Kỷ yếu Hội thảo khoa học sinh viên khoa Ngân hàng 2014-2015: Chính sách tiền tệ - tín dụng – ngân hàng đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì lạm phát thấp
lượt xem 6
download
Kỷ yếu Hội thảo khoa học sinh viên khoa Ngân hàng 2014-2015: Chính sách tiền tệ - tín dụng – ngân hàng đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì lạm phát thấp trình bày các nội dung chính sau: Kiểm soát linh hoạt mức cung tiền trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2014; Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN VN giai đoạn 2011-2014; Đánh giá việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam giai đoạn từ 2011 đến nay;...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kỷ yếu Hội thảo khoa học sinh viên khoa Ngân hàng 2014-2015: Chính sách tiền tệ - tín dụng – ngân hàng đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững và duy trì lạm phát thấp
- HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA NGÂN HÀNG ~~~~~~*~~~~~~ KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA NGÂN HÀNG 2014-2015 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ - TÍN DỤNG – NGÂN HÀNG ĐẢM BẢO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG VÀ DUY TRÌ LẠM PHÁT THẤP HÀ NỘI – 04/2015
- 1 TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2014 Phạm Thị Linh, K15-NHB Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Do vậy tỷ giá hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giao lưu thương mại với các quốc gia khác. Việc điều tiết tỷ giá hợp lý sẽ tạo ra những lợi thế cạnh tranh nhất định cho hàng hóa trong nước, giúp cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia. Do vậy chính sách tỷ giá là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Mỗi một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái luôn kéo theo những sự thay đổi trong giá cả hàng hóa, cán cân thương mại, cán cân thanh toán từ đó tác động đến chỉ tiêu lạm phát trong nước. Trong thời gian qua, NHNN Việt Nam đã điều tiết tỷ giá hết sức linh hoạt góp phần hạn chế đáng kể tình trạng đôla hóa, nâng cao niềm tin của người dân Việt Nam vào đồng nội tệ. Chính vì vậy việc nghiên cứu các tác động của tỷ giá hối đoái tới lạm phát là hết sức cần thiết. Do vậy, em đã chọn đề tài: “Tác động của tỷ giá hối đoái tới lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2008-2014” để nghiên cứu. I. Cơ sở lý thuyết 1. Khái niệm 1.1. Chính sách tỷ giá Theo luật NHNN Việt Nam, năm 2010: “Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam.”Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác. Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế của quốc gia. Tại Việt Nam, chính sách tỷ giá có thể coi là một thành phần trong chính sách tiền tệ, bao gồm việc lựa chọn chế độ tỷ giá, các công cụ can thiệp và điều tiết tỷ giá (như mua
- 2 bán ngoại hối, điều chỉnh lãi suất, xác lập biên độ dao động tỷ giá, phá giá/nâng giá đồng nội tệ, sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối v.v…) để tác động đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối và đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền; khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và góp phần vào tăng trưởng kinh tế. 1.2. Lạm phát Hiện nay, có nhiều khái niệm về lạm phát, tuy nhiên các định nghĩa về lạm phát được đưa ra thường tiếp cận từ hai khía cạnh chủ yếu: Xuất phát từ việc xem xét nguyên nhân của lạm phát: “lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá nhiều hàng” hay “lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh năng suất lao động” Xuất phát từ những ảnh hưởng của lạm phát và cũng là cách hiểu phổ biến về lạm phát hiện nay: “lạm phát là sự gia tăng mức giá cả chung của hàng hóa dịch vụ theo thời gian”. Sự tăng giá mới chỉ là thể hiện hình thức biểu hiện của lạm phát. Bản chất của lạm phát thể hiện ở tính chất của sự tăng giá: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài 2. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát Chính sách tỷ giá và lạm phát có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, song hành với những sự biến động tỷ giá luôn kéo theo những sự thay đổi của lạm phát. Tuy nhiên tỷ giá không trực tiếp tác động đến lạm phát mà chỉ gián tiếp tác động thông qua 3 kênh chính là xuất nhập khẩu ròng, cán cân thanh toán và giá hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên, việc tác động của tỷ giá đến lạm phát thông qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế thì mọi nền kinh tế mở đều tuân theo, nhưng riêng với giá hàng nhập khẩu thì chỉ có những quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu cao so với GDP mới có tác dụng rõ rệt. Tổng cầu nền Xuất khẩu ròng kinh tế (AD) Tỷ giá Cán cân thanh Mức cung tiền Lạm phát danh nghĩa toán (BP) (M2)
- 3 Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất nhập khẩu ròng. Khi tỷ giá E tăng lên (nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài) làm giá hàng hóa xuất khẩu giảm, giúp tăng cường sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia, tăng số lượng hàng hóa xuất khẩu. Nếu tốc độ tăng của số lượng hàng hóa nhanh hơn tốc độ giảm giá hàng hóa, xuất khẩu ròng sẽ tăng lên, tổng cầu của nền kinh tế (AD) tăng lên, đường AD dịch chuyển sang phải trong mô hình AD-AS, làm giá hàng hóa tăng lên tác động làm lạm phát gia tăng. Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát thông qua cán cân thanh toán. Khi nội tệ giảm giá so với ngoại tệ, cán cân thương mại sẽ được cải thiện do xuất nhập khẩu ròng tăng lên. Xuất nhập khẩu ròng tăng làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Mặt khác, cán cân thương mại được cải thiện tác động làm đường IS dịch chuyển sang phải trên mô hình IS-LM, lãi suất trong nước tăng lên, luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào trong nền kinh tế nhiều hơn, thêm một tác động nữa làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra: Một là NHTW muốn giữ cho tỷ giá thấp nhằm duy trì lợi thế về cạnh tranh thương mại cho quốc gia, khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, đồng thời gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Như vậy, NHTW buộc phải mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đồng nghĩa với việc có thêm một lượng nội tệ được đưa vào lưu thông. Lượng cung tiền tăng lên làm cho lạm phát sẽ tăng lên. Hai là, NHTW không vì mục tiêu giữ cho đồng nội tệ được định giá thấp khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu và ngoại hối đã đủ mức cần thiết thì vẫn có một lượng ngoại tệ được đưa thêm vào nền kinh tế. Với những nền kinh tế bị đôla hóa ở mức cao tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế vãn tăng lên và tạo áp lực đẩy lạm phát tăng lên. Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát thông qua giá hàng nhập khẩu. Hàng hóa nhập khẩu vào trong nước bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố là giá hàng nhập khẩu và tỷ giá danh nghĩa. Khi tỷ giá danh nghĩa tăng làm cho giá hàng hóa nhập khẩu cũng tăng theo và ngược lại. Nếu hàng nhập khẩu là các nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất thì sẽ làm cho chi phí của doanh nhiệp bị đẩy lên cao, khiến sản phẩm đầu ra cũng tăng giá dẫn tới lạm phát chi phí đẩy. Nếu hàng nhập khẩu phục vụ mục đích tiêu dùng trong nước thì
- 4 tỷ giá tăng cũng khiến cho giá cả hàng hóa tính bằng nội tệ bị đẩy lên đây cũng chính là nguyên nhân gây ra lạm phát.Tuy nhiên, ảnh hưởng này chỉ rõ rệt đối với những nước có tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu cao, còn với những nước có tỷ trọng hàng nhập khẩu thấp thì tác động này là không đáng kể. Ngoài ba kênh dẫn truyền trên lãi suất nội tệ cũng tác động tới lạm phát kỳ vọng. Trên cơ sở xác định lãi suất là kỳ vọng trung bình của nhà đầu tư về lạm phát và lãi suất thực dương. Việc điều chỉnh tỷ giá liên lục của NHTW có thể khiến cho lãi suất huy động bằng nội tệ tăng cao, đẫn đến nhà đầu tư và dân chúng kỳ vọng nội tệ sẽ giảm giá trong tương lai, gây ra vòng xoáy lạm phát- tỷ giá. II. Thực trạng tác động của tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008-2014 Đồ thị 1: Lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2008- 2014 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam Trong giai đoạn 2008-2014, lạm phát của Việt Nam có những biến động rất mạnh. Lạm phát hai lần đạt đỉnh điểm ở mức hai con số là 22.97% vào năm 2008 và 18,75% vào năm 2011. Từ năm 2008 đến năm 2011 lạm phát dao động mạnh và có xu hướng đảo chiều liên tục. Tuy nhiên, kể từ năm 2011 trở đi lạm phát đã giảm nhẹ và xu hướng ổn định trở lại. Sự thay đổi tích cực này một phần là nhờ sự thay đổi đáng kể trong cơ chế điều chỉnh tỷ giá của NHNN từ cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh sang cơ chế neo tỷ giá cố định. Do vậy, tác động cụ thể của tỷ giá hối đoái tới lạm phát được trình bày qua hai giai đoạn “từ 2008 đến 2011” và “từ 2012 đến 2014”.
- 5 1. Giai đoạn 2008-2011 Đồ thị 2: Chỉ số lạm phát và tỷ giá bình quân liên ngân hàng giai đoạn 2008-2011 Nguồn: http://www.sbv.gov.vn và http://www.gso.gov.vn Bảng 1: Các lần điều chỉnh biên độ tỷ giá giai đoạn 2008- 2011 Thời gian Biên độ tỷ giá 23/12/2008 đến 09/03/2008 +/- 0,75% 10/03/2008 đến 25/06/2008 +/- 1% 26/05/2008 đến 05/11/2008 +/- 2% 06/11/2008 đến 23/03/2009 +/- 3% 24/03/2008 đến 25/11/2009 +/- 5% 26/11/2009 đến 11/02/2011 +/- 3% Từ 11/02/2011 +/- 1% Nguồn: http://www.sbv.gov.vn Trong giai đoạn 2008-2011 tỷ giá USD/VND có những biến động phức tạp và khó lường. Năm 2008 chứng kiến những biến động đảo chiều mạnh mẽ của tỷ giá, đầu năm tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm từ mức 16.112 đồng xuống còn 15.960 đồng, trên thị trường tự do USD cũng dao động từ mức 15.700-16.000 đồng. Nguyên nhân là do nguồn cung ngoại tệ từ các dòng vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Mặc dù tỷ giá giảm nhưng trong 4 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tăng vọt đạt đỉnh
- 6 điểm vào tháng 2 với mức tăng 3,96% so với tháng 1. Ảnh hưởng của tỷ giá đến lạm phát thời điểm này không rõ rệt vì trong giai đoạn này giá lương thực tăng cao do khủng hoảng lương thực dẫn đến lạm phát tăng mạnh. Trong những tháng tiếp theo, tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân tạo nên tình trạng găm giữ ngoại tệ cùng với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài đột ngột đảo chiều đã tạo nên cơn sốt USD trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do. Tỷ giá đã tăng chóng mặt đỉnh điểm lên tới 19.400 đồng/USD. Tỷ giá tăng, đồng thời giá xăng dầu cũng tăng đã làm ảnh hưởng tới chi phí của hàng loạt doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, dẫn tới giá cả của hàng loạt mặt hàng tăng lên. Cùng với ảnh hưởng của giá lương thực tăng chưa chấm dứt, chỉ số CPI tiếp tục có đợt leo dốc, CPI tháng 8 tăng 1,56% so với tháng 7. Sau đó nhờ sự can thiệp của NHNN bằng các biện pháp như công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD, kiểm soát chặt việc thu đổi ngoại tệ, tỷ giá đã ổn định trở lại quanh mức 16.600 đồng. Cuối năm 2008, tỷ giá tăng trở lại 17.400 đồng do nhu cầu mua USD tăng lên của nhà đầu tư ngoại. Kết thúc năm 2008, lạm phát của Việt Nam ở mức cao kỷ lục 19,89% so với tháng 12/2007, điều này đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ tới niềm tin của người dân vào đồng nội tệ, dẫn tới việc dân chúng cũng như doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ đây là yếu tố chính khiến cho tỷ giá tăng trong năm 2009. Bước sang năm 2009, tỷ giá USD/VND lại tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên thị trường tự do tiến sát mức 18.000 đồng. Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, chính phủ đã thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế như gói kích cầu 1 tỷ USD thông qua việc hỗ trợ lãi suất vay ngắn hạn 4% cho doanh nghiệp làm tăng cung tiền, lượng kiều hối kém khả quan làm giảm cung USD trên thị trường ngoại hối dẫn đến tỷ giá tăng. Cuối năm 2009, tỷ giá ổn định về mức 18.500 đồng. Mặc dù VND mất giá so với USD, tuy nhiên đồng USD cũng bị suy yếu do khủng hoảng, cán cân thương mại của Việt Nam năm 2009 bị thâm hụt 12 tỷ USD. Trong khi cung tiền tăng, tỷ giá tăng nhưng lạm phát của Việt Nam năm 2009 chỉ ở mức 6.68%, một phần do giá lương thực ổn định trở lại, một phần do việc ảnh hưởng của gia tăng cung tiền đến lạm phát phải có độ trễ nhất định. Ngày 10/2/2010, NHNN công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND tăng hơn 3% so với trước đó, đưa mức giá trần theo quy định lên 19.100 VND/USD. Chính nguyên nhân
- 7 này cộng hưởng với việc giá xăng dầu, giá điện nước cùng tăng giá khiến cho CPI tháng 3/2010 tăng 4,12% so với năm 2009. Trong 5 tháng tiếp theo, chỉ số giá tiêu dùng tăng rất thấp có khi về sát mức 0% nhờ hiệu quả của các chính sách vĩ mô như việc sử dụng tốt quỹ bình ổn giá xăng dầu. Ngày 18/8, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 18.932 đồng/USD (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên độ tỷ giá +/-3%. Tỷ giá tăng cùng với tác động của việc tăng trưởng cung tiền trong năm 2009 phát huy tác dụng đẩy lạm phát 3 tháng cuối năm 2010 leo dốc, chỉ số CPI tháng 12 tăng 11,75% so với cùng kỳ năm 2009. Năm 2011, do áp lực từ lạm phát cùng yếu tố tâm lý thị trường khi NHNN chưa điều chỉnh tỷ giá thì các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như người dân tìm cách găm giữ USD, tháng 2 NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 8.5% từ 18.932 lên 20.693 đồng, và biên độ dao động giảm từ +/-3% xuống còn +/-1%. Sau quyết định này NHNN tiếp tục nâng lãi suát tái cấp vốn thêm 2% lên mức 11% thể hiện quyết tâm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Kết quả lạm phát đã có xu hướng tăng chậm lại ở mức trên dưới 2% trong những tháng tiếp theo. Trong năm NHNN cũng ban hành khá nhiều biện pháp quyết liệt để giữ ổn định tỷ giá như kiểm soát chặt chẽ thị trường tự do, đưa ra thông điệp cam kết điều chỉnh tỷ giá USD/VND không quá 1% từ tháng 9 cho đến hết năm. Các biện pháp của NHNN đã cho những kết quả tích cực khi đã góp phần ổn định tỷ giá cuối năm 2011 và những tháng đầu năm 2012. Tỷ giá USD/VND trong giai đoạn này có những biến động rất mạnh, cuối năm 2011 tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã tăng tới 22,27% so với thời điểm năm 2008. Biên độ tỷ giá cũng được điều chỉnh tới 7 lần trong bốn năm. Đồng VND mất giá mạnh so với USD đã khiến giá nguyên liệu đầu vào nhập khẩu của nhiều ngành sản xuất tăng nhanh, tạo áp lực lạm phát chi phí đẩy. Thêm vào đó lòng tin của người dân vào đồng nội tệ suy giảm dẫn đến việc luôn kỳ vọng vào sự mất giá của VND làm tình hình lạm phát thêm trầm trọng. 2. Giai đoạn 2012-2014
- 8 Đồ thị 3: Chỉ số lạm phát và tỷ giá bình quân liên ngân hàng 2012-2014 Nguồn: http://www.sbv.gov.vn/ và http://www.gso.gov.vn Năm 2012, tỷ giá USD/VND khá ổn định nhờ sự điều hành rất thành công chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam. Đầu năm 2012, NHNN đưa ra cam kết mạnh mẽ sẽ không điều chỉnh quá 2-3% trong cả năm. Nửa đầu năm 2012, tỷ giá khá ổn định với chiều hướng tăng nhẹ 0.55%, tỷ giá giao dịch ở các NHTM ở mức 20.860 - 20.920 VND/USD. Nhờ tỷ giá ổn định mà CPI trong 6 tháng đầu năm tăng rất chậm thậm chí tháng 6 và tháng 7 còn ở mức -0.26% và -0.29%. Nửa cuối năm 2012, tỷ giá có xu hướng giảm nhẹ và chênh lệch giữa thị trường chính thức và thị trường tự do thu hẹp lại chỉ còn 70 VND/USD. Theo đó, lạm phát trong những tháng cuối năm có xu hướng tăng nhẹ lạm phát tháng 9/2012 ở mức 2,2% sau đó hạ nhiệt trong những tháng tiếp theo. Kết thúc năm 2012, lạm phát tháng 12 ở mức 6,81% đạt mục tiêu của Quốc hội đề ra đầu năm. Tiếp tục những kết quả khả quan đã đạt được trong năm 2012, năm 2013 NHNN tiếp tục đưa ra cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 2-3%. Việc đưa ra thông điệp tỷ giá rõ ràng ngay từ đầu năm đã giúp các tổ chức kinh tế và cá nhân tránh được một trong những rủi ro lớn nhất là bất ổn tỷ giá thường ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị VND, qua đó ảnh hưởng đến giá cả các mặt hàng và tác động tâm lý. NHNN đã điều chỉnh tỷ giá dựa trên việc tính toán tỷ giá thực, chủ yếu dựa trên cán cân thanh toán quốc tế và mục tiêu chính sách tiền tệ, đưa ra mức lãi suất có lợi cho người gửi VND, giúp hạn chế tình trạng găm
- 9 giữ ngoại tệ trong dân chúng. Giữa năm 2013, lãi suất VND tiếp tục có xu hướng hạ xuống, trong khi thị trường ngoại tệ có những diễn biến bất thường, giá vàng thế giới giảm đã khiến cho dân chúng lại tiếp tục găm giữ USD, tạo áp lực tỷ giá tăng, ngày 28/6/2013 NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 20.828 VND/USD tăng 1% lên mức 21.036 VND/USD. Năm 2013, lạm phát của Việt Nam chỉ còn 6,6%, mức lạm phát thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Diễn biến tỷ giá năm 2014 lại tiếp tục ổn định nhờ các biện pháp điều hành nhất quán kết hợp đồng bộ giữa chính sách tỷ giá, lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ, quản ký ngoại hối. Năm 2014, NHNN tiếp tục đưa ra cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 2%. Chỉ số CPI năm 2014 chỉ có 4,09% Trong giai đoạn 2012-2014, NHNN Việt Nam thực hiện cơ chế tỷ giá neo cố định. Trong giai đoạn này tỷ giá có ít sự biến động hơn hẳn so với giai đoạn 2008-2011, biên độ tỷ giá được giữ cố định là +/-1%. Sự ổn định của tỷ giá góp phần không nhỏ khiến cho lạm phát trong giai đoạn này có xu hướng giảm nhẹ và luôn ở mức 1 con số. 3. Nhận xét Trong giai đoạn 2008-2011, cơ chế điều hành tỷ giá đã bộc lộ nhiều nhược điểm và đã tác động không nhỏ tới tình hình kinh tế nói chung và tình hình lạm phát nói riêng: - Diễn biến tỷ giá không theo sát tín hiệu trên thị trường dẫn đến chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức quá lớn có khi lên đến hàng nghìn đồng. - Mặc dù VND đã mất giá rất mạnh so với USD tuy nhiên điều này không hỗ trợ được nhiều cho xuất khẩu khi mà các quốc gia khác cũng phá giá nội tệ của họ để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. - Việc phá giá nội tệ đã gây tác dụng ngược khi mà giá hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ, khiến chi phí đầu vào của nhiều doanh nghiệp gia tăng do 70-80% nguyên liệu đầu vào của nước ta vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu, dẫn đến gia tăng lạm phát chi phí đẩy. - Trong giai đoạn này, NHNN thực hiện cơ chế neo tỷ giá với biên độ dao động được điều chỉnh, chính điều này đã góp phần gia tăng thêm lạm phát ở nước ta. Để thực hiện việc neo giữ tỷ giá NHNN đã chấp nhận mức lạm phát cao hơn, khi lạm phát
- 10 cao NHNN phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm lãi suất nội tệ tăng, dẫn đến vòng xoáy tỷ giá- lạm phát- lãi suất- tỷ giá. - Hơn nữa việc NHNN phá giá VND dè chừng đã dẫn đến tâm lý kỳ vọng chờ đợi sự phá giá tiếp của NHNN khiến cho tỷ giá liên tục tăng do tình trạng găm giữ ngoại tệ. Chính điều này làm trầm trọng thêm tình trạng đôla hóa trong nước và khiến cho tiền đồng bị mất giá trị thêm. Khắc phục những nhược điểm trên, trong giai đoạn 2012- 2014 NHNN đã điều hành chính sách tỷ giá với xu hướng duy trì sự ổn định nhiều hơn và điều này đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, góp phần kiểm soát lạm phát trong nước. - Trong 3 năm liên tiếp NHNN luôn đưa ra cam kết không điều chỉnh tỷ giá với tỷ lệ phần trăm cụ thể tạo lòng tin cho doanh nghiệp và dân chúng vào VND. Hạn chế được đáng kể tình trạng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do. - Tỷ giá ổn định đã góp phần cải thiện đáng kể cán cân thương mại của Việt Nam. Những năm trước đây mặc dù liên tục phá giá VND nhưng cán cân thương mại của Việt Nam vẫn luôn rơi vào tình trạng thâm hụt. Tuy nhiên trong 3 năm trở lại đây, NHNN ít tiến hành phá giá nội tệ hơn, cán cân thương mại của Việt Nam được cải thiện tích cực, năm 2012 thặng dư 749 triệu USD, năm 2013 thặng dư 9,4 triệu USD, năm 2014 xuất siêu khoảng 2 tỷ USD. Điều này chứng tỏ việc tỷ giá ổn định có tác đông tích cực tới xuất khẩu của Việt Nam hơn so với việc phá giá nội tệ, khi phá giá nội tệ sẽ làm giá nguyên liệu đầu vào tăng làm giá hàng hóa sản xuất ra tăng lên khiến hàng hóa trong nước khó cạnh tranh hơn so với hàng hóa nước ngoài không chỉ trên thị trường xuất khẩu mà còn ngay cả trên thị trường trong nước. - Tỷ giá ổn định đã giúp giảm đáng kể tình trạng đôla hóa, biểu hiện người dân đã gửi các khoản tiết kiệm bằng nội tệ nhiều hơn, tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/ tổng phương tiện thanh toán năm 2012 giảm từ 15,8% xuống còn 12,3%. Những tín hiệu tích cực từ nền kinh tế, xuất khẩu hàng hóa tăng, dự trữ ngoại hối tăng, tình trạng đôla hóa giảm đã góp phần củng cố lòng tin của người dân, hạn chế tình trạng tích trữ ngoại tệ như phương tiện dự trữ giá trị.
- 11 Việc NHNN có những chính sách hợp lí trong điều chỉnh tỷ giá đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao niềm tin của người dân vào đồng nội tệ và từ đó góp phần duy trì lạm phát của Việt Nam ở mức một con số như 3 năm vừa qua. Tuy nhiên xét trong dài hạn, việc neo giữ tỷ giá và đưa ra tỷ lệ phá giá VND với USD ở mức thấp sẽ cónhững bất lợi nhất định cho nền kinh tế Việt Nam. - Neo giữ tỷ giá khiến cho cơ chế tỷ giá thiếu tính linh hoạt và không theo những tín hiệu của thị trường. - Neo giữ tỷ giá và đưa ra tỷ lệ phá giá thấp so với đồng USD sẽ khiến cho VND bị định giá thực cao so với những đồng tiền khác khi mà USD tăng giá và các nước khác tiến hành phá giá nội tệ của họ. Điều này sẽ làm ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu của Việt Nam. - Việc NHNN cam kết một tỷ lệ phá giá VND cụ thể ngay từ đầu năm trong 3 năm qua đã góp phần lớn trong việc bình ổn tỷ giá và giảm lạm phát. Tuy nhiên, đây không phải là một biện pháp lâu dài, biện pháp này chỉ có thể phù hợp khi mà đồng USD có giá trị ổn định trong thời gian dài, còn khi đồng USD mạnh lên trên thị trường thế giới sẽ rất dễ đẩy NHNN vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu như tăng tỷ giá ngoài tỷ lệ đã cam kết sẽ ảnh hưởng lớn tới tâm lý người dân và khiến cho lạm phát sẽ tăng lên. Còn nếu không tăng tỷ giá VND sẽ rơi vào tình trạng bị định giá thực cao so với các tiền tệ khác, ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu. III. Khuyến nghị đối với chính sách tỷ giá Việt Nam trong thời gian sắp tới Từ những nhận xét trên, em xin đưa ra một số khuyến nghị cho chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian sắp tới: - Trong ngắn hạn: • Để có thể đạt được mục tiêu lạm phát là 5% trong năm 2015 thì duy trì tỷ giá ổn định là điều cần thiết. NHNN cần tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ thị trường tự do, sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tỷ giá, đưa ra những cam kết mạnh mẽ để ổn định lòng tin của người dân vào giá trị VND. • NHNN nên điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn và theo sát các diễn biến của thị trường. Trong các trường hợp cần phá giá VND thì NHNN cũng phải phá giá đủ mạnh để
- 12 tránh tình trạng trông chờ USD tăng giá, dẫn đến việc găm giữ ngoại tệ, ảnh hưởng làm gia tăng áp lực lạm phát trong nền kinh tế • Các thông tin về việc tính toán, niêm yết tỷ giá bình quân liên ngân hàng cần được công khai, minh bạch hơn nhằm nâng cao niềm tin của người dân vào sự điều hành của NHNN • Cần nâng cao độ chính xác, hiệu quả của công tác dự báo để các cam kết tỷ giá đưa ra đầu năm có thể sát với thực tế tránh tình trạng tiến thoái lưỡng nan cho NHNN • NHNN cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động của thị trường tự do nhằm hạn chế các giao dịch trái phép, hiện tượng đầu cơ gây ảnh hưởng xấu tới tỷ giá trong nước. - Trong dài hạn, để có thể có mức lạm phát thấp và ổn định, từ bài học kinh nghiệm của nhiều nước, Việt Nam nên thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu. Điều kiện để thực hiện chính sách này là phải có một cơ chế tỷ giá linh hoạt. Do vậy, cơ chế tỷ giá cần được điều chỉnh theo hướng linh hoạt và mang tính thị trường nhiều hơn đồng thời cần phải đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tạo môi trường tài chính lành mạnh. Trong tương lai, Việt Nam có thể tiến tới thả nổi tỷ giá hoàn toàn khi các điều kiện đã chín muồi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tô Kim Ngọc, 2012, Giáo trình tiền tệ ngân hàng. Nhà Xuất bản Dân Trí 2. Vũ Đình Bách và cộng sự, 2012, Kinh tế học vĩ mô. Nhà Xuất bản Giáo dục 3. Gs. Ts. Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình tài chính quốc tế. Nhà xuất bản Thống kê 4. Ths. Nguyễn Thị Thái Hưng, “Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở Việt Nam”, tham khảo ngày 17/3/2015 5. Ts Đào Thanh Bình, Ts Phạm Thị Thu Hà, Ncs Hoàng Đình Minh, “Mối quan hệ giữa lạm phát- tỷ giá: một số khuyến nghị”, tham khảo ngày 17/03/2015 < http://www.tapchitaichinh.vn/Thi-truong-Gia-ca/Moi-quan-he-giua-lam-phat-ty-gia- Mot-so-khuyen-nghi/49675.tctc> 6. “Tỷ giá USD/VND: Một năm nhìn lại và dự đoán năm 2009”, tham khảo ngày 17/03/2015
- 13 7. “Lạm phát 2010: ba đột biến, hai kỷ lục và một nỗi lo”, tham khảo ngày 18/3/2015 8. Phạm Thị Hoàng Anh, “ Nhận định về điều hành chính sách tỷ giá của NHNN Việt Nam năm 2011”, tham khảo 19/03/2015 9. “Nhìn lại điều hành tỷ giá giai đoạn 2011-2013”, tham khảo 21/03/2015 10. http://www.sbv.gov.vn/ 11. http://www.gso.gov.vn/
- 14 MỨC ĐỘ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2014 An Hải Anh, K15-TCD Tạ Thị Huệ, K15-TCB I. Tổng quan chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Sau 23 năm đổi mới và phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam là đầu tàu thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển của hệ thống tài chính hướng tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, đi tiên phong trong quá trình mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế. Từ hệ thống ngân hàng một cấp rồi hai cấp ban đầu chỉ có 4 NHTM nhà nước hoạt động hạn chế về quy mô tài chính, dịch vụ, hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô tài chính và các loại hình dịch vụ hoạt động. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có cấu trúc rất đa dạng về loại hình sở hữu (nhà nước, tập thể, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, cổ phần) và đa dạng hóa về loại hình (NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô). Đến năm 2014 tại Việt Nam có 38 NHTM trong đó 5 NHTM nhà nước và 33 NHTM cổ phần, nhóm NHTM nhà nước đồng thời cũng là nhóm gồm 4 ngân hàng với vốn điều lệ lớn nhất hệ thống, đều trên 20 nghìn tỷ đồng (Agribank, BIDV, VietinBank và Vietcombank) duy chỉ có Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là ngân hàng quy mô nhỏ, tại các ngân hàng này, Nhà nước vẫn nắm đa số cổ phần. Nhóm NHTM cổ phần có 4 ngân hàng có vốn điều lệ từ 10 nghìn - 20 nghìn tỷ (MBBank, SCB, Sacombank, Eximbank), 13 ngân hàng có vốn điều lệ từ 5 - 10 nghìn tỷ đồng, số còn lại có vốn điều lệ dưới 5 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm 6 ngân hàng liên doanh, 66 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng nước ngoài, khoảng 30 công ty tài chính và cho thuê tài chính, hơn 1.000 quỹ tín dụng. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
- 15 nghèo, cải thiện an sinh xã hội. Với quy mô và vai trò quan trọng như vậy, lành mạnh tài chính của hệ thống ngân hàng là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô. Song song với sự lớn mạnh không ngừng về quy mô, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn bộc lộ nhiều điểm yếu như: hoạt động giám sát cảnh báo rủi ro còn hạn chế, tính minh bạch chưa cao, sở hữu chéo ngày càng trở nên phức tạp tại các ngân hàng thương mại, thông tin công bố còn chưa bám sát thực tế khiến cho nhà đầu tư, người vay tiền gặp khó khăn trong việc ra quyết định, các ngân hàng cạnh tranh chưa lành mạnh chủ yếu cạnh tranh thông qua lãi suất, tỷ giá… và trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay những bất cập này càng bộc lộ rõ nét hơn. Các NHTM chật vật giải quyết nợ xấu khổng lồ do đóng băng bất động sản và hoạt động trì trệ của các doanh nghiệp gây ra, hàng loạt các ngân hàng tuyên bố phá sản, giải thể, hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết nhằm cứu cánh cho các ngân hàng đang trên thời kỳ lao dốc, thực hiện áp chỉ tiêu để trả lương nhân viên như chỉ tiêu về mở tài khoản, huy động vốn hàng tháng… Cùng với sự điều hành của NHNN, các NHTM đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm khơi thông tín dụng, khuyến khích cho vay và ban đầu thu được một vài tín hiệu tích cực nhưng xét về dài hạn, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là giải pháp tối ưu nhất để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các ngân hàng phát triển ổn định, bền vững. Đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng bao gồm 3 nội dung chính là: nâng cao vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN, củng cố và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của thanh tra giám sát của cơ quan quản lý, lành mạnh hóa ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác mà trong đó lành mạnh hóa NHTM được coi là trọng tâm. Mục tiêu của đề án này là: đến năm 2020 hệ thống ngân hàng Việt Nam về cơ bản phát triển theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả có khả năng cạnh tranh lớn dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, quản trị ngân hàng được tiến hành phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn 2011 – 2015 đề án tập trung lành mạnh hóa tài chính các NHTM, nâng cao trật tự kỉ cương trong hoạt động ngân hàng.
- 16 II. Đánh giá mức độ lành mạnh của các NHTM Việt Nam thông qua một số chỉ tiêu tài chính Hình 2.1: Biểu đồ tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro CAR là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức khỏe thực sự của một ngân hàng, hệ số CAR càng cao tức ngân hàng càng dễ dàng đối phó khi có những rủi ro như khách hàng rút tiền nhiều, thiếu hụt thanh khoản, trả nợ các khoản vay... Tại nhiều nước chỉ tiêu này đặt ra với các ngân hàng tối thiểu là 12% trong khi đó tại Việt Nam năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn tối thiểu từ 8% lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II. Thời điểm đó đã có nhiều tranh cãi cho rằng 9% là quá cao, ngân hàng khó đáp ứng được nhưng sau đó, hầu hết các ngân hàng đều đạt an toàn vốn cao hơn nhiều so với mức tối thiểu, trừ Agribank, theo số liệu năm 2011. Cuối năm 2012 cùng với những khó khăn của thị trường, CAR của hệ thống ngân hàng thương mại tư nhân có xu hướng giảm cụ thể theo số liệu của NHNN CAR giảm từ mức 14,01% ở thời điểm cuối năm 2012 về 12,8% vào tháng 6/2013. Theo số liệu tính toán của nhóm nghiên cứu, đến cuối năm 2013, tỷ lệ vốn tự có với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro của hệ thống ngân hàng thương mại đạt trung bình là 13,68% cao hơn nhiều so mức tối thiểu, tất cả các ngân hàng đều đáp ứng trên 9% trong đó có một số ngân hàng đạt CAR khá cao như: KienLong bank, MDB, TPbank. Tuy nhiên theo một số chuyên gia, điều này chưa hẳn đã tốt vì những ngân hàng có CAR cao thường là các ngân hàng nhỏ, hoặc CAR cao do sở hữu chéo, hoặc CAR quá cao đồng nghĩa ngân hàng đó gần như không huy động nổi tiền gửi
- 17 hoặc không thể cho vay. Mặt khác các ngân hàng đang tận dụng triệt để việc tăng vốn tự có để xử lý nợ xấu hoặc tái cấu trúc và điều này góp phần duy trì CAR ngày càng cao chẳng hạn như trường hợp TPbank. Hình 2.2:Biểu đồ nợ xấu trên tổng dư nợ Khi tình hình kinh tế vĩ mô được cải thiện và dần phục hồi, cộng với những nỗ lực của hệ thống TCTD, diễn biến nợ xấu đã có những tín hiệu khả quan. Đến cuối tháng 12/2013, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đã giảm mạnh về mức 3,63% tổng dư nợ tín dụng. Đây là số liệu nợ xấu của NHNN được xác định dựa trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và các thông tin chính thức, có sự sai khác nhỏ do với mức trung bình là 3,06% theo kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu. Nguyên nhân của sự sai khác này xuất phát từ việc một số ngân hàng như Agribank không công bố cụ thể Báo cáo thường niên, Báo cáo tài chính hay BaoViet bank không công bố báo cáo riêng của ngân hàng mà chỉ công bố báo cáo hợp nhất của tập đoàn… trong khi đó như Agribank đã chiếm gần ¼ nợ xấu của khu vực ngân hàng. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu đã có sự biến chuyển tích cực so với những năm trước đó. Để có được những kết quả trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tích cực, chủ động thực hiện các giải pháp để kiềm chế nợ xấu gia tăng và xử lý nợ xấu như: Cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản xuất; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động, tích cực đôn đốc, thu hồi nợ, trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro; bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo; thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế nợ xấu phát sinh mới, đáng chú ý là, việc thành lập và đưa vào hoạt động Công ty quản lý tài sản VAMC. Bên cạnh đó, biện pháp cơ cấu lại nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN thực sự có ý nghĩa hỗ trợ cho doanh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp trên nền tảng công nghệ số
356 p | 76 | 12
-
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế: Sử dụng dữ liệu và công nghệ trong kế toán quản trị - Chìa khóa nâng cao hiệu quả hoạt động và giá trị doanh nghiệp
236 p | 50 | 8
-
Kế toán - kiểm toán và kinh tế Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - Kỷ yếu hội thảo khoa học (Tập 1): Phần 2
205 p | 12 | 8
-
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia: Hệ thống tài chính ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ DCFB 2020
548 p | 52 | 8
-
Kế toán - kiểm toán và kinh tế Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - Kỷ yếu hội thảo khoa học (Tập 1): Phần 1
253 p | 15 | 8
-
Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái – Bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia Đông Nam Á
7 p | 28 | 8
-
Vai trò của ngành bảo hiểm đối với sự ổn định xã hội và phát triển nền kinh tế - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia
541 p | 23 | 8
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Ngân hàng Việt Nam - bối cảnh và triển vọng
490 p | 50 | 7
-
Cơ hội phát triển trí tuệ nhân tạo trong kiểm toán
10 p | 21 | 6
-
Cách thức xây dựng và vận hành chức năng kiểm toán nội bộ hiệu quả tại Việt Nam và các thông lệ quốc tế - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Phần 1
152 p | 20 | 6
-
Kế toán, Kiểm toán và Tài chính Việt Nam - xu hướng và triển vọng - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia năm 2020
124 p | 26 | 5
-
Cách thức xây dựng và vận hành chức năng kiểm toán nội bộ hiệu quả tại Việt Nam và các thông lệ quốc tế - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Phần 2
100 p | 14 | 5
-
Các yếu tố nhận diện công ty Zombie: Bằng chứng từ các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam
14 p | 23 | 5
-
Phân tích các yếu tố tác động lên bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
8 p | 31 | 5
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Bảo vệ người tiêu dùng tài chính - thực tiễn và đề xuất chính sách đối với Việt Nam
371 p | 56 | 4
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học nâng cao hiệu quả giảng dạy học phần Kế toán thuế
88 p | 43 | 3
-
Cú sốc phi truyền thống và rủi ro lây lan trong hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ: Thảo luận và định hình cho chính sách tiền tệ tại Việt Nam
21 p | 7 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn