Lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều
lượt xem 18
download
Nguyễn Trãi đã nói như trên mà không duy ý chí vì ông đã thấy được sức mạnh của chính nghĩa (Lấy đại nghĩa thắng hung tàn), của lòng nhân ái (Lấy chí nhân thay cường bạo). Ngày nay, ở nước ta, chiến tranh đã lùi xa, nhưng ta vẫn còn phải lo chống giặc dốt. Liệu ta có thể bắt chước Nguyễn Trãi mà nói: “Lấy nghèo thắng giàu”, “lấy lạc hậu vượt tiên tiến” được không? Nguyễn Trãi chỉ ra hai sức mạnh là “chính nghĩa” và “lòng nhân ái”, còn chúng ta ngày nay, để...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều
- Lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều Nguyễn Trãi đã nói như trên mà không duy ý chí vì ông đã thấy được sức mạnh của chính nghĩa (Lấy đại nghĩa thắng hung tàn), của lòng nhân ái (Lấy chí nhân thay cường bạo). Ngày nay, ở nước ta, chiến tranh đã lùi xa, nhưng ta vẫn còn phải lo chống giặc dốt. Liệu ta có thể bắt chước Nguyễn Trãi mà nói: “Lấy nghèo thắng giàu”, “lấy lạc hậu vượt tiên tiến” được không? Nguyễn Trãi chỉ ra hai sức mạnh là “chính nghĩa” và “lòng nhân ái”, còn chúng ta ngày nay, để đánh giặc dốt, chúng ta có sức mạnh gì? Nguyễn Trãi đã nói như trên mà không duy ý chí vì ông đã thấy được sức mạnh của chính nghĩa (Lấy đại nghĩa thắng hung tàn), của lòng nhân ái (Lấy chí nhân thay cường bạo). Ngày nay, ở nước ta, chiến tranh đã lùi xa, nhưng ta vẫn còn phải lo chống giặc dốt. Liệu ta có thể bắt chước Nguyễn Trãi mà nói: “Lấy nghèo thắng giàu”, “lấy lạc hậu vượt tiên tiến” được không? Nguyễn Trãi chỉ ra hai sức mạnh là “chính nghĩa” và “lòng nhân ái”, còn chúng ta ngày nay, để đánh giặc dốt, chúng ta có sức mạnh gì? Theo tôi, chúng ta có hai sức mạnh: đó là nội lực tự học (bao gồm cả tự nghiên cứu, tự trau dồi nghề nghiệp, tự tìm nghề và mở thêm nghề mới) ở người học và lực liên kết hệ thống. Về nội lực tự học thì có quy luật sau đây (sẽ gọi là quy luật 1 và viết tắt là QL1): “nội lực của người học quyết định chất lượng học tập, ngoại lực là quan trọng”. Về liên kết hệ thống thì có quy luật gọi là quy luật tròn lên (tiếng Pháp gọi là “loi d'e' mergenu và tiếng Anh là Emergency law) mà ta sẽ gọi là quy luật 2, viết tắt là QL2): Khi hai hệ thống trước đây đứng riêng rẽ, trở thành hai hệ con của cùng một hệ mẹ, thì giữa chúng sẽ tròn lên những lực liên kết trước đó không có. QL1 và QL2 sẽ giúp chúng ta “lấy nghèo thắng giàu”, “lấy lạc hậu vượt tiên tiến”. Liệu có tin được không? Nhiều thực tiễn ở Việt Nam sẽ cho ta lòng tin đó.
- Về QL1 thì có thể lấy ví dụ ở thực tiễn “phổ thông 9 năm” hồi kháng chiến chống Pháp. Học sinh thời đó chỉ có 9 năm phổ thông là đã có thể vào đại học. Bây giờ phải mất 12 năm nhưng phải tính thêm thời gian để đi học thêm tràn lan, tính cho hết thì cũng thành 14 năm. Vậy “nghèo” đã thắng “giàu”. Ai “nghèo”? Là nước ta hồi kháng chiến chống Pháp. Ai “giàu”? Nước ta ngày nay (dù còn nghèo so với nhiều nước), so với ngày xưa như đã có dầu thô xuất khẩu, lại đã có lọc dầu, đã xuất khẩu được 6 triệu tấn gạo năm 2009, đã kiên cố hóa được phần lớn trường học và đã đưa dần công nghệ thông tin vào dạy và học... Những chuyện đó thời CCGD năm 1950 nằm mơ cũng chưa thấy. Nhưng nhân dân lại bằng lòng với giáo dục hơn bây giờ, số học sinh học 9 năm rồi vào đại học cũng nhiều người thành đạt, trở thành những cán bộ rường cột của đất nước. Bây giờ phải kéo dài 9 năm ra thành 14 năm thì mới được thi vào đại học. Cứ tính mỗi học sinh ăn, ở, học hành, đi lại, vui chơi giải trí mỗi tháng hết nửa triệu thì kéo dài thêm 5 năm là xã hội phải chi thêm cho mỗi em 30 triệu, đem nhân với số học sinh là 24 triệu thì ra 270 triệu tức 720.000 tỉ, chi cho 14 thì lấy phí mỗi năm ngót 50.000 tỉ, gần toàn bộ ngân sách mỗi năm giành cho giáo dục hiện nay. Nhưng tại sao giàu lại thua nghèo? Vì ta đã phạm một sai lầm mà mãi cho đến nay ta vẫn chưa thấm hết tai hại của nó. Đó là ta đã để thoái hóa truyền thống tự học và văn hóa đọc ở học sinh, sinh viên. Nhờ truyền thống đó mà học sinh ngày xưa biết được nhiều điều mà nhà trường không dạy, học sinh phổ thông 9 năm có thể học chung với học sinh phổ thông 12 năm (lúc mới giải phóng thủ đô), còn học sinh bây giờ môn nào có thi thì mới học, không thi thì không học dù cho nhà trường có dạy. Tài nguyên “tự học” còn hơn cả niêu cơm Thạch Sanh. Cơm trong niêu Thạch Sanh ăn hết đến đâu lại đầy lên như cũ, còn khả năng tự học càng đem ra thi thố thì không những không hao mòn mà còn phát triển hầu như không giới hạn, qua nhiều thang bậc hiểu sơ bộ: hiểu, vận dụng, thấm, ngấm, lắng đọng, thưởng thức rồi phát triển, thăng hoa lên thành nhân sinh quan, thế giới quan, phương pháp luận... Chả thế mà sáng tạo lại “đẻ” ra sáng tạo, làm nên luật số mũ trong phát triển kiến thức. Chúng ta hoen rỉ vì những nhận thức nông cạn như hiểu sai “không thầy đố mày làm nên” mới ăn
- thua, chớ “tự học” là mình dạy mình thì “cơm chấm cơm”, ăn thua gì. “Không thầy đố mày làm nên” cần hiểu là trẻ con đến tuổi đi học, dù là thần đồng cũng phải có thầy dạy, chưa có đứa trẻ nào cứ thế lớn lên mà giỏi, chả cần ai dạy. Nhưng cũng phải thấy rằng, đứa trẻ nào rồi cũng đến ngày phải “cai dạy” vì chẳng ai suốt đời đi học đều có thầy dạy cho. “Cai dạy” cũng như “cai sữa” là tất yếu và phải được chuẩn bị từng bước trong khi còn học có thầy và chính ông thầy dạy đứa trẻ phải góp phần để cho đứa trẻ sớm có thể “cai dạy”. Lại phải thấy rằng, mỗi người sẽ đóng góp cho xã hội nhiều nhất là sau khi đã “cai dạy”. Nhưng như vậy có phải là hạ thấp vai trò của thầy? Ta quen coi thầy là người rót kiến thức, trò là người hứng kiến thức. Ngày nay, thầy phải như người nhóm lò, lúc đầu còn phải dùng phương tiện gì đó (quạt, thổi) nhưng phải làm khéo sao cho lò đạt sớm đến mức tự cháy theo quy luật tự nhiên, chẳng cần quạt, thổi gì nữa. Ngày nay, thầy nào chỉ biết đem kiến thức đến cho học trò sẽ bị đánh giá là dạy dở, người nào biết đem đến cho học trò khả năng tự tìm lấy những kiến thức mình cần là dạy giỏi. Vậy QL1 không hạ thấp vai trò của thầy mà còn đề cao vì làm thay học trò (trong việc tìm kiến thức) thì dễ hơn nhiều so với việc tạo cho họ năng lực tự tìm lấy. “Nội lực của người học quyết định chất lượng giáo dục” đó là chân lý khách quan. Dù có coi trọng thầy thì cũng không thể phủ nhận chân lý đó. Thầy, dù gì cũng là ngoại lực nhưng trong các ngoại lực thì thầy cũng là ngoại lực quan trọng nhất. Nội lực ở người học có thể nhân cách hóa thành một người thầy bên trong người học mà ta sẽ gọi là “thầy trong”. Hiện nay, xã hội ta vẫn coi nhẹ “thầy trong” vì cho rằng ông ta chính là bản thân người học, có dạy thì cũng là “cơm chấm cơm”. Nhưng xin đừng quên rằng “học” ngày nay đâu có đơn giản là hứng lấy kiến thức thầy rót cho mà còn rèn luyện tư duy và nhân cách làm sao cho có được năng lực tự tìm lấy kiến thức mà mình cần. “Thầy ngoài”, với thì giờ ít ỏi trên lớp có thể chỉ ra “cách học”, như học trò phải tự mình luyện cách học đó cho thật nhuần nhuyễn thì mới mong nảy dần khả năng tư duy, rèn nhân cách đến độ thăng hoa thành nhân sinh quan, thế giới quan, phương pháp luận. Muốn làm việc đó thì phải thực hiện được “sáu mọi”: học mọi lúc, mọi nơi, mọi người, mọi điều kiện, mọi hoàn
- cảnh, mọi nội dung có thể mới đủ thấm, đủ ngấm, đủ lắng đọng để rồi không chỉ được kiến thức mà còn thăng hoa thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận, sự nhạy cảm với cái mới. Có thế mới đạt đến mục tiêu năng động và sáng tạo mà thời đại đòi hỏi. Thầy ngoài làm sao mà cùng “sáu mọi” với học trò, chỉ có thầy trong mới cùng “sáu mọi” với học trò. Tính ra, trong suốt cuộc đời của một con người, thời gian tiếp xúc với “thầy trong” gấp hơn 200 lần thời gian tiếp xúc với “thầy ngoài” vì “thầy trong” gắn với học trò như hình với bóng (trừ khi học trò ngủ) suốt cả cuộc đời của trò. Thế mạnh này của “thầy trong” ít ai nhìn thấy. Đó là chưa nói “thầy trong” là tự có, không tốn tiền của đào tạo, không phải trả lương, có bao nhiêu người học thì có bấy nhiêu “thầy trong”. Cho nên “nghèo” có thể thắng giàu là vì vậy. Trên kia, ta nêu ví dụ về 9 và 12 là mới chỉ đụng đến giàu, nghèo trong cùng một nước, mở rộng ra giàu, nghèo giữa hai nước khác nhau cũng thế. Ngay ở điều 15 của Luật Giáo dục sửa đổi: “Nhà giáo quyết định chất lượng giáo dục”. Điều 15 chả đả động gì đến người học, ai muốn học thì cứ đến trường rồi các thầy sẽ mang chất lượng đến cho. Nên sửa điều 15 như sau: “Nội lực tự học ở người học quyết định chất lượng giáo dục, ngoại lực là quan trọng và nhà giáo là ngoại lực quan trọng nhất”. Phải thấm sâu quy luật đã sửa chữa như trên, tránh những suy nghĩ giản đơn, một chiều như “không thầy đố mày làm nên” thì hiểu sai thành “học luôn luôn có thầy bên cạnh mới tốt”, hoặc như cho rằng “siết chặt đầu vào Đại học là nâng chất lượng tuyển sinh” mà không thấy rằng siết chặt đầu vào thì cửa trường Đại học càng cao vời vợi và càng thúc đẩy việc dạy thêm, học thêm tràn lan; muốn xóa nạn này, phải thiết kế ra nhiều loại cổng: có cổng cao vời vợi (Đại học đẳng cấp quốc tế), cao vừa vừa (Đại học trọng điểm), cao phổ biến (Đại học ở các địa phương) và Cao đẳng cộng đồng (dạy nghề thiết thực, ngắn hạn). Mỗi thí sinh sẽ lựa sức mình mà chọn cổng, chứ không đi học thêm tràn lan như hiện nay. Chúng ta còn một lãng phí lớn khác là rất ít vận dụng QL2 để làm trồi lên những nguồn lực mới mà chả tốn kém gì. Hệ thống giáo dục là một hệ có rất nhiều
- hệ con, hệ cháu chằng chịt, bản thân lại là hệ con của hệ thống toàn xã hội và của nền giáo dục quốc tế. Thế nhưng các hệ con của cùng một hệ mẹ lại rời rạc, không phải từ bản chất mà là từ cách quản lý của chúng ta. Ví dụ, hệ thống phổ thông và hệ thống dạy nghề (trong đó có Đại học là những trường nghề cao cấp) rất rời rạc do dạy nghề lâu nay vẫn được phân chia cho hai Bộ khác nhau quản lý để rồi cứ than thở rằng các trường phổ thông không làm hướng nghiệp nên học sinh cứ nhằm thẳng một mạch mà học lên. Tuy nhiên, cũng đã có những cuộc thử nghiệm đầy hứa hẹn nhưng lại ít được ủng hộ nên nửa đường phải dẹp. Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã từng sử dụng học sinh phổ thông làm cộng tác viên cho những đề tài nghiên cứu khoa học thích hợp và thấy ra rằng hai bên đều có lợi: Đại học được lợi ở chỗ được nối thêm tay, thêm óc của đông đảo học sinh phổ thông có sẵn tổ chức ở khắp nơi. Phổ thông được lợi ở chỗ có một cách mới để “học đi đôi với hành” mà “hành” rất hiện đại, có tác dụng rèn luyện tư duy khoa học và tác phong công nghiệp. Sự liên kết này lại kéo theo một liên kết khác: nhà trường với đời sống, biến được học sinh phổ thông thành những người chuyển giao công nghệ từ trường Đại học vào cuộc sống. Sau 15 năm triển khai chủ trương trên thì nạn dạy thêm, học thêm tràn lan đã cuốn hút học sinh vào luyện thi, lơi dần chuyện “làm đề tài” rồi thôi hẳn. Một ví dụ khác là “vừa học vừa làm”. Trong giáo dục, từ lâu đã có phương châm “học đi đôi với hành” nhưng “hành” thường được quan niệm là chỉ để củng cố “học” và thường bị hạn chế trong khuôn viên của nhà trường (lớp học, phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn trường), còn xa mới đến “làm” theo nghĩa là làm thực sự như người lao động xã hội. Cho nên “vừa học vừa làm” là cách liên kết hai hệ thống “học” và “làm”. Ở nông thôn hiện nay, người “làm” là nông dân cũng học trong các trung tâm học tập cộng đồng, còn người “học” là con cái họ thì học trong các trường phổ thông, nhưng học phần lớn nhằm thoát ly nông thôn nên hai hệ thống học đó của “cha” và “con” vẫn tách rời. Ở Pháp, các ông chủ trang trại rất lo lắng khi thấy con cái ra thành phố học Đại học hầu hết chọn nghề khác để
- học rồi không trở về nông thôn nữa. Trước tình hình đó, nhiều chủ trang trại gần nhau chung lưng xây một trường Đại học “nhà” cho con em họ học Đại học, nhằm mục tiêu đào tạo là kế nghiệp bố mẹ. Mới đầu, nhà nước Pháp không công nhận các trường này nhưng họ không cần có sự công nhận vì con cái họ đâu có cần bằng vì học trường “nhà” rồi làm ngay cho “nhà”. Dần dần rồi Nhà nước cũng công nhận nhưng giao cho Bộ Nông nghiệp (chứ không phải Bộ Giáo dục) quản lý. Đến nay, ở Pháp đã có cỡ 600.000 sinh viên “trường nhà”. Những vấn đề đặt ra cho Pháp hiện đã thổi đến nước ta, ở mức “trung học phổ thông”, chưa phải mức Đại học. Cách đây hơn 10 năm, trước nhu cầu học trung học phổ thông của những em nghèo, không có khả năng ra trọ ở thị xã, thị trấn để học, trường phổ thông dân lập Nguyễn Trường Tộ ở Vinh đã nẩy ra ý kiến tổ chức cho các em vừa học, vừa làm. Nhưng làm gì? Không thể theo cách của trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình vì lấy đâu ra mấy trăm hecta đất để các em làm “nông nghiệp”. Cách tốt nhất là “làm kinh tế gia đình”. Như vậy thì mỗi gia đình học sinh trở thành một đơn vị của “trường nhà” và trường Nguyễn Trường Tộ không phải lo cơ sở vật chất cho “làm” mà các gia đình phải tự lo lấy. Trường Nguyễn Trường Tộ lo dạy văn hóa và dạy nghề cho học sinh “trường nhà”. Họ đã cố hết sức mời cho được các kỹ sư, các nông dân, thợ thủ công giỏi nghề để dạy nghề còn dạy văn hóa thì trong tương lai xa sẽ dùng giáo dục từ xa còn trước mắt, một mặt khuyến khích học sinh tự học qua sách, mặt khác các thầy chịu khó đi xa đến các thôn xóm các em ở để giúp đỡ. Nói chung là học sinh và phụ huynh học sinh hài lòng nhưng xã hội còn lạnh nhạt. Rồi ông hiệu trưởng là linh hồn của hình thức vừa học, vừa làm ốm và qua đời. Gánh nặng kinh phí đề tài ảnh hưởng đến thu nhập của cán bộ, công nhân viên nhà trường nên đề tài phải kết thúc, để lại một hướng chiến lược cho những nhà quản lý giáo dục suy nghĩ. Hình thức “vừa học, vừa làm” chắc rồi sẽ có tương lai vì càng ngày mục tiêu đào tạo càng có lắm yêu cầu không thể đạt được bằng cách dạy và học truyền thống (thầy giảng, trò nghe), ví như tác phong công nghiệp, khả năng giao tiếp,
- khả năng thuyết phục… Ngoài ra, còn có những lĩnh vực như công nghệ thông tin tiến bộ rất nhanh, học mà không làm ngay, chờ ra trường mới làm thì cái học đã lạc hậu mất rồi. Muốn học những cái đó, phải bắt tay làm một cách khoa học, chính xác rồi cố gắng khái quát nên những bài học mang tính chất triết lý, tâm lý. Chẳng hạn, ngày nay người ta đã thừa nhận rằng “vừa học, vừa làm” là phương thức tốt nhất để đào tạo thầy giáo và thầy thuốc vì với hai nghề này không thể làm tốt nếu giao tiếp với học sinh (bệnh nhân), gia đình họ, nhân dân địa phương không tốt. Việt Nam đã mở đầu việc đào tạo giáo viên bằng hình thức “vừa học sư phạm, vừa làm giáo viên” trong thời gian từ 1977 đến 1988 và đã có thực tế để chứng minh rằng giáo viên đào tạo ra hơn giáo viên đào tạo chính quy về phương diện “giao tiếp”, cũng có điều kiện hơn để giúp học sinh gắn với đời sống. Mỹ, Anh, Úc ngày nay đã có các trường sư phạm tổ chức na ná như mô hình “Thái Dương hệ” trường sư phạm ở giữa, xung quanh có các trạm Đại học (vừa học vừa làm giáo viên) của các tỉnh, xung quanh mỗi trạm có các trường phổ thông được chọn làm trường thực hành để cho giáo sinh đến đó làm giáo viên mà ta đã tổng kết khi kết thúc đề tài: “Vừa học sư phạm, vừa làm giáo viên” (Xin xem tuyển tập: Tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Toàn, tập 2, trang 100). Nói “na ná” vì họ không có trạm Đại học vừa học vừa làm giáo viên như ta mà có trường phổ thông thực hành “trưởng” trong từng cụm trường phổ thông thực hành. Điều đáng nói ở đây là Việt Nam mở đầu hình thức “vừa học Sư phạm vừa làm giáo viên” thắng lợi từ năm 1977 đến 1988 ở phía Bắc, sau đó nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long do thiếu giáo viên, cũng xin mở, nhưng bộ trưởng mới, khác với bộ trưởng cũ, không cho mở. Đi sau ta hơn 20 năm, Mỹ, Anh, Úc đã khẳng định và công bố ra trước thế giới rằng “vừa học sư phạm vừa làm giáo viên” là cách tốt nhất để đào tạo thầy giáo. Liệu sư phạm của chúng ta sẽ cải cách như thế nào để đổi mới được sự nghiệp giáo dục? Điều đó chứng tỏ rằng Việt Nam cũng có thể đi trước, nhưng tổ chức của mình rất dở. “Nội lực ở người học” và “liên kết hệ thống” sẽ là hai bửu bối giúp chúng ta xây dựng giáo dục với khẩu hiệu “lấy
- nghèo thắng giàu”, lấy “lạc hậu vượt tiên tiến” nhưng phải đổi mới mạnh mẽ sự quản lý giáo dục của chúng ta.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn