Chương IV<br />
<br />
CÁI NHÌN CỬA MỘT NGƯỜI TRONG<br />
VỀ MỘT THỜI KHOA c ử<br />
<br />
cuộc<br />
<br />
(NGHĨA VIÊN NGUYÊN VĂN DÀO VÀ HOÀNG VIỆT KHOA c ử KÍNH)<br />
<br />
1. NGUYỄN VĂN ĐÀO VÀ BỘ HOÀNG VIỆT KHOA c ử KÍNH<br />
Hoàng Việt Khoa cử kính - Gương soi khoa cử nước Hoàng Việt<br />
là một khảo cứu về lịch sừ khoa cừ nước Hoàng Việt do Nghĩa viên<br />
Nguyễn Văn Đào biên soạn.<br />
Nguyễn Văn Đào (1888 - 1947) người xã Hữu Bằng, huyện<br />
Thạch Thất, tinh Sơn Tây (nay thuộc Thành phố Hà Nội), đỗ cử nhân<br />
khoa Đinh Dậu, Duy Tân 3 (1909). ôn g là con trai của tiến sĩ Nguyễn<br />
Văn Bân (1868 - 1945).<br />
Năm 1911, Nguyễn Văn Đào được chọn đi học ở Pháp với thời<br />
hạn 2 năm. Ông có tập Âu học hành trình ký. Sau khi học xong ở<br />
Pháp, ông lại trở về thi Hội khoa Quý Sửu năm Duy Tân thứ 7 (1913)<br />
nhưng không đồ. Tháng 12 năm ấy, ông được bổ làm Tri huyện Hưng<br />
Nhân Thái Bình, Tri phủ Yên Thế (Bắc Giang), Bố chánh Nam Định,<br />
Chánh án tinh Hà Đông (1934), Tuần phù Quảng Yên (1935). v ề hưu<br />
năm 1937, thăng Thượng Thư Bộ Lễ.<br />
Hoàng Việt Khoa cử kính được Nguyễn Văn Đào soạn xong vào<br />
mùa đông Kỷ Mùi Khải Định thứ tư (1919). Chính thời điểm hoàn<br />
thành công trình này của ông đã có ý nghĩa đặc biệt vì tháng 4 năm<br />
1919 ấy là khoa thi Hội cuối cùng, tháng 5 là kỳ thi Đình cuối cùng<br />
của lịch sừ khoa cử nước ta.<br />
137<br />
<br />
Lời tiểu dẫn cùa công trình đã phản ánh cái nhìn cùa ông về khoa<br />
cừ cũng như động cơ khiến ông dồn tâm lực cho sự hoàn thành nó vào<br />
cuối năm cùa năm khoa cừ lụi tàn.<br />
“Nước Việt ta lập quốc đã hơn 4.000 năm. Từ Hồng Bàng trở về<br />
sau, vốn xưng là nước có văn hiến. Song con đường khoa cừ trước<br />
đó chưa có. Từ khoa Ắt Mão năm Thái Ninh thứ tư (1075) cùa vua<br />
Nhân tông triều Lý, dùng thi Tam trường, tuyển “bác học minh<br />
kinh”, lấy Lê Văn Thịnh đồ đầu danh sách. Đó là đầu nguồn của khoa<br />
mục nước ta. Đến khoa Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tư (1919) cùa bản<br />
triều, thi Hội cho cống sĩ, dùng cả quốc văn, Pháp văn, Hán ván, ấy là<br />
khoa kết cục khoa cừ nước ta. Kể tniớc đến sau, gồm 844 năm cả thảy.<br />
Trong khoảng thời gian đó, vân thức phép thi, có cái theo, có cái đổi,<br />
chồ tường chỗ lược, xưa sau thực có khác nhau. Hoặc đắc hoặc thất,<br />
hoặc thịnh, hoặc suy cùng với tiếng thơm của những tiến sĩ, cống sĩ<br />
mà các triều nối nhau lấy được, đều chép đù trong sử sách và khoa<br />
phả của các nhà danh nho lịch đại, đại khái đã từng bình luận tường<br />
minh đủ cả. Đó vốn không phải là điều mà kẻ mạt học, kiến thức<br />
nông cạn có thể dám dự bàn.<br />
Những nghĩ, bây giờ học giới canh tân, khoa cử đình bãi. Các<br />
thể văn bát cổ, thơ phú, chiếu biểu, sách luận cũng như các cách thức<br />
lúc đi thi vác lều, mang tráp, vào trường, phân vi giờ đây khác nào<br />
như chiếc mũ miện cũ của thời Đường Ngu, mảnh quần rách nơi<br />
sông Thù Tứ.<br />
Từ nay về sau, người ta, miệng không còn nhắc lại, mắt không<br />
còn nhìn qua, tai không còn nghe chuyện khoa cừ nữa. Nếu không sưu<br />
tầm ghi chép thành sách mà biên tập lại, lưu lại kỷ niệm của một thời<br />
khoa cừ thì e rằng nhừng người nghiên cứu khảo cổ đời sau lại thở<br />
than ràng “tư liệu văn hiến chẳng đủ minh trưng”, người nước Nam<br />
mà chẳng tường việc nước Nam. Khi ấy, liệu có thể tránh khỏi chuyện<br />
người ta chê cười cho rằng đó là đồ “Tịch Đàm vong tổ” hay không?<br />
Vì thế cho nên, tôi đã nhân những lúc việc công rảnh rồi, tường tra<br />
chính sử, dã sử cả Nam lẫn Bắc, cũng như sách đăng khoa lục của các<br />
138<br />
<br />
nhà, điển lộ lịch triều, tham khảo sự đồng dị, diên cách cùa phép thi<br />
trong lịch đại, trên từ khoa Át Mão năm Thái Ninh triều Lý, dưới đến<br />
khoa Kỷ Mùi cùa niên hiệu Khải Định bản triều, biên tập thành sách,<br />
phân chia làm thành các phần như: Khoa cừ tầm nguyên, Khoa thứ thí<br />
pháp thông kháo, đặt tên là “Hoàng Việt Khoa cừ kính - Tấm gương<br />
soi khoa cử nước Hoàng Việt”. Tôi cũng không dám nói bừa rằng đây<br />
là trước tác cùa tôi mà chẳng qua đó chi là sự hỏi han, sao lục, làm<br />
chồ dựa cho người sau khi khảo cổ mà thôi. Người nào khen, hay có ai<br />
bắt tội, tôi cũng đành chịu theo công luận mà thôi”<br />
Hoàng Việt Khoa cử kinh với dung lượng 100 trang nguyên văn<br />
có kết cấu như sau:<br />
- Tiểu dẫn<br />
- Khoa cử tầm nguvên (Tìm về nguồn gốc của khoa cử ở nước ta).<br />
- Lịch đại khoa thứ thí pháp thông khảo (Thông khảo về phép thi<br />
cùa khoa cử các đời). Phần này đi vào lịch sừ khoa cử của các triều<br />
như: Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc, Lê trung hung, quốc triều (triều<br />
Nguyễn) gồm cả thời các chúa Nguyễn cho đến thời các vua Nguyễn.<br />
- Tổng luận nhìn nhận những đắc thất của khoa cử.<br />
Hoàng Việt Khoa cừ kính đã được đăng trên phần chừ Nho cùa<br />
Nam Phong Tạp chí vào các số 44, 45, 46, 48 của năm 1921 và các số<br />
83, 84, 85 cùa năm 1924.<br />
Hiện nay, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm có một bản viết<br />
tay, chừ đẹp, ký hiệu VHv. 1277. Chúng tôi dịch trọn vẹn bộ sách trên<br />
và đặt nó thành một chương trong tập sách này như là một sự thể hiện<br />
cho cái nhìn của người đương thời và cùng là người trong cuộc về<br />
khoa cử. Đồng thời cũng dựa vào đó để chủng tôi hệ thống hóa lịch sử<br />
khoa cử nói chung và lịch sử khoa cử Việt Nam nói riêng. Vì thế,<br />
chúng tôi đặt nó thành một chương trong tập sách này.<br />
Cũng cần lưu ý ràng Nguyễn Văn Đào khi viết Hoàng Việt Khoa<br />
cừ kính đã chịu ảnh hường các quan điểm chính trị đương thời. Chẳng<br />
hạn như trường hợp ông khi viết về nhà Hồ, nhà Mạc. Vì vậy, khi sử<br />
dụng, mong độc giả lưu ý.<br />
139<br />
<br />
2. BÀN DỊCH HOÀNG VIỆT KHOA c ừ KÍNH<br />
HOÀNG VIỆT KHOA c ừ KÍNH<br />
Nghĩa viên Nguyễn Văn Đào biên tập<br />
Ả 1X<br />
Tiêu dân<br />
<br />
rp*<br />
<br />
Trộm nghe, khí trong lành của trời đất hun đúc lên nhân tài. Con<br />
đường vinh tiến cùa sĩ phu chẳng gì hơn khoa mục. Đại khái, nhân tài<br />
là nguyên khí cùa quốc gia, khoa mục là con đường rộng cho sĩ tử.<br />
Nửa đời chăm học, một sớm quang vinh. Bảng vàng treo trước ccng<br />
trường, bia đá khắc nhà Thái Học. Mũ áo cờ biển vua ban, vinh dự<br />
ngắm hoa ban yến. Hân hạnh biết chừng nào'<br />
Bởi vậy, “Ngao đầu trúng tuyển” ấy cái người đời quý trọng.<br />
“Bảng hổ khôi danh”, nọ chồ học giả tôn vinh. Thời Hán sắp đặt tứ<br />
khoa. Thời Tống phân ra tam giáp. Người xưa chưa từng bao giờ<br />
không lấy khoa cử Nho học như là thịnh điển cầu người tài giỏi.<br />
Nước Việt ta lập quốc đã hơn 4.000 năm. Từ Hồng Bàng trờ về<br />
sau, vốn xưng là nước có văn hiến. Song con đường khoa cử trước đó<br />
chưa có. Từ khoa Ắt Mão năm Thái Ninh thứ tư (1075) của vua Nhân<br />
Tông triều Lý, dùng thi Tam trường, (t.lb) tuyển “Bác học minh<br />
kinh”, lấy Lê Văn Thịnh đỗ đầu danh sách. Đỏ là đầu nguồn của khoa<br />
mục nước ta. Đến khoa Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tư (1919) của bản<br />
triều, thi Hội cho cống sĩ, dùng cả quốc văn, Pháp văn, Hán văn, ấy là<br />
khoa kết cục khoa cừ nước ta. Kể trước đến sau, gồm 844 năm cả<br />
thảy. Trong khoảng thời gian đó, văn thức phép thi, có cái theo, có cái<br />
đổi, chỗ tường chồ lược, xưa sau thực có khác nhau. Hoặc đấc hoặc<br />
thất, hoặc thịnh, hoặc suy cùng với tiếng thơm của những tiến sĩ, cống<br />
sĩ mà các triều nối nhau lấy được, đều chép đù trong sử sách và khoa<br />
phả của các nhà danh nho lịch đại, đại khái đã từng bình luận tường<br />
minh đù cả. Đó vốn không phải là điều mà kẻ mạt học, kiến thức nông<br />
cạn có thể dám dự bàn.<br />
Nhừng nghĩ, bây giờ học giới canh tân, khoa cử đình bãi. Các thê<br />
văn bát cổ, thơ phú, chiếu biểu, sách luận cùng như các cách thức lúc<br />
đi thi: vác lều, mang tráp, vào trường, phân vi giờ đây khác nào như<br />
140<br />
<br />
chiếc mũ miện cũ của thời Đường Ngu, mảnh quần rách nơi sông Thù<br />
Tứ.(t.2a)<br />
Từ nay về sau, người ta. miệng không còn nhắc lại. mắt không<br />
còn nhìn qua, tai không còn nghe chuyện khoa cử nữa. Neu không sưu<br />
tầm ghi chép thành sách mà biên tập lại. lưu lại kỷ niệm cùa một thời<br />
khoa cử thì e rằng những người nghiên cứu khảo cổ đời sau lại thở<br />
than ràng “tư liệu văn hiến chảng đủ minh trưng”, người nước Nam<br />
mà chảng tường việc nước Nam. Khi ấy, liệu có thể tránh khỏi chuyện<br />
người ta chê cười cho rằng đó là đồ “Tịch Đàm vong tổ” hay không?<br />
Vi thế cho nên, tôi đã nhân những lúc việc công rành rồi, tường tra<br />
chính sử, dã sừ cả Nam lẫn Bắc, cũne như sách đăng khoa lục của các<br />
nhà, điền lệ lịch triều, tham khảo sự đồng dị, diên cách của phép thi<br />
trong lịch đại, trên từ khoa Át Mão năm Thái Ninh triều Lý, dưới đến<br />
khoa Kỷ Mùi của niên hiệu Khải Định bản triều, biên tập thành sách,<br />
phan chia làm thành các phần như: Khoa cử tầm nguvên, Khoa thứ thí<br />
pháp thông khảo, đặt tên là "Hoàng Việt Khoa cừ kính - Tấm gương<br />
soi khoa cử nước Hoàng Việt”. Tôi cũng không dám nói bừa rằng đây<br />
là trước tác của tôi mà chẳng qua đó chỉ là sự hỏi han, sao lục, làm<br />
cho dựa cho người sau khi khảo cổ mà thôi. Người nào khen, hay có ai<br />
bất tội, tôi cũng đành (t.2b) chịu theo công luận mà thôi.<br />
Khải Định năm thứ tư, Kỷ Mùi, mùa đông, Sơn Thạch Bằng<br />
Giang Nghĩa viên Nguyễn Văn Đào cẩn thư.<br />
<br />
(t.3a) KHOA CỪTẢM NGUYÊN<br />
(Nguồn gốc klioa cử)<br />
Khoa cử đã có từ lâu rồi, lưu hành qua các đời, lấy được người tài<br />
cũng nhiều. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn chảy đến.<br />
Kẻ hưởng kết quả cùa khoa cử, không thể không ngược dòng tìm đến<br />
nguyên nhân nảy sinh khoa cử.<br />
Khảo xét khoa cử ở Trung Quốc, từ thời Tam Đại trở về trước,<br />
vần còn chưa đặt. Vua Văn đế nhà Hán, đặt ra hai khoa: Hiếu liêm và<br />
Hiền lương đề chọn kè sĩ. Khoa mục nảy sinh, thực là từ đó. Danh<br />
hiệu trạng nguyên, bắt đầu từ thời Vũ hậu nhà Đường. Danh hiệu giải<br />
141<br />
<br />