
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
110 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.15
Nhiễm trùng;
Do tia xạ;
Bệnh lý ác tính;
Phẫu thuật cắt dạ dày.
Hội chứng Zollinger Ellison là một nguyên nhân hiếm gặp
gây nên tình trạng loét kháng trị. Tuy nhiên, bệnh nhân của
chúng tôi có nồng độ gastrin máu bình thường. Việc sinh thiết
ổ loét có thể giúp chẩn đoán các nguyên nhân gây loét kháng
trị khác như bệnh lý ác tính, bệnh Crohn, viêm mạch [4].
Kết quả mô bệnh học ghi nhận tình trạng thâm nhiễm nhiều
tế bào bạch cầu ái toan ở vị trí ổ loét. Một trong những nguyên
nhân phổ biến của loét dạ dày, tá tràng kháng trị là tình trạng
nhiễm HP chưa được thật sự loại trừ vì các xét nghiệm chẩn
đoán HP đều có khả năng âm tính giả, nhất là sau khi bệnh
nhân đã được sử dụng thuốc ức chế bơm proton [4]. Nhiều
xét nghiệm chẩn đoán HP đã được thực hiện ở bệnh nhân bao
gồm xét nghiệm urease nhanh, xét nghiệm hơi thở 13C và mô
bệnh học sau khi bệnh nhân đã ngưng rabeprazole 2 tuần và
xác nhận không sử dụng kháng sinh trước đó 4 tuần đều
không ghi nhận sự hiện diện của vi khuẩn HP. Sau khi đã loại
trừ các nguyên nhân thứ phát như nhiễm ký sinh trùng, bệnh
mô liên kết, dùng thuốc,… thì chẩn đoán sau cùng là loét tá
tràng do tăng bạch cầu ái toan nguyên phát. Đây là một biểu
hiện của bệnh lý tiêu hóa do tăng bạch cầu ái toan. Đây là
bệnh lý đặc trưng bởi sự thâm nhiễm bất thường của tế bào
bạch cầu ái toan vào thành ống tiêu hóa từ thực quản cho đến
đại tràng [6]. Biểu hiện lâm sàng của nhóm bệnh lý này có thể
được chia làm ba dựa theo vị trí thâm nhiễm của tế bào bạch
cầu ái toan vào ống tiêu hóa, đó là: niêm mạc, lớp cơ và thanh
mạc [7]. Loét tá tràng do tăng bạch cầu ái toan là một biểu
hiện của tổn thương tại niêm mạc. Bệnh nhân thường đến
khám với biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu như đau bụng,
đầy bụng hay xuất huyết tiêu hóa. Ngoài ra, nguyên nhân này
ít khi được nghĩ đến đầu tiên ở một bệnh nhân có loét tá tràng
mà hai nguyên nhân hàng đầu thường được nghĩ đến là nhiễm
HP và dùng thuốc kháng viêm không steroid. Do đó, việc nghĩ
đến chẩn đoán này nhất là ở bệnh nhân có loét kháng trị có
vai trò quan trọng. Tăng bạch cầu ái toan ở máu ngoại vi là
một biểu hiện gợi ý thường gặp. Tuy nhiên, có đến 20% bệnh
nhân có số lượng tế bào bạch cầu ái toan bình thường ở máu
ngoại vi [8]. Bệnh nhân của chúng tôi không ghi nhận tình
trạng tăng tế bào bạch cầu ái toan ở máu ngoại vi. Chưa có
một lý giải rõ ràng cho trường hợp này. Tuy nhiên, việc sử
dụng thuốc ức chế bơm proton được chứng minh là làm giảm
số lượng tế bào bạch cầu ái toan tại niêm mạc tá tràng [9].
Tình trạng này gây ra giảm phản ứng viêm do bạch cầu ái toan
tại chỗ, từ đó có thể dẫn đến việc giảm phản ứng viêm hệ
thống do ruột non có hệ thống bạch mạch cực kì lớn. Điều
này có thể làm cho số lượng bạch cầu ái toan không tăng trong
máu ngoại vi.
Chẩn đoán bệnh lý ống tiêu hóa do tăng bạch cầu ái toan
được xác định khi ghi nhận tình trạng thâm nhiễm bất thường
tế bào bạch cầu ái toan trong mô đệm của ống tiêu hóa, sau
khi các nguyên nhân thứ phát được loại trừ [10]. Hiện tại,
chưa có một đồng thuận nào về ngưỡng của số lượng tế bào
bạch cầu ái toan trên quang trường có độ phóng đại cao. Theo
Collins, ngưỡng số lượng tế bào bạch cầu ái toan ở niêm mạc
thực quản, dạ dày, tá tràng lần lượt là 15, 30 và 52 là cần thiết
để cho chẩn đoán bệnh [11].
Một điểm thú vị ở ca lâm sàng này là bệnh nhân có tiền căn
loét tá tràng do vi khuẩn HP và đã được điều trị tiệt trừ HP hai
lần. Mặc dù tình trạng nhiễm HP không được ghi nhận ở lần
khám này với việc nhiều xét nghiệm chẩn đoán HP đều âm
tính, việc có hay không bệnh lý ống tiêu hóa do tăng bạch cầu
ái toan có thể bùng phát lên sau khi vi khuẩn HP đã được tiệt
trừ là một câu hỏi. Nghiên cứu của Furuta K nhận thấy tình
trạng nhiễm HP thấp hơn ở những bệnh nhân có bệnh lý ống
tiêu hóa do tăng bạch cầu ái toan, gợi ý vi khuẩn HP có thể là
yếu tố bảo vệ trước bệnh lý này [12]. Tuy vậy, việc điều trị
tiệt trừ HP ở bệnh nhân có loét tá tràng, nhất là khi có biến
chứng xuất huyết tiêu hóa gần như là một tiêu chuẩn theo
khuyến cáo hiện hành [13].
Hiện tại, chưa có khuyến cáo với bằng chứng mạnh về việc
điều trị bệnh lý ống tiêu hóa do tăng bạch cầu ái toan.
Corticosteroid toàn thân được cho là thuốc đầu tay có hiệu
quả cao và được thể hiện qua nhiều nghiên cứu và báo cáo ca
lâm sàng [14]. Liều khởi đầu thường là 20 – 40 mg prednisone
và sẽ giảm dần sau vài tuần đến vài tháng [6]. Bệnh nhân của
chúng tôi được sử dụng prednisone liều 40 mg trong tuần lễ
đầu tiên và giảm dần liều và ngưng sau 8 tuần. Kết quả nội
soi cho thấy ổ loét lành hoàn toàn. Trong khoảng thời gian 8
tuần dùng prednisone, bệnh nhân được sử dụng song song với
rabeprazole liều 20 mg/ngày. Mặc dù không thể khẳng định
chắc chắn việc lành loét là do hiệu quả của corticosteroid do
bệnh nhân được dùng chung với ức chế bơm proton, chúng
tôi nghĩ hiệu quả lành loét này có vai trò lớn hơn của
prednisone. Thứ nhất, bệnh nhân của chúng tôi đã được sử