Liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp: Sự cần thiết để thực hiện tự chủ đại học
lượt xem 2
download
Bài viết "Liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp: Sự cần thiết để thực hiện tự chủ đại học" trình bày vai trò và một số vấn đề về liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp; đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả liên kết đại học - doanh nghiệp nhằm góp phần thực hiện tự chủ đại học hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp: Sự cần thiết để thực hiện tự chủ đại học
- LIÊN KẾT GIỮA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ DOANH NGHIỆP: SỰ CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Vũ Công Thương1 Trường Đại học Sài Gòn Abstract To carry out fundamental and comprehensive renovation of education and training, improve the quality of human resources, develop people, meet the requirements of the Fourth Industrial Revolution and international integration, self-reliance is a necessary requirement for higher education institutions. The article presents the role and some issues of linkage between universities and enterprises; proposes a number of solutions to improve the efficiency of university-enterprise linkages in order to contribute to the current university autonomy. Keywords: Enterprise, association, autonomy, university, role. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tự chủ đại học (TCĐH) là một xu hướng mang tính toàn cầu trong quản trị giáo dục tại nhiều quốc gia phát triển. Đặc biệt, đối với nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Đẩy mạnh TCĐH” [1]. Để thực hiện TCĐH cần quan tâm đến nhiều vấn đề, trong đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm bảo các cơ sở giáo dục đại học có thể thực hiện tự chủ là yếu tố quyết định. Thách thức đặt ra đối với cơ sở giáo dục đại học hiện nay là phải thay đổi hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Bởi vậy, các cơ sở giáo dục đại học cần phải chuyển đổi quá trình đào tạo theo tiếp cận năng lực với định hướng ứng dụng nghề nghiệp. Để thực hiện tốt điều này liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quan trọng góp phần để các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH) thực hiện tự chủ. 2. NỘI DUNG 2.1. Vai trò liên kết giữa CSGDĐH với doanh nghiệp 2.1.1. Tự chủ đại học và những yêu cầu đặt ra đối với việc liên kết với doanh nghiệp Tự chủ đại học không phải là một thuật ngữ mới đối với giáo dục đại học trên thế giới và ở Việt Nam. Theo Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam cho rằng, TCĐH có nghĩa là “một cơ chế đồng bộ và phù hợp để cung cấp cho tổ chức GDĐH, một thực thể pháp lý có mối liên hệ cơ học và thống nhất về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với nghề nghiệp, tổ chức và nguồn nhân lực, phân bổ và sử dụng các nguồn lực… tạo động lực cho phát triển bền vững và hoạt động hiệu quả của CSGDĐH nhằm thực hiện tốt nhất mục đích nâng cao chất lượng GDĐH, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và quốc gia và hội nhập quốc tế” [2]. Tự chủ đại 1 vcthuong@sgu.edu.vn 553
- học được xác định bởi mối quan hệ giữa Nhà nước, xã hội và cơ sở giáo dục đại học. Điều đó, một mặt, phát huy năng lực nội tại của các CSGDĐH; mặt khác, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền đối với các CSGDĐH. Hiện nay, tự chủ là quyền phổ biến của các CSGDĐH trên thế giới, tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà mỗi nước thực hiện tự chủ với những mức độ và cách thức khác nhau. Ở Việt Nam, TCĐH được xác định tại khoản 2, điều 32, Luật bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật GDĐH 2018, bao gồm các nội dung chủ yếu như: Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn, bao gồm: ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành đào tạo, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật; quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự, bao gồm: ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với GV, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong CSGDĐH phù hợp với quy định của pháp luật; quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm: ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho SV và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật. Trong điều kiện hiện nay, để đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần phải tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các CSGDĐH. Song để thực hiện được tự chủ, các cơ sở giáo dục đại học phải quan tâm tới nhiều yếu tố, trong đó cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ GV, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ. Trong đó, việc mở rộng liên kết với các doanh nghiệp là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng để các CSGDĐH nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học góp phần thực hiện tốt quyền tự chủ. 2.1.2. Vai trò liên kết giữa CSGDĐH với doanh nghiệp Liên kết đào tạo giữa CSGDĐH với doanh nghiệp là sự hợp tác trực tiếp hoặc gián tiếp giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng lao động, nhằm mục đích nâng cao tính thực tiễn và chất lượng đào tạo, hỗ trợ lẫn nhau vì lợi ích của cả hai bên. Có nhiều nội dung, hình thức và cách thức liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp, song cơ bản là hoạt động liên kết liên quan đến đào tạo (tham quan thực tế, nhận SV thực tập tốt nghiệp, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; xây dựng mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo; trao đổi chuyên môn, học tập kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV), nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, hoạt động cung cấp dịch vụ và tư vấn đào tạo theo địa chỉ, hợp đồng đặt hàng giữa trường đại học và doanh nghiệp nhằm đảm bảo SV sau khi tốt nghiệp có việc làm và là cơ hội để SV khởi nghiệp; tổ chức bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho người lao động các doanh nghiệp; liên kết trong quản trị trường đại học, doanh nghiệp tham gia vào Hội đồng trường cùng xây dựng chiến lược phát triển nhà trường… Mục đích cơ yếu của sự liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp là nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo và sự phát triển bền vững để hai bên cùng có lợi, cụ thể là: 554
- Thứ nhất, đối với các CSGDĐH. Khi liên kết với doanh nghiệp, CSGDĐH sẽ được các doanh nghiệp góp ý, tư vấn về xây dựng mục tiêu, chuẩn đầu ra, cấu trúc, nội dung chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo…, sát hợp với thực tế và nhu cầu xã hội, đảm bảo được chất lượng “đầu vào” cũng như quá trình đào tạo và đầu ra của “sản phẩm” - SV tốt nghiệp. Từ đó, nâng cao vị thế, uy tín của cơ sở đào tạo và tăng thế mạnh trong công tác tuyển sinh; CSGDĐH được tham gia, trao đổi các thông tin trong nghiên cứu khoa học, tư vấn ứng dụng và chuyển giao công nghệ phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về cơ sở vật chất hoặc có thêm được đội ngũ hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho SV từ doanh nghiệp. Thứ hai, đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện nay, mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, đem lại nhiều lợi nhuận, thì cần phải chủ động tạo ra các thay đổi đột phá có chất lượng cao, điều đó phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ lao động. Bởi vậy, khi liên kết với các CSGDĐH, một mặt, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội lựa chọn nhân lực tốt nhất, không mất thời gian, chi phí tuyển dụng và đào tạo lại lao động; mặt khác, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận, trao đổi các thông tin nghiên cứu khoa học với các CSGDĐH và sớm tiếp nhận những thành tựu của các nhiệm vụ khoa học có chất lượng, để áp dụng vào sản xuất, giúp các doanh nghiệp đạt được hoặc duy trì ưu thế cạnh tranh trong thị trường và là cơ hội để các doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, hình ảnh, uy tín của mình trong xã hội. Thứ ba, đối với SV. Khi cơ sở giáo dục liên kết với doanh nghiệp, SV có cơ hội nhận được sự hỗ trợ học bổng, được hưởng chế độ ưu đãi trong học tập, thực tế, thực tập tại các doanh nghiệp, được trang bị các kiến thức mang tính học thuật, tiếp cận môi trường làm việc thực tế, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và năng lực bản thân cần thiết cho công việc sau này. Hơn nữa, liên kết giữa CSGDĐH với doanh nghiệp giúp SV mở rộng được mối quan hệ và có cơ hội tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp. Thứ tư, đối với xã hội. Việc liên kết giữa CSGDĐH và doanh nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc thu hút và khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội vào sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, tạo tiền đề để phát triển kinh tế tri thức. Nếu CSGDĐH và doanh nghiệp thực hiện liên kết có hiệu quả sẽ tạo ra công ăn việc làm cho SV sau khi tốt nghiệp, hạn chế lãng phí chi phí và nguồn nhân lực được đào tạo, thúc đẩy SV nỗ lực khởi nghiệp, kích thích tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2.2. Một số vấn đề liên kết giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp hiện nay Chủ trương liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ rất sớm. Ngay từ năm 1979, Bộ Chính trị khóa IV đã ra Nghị quyết số 14- NQ/TW ngày 11/01/1979 về Cải cách giáo dục, trong đó nêu rõ: “Trong cải cách giáo dục lần này, phải làm cho công tác giáo dục thấu suốt hơn nữa nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” [3]. Nghị quyết số 29-NQ-TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định 555
- hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế tiếp tục đề ra chủ trương: “Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh” [4]. Đặc biệt, Luật GDĐH 2012, tại Khoản 4,6 Điều 12 quy định: “Gắn đào tạo với nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa CSGDĐH với tổ chức nghiên cứu khoa học và với doanh nghiệp… Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền và trách nhiệm tiếp nhận, tạo điều kiện để người học, GV thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo” [5]. Những chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước nói trên đã tạo ra những tiền đề cơ bản, có tác dụng định hướng và thúc đẩy sự liên kết giữa CSGDĐH với doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy, việc hợp tác giữa các CSGDĐH và doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn về nhiều mặt như về cơ chế chính sách, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, thông tin về CSGDĐH, doanh nghiệp... Theo tác giả Vũ Tiến Dũng, “Qua khảo sát một số công trình nghiên cứu cũng như kết quả điều tra xã hội học của các tổ chức trong và ngoài nước về thực trạng mối quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo đại học ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, chỉ có 4% doanh nghiệp hợp tác với các cơ sở đào tạo đại học trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; 29% doanh nghiệp tham gia hội thảo, tọa đàm, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo. Hầu hết mối liên kết nhà trường và doanh nghiệp đều xuất phát từ nhu cầu trước mắt, kế hoạch ngắn hạn của doanh nghiệp chứ không xuất phát từ tầm nhìn dài hạn (78% so với 22%). Mức độ hợp tác chủ yếu là ở “sự hiểu biết phát triển ban đầu” (214 trong tổng số 493 trường đại học mà các doanh nghiệp ghi là “có sự hợp tác với”), hoặc “hợp tác ngắn hạn” (174 trong tổng số 493). Chỉ có 58 và 47 trường đại học đang lần lượt được coi là “đối tác lâu dài” và “đối tác chiến lược” của các doanh nghiệp” [6]. Đặc biệt, theo báo cáo của Vụ GDĐH, Bộ Giáo dục và Đào tạo về một khảo sát vào tháng 6/2021, “trong số 135 CSGDĐH có báo cáo gửi về thì 40,7% cơ sở đào tạo có hoạt động hợp tác với doanh nghiệp cả trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các lĩnh vực khác; 44,4% có hợp tác trong các lĩnh vực khác; 8,1% có hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin và 6,7% không có hoạt động hợp tác nào với doanh nghiệp, tập trung chủ yếu vào các cơ sở đào tạo các khối ngành đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật…. hoạt động hợp tác nổi bật nhất giữa trường đại học - doanh nghiệp trong đào tạo là hoạt động tiếp nhận SV đến kiến tập/thực tập (gần 90%). Hoạt động hợp tác chiếm vị trí thứ 2 là tài trợ cho các hoạt động liên quan đến đào tạo và ngoại khóa bao gồm: trao học bổng SV, tổ chức ngày hội việc làm, và tuyển dụng SV mới tốt nghiệp (gần 70%). Việc các doanh nghiệp tham gia góp ý cho chương trình đào tạo, tham gia giảng dạy dừng lại ở mức độ 30%” [7]. Có thể thấy, việc hợp tác giữa CSGDĐH và doanh nghiệp ở nước ta vẫn còn hạn chế. Hệ sinh thái hợp tác giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp mới chỉ đang khởi tạo. Do vậy, trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay, sự liên kết chặt chẽ giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp được xem là một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển bền vững của cả hai bên và lợi ích chung của toàn xã hội. Đặc biệt, đối với các CSGDĐH đây là yếu tố đặc biệt quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ GV - điều kiện quan trọng để thực hiện TCĐH. 556
- 2.3. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả liên kết giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp góp phần thực hiện TCĐH 2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, thể chế nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa các CSGDĐH và doanh nghiệp Trước hết, cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về nhu cầu đào tạo và hỗ trợ các CSGDĐH trong quá trình đào tạo. Tạo kênh giao tiếp hay mạng lưới liên kết giữa các doanh nghiệp và các CSGDĐH với vai trò thu thập, cập nhật dữ liệu tư vấn, cung cấp các thông tin. Trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đòi hỏi cần phải nhìn nhận đào tạo đại học như một loại hình dịch vụ đặc biệt và khác so với các loại hình dịch vụ thông thường. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, chỉ khi nào tuân thủ quy luật cung cầu thì đào tạo mới gắn với sử dụng, Nhà nước mới gắn với doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Chỉ khi nào có cạnh tranh, thì các CSGDĐH mới thực sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng; nguồn nhân lực được các CSGDĐH đào tạo ra mới có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động trong khu vực và thế giới. Vì vậy, Nhà nước cần phải ban hành, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những cơ chế, chính sách mới, phù hợp với thực tiễn để hệ thống giáo dục nước ta có thể vận hành đồng bộ với cơ chế kinh tế và xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên thế giới. Muốn vậy, cần phải đặt giáo dục trong bối cảnh chịu sự tác động ngày càng mạnh mẽ của các quy luật kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung, cầu và quy luật cạnh tranh. Song, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quy luật kinh tế đó vào phát triển GDĐH, mà trước hết là nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. 2.3.2. Các CSGDĐH cần thực hiện việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, cập nhật chương trình đào tạo một cách đồng bộ. Không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra, thi đánh giá, đầu tư cơ sở vật chất nâng cao trình độ GV Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, cập nhật chương trình đào tạo là nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hình thành và phát triển các kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực sáng tạo, kết hợp hài hòa giữa dạy người, dạy chữ và dạy nghề, đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của các doanh nghiệp trong điều kiện nền sản xuất hiện đại với những thay đổi về công nghệ, thị trường hiện nay. Để thực hiện tốt yêu cầu này, các CSGDĐH cần thực hiện tốt quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khi xây dựng chương trình đào tạo cần có sự phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, “Có cơ chế để người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo, đánh giá năng lực người học và đầu tư cho giáo dục” [8]. Các CSGDĐH cần xây dựng kế hoạch thường xuyên hoặc định kỳ tiếp xúc tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của doanh nghiệp trong thực hiện liên kết đào tạo để xây dựng chuẩn đầu ra, vừa đáp ứng quy định chung, vừa đáp ứng yêu cầu riêng của doanh nghiệp. Mời diện doanh nghiệp có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn tham gia vào các hội đồng thẩm định chương trình đào tạo, xác định chuẩn đầu ra, đánh giá kết quả tốt nghiệp của SV, nhất là, đối với các cơ sở đào tạo về kỹ thuật - công nghệ, kinh tế - quản lý. Bên cạnh đó, các CSGDĐH cần không ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy, kiểm tra, thi đánh giá theo hướng hiện đại hóa, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học 557
- tự cập nhật và đổi mới kỹ năng, phát triển năng lực. Coi trọng đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ dạy học và nghiên cứu khoa học. Có chính sách phù hợp để khuyến khích, động viên đội ngũ GV, viên chức quản lý học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 2.3.3. Các CSGDĐH cần chú trọng hoạt động thực tập, kiến tập của SV Đối với hoạt động kiến tập, thực tập của SV, trường đại học cần xem xét phân bổ thời gian và thời điểm kiến tập, thực tập, một mặt, phù hợp với thời gian, chương trình đào tạo của nhà trường; mặt khác, phù hợp với thực tiễn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời gian SV kiến tập, thực tập tại các doanh nghiệp, CSGDĐH và doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý, đánh giá SV kiến tập, thực tập (các mặt phẩm chất đạo đức, thái độ, kỹ năng, năng lực chuyên môn). Bên cạnh đó, các CSGDĐH cần phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp định kỳ tiến hành khảo sát và công bố công khai kết quả khảo sát về mức độ hài lòng của người sử dụng lao động đối với chất lượng đào tạo của nhà trường, nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện, khách quan hơn về chất lượng đào tạo, xác định rõ hơn yêu cầu của doanh nghiệp và mức độ đáp ứng của SV tốt nghiệp; đề ra các biện pháp khắc phục tồn tại, yếu kém trong công tác đào tạo của trường mình. 2.3.4. Các CSGDĐH cần quan tâm đánh giá chất lượng đào tạo theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo Trong việc đánh giá chất lượng đào tạo, cần chú trọng việc đánh giá “đầu ra”, tức là đánh giá chất lượng đào tạo theo quan điểm của người sử dụng lao động (đánh giá từ phía “cầu”), chứ không tập trung vào đánh giá “đầu vào” và “quá trình” (đánh giá theo quan điểm của cơ sở đào tạo hay đánh giá từ phía “cung”). Theo AUN-QA từ năm 2017 (Tiêu chuẩn 8, 14, 20, 21 theo Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017), đều đòi hỏi sự gắn kết giữa nhà trường với doanh nghiệp, cộng đồng trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. Qua kiểm định chất lượng, với các khuyến nghị của đoàn đánh giá sẽ giúp các CSGDĐH xem xét lại về những mặt mạnh, mặt yếu trong toàn bộ hoạt động của mình (đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng) một cách có hệ thống. Trên cơ sở đó, điều chỉnh, cải tiến các hoạt động theo các mốc chuẩn quy định, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. 2.3.5. Các CSGDĐH cần nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước các cơ quan nhà nước Đó là về các mặt: Tổ chức, quản lý bộ máy, nhân sự của mình; tài chính, mở rộng nguồn thu và khoán chi; thường xuyên sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với thực tế; thường xuyên kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo, phát triển đội ngũ GV và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; hoạt động đào tạo (kế hoạch đào tạo, công tác tuyển sinh, chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo, kiểm tra, đánh giá). Đặc biệt, thực hiện cam kết của CSGDĐH với xã hội về chất lượng đào tạo nhằm động viên, khuyến khích cán bộ quản lý, GV và người học nỗ lực vươn lên trong giảng dạy, học tập và thực hiện tốt sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi và triết lý giáo dục mà nhà trường đã tuyên bố. 558
- 2.3.6. Các doanh nghiệp cần chủ động quan tâm đến hợp tác với CSGDĐH trong quá trình đào tạo để có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội Đặc biệt, các doanh nghiệp cần coi trọng quá trình tiếp nhận SV kiến tập, thực tập nghề, coi đây là quá trình doanh nghiệp tìm kiếm nhân tài phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Đồng thời, nỗ lực hơn trong việc phối hợp với CSGDĐH để tiếp nhận, quản lý, đánh giá hoạt động kiến tập, thực tập của SV. Mặt khác, doanh nghiệp có thể cung cấp cơ hội để trường đại học có thể tìm hiểu nhu cầu và chất lượng lao động, cơ hội hợp tác của doanh nghiệp, phối hợp với CSGDĐH trong việc thiết kế và xây dựng nội dung chương trình đào tạo, nhất là những nội dung học tập và thực tế, thực hành tại doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp hỗ trợ cấp học bổng cho SV, tài trợ cho các chương trình đào tạo, cấp kinh phí để hỗ trợ các CSGDĐH xây dựng phòng thực hành, thí nghiệm… Điều đó, sẽ góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và doanh nghiệp có điều kiện để phát hiện ra những SV giỏi, chuẩn bị cho việc tuyển dụng của họ sau này. 2.3.7. Kết hợp hài hòa các lợi ích giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp Để việc liên kết giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp thiết thực, hiệu quả và bền vững, các CSGDĐH và doanh nghiệp phải nhận thức rõ về lợi ích. Trong đó, các CSGDĐH cần nắm bắt kịp thời, chính xác nhu cầu nguồn lực và tìm ra cách thức đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của doanh nghiệp để điều chỉnh quy hoạch, quy trình đào tạo một cách hợp lý. Doanh nghiệp đóng vai trò là nhà cung cấp thông tin phản biện để CSGDĐH nắm được nhu cầu của thị trường lao động; thường xuyên trao đổi, góp ý chương trình đào tạo, mô hình, phương pháp đào tạo và tài trợ cho các CSGDĐH về tài chính, cơ sở vật chất, thông tin và các nguồn lực trong khả năng của doanh nghiệp. Có như vậy, hoạt động liên kết giữa các CSGDĐH với doanh nghiệp mới có ý nghĩa thiết thực, hiệu quả bền vững. 3. KẾT LUẬN Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt. Do đó, để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, xây dựng nền giáo dục “thực học, thực nghiệp” hiện nay, TCĐH là vấn đang được đặt ra cấp thiết. Việc liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp là xu hướng tất yếu hiện nay, nhằm mang lại giá trị lâu dài cho các bên tham gia. Nhất là, đối với cơ sở giáo dục đại học liên kết với doanh nghiệp đã mang lại lợi ích to lớn trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đó chính là yếu tố cơ bản để các cơ sở giáo dục đại học tự chủ. Tuy nhiên, việc thực hiện TCĐH là vấn đề hết sức khó khăn, có liên quan đến nhiều yếu tố. Nếu các CSGDĐH không chuẩn bị tốt các điều kiện, thì việc tự chủ khó có thể thực hiện được. Trong đó, liên kết đào tạo giữa CSGDĐH và doanh nghiệp có vai trò quan trọng, đều đem lại lợi ích cho cả hai chủ thể tham gia, người học và xã hội, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, năng lực cạnh tranh của nguồn lực quốc gia. Đặc biệt, đối với CSGDĐH việc liên với doanh nghiệp sẽ là một trong những yếu tố quan trọng, tạo cơ sở vững chắc để thực hiện tự chủ trong bối cảnh hiện nay. 559
- ________________ Tài liệu tham khảo [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập I), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 137. [2] Hiệp hội Các trường đại học và cao đẳng Việt Nam (2017), Tự chủ đại học: Cơ hội và thách thức, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, tr. 22. [3] Phạm Văn Đồng (2011), Nghị quyết của Bộ Chính trị khóa IV về cải cách giáo dục. Nguồn: https://dangcongsan.vn, ngày 9/12/2011. [4] Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [5] Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học, Luật số 08/2012/QH13 ngày 18/6/2012. [6] Vũ Tiến Dũng (2016), Một số giải pháp tăng cường liên kết đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, tr. 57. [7] Trung tâm Truyền thông giáo dục (2022), Đề xuất chính sách hỗ trợ, thúc đẩy hợp tác đại học - doanh nghiệp. Nguồn: https://moet.gov.vn [8] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Hỏi - đáp về một số nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 45. 560
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kỷ yếu hội thảo khoa học: Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong việc giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp
363 p | 74 | 18
-
Liên kết đào tạo giữa nhà trường đại học với doanh nghiệp ở Việt Nam
5 p | 134 | 15
-
Liên kết đào tạo sở hữu trí tuệ giữa các trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp ở Việt Nam trong cách mạng 4.0
10 p | 71 | 7
-
Nghiên cứu mô hình liên kết đào tạo “nhà trường - doanh nghiệp” cho chuyên ngành nhà hàng - khách sạn tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
9 p | 42 | 5
-
Phương pháp và hình thức liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong quá trình đào tạo – tổng quan sơ lược
8 p | 10 | 4
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở giáo dục đại học
8 p | 21 | 4
-
Thực trạng liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay
8 p | 22 | 4
-
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch theo hướng kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường tại trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên
4 p | 65 | 4
-
Liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghệ thông tin (Nghiên cứu tại trường Đại học Thành Đô)
8 p | 10 | 3
-
Thực trạng và một số giải pháp trong hợp tác đào tạo - phát triển nguồn nhân lực giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp hiện nay
5 p | 9 | 3
-
Đặc điểm mô hình liên kết đào tạo đại học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh
4 p | 9 | 2
-
Liên kết giữa các cơ quan thông tin thư viện của các trường đại học và các viện nghiên cứu - ThS. Chu Tuyết Lan
5 p | 71 | 2
-
Giải pháp liên kết đào tạo giữa trường đại học Hà Tĩnh và các doanh nghiệp lào nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên Lào
5 p | 40 | 2
-
Nâng cao hiệu quả mối liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở giáo dục đại học trong việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghiệp
11 p | 11 | 2
-
Liên kết giữa cơ sở đào tạo giáo viên với trường phổ thông trong đào tạo giáo viên
9 p | 32 | 2
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến liên kết đào tạo giữa trường đại học với doanh nghiệp
10 p | 8 | 1
-
Liên kết bảo hộ sở hữu trí tuệ giữa các trường đại học, cao đẳng và đơn vị, doanh nghiệp ở Việt Nam trong cách mạng 4.0
7 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn