Loài lưỡng cư ( phần 2 ) Đặc điểm thích nghi tự vệ ở lưỡng cư (Amphibia)
lượt xem 44
download
Loài lưỡng cư ( phần 2 ) Đặc điểm thích nghi tự vệ ở lưỡng cư (Amphibia) - Lưỡng cư có nhiều kẻ thù trong động vật Có xương từ cá đến thú và động vật Không xương sống (nhện độc, bò cạp, rết ...). Sự tự vệ của chúng thường có tính chất thụ động, chúng chạy trốn kẻ thù và tìm nơi ẩn nấp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Loài lưỡng cư ( phần 2 ) Đặc điểm thích nghi tự vệ ở lưỡng cư (Amphibia)
- Loài lưỡng cư ( phần 2 ) Đặc điểm thích nghi tự vệ ở lưỡng cư (Amphibia) - Lưỡng cư có nhiều kẻ thù trong động vật Có xương từ cá đến thú và động vật Không xương sống (nhện độc, bò cạp, rết ...). Sự tự vệ của chúng thường có tính chất thụ động, chúng chạy trốn kẻ thù và tìm nơi ẩn nấp.Ví dụ cóc bùn khi gặp nguy hiểm dùng chân sau đào một cái lỗ trong vài phút rồi trốn dưới đó. - N hiều loài có màu sắc mang tính chất tự vệ rõ rệt. Nhái bám sống trên thân cây có màu vàng đất hay màu nâu (hót cổ). Các loài bám trên lá cây thường có màu xanh (chàng hiu). Nhái bám nhỏ (Philautus) dễ lẫn trong đám đ ịa y. Nhiều loài ếch có vết đen trên thân làm ngụy trang những bộ phận chủ yếu của con vật. (mắt, đùi, ống chân...). Cóc thường dễ lẫn với đám đất. Nhiều loài lưỡng cư có thể thay đổi m àu sắc cho phù hợp với môi trường (ếch, nhái, chàng hiu...). Một số loài lưỡng cư khác có màu sắc sặc sỡ, có tính chất báo hiệu, mặt bụng của cá cóc Tam Ð ảo có màu da cam, cóc tía (Bombina) khi gặp nguy hiểm, chúng cong lưng, nằm ngửa để lộ phần da dưới bụng có màu sắc sặc sỡ để kẻ thù phải sợ. - Một số loài lưỡng cư có khả năng giả chết. Cóc tía, nhái bầu khi gặp nguy hiểm thì nắm ngửa, nhắm mắt và nín thở. - Một số lo ài lưỡng cư không đuôi phình thân thật lớn để dọa kẻ thù, miệng mở to để dọa nạt. Thân phồng lớn cũng giúp con vật ẩn chật trong khe hốc khó bị lôi ra ngoài (ểnh ương, cóc, nhái..).
- - Một số loài lưỡng cư cỡ lớn khi bị tấn công đã tìm cách cắn lại (Amphiuma), có loài phát ra tiếng kêu. Vũ khi tự vệ lợi hại nhất của lưỡng cư là các tuyến da tiết ra chất độc. Một số tuyến độc rõ ràng phân tán hay tập trung thành các khối tuyến để bảo vệ các nơi trọng yếu của cơ thể như ở đ ầu. Thông thường chất độc kích thích màng nhầy của miệng kẻ thù làm cho chúng không dám tấn công liên tiếp. Chất độc của cóc tiêm vào chim thú sẽ làm ngừng hô hấp và liệt cơ. Nọc của cóc Bufo marima làm chết chó khi cắn p hải con vật. Ðặc biệt ếch độc N am Mỹ có nhựa rất độc, các thợ săn Colombia dùng đ ể tẩm tên, có thể giết chết khỉ lớn hoặc báo. Nguồn thức ăn của lưỡng cư (Amphibia) Lưỡng cư có thể ăn động vật, thực vật và ăn tạp. Nhóm ăn động vật phổ biến hơn cả, nhất là ở các cá thể trưởng thành. Thức ăn chủ yếu gồm côn trùng, giun đất, giáp xác, nhện, thân mềm, cá ... - Chế độ ăn thay đổi tùy theo tuổi. Hầu hết nòng nọc của các loài ếch đều ăn chất bã động vật và thực vật. Nhái con ăn chủ yếu sâu bướm, kiến, nhện. Trong khi nhái lớn ăn nhiều nhóm côn trùng. Ếch đồng còn nhỏ ăn những động vật có vỏ mềm (châu chấu nhỏ, kiến, nhện) còn ếch đồng lớn ngoài ăn côn trùng còn ăn cua, ốc, giun, có khi cả cá con. Có rất nhiều trường hợp ếch ăn cả nòng nọc của chúng (hiện tượng ăn đồng loại). - Thành phần thức ăn thay đổi tùy theo tầm vóc của loài vật. Các loài lưỡng cưcó kích thước trung bình và lớn (ếch đồng, nhái bám lớn ... ) có miệng rộng, ăn nhiều loại thức ăn và các nhiều cỡ côn trùng có vỏ cứng. Các loài lưỡng cư có cỡ nhỏ, miệng hẹp (ểnh ương, cóc nước, nhái bầu...) chỉ ăn một số ít loài, chủ yếu các loại côn trùng có vỏ mềm (kiến, mối...).
- Ở nước ta, đa số các loài lưỡng cư ăn tạp. Cá cóc Tam Ðảo (Paramesotriton) ăn côn trùng, nhện, giun, nòng nọc, rong rêu. Ếch đồng ăn 22 lo ại thức ăn khác nhau, nhái 18 loại chủ yếu là côn trùng. Cóc nhà không những ăn nhiều côn trùng, nhện, nhiều chân mà còn ăn cả thực vật (hạt cỏ, thóc, hạt bí...). Ở vùng nhiệt đới, thành phần thức ăn phong phú, nên một số loài lưỡng cư chuyển sang ăn chuyên. Ếch giun (Ichthyophis) chuyên ăn giun đất, cóc rừng (Bufo galeatus) ở rừng nứa chuyên ăn kiến, ếch gai (Rana spinosa) chuyên ăn ếch nhái khác. - Cách bắt mồi thay đổi tùy loài. Cá cóc sống dưới nước bắt mồi bằng hàm, ngoạm các loại thức ăn tiếp xúc với miệng còn chân trước có vai trò giữ mồi cho chặt. Phần lớn các loài sống trên cạn bắt mồi bằng lưỡi, bắt những con mồi cử động và loại bỏ các vật không ăn được. Lưỡi phóng ra ngoài nhanh như tia chớp, dính con mồi vào đ ầu lưỡi, rồi nhanh chóng thu vào miệng. Khả năng nhịn đói của lưỡng cư cũng khá cao: nòng nọc đến cả tháng, cóc nhà đ ến 1 năm, cá cóc có đuôi mù đến 8 năm. Sự vận chuyển ở lưỡng cư (Amphibia) Sự vận chuyển của lưỡng cư phù hợp mật thiết với môi trường sống của nó. Các loài lưỡng cư có đuôi sống với nước chuyển vận bằng cách bơi, các loài này có đuôi phát triển, chi yếu. Chúng di chuyển bằng cách quẩy đuôi như cá, chi ép vào hai bên thân (cá cóc Tam Ð ảo) hoặc bằng cách uốn to àn thân (cá cóc mù).
- - Các loài lưỡng cư không đuôi (cóc, ếch ...) bơi bằng hai chân sau cử động đồng thời như bơi chèo. Những lo ài nầy đều có chân sau dài, có màng da nối các ngón chân sau làm tăng sức đẩy. Một số loài còn có màng chân trước. - Các loài lưỡng cư không đuôi sống trên cạn chuyển vận bằng cách nhảy, do sự duỗi thẳng đột ngột của chi sau. Chi trước làm vai trò đệm khi con vật rơi xuống đất. Các loài nhảy càng giỏi càng có thân thon dài, đầu nhọn, chi sau dài và mảnh, trọng lượng cơ thể trung bình hay nhỏ (chàng hiu, nhái ...). Nhái bầu vân (Microhyla) nhảy xa 1,2m và cao 0,5m (mỗi bước nhảy có thể gấp 80 lần chiều dài cơ thể), nhái (Rana limnocharis) nhảy xa 0,6m và cao 0,2m, cóc (Bufo melanostictus) nhảy kém nhất xa 0,3m - 0,4 m và cao 0,15m. Một số lo ài chẫu như chẫu xanh rừng Cúc Phương nhảy khá giỏi. Trong mùa sinh sản con cái mang con đực trên lưng chúng có thể nhảy từ cành lá cây này sang cây khác cách xa nhau 10 - 12m. Một số loài ếch nhái và chàng hiu (Rana rugulosa, Rana limnocharis...) có thể nhảy thia lia trên mặt nước một thời gian trước khi nhào xuống nước. - Chạy hay đi là cử động không phổ biến ở lưỡng cư. Một số ít loài lưỡng cư có đuôi có thân ngắn chạy nhanh như thằn lằn và khi chạy cũng uốn thân.
- - Một số loài lưỡng cư không đuôi như cóc đôi khi cũng bò. Chúng bò bằng cử động xen kẻ của chi trước và chi sau nhưng bò rất chậm. - Các loài lưỡng cư không đuôi sống trên cây (nhái bén, hót cổ...) chuyển vận phổ biến nhờ trèo. Ngón chân và ngón tay của các loài này dài, đầu mút mở rộng thành giác bám. Nhờ những giác bám này chúng có thể dính chặt vào cành lá ho ặc bò ngước trên thân cây. Ðặc biệt nhái lá Nam Mỹ (Phyllomedusa) còn có ngón chân cái đối diện với các ngón khác. Một số loài có tuyến tiết chất dính, dù ngón chân không nở rộng thành giác bám vẫn bám được vào lá cây hay vỏ cây để giúp leo trèo. Điều kiện sống Lưỡng cư (Amphibia) Lưỡng cư phân bố ở nước ngọt, không khí nóng và ẩm. Do đời sống lệ thuộc chặt chẽ vào độ ẩm và nhiệt độ mà lưỡng cư vắng mặt ở vùng sa mạc khô cằn và vùng địa cực trong khi chúng rất phong phú và đa d ạng ở những vùng nhiệt đới nóng và ẩm. - D a của lưỡng cư là cơ quan hô hấp vô cùng quan trọng. Da trần, ẩm thuận lợi cho sự khuếch tán khí và độ ẩm của da giảm cùng độ ẩm của môi trường ngo ài. Không khí càng khô sự hô hấp càng không thuận lợi và thân nhiệt càng giảm dẫn đến bị chết. Mức độ hô hấp qua da cũng thay đổi tùy loài và tùy nơi ở. Các loài sống ở nơi khô ráo, thường có da hóa sừng để giảm bớt sự thoát hơi nước ở b ề mặt thân, hơn nữa chúng hoạt động vào buổi chiều và ăn đêm nên tránh được thời tiết khô ráo ban ngày. - Thân nhiệt của lưỡng cư không những tùy thuộc nhiệt độ của môi trường như ở cá và bò sát mà thường thấp hơn từ 2 - 30C. Thí dụ một loài
- nhái bén ở California khi trời lạnh nhiệt độ cơ thể cao hơn nhiệt độ không khí nhưng khi trời nóng nhiệt độ cơ thể thấp hơn. - Cấu tạo đặc biệt của da lưỡng cư làm chúng không thể sống trong nước có hàm lượng muối 1 - 1 ,5% vì ở nồng độ này cân bằng thẩm thấu qua da bị phá hủy. Do đó lưỡng cư không thấy ở vùng nước lợ cũng như ở các đảo đại dương. Tuy nhiên một số loài vẫn có khả năng sống ở nước lợ. Ở Philippin có loài ếch Rana moodei sống trong hang cua nước lợ và ấu trùng chịu đựng hàm lượng muối 2,1%. Ở các vùng ven biển nước ta, các loài cóc, nhái vẫn sống kiếm ăn bên các vũng nước lợ. Ðộ pH cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của trứng lưỡng cư khi pH giảm thì trứng lưỡng cư có thể không p hát triển (một số loài trứng chịu đ ựng đ ến pH= 3,8). Về mặt sinh thái học ta phân biệt ba nhóm: Nhóm ở cây, nhóm ở đất và nhóm ở nước. Nhóm ở cây và ở đất gồm chủ yếu các loài thuộc bộ Không đuôi. - Nhóm ở cây phổ biến nhất, đa số thuộc hai họ Nhái bám (Rhacophoridae) và Nhái bén (Hylidae). Các loài ở cây có cấu tạo đặc biệt thích hợp cho sự leo trèo. Nhái bén (Hyla ) có ngón chân nở rộng thành giác bám, có thêm rèm biểu bì và tuyến tiết chất dính giúp con vật bám được vào mặt phẳng thẳng đứng. Nhiều loài nhái bám như hót cổ (Rhacophorus) có đầu ngón chân nở rộng thành giác bám, có đốt sụn trung gian giữa hai đốt ngón chân làm chúng dễ dàng nắm cành cây để leo trèo. Hơn nữa một số loài có màng da nối ngón chân làm chúng có thể nhảy chuyền từ cành này sang cành khác, có khi xa đến 10m (chẫu xanh ở rừng Cúc Phương). Màng này giúp hạn chế tốc độ rơi của con vật. - Nhóm ở đất gồm nhiều loài ở bộ K hông đuôi, một số ít loài bộ có đuôi và không chân. Các loài không đuôi sống ở đất thường tìm kiếm những hang hốc, khe đất trong tự nhiên để làm nơi ở. Một số loài nầy có thể đào đ ất bằng chân sau, các loài này đều có chi ngắn và khỏe, thiếu khả năng nhảy xa. Cóc đào đất bằng cách dùng chân sau đạp lần lượt và dũi phần sau thân vào đất. Cử động lần lượt của các chân dẫn đến hình thành khớp động giữa xuơng chậu và đốt sống chậu nhờ mấu b ên rất lớn. Ngoài ra da đầu của cóc cũng hóa xương một phần để bảo vệ đầu con vật khỏi bị thương do đất cát rơi xuống. Một số loài của bộ không chân chuyên đào đ ất như ếch giun (Ichthyophis) thường xuyên sống trong
- đất, có cơ thể hình rắn, thiếu chi, một số giác quan như tai, mắt bị tiêu giảm nhưng có đầu cứng như một công cụ để đ ào hang. - Nhóm ở nước gồm chủ yếu các lo ài thuộc bộ có đuôi và một số nhỏ loài thuộc bộ không đuôi. Các loài có đuôi sống dưới nước có thân d ài, chi nhỏ, đuôi d ài với vây đuôi phát triển. Cá cóc khổng lồ (Megalobatrachus) sống thường xuyên ở sông có vây đuôi rất lớn. Lo ài sống ở suối, thích nghi với nước chảy nhanh, có chi phát triển và có vuốt giúp con vật bám vào giá thể, do môi trường nhiều oxy nên phổi bị tiêu biến, hoàn toàn thở bằng da như cá cóc vuốt (Onychodactylus). Loài sống ở sông hay hồ ngầm thiếu ánh sáng thường thiếu sắc tố và mắt nhỏ (như cá cóc mù Proteus). Số loài của bộ không đuôi sống ở nước không nhiều. Hầu hết chỉ có một phần đời sống trong nước, thường vào thời kỳ sinh sản. Chúng có xương chậu khớp động với đốt sống chậu, có bàn chân sau ngắn và màng da nối các ngón chân (nhái, chẫu ...). Một số lo ài con đực có túi thanh âm có tác d ụng như cái phao bơi (cóc nước). Ðặc biệt một số loài sống ở nước chảy nhanh như suối, thác có giác bám ở đầu ngón chân (ếch ang, ếch sần ...) giúp chúng có thể bám chặt vào vách đá dựng thẳng, ngay trong lòng nước.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Việt Nam Sách đỏ (Phần 1 - Động vật): Phần 2
335 p | 315 | 109
-
Cấu trúc nano - Polyme chức năng và vật liệu lai: Phần 2
300 p | 190 | 86
-
Giáo trình Động vật có xương sống (Tập 1: Cá và Lưỡng cư): Phần 2
251 p | 167 | 47
-
Loài lưỡng cư ( phần 3 ) Sự phát triển hậu phôi (sự biến thái)
5 p | 189 | 23
-
Loài cá ( phần 2 ) Hệ tiêu hoá Cá xương
6 p | 92 | 17
-
Thí nghiệm quan trắc khảo sát môi trường - Phần 2 - Bài 11
23 p | 114 | 16
-
Loài cá ( phần 5 ) Hệ thần kinh Lớp Cá sụn
5 p | 115 | 14
-
Giáo trình Vật liệu kỹ thuật: Phần 2 (Lương Văn Quân)
71 p | 39 | 7
-
Tóm tăt Luận án Tiến sỹ Hóa phân tích: Nghiên cứu sự phân bố hàm lượng của các ion kim loại nặng (Cu 2+ , Pb 2+ , Zn 2+ ) lên sinh khối một số loại rau (cà rốt, khoai tây, bó xôi, xà lách mỡ) được trồng trên nền đất chuyên canh rau Đà Lạt.
26 p | 116 | 6
-
Giáo trình Vi sinh công nghiệp: Phần 2
44 p | 76 | 5
-
Những câu hỏi về thế giới động vật: Phần 2
89 p | 41 | 4
-
Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài lưỡng cư và bò sát ở vùng rừng Cao Muôn, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi
11 p | 46 | 3
-
Ghi nhận mới phân bố các loài thằn lằn (squamata: sauria) và rắn (squamata: serpentes) ở tỉnh Bắc Kạn
6 p | 38 | 2
-
Đa dạng thành phần loài và đặc điểm phân bố lưỡng cư, bò sát ở khu vực rừng Mường Phăng - Pá Khoang, tỉnh Điện Biên
8 p | 61 | 2
-
Điều tra thành phần loài và xây dựng bộ mẫu lưỡng cư (amphibia), bò sát (reptilia) ở núi nhỏ Thành phố Vũng Tàu
16 p | 44 | 2
-
Xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong đất nông nghiệp tại trung tâm nghiên cứu, trải nghiệm sáng tạo và khởi nghiệp của trường Đại học Khánh Hòa bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)
0 p | 53 | 2
-
Ước lượng các phân bố tốc độ gió cho nghiên cứu chế độ gió vùng biển Cù Lao Chàm
0 p | 35 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn