Kiểu thời gian sử thi trong

tiểu thuyết "Những người lao

động biển cả"

1) Không khí sử thi là một nét đặc trưng trong các sáng tác của

Victor Hugo (1802-1885) mà bất kỳ người đọc nào cũng dễ dàng nhận ra

điều đó. Để tạo được âm hưởng này, Victor Hugo thường sử dụng một thủ

pháp thường gặp của chủ nghĩa lãng mạn là ngoa dụ. Có thể bắt gặp rất

nhiều biến thái của thủ pháp này ở những hình thức khác nhau. Đó có thể

là những nhân vật phi thường quá khổ kiểu Gilliatt, Quasimodo, Jean

Valjean... về hình thức, về tham vọng, về hành trạng... Cũng có thể là

những ngoa dụ về mặt tu từ học rất phổ biến trong các trường đoạn trữ tình

ngoại đề. Trong bài viết này chúng tôi sẽ lý giải không khí nghệ thuật sử thi

của tiểu thuyết Hugo dưới góc độ thời gian, và giới hạn trong tiểu

thuyết Những người lao động biển cả (Les travailleurs de la mer- 1866).

2) Thời gian trong một tiểu thuyết hiện diện ở nhiều dạng để tạo

nên nhịp điệu: thời gian nhân vật, thời gian cốt truyện, và thời gian trần

thuật (hay còn có thể được gọi là thời gian văn bản). Trong Dẫn luận thi

pháp học của giáo sư Trần Đình Sử, thời gian nhân vật được hiểu bao

gồm thời gian tiểu sử và thời gian “được nếm trải qua tâm hồn của nhân

vật. Hoạt động tâm lý, ký ức dòng ý thức tạo thành thời gian nhân vật. Nếu

nhân vật thiếu đời sống nội tâm thì thời gian của nó chỉ còn tồn tại trên cấp

độ sự kiện nhân quả, trên cấp độ thời gian đồng hồ và lịch. Thời gian nhân

vật gắn với những thời điểm có ý nghĩa riêng của nhân vật đó... Mỗi nhân

vật có một thời khoá biểu, một nhịp độ hoạt động. Thời gian nhân vật có độ

dài hiện diện trong tác phẩm khác nhau. Chỉ có nhân vật chính là có thời

gian bằng thời gian tiền sử và thời gian cốt truyện”[1].

Các nhân vật trong tiểu thuyết Những người lao động biển cả cũng

như hầu hết những tác phẩm khác của ông đều không có nét đặc sắc về

tâm lý: Gilliatt không có những biến đổi tâm lý mạnh. Không có nhiều

trường đoạn khắc hoạ suy nghĩ của anh. Liệu đó có phải là một nhược

điểm của đại văn hào Victor Hugo so với rất nhiều nhà văn tâm lý đương

thời, như người ta vẫn thường quan niệm? Như giáo sư Đặng Thị Hạnh đã

nhận xét thì đó chỉ là những giản đồ tâm lý so với Stendhal, Balzac,

Flaubert... Vì vậy so với thời gian tiểu sử-cốt truyện thì có thể coi dòng thời

gian tâm lý trong tác phẩm này không có vai trò như trong các tiểu thuyết

đương thời của Balzac, Flaubert.... Nhịp điệu trong tác phẩm này chỉ vang

lên rõ nhất ở bè thời gian sự kiện.

Tuy không được chú ý tới như các tác phẩm khác, nhưng Những

người lao động biển cả cũng có một kết cấu sự kiện chặt chẽ chứng tỏ sự

già dặn trong nghệ thuật kể chuyện của Hugo sau những kiệt tác Nhà thờ

Đức Bà Paris (1831), Những người khốn khổ (1862). Có thể chứng minh

điều này khá rõ qua cách bố trí một cách chặt chẽ kết cấu sự kiện trong lời

kể của tác giả và việc sử dụng những thủ pháp “treo tình tiết” theo kiểu tiểu

thuyết đen khá phổ biến đương thời. Các chương kể về chiếc thuyền bầu

và chiếc ghế Gild-Holm-‘Ur khởi đầu tác phẩm chính là để chuẩn bị cho

những chương cuối cùng khi viết về cuộc chiến trên biển và cái chết định

mệnh của Gilliatt. Trước khi dừng giới thiệu về Gilliatt, người kể chuyện có

thắt nút câu chuyện lại bằng một câu thông báo vắn tắt của sieur Landoys:

“Có chuyện lạ đấy, Gilliatt ạ.... Cứ đến Bravé đi. Anh khắc biết” (tr.161). Chỉ

cho tới khi đọc chương I quyển bảyHỏi đến sách là dại dột thì người đọc

mới biết cụ thể “chuyện lạ” đó là việc Clubin làm cho chiếc thuyền máy của

Lethierry bị va vào đá ngầm. Cách kể giãn hai sự việc đồng thời này trên

trục thời gian văn bản trần thuật có thể gợi nhớ tới kiểu lời kể trong sử

thi Iliade, tương tự như ở chi tiết cuộc so tài giữa Pâris và Ménélas: nữ

thần Aphrodite cứu Pâris rồi tìm nàng Hélène xinh đẹp đưa về cho chàng.

Sau đó nhà thơ mới quay trở lại tiếp tục kể về việc Ménélat đi tìm Pâris như

thế nào. Cách kể của Hugo dĩ nhiên có khác về mục đích vì ông làm điều

đó trên cơ sở của một ý thức sâu sắc về kịch tính truyện và cũng do sự

khác biệt ở đặc điểm của thể loại. Nhưng bản chất hiệu quả nghệ thuật gần

nhau: tạo độ sai lệch thời gian (anachronie) như trong sử thi, làm giãn tốc

độ truyện kể, trở nên khoan thai, chậm rãi.

Trong những chương này, cách kể cũng rất tiêu biểu cho nghệ thuật

dẫn dắt kịch tính gợi âm vang phiêu lưu rất thích hợp kiểu tiểu thuyết đăng

báo dài kỳ (roman-feuilleton) đang thịnh hành đương thời: mạch kể có khi

tưởng đứt lại hoá nối. Trong chương II quyển năm có một chi tiết rất có thể

bị người đọc bỏ qua vì được trần thuật vắn tắt: Clubin nhìn thấy Rantaine,

nhân vật trước đó đã bỏ trốn cùng một số tiền lớn của Lethierry. Ngay sau

đó là việc Clubin mua vũ khí, mà người kể- vốn thường theo thói quen thâm

nhập sâu bên trong tính toán của nhân vật để mách bảo cho người đọc -

cũng không hề bình luận gì thêm, chương tiếp theo kể về việc Clubin đi đâu

đó một cách bí hiểm. Xen vào đó đột nhiên là một chương kể về lũ trẻ

chuyên đi phá tổ chim và những câu chuyện bí hiểm chúng vô tình nghe

được trong ngôi nhà ma. Đó là câu chuyện kể về sự kiện Clubin đi tìm gặp

bọn buôn lậu để chuẩn bị cho kế hoạch bỏ trốn. Như vậy thời gian tiền sử

của toàn bộ cốt truyện được xếp lại theo hình nan quạt, kế tiếp nhau và đều

xoay về cùng một trục: kỳ công của Gilliatt cứu chiếc Durande ở hòn

Douvre. Đây là một cách kết cấu quen thuộc trong tiểu thuyết của Hugo. Xét

theo dung lượng tác phẩm thì Victor Hugo đã dành tới phân nửa cho quá

trình kể về những sự việc chuẩn bị cho sự kiện chính. Xét trong tiến trình

thời gian truyện kể[2], có thể nhận ra rằng mặc dù tác phẩm dài khoảng 539

trang (theo bản dịch của Hoàng Lâm) nhưng chi tiết liên quan chỉ bắt đầu từ

trang 54 (tức là được kể trong 485 trang) và sự kiện chính của câu chuyện

theo đúng tên gọi của truyện chỉ tập trung trong phần thứ nhì Gilliatt tinh

khôn (190 trang). Có nghĩa là thực tế cốt truyện chính chỉ chiếm khoảng

34% tổng số trang truyện kể. Có lẽ chính kiểu xây dựng kết cấu đó vừa phù

hợp với phong cách kể chuyện của Hugo, vừa làm nổi rõ một cảm nhận:

con người cô đơn trong hành động và con người đương đầu với biển cả -

motif rất tiêu biểu trong sáng tác của Hugo.

Vậy đây là cách kể khá quen thuộc trong tác phẩm Hugo: dành

khoảng một nửa tổng số giờ đọc để viết về các sự kiện và nhân vật chính

trong cốt truyện. Trong sự kiện này quần tụ đủ những nhân vật cơ bản của

tác phẩm: chiếc tầu, Gilliatt và biển cả. Điều đó càng làm nổi bật tầm vóc

của nhân vật trước thiên nhiên: dám đương đầu để giành chiến thắng. Sau

đó sẽ là một trục sự kiện đóng vai trò thu hút tất cả vào, để họ gặp nhau và

câu chuyện sẽ kết thúc với phần bất lợi nghiêng về nhân vật chính. Như vậy

ngay trong cách cấu trúc các lớp thời gian tạo nên tuyến sự kiện của truyện,

người ta không chỉ cảm nhận được sự kỳ công của nhà văn; mà còn cả một

nhịp điệu thời gian kể chậm rãi, khoan thai của tác phẩm gần giống nhịp

điệu thời gian sử thi. Nhịp điệu này càng rõ hơn khi ta xem xét trong quan

hệ với dòng thời gian văn bản.

3) V.Hugo là một nhà văn nổi tiếng với những trường đoạn trữ tình

ngoại đề, mà Những người lao động biển cả cũng không phải là ngoại lệ.

Nhưng việc sử dụng trữ tình ngoại đề (vốn luôn được đặt ở thời hiện tại) để

đối thoại với người đọc chưa phải là cái gì mới mẻ. L.Tolstoi, I.Turguénev

cũng từng sử dụng thủ pháp này. Điều quan trọng trước hết là vì ông rất ưa

thích sử dụng phương tiện này với một tần suất lớn. Nhịp điệu thời gian

trong trường hợp này xuất hiện từ sự luân phiên của các thành phần cốt

truyện và trữ tình ngoại đề, lời kể và miêu tả.

V.Hugo dành cả một phần mở đầu chừng 64 trang để viết về khung

cảnh quần đảo Manche giống như cả một quyển sách hướng dẫn du lịch

hay tìm hiểu về văn hóa vậy. Riêng phần Quần đảo Manche được viết

thoạt đầu gồm 12 chương: 2,3,5,6,7,8,9,11,13,15, 17, 18. Vào tháng

11.1865 chia lại chương và có thêm thắt thành các 8 chương còn lại để tạo

thành 19 chương (chưa có chương 12 và 21). Do một số lỗi về đánh số

chương mà sau đó ông đã viết thêm vào 4.1864 sáu trang tạo thành hai

chương phụ (12 và 21). Vẫn như thường lệ, sau những tranh cãi của tác

giả với nhà xuất bản Verboeckhoven et Cie (Bruxelles) về phần trữ tình

ngoại đề Quần đảo Manche (54 trang) vào mùa đông 1835, cuốn sách đã

ra mắt bạn đọc đồng thời ở Paris và Bruxelles ngày 13.3.1866 thành ba tập.

Thế nhưng chưa hết. Sinh thời, ông còn có thêm một chương Biển và

gió (24 trang) không được đưa vào tác phẩm một cách chính thức. Việc

chèn thêm toàn bộ phần viết thêm này là do ý định của những người biên

tập sau này khi thực hiện tổng tập (oeuvres complètes), mặc dù còn nhiều ý

kiến khác nhau đề nghị nên đưa vào phần di cảo (reliquat)*. Có thể nói nếu

nhìn từ góc độ thời gian cốt truyện thì 87 trang hoàn toàn trữ tình ngoại đề

này không đóng vai trò gì. Nhưng xét trong tổng thể hiệu quả nghệ thuật, do

số lượng tạo nên chất lượng, mà ngòi bút của Hugo tác động tới người đọc

nên quả thật khó có thể bỏ qua.

Trước hết là sức hấp dẫn của nghệ thuật ngôn từ trong lối viết của

ông. Đúng như giáo sư Đặng Thị Hạnh nhận xét ở chuyên luận Tiểu thuyết

V.Hugo, “ngoại đề chính luận trong quyển Waterloo [...] có phần do sức đẩy

của ngôn từ và của những ẩn dụ đẹp, cũng như do sức đẩy của một tư duy

đầy nghịch lý, luôn luôn tìm tòi cái đối nghịch với chính điều mình vừa

nói”[3]. Có thể trong chừng mực nào đó thì những đoạn trữ tình ngoại đề đó

không khỏi gây cảm giác nặng nề. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng xét trong

tổng thể thời gian trần thật còn có một ý nghĩa khác nữa. Sự gia tăng các

đoạn kể này tạo ra hai hiệu ứng: một mặt nó tạo ra nhịp điệu trì hoãn của

kiểu thời gian sử thi, mặt khác cái mà nhà văn kể lại vẫn đang thuộc về hiện

tại. Hiện tượng này có thể gần giống với cách miêu tả mở rộng trong sử thi,

như ở chi tiết vết sẹo của Ulysse trong sử thi Odyssée.

Nếu như những trường đoạn miêu tả trong sử

thi Iliade hay Odyssée được coi là mẫu mực trong nghệ thuật tu từ cổ đại,

thì đồng thời từ khía cạnh thời gian cũng được các nhà phê bình hiện đại

nhìn nhận rằng chúng đứng ngoài thời gian câu chuyện. Song E.Auerbach

khi nghiên cứu đoạn thơ này thì nghĩ khác. “Người đọc hiện đại ngay lập

tức sẽ nghĩ rằng đoạn ngoại đề này có mục đích nhằm tăng độ căng của

câu chuyện; một ý kiến không hoàn toàn sai lầm, nhưng nó không tính hết

tới nét đặc sắc của Homère. Bởi vì trong các tác phẩm của Homère,yếu tố

độ căng chỉ là thứ yếu; những bài ca này, như phong cách của ông chứng

minh, không nhằm duy trì sự chú ý của người đọc hay người nghe. Đối với

điều này, không cần những cách quả thật có tạo nên độ căng, làm giãn kịch

tính, mà điều này lại xảy ra thường xuyên, nhất là trong đoạn chúng ta đang

quan tâm.... Nhưng Homère, và chúng ta sẽ cần quay lại điểm này, không

biết tới hậu cảnh (arrière-plan). Điều mà ông kể luôn là hiện tại và tràn ra

toàn cảnh cũng như ý thức”[4]. Không có sự phân định thật rạch ròi giữa thời

gian hậu cảnh với thời gian tiền cảnh như của tiểu thuyết hiện đại để tạo

nên tính phối cảnh thời gian (perspective du temps). Khi so sánh kiểu thời

gian trần thuật trong hai tác phẩm cổ đại: Odyssée và Kinh Thánh để thấy

được nét đặc sắc trong thời gian của sử thi người HyLạp, E.Auerbach cho

rằng không phải Homère có mức độ tư duy kém hơn, mà thực ra phải nói

ngược lại. Tuy nhiên điều mà tác giả sử thi quan tâm hình như không phải

là làm cho người nghe-người đọc tin vào những tín điều như trong Kinh

Thánh. Nó không có nhu cầu tạo nên kiểu thời gian phối cảnh trong quá

trình kể hư cấu để tạo một không-thời gian giả (pseu-tempo spacial). Vả lại,

trong tâm lý của người cổ đại không có sự phân biệt giữa thế giới thực

đang tồn tại và thế giới tâm linh. Theo nhà nghiên cứu M.Iliade thì trong thời

cổ đại, “các nhân vật thần thoại trở thành những người tham gia vào cuộc

sống hiện tại, những người đương thời. Điều đó cũng có nghĩa, con người

sống không phải trong thời gian lịch đại, mà trong thời gian khởi thuỷ, khi

mà sự kiện lần đầu tiên diễn ra.”[5]. Chính vì thế việc tạo nên phối cảnh thời

gian là không cần thiết. Bản chất của dòng thời gian ở đây đã mang tính

chất hiện tại. Đây chỉ là một tiếng đàn thời gian độc điệu.

Tương tự như vậy, ngoài giá trị về thời gian văn bản khi không tham

gia trực tiếp vào cốt truyện, cũng là một dấu hiệu cuối cùng của thuật tu từ

hùng biện trong văn học, các đoạn trữ tình ngoại đề trong tác phẩm của

Hugo còn có tác dụng tạo nên hiệu quả nhịp điệu trì hoãn gần giống như

trong nhịp điệu của sử thi. Chỉ từ góc độ đó mới có thể lý giải việc Victor

Hugo dừng lại trong cả chương II quyển bốn phần thứ nhì Con quái vật có

tính chất ngoại đề dài 9 trang để nhẩn nha kể và miêu tả về con quái vật-

bạch tuộc. Trong khi ngay ở phần kết thúc của chương I trước đó, ông hạ

một câu văn tưởng như đang chuẩn bị cho cuộc chiến dưới lòng biển:

“Gilliat nhận ra con thuồng luồng”. Phải đợi tới chương III thì Hugo mới

quay lại kể tiếp về cuộc chiến này. Đó là chưa kể rất nhiều những đoạn trữ

tình ngoại đề khác nằm rải rác trong toàn tác phẩm. Tính chất hiện tại trong

tiểu thuyết do vậy mang vẻ lóng lánh một mầu sử thi.

Kiểu cốt truyện sơ lược là một trong những nguyên nhân dẫn tới 4)

tâm lý nhân vật nguyên phiến và đơn giản. Trong cách lý giải của

E.Auerbach khi so sánh sử thi Odyssée và Kinh Thánh, ông cho rằng kiểu

nhân vật tâm lý đơn giản trong sử thi có mối liên quan nhất định tới kiểu

thời gian một chiều không theo luật phối cảnh thời gian. Thông thường, các

nhà văn vẫn thường tạo độ chênh các tuyến thời gian sự kiện được kể

nhằm tạo nên một giả không-thời gian trong truyện kể (récit). Xen vào giữa

đó là đời sống tâm lý của các nhân vật. Còn ởNhững người lao động biển

cả, các nhân vật hiện ra do lối kể như trong sử thi nên sống bằng cả thời

gian tâm linh và thời gian có thực trong cuộc đời. Vả lại với một khoảng

cách gần như tuyệt đối về thời gian mang tính sử thi như vậy, nhà văn cũng

không cần thiết có những phân tích tâm lý tinh tế như kiểu của Balzac hay

Proust sau này. Quay lại điều mà rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới như

một hạn chế trong sáng tác của Hugo là tính giản lược ở tâm lý nhân vật,

nhưng dưới góc độ của tổng thể thời gian tiểu thuyết, chúng ta có thể nói

đó là một chỉnh thể nghệ thuật thực sự chứ không hẳn là một nhược điểm

của đại văn hào vốn rất tinh tế trong các cung bậc tình cảm của thơ ca.

5) Như vậy không khí sử thi được gợi ra từ việc sử dụng các đoạn

trữ tình ngoại đề mở rộng. Trường hợp này có vẻ mâu thuẫn với lý thuyết

của Bakhtine về thi pháp tiểu thuyết. Theo đó thì tính chất phân biệt sử thi

với tiểu thuyết chính là độ giãn khoảng cách tiếp cận đối tượng về thời gian.

Được đẩy lùi về quá khứ với khoảng cách thời gian tuyệt đối, các hình

tượng trong sử thi chỉ còn dành để chiêm ngưỡng chứ không phải là để

bình phẩm nhận xét, vỗ vai như với người đương thời. Tuy nhiên, như đã

nói trên dù câu chuyện có rất nhiều mốc thời gian hiện đại, nhưng lại không

hề gợi ra không khí hiện tại của câu chuyện. Victor Hugo không bao giờ

giấu giếm tính chất hiện đại của câu chuyện. Tháng 3. 1864, Hugo chuẩn bị

viết phần Gilliatt tinh khôn. Ngày 4.6.1864 công việc viết bắt đầu chính

thức. Tháng 8 thì xong phần một của tiểu thuyết, ông tạm ngưng để đi

Bruxelles. Ngày 4.12.1864 bắt đầu phần hai. 30.3 1865 bắt đầu phần ba.

Ngày 29. 4 kết thúc viết và tạm đặt tên là Vực thẳm. Tháng 5.1865 ông viết

phần Quần đảo Manche. Vậy là mặc dầu tác phẩm được viết năm 1864,

hoàn thành năm 1866, nhưng trong truyện có thể gặp khá nhiều chi tiết đề

rõ năm tháng hiện tại, chủ yếu vẫn là ở những đoạn trữ tình ngoại đề:

“Cuối năm 1864, cách bờ biển Malaba một trăm dặm, một trong

những hòn đảo của Maldive đã chìm nghỉm.”(tr.303)

“Bằng sức nhanh, ngọn gió mát trở thành viên đạn. Tốc độ nghiền

nát. Cái nhảy của con hổ cũng làm nên cuồng phong. Năm 1836, một cơn

gió đi từ Luân đôn lúc mười giờ sáng, tới mười giờ tối thì đến Settin. Một

cơn khác, ngày 27 tháng hai 1860, trong nửa giờ đã cuốn tới Paris hai

mươi triệu tấn không khí. Một cơn khác cũng đổ xuống Paris, ngày 23

tháng năm1865, một triệu sáu mươi vạn khối nước trong ba mươi phút. Và

bên cạnh những cơn gió châu Phi và châu á thì những cơn gió châu Âu

chẳng có nghĩa lý gì.” (tr.405).

“Trong khi chờ đợi, văn minh vẫn hành hạ người thuỷ thủ, thật là một

điều nhục nhã. Năm 1863, để chỉ kể năm ấy thôi, hải quân đã nhận hai vạn

năm nghìn năm trăm mười ba roi” (tr.407).

Điều quan trọng chính là câu chuyện luôn được kể trong một tâm thế

dường như toàn bộ mọi việc đã kết thúc, đã hoàn thành. Giống như trong

đoạn ngoại đề nổi tiếng về cảnh trận Waterloo của Những người khốn

khổ, mọi kết quả của trận đánh luôn được thông báo trước. Cốt truyện vì

vậy trở nên không còn quan trọng. Trong tiểu thuyết này, việc Victor Hugo

sử dụng các sơ đồ, các mẫu gốc quen thuộc có lẽ cũng là để thông báo một

cách gián tiếp rằng tất cả câu chuyện thực ra đã an bài ngay khi người kể

bắt đầu câu chuyện. Không gian và thời gian của truyện vì thế dù có những

chi tiết cụ thể theo kiểu truyện kể hiện đại vẫn làm cho người đọc dường

như thoát khỏi cái hiện tại để quay về với không khí cổ tích[6], và nhấn mạnh

tầm vóc sử thi của nhân vật Gilliatt. Cũng do đó mà câu chuyện tuy mang

cái không khí cao rộng của sử thi cổ sơ do cách khắc họa hình tượng các

nhân vật, trong đó chủ yếu là Gilliatt, nhưng không xa lạ với một người đọc

bình dân bởi những mẫu gốc, những sơ đồ kịch dân gian mà nhà văn đã

vận dụng vào trong sáng tác của mình. Như vậy đi kèm việc gia tăng ngoại

đề là giản lược cốt truyện. Đọc tiểu thuyết của Hugo, vì thế người ta có

quyền ước mơ nhưng không bị huyễn tưởng. Ít nhất là cho đến giờ, khi

người đọc Việt Nam có thể đối mặt trước nhiều cách tân thử nghiệm của

tiểu thuyết hiện đại phương Tây nhưng vẫn chưa hề cảm thấy sự cũ mòn

khi đọc những trang tiểu thuyết Hugo. Điều này quay lại chứng minh cho

chúng ta một lần nữa nhận định về vai trò của ảnh hưởng văn học dân gian

tới chủ nghĩa lãng mạn phương Tây thế kỷ XIX.

Hơn nữa, góp phần vào dấu ấn thời gian kiểu sử thi - công bằng mà

nói có thể Hugo không hẳn có ý thức làm điều đó - ông còn đẩy công việc

của Gilliatt ra xa khỏi thế giới của loài người, nơi chỉ có sóng và gió, đại

dương và đêm tối. Hành động của anh khép kín trong chính mình, và một

mình đối diện với biển cả. Hình tượng và tầm vóc nhân vật vì thế càng trở

nên kỳ vĩ theo kiểu sử thi. Dĩ nhiên điều này cũng phần nào có thể cắt nghĩa

từ việc xây dựng tình huống truyện. Chính do đó mà công việc của Gilliatt

mang dáng vẻ của một hành vi mang tính siêu nhiên hơn là việc cứu nạn

thông thường. Có thể nói chính ở đây lý thuyết tương đối của Einstein về

sự gắn bó của không gian và thời gian cũng phát huy tác dụng: hiệu quả

gián cách về không gian đã góp phần làm tăng thêm hiệu quả gián cách về

thời gian. Mặt khác, khi nghiên cứu về các hình thái truyện cổ tích,

V.I.Propp cũng nhận ra rằng, “bố cục câu chuyện (cổ tích - PNK chú thích)

được xây dựng trên sự thay đổi không gian của nhân vật. Bố cục đó không

chỉ đặc trưng trong các truyện cổ tích thần kỳ mà còn ở các sử thi

(Odyssée) và các tiểu thuyết khác”[7]. Câu chuyện này cũng có một nét

tương tự như thế. Trong truyện đôi khi có thể có những mốc thời gian sự

kiện như: “Một tuần trôi qua”, nhưng chắc chắn không ai chú ý tới. Điều mà

người đọc quan tâm là sự kế tiếp của các sự kiện liên quan tới nhân vật

Gilliatt tại không gian biển cả xa vời đó, chứ không phải là khoảng thời gian

cụ thể của việc cứu nạn.

6) Như vậy, bằng cách tận dụng lại các mẫu gốc quen thuộc trong

dân gian, lối sử dụng đậm đặc các trường đoạn trữ tình ngoại đề, lối kể

giãn cách các sự kiện trên trục thời gian trần thuật, Victor Hugo đã tạo nên

trong tiểu thuyết Những người lao động biển cả cảm nhận về một kiểu

nhịp điệu thời gian tương tự như trong các tác phẩm sử thi cổ đại: chậm rãi

và khoan thai. Điều đó không chỉ góp phần khắc họa tầm vóc các hình

tượng trong tiểu thuyết, mà còn phần nào lý giải kiểu nhân vật có đời sống

tâm lý đơn giản ở một nhà thơ từng đánh thức mọi cung bậc tình cảm tinh

tế, lãng mạn trong con người./.