể tăng tốc sự hội nhập của chính
khu vực.
Đối với ASEAN, sự tăng tốc của hội nhập khu vực sẽ giúp củng cố tinh thần
cho cả khu vực, yếu tố quyết định thuyết phục các nƣớc rằng ACFTA sẽ tuyệt
đối có lợi cho ASEAN nói chung, mặc dù về mặt tƣơng đối một số lĩnh vực và
tầng lớp dân cƣ có thể bất lợi. ASEAN cần phải đẩy nhanh hơn nữa sự thành lập
AEC. Đây là một điều kiện để tận dụng những cơ hội do ACFTA mang lại. Khi
cộng đồng kinh tế ASEAN đƣợc thành lập thì mức độ liên kết giữa các nền kinh
tế ASEAN sẽ chặt chẽ hơn trong nhiều lĩnh vực, một sự đảm bảo về lợi ích cho
chính các nƣớc trong khu vực. Nhƣng đây cũng là một thách thức rất lớn với
ASEAN vì sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các quốc gia sẽ là một
trở ngại lớn đối với sự liên kết này, các nƣớc sẽ sẵn sàng từ bỏ các cam kết hoặc
sẽ không thực hiện đúng lịch trình các cam kết khi mà lợi ích của quốc gia mình
bị ảnh hƣởng. Do vậy, các nƣớc ASEAN cần phải gia tăng tính cộng đồng và có
những cơ chế chặt chẽ hơn trong sự ràng buộc trách nhiệm cũng nhƣ đảm bảo
về mặt lợi ích, đó chính là yếu tố quyết định cho sự thành công của các nƣớc
ASEAN trong việc ký các FTA song phƣơng với các nƣớc khác, nhƣ ASEAN-
Nhật Bản và ASEAN- Hàn Quốc trong tƣơng lai.
Đối với Trung Quốc, để ACFTA trở thành khả thi thì điều quan trọng là
phải giữ đƣợc tinh thần “cƣờng quốc khu vực nhân từ”, cần phải đẩy nhanh các
cuộc đàm phán của ACFTA. Việc này đòi hỏi Trung Quốc phải giải quyết tốt các
vấn đề trong nƣớc và phải đạt đƣợc sự thỏa hiệp các lợi ích quốc gia với mong
muốn trở thành cƣờng quốc khu vực và thế giới. Vì động cơ thành lập ACFTA
của Trung Quốc xuất từ ý đồ chính trị nhiều hơn là lợi ích kinh tế, cho nên trong
thời gian dài khi nền kinh tế đi xuống sẽ ảnh hƣởng rất lớn đối với một bộ phận
76
dân cƣ, tình trạng thất nghiệp gia tăng, sẽ tạo nên sự bất ổn của nền kinh tế
Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc cần phải tính đến tình trạng này trong thời
gian tới để có giải pháp kịp thời nhằm thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện
ACFTA.
Bên cạnh sự ra đời của ACFTA, nó sẽ là cơ sở thúc đẩy nhanh việc ký kết
ASEAN- Nhật Bản, ASEAN – Hàn Quốc trong thời gian tới. Đồng thời thúc đẩy
nhanh sự ra đời của khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA). Đây là mục tiêu
chủ yếu của các nƣớc trong khu vực Đông Á, nhằm gia tăng vị trí và ảnh hƣởng
của mình trong hệ thống thƣơng mại đa phƣơng.
Có thể khẳng định ACFTA đƣợc thành lập đã đƣa lại rất nhiều hứa hẹn cho
phát triển kinh tế của các nƣớc trong khu vực vì qui mô to lớn của nó cũng nhƣ
thành phần là một nƣớc đông dân nhất trên thế giới với một nhóm các nền kinh
tế đang công nghiệp hóa nhanh và một số nền kinh tế đang chuyển đổi với các
nguồn lực tự nhiên rộng lớn.
CHƢƠNG III
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ACFTA
CỦA VIỆT NAM
3.1. CƠ HỘI - THÁCH THỨC VÀ NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN
CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP ACFTA
3.1.1. Việt Nam quan hệ với ASEAN và Trung Quốc
- Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dƣơng, là một nƣớc có nhiều tài
nguyên thiên nhiên, dân số đông vào khoảng gần 80 triệu ngƣời và số ngƣời có
độ tuổi dƣới 15 khoảng 37% nhƣ vậy Việt Nam đang có lợi thế về dân số trẻ.
Nhƣ các nhà kinh tế nƣớc ngoài nhận xét thì Việt Nam đang có độ tuổi "dân số
vàng", một lợi thế quan trọng trong quá trình tăng trƣởng và phát triển đất nƣớc.
Từ năm 1986, cùng với đƣờng lối đổi mới, kinh tế Việt Nam đã chuyển dần sang
nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, chính sách mở cửa của nền kinh tế đã giúp Việt Nam có quan hệ thƣơng
77
mại và đầu tƣ với nhiều nƣớc trên thế giới. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam chủ
trƣơng mở rộng quan hệ, sẵn sàng là bạn với tất cả các nƣớc trên cơ sở giữ vững
độc lập, tự chủ và các bên cùng có lợi.
- Với sự kết thúc của chiến tranh lạnh và việc ký kết Hiệp định Paris về
Campuchia, quan hệ của Việt Nam với các nƣớc ASEAN đã chuyển sang một thời
kỳ mới, thời kỳ hợp tác vì lợi ích phát triển, phấn đấu vì hoà bình ổn định của khu
vực, vì sự phồn vinh của mỗi dân tộc. Việt Nam tham gia vào tổ chức của các
nƣớc trong khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng – APEC, là thành viên của nhiều tổ
chức quốc tế và khu vực nhƣ Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế
giới....
Việt Nam là một thành viên của ASEAN và có nghĩa vụ tham gia vào các
hoạt động hợp tác kinh tế của tổ chức này, trong đó bao gồm chƣơng trình xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Là một nƣớc đi sau trong
quá trình liên kết kinh tế khu vực, Việt Nam có những lợi thế nhất định của
ngƣời đi sau nhƣng đồng thời cũng có những khó khăn không nhỏ của một nƣớc
có trình độ phát triển kinh tế kém hơn, mà khó khăn lớn nhất là khả năng cạnh
tranh hạn chế của hàng hoá Việt Nam trên thị trƣờng nội địa cũng nhƣ khi xuất
khẩu. Thách thức này đã đang đặt Việt Nam trƣớc một vấn đề nan giải: nên hội
nhập nhƣ thế nào để nền kinh tế Việt Nam có thể tranh thủ đƣợc nhiều nhất
những nguồn lợi từ quá trình này mang lại.
Kể từ khi tham gia ASEAN, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các chƣơng
trình hợp tác trong phạm vi ASEAN cũng nhƣ ACFTA và đã thể hiện rõ thiện
chí và tinh thần trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế.
- Với việc nƣớc ta chủ động cùng các nƣớc ASEAN đàm phán với Trung
Quốc về Hiệp định Khung, thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc là sự thể hiện quyết tâm tham gia đầy đủ và tích cực của Việt Nam vào các
chƣơng trình hợp tác quan trọng của ASEAN phù hợp với lợi ích phát triển của
ta, mặt khác tận dụng cơ hội mà Hiệp định khung mang lại để tăng cƣờng trao
đổi kinh tế- thƣơng mại với các nƣớc trong khu vực, nhất là tranh thủ các cơ hội
78
tại thị trƣờng Trung Quốc sau khi nƣớc này gia nhập WTO, thúc đẩy hoạt động
xuất nhập khẩu của ta, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện thành công chiến lƣợc
phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra.
3.1.2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
ACFTA
Nhƣ trên đã chỉ ra, ACFTA có thể mang lại lợi ích cho mọi quốc gia trong
khu vực. Nhƣng nếu xét riêng biệt thì ASEAN- 4 trong đó có Việt Nam có thể
phải trải qua một giai đoạn quá độ đầy khó khăn để thực hiện ACFTA. Do vậy,
để khắc phục những khó khăn khi tham gia ACFTA, Việt Nam cần phải hội nhập
sâu hơn nữa vào ASEAN. Đồng thời Việt Nam cần tăng cƣờng các quan hệ toàn
diện, ổn định lâu dài với Trung Quốc. Đó là chủ trƣơng nhất quán của Đảng ta
nhằm phát triển quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa hai nƣớc và tạo môi trƣờng hoà
bình cho phát triển kinh tế của nƣớc ta.
Cơ hội cho Việt Nam
Khi hiệp định khung ACFTA đƣợc kí kết thì Việt Nam là một trong những
nƣớc thành viên của ASEAN cũng có đƣợc những cơ hội nói chung của khối.
Tuy nhiên, Việt Nam là thành viên của ASEAN mới nên ngoài những cơ hội
chung ra còn có những cơ hội riêng của mình. Về lý thuyết, Hiệp định khung
không tạo thêm những nghĩa vụ mới trong quan hệ giữa nƣớc ta với các nƣớc
ASEAN vì hầu hết các quan hệ kinh tế theo Hiệp định khung đều đã đƣợc điều
chỉnh bằng các hiệp định khu vực giữa các nƣớc ASEAN.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào thị trường vô cùng rộng lớn Trung
Quốc với 1,2 tỷ người.
Khi Hiệp định khung đƣợc kí kết với EHP bắt đầu thực hiện từ năm 2004
nhằm cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng nông nghiệp, thuỷ sản tƣơi
sống. Đây là một cơ hội rất lớn đối với Việt Nam để tăng số lƣợng những mặt
hàng này vào thị trƣờng Trung Quốc.Theo số liệu của tổng cục hải quan, Việt
Nam xuất khẩu các mặt hàng từ Chƣơng 1 đến 8 sang Trung Quốc với kim
79
ngạch khá cao, chiếm từ 27,5% tổng kim nghạch xuất khẩu của nƣớc ta sang
Trung Quốc năm 2001 và 45,73% năm vào năm 2000. Trong khi đó, năm 2001,
nhập khẩu của ta từ Trung Quốc đối với sản phẩm này chỉ chiếm 1,7% tổng kim
ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc. Căn cứ vào số liệu thống kê năm 2001, kim
ngạch các mặt hàng trong 3 năm thực hiện EHP, hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam có thể đƣợc hƣởng tối đa là 73,5 triệu USD do đƣợc phía Trung Quốc giảm
thuế nhập khẩu. Nếu các doanh nghiệp trong nƣớc tận dụng đƣợc cơ hội này thì
đây là động lực để tăng xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản của ta sang
Trung Quốc, góp phần nâng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của ta lên
9-10 tỷ USD (trong đó, thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ USD) vào năm 2010 nhƣ mục
tiêu Đại hội Đảng IX đã đề ra, đồng thời tạo nhiều việc làm mới cho khu vực
nông nghiệp, nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Đảm bảo chắc chắn hơn về mặt pháp lý đối với các doanh nghiệp Việt Nam
trong các hoạt động kinh tế với Trung Quốc
Ngay khi ký kết Hiệp định khung, các doanh nghiệp của ta đƣợc hƣởng đầy
đủ các ƣu đãi từ các cam kết của Trung Quốc là áp dụng đãi ngộ Tối huệ quốc
(MFN) với các nƣớc ASEAN chƣa phải là thành viên WTO, bao gồm: thuế
quan, phi thuế quan, các lĩnh vực dịch vụ, đầu tƣ và sở hữu trí tuệ. Theo những
cam kết đó, từ năm 2002 đến năm 2005, Trung Quốc sẽ tiếp tục cắt giảm thuế
suất MFN; loại bỏ phần lớn các biện pháp phi thuế quan và mở cửa mạnh các
ngành dịch vụ trong nƣớc. Đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quan hệ
chặt chẽ với thị trƣờng Trung Quốc, đây là sự đảm bảo chắc chắn hơn về mặt
pháp lý nhằm thay đổi tƣơng quan về vị thế doanh nghiệp Việt Nam với các
doanh nghiệp cạnh tranh của nƣớc khác trong mọi lĩnh vực kinh tế. Nhờ đó, ta có
thêm cơ hội xuất khẩu và hợp tác đầu tƣ tại thị trƣờng Trung Quốc.
Xét trên bình diện chung của khu vực, với phạm vi hợp tác rộng lớn, nội
dung đa dạng, mọi vấn đề trong quan hệ kinh tế thƣơng mại giữa ASEAN và
Trung Quốc, cụ thể hơn là giữa Việt Nam với Trung Quốc có thể giải quyết thoả
đáng trong một khuôn khổ pháp lý chắc chắn. Quan trọng nhất là cơ chế thiết lập
80
và hoạt động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Thu hút các luồng đầu tư và gia tăng các mối quan hệ hợp tác kinh tế, kỹ
thuật giữa Trung Quốc với Việt Nam.
Hiện nay, cả Trung Quốc và ASEAN nói chung cũng nhƣ Việt Nam đều là
đối tƣợng nhận đầu tƣ nƣớc ngoài. Với môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn, Trung Quốc
đã hút đƣợc rất nhiều đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣng Trung Quốc cũng vƣơn ra đầu
tƣ nƣớc ngoài, nhất là sang một số nƣớc kém phát triển hơn nhƣ Việt Nam, Lào,
Campuchia và Myanmar để thực hiện sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Vì vậy,
Việt Nam với những chính sách khuyến khích đầu tƣ FDI đƣợc coi là khá ƣu đãi
và có nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, chắc chắn sẽ thu hút đƣợc FDI của
Trung Quốc. Nhƣ vậy, ACFTA gia tăng các hoạt động thƣơng mại và các luồng
đầu tƣ, thúc đẩy sự bổ trợ về nguồn lực giữa các nƣớc trong khu vực do đó làm
sâu sắc thêm thế mạnh xuất khẩu của các nƣớc ra thị trƣờng thế giới. Đây là cơ
hội chung nhƣng nó không tự động chia đều cho mọi quốc gia nếu nhƣ cơ hội đó
không đƣợc nhanh chóng nắm bắt. Chiến lƣợc của ta là phải nhanh chóng xác
lập thế mạnh xuất khẩu dựa trên tiềm năng của đất nƣớc. Xuất phát từ lợi thế địa
lý có chung đường biên giới và nhiều nét tương đồng về văn hoá, với tư cách là
một nước ASEAN mới, nƣớc ta có điều kiện thuận lợi hơn khi thu nhận các trợ
giúp kỹ thuật nhiều mặt của các nƣớc và mở rộng tiếp cận với thị trƣờng Trung
Quốc. Ngoài ra, ACFTA có thể tạo ra động lực thu hút đầu tƣ đáng kể trong và ngoài
nƣớc tại Việt Nam để tranh thủ những ƣu đãi của ACFTA xuất khẩu sang Trung
Quốc, đặc biệt là sang các tỉnh sâu trong lục địa của Trung Quốc, nơi có mức thu
nhập còn thấp.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc còn tác động đến phƣơng
thức truyền thống buôn bán qua biên giới Việt Nam- Trung Quốc. Việt Nam sẽ
đƣợc hƣởng lợi từ sự phát triển năng động cũng nhƣ sự gia tăng các mối quan hệ
hợp tác kinh tế ở khu vực này. Hiện nay, trao đổi tiểu ngạch chiếm tỷ trọng 40%
tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nƣớc. Mặc dù buôn bán tiểu ngạch phần nào
đáp ứng đƣợc nhu cầu trao đổi của hai bên nhƣng phƣơng thức kinh doanh này
81
chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt là vấn đề bảo đảm thanh toán và thực hiện hợp
đồng. Về phía nhà nƣớc thì gặp khó khăn trong công tác quản lý, giám sát, kiểm
tra hải quan. Trên thực tế, áp lực cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc là các mặt
hàng nhập lậu, trốn thuế thông qua đƣờng tiểu ngạch. ACFTA và các nội dung
hợp tác kinh tế khác sẽ góp phần làm thay đổi phƣơng thức kinh doanh tiểu
ngạch, hạn chế nạn buôn lậu qua biên giới và góp phần tăng cƣờng hiệu quả
quản lý nhà nƣớc về hoạt động thƣơng mại đối với Trung Quốc.
Nhƣ trên đã phân tích, mậu dịch tự do sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các nƣớc
thành viên. Bên cạnh những phúc lợi có thể tính toán đƣợc nhƣ thúc đẩy mở
rộng hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nƣớc thành viên, cải thiện thƣơng mại
và di chuyển các yếu tố sản xuất hiệu quả hơn, lợi ích tiêu dùng tăng lên. còn có
những phúc lợi khác mà khu vực mậu dịch tự do đem lại. Đó là những lợi ích do
việc thúc đẩy cạnh tranh trên qui mô quốc tế, tạo khả năng đạt qui mô tối ƣu cho
từng ngành sản xuất, mở rộng thị trƣờng, khuyến khích mở rộng đầu tƣ cho phép
sử dụng tối ƣu, triệt để và hợp lý hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Việc thực hiện ACFTA sẽ góp phần mở rộng thị trƣờng tiêu thụ. Việt Nam
có thêm nhiều cơ hội thuận lợi hơn tiếp cận với khu vực kinh tế hơn 1,8 tỷ ngƣời
tiêu dùng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt gần 2000 tỷ USD và tổng kim
ngạch ngoại thƣơng ƣớc tính khoảng 1230 tỷ USD [41]
Những khó khăn và thách thức
Bên cạnh những lợi ích và cơ hội nêu trên, việc thực hiện Hiệp định khung
thời gian tới, nhất là khi thực hiện ACFTA sau này sẽ đặt ra không ít khó khăn,
thách thức đối với Việt Nam, những khó khăn thách thức nhƣ sau:
Việt Nam gặp phải bất lợi trong quan hệ với Trung Quốc về thương mại,
nhập siêu từ Trung Quốc đối với Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng.
Khi thực hiện ACFTA, triển vọng xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc và
ASEAN là rất lớn, nhƣng cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng hoá trao đổi dễ dẫn đến
tình trạng là Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản và nhập khẩu
82
hàng công nghiệp của Trung Quốc. Đây là điểm bất lợi của Việt Nam, vì là quan
hệ hàng dọc với Trung Quốc, so với các nƣớc ASEAN-6 họ có quan hệ hàng
ngang với Trung Quốc, xuất và nhập khẩu chủ yếu là hàng công nghiệp. Tình
trạng quan hệ hàng dọc này sẽ ảnh hƣởng đến Việt Nam không chỉ trong quan hệ
thƣơng mại mà còn trong nỗ lực công nghiệp hoá nền kinh tế. Hiện nay, trong
quan hệ trao đổi hàng hoá với Trung Quốc, Việt Nam xuất khẩu 90% là nguyên
liệu và các sản phẩm sơ chế nhƣ dầu thô, nông sản, thuỷ sản, khoáng sản nhƣng
nhập trên 70% là các thành phẩm công nghiệp. Cơ cấu này không dễ đƣợc cải
thiện trong thời gian tới, do Việt Nam khó có thể cạnh tranh với Trung Quốc về
sản phẩm công nghiệp ở thị trƣờng Trung Quốc cũng nhƣ ở thị trƣờng Việt Nam.
Trong thời gian tới, cán cân thƣơng mại giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn
tiếp tục gia tăng. Với cơ cấu hàng hoá nhƣ nêu trên, trong bối cảnh chiều hƣớng
giá cả quốc tế trong những năm gần đây luôn biến động theo hƣớng giảm sút bất
lợi cho những nƣớc xuất khẩu nguyên liệu và nông sản, Việt Nam sẽ khó có thể
cải thiện cán cân thƣơng mại với Trung Quốc và có thể sẽ nhập siêu nhiều hơn từ
ngƣời bạn hàng lớn này.
Việt Nam phải đối mặt với năng lực cạnh tranh cao của hàng hoá và dịch
vụ Trung Quốc
Với lợi thế về chi phí nhân công rẻ và qui mô sản xuất lớn Trung Quốc đã
tạo ra một sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các nƣớc ASEAN và Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hƣớng này. Chúng ta sẽ phải đối mặt với năng lực cạnh
tranh cao của hàng hoá và dịch vụ Trung Quốc, nhất là hàng công nghiệp, tiêu
dùng với chủng loại đa dạng, mẫu mã phong phú, giá cả thấp. Trong tƣơng lai
không xa, ACFTA sẽ trực tiếp tác động tới nhiều ngành công nghiệp của ta nhƣ
dệt may, điện tử dân dụng, cơ khí động lực, hoá chất cơ bản, các ngành hàng
nhựa... Đối với hàng nông sản, có một số nhóm mặt hàng, nhất là rau quả ôn đới
sẽ có khả năng cạnh tranh rất mạnh đối với Việt Nam. Khi Trung Quốc thiếu thì
hút hàng của Việt Nam rất mạnh, nhƣng khi đƣợc mùa, dƣ thừa thì không những
không nhập khẩu mà còn xâm nhập thị trƣờng Việt Nam rất mạnh làm chao đảo
83
cả một số ngành hàng của Việt Nam (nhƣ trứng gà, dƣa hấu). Trung Quốc
thƣờng mua nông sản thô về chế biến tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu. Do
vậy, cơ hội tăng xuất khẩu đối với sản phẩm thô là có thực nhƣng giá trị gia tăng
thấp, trong khi cơ hội xuất khẩu nông sản chế biến không nhiều, thậm chí còn
gặp khó khăn ngay cả trên thị trƣờng Việt Nam.
Lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam cũng không khả quan hơn so với hàng hoá
thông thƣờng. ACFTA sẽ mở ra thị trƣờng rộng lớn nhƣng cạnh tranh gay gắt
mà năng lực cạnh tranh của Việt Nam ở khu vực dịch vụ thì tƣơng đối thấp. Các
doanh nghiệp cung ứng dịch vụ ở Việt Nam, nói chung, cho đến nay chƣa phải
đối mặt với những đối thủ cạnh tranh mạnh trên thị trƣờng nội địa, trừ ngành bảo
hiểm đã đƣợc mở cửa. Những doanh nghiệp độc quyền không phải cạnh tranh,
hệ quả là giá nhiều loại dịch vụ ở Việt Nam thuộc loại cao nhất khu vực trong
khi chất lƣợng thấp dƣới mức trung bình. Cụ thể nhƣ cƣớc điện thoại quốc tế còn
quá cao trong khi tần số xảy ra nghẽn mạch trong điện thoại di động, gián đoạn
dịch vụ trong điện thoại cố định diễn ra thƣờng xuyên, thời gian sửa chữa khôi
phục lại liên lạc lâu hơn khu vực. Giá vé hàng không quá cao, hạn chế số khách
du lịch muốn vào Việt Nam. Giá các dịch vụ bến cảng biển đều cao, thủ tục
phiền hà, tốn nhiều thời gian, theo UNIDO, chi phí bốc xếp gạo tại cảng Thành
phố Hồ Chí Minh cao gấp 2 lần so với Thái Lan, giá điện phục vụ cho sản xuất
công nghiệp của Việt Nam là 6,3 cent (Mỹ)/ Kwh, trong khi ở Trung Quốc là 4,5
cent/Kwh, Indonexia là 4,5 cent/ Kwh. Cƣớc phí vận tải 1 container từ Nhật về
Việt Nam là 1.300 USD, trong khi đến Thái lan chỉ là 800 USD. Dịch vụ cho
thuê văn phòng, nhà ở còn rất sơ khai, thiếu thuận tiện nhƣng giá cho thuê văn
phòng không thấp hơn so với nhiều thành phố khác trong khu vực.
Dịch vụ chữa bệnh, kết hợp Đông y với Tây y nhƣ châm cứu, bấm huyệt và
các bài thuốc Đông y đặc hiệu có tiềm năng phát triển song chƣa đủ trình độ để
tiếp nhận khách quốc tế. Có khả năng tầng lớp trung lƣu ở Việt Nam sẽ sang
Trung Quốc và Thái Lan chữa bệnh. Về thị trƣờng này, Việt Nam có thể sẽ bị
các doanh nghiệp nƣớc ngoài chiếm lĩnh, nhƣ: đã xuất hiện một số bệnh viện
84
quốc tế ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định năng lực cạnh tranh của các dịch vụ Việt Nam
rất thấp, mới chỉ đủ khả năng cung ứng trên thị trƣờng nội địa. Khu vực này sẽ
thế nào khi thị trƣờng nội địa sẽ trở thành thị trƣờng chung của các nƣớc
ASEAN và Trung Quốc?
Sự cạnh tranh trên thị trƣờng Việt Nam sẽ ngày càng quyết liệt hơn khi
thực hiện ACFTA, sức ép cạnh tranh trên thị trƣờng nội địa Việt Nam sẽ càng
thêm nặng nề, đặc biệt đối với ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam. Nhìn
chung, các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn doanh nghiệp Việt Nam ngay
trong các ngành Việt Nam đang tƣơng đối có lợi thế cạnh tranh nhƣ dệt may, da
giầy, sản xuất hàng tiêu dùng... Trong những ngành Việt Nam đang mong muốn
đi vào phát triển nhƣ các sản phẩm công nghệ cao (thiết bị điện, điện tử, công
nghệ thông tin...), hoá chất, cơ khí... Trung Quốc đều đã và đang rất mạnh, với
năng lực cạnh tranh rất cao.
Xem xét trên thị trƣờng xuất khẩu quốc tế, hiện tại 2 nƣớc xuất các sản
phẩm rất khác nhau. Trung Quốc xuất các sản phẩm chế biến, còn Việt Nam xuất
nguyên liệu. Tính chất thị trƣờng cũng khác nhau. EU là đối tác chính của Việt
Nam nhƣng Bắc Mỹ mới là đối tác chính của Trung Quốc, còn thị trƣờng Châu
Á là nơi cạnh tranh trực tiếp giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là thị
trƣờng Nhật Bản. Trong tƣơng lai, khi Hiệp định ATC bị xóa vào năm 2005 và
EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch, GSP… Việt Nam chắc chắn phải cạnh tranh gay
gắt với Trung Quốc trên nhiều thị trƣờng lớn.
Trên thực tế, Việt Nam và Trung Quốc cạnh tranh chủ yếu diễn ra trên thị
trƣờng nội địa Việt Nam, nơi mà các sản phẩm của Trung Quốc có cơ cấu gần
giống với sản phẩm của Việt Nam nhƣng giá rẻ hơn. Về mặt chất lƣợng, hàng
hoá Trung Quốc không hơn các sản phẩm liên doanh nƣớc ngoài tại Việt Nam,
ngay một số sản phẩm trong nƣớc cũng không bằng. Nên sự cạnh tranh chỉ diễn
ra trên lĩnh vực hàng rẻ tiền. Với 1 đất nƣớc còn nghèo nhƣ Việt Nam, thu nhập
ngƣời dân còn rất thấp, rõ ràng là hàng Trung Quốc sẽ có sức hấp dẫn rất lớn.
85
Khi hàng rào thuế và phi thuế đƣợc hạ xuống nhƣ trong quy chế AFTA, các
doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng thâm nhập thị trƣờng Việt Nam và doanh
nghiệp Việt Nam sẽ rất vất vả để có thể đứng vững đƣợc trên thị trƣờng nội địa,
còn những ngành mới sẽ rất khó có cơ hội phát triển.
Với những thách thức về kinh tế ở trên có thể dẫn đến sự ảnh hƣởng mạnh
mẽ đến các lĩnh vực khác của Việt Nam nhƣ chính trị, văn hóa, an ninh, môi
trƣờng. Việt Nam có vị trí địa lý gần kề với Trung Quốc, núi liền núi, sông liền
sông và có chung đƣờng biên giới trên biển và đất liền nên những biến động của
Trung Quốc sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến Việt Nam. Bên cạnh đó, những bất ổn của
khu vực với những động thái: vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên; Philippines và
Thái Lan trở thành đồng minh ngoài NATO của Mỹ; các bất ổn về tôn giáo, sắc
tộc... ở một số nƣớc trong khu vực sẽ tác động nhất định đến phát triển của chúng ta
với tƣ cách là thành viên của ASEAN và là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam
Á.
Tham gia ACFTA là một thử thách lớn đối với chúng ta trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù vậy, trong thời gian qua cho thấy các mặt hàng:
bóng đèn, phích nƣớc, bia, nƣớc ngọt, bánh kẹo, các sản phẩm sữa của Việt Nam
đã khẳng định đƣợc năng lực cạnh tranh, có thể vƣợt qua thách thức để giữ vững
và mở rộng thị phần trong nƣớc cũng nhƣ xuất khẩu.
Tuy nhiên, việc thâm nhập thị trƣờng Trung Quốc không phải dễ dàng, các
doanh nghiệp của ta chƣa thực sự nắm bắt đƣợc nhu cầu, thị hiếu của thị trƣờng
này cũng nhƣ các luật lệ, qui định và thủ tục của bạn. Ngoài ra, ngôn ngữ khác
biệt cũng là một trở ngại lớn trong quá trình thực hiện Hiệp định khung về hợp
tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc.
3.1.3. Những định hƣớng phát triển kinh tế chủ yếu để hội nhập
ACFTA của Việt Nam
+) Việt Nam tranh thủ vị trí “cầu nối” của mình nhằm thúc đẩy ACFTA
Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi, có biên giới gần với các tỉnh Quảng
Tây và Vân Nam Trung Quốc, đây là một lợi thế rất quan trọng của Việt Nam
86
khi mà Trung Quốc đang thực hiện chiến lƣợc đại khai phá miền Tây và lấy hai
tỉnh này là trung tâm để tiến hành thực hiện ACFTA. Việt Nam sẽ đƣợc lợi từ
việc tăng cƣờng hội nhập với Trung Quốc, cụ thể nhƣ dự án hành lang Đông –
Tây và dự án tuyến đƣờng sắt Singapore-Việt Nam-Nam Trung Quốc sẽ đem lại
lợi ích lớn cho ngành du lịch của Việt Nam.
+) Đẩy mạnh hợp tác song phương với Trung Quốc để bước vào thị
trường của nước thứ ba
Hiện tại, Trung Quốc nhấn mạnh đến hợp tác kinh tế song song với nhóm
ASEAN – 4 và AFCTA, đây là một động thái tốt đối với Việt Nam. Nghị định
thƣ bổ sung sửa đổi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN –
Trung Quốc thừa nhận và cho phép các bên kí kết các thoả thuận song phƣơng
trong khuôn khổ Hiệp định khung, phù hợp với nguyên tắc của WTO. Tuy nhiên,
Nghị định thƣ cũng chỉ thừa nhận và đề ra quy định đối với các thỏa thuận đẩy
nhanh trong khuôn khổ EHP nhằm hạn chế sự lạm dụng Hiệp định khung để đi
đến những thảo thuận song phƣơng gây nguy cơ phá vỡ thế cân bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên trong Hiệp định khung.
Do vậy, Việt Nam có thể kí kết thoả thuận song phƣơng với Trung Quốc,
thúc đẩy hợp tác chặt chẽ nhằm khai thác những ƣu đãi dành cho các nƣớc thành
viên mới, thông qua các chƣơng trình hỗ trợ kĩ thuật khác để cơ cấu lại nền kinh
tế, phát triển thƣơng mại và đầu tƣ với Trung Quốc.
Thông qua mối quan hệ song phƣơng với Trung Quốc, Việt Nam có thể
phát triển những ngành có sản phẩm là thế mạnh của mình để gia tăng xuất khẩu.
Đồng thời cũng khắc phục những khó khăn do các thoả thuận song phƣơng giữa
các nƣớc với Trung Quốc gây ra. Ví dụ, thoả thuận song phƣơng giữa Thái Lan
và Trung Quốc đẩy nhanh cắt giảm thuế đối với các mặt hàng trong Chƣơng 1
đến 8 của EHP có thể gây ảnh hƣởng đến sức cạnh tranh của một số chủng loại
rau quả Việt Nam so với rau quả của Thái Lan trên thị trƣờng Trung Quốc. Cụ
thể là, một số mặt hàng có tính cạnh tranh trực tiếp nhƣ chôm chôm, măng cụt,
dƣa hấu, sắn lát, nhãn khô. Khi thoả thuận song phƣơng giữa Việt Nam và Trung
87
Quốc đƣợc kí kết thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá rau quả thuộc thế mạnh
của Việt Nam sẽ lớn hơn nhiều vì chúng ta có vị trí địa lý gần kề với Trung
Quốc. Điều này sẽ giảm bớt những chi phí chuyên chở và bảo quản cũng nhƣ
thời gian chuyên chở sẽ nhanh hơn, nhất là trong khi rau quả là loại sản phẩm có
tính mùa vụ, chóng hƣ hỏng.
Với việc Trung Quốc là thành viên của WTO thì thị trƣờng tiêu thụ hàng
hoá của Trung Quốc sẽ lớn hơn cùng với rất nhiều ƣu đãi. Do vậy, khi quan hệ
song phƣơng với Trung Quốc đƣợc đẩy mạnh thì chúng ta sẽ có thể bƣớc vào thị
trƣờng của nƣớc thứ ba. Trên thực tế, điều này hoàn toàn có thể thực hiện đƣợc:
Thứ nhất, xét cơ cấu ngoại thƣơng theo đối tác thì thị trƣờng xuất nhập khẩu của
2 nƣớc rất khác nhau. Nếu có liên quan đến nhau thì chỉ ở thị trƣờng Châu Á.
Đối với Việt Nam, thị trƣờng xuất khẩu chủ yếu là EU và Châu Á còn Trung
Quốc thì chủ yếu là Bắc Mỹ và Châu Á. Trong lĩnh vực nhập khẩu, Việt Nam
chủ yếu nhập từ các nƣớc láng giềng thuộc khu vực Châu Á (trong đó ASEAN
chiếm 1/3), trong khi đó hàng hoá nhập khẩu của Trung Quốc chủ yếu có nguồn
gốc từ Mỹ và EU. Thứ hai, cơ cấu sản phẩm nhập khẩu của Trung Quốc và Việt
Nam không có sự khác nhau nhiều lắm, chủ yếu là các sản phẩm chế tạo (chiếm
hơn 80%), trong đó máy móc, thiết bị vận tải chiếm tỷ trọng lớn. Trái lại cơ cấu
xuất khẩu của 2 nƣớc có nhiều điểm khác nhau cơ bản, Việt Nam xuất khẩu sản
phẩm thô nhiều hơn Trung Quốc. Cho nên, quan hệ thƣơng mại Việt Nam –
Trung Quốc mang tính chất cạnh tranh nhƣng lại mang tính chất bổ sung nhiều
hơn.
+) Đẩy mạnh thu hút đầu tư từ Trung Quốc và các nước bên ngoài
Đầu tƣ nƣớc ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam bên cạnh yếu tố quyết định của nội lực. Theo Bộ Kế hoạch đầu tƣ, năm
2003, cả nƣớc đã thu hút thêm đƣợc trên 3,1 tỷ USD, tăng trƣởng 26,3 % so với
năm trƣớc [7]. Tổng số vốn đầu tƣ thực hiện của toàn bộ số dự án đang có hiệu
lực đã đạt trên 24,6 tỷ USD, gần bằng 60% tổng số vốn đăng ký và tổng số dự án
đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên phạm vi cả nƣớc, thu hút đƣợc 665.000
88
lao động trực tiếp và tạo việc làm cho hàng triệu lao động gián tiếp. Với những
số liệu trên cho thấy, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
đang thực sự đóng vai trò đầu tầu thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế Việt Nam. Nó đã
góp 1 phần rất lớn vào tốc độ tăng trƣởng 7,24% của cả nƣớc, cao thứ 2 Châu Á
sau Trung Quốc. Do vậy, thu hút mạnh đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài là một trong
những nhiệm vụ quan trọng đƣợc ghi trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 (Khoá
IX) của BCH TW Đảng và Nghị quyết 01 năm 2004 của Chính phủ.
Tuy nhiên, so sánh với Trung Quốc thì số vốn FDI vào Việt Nam còn quá
nhỏ bé, các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thƣờng đƣa vào Việt Nam những dự án nhỏ
và vừa, họ cho rằng đầu tƣ nhƣ vậy là hợp với Việt Nam vì dự án nhỏ thì do các
địa phƣơng, Ban quản lý KCN-KCX dễ phê duyệt nhanh, còn những dự án lớn
phải do nhiều Bộ, ngành “soi xét” nên bị “ngâm” lâu. Nhƣ vậy, có thể khẳng
định ở ta còn rất nhiều rào cản về mặt thủ tục hành chính dẫn đến sự cản trở thu
hút FDI. Nhƣng thông qua ACFTA, chúng ta có thể thu hút FDI từ Trung Quốc
khi mà các doanh nghiệp nƣớc này đang có nhu cầu vƣơn ra bên ngoài đầu tƣ.
Thêm nữa, khi ACFTA đƣợc thực hiện thì Việt Nam sẽ có lợi thế nhiều hơn so
với các nƣớc khác trong ASEAN để thu hút FDI từ Trung Quốc vì gần kề vị trí
địa lý, có rất nhiều văn bản song phƣơng đƣợc kí kết giữa Trung Quốc và Việt
Nam để dành ƣu đãi nhiều hơn cho nhau. Phƣơng thức sản xuất và kinh doanh
cũng giống nhau hơn và thị trƣờng tiêu thụ đông cũng nhƣ dễ tính hơn các thị
trƣờng khác.
Khi ACFTA thực hiện thì có thể thu hút FDI từ các nƣớc khác vì khi đầu tƣ
vào Việt Nam họ sẽ không chỉ có thị trƣờng Việt Nam mà còn có cả thị trƣờng
Trung Quốc. Đây là một thuận lợi lớn để kêu gọi và thu hút FDI từ các nƣớc khác.
+) Tranh thủ vai trò của Trung Quốc để thúc đẩy tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Kể từ khi 2 bên bình thƣờng hoá quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hữu
nghị và hợp tác Việt Nam – Trung Quốc phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên
tất cả các lĩnh vực, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực cho cả hai bên. Trƣớc khi
89
ký kết Hiệp định khung, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đƣợc
điều chỉnh bằng hơn 20 văn bản thoả thuận các loại. Đến nay, hai nƣớc đã kí kết
41 hiệp định và thoả thuận các loại, tạo cơ sở cho quan hệ hợp tác lâu dài, toàn
diện giữa hai nƣớc. Đặc biệt, năm 1999, lãnh đạo cấp cao 2 nƣớc đã xác định
khuôn khổ cho quan hệ hợp tác mới là “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện,
ổn định lâu dài, hƣớng tới tƣơng lai”. Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX của
Đảng (4/2001) đã khẳng định: “Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp
tác với tất cả các nƣớc XHCN và các nƣớc láng giềng. Nâng cao hiệu quả và
chất lƣợng hợp tác với các nƣớc ASEAN...” Vì vậy, Hiệp định khung sẽ góp
phần quan trọng đƣa mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam và Trung
Quốc lên một tầm cao mới phù hợp với định hƣớng chiến lƣợc của đất nƣớc.
Thông qua mối quan hệ với Trung Quốc, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm
trong quá trình cải cách, hội nhập kinh tế của Trung Quốc để vận dụng vào Việt
Nam và điều này rất cần thiết cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Một là, tích
luỹ đƣợc kinh nghiệm để chuẩn bị gia nhập cũng nhƣ thực hiện các cam kết sau
khi gia nhập WTO. Việt Nam có hoàn cảnh tƣơng tự nhƣ Trung Quốc khi cả hai
nƣớc trƣớc đây đều là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và đang chuyển dần sang nền
kinh tế thị trƣờng nên kinh nghiệm của Trung Quốc là những bài học bổ ích cho
Việt Nam nhằm giúp chúng ta hoạch định đƣợc những chính sách phù hợp với
thƣơng mại khu vực và thế giới. Cụ thể nhƣ, Việt Nam có thể học hỏi những
kinh nghiệm của Trung Quốc về duy trì và tăng cƣờng môi trƣờng đầu tƣ hấp
dẫn để thu hút FDI… Hai là, qua mối quan hệ với Trung Quốc chúng ta đƣợc tập
dƣợt để chuẩn bị ký kết các FTA song phƣơng với các nƣớc lớn nhƣ Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc, EU. Đồng thời, Việt Nam cũng sẽ có đƣợc những kinh nghiệm về
phòng trừ những rủi ro cũng nhƣ những mặt trái của toàn cầu hoá.
Hiện nay, chúng ta đã tập hợp đƣợc rất nhiều kinh nghiệm khi gia nhập AFTA
và APEC, những kinh nghiệm này có thể đƣợc tận dụng khi tiến hành đàm phán
ACFTA. Tƣơng tự nhƣ vậy, thông qua sự hội nhập ACFTA, chúng ta có điều kiện
“tập dƣợt hội nhập kinh tế lớn hơn” để tiến hành hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
90
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
VÀ KHẢ NĂNG HỘI NHẬP ACFTA CỦA VIỆT NAM
Quán triệt chủ trƣơng của Đại hội Đảng IX là: “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trƣờng” [31]
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh đồng thời vừa tạo ra rất nhiều cơ hội cũng nhƣ không ít thách thức. Do đó,
Đảng ta chỉ rõ cần tỉnh táo, khôn ngoan và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt
của hội nhập để thực hiện mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu cơ bản
của hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm mở rộng thị trƣờng, tranh thủ thêm vốn,
công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh, trƣớc mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong
chiến lƣợc phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Nhƣ phân tích ở trên, việc thực hiện ACFTA sẽ đem lại rất nhiều cơ hội cũng
nhƣ thách thức cho Việt Nam. Để vƣợt qua những thách thức cũng nhƣ tận dụng tốt
những cơ hội do ACFTA đem lại chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp sau:
3.2.1. Xác định mô thức và chiến lƣợc phát triển trong quá trình hội
nhập ACFTA
Căn cứ Nghị quyết Đại hội lần IX của Đảng và Nghị quyết số 07-NQ/ TW
của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ đã đề ra chƣơng trình
hành động cụ thể từ khâu phổ biến quán triệt Nghị quyết tới khâu hình thành
chiến lƣợc và lộ trình hội nhập để các ngành, các địa phƣơng, các doanh nghiệp
khẩn trƣơng sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh để đảm bảo
cho hội nhập có hiệu quả.
Hiện nay, chúng ta đã tham gia vào rất nhiều các tổ chức kinh tế khác nhau
nhƣ là thành viên của AFTA, APEC và đang trong quá trình đàm phán để gia
nhập WTO. Việt Nam đang thực sự tham gia vào các cấp độ FTA khu vực và đa
91
phƣơng. Trƣớc xu thế phát triển mạnh mẽ của các FTA song phƣơng trong khu
vực và trên thế giới thì Việt Nam đã ủng hộ và tham gia rất nhiệt tình vào tiến
trình tự do hoá thƣơng mại. Điều này sẽ tạo cơ sở cho chúng ta có thể trở thành
những đối tác quan trọng trong tính toán chiến lƣợc của các nƣớc để ký các FTA.
Cần phải xác định đƣợc, trong các FTA thì các nƣớc có độ mở thị trƣờng
càng cao thì càng có lợi. Hầu hết các FTA song phƣơng đều đƣợc ký giữa các
nƣớc đã là thành viên của WTO. Trong các FTA song phƣơng không thể loại trừ
các tiến trình đa phƣơng. Do vậy, phải coi việc đẩy nhanh tiến trình gia nhập
WTO vào đầu năm 2005 nhƣ một giải pháp đột phá để thực hiện cải cách toàn
diện nền kinh tế đất nƣớc.
Phải nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế của nƣớc ta, dựa trên cơ sở
phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện ACFTA, đồng thời
tham khảo kinh nghiệm hội nhập của các nƣớc thành viên ASEAN, từ đó đề ra
kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nƣớc,
vừa đáp ứng đƣợc các qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ
vững an ninh, quốc phòng.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải tiến hành các hoạt động tuyên truyền về
ACFTA, tránh tình trạng coi việc ký kết và thực hiện ACFTA là của riêng chính
phủ hay của một bộ một ngành nào. Việc tuyên truyền rộng rãi kế hoạch của
ACFTA sẽ giúp cho doanh nghiệp và tất cả các bộ ngành sẽ chủ động có kế
hoạch riêng cho mình nhằm tránh những thiệt hại không đáng có xảy ra.
Tiếp theo, cần phải soạn thảo, ban hành và cụ thể hóa lịch trình tổng thể cắt
giảm thuế quan và phi thuế quan trong thực hiện ACFTA bằng Nghị định của
Chính phủ. Trong đó, nêu rõ các cam kết hội nhập, lộ trình thực hiện, cơ quan chịu
trách nhiệm, các hoạt động đã triển khai và các hoạt động dự kiến theo từng lĩnh vực.
Cần chủ động và khẩn trƣơng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công
nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong
quá trình hội nhập ACFTA.
Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng
XHCN, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bƣớc hoàn thiện các loại hình
92
thị trƣờng hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học- công nghệ, vốn…Có kế hoạch
cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực. Tiến hành mở rộng đàm phán
quốc tế, kiện toàn Uỷ ban quốc gia về hợp tác quốc tế.
3.2.2. Đẩy mạnh quá trình cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Mặc dù cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã có sự chuyển dịch tích cực, một
phần do tác động của quá trình hội nhập kinh tế khu vực nhƣng trong cơ cấu
kinh tế này nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ lệ cao so với các nƣớc trong khu vực.
Đây là bất lợi trong quan hệ thƣơng mại của Việt Nam với các nƣớc trong khu
vực. Khi tham gia ACFTA, chúng ta cần phải tận dụng những tác động tích cực
để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hơn nữa nhằm đƣa nƣớc ta
đến năm 2020 trở thành một nƣớc công nghiệp với tỷ trọng ngành công nghiệp
và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo hƣớng khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối
và lợi thế so sánh của nền kinh tế nƣớc ta nhằm tham gia có hiệu quả vào ACFTA.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đƣợc tiến hành trên cơ sở tính toán chu
đáo và toàn diện các mục tiêu chiến lƣợc, với bƣớc đi phù hợp trên cơ sở đánh
giá đúng thực trạng và các nguồn lực phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, phải
tính đến các yêu cầu phát triển bền vững, lâu dài, yêu cầu giải quyết những vấn
đề xã hội và bảo vệ môi trƣờng sinh thái của đất nƣớc, bảo vệ an ninh và quốc
phòng.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội
của các hoạt động kinh tế đối nội và đối ngoại của nƣớc ta, phấn đấu không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta.
3.2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
3.2.3.1. Nhìn từ vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
+) Cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng
Việc cải thiện và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sẽ giúp cho Việt Nam nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vì kết cấu hạ tầng là nền tảng cho các
ngành kinh tế phát triển, tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Tuy
93
nhiên, việc đầu tƣ vào các công trình kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, thời
gian hoàn vốn dài, trong khi đó nguồn vốn ngân sách Nhà nƣớc có hạn, các
doanh nghiệp trong nƣớc cũng không có khả năng đầu tƣ. Do vậy, Nhà nƣớc
phải có chính sách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tƣ vào cơ sở
hạ tầng nhƣ: Tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ viện trợ của các quốc gia (nguồn
ODA) và các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế nhƣ Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),...
Nhà nƣớc cần đề ra những chính sách cụ thể nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp và ngƣời dân đầu tƣ trực tiếp hoặc gián tiếp vào các dự án hạ
tầng, thông qua các hình thức BOT, BT, BTO, hợp tác kinh doanh, liên doanh
hoặc trái phiếu công trình. đặc biệt, cần khuyến khích sự đóng góp của nhân
dân, cả về vốn và công sức trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn.
Đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, Nhà nƣớc phải điều chỉnh một số
chính sách về tài chính để các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài yên tâm đầu tƣ vào Việt
Nam. Việc huy động các nguồn vốn đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng đã khó khăn
nhƣng vấn đề quan trọng hơn việc phân bổ đầu tƣ và quản lý nguồn vốn sao
cho đồng vốn đƣợc đầu tƣ có hiệu quả nhất. Muốn vậy, cần có sự phối hợp
giữa các Bộ, ngành liên quan trong việc xác định mục tiêu và danh mục đầu
tƣ, nâng cao chất lƣợng thẩm định các công trình. Trong quá trình xây dựng
công trình, các cơ quan chức năng phải tăng cƣờng giám sát, đảm bảo chất
lƣợng và không làm phát sinh thêm vốn.
Bên cạnh việc cải thiện, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ
thống giao thông, hệ thống cấp thoát nƣớc, điện, bệnh viện, trƣờng học...
trong quá trình hội nhập ACFTA hiện nay Việt Nam cần xây dựng cơ sở hạ
tầng thông tin quốc gia. Việc tạo lập một mạng lƣới thông tin quốc gia sẽ
cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin trên nhiều lĩnh vực khác
nhau giúp chính phủ và các doanh nghiệp đƣa ra các quyết định nhanh và hiệu
quả. Đặc biệt là những thông tin về kinh tế nhƣ: thông tin công nghệ, thông
94
tin hàng hoá, thông tin giá cả hàng hoá trong và ngoài nƣớc, các thể chế,
chính sách của các nƣớc trong ACFTA cũng nhƣ lộ trình hội nhập của Việt
Nam và các nƣớc nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam chủ động hội nhập
trong việc thâm nhập thị trƣờng, nâng cao sức cạnh tranh. Đồng thời tham gia
xây dựng hệ thống đƣờng xuyên Á, ... để thúc đẩy giao thông đƣờng bộ nhằm
tận dụng vai trò là “cầu nối” quá cảnh vào ASEAN và Trung Quốc.
+) Hoàn thiện cơ chế thị trường và ổn định các điều kiện kinh tế vĩ mô
Yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện ACFTA là
tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới cơ chế và hoàn thiện cơ chế thị trƣờng một
cách đồng bộ, hoàn chỉnh, phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế của Việt Nam. Chúng ta cần phải xem xét lại một cách toàn
diện thể chế kinh tế hiện hành để sửa đổi những điều kiện không phù hợp, bổ
sung những luật lệ, chính sách mới để đảm bảo sự nhất quán, hoàn chỉnh của
chính sách kinh tế. Ngoài ra, cần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trƣờng nhƣ thị
trƣờng vốn, thị trƣờng lao động, thị trƣờng công nghệ, loại bỏ cơ chế “xin-
cho” và những phƣơng thức điều hành kinh tế của thời kỳ bao cấp để lại.
Trong một cơ chế thị trƣờng nhƣ trên, ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển kinh tế. Chính sách tài chính- tiền tệ đƣợc thực
hiện nhằm đảm bảo quản lý tốt thâm hụt ngân sách, duy trì mức lạm phát
thấp, quản lý đƣợc nợ nƣớc ngoài và duy trì tỷ giá hối đoái cạnh tranh. Các
yếu tố nhƣ: tốc độ tăng trƣởng, tốc độ gia tăng xuất khẩu, mức lạm phát, cán
cân thƣơng mại,... cần giữ ổn định ở một con số hợp lý nhất, tuỳ từng chỉ tiêu.
Cùng với sự ổn định về chính trị và xã hội, ổn định kinh tế sẽ là một trong
những lợi thế của Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, thu hút nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp vào Việt Nam trong quá trình thực
hiện ACFTA trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
+) Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Với doanh nghiệp nhà nước, điểm mấu chốt của việc nâng cao năng lực
95
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam là tập trung đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới
hệ thống DNNN, kiên quyết giải thể, phá sản, bán hoặc cho thuê các doanh
nghiệp thua lỗ kéo dài, bởi vì bản thân các doanh nghiệp này sẽ không đủ sức
tồn tại và cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Với doanh nghiệp tư nhân, Nhà nƣớc cần ban hành các chính sách tiếp tục
cải thiện hơn nữa môi trƣờng kinh doanh, tiến tới sự bình đẳng giữa các DNNN
và doanh nghiệp tƣ nhân vì hiện nay còn nhiều đối xử bất bình đẳng hai thành
phần kinh tế này.
Trƣớc hết, Chính phủ cần phải tiếp tục loại bỏ các giấy phép kinh doanh tạo
điều kiện cho khu vực kinh tế tƣ nhân đƣợc tham gia hoạt động trong nhiều lĩnh
vực ngành nghề hơn. Nhà nƣớc cũng cần phải xoá bỏ những qui định phân biệt
đối xử giữa các thành phần kinh tế, chẳng hạn trong chính sách khuyến khích
đầu tƣ. Đồng thời, Nhà nƣớc nên sửa đổi các luật thuế hiện nay nhƣ thuế giá trị
gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp vì những luật thuế này chủ yếu áp dụng
những chế độ kế toán giành cho DNNN, không phù hợp với kinh tế tƣ nhân.
Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của các doanh nghiệp
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém, thua lỗ và mất vốn của
DNNN hiện nay phải kể đến cơ chế quản lý vốn Nhà nƣớc hiện tại còn nhiều
bất cập, chƣa phù hợp với cơ chế thị trƣờng. Nhằm khắc phục hạn chế này,
một giải pháp đƣợc đƣa ra là Nhà nƣớc nên thành lập các công ty đầu tƣ tài
chính Nhà nƣớc. Công ty đầu tƣ tài chính Nhà nƣớc đƣợc Nhà nƣớc góp vốn với
tƣ cách cổ đông để đại diện cho quyền sở hữu về vốn để đầu tƣ cho nền kinh tế.
Nhà nƣớc cũng cần có một cơ quan chủ trì, nghiên cứu, đối chiếu tìm ra
những mâu thuẫn giữa các Luật, đề nghị quốc hội bổ sung sửa đổi hoặc hƣớng
dẫn thực hiện, tránh tình trạng luật này bị luật kia điều chỉnh.
3.2.3.2. Nhìn từ sự cạnh tranh của doanh nghiệp
Xây dựng chiến lƣợc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với
cam kết hội nhập
96
Bên cạnh chiến lƣợc tổng thể của Nhà nƣớc, của Bộ chủ quản, từng doanh
nghiệp phải xây dựng chiến lƣợc sản xuất kinh doanh riêng của mình. Việc xây
dựng chiến lƣợc kinh doanh giúp cho doanh nghiệp chủ động trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình trƣớc sự cạnh tranh và những biến động trên thị
trƣờng. Chiến lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mang lại cho doanh
nghiệp triển vọng cạnh tranh dài hạn và cạnh tranh đa phƣơng diện (cạnh tranh
về giá, chất lƣợng, sự khác biệt hoá sản phẩm, dịch vụ trƣớc và sau bán hàng, tốc
độ cung cấp sản phẩm...). chiến lƣợc doanh nghiệp phải đƣợc xây dựng trên cơ
sở: đó là, tiềm lực của doanh nghiệp trong nền kinh tế mở, tức phải đặt tiềm lực
đó trong lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nƣớc; Nghiên
cứu, dự báo tình hình phát triển thị trƣờng trong nƣớc và khu vực với bối cảnh
Việt Nam tham gia ACFTA liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp để định
hƣớng chiến lƣợc sản phẩm thích ứng có khả năng cạnh tranh cao.
Trên cơ sở đó thì nội dung chiến lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp cần tập
trung giải quyết một số vấn đề sau để đảm bảo tính chủ động trong cạnh tranh của
doanh nghiệp: Thứ nhất, chủ động đƣa ra danh mục hàng hoá có khả năng cạnh
tranh để có kế hoạch đầu tƣ các yếu tố đầu vào và chủ động thị trƣờng cho các sản
phẩm đầu ra. Thứ hai, nghiên cứu, thiết kế đƣa ra thị trƣờng những hàng hoá mới
có tính độc đáo. Thứ ba, chủ động xây dựng chƣơng trình tham gia hội nhập
ACFTA. Thứ tư, có lộ trình thâm nhập và phát triển các thị trƣờng trong tƣơng lai.
Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp. Bên cạnh việc nâng cao trình độ tay nghề và kỷ luật
lao động của công nhân- những ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm của doanh
nghiệp cũng cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp. Trong tất
cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp đều có sự tham gia của con ngƣời.
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu lực lƣợng cán bộ làm công
tác xúc tiến thƣơng mại. Trƣớc hết, lãnh đạo doanh nghiệp cần nâng cao nhận
thức của cán bộ doanh nghiệp về tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thƣơng
97
mại. Sau đó, đào tạo cán bộ làm công tác xúc tiến thƣơng mại về kỹ năng tiến
hành các hoạt động xúc tiến thƣơng mại nhƣ việc tìm hiểu thông tin về thị
trƣờng, lựa chọn thị trƣờng, tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm,...
Hiệp định khung ACFTA đã đƣợc ký kết, nhƣng nhiều cán bộ của các
doanh nghiệp vẫn chƣa nhận thức đƣợc vấn đề này, họ cho rằng đấy là công việc
của các cấp vĩ mô, của lãnh đạo doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải
tuyên truyền sâu rộng đến các cán bộ và toàn thể công nhân trong doanh nghiệp
mình về lộ trình thực hiện của Việt Nam, để họ nhận thức đƣợc những thách
thức ở phía trƣớc. Doanh nghiệp muốn tồn tại trong điều kiện cạnh tranh gay gắt
không có cách nào khác là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, điều này
cần sự chung sức, đồng lòng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp.
3.2.3.3. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá
Bên cạnh việc căn cứ vào yêu cầu của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã
và sẽ tham gia, chúng ta cần xác định lợi thế cạnh tranh của hàng hoá để có lịch
trình hội nhập phù hợp và kịp thời chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế để ngày một
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Việt nam có lợi thế so với Trung Quốc về
mặt hàng nông nghiệp do vậy cần đẩy nhanh nhịp độ phát triển các ngành này và
khai thác thị trƣờng Trung Quốc. Thêm nữa, nhờ vị trí địa lý cận kề nên chúng ta
có thể tăng khả năng cung cấp các loại sản phẩm tƣơi sống, nhƣ thuỷ sản, rau hoa
quả...
Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá là vấn đề sống còn của các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thực hiện ACFTA. Hàng hoá Việt Nam
kém lợi thế cạnh tranh xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số đó
có nhiều nguyên nhân khách quan, cần đến sự tác động hỗ trợ của Nhà nƣớc
nhƣng điều cốt yếu là bản thân các doanh nghiệp phải tự tìm cách tự nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp mình thông qua việc đổi
mới công nghệ, năng cao năng suất lao động, cải tiến phƣơng thức quản lý và
đầu tƣ cho nghiên cứu và phát triển để tạo ra những sản phẩm khác biệt.
98
Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, giúp doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất lƣợng sản
phẩm. Từng doanh nghiệp cần phải đánh giá đúng thực trạng công nghệ của mình,
trên cơ sở đó, các doanh nghiệp đề ra chiến lƣợc, kế hoạch đầu tƣ cho công nghệ
mới hay đầu tƣ chiều sâu đổi mới công nghệ. Vấn đề quan trọng nhất là làm thế nào
để doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ trong điều kiện hạn hẹp về nguồn vốn.
Một vấn đề không kém phần quan trọng bên cạnh vấn đề vốn để đổi mới
công nghệ là con ngƣời. Doanh nghiệp nên có chiến lƣợc thu hút các nhà khoa
học, kỹ sƣ chế tạo,... hợp tác với mình trong việc nghiên cứu và chế tạo lại công
nghệ hiện đại của nƣớc ngoài. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần tổ chức đào
tạo nâng cao trình độ, tay nghề cho công nhân, giáo dục cho công nhân về ý
thức, kỷ luật lao động đi cùng với việc tổ chức các hoạt động thi đua, khen
thƣởng tạo động lực để họ tập trung vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Để nâng cao chất lƣợng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu
quả hoạt động của toàn hệ thống. Các doanh nghiệp nên đẩy mạnh việc triển khai
áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng theo tiêu chuẩn ISO 9000.
Lợi thế cạnh tranh của hàng hoá còn do sự khác biệt của sản phẩm tạo nên.
Để đạt đƣợc điều này, doanh nghiệp cần quan tâm đến hoạt động nghiên cứu và
phát triển. Trong điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam, chi phí hoạt động
này sẽ là một khó khăn đối với các doanh nghiệp nhƣng hoạt động nghiên cứu và
phát triển sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho các doanh nghiệp.
3.2.4. Cải cách về thể chế kinh tế
Chính sách thƣơng mại
Cần giảm bớt những bất cập trong chính sách thƣơng mại liên quan đến hệ
thống thuế quan, các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt nên chuyển toàn bộ việc
bảo hộ bằng hạn ngạch sang thuế quan đối với các ngành cần đƣợc bảo hộ và ấn
định thời gian áp dụng đối với các biện pháp bảo hộ tạm thời, nhằm nâng cao
hiệu quả của chính sách.
Chúng ta cần tiếp tục cắt giảm thuế quan theo đúng lịch trình đã cam kết từ
99
nay đến 2006 theo AFTA và 2008 đối với ACFTA.
-Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế:
Về thuế nhập khẩu chỉ nên áp dụng từ 5-6 mức. Thuế suất tối đa đối với
một số mặt hàng loại trừ tạm thời nên chỉ ở mức 50%, đồng thời có thể nâng
mức thuế suất các mặt hàng có mức thuế suất dƣới 5%. Thuế nhập khẩu chỉ nên
tập trung chủ yếu vào việc bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nƣớc.
Về thuế xuất khẩu: cũng nên giảm xuống còn 3 mức (0%, 10%, 20%). Mức
0% áp dụng với hàng hoá đã qua chế biến, mức 10% đối với hàng hoá chƣa qua
chế biến, mức 20% đối với hàng hoá không khuyến khích xuất khẩu.
Không nên dùng biện pháp đánh thuế cao đối với hàng nhập khẩu từ các nƣớc,
vì nƣớc này cũng có thể đánh thuế cao đối với hàng xuất khẩu của ta mà họ nhập.
Đối với các sắc thuế gián thu nội địa, ta cần chấm dứt sự phân biệt đối xử
giữa hàng hoá sản xuất trong nƣớc và hàng nhập khẩu trong thuế tiêu thụ đặc
biệt để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia với lịch biểu phù hợp. Bên
cạnh đó, chúng ta vẫn phải tiếp tục hoàn thiện các sắc thuế này, đặc biệt là thuế
VAT để đảm bảo phần nào bù đắp đƣợc sự giảm thu trong Ngân sách Nhà nƣớc
khi chúng ta thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu.
Đối với các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, mức
huy động cần đƣợc duy trì một cách hợp lý và mang tính ổn định lâu dài, qui
định đơn giản và đảm bảo trung lập. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thuế
thu nhập cá nhân cũng cần đƣợc mở rộng diện đánh thuế đối với tất cả các loại thu
nhập của công dân Việt Nam và ngƣời nƣớc ngoài có thu nhập trên lãnh thổ Việt
Nam, hạ thấp và đơn giản hoá mức thuế suất để đảm bảo quản lý thu đƣợc thuế.
Những qui định về miễn giảm thuế là cần thiết nhƣng không nên áp dụng
cho nhiều đối tƣợng nhƣ hiện nay mà chỉ nên ƣu tiên cho những mặt hàng có khả
năng cạnh tranh. Theo một báo cáo đề xuất của Bộ kế hoạch và đầu tƣ về khả
năng chuyển dịch cơ cấu sản xuất khi thực hiện các cam kết, các ngành hàng mà
Việt Nam đang có lợi thế cạnh tranh là một số mặt hàng nông sản, chủ yếu là gạo
nhƣng loại trừ mía đƣờng và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động
100
nhƣ dệt, may mặc, da giầy. Các ngành khác nhƣ xi măng, thép, ô tô - xe máy,
điện tử , chất dẻo hiện tại chƣa có khả năng cạnh tranh so với hàng nhập khẩu từ
khu vực[4]. Tuy nhiên, những biện pháp ƣu đãi này chỉ nên áp dụng trong một
thời gian nhất định, tiến tới về lâu dài cần phải đảm bảo một chính sách thuế
trung lập và công bằng.
- Giảm thiểu áp dụng các biện pháp phi quan thuế cản trở thƣơng mại. Cắt,
giảm thuế quan, hạ thấp rồi xoá bỏ hàng rào phi thuế quan là xu hƣớng phát triển
của thƣơng mại ASEAN và của Trung Quốc cũng nhƣ của quốc tế. Vì vậy, sửa
đổi, bổ sung chính sách thƣơng mại đối với hàng rào phi thuế quan trong quá
trình thực hiện ACFTA có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với toàn bộ công
cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nƣớc ta.
Khi tham gia AFTA và ACFTA thì nƣớc ta phải sửa đổi nhiều về thuế
quan. Trên thực tế, nƣớc ta vẫn là nền kinh tế chuyển đổi, một nền kinh tế phát
triển ở trình độ thấp và mới bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách về thuế
quan của chúng ta vẫn còn mang nặng tính bao cấp và thƣờng xuyên thay đổi
(hàng năm, từng giai đoạn, cả lộ trình). Vì thế mã hàng (mã thuế), thuế suất thiếu
ổn định, thậm chí bị xáo trộn, khiến cho biểu thuế quan trở nên rối, gây khó khăn
cho công tác hoạch định và thi hành chính sách thƣơng mại trong quan hệ với
các nƣớc trong khu vực. Cho nên cần xây dựng hoàn chỉnh và ban hành một
chính sách thuế quan ổn định, nhất quán, phù hợp với cam kết về ACFTA.
Áp dụng các biện pháp, chính sách hỗ trợ, khuyến khích sản xuất và
xuất khẩu
Thực hiện ACFTA trong xu thế hội nhập có nghĩa là yêu cầu các nƣớc khác
mở cửa thị trƣờng cho hàng hoá nƣớc ta, đồng thời phải bán đƣợc hàng hoá của
nƣớc mình trên thị trƣờng của nƣớc ngoài. Do đó, một trong những phƣơng
hƣớng cơ bản đối với thƣơng mại hàng hoá trong quá trình thực hiện ACFTA là
cần phải có chính sách tăng nhanh sản xuất và xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm,
nâng cao kim ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng chủ lực. Phải gắn chủ
trƣơng, chính sách này với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu mặt
101
hàng và đầu tƣ phát triển nhƣ:
- Ƣu tiên phát triển công nghiệp chế biến để giảm dần việc xuất khẩu
nguyên liệu, đồng thời tăng dần tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến chất lƣợng cao
với giá thành hạ.
- Xây dựng và bảo vệ thƣơng hiệu hàng hoá của nƣớc ta có uy tín, chất
lƣợng trên thị trƣờng khu vực và thế giới.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm của mọi thành phần kinh tế.
- Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc, cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ
tục hành chính phục vụ hiệu quả cho sản xuất và xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Đẩy mạnh xuất khẩu có ý nghĩa rất quyết định trong thƣơng mại, nhất là
trong điều kiện nƣớc ta vẫn còn là một nƣớc nghèo, thu nhập bình quân đầu
ngƣời còn rất thấp, dân số ở độ tuổi lao động nhiều, khả năng phát triển sản xuất
lớn hơn khả năng tiêu thụ.
Chính sách tỷ giá hối đoái
Cải cách chính sách tỷ giá hối đoái có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt
trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu sắc nhƣ hiện nay. Trƣớc hết, cần nhanh
chóng đƣa ra một chính sách tỷ giá hợp lý, gần sát với mức tỷ giá hối đoái cân
bằng mục tiêu, tránh việc đặt giá cho đồng bản tệ quá cao làm ảnh hƣởng đến
khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Trên thực tế, nhà kinh tế học
Kaminky tính toán thì năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam suy
giảm liên tục so với các đối tác của mình trong giai đoạn từ tháng 12/1992 đến
tháng 3/1998, cụ thể là: giảm 73,7% so với Indonexia, 45,4% so với Hàn Quốc,
34% so với Malaysia, 33,8% so với Thái Lan và 24% so với Philippines. Đứng
trƣớc tình trạng đó, Việt Nam buộc phải có những điều chỉnh thích hợp trong tỷ
giá giữa đồng nội tệ và đồng đô la Mỹ. Cần chú ý rằng chỉ có việc giảm giá trị
thực của đồng bản tệ mới là một trong những biện pháp hữu hiệu của bất kỳ một
chƣơng trình tự do hoá thƣơng mại nào và điều đó sẽ xảy ra khi đồng bản tệ
102
đƣợc giảm giá với mức độ lớn hơn mức lạm phát trong thời điểm tƣơng ứng.
Một chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ giúp điều chỉnh đƣợc giá trị của
đồng bản tệ theo mức độ lạm phát, hoặc đảm bảo giảm giá thực để tăng cƣờng
khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Trong tƣơng lai, để hạn chế thâm
hụt ở mức an toàn (bằng hoặc thấp hơn 5% GDP), việc điều chỉnh cơ cấu nhập khẩu
phải gắn kết với xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu ngành mà tiến trình tự do hoá thƣơng
mại đã đề ra và phải đƣợc tiến hành thông qua việc cải cách hệ thống thuế nhập
khẩu sao cho khuyến khích nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng
hoá tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu, đồng thời hạn chế nhập khẩu thành phẩm.
Chính sách đầu tƣ
Cải cách chính sách đầu tƣ là một khâu rất quan trọng trong quá trình tự do hoá
thƣơng mại, bởi vì đầu tƣ trực tiếp tác động lên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tỷ trọng trong tổng đầu tƣ xã hội
Tỷ trọng trong GDP
1986-90 1991-95 1996-2000 1986-90 1991-95 1996-2000
Dịch vụ
60,9
52,7
46,3
35,0
44,1
40,8
Nông nghiệp
13,4
9,7
12,5
42,1
27,2
25,3
Công nghiệp
25,7
38,7
41,2
22,9
28,8
33,9
BẢNG 9. ĐẦU TƢ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ (%)
Nguồn: [1, 10]
Các số liệu ở bảng trên cho thấy rằng để tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu,
đầu tƣ phải đi trƣớc một bƣớc. Trong lĩnh vực đầu tƣ, việc cải cách không nên
tập trung quá nhiều vào việc đặt ra các ƣu đãi đối với các nhà đầu tƣ, đặc biệt là
các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, vì theo tinh thần của Nghị định 51/1999/NĐ-CP,
những ƣu đãi mà Việt Nam đƣa ra có thể đƣợc đánh giá là gần nhƣ tƣơng đƣơng
với một số nƣớc trong khu vực. Việc cải cách trong thời gian tới cần đƣợc định
hƣớng vào điều chỉnh cơ cấu đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ nƣớc ngoài, giữa các
ngành sản xuất, các vùng, các địa phƣơng, sao cho vừa giảm bớt sự phụ thuộc
103
vào đầu tƣ nƣớc ngoài, vừa tạo thế chủ động trong đầu tƣ để phát triển ổn định.
Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực do sử dụng sai mục
đích các nguồn vốn vay, Việt Nam đang rất chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn vốn đầu tƣ thông qua một số biện pháp nhƣ điều hành lại cơ cấu đầu
tƣ thuộc vốn ngân sách nhà nƣớc, tiến hành rà soát lại các công trình đầu tƣ để
giảm bớt hoặc loại bỏ các công trình chƣa cần thiết trong lĩnh vực phi sản xuất
và các công trình kém hiệu quả, mở rộng các hình thức đầu tƣ BOT, BO và BT.
Việc điều chỉnh lại chính sách đầu tƣ là nhằm phục vụ cho quá trình chuyển dịch
cơ cấu mà do quá trình tự do hoá thƣơng mại.
Chính sách tiền tệ- tín dụng
Nhƣ các nƣớc đang phát triển khác, trong đó bao gồm cả ASEAN, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong việc huy động và
cung cấp nguồn vốn cần thiết cho phát triển kinh tế. Để sử dụng có hiệu quả
chính sách tiền tệ tín dụng trong quá trình hội nhập, củng cố ngân hàng là một
yêu cầu cấp bách. Khi hàng hoá đƣợc trao đổi tự do hơn, để đảm bảo cân bằng
cho cán cân thanh toán, nhu cầu về vốn cũng nhƣ việc di chuyển các dòng vốn sẽ
tăng lên. Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á, hệ
thống ngân hàng của Việt Nam cần phải đƣợc cải cách theo hƣớng nâng cao hơn
nữa hiệu quả quản lý và sử dụng vốn, mở rộng diện đƣợc vay vốn từ ngân hàng,
trong đó chú trọng hơn đến khu vực tƣ nhân, đồng thời cần đề ra các chính sách
để thu hút các dòng vốn dài hạn. Khi nguồn vốn đƣợc quản lý tốt, thủ tục hành
chính bớt phiền hà, việc cho vay sẽ có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, về mặt cung
tín dụng, không nên dựa vào các dòng vốn vay, đặc biệt là vay nƣớc ngoài, để
tránh khả năng gia tăng gánh nặng nợ nần trong tƣơng lai, mà nên dựa vào việc
phát hành trái phiéu, cổ phiếu thông qua thị trƣờng chứng khoán, thành lập quỹ
hỗ trợ, hƣu trí và bảo hiểm để thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng.
Chính sách thị trường lao động và giáo dục – đào tạo
Để đảm bảo tính linh hoạt cần thiết của thị trƣờng lao động cho quá trình
hội nhập, việc cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc cần đƣợc đẩy nhanh hơn
nữa, tiếp tục củng cố và phát triển khu vực tƣ nhân. Việc cải tổ doanh nghiệp nhà
nƣớc không chỉ tác động tích cực lên việc phân bổ nguồn lao động mà lên cả
104
nguồn vốn tài sản theo hƣớng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, phát triển nguồn
nhân lực theo hƣớng nâng cao chất lƣợng lao động là rất cấp thiết đối với Việt
Nam trong thời gian cải cách sắp tới. Viện nghiên cứu các rủi ro trong môi
trƣờng kinh doanh đã tiến hành đánh giá chất lƣợng lao động của các quốc gia
trên thế giới dựa trên khuôn khổ pháp luật, thái độ lao động, năng suất và trình
độ tay nghề của lực lƣợng lao động và nếu nƣớc nào đạt dƣới 35/100 điểm có
nghĩa là tính cạnh tranh toàn cầu của lao động ở nƣớc đó ở dƣới mức cho phép.
Theo kết quả điều tra gần đây của viện này, Việt Nam đƣợc 32 điểm, trong khi
đó Singapore đạt trên 60 điểm. Thực trạng chất lƣợng lao động nhƣ vậy đòi hỏi
chính phủ phải quan tâm hơn nữa đến việc phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng
chế độ thƣơng mại tự do hơn nữa đòi hỏi ngƣời lao động phải có tay nghề cao
hơn, năng suất lao động và kỷ luật hơn để có thể tham gia vào thị trƣờng lao
động linh hoạt sẽ đƣợc hình thành trong tƣơng lai. Nếu lao động Việt Nam đạt
tiêu chuẩn chất lƣợng quốc tế, việc xuất khẩu lao động sẽ là một hƣớng đi tốt
trong tƣơng lai, vừa góp phần giải quyết vấn đề công ăn việc làm, vừa tăng thu
nhập ngoại tệ cho đất nƣớc, cũng nhƣ cải thiện đời sống cho ngƣời lao động.
KẾT LUẬN
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc ra đời nhằm xoá bỏ
những cản trở đối với thƣơng mại, đầu tƣ và các rào cản khác nhằm mục đích cuối
cùng là đạt đƣợc sự tăng trƣởng kinh tế bền vững có lợi cho cả hai bên. Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc cũng phản ánh đặc trƣng phát triển kinh tế
quốc tế của thời đại đó là toàn cầu hoá và khu vực hoá. Thông qua ACFTA,
ASEAN – Trung Quốc muốn thể hiện quyết tâm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế chặt
chẽ và toàn diện, đồng thời đặt ra nền tảng pháp lý cho hoạt động hợp tác kinh tế
giữa hai bên. ACFTA sẽ mang lại cơ hội to lớn và cả những thách thức cho hai bên.
Thực hiện ACFTA từng bƣớc làm cho Việt Nam ngày càng thích ứng với
xu hƣớng chung của quan hệ kinh tế quốc tế ở cấp khu vực và thế giới, mà trƣớc
hết đó là việc tạo dựng tính đồng nhất về những tiêu chí kinh tế, giảm dần những
khác biệt về thể chế điều tiết, xác định quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi tổ chức
105
hợp tác kinh tế trong khu vực.
Để đảm bảo thành công trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô. Điều
này đòi hỏi sự chủ động không chỉ từ các bộ, ngành quản lý Nhà nƣớc mà quan
trong hơn là sự chủ động và tự điều chỉnh của các doanh nghiệp sản xuất trong
nƣớc để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, tạo sức mạnh tham gia các hoạt
động trong môi trƣờng ngày càng đa dạng và phức tạp. Mặc dù, chúng ta phải
đối phó với rất nhiều thách thức nhƣ những ngành công nghiệp sử dụng nhiều
lao động bị đe doạ, các xu hƣớng phi điều chỉnh nảy sinh, ngân sách nhà nƣớc
bị thu hẹp... Nhƣng đó là cái giá phải trả cho việc tự do hoá thƣơng mại nhằm
thực hiện tốt các chƣơng trình kinh tế vĩ mô của nhà nƣớc.
Tuy còn có nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhƣng
chắc chắn chúng ta sẽ vƣợt qua những khó khăn này và sẽ tận dụng tốt những cơ
hội để thúc đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nƣớc ASEAN và
Trung Quốc cũng nhƣ hội nhập APEC, gia nhập WTO nhằm góp phần thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nƣớc mạnh,
dân giầu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Đình Ánh (2000), “Sử dụng chính sách tài chính – tiền tệ khuyến khích
đầu tư ”, Tạp chí Tài chính, số tháng 6, tr 9-12.
2. Lý Thiết Ánh, (2002), Về cải cách mở cửa ở Trung Quốc, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
3. David Begg, Stany Fischer và Rudiger Dombusch (1995), Kinh tế học, Tập I
và II, Nxb Giáo Dục, Trƣờng ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (1998), Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới - Những vấn
đề về chính sách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế , Báo cáo tháng 12/1998, Hà Nội.
5. Bộ Ngoại giao, Vụ ASEAN (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Nxb CTQG, Hà Nội.
6. Walter Goode (1997), Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Báo Thƣơng
mại xuất bản, Nxb Thống kê, Hà Nội.
7. Lƣu Tiền Hải (2004), Triển vọng đầu tư nước ngoài năm 2004, Kinh tế
2003-2004 Việt Nam và thế giới.
8. Ari Kokko (1997), Quản lý quá trình chuyển sang chế độ thương mại tự do:
Chính sách thương mại của Việt Nam cho thế kỉ XXI, Nxb CTQG, Hà Nội.
9. P. Krugman và M. Obstfeld (1996), Kinh tế học quốc tế - Lý luận và chính
sách, Nxb CTQG, Hà Nội.
10. Trƣơng Mộc Lâm, Lƣu Nguyên Khánh (1997), Một số kinh nghiệm về cải
cách tài chính ở Trung Quốc, Nxb Tài Chính, Hà Nội.
11. Lƣu Lực (2002), Toàn cầu hoá kinh tế – Lối thoát của Trung Quốc là ở đâu,
Nxb KHXH, Hà Nội.
12. Võ Đại Lƣợc (1997), “Những xu hướng phát triển chủ yếu của thế giới và tác
động của chúng tới các doanh nghiệp của Việt Nam ”, Những vấn đề KTTG,
5/1997.
13. Trần Đức Minh (2002), Triển vọng của việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN- Trung Quốc, Bài tham luận tại Hội thảo “Những thuận lợi và
107
thách thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc”, Hà Nội.
14. Nguyễn Hồng Nhung (1998), “Tự do hoá thương mại- Kinh nghiệm từ các
nước đang phát triển”, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1, tr 25- 29.
15. Ngân hàng Thế giới (1999), Đông Á - Con đường dẫn đến phục hồi, Nxb
CTQG, Hà Nội.
16. Ronald I. McKinnon (1995), Trình tự tự do hoá kinh tế – tài chính trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb CTQG, Hà Nội.
17. Supacchai Panitchpakdi, Mark L. Clipfford (2002), Trung Quốc và WTO,
Nxb Thế Giới, Hà Nội.
18. Phòng Thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam, Ban ASEAN (1997), Việt
Nam hội nhập ASEAN – Hợp tác và phát triển, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
19. Lê Hồng Phục và Đỗ Đức Định (1998), Một số vấn đề kinh tế đối ngoại của
các nước đang phát triển Châu Á, Nxb KHXH, Hà Nội.
20. Lê Quốc Phƣơng (2000), “Đánh giá định lượng quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam bằng phương pháp mô hình”, Kinh tế Châu Á- Thái
Bình Dƣơng, số 1, tr 3- 9.
21. Nguyễn Hồng Sơn (1997), “Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình
hội nhập vào nền kinh tế thế giới”, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1.
22. Phạm Đức Thành (chủ biên) (1998), Việt Nam – ASEAN: Cơ hội và thách
thức, Nxb CTQG, Hà Nội.
23. Lê Hữu Tầng, Lƣu Hàm Nhạc (chủ biên) (2002), Nghiên cứu so sánh đổi
mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, Nxb CTQG, Hà
Nội.
24. Nguyễn Thế Tăng (chủ biên) (2000), Trung Quốc – Cải cách và mở cửa
(1978 - 1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Tạp chí Cộng sản các năm 2003, 2004
26. Nguyễn Xuân Thắng (1999), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến trình
hội nhập của Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
108
27. Nguyễn Xuân Thắng (2004), Về hiệp định thương mại tự do song phương,
Tạp chí cộng sản số 8, tháng 4 năm 2004 tr.73-77.
28. Thông tấn xã Việt Nam (1997, 1998, 1999, 2000,2001,2002, 2003), Tin kinh
tế, các số trong năm tƣơng ứng.
29. Micheal P. Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ 3: Giới thiệu những
nguyên tắc, vấn đề và chính sách về phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Trung tâm kinh tế Châu Á- Thái Bình Dƣơng (VAPEC) (1994), Lý luận và
thực tiễn thương mại quốc tế, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
31. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2001), Chƣơng trình phát triển
Liên hiệp quốc, Dự án VIE 01/004, Hội thảo Rà soát các cam kết, kế hoạch
hành động và hỗ trợ kĩ thuật về hội nhập, Hà Nội.
32. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2002), Quán triệt và thực hiện Nghị
quyết số 07 NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội.
33. Văn phòng Chính phủ Việt Nam (1995- 1998), Dự án “Hỗ trợ Việt Nam hội
nhập ASEAN” (VIE 95/015), Hà Nội.
34. Viện Kinh tế thế giới (1993), Tự do hoá thương mại quốc tế- những xu
hướng và chính sách, Thông tin chuyên đề, Nxb KHXH, Hà Nội.
35. Viện Kinh tế thế giới (1999), Kinh tế thế giới 1998-1999 - Đặc điểm và triển
vọng, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội
36. Viện Kinh tế thế giới (2000), Kinh tế thế giới 1999-2000 - Đặc điểm và triển
vọng, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội
37. Vụ Hợp tác kinh tế đa phƣơng (Bộ Ngoại giao), Vụ chính sách thƣơng mại đa
biên (Bộ Thƣơng mại) (2003), Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), Nxb CTQG, Hà Nội.
38. Vụ Hợp tác kinh tế đa phƣơng (Bộ ngoại giao) (2002), Hội thảo “Những
thuận lợi và thách thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc”,
ACFTA và triển vọng của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Đông Á: cách
nhìn của Nhật Bản. Hà Nội.
39. Jonh Woronoff (1990), Những nền kinh tế “thần kỳ” ở Châu Á, tập II, Nxb
109
KHXH, Viện Châu Á - Thái Bình Dƣơng, Hà Nội.
40. Zhang Yansheng và Zhang liqing, Kinh nghiệm Trung Quốc trong hoạt động
ngoại thương kể từ năm 1979.
Tài liệu tiếng Anh 41. “Forging closer ASEAN – China economics Relations in the 21st century”,
Report Submitted by the ASEAN- China expert group on Economic
cooperation, 10/2001.
42. Framework Agreement on comprehenship economic cooperation between
ASEAN and China – 8th ASEAN Summit.
43. IMF – Direction of Trade Statistics Yearbook 2001.
44. FEER, 2/5/2002.
45. “The challenges of cooperation”- Reported by Mr. Lim Swee Say, Singapores
Minister of Environment – Annual ASEAN- China bilateral dialogue (15- 16
April, 2002)
46. China- ASEAN Free Trade arrangerment: Opportunities and challenges, John
Wong & Sarah Chan – Paper presented at the International Seminar on China
– ASEAN trade, investment cooperation (Tune, 2002)
47. Các website:
www.aseansec.org
Economysees rapid growth china.org.cn
www.asiaweek.com
www.moftec.gov.cn
www.xinhuanet.com
www.china.org.cn
www.chinadaily.com.cn
www.peopledaily.com.cn
www.vietnamnew.vnagency.com.vn
110
MỤC LỤC
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH ACFTA .... 4
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do ............................................. 4
1.1.2. Các lý thuyết về tự do hoá thƣơng mại ............................................ 5
1.2. Cơ sở thực tiễn cho sự ra đời ACFTA ................................................... 11
1.2.1. Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế ................................................... 11
1.2.2. Những yếu tố nội tại từ sự phát triển của ASEAN ......................... 16
1.2.3. Những yêu cầu trong tiến trình phát triển của Trung Quốc ............ 21
1.2.4. Nhu cầu hợp tác kinh tế trong khu vực Đông Á ............................ 23
CHƢƠNG II: ACFTA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁC
NƢỚC THÀNH VIÊN ASEAN VÀ TRUNG QUỐC ......................................................... 32
2.1. Hiệp định khung ACFTA và những nội dung chủ yếu của nó ............ 32
2.1.1. Diễn tiến ra đời của Hiệp định khung ACFTA .............................. 32
2.1.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện
giữa ASEAN- Trung Quốc ..................................................................... 35
2.2. Tác động của ACFTA đối với các nƣớc thành viên ASEAN và Trung
Quốc .................................................................................................................. 40
2.2.1. Tình hình quan hệ kinh tế thƣơng mại giữa Trung Quốc và ASEAN
trong những năm gần đây........................................................................ 40
2.2.2. Cơ hội và thách thức đối với các nƣớc trong ACFTA ................... 48
2.2.3. Triển vọng của ACFTA .............................................................. 71
111
CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ACFTA
CỦA VIỆT NAM ..................................................................................................................... 76
3.1. Cơ hội - thách thức và những định hƣớng phát triển của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập ACFTA .................................................................. 76
3.1.1. Việt Nam quan hệ với ASEAN và Trung Quốc ............................. 76
3.1.2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
ACFTA ................................................................................................... 78
3.1.3. Những định hƣớng phát triển kinh tế chủ yếu để hội nhập ACFTA
của Việt Nam .......................................................................................... 85
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội
nhập ACFTA của Việt Nam ........................................................................... 90
3.2.1. Xác định mô thức và chiến lƣợc phát triển trong quá trình hội nhập
ACFTA ................................................................................................... 90
3.2.2. Đẩy mạnh quá trình cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế .......... 92
3.2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ............................... 92
3.2.4. Cải cách về thể chế kinh tế ............................................................ 98
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 104
112
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIA: Khu vực đầu tƣ ASEAN
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng
ASEAN: Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á
ATC: Hiệp định hàng dệt và quần áo
CEPT: Hệ thống thuế quan ƣu đãi có hiệu lực chung
EAFTA: Khu vực mậu dịch tự do Đông Á
EHP: Chƣơng trình thu hoạch sớm
FDI:
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
EU: Liên minh Châu Âu
FTA: Hiệp định thƣơng mại tự do
GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
MFN: Tối huệ quốc
MOFTEC: Bộ Ngoại thƣơng và Hợp tác quốc tế
NTR: Quan hệ thƣơng mại thông thƣờng
S&D: Đối xử đặc biệt và phân biệt
DNNN: Doanh nghiệp nhà nƣớc
UNCTAD: Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thƣơng mại và phát triển
UNDP: Chƣơng trình phát triển Liên Hiệp Quốc
UNIDO: Tổ chức phát triển quốc tế Liên Hiệp Quốc
UR: Vòng đàm phán thƣơng mại Urugoay
WEF: Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO: Tổ chức thƣơng mại thế giới
113
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Một số hiệp định thƣơng mại khu vực với sự tham gia của các nƣớc
đang phát triển (Tính đến năm 1997)
Bảng 2. Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của các nƣớc ASEAN
Bảng 3. Kim ngạch thƣơng mại Trung Quốc– ASEAN từ 1990- 2001
Bảng 4: Kim ngạch ngoại thƣơng giữa Trung Quốc với từng nƣớc thành viên
ASEAN
Bảng 5: Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc và ASEAN- 6
Bảng 6. Đầu tƣ của các nƣớc ASEAN vào Trung Quốc.
Bảng 7. Đầu tƣ của Trung Quốc vào ASEAN
Bảng 8. Tác động của ACFTA tới GDP thực tế của một số nƣớc ASEAN và
Trung Quốc
Bảng 9. Đầu tƣ và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (%)