intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh tế môi trường - kinh nghiệm giảng dạy để hướng tới phát triển bền vững ở thế kỷ 21

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

13
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Kinh tế môi trường - kinh nghiệm giảng dạy để hướng tới phát triển bền vững ở thế kỷ 21 trình bày sự khác biệt giữa kinh tế môi trường tân cổ điển, kinh tế sinh thái và kinh tế học bền vững.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh tế môi trường - kinh nghiệm giảng dạy để hướng tới phát triển bền vững ở thế kỷ 21

  1. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3 KINH TẾ MÔI TRƯỜNG - KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY ĐỂ HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở THẾ KỶ 21 Nguyễn Trung Dũng Trường Đại học Thủy lợi, email dzung_nguyen_ktcs@tlu.edu.vn 1. GIỚI THIỆU CHUNG hiện nay, và đề ra chính sách giải quyết. Trong bài này, tác giả – dựa vào kiến thức và Trong một lần trao đổi kinh nghiệm giảng dạy môn Kinh tế môi trường với hai đồng kinh nghiệm của bản thân trong 10 năm giảng dạy cao học và đại học môn học này ở nghiệp của một trường đại học phía nam. Theo các thày cô, môn học này chỉ toàn cung Đại học Thủy lợi (TLU) cũng như trong vai cấp những kiến thức mà không còn thích hợp trò của một thành viên tích cực trong mạng với thực trạng về ô nhiễm môi trường và cạn lưới "Kinh tế học bền vững" (Sustainable kiệt tài nguyên hiện đang diễn ra (theo kiểu: Economics) theo sáng kiến của Đại học kinh tế và luật Berlin (Đức) – giải thích vì sao cần cung nặng hàn lâm trong khi cầu cần thứ khác để giải quyết vấn đề). Đúng vậy, những phải lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp để hướng tới nhu cầu thực tiễn trong phát kiến thức của "Kinh tế môi trường tân cổ điển" mà họ đang giảng dạy, dù có dùng giáo triển bền vững của thế kỷ 21. trình mới của Anh Quốc, Úc hay Hoa Kỳ, thì 2. KHÁC BIỆT GIỮA KINH TẾ MÔI chỉ phù hợp cho giai đoạn "khai sáng" của TRƯỜNG TÂN CỔ ĐIỂN, KINH TẾ SINH những năm 1970, 1980 và đầu 1990. Theo THÁI VÀ KINH TẾ HỌC BỀN VỮNG Rogall (2018) thì trong vài năm gần đây các cuốn sách Kinh tế môi trường có dành một Trước hết có 3 nhóm nguyên nhân gây ra ô hoặc hai chương nói về tăng trưởng kinh tế nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên và phát triển bền vững theo trào lưu chung, thiên nhiên (Rogall, 2018) là: nhưng không đi vào bản chất của vấn đề và (1) Những yếu tố kinh tế - xã hội: như có tính bền vững yếu. Chẳng riêng gì các ngoại ứng, đối xử môi trường như hàng hóa thày cô, mà nhiều đồng nghiệp khác ở trong công cộng, chiết khấu thiệt hại trong tương và ngoài nước có cùng ý kiến. Hệ quả là khi lai, tình trạng tiến thoái lưỡng nan của người học, sinh viên vẫn loanh quanh giải những tù, vấn đề "ăn không"; bài tập kinh tế vi mô liên quan với ngoại ứng (2) Những yếu tố do hệ thống phát triển: môi trường, đàm phán khi ô nhiễm môi như gia tăng dân số, tăng trưởng kinh tế theo trường xảy ra dựa vào quyền tài sản (được hàm mũ, tối đa hóa lợi nhuận và tích lũy vốn, phép phát thải hay phải mua quyền phát thất bại về chính sách, phát triển công nghệ, ô thải/thuộc về bên chịu ô nhiễm), xác định nhiễm môi trường do nghèo đói (đặc biệt ở mức ô nhiễm tối ưu và đánh giá thiệt hại môi các nước đang phát triển). trường. Thậm chí còn yêu cầu sinh viên phải (3) Tâm lý môi trường: làm rõ sự khác biệt giải những bài toán kinh tế vi mô phức tạp, giữa kiến thức/nhận thức và hành vi (thực tối ưu ô nhiễm… với kết quả phải chính xác hành) môi trường. Mục tiêu của tâm lý môi sau dấu phẩy. Với những kiến thức này, trường là đưa ra các biện pháp nhằm tác động người học không thể lý giải nổi những vấn đề đến hành vi của người tiêu dùng và khuyến ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên khích các hành động vì môi trường. 411
  2. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3 Trên cơ sở đó chúng ta phân biệt những cổ điển bị chỉ trích quá nhiều. Đầu tiên ở Hoa trường phái môn học với trọng tâm về kinh tế Kỳ và năm 1987 thì Hiệp hội Kinh tế sinh môi trường như sau: thái quốc tế (ISEE) được thành lập. Từ năm a) Kinh tế môi trường tân cổ điển, hiện 1989 thì nhiều ấn phẩm và tạp chí về Kinh tế đang được giảng dạy ở nhiều trường đại học. sinh thái được xuất bản. Những nhà tiền bối Nó dựa vào những giả thiết chính của Kinh tế quan trọng nhất trong cách tiếp cận Kinh tế học tân cổ điển là: (1) Con người kinh tế sinh thái là: Boulding, K. (1966), Ehrlich, P (Homo Eonomiscus) luôn lấy mục tiêu kinh (1970), Georgescu-Roegen, N. (1971), tế để xem xét các hành vi, (2) Tính độc lập/ Meadows, D. (1972), Herman, D. (1973, thượng tôn của người tiêu dùng (consumer 1991, 1999), Costanza, R. (1987, 2001), sovereignty), (3) Nhu cầu vô hạn của con Barbier, E. (1989), Pearce, D. (1989) và người, trong khi các yếu tố sản xuất, tài Faber, M. et al. (1998), Bartmann, H. (1996), nguyên thiên nhiên thì hữu hạn, (4) Các hoạt Binswanger, H.C. (1979, 1981) nhiều tác giả động diễn ra trên thị trường bao giờ cũng dẫn khác. Bốn yếu tố cốt lõi của Kinh tế sinh thái đến tối ưu cho tất cả cá nhân tham gia, và (5) là: (1) Đại diện cho quan điểm Trái đất là Phúc lợi xã hội là tổng phúc lợi cá nhân. một hệ thống nhiệt động học đóng, vật chất Cuối những năm 1960, Kinh tế môi trường không tăng, trong đó nền kinh tế là một hệ tân cổ điển sơ khai hình thành như một phần thống con; (2) Phải phấn đấu để đạt được của Kinh tế học ở một vài trường đại học lớn mẫu hình chủ đạo về hệ thống xã hội bền trên thế giới. Sang những năm 1970 thì môn vững với chất lượng cuộc sống cao cho tất cả học đã có hình hài rõ hơn, được coi là môn mọi người, song phải trong khuôn khổ giới học độc lập. Thất bại thị trường (do phân bổ hạn thiên nhiên; (3) Kinh tế sinh thái thừa sai) được giải thích là do ngoại ứng (vấn đề nhận việc phân tích hệ thống rất phức tạp và chuyển sang chi phí xã hội), vấn đề hàng hóa mang tính bất an toàn cao. Do vậy yêu cầu công cộng và các yếu tố kinh tế - xã hội khác. phòng ngừa cao; (4) Cần có thể chế và chính Do vậy, việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên sách chỉ đạo tốt hơn là việc ứng phó. được coi là một vấn đề kinh tế thuần túy. Nội c) Kinh tế học bền vững đang trong giai dung chính của môn học là tính toán "ô đoạn phát triển. Từ cuối những năm 1990, nhiễm môi trường tối ưu", lượng hóa bằng trường Đại học khoa học ứng dụng về kinh tế tiền các chi phí thiệt hại môi trường và chi và luật Berlin (trước đây là FHW, nay là phí tránh xả / phát thải ra môi trường làm cơ HWR Berlin) đã nghiên cứu cơ sở nền tảng sở để nội hóa chi phí ngoại ứng, thuế môi cho Kinh tế học bền vững (trước đây còn gọi trường Pigou. Trong khuôn khổ của Kinh tế là Kinh tế môi trường mới). Năm 2009 thì tài nguyên thì tính toán để đảm bảo phân bổ xuất bản ấn phẩm đầu tiên là cuốn sách tối ưu (sử dụng và tiêu thụ) tài nguyên thiên "Kinh tế học bền vững". Cuốn sách tóm tắt nhiên trong khoảng thời gian nhất định. Các những điều kiện cơ bản của trường phái kinh tác giả quan trọng đầu tiên có thể kể đến: ở tế mới (Rogall 2009) và sau đó đã được dịch Đức là Frey, B.S. (1972), Kneese, A. (1977), ra nhiều thứ tiếng. Kinh tế học bền vững (một Siebert, H. (1978), Wicke, L. (1993); Endres, số tác giả còn gọi là Lý thuyết kinh tế bền A. (2007); ở Hoa Kỳ và Anh là Pearce, W.D vững hoặc Kinh tế học cho phát triển bền & Turner, R.K (1990), Field, B.C & Field, vững) được định nghĩa là "Lý thuyết kinh tế K.M (1996) và nhiều tác giả khác. Đến nay cho phát triển bền vững, trong đó có tính đến thì các học trò của trường phái này khá đông. những cơ sở liên ngành" (Rogall 2012: 124). Đầu những năm 2000, các tác giả nêu trên đã Trường phái kinh tế mới này đã được phát tái bản mở rộng phần lý thuyết với tăng triển từ kinh tế học (ví dụ Kinh tế học cổ trưởng kinh tế, kinh tế chính trị, chính sách điển, chủ nghĩa Keynes và Kinh tế học hành và phát triển bền vững. vi) và kết hợp với các bộ môn của khoa học b) Kinh tế sinh thái xuất hiện từ giữa bền vững (đặc biệt là Kinh tế sinh thái). những năm 1980 khi Kinh tế môi trường tân Trong đó Kinh tế học bền vững vượt ra ngoài 412
  3. Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3 những chủ đề nghiên cứu của Kinh tế sinh ông Trần Hồng Hà, khi đó là thứ trưởng thái. Để gìn giữ các điều kiện liên ngành (cơ MONRE, đánh giá cao vì đến nay chưa có sở về kinh tế, chính trị / chính sách, đạo đức, cuốn sách nào viết một cách khoa học và kỹ thuật) của một quản lý kinh tế bền vững tổng hợp như vậy. Bên cạnh việc giải thích với các nguyên tắc cơ bản của nó (công bằng kỹ lưỡng thì đưa ra nhiều kinh nghiệm và ý nội và ngoại thế hệ, trách nhiệm/nghĩa vụ, tưởng giải quyết các vấn đề trong thực tế. bền vững), thì Kinh tế học bền vững nghiên Ông mong rằng có nhiều cán bộ của MONRE cứu không chỉ các vấn đề môi trường sinh đọc để có những quyết sách thích hợp (phát thái mà được xem như một lý thuyết kinh tế biểu năm 2011). Học viên cao học đang làm bền vững toàn diện. Về mặt này, Kinh tế học việc với môi trường và tài nguyên thì cho bền vững có thể được coi là một phát triển rằng cuốn sách là cẩm nang tốt, qua nghiên nhất quán tiếp theo của Kinh tế sinh thái. cứu thì rút ra nhiều hướng giải quyết. Trọng tâm ở đây là những câu hỏi về các chuẩn mực kinh tế, sinh thái và văn hóa - xã 3. KẾT LUẬN hội đủ cao để có thể đạt được nằm trong Trong 10 năm giảng dạy môn học - Ban những giới hạn về khả năng chịu tải của đầu với sự hỗ trợ chuyên môn của dự án thiên nhiên cũng như thực thi nguyên tắc công bằng nội và ngoại thế hệ (định nghĩa về DANIDA (Tăng cường năng lực đào tạo cho quản lý kinh tế bền vững). Một yếu tố thiết TLU của chính phủ Đan Mạch 2000-06), sau yếu ở đây là xây dựng các điều kiện cho một đó đã tham khảo thêm gần 10 cuốn sách của nền kinh tế theo các nguyên tắc của một sự Anh, Hoa Kỳ và Đức, và bài giảng của các phát triển bền vững, cũng như xây dựng các trường cũng như liên hệ trực tiếp với các mục tiêu và công cụ thực thi. Song song với giảng viên để xin tài liệu – thì đến nay có thể việc viết sách giáo khoa nói trên thì mạng khẳng định, nội dung giảng dạy môn học này lưới Kinh tế học bền vững được hình thành ở TLU có màu sắc riêng, tương đồng với nội để cải tổ Kinh tế học truyền thống theo dung giảng dạy ở Đại học kinh tế và luật hướng của Kinh tế học bền vững. Hiện nay, Berlin (Đức) và một vài trường khác ở Đức mạng lưới có khoảng 400 thành viên, trong và có hiệu quả so với một số trường khác: đó có 200 giảng viên và các nhà khoa học nổi 50% kiến thức chung của môn học bắt buộc tiếng. Hợp tác với Hiệp hội Bền vững của (theo Kinh tế môi trường tân cổ điển), còn lại Đức (GfN) hình thành một ban biên tập với là kiến thức mở rộng của Kinh tế học bền sự hỗ trợ của ban cố vấn khoa học và hàng vững cũng như những ví dụ thực tế sinh năm xuất bản tạp chí năm về Kinh tế học bền vững. Ở các một số đại học như Berlin, động. Nếu Kinh tế môi trường tân cổ điển đi Münster, Bochum, Constance đã thành lập bộ từ thế "bị động" mang tính khắc phục ô môn Kinh tế học bền vững. Cuốn sách Kinh nhiễm môi trường, thì Kinh tế học bền vững tế học bền vững tái in lần thứ 1 đã được dịch đi ngược lại, nghĩa là xuất phát từ thế "chủ sang tiếng Việt. Tái bản lần thứ 3 gồm 2 tập, động", phòng xa ngăn ngừa để giải quyết vấn mỗi tập 600-700 trang, chuẩn bị xuất bản. đề ô nhiễm và chất thải. Nó là lát cắt tốt giữa Cuốn sách đã được gửi tặng Bộ Tài nguyên Kinh tế, xã hội, chính trị/ chính sách, hệ sinh và Môi trường (MONRE), các thư viện lớn thái môi trường và kỹ thuật môi trường. của các trường đại học trong toàn quốc. Từ năm 2011 nó được dùng làm tài liệu giảng 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO dạy cho môn "Kinh tế môi trường và chính [1] Rogall, H. (2011 & 2018): Kinh tế học bền sách" ở TLU với 3 tín chỉ cho các lớp của vững (Sus tainable Economics), dịch từ tiếng ngành kỹ thuật môi trường (khoa Môi Đức, NXB KHTN và công nghệ. trường) và cho các lớp cao học của chuyên [2] Nhiều tài liệu khác. ngành "Kinh tế/ Quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường". Cuốn sách này được 413
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2