Leonardo Fibonacci ( 1170 ?1250?) là một nhà toán học thiên tài thời Trung cổ . Ông sinh ra ở
Pisa (Ý) nơi cha ông làm việc về thương mại .Công việc của cha ông đã tạo sự thích thú cho ông
về môn số học và nhờ những chuyến đi dài ngày sang Ai Cập, Sicily, Hy Lạp và Siri đã giúp cho
ông có cơ hội tiếp xúc với toán học Ai Cập và toán học Phương Đông. Ông bị thu hút bởi tính thực
tiễn cao của nền toán học Ấn Độ Á Rập, vào năm 1202 Fibonacci đã công bố công trình nổi
tiếng của mình là "Liber abaci."
"Liber abaci "viết về số học và đại số sơ cấp. Cuốn sách minh hoạ rất nhiều và bênh vực mạnh
mẽ các ký hiệu của Ấn Độ Á Rập và đã tìm mọi cách đưa những chữ số này vào Châu Âu.
Trong 15 chương của công trình này đã giải thích cách đọc và cách viết các chữ số mới , các
phương pháp tính toán các căn bậc hai và bậc ba, việc giải các phương trình bậc nhất, bậc hai
bằng các quá trình đại số. Các nghiệm âm và ảo chưa được biết tới. Có đưa ra những ứng dụng
trong việc trao đổi, góp vốn, giải các bài toán hợp thành và hình học đo lường. Công trình gồm cả
một sưu tập lớn các bài tóan xem như kho tàng cho các tác giả về sau trong nhiều thế kỷ. Một bài
toán đưa đến dãy Fibonacci nổ tiếng : 1, 1, 2, 3, 5,.., x, y, x+y,.., Vào năm 1225, Fibonacci đã viết
" Liber quadratorum", một công trình xuất sắc và độc đáo về tính bất định khiến ông trở thành nhà
toán học nổi tiếng trong lĩnh vực này cùng với Diophantus và Fermat.
Tài năng của Fibonacci đã được Hoàng đế Frederick II chú ý và đã được thỉnh về để dự một cuộc
tranh tài về toán học. Ba bài toán được đặt ra bởi John ở Palermo. Bài toán đầu tiên là tìm một số
hữu tỉ x sao cho x2+5 và x25 đều là số những số bình phương của các số hữu tỉ. Fibonacci đã
giải và đưa ra đáp số đúng là 41/12.
Vào thế kỷ XIII cũng xuất hiện một toán học cùng thời với Fibonacci là Jordanus Nemorarius. Ông
viết nhiều công trình về số học, đại số, hình học, thiên văn học và (có lẽ) cả về tĩnh học . Những
công trình này có giá trị không cao. Tuy nhiên Nemorarius có lẽ là người đầu tiên đã sử dụng rộng
rãi các chữ cái để biểu thị các số tổng quát. Đối với điều này, Fibonacci chỉ làm trong một điều cá
biệt duy nhất.
Vào những năm đầu của thế kỷ thứ XIII đã mọc lên những trường đại học ở Paris, Oxford,
Cambridge, Padua và Naples. Những trường đại học này sau này trở thành những nhân tố quan
trọng cho sự phát triển toán học sau này, và có nhiều nhà toán học đã có liên hệ với một hoặc
nhiều đại học trên.