v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
LỖI NGỮ PHÁP THƯỜNG GẶP<br />
Ở GIAI ĐOẠN SƠ CẤP CỦA SINH VIÊN<br />
CHUYÊN NGÀNH TIẾNG TRUNG QUỐC<br />
KHOA NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br />
PHÙNG THỊ TUYẾT *<br />
*<br />
Đại học Thái Nguyên, ✉ phungtuyet.sfl@tnu.edu.vn<br />
Ngày nhận bài: 14/12/2017; ngày sửa chữa: 07/01/2018; ngày duyệt đăng: 28/02/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tiếng Trung Quốc và tiếng Việt đều là ngôn ngữ đơn lập, ngôn ngữ có thanh điệu nên sinh viên<br />
Việt Nam trong quá trình học tiếng Trung Quốc cũng có những lợi thế nhất định vì những điểm<br />
tương đồng giữa hai ngôn ngữ. Tuy vậy, sinh viên Việt Nam khi học tiếng Trung Quốc vẫn thường<br />
mắc những lỗi ngữ pháp chung. Ở giai đoạn sơ cấp, sinh viên mắc không ít lỗi cấu trúc, bên cạnh<br />
đó, với nguồn dữ liệu thu thập được từ “ngôn ngữ trung gian” của sinh viên chuyên ngành tiếng<br />
Trung Quốc tại Khoa Ngoại ngữ – Đại học Thái Nguyên cho thấy cùng với số lượng kiến thức<br />
ngôn ngữ đích tăng lên thì sinh viên càng có xu hướng mắc nhiều lỗi ngữ nghĩa và ngữ dụng.<br />
Trong bài viết này, trên cơ sở nguồn ngữ liệu thu thập được từ các bài kiểm tra của sinh viên năm<br />
thứ nhất, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại lỗi, đề xuất phương án sửa lỗi cũng như chỉ ra<br />
nguyên nhân gây ra lỗi; đồng thời đề xuất xây dựng ngân hàng ngữ liệu lỗi để phục vụ cho việc<br />
tự học, tự hoàn thiện vốn ngữ pháp từ giai đoạn sơ cấp để tạo nền tảng kiến thức ngữ pháp vững<br />
chắc cho các giai đoạn học tập tiếp theo của sinh viên.<br />
Từ khóa: lỗi ngữ pháp, tiếng Trung Quốc, sinh viên chuyên ngành, sơ cấp<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ chính xác. Vì vậy, việc sử dụng đúng ngữ pháp<br />
cần được quan tâm, đặc biệt là đối tượng sinh viên<br />
Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp là ba bình diện cơ chuyên ngành tiếng Trung Quốc ngay từ giai đoạn<br />
bản của ngôn ngữ nói chung. Phát âm chuẩn để sơ cấp nhằm giúp sinh viên có hệ thống quy tắc<br />
người nghe tiếp nhận và xử lý được tín hiệu ngôn ngữ pháp xuyên suốt quá trình học, để nói, viết<br />
ngữ do người nói phát ra; cùng với đó việc lựa ngày càng thoát được khỏi “ngôn ngữ trung gian” (<br />
chọn và sử dụng chính xác từ giúp hỗ trợ việc hiểu 中介语) và ngày càng tiệm cận với ngôn ngữ đích.<br />
ý nghĩa lời nói. Ngữ pháp đóng vai trò là những Để có tác dụng định hướng tránh mắc lỗi ngữ pháp<br />
chuẩn mực, quy tắc về phép dùng từ, tạo câu… thì việc nghiên cứu lỗi ngữ pháp thường gặp có<br />
để đảm bảo nội dung giao tiếp được chuyển tải ý nghĩa rất quan trọng. Sinh viên ở các giai đoạn<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
52 Số 2 - 3/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
năng lực ngôn ngữ khác nhau thì thường mắc lỗi sẽ đạt cách hiệu quả tốt hơn khi nghiên cứu lỗi<br />
khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi gắn liền với nghiên cứu về “ngôn ngữ trung gian”<br />
tập trung nghiên cứu những lỗi ngữ pháp sinh viên (tiếng Anh sử dụng thuật ngữ “interlanguague”,<br />
chuyên ngành tiếng Trung Quốc Khoa Ngoại ngữ tiếng Trung sử dụng thuật ngữ “中介语”). Thuật<br />
– Đại học Thái Nguyên thường mắc ở giai đoạn ngữ “ngôn ngữ trung gian” (interlanguague) do<br />
sơ cấp. Selinker đưa ra vào năm 1969 (chính thức công bố<br />
năm 1972) được dùng để chỉ hệ thống kiến thức<br />
2. LỖI NGỮ PHÁP THƯỜNG GẶP Ở GIAI ngôn ngữ do người học tạo nên trong quá trình thụ<br />
ĐOẠN SƠ CẤP CỦA SINH VIÊN CHUYÊN đắc ngôn ngữ đích (Larry Selinker, 1972, tr.209).<br />
NGÀNH TIẾNG TRUNG QUỐC CỦA KHOA Hệ thống kiến thức của ngôn ngữ này không giống<br />
NGOẠI NGỮ – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN với tiếng mẹ đẻ, đồng thời cũng không giống với<br />
ngôn ngữ đích mà là hệ thống ngôn ngữ trong<br />
2.1. Lỗi ngữ pháp giai đoạn phát triển tiệm cận dần với ngôn ngữ<br />
đích (周小宾, 朱其智, 邓小宁, 2007, tr.15-16).<br />
Lỗi ngữ pháp theo thuật ngữ tiếng Anh sử dụng<br />
Trong hệ thống kiến thức “ngôn ngữ trung gian”<br />
hai từ “mistake” và “error”, tương đương với các<br />
này của người học sẽ có một phần giống với ngôn<br />
thuật ngữ tiếng Anh trên trong tiếng Trung Quốc<br />
ngữ đích và có một phần không giống với ngôn<br />
sử dụng hai thuật ngữ “失误” và “偏误” (冯氏雪,<br />
ngữ đích, nói cụ thể hơn, có một phần không đúng<br />
2014, tr.119). Lỗi ngữ pháp trong phạm vi bài viết<br />
với ngữ pháp của ngôn ngữ đích. Trên cơ sở nguồn<br />
này đề cập là lỗi lặp lại mang tính quy luật (tương<br />
ngữ liệu bài kiểm tra của sinh viên, chúng tôi tập<br />
đương với thuật ngữ tiếng Anh “mistake” và thuật<br />
trung nghiên cứu “ngôn ngữ trung gian” nảy sinh<br />
ngữ tiếng Trung “偏误” ).<br />
ở giai đoạn sơ cấp của sinh viên chuyên ngành<br />
2.2. Mục đích nghiên cứu lỗi ngữ pháp tiếng Trung Quốc để chỉ ra những lỗi thường mắc,<br />
nguyên nhân gây lỗi và định hướng giúp hạn chế<br />
Từ góc độ nghiên cứu ngữ pháp theo hướng xảy ra lỗi.<br />
truyền thống thì nghiên cứu lỗi gắn liền với phân<br />
tích đối chiếu giữa các ngôn ngữ nhằm mục đích 2.3. Phạm vi nội dung kiến thức ngữ pháp<br />
phục vụ cho quá trình dạy học. Thông qua phân tiếng Trung Quốc ở trình độ sơ cấp<br />
tích đối chiếu và phân tích lỗi ngữ pháp giúp dự<br />
Ở giai đoạn sơ cấp, sinh viên chuyên ngành<br />
đoán điểm khó ngữ pháp trong quá trình giảng dạy,<br />
tiếng Trung Quốc của Khoa Ngoại ngữ được<br />
bố trí thứ tự nội dung dạy học, khắc phục thiếu sót<br />
cung cấp kiến thức theo nội dung bốn quyển sách<br />
của giáo trình. Việc phân tích lỗi ngữ pháp thông<br />
do Trần Thị Thanh Liêm biên dịch, trong đó có<br />
thường được tiến hành theo quy trình sau:<br />
khoảng 100 điểm ngữ pháp lớn nhỏ (Trần Thị<br />
Bước 1: Thu thập các lỗi thường gặp. Thanh Liêm, 2004).<br />
<br />
Bước 2: Tiến hành phân loại đồng thời tiến 2.4. Các lỗi ngữ pháp thường gặp<br />
hành đối chiếu những điểm ngữ pháp tương đồng<br />
Như đã nói ở mục 2.1, nguồn dữ liệu lỗi ngữ<br />
giữa hai ngôn ngữ.<br />
pháp chúng tôi lựa chọn để tập hợp và phân tích là<br />
Bước 3: Tìm những chuyển di tiêu cực. những lỗi thu thập được từ bài kiểm tra của sinh<br />
viên. Nguồn dữ liệu này có độ tin cậy cao vì thể<br />
Bước 4: Dự đoán điểm khó ngữ pháp đối với hiện năng lực thực tế của sinh viên khi phải thực<br />
người học. hiện những nội dung kiểm tra, đánh giá đã được<br />
giảng viên xây dựng bám sát theo khung chương<br />
Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu lỗi ngữ pháp trình dạy năm thứ nhất và có khống chế về thời<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 53<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
gian, có sự giám sát chặt chẽ của giảng viên trong (5) *他送给我一个小说。<br />
quá trình làm bài kiểm tra. Nguồn dữ liệu được thu (6) *就写这张信给你<br />
thập từ bài kiểm tra học phần Bút ngữ (đọc, viết) (7) *今天在路上我碰见一个交通事故。<br />
và học phần tiếng Trung cơ bản. Khảo sát trên số<br />
lượng khoảng 250 bài kiểm tra năm thứ nhất của Các câu trên nên sửa thành:<br />
các khóa K33, K34, K35 với các dạng bài tự luận<br />
(5) 他送给我一本小说。<br />
và trắc nghiệm. Trong số khoảng 100 điểm ngữ<br />
pháp sinh viên được học ở giai đoạn sơ cấp, dưới (6) 就写这封信给你<br />
góc độ kiểm tra đánh giá không thể thực hiện đánh (7) 今天在路上我碰见一起交通事故。<br />
giá hết toàn bộ các điểm ngữ pháp này mà có chọn<br />
lọc nội dung để tiến hành kiểm tra, đánh giá. Nhóm lỗi sử dụng phó từ: Đặt sai vị trí của<br />
phó từ làm trạng ngữ trong câu<br />
Do hạn chế phạm vi nghiên cứu và dung lượng<br />
của bài viết nên chúng tôi phân loại một số nhóm Một trong những từ loại có chức năng chủ yếu<br />
lỗi sau: làm trạng ngữ trong tiếng Trung Quốc là phó từ. Vị<br />
trí của phó từ trong câu khá linh hoạt, nhưng chủ<br />
Nhóm lỗi do sai trật tự thành phần câu yếu hoạt động trong phạm vi trước và sau chủ ngữ,<br />
tuy nhiên việc đặt sai vị trí của một số phó từ vẫn<br />
Tiếng Trung Quốc chủ yếu có các thành phần khá phổ biến.<br />
câu như chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, trạng ngữ, bổ<br />
ngữ, trung tâm ngữ, tân ngữ. Trong đó trạng ngữ Ví dụ:<br />
thường xuất hiện trước hoặc sau chủ ngữ, định ngữ<br />
(8) *所以就今天回信给你。<br />
thường đặt trước trung tâm ngữ. Tuy nhiên trong<br />
(9) *一定你很高兴。<br />
hệ thống “ngôn ngữ trung gian” của sinh viên xuất<br />
(10) *我已经跟他说好几次了,却他不听我<br />
hiện những câu lỗi sau:<br />
的话。<br />
(1) *小李送给我一把椅子很漂亮。<br />
Các câu trên nên sửa thành:<br />
(2) *回到房间我看见一个蛋糕很大。<br />
(3) *我是男朋友的她。 (8) 所以今天就给你回信。<br />
(4) *上大学以后你还努力学习每天。 (9) 你一定很高兴。<br />
(10) 我已经跟他说了好几次,他却不听我<br />
Các câu trên nên sửa thành: 的话。<br />
(1) 小李送给我一把很漂亮的椅子。 Nhóm lỗi sử dụng bổ ngữ<br />
(2) 回到房间时,我看见一个很大的蛋糕。<br />
(3) 我是她的男朋友。 Trong tiếng Trung Quốc, khi động từ mang tân<br />
(4) 上大学以后你每天都要努力学习。 ngữ đồng thời có bổ ngữ trình độ thì thường lặp lại<br />
động từ sau đó mới thêm bổ ngữ trình độ, vì vậy,<br />
Nhóm lỗi dùng sai loại từ trường hợp diễn đạt như sau sẽ bị lỗi:<br />
Loại từ trong tiếng Trung Quốc tương đối phức (11) *他照相得很好看。<br />
tạp, ứng với mỗi danh từ thì gần như có một loại (12) *小兰照相很好看。<br />
từ riêng. Chính đặc điểm này khiến cho sinh viên (13) *我起床很早。<br />
nước ngoài học tiếng Trung Quốc gặp không ít khó<br />
khăn và sinh viên Việt Nam cũng không ngoại lệ, Ngoài lỗi tương đối điển hình khi sử dụng bổ<br />
vì vậy, trong quá trình học tập phát sinh những câu ngữ trình độ thì sinh viên cũng dễ mắc lỗi khi dùng<br />
lỗi như: bổ ngữ xu hướng có kèm tân ngữ, ví dụ:<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
54 Số 2 - 3/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
(14) *请你们跟我爬上去山。 Nhóm lỗi về mặt ngữ nghĩa của câu<br />
(15) *那天下课后回来房间。<br />
Trong hệ thống “ngôn ngữ trung gian” của sinh<br />
Lỗi khi dùng bổ ngữ thời lượng viên xuất hiện khá nhiều lỗi câu chưa hoàn thiện<br />
về mặt nghĩa như:<br />
(16) *你们来中国时坐了飞机多长时间?<br />
(19) 晚上七点我的朋友都来。<br />
Các câu trên nên sửa thành: (20) 突然电话响,是小云,我的同学。<br />
(21) 真是功夫不负有心的人,你终于成功。<br />
(11) 他照相照得很好看。 (22) 现在他找到一个理想的工作。<br />
(12) 小兰照相照得很好看。<br />
(13) 我起床起得很早。 Các câu trên nên sửa thành:<br />
(14) 请你们跟我爬上山去。<br />
(15) 那天下课后我就回房间去了。 (19) 晚上七点我的朋友都来了。<br />
(16) 你们来中国时坐了多长时间的飞机? (20) 突然电话响了,是小云,我的同学。<br />
(21) 真是功夫不负有心的人,你终于成功了。<br />
Nhóm lỗi sử dụng liên từ (22) 现在他找到了一个理想的工作。<br />
<br />
Chức năng của liên từ trong tiếng Trung Quốc 2.5. Nguyên nhân lỗi<br />
cũng giống với tiếng Việt đó là dùng để nối từ, cụm<br />
từ hoặc các vế câu, các đoạn văn bản với nhau. Tuy Qua tổng hợp nhóm lỗi ngữ pháp trên, chúng<br />
nhiên, do một số liên từ tiếng Trung Quốc và tiếng tôi nhận thấy có những lỗi do sự chuyển di tiêu cực<br />
Việt có sự tương đương về mặt ngữ nghĩa nhưng từ tiếng mẹ đẻ (trật tự định ngữ và trung tâm ngữ),<br />
không hoàn toàn tương đương về mặt chức năng tuy nhiên những lỗi này chủ yếu xuất hiện trong<br />
giai đoạn đầu khi sinh viên học tiếng Trung Quốc.<br />
dẫn đến sinh viên đã dùng sai liên từ sau:<br />
Trong khi đó, trong quá trình tổng hợp từ nguồn dữ<br />
(17) *我妈妈请我的朋友和准备举行一个生 liệu “ngôn ngữ trung gian” của sinh viên chuyên<br />
日晚会。 ngành tiếng Trung của Khoa Ngoại ngữ – Đại học<br />
Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy, các nhóm lỗi<br />
Các câu trên nên sửa thành: ngày càng đa dạng và không dễ nhận diện, đặt<br />
tên. Lỗi này xuất hiện do chính bản thân kiến thức<br />
(17) 我妈妈请了我的朋友,并为我准备了 ngôn ngữ đích mang lại như các nhóm từ gần ng-<br />
一个生日晚会。 hĩa, các cấu trúc ngữ pháp đặc trưng, những hiện<br />
tượng ngữ pháp chuyên biệt của riêng tiếng Trung<br />
Nhóm lỗi ngữ pháp do thiếu thành phần câu Quốc gây nhiễu cho người học. Tuy nhiên, thực tế<br />
chúng ta thấy, có những lỗi nếu được dự báo trước<br />
Sinh viên trong quá trình học tập cùng với sự<br />
sẽ giúp sinh viên hạn chế sử dụng sai. Việc dự báo<br />
gia tăng về khối lượng kiến thức mới của ngôn ngữ<br />
lỗi này theo chúng tôi có thể từ góc độ nguồn học<br />
thì bắt đầu xuất hiện những lỗi không dễ nhận biết<br />
liệu, từ giảng viên và đặc biệt là sự tích cực chủ<br />
về mặt cấu trúc thông thường:<br />
động tự học của sinh viên. Về nguồn học liệu, hiện<br />
(18) *我觉得今天是我最高兴也很感动。 tại Trung Quốc xuất bản nhiều sách về lỗi ngữ<br />
pháp, tuy nhiên, đa phần đó chỉ là những lỗi ngữ<br />
Câu trên nên sửa thành: pháp chung trong quá trình giảng dạy, quảng bá<br />
tiếng Trung ra thế giới mà người Trung Quốc thu<br />
(18)我觉得今天是我最高兴也很感动的日 thập được còn sách chuyên phân tích lỗi ngữ pháp<br />
子。 dành cho đối tượng người Việt Nam (国别) còn rất<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 55<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
hạn chế, chưa kể đến đặc điểm vùng miền và chất viên cần cung cấp cho sinh viên bảng liệt kê các<br />
lượng đầu vào đại học của sinh viên. lượng từ thường dùng và các danh từ tương ứng<br />
mà chúng kết hợp. Đặc biệt, khi một danh từ có thể<br />
2.6. Giải pháp nhằm hạn chế phát sinh lỗi kết hợp các lượng từ khác nhau thì giảng viên cần<br />
giải thích về ngữ cảnh sử dụng để giúp nâng cao<br />
Thực tế trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ đích<br />
hiệu quả biểu đạt, hiệu quả giao tiếp.<br />
thì việc phát sinh lỗi ngữ pháp là không thể tránh<br />
khỏi. Tuy nhiên, có thể giúp sinh viên hạn chế việc Đối với việc sử dụng bổ ngữ: Thực tế sinh viên<br />
phát sinh lỗi bằng nhóm giải pháp tổng thể như: mắc lỗi nhiều vì cách sử dụng khác nhiều so với<br />
tiếng mẹ đẻ và đặc biệt phức tạp do đặc trưng ngữ<br />
2.6.1. Từ góc độ nhà quản lý<br />
nghĩa của động từ và tân ngữ mà vị trí của bổ ngữ<br />
Khi phân công giảng dạy đối với sinh viên ở có sự thay đổi. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, trong<br />
giai đoạn sơ cấp cần ưu tiên giảng viên có năng quá trình dạy học cần từng bước đi sâu giới thiệu<br />
lực chuyên môn tốt và có kinh nghiệm giảng dạy. đặc trưng ngữ nghĩa của động từ thường dùng để<br />
Bởi vì cũng có quan điểm cho rằng, năm thứ nhất giúp sinh viên hạn chế phát sinh lỗi.<br />
kiến thức đơn giản thì không cần những giảng<br />
viên có kinh nghiệm và chuyên môn cao. Thực Đối với việc sử dụng phó từ: Phó từ thuộc<br />
tế chứng minh, khi giảng viên là người có kinh nhóm hư từ nên nét nghĩa khó cố định hay nói cách<br />
nghiệm giảng dạy sẽ dự báo được những lỗi sinh khác không có nghĩa khái niệm như đối với danh<br />
viên dễ mắc phải do chuyển di tiêu cực từ tiếng từ; vị trí trong câu và sự kết hợp cũng khá linh<br />
mẹ đẻ cũng như những vấn đề nội ngôn của ngôn hoạt, do vậy giảng viên cần chú trọng nhấn mạnh<br />
ngữ đích để trong quá trình giảng dạy có trọng tâm giảng giải, luyện tập đối với những phó từ thường<br />
nhấn mạnh kiến thức, có các bài tập bổ sung hỗ trợ dùng về vị trí trong câu và sự kết hợp của chúng.<br />
sẽ giúp sinh viên nắm bắt và sử dụng tốt hơn ngôn Bên cạnh đó, đối với phó từ sinh viên hay mắc lỗi<br />
ngữ đích. (还,就,却…) do chuyển di tiêu cực thì cần tích<br />
cực dự báo và có sự đối chiếu giữa hai ngôn ngữ<br />
2.6.2. Từ góc độ giảng viên trong quá trình dạy học.<br />
<br />
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần lưu Đối với việc sử dụng liên từ: Cần đặc biệt phân<br />
ý có những đối chiếu so sánh giữa ngôn ngữ đích tích đối chiếu những liên từ vốn được coi là tương<br />
và tiếng mẹ đẻ để dự báo lỗi. Bên cạnh đó, phải đương về mặt chức năng giữa hai ngôn ngữ để<br />
tích cực trong việc giao nhiệm vụ học tập và kiểm giúp sinh viên ngay từ đầu có cách sử dụng đúng.<br />
tra việc thực hiện nhiệm vụ của sinh viên để có<br />
điều chỉnh, định hướng kịp thời giúp hạn chế lỗi Ngoài ra, đối với các nhóm lỗi như: thiếu thành<br />
trong “ngôn ngữ trung gian” của sinh viên, đồng phần câu, lỗi về mặt ngữ nghĩa của câu thì giảng<br />
thời cần định hướng, hướng dẫn sinh viên tự học. viên có thể thông qua việc giao nhiệm vụ học tập<br />
Ngoài ra, đối với các nhóm lỗi như liệt kê ở mục như viết bài luận, đặt câu để giúp sinh viên diễn<br />
2.4, chúng tôi cho rằng, khi giảng dạy về định ngữ đạt hoàn chỉnh.<br />
giảng viên cần đưa ra công thức về vị trí định ngữ<br />
trong tiếng Trung và tiếng Việt, đồng thời cần có 2.6.3. Từ góc độ người học<br />
giảng giải và luyện tập nhiều để tạo phản xạ cho<br />
sinh viên, dần hình thành tư duy ngôn ngữ đích Hiện nay với việc áp dụng học chế tín chỉ, giờ<br />
như người bản ngữ và ngày càng thoát ly khỏi ảnh thực hành tiếng trên lớp bị giảm nhiều. Thực tế<br />
hưởng của tiếng mẹ đẻ. sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành tiếng Trung<br />
tại Khoa Ngoại ngữ – Đại học Thái Nguyên một<br />
Đối với việc sử dụng lượng từ, ngoài việc giới tuần chỉ có 8 đến 10 tiết thực hành tiếng. Hơn nữa,<br />
thiệu dần các lượng từ đi kèm với danh từ, giảng đại đa số sinh viên đều là học tiếng Trung Quốc từ<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
56 Số 2 - 3/2018<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
đầu mà không học ở bậc trung học phổ thông, do học liệu sách lỗi ngữ pháp do Trung Quốc xuất bản<br />
vậy, sinh viên cần phải tích cực học và tăng cường thì cũng chưa thực sự áp dụng có hiệu quả cho đối<br />
việc tự học trên cơ sở các nguồn học liệu tin cậy tượng sinh viên Việt Nam. Cùng với việc áp dụng<br />
và dưới sự hướng dẫn, kiểm tra thường xuyên của học chế tín chỉ như hiện nay đòi hỏi sinh viên phải<br />
giảng viên. có năng lực tự học rất lớn, do đó chúng tôi cho<br />
rằng, việc có một kho ngữ liệu lỗi riêng trên cơ<br />
2.6.4. Từ góc độ nguồn học liệu tham khảo sở những nguồn tài liệu thu thập thực tế cung cấp<br />
cho sinh viên tự tra cứu, tự học để tự hoàn thiện<br />
Cần có nguồn sách tham khảo ngữ pháp có vốn kiến thức ngữ pháp của bản thân là vô cùng<br />
phân trình độ như sơ cấp, trung cấp và cao cấp để cần thiết../<br />
sinh viên dễ học. Ngoài ra cần bổ sung sách lỗi ngữ<br />
pháp thường gặp trong đó có phân các nhóm lỗi, Tài liệu tham khảo:<br />
nêu phương án sửa lỗi để giúp phong phú nguồn<br />
học liệu cho sinh viên. 1. Trần Thị Thanh Liêm (Biên dịch, 2004),<br />
Giáo trình tiếng Hán (Quyển 1, quyển 2, quyển 3,<br />
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ quyển 4), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.<br />
<br />
Sinh viên chuyên ngành tiếng Trung Quốc khi 2. Larry Selinker (1972) Inter language,<br />
học tiếng Trung Quốc cũng giống như sinh viên IRAL; International Review of Applied Linguistics<br />
học các thứ tiếng khác dễ mắc một số lỗi ngữ pháp in Language Teaching, .<br />
tính quy luật. Trong nguyên nhân phát sinh lỗi có<br />
sự chuyển di tiêu cực từ tiếng Việt sang, nhưng 3. 冯氏雪 (2014), 汉越是非问句对比研究,<br />
phần nhiều là những lỗi do nội tại hệ thống ngôn 博士学位论文,华中师范大学.武汉。<br />
ngữ đích tạo nên. Vì vậy chúng tôi nhận thấy việc<br />
thu thập, tổng hợp, phân loại để xây dựng một kho 4. 周小宾, 朱其智, 邓小宁 (2007), 外国人<br />
ngữ liệu lỗi là hết sức cần thiết. Bởi vì, với nguồn 学汉语语法偏误研究, 北京大学出版社,北京。<br />
<br />
<br />
<br />
COMMON GRAMMAR MISTAKES MADE BY ELEMENTARY CHINESE-MAJORED<br />
STUDENTS AT FACULTY OF FOREIGN LANGUAGES<br />
THAI NGUYEN UNIVERSITY<br />
PHUNG THI TUYET<br />
Abstract: The Chinese language and the Vietnamese language are both isolated languages. Due to<br />
this fact, there are several similarities in their uses. However, while studying Chinese, Vietnamese<br />
students still make the common grammar mistakes. In their primary period of learning Chinese,<br />
most of their mistakes are related to grammatical points. Based on the data gathered from the tests<br />
of the first year students, the researcher analyzed and classified the students’ mistakes. From the<br />
research results, a data bank had been proposed to support students in their self-study to improve<br />
their grammar right from their initial stage of learning Chinese, forming a valuable foundation for<br />
the other stages of their studying.<br />
Keywords: grammar mistakes, Chinese, major students, primary period<br />
Received: 14/12/2018; Revised: 07/01/2018; Accepted for publication: 28/02/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 12 - 3/2018 57<br />