KHAI THÁC NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ TÀI SẢN CÔNG PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI<br />
<br />
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ, KINH DOANH TÀI SẢN<br />
KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐƯỜNG SẮT<br />
ThS. TRẦN THỊ HỒNG NGA<br />
<br />
Kết cấu hạ tầng giao thông nói chung và hạ tầng đường sắt nói riêng đóng vai trò quan<br />
trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Một số nước đã thực<br />
hiện biện pháp quản lý tài chính theo hai xu hướng là quốc hữu hóa và tư nhân hóa tài sản<br />
kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt cũng như hoạt động vận tải hành khách và hàng<br />
hóa. Bài viết phản ánh kinh nghiệm quốc tế về quản lý, sử dụng và kinh doanh tài sản kết<br />
cấu hạ tầng đường sắt, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.<br />
<br />
Kinh nghiệm quản lý, sử dụng và kinh doanh<br />
tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt<br />
Tại các nước phát triển<br />
<br />
Là nơi khởi nguồn và phát triển của giao thông<br />
đường sắt từ đầu thế kỷ XIX, các nước phát triển như<br />
Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Canada và sau đó là các<br />
nước Australia, New Zealand đã có lịch sử lâu đời<br />
phát triển của ngành Đường sắt với những dấu mốc<br />
quan trọng, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của<br />
các quốc gia này. Ở châu Âu, chính sách đường sắt<br />
hướng tới cạnh tranh nội bộ ngành bằng cách phân<br />
tách quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng và dịch vụ<br />
vận tải (ít nhất là về hạch toán) và mở cửa cho các<br />
nhà khai thác mới.<br />
Trên giác độ quản lý tài chính, việc thay đổi chủ<br />
sở hữu đối với tài sản kết cấu hạ tầng cũng như hoạt<br />
động vận tải đã có những xu hướng khác nhau giữa<br />
các quốc gia. Hai xu hướng đó bao gồm, quốc hữu<br />
hóa và tư nhân hóa tài sản kết cấu hạ tầng giao thông<br />
đường sắt, cũng như hoạt động vận tải hành khách<br />
và hàng hóa.<br />
Thứ nhất, xu hướng quốc hữu hóa tài sản kết cấu hạ<br />
tầng giao thông đường sắt và vai trò của Nhà nước.<br />
Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia điển hình<br />
quốc hữu hóa tài sản kết cấu hạ tầng giao thông<br />
đường sắt. Nước Đức có hệ thống đường sắt phát<br />
triển và hiện đại bậc nhất thế giới. Theo số liệu của<br />
Hiệp hội Đường sắt quốc tế, hiện Đức có trên 41.315<br />
km đường sắt các loại. Các loại tàu ở Đức bao gồm:<br />
(1) Tàu chạy giữa các vùng và trong các thành phố;<br />
22<br />
<br />
(2) Tàu cao tốc (cao tốc quốc tế kết nối với các nước<br />
châu Âu khác, cao tốc trong nước giữa các vùng và<br />
thành phố trong nước Đức); (3) Tàu đêm.<br />
Về tổng thể, ngành Đường sắt là một trong những<br />
bộ phận của nền kinh tế Đức. Bộ Giao thông và hạ<br />
tầng được cơ cấu theo chức năng và sự phân chia<br />
các loại hình vận tải như hàng không, đường thủy<br />
và đường bộ. Cũng như nhiều quốc gia khác, đường<br />
sắt là một bộ phận của giao thông đường bộ. Quản<br />
lý đường sắt là Cơ quan quản lý Liên bang về tài sản<br />
đường sắt. Bên cạnh Cơ quan quản lý Liên bang về<br />
tài sản đường sắt, nước Đức còn có Cơ quan Quản lý<br />
đường sắt Liên bang, là đơn vị giám sát, cấp chứng<br />
nhận và đảm bảo an toàn cho đường sắt và sự vận<br />
hành của đường sắt.<br />
Hiện nay, hơn 2/3 hoạt động đường sắt nằm<br />
dưới sự quản lý của Cơ quan Quản lý đường sắt<br />
Liên bang. Mặc dù một số vùng/địa phương đặt<br />
dưới sự quản lý của chính quyền bang, trong nhiều<br />
trường hợp sự quản lý này lại thuộc Cơ quan quản<br />
lý Liên bang về tài sản đường sắt. Với sự cải tổ<br />
vào năm 1994, ngành Đường sắt của Cộng hòa Liên<br />
bang Đức về cơ bản đặt dưới sự quản lý chặt chẽ<br />
của Chính phủ.<br />
Ngoài ra, mô hình hoạt động của ngành Đường<br />
sắt ở các nước khác (Anh, Australia, Canada) cho<br />
thấy, đối với hoạt động vận hành hệ thống vận tải<br />
đường sắt đều do các công ty tư nhân đảm nhận;<br />
Quản lý và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao<br />
thông đường sắt lại do các công ty thuộc sở hữu nhà<br />
nước và hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận. Song<br />
<br />
TÀI CHÍNH - Tháng 5/2016<br />
song với đó, Chính phủ vẫn phải hỗ trợ tài chính cho<br />
hoạt động của ngành Đường sắt.<br />
Thứ hai, xu hướng tư nhân hóa và sự can thiệp của<br />
Nhà nước.<br />
Nếu như tại các nước Anh, Canada, Australia vai<br />
trò của Nhà nước trong những năm gần đây đã trở<br />
nên quan trọng do khu vực tư nhân gặp khó khăn,<br />
thì tại Nhật Bản hoạt động của ngành Đường sắt vẫn<br />
cho thấy hiệu quả dưới sự quản lý của hơn 100 công<br />
ty tư nhân. Nhờ sự phát triển vượt trội về khoa học<br />
công nghệ, mà quá trình tư nhân hóa ngành Đường<br />
sắt tại Nhật Bản diễn ra trong những năm 1990 đã<br />
thành công và duy trì cho đến ngày nay.<br />
Nhật Bản là nước có ngành Đường sắt phát triển<br />
bậc nhất châu Á với tổng chiều dài 27.226 km: Khu<br />
vực tư nhân đóng vai trò sở hữu, quản lý và khai<br />
thác tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt cũng như<br />
vận hành hoạt động của hệ thống đường sắt, cụ<br />
thể: (i) Ngày 01/4/1987, Luật Doanh nghiệp (DN)<br />
đường sắt Nhật Bản ra đời quy định DN phải có<br />
giấy phép để kinh doanh đường sắt. Giấy phép<br />
đường sắt được phân theo ba nhóm: Nhóm 1 - DN<br />
vận tải đồng thời quản lý kết cấu hạ tầng; Nhóm<br />
2 - DN vận tải sử dụng kết cấu hạ tầng thuộc sở<br />
hữu của tổ chức khác; Nhóm 3 - DN sở hữu kết cấu<br />
hạ tầng cho DN nhóm 2 thuê. Phần lớn các công<br />
ty đường sắt ở Nhật Bản thuộc DN nhóm 1, có rất<br />
ít các công ty đường sắt ở Nhật thuộc nhóm 2 và<br />
nhóm 3; (ii) Nhật Bản thực thi chính sách “chạy tàu<br />
tương hỗ”, tức là hình thức chạy tàu trong đó hai<br />
hoặc nhiều hơn các DN nhóm 1 phối hợp vận hành<br />
tàu qua lại một cách êm thuận và an toàn bằng cách<br />
đổi tài xế ở ga ranh giới.<br />
Sau tư nhân hóa, các Công ty Đường sắt Nhật<br />
Bản được phép kinh doanh bất kỳ ngành nghề nào<br />
Chính phủ không cấm. Kết quả là khối lượng vận<br />
tải hành khách, chất lượng dịch vụ không ngừng<br />
tăng lên, trong khi giá vé vẫn giữ ổn định. Đặc biệt,<br />
doanh thu từ kinh doanh ngoài vận tải của các công<br />
ty đường sắt Nhật Bản East, West và Central chiếm<br />
tới 35% tổng doanh thu. Đây là nguyên nhân chính<br />
cho thành công của quá trình cải tổ đường sắt ở<br />
Nhật Bản.<br />
Tại các nước đang phát triển<br />
<br />
Thái Lan<br />
Ngành Đường sắt Thái Lan có tổng chiều dài<br />
mạng đường sắt do đường sắt nhà nước Thái Lan<br />
quản lý là 4.429km khổ 1m với 3.677km đường đơn,<br />
359km đường đôi và đường ba. Với lịch sử phát triển<br />
từ năm 1895, ngành Đường sắt Thái Lan đã có nhiều<br />
đóng góp và sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy<br />
<br />
nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực<br />
Đông Nam Á và Đông Á năm 1997 - 1998 đã khiến<br />
cho ngành này bộc lộ những hạn chế:<br />
Thứ nhất, sự thiếu đồng bộ trong phát triển các<br />
loại hình vận tải của Thái Lan. Trong khi hệ thống<br />
đường bộ thu hút được phần lớn nguồn lực đầu tư<br />
cho giao thông vận tải, thì ngành Đường sắt không<br />
được chú trọng. Do không có tính kết nối, lại gặp<br />
phải sự cạnh tranh mạnh mẽ nên khối lượng hàng<br />
hóa vận tải bằng đường sắt đã sụt giảm nghiêm<br />
trọng, từ 9% tổng trọng lượng hàng hóa năm 2000<br />
xuống còn khoảng 2% năm 2010. Bên cạnh đó, chi<br />
phí vận tải hàng hóa nội địa bằng tàu hỏa của Thái<br />
Lan cao hơn gấp 2 lần so với Malaysia.<br />
Thứ hai, nguồn gốc từ vấn đề sở hữu và vai trò<br />
của Chính phủ. Ngành Đường sắt Thái Lan thuộc<br />
sở hữu nhà nước. Đối tượng hành khách chủ yếu<br />
là người dân có thu nhập trung bình hoặc thấp hơn<br />
(chiếm khoảng 90% hành khách sử dụng phương<br />
tiện tàu hỏa). Trong giai đoạn 1985 - 2005, giá vé<br />
tàu hỏa không được điều chỉnh, do đó Chính phủ<br />
phải bù lỗ 70% chi phí vận hành. Đến năm 2010, số<br />
nợ của Đường sắt nhà nước Thái Lan lên đến 3,2<br />
tỷ USD.<br />
Trước bối cảnh nợ nần và không có khả năng sinh<br />
lời, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện công cuộc cải<br />
cách đối với ngành Đường sắt. Theo đó, Đường sắt<br />
Nhà nước Thái Lan là cơ quan công bố chương trình<br />
cải cách ngành Đường sắt, với 7 giải pháp được xác<br />
định: Đường sắt Nhà nước Thái Lan cam kết phát<br />
triển quy hoạch mạng lưới phù hợp; thực hiện cắt<br />
giảm các chi phí mang tính trách nhiệm xã hội, thay<br />
vào đó tăng các khoản chi để nâng cao lợi thế cạnh<br />
tranh; thành lập các tổ chức thuộc sở hữu nhà nước<br />
để phát triển, quản lý và khai thác hạ tầng giao<br />
thông đường sắt; nâng cao vai trò của Nhà nước đối<br />
với quản lý và vận hành toa xe, đầu kéo và hệ thống<br />
đường ray; cam kết nâng cao đời sống của người lao<br />
động và đảm bảo vận hành an toàn hệ thống đường<br />
sắt quốc gia.<br />
Trên cơ sở các giải pháp được công bố, Chính phủ<br />
Thái Lan đã có những hành động cụ thể từ việc hình<br />
thành các cơ quan quản lý, bố trí các nguồn lực tài<br />
chính, thực hiện cấu trúc lại các khoản nợ và từng<br />
bước tháo gỡ khó khăn…<br />
Mặc dù, kết quả của cuộc cách mạng ngành<br />
Đường sắt Thái Lan chưa được công bố nhưng ghi<br />
nhận của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho<br />
thấy những bước đột phá của ngành Đường sắt nước<br />
này. Đó là, Chính phủ Thái Lan đã có những quyết<br />
tâm để đưa ngành Đường sắt từ chỗ trì trệ, nợ nần<br />
lên một vị thế có đủ khả năng cạnh tranh với các loại<br />
23<br />
<br />
KHAI THÁC NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ TÀI SẢN CÔNG PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI<br />
<br />
hình vận tài khác. Sự thay đổi đó chủ yếu thông qua<br />
các cơ chế và giải pháp quản lý tài chính phù hợp.<br />
Trung Quốc<br />
Tháng 3/2005, Bộ Đường sắt Trung Quốc giải<br />
thể 41 Phân cục đường sắt giao cho các Cục Đường<br />
sắt (theo khu vực) trực tiếp quản lý các ga (đoạn).<br />
Tháng 3/2013, Quốc vụ viện Trung Quốc phê duyệt<br />
kế hoạch cải cách đường sắt. Theo đó, giải thể Bộ<br />
Đường sắt; chức năng lập chính sách và kế hoạch<br />
giao cho Bộ Giao thông vận tải; chức năng hành<br />
chính khác giao cho Cục Đường sắt quốc gia; chức<br />
năng quản lý, khai thác, kinh doanh giao cho Tổng<br />
Công ty đường sắt Trung Quốc.<br />
<br />
Lịch sử phát triển ngành Đường sắt của các<br />
quốc gia đã chỉ ra với trình độ phát triển và quy<br />
mô của nền kinh tế hiện nay của Việt Nam, Nhà<br />
nước cần tiếp tục là đại diện chủ sở hữu thực<br />
hiện các dự án đầu tư, cung cấp các dịch vụ vận<br />
tải đường sắt và từng bước xây dựng cơ chế mở<br />
để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ xã hội.<br />
Cục Đường sắt quốc gia chịu trách nhiệm ban<br />
hành tiêu chuẩn kỹ thuật, giám sát công tác an toàn<br />
và chất lượng dịch vụ. Tổng Công ty đường sắt<br />
Trung Quốc trực thuộc Chính phủ, chịu trách nhiệm<br />
khai thác và quản lý mạng đường sắt quốc gia. Hiện<br />
phân cấp quản lý của Tổng Công ty đường sắt Trung<br />
Quốc gồm 3 cấp là Tổng Công ty, Cục Đường sắt<br />
(theo khu vực), Ga (đoạn). Hầu hết các cơ quan trước<br />
đây thuộc Bộ Đường sắt như: Viện Nghiên cứu, Nhà<br />
xuất bản... được sáp nhập vào Tổng công ty Đường<br />
sắt Trung Quốc. Tuy nhiên, Tổng công ty Đường sắt<br />
Trung Quốc không còn Cục Công an, Toà án, Viện<br />
kiểm sát của riêng đường sắt.<br />
Để giải quyết khó khăn, Trung Quốc theo đuổi<br />
chính sách đầu tư đối với các dự án hạ tầng giao<br />
thông đường sắt thông qua cơ chế xã hội hóa hoặc<br />
Chính phủ trực tiếp là chủ đầu tư. Trong khi đó,<br />
Tổng Công ty đường sắt Trung Quốc phải hoạt động<br />
với tư cách là một DN và theo đuổi các lợi ích mang<br />
tính thị trường.<br />
Như vậy, trên phương diện quản lý tài chính đối<br />
với phát triển mạng lưới đường sắt tại các quốc gia<br />
đang phát triển có thể thấy Nhà nước vẫn đang phải<br />
đảm nhận vai trò là nhà đầu tư chính trong bối cảnh<br />
nguồn lực tài chính còn hạn chế, các cơ chế thu hút<br />
vốn đầu tư từ khu vực tư nhân chưa phát huy được<br />
hiệu quả.<br />
<br />
Vấn đề đặt ra cho Việt Nam<br />
Nằm trong nhóm các nước đang phát triển,<br />
24<br />
<br />
Việt Nam có những đặc điểm tương đồng đối với<br />
các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước<br />
đang phát triển khác về quá trình phát triển ngành<br />
Đường sắt, đóng góp của loại hình vận tải này với<br />
nền kinh tế, cũng như tương lai còn nhiều khó<br />
khăn. Do đó, từ kinh nghiệm của các nhóm nước<br />
phát triển và đang phát triển trong quá trình quản<br />
lý, sử dụng và kinh doanh tài sản kết cấu hạ tầng<br />
đường sắt, Việt Nam có thể rút ra được một số bài<br />
học như sau:<br />
Thứ nhất, khẳng định vai trò của Nhà nước trên<br />
phương diện quản lý vĩ mô và nhà đầu tư đối với<br />
hạ tầng giao thông đường sắt. Lịch sử phát triển<br />
ngành Đường sắt của các quốc gia đã chỉ ra với<br />
trình độ phát triển và quy mô của nền kinh tế hiện<br />
nay của Việt Nam, Nhà nước cần tiếp tục là đại<br />
diện chủ sở hữu thực hiện các dự án đầu tư; cung<br />
cấp các dịch vụ vận tải đường sắt và từng bước xây<br />
dựng cơ chế mở, để thu hút các nguồn vốn đầu tư<br />
từ xã hội.<br />
Thứ hai, Bộ Giao thông Vận tải cần tiếp tục<br />
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với giao<br />
thông đường sắt. Đồng thời, nâng cao vai trò của<br />
Tổng công ty đường sắt Việt Nam và thu hút các<br />
DN tham gia vào thị trường đã theo đuổi các hoạt<br />
động kinh doanh vận tải vì mục tiêu lợi nhuận.<br />
Với bất cứ tổn thất doanh thu nào từ hoạt động<br />
cung cấp dịch vụ cho các nhóm cần hỗ trợ trong<br />
xã hội thì Chính phủ cần có biện pháp bù đắp<br />
thiếu hụt đó.<br />
Thứ ba, để vận hành đường sắt có hiệu quả,<br />
ngoài nguồn thu từ hoạt động kinh doanh vận tải<br />
như: Kinh doanh khu vực nhà ga, bãi hàng, kho<br />
hàng, du lịch, dịch vụ... cần kết hợp khai thác<br />
nguồn lực từ quỹ đất gắn với tài sản kết cấu hạ<br />
tầng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng doanh thu<br />
của đường sắt. Từ đó, tái đầu tư để nâng cao chất<br />
lượng dịch vụ vận tải, tạo thêm nguồn thu từ vận<br />
tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải. Để làm được việc này,<br />
Chính phủ cần ban hành cơ chế, khuôn khổ pháp<br />
luật liên quan để khai thác, kinh doanh tài sản kết<br />
cấu hạ tầng đường sắt không liên quan trực tiếp<br />
chạy tàu gắn với quỹ đất để tăng nguồn thu từ tài<br />
sản kết cấu hạ tầng đường sắt hỗ trợ cho công tác<br />
duy tu, bảo dưỡng hạ tầng đường sắt.<br />
Thứ tư, bên cạnh việc sử dụng các nguồn vốn của<br />
Nhà nước, cần có cơ chế thu hút các nguồn vốn xã<br />
hội hóa để thực hiện đầu tư, phát triển tài sản kết<br />
cấu hạ tầng giao thông đường sắt. Nhà nước tạo môi<br />
trường đầu tư thuận lợi nhất, để giải phóng nguồn<br />
lực và thu hút sự tham gia của các thành phần, lực<br />
lượng khác trong xã hội.<br />
<br />