YOMEDIA
ADSENSE
Lời thú tội của một sát thủ kinh tế: Phần 2
146
lượt xem 41
download
lượt xem 41
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nối tiếp phần 1 của Tài liệu Lời thú tội của một sát thủ kinh tế, phần 2 trinhg bày những câu chuyện xảy ra trong các giao đoạn 1975 dến 1981 và từ năm 1981 đến nay. Những câu chuyện về: Cái chết của tổng thông Ecuado, các cuộc đàm phán về kênh đào Panama và Graham Greene, vua của những vị vua, ... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết phần 2 của Tài liệu này.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Lời thú tội của một sát thủ kinh tế: Phần 2
- PHẦN III: 1975-1981 Chương 17 Các cuô ̣c đàm phán về kênh đào Panama và Graham Greene Ảrâ ̣p Xêút đã làm nên sự nghiê ̣p của rấ t nhiề u người, trong đó có cả tôi. Nhưng những thành công của tôi ta ̣i vương quố c sa ma ̣c này còn mở ra mô ̣t cánh cửa mới. Cho đế n năm 1977, tôi đã xây dựng đươc̣ cho mı̀nh mô ̣t đế chế nho nhỏ với mô ̣t đô ̣i ngũ chuyên gia gồ m khoảng 20 người làm viê ̣c ta ̣i tru ̣ sở Công ty ở Boston, mô ̣t nhóm các nhà tư vấ n đế n từ các phòng ban khác và các văn phòng rải rác trên khắ p thế giới của MAIN. Tôi trở thành hô ̣i viên trẻ nhấ t trong lich ̣ sử mô ̣t trăm năm của Công ty. Ngoài chức vu ̣ Kinh tế trưởng, tôi còn là Trưởng Ban Kinh tế và Hoa ̣ch đinḥ chı́nh sách. Tôi đã đế n giảng bài ở Harvard và mô ̣t số nơi khác, báo chı́ cuñ g thường đăng ý kiế n của tôi về những sự kiê ̣n đang diễn ra.(1) Chiế c thuyề n buồ m của tôi đâ ̣u ở cảng Boston ngay bên ca ̣nh con tàu chiế n nổ i tiế ng Constitution, “Old Ironsides”, con tàu đã đánh ba ̣i bo ̣n cướp biể n Barbary không lâu sau Chiế n tranh Cách ma ̣ng. Cùng với mô ̣t mức lương lý tưởng, số cổ phiế u mà tôi sở hữu cuñ g hứa he ̣n sẽ đưa tôi trở thành mô ̣t trong số ı́t những nhà triê ̣u phú trước khi tôi tròn 40 tuổ i. Đúng là cuô ̣c hôn nhân của tôi đã thấ t ba ̣i, nhưng bù la ̣i tôi đã kế t thân với nhiề u phu ̣ nữ xinh đe ̣p và quyế n rũ trên khắ p các châu lu ̣c. Bruno đã đưa ra ý tưởng về mô ̣t phương pháp dự báo vô cùng sáng ta ̣o: mô ̣t mô hı̀nh kinh tế lươṇ g dựa trên những ghi chép của mô ̣t nhà toán ho ̣c người Nga hồ i đầ u thế ky.̉ Mô hı̀nh gán các xác suấ t chủ quan với các dự báo cho rằ ng mô ̣t số khu vực cu ̣ thể của mô ̣t nề n kinh tế sẽ tăng trưởng. Đây dường như là mô ̣t công cu ̣ lý tưởng để biê ̣n hô ̣ cho mức tăng trưởng giả ta ̣o mà chúng tôi thường đưa ra để có đươc̣ những khoảng vay lớn, và Bruno đề nghi ̣ tôi xem xét liê ̣u tôi có thể làm gı̀ với cách tiế p câ ̣n này. Tôi đưa mô ̣t nhà toán ho ̣c trẻ từ Ho ̣c viê ̣n Kỹ thuâ ̣t Massachusset (MIT), giáo sư Nadipuram Prasad về và giao cho anh ta mô ̣t ngân sách riêng. Trong vòng sáu tháng, anh ta đã xây dựng phương pháp Markov cho mô hı̀nh kinh tế lươṇ g. Chúng tôi đã cùng viế t mô ̣t loa ̣t các bài nghiên cứu, trong đó nêu rõ Markov là mô ̣t phương pháp mang tı́nh đô ̣t phá dùng để dự báo tác đô ̣ng của đầ u tư cơ sở ha ̣ tầ ng đố i với tăng trưởng kinh tế . Đó chı́nh là những gı̀ chúng tôi đang cầ n: Mô ̣t công cu ̣ có thể “chứng minh” mô ̣t cách khoa ho ̣c là chúng tôi đang làm lơị cho các nước bằ ng cách giúp ho ̣ có đươc̣ những khoản vay mà ho ̣ không bao giờ có khả năng thanh toán. Bên ca ̣nh đó, chı̉ mô ̣t nhà kinh tế lươṇ g nhiề u kinh nghiê ̣m, đươc̣ đầ u tư nhiề u thời gian và tiề n ba ̣c nghiên cứu mới có thể nắ m bắ t đươc̣ sự phức ta ̣p của phương pháp Markov hay đă ̣t ra những nghi vấ n về các kế t luâ ̣n của nó. Các nghiên cứu của chúng tôi đã đươc̣ mô ̣t số tổ chức có uy tı́n công bố , chúng tôi cuñ g đã chı́nh thức trı̀nh bày các nghiên cứu này trong các cuô ̣c hô ̣i thảo và ta ̣i các trường đa ̣i ho ̣c ở mô ̣t số nước. Những nghiên cứu này- và cả chúng tôi nữa- đã trở nên nổ i tiế ng trong ngành dự báo.(2) Omar Torrijos và tôi tôn tro ̣ng thỏa thuâ ̣n bı́ mâ ̣t giữa hai chúng tôi. Tôi bảo đảm rằ ng nghiên cứu của chúng tôi là trung thực và những kiế n nghi ̣ mà chúng tôi đưa ra có lơị cho người nghèo. Mă ̣c dù có những lời phàn nàn rằ ng các dự báo mà tôi làm cho Panama không đa ̣t tiêu chuẩ n thổ i phồ ng như thông thường, thâ ̣m chı́ có vẻ như các dự báo đó còn mang hơi hướng của chủ nghıã xã hô ̣i, nhưng thực tế là MAIN vẫn tiế p tu ̣c giành đươc̣ các hơp̣ đồ ng từ Chı́nh phủ của Torrijos.
- Hơp̣ đồ ng đầ u tiên là xây dựng quy hoa ̣ch tổ ng thể với sáng kiế n gắ n nông nghiê ̣p với các ngành truyề n thố ng. Tôi cuñ g theo dõi viê ̣c Torrijos và Jimmy Carter chuẩ n bi ̣ đàm phán la ̣i Hiê ̣p ước Kênh đào. Các cuô ̣c đàm phán về kênh đào Panama đã lôi cuố n sự chú ý của toàn thế giới. Khắ p nơi trên thế giới người ta chờ xem liê ̣u Mỹ sẽ làm điề u mà hầ u hế t các nước khác đề u ủng hô ̣ là để người Panama có quyề n kiế m soát kênh đào này, hay sẽ cố gắ ng thiế t lâ ̣p la ̣i mô ̣t phiên bản mới của Thuyế t Bành trướng do đinh ̣ mê ̣nh trên toàn cầ u, vố n đã từng bi ̣ lung lay sau thấ t ba ̣i của Mỹ ta ̣i Viê ̣t Nam. Đố i với nhiề u người, mô ̣t người biế t nghe lẽ phải và nhân ái như Carter dường như đã đươc̣ bầ u lên làm Tổ ng thố ng vào thời điể m thı́ch hơp̣ . Tuy nhiên, thành trı̀ của phe bảo thủ ở Washington và các bài thuyế t giáo về quyề n tôn giáo la ̣i khiế n thế giới phẫn nô ̣. Làm sao nước Mỹ có thể từ bỏ bức tường thành quố c phòng, từ bỏ biể u tươṇ g về sự khôn ngoan của nước My,̃ từ bỏ dải biể n đã gắ n liề n sự giàu có của Nam Mỹ với lơị ı́ch thương ma ̣i của My?̃ Trong những lầ n tới Panama, tôi thường ở ta ̣i Khách sa ̣n Continental. Tuy nhiên, lầ n thứ năm tới đây, tôi chuyể n sang số ng ở khách sa ̣n Panama đố i diê ̣n vı̀ khác sa ̣n Continental đang đươc̣ tu bổ , và vı̀ thế nó quá ồ n. Thoa ̣t đầ u, tôi cảm thấ y khó chiụ vı̀ sự bấ t tiê ̣n này- Continental đã trở thành nhà của tôi mỗi lầ n tới đây. Nhưng giờ đây khu hành lang rô ̣ng nơi tôi đang ngồ i, những chiế c ghế mây và những chiế c qua ̣t trầ n bằ ng gỗ có những cánh qua ̣t hı̀nh mái chèo đã dầ n trở nên thân thuô ̣c với tôi. Nơi này trông chẳ ng khác nào mô ̣t cảnh quay trong phim Casablanca, và tôi tưởng tươṇ g Humphrey Bogart có thể đế n ở đây bấ t cứ lúc nào. Sau khi đo ̣c xong mô ̣t bài viế t của Graham Greene về Panama, tôi đă ̣t tờ New York Review of Books xuố ng. Nhı̀n chăm chăm vào những cánh qua ̣t, tôi chơṭ nhớ la ̣i mô ̣t buổ i tố i hai năm về trước. “Ford không ma ̣nh và ông ta sẽ không thể tái đắ c cử đâu”, năm 1975, Torrijos đã dự báo như vâ ̣y. Ông nói điề u này với mô ̣t nhóm những người Panama có thế lực. Tôi là mô ̣t trong số ı́t những người nước ngoài đươc̣ mời đế n tham dự câu la ̣c bô ̣ của những người thuô ̣c tầ ng lớp thươṇ g lưu này. Tôi vẫn còn nhớ tiế ng qua ̣t trầ n quay vù vù khi đó. “Đó là lý do vı̀ sao tôi quyế t đinh ̣ đẩ y nhanh vấ n đề kênh đào. Đây là thời điể m thı́ch hơp̣ để dố c hế t sức tiế n hành mô ̣t cuô ̣c chiế n chı́nh tri ̣giành la ̣i kênh đào”. Bài phát biể u đó của Torrijos đã cho tôi nguồ n cảm hứng. Trở về khách sa ̣n, tôi bắ t đầ u ga ̣ch xóa, chı̉nh sửa bài viế t mà sau đó tôi gửi cho tờ Boston Globe. Khi ở Boston, Tổ ng biên tâ ̣p tờ báo này đã trả lời bằ ng cách go ̣i điê ̣n đế n văn phòng cho tôi yêu cầ u tôi viế t mô ̣t đoa ̣n Lời soa ̣n báo. Và bài viế t Năm 1975, chủ nghıã thực dân không còn chỗ ở Panama đã chiế m gầ n nửa trang báo cùng với mu ̣c xã luâ ̣n trong tờ báo số ra ngày 17/9/1975. Bài viế t đưa ra lý do cu ̣ thể để giao la ̣i kênh đào này cho người Panama. Thứ nhấ t, “Tı̀nh hı̀nh hiê ̣n ta ̣i là không công bằ ng- và đó là mô ̣t lý do tố t cho bấ t cứ quyế t đinh ̣ nào”. Thứ hai, “Nế u trả la ̣i kênh đào cho người Panama, an ninh sẽ đươc̣ đảm bảo tố t hơn so với hiê ̣n ta ̣i”. Tôi có nhắ c tới mô ̣t nghiên cứu do Ủy ban Kênh đa ̣o liên đa ̣i dương thực hiê ̣n, trong đó kế t luâ ̣n rằ ng “chı̉ cầ n mô ̣t người bı̀nh thường cuñ g có thể làm cho giao thông của kênh đào bi ̣ ngưng trê ̣ tới hai năm trời bằ ng cách gài mô ̣t quả bom ở phı́a đâ ̣p Gatun”, điể m này Tướng Torrijos đã công khai nhấ n ma ̣nh. Và thứ ba là “Tı̀nh hı̀nh hiê ̣n ta ̣i đang gây ra những vấ n đề nghiêm tro ̣ng trong mố i quan hê ̣ vố n đã rấ t phức ta ̣p giữa Mỹ và Châu Mỹ Latinh”. Tôi kế t luâ ̣n bài viế t đó như sau: Để kênh đào hoa ̣t đô ̣ng liên tu ̣c và hiê ̣u quả, cách tố t nhấ t là giúp người Panama giành la ̣i quyề n kiế m soát và trách nhiê ̣m đố i với kênh đào. Làm đươc̣ điề u đó, chúng ta có thể tự hào vı̀ hành đô ̣ng này sẽ tái khẳ ng đinh ̣ những cam kế t của chı́nh chúng ta từ 200 năm trước về quyề n tự quyế t... Chủ nghıã thực dân đã từng rấ t đươc̣ hoan nghênh vào đầ u thế kỷ này cuñ g như vào năm 1775.
- Trong bố i cảnh lich ̣ sử đó, mô ̣t hiê ̣p ước như vâ ̣y có thể đươc̣ chấ p nhâ ̣n. Nhưng ngày nay, không gı̀ có thể biê ̣n minh cho hiê ̣p ước đó. Năm 1975, chủ nghıã thực dân đã không còn chỗ đứng. Để kỷ niê ̣m mố c hai trăm năm chúng ta phải thừa nhâ ̣n điề u này và hành đô ̣ng cho hơp̣ le.̃ (3) Dám viế t mô ̣t bài như vâ ̣y là rấ t táo ba ̣o, nhấ t là khi tôi vừa trở thành hô ̣i viên của MAIN. MAIN không muố n các hô ̣i viên của mı̀nh tiế p xúc với báo chı́ và tấ t nhiên là ha ̣n chế ho ̣ công bố những bài công kı́ch chı́nh tri ̣ trên trang xã luâ ̣n của tờ báo có uy tı́n nhấ t New England này. Tôi nhâ ̣n đươc̣ cả đố ng thư từ với những lời lẽ bẩ n thı̉u từ những người cùng công ty, đa số các đoa ̣n thư nă ̣c danh đề u đı́nh kèm bản sao bài viế t của tôi. Tôi biế t chắ c mô ̣t trong số các bức thư viế t tay đó là của Charlie Illingworth vı̀ tôi nhâ ̣n ra nét chữ của ông ta. Charlie Illingworth là Giám đố c dự án đầ u tiên mà tôi tham gia, ông ta đã làm viê ̣c ở MAIN hơn mười năm (còn tôi mới chưa đầ y 5 năm) mà vẫn chưa đươc̣ là hô ̣i viên. Bức thư đó rấ t ngắ n go ̣n, chı̉ có mô ̣t hı̀nh đầ u lâu xương chéo rấ t to, bên dưới là mô ̣t dòng chữ ngắ n ngủi: “Liê ̣u tên cô ̣ng sản này có thực là mô ̣t hô ̣i viên của công ty chúng ta hay không?” Bruno cho go ̣i tôi vào phòng và bảo: “Anh sẽ gă ̣p rấ t nhiề u phiề n phức vı̀ bài báo đó. MAIN là mô ̣t công ty cực kỳ bảo thủ. Nhưng tôi nghı ̃ là anh rấ t khôn ngoan. Torrijos sẽ thı́ch bài báo đó; tôi cuñ g hy vo ̣ng anh sẽ gửi mô ̣t bản sao bài đó cho ông ấ y. Những kẻ thı́ch đùa trong công ty, những người nghı ̃ là Torrijos theo chủ nghıã xã hô ̣i, sẽ chẳ ng quan tâm lắ m đâu chừng nào công viê ̣c vẫn đổ về chỗ chúng ta”. Như thường lê ̣, Bruno đã đúng. Năm 1977, Carter bước vào Nhà trắ ng. Những cuô ̣c đàm phán nghiêm túc về kênh đào Panama đươc̣ tiế n hành. Rấ t nhiề u đố i thủ của MAIN đã cho ̣n sai hướng và bi ̣ đánh bâ ̣t ra khỏi Panama, trong khi đó công viê ̣c của chúng tôi tăng lên gấ p bô ̣i. Giờ tôi đang ngồ i ta ̣i tiề n sảnh Khác sa ̣n Panama, vừa đo ̣c xong mô ̣t bài báo của Graham Greene trên tờ New York Review of Books. Bài báo “Đât nước trên năm mă ̣t trâ ̣n” là mô ̣t bài viế t sắ c sảo, dám bàn luâ ̣n đế n na ̣n tham nhuñ g trong hàng ngũ các sỹ quan cao cấ p thuô ̣c lực lươṇ g Câ ̣n vê ̣ Quố c gia Panama. Theo lời tác giả, chı́nh bản thân vi ̣tướng đã phải thừa nhâ ̣n rằ ng ông đã dành cho cấ p dưới rấ t nhiề u đă ̣c ân, vı́ du ̣ cấ p nhà ở sang tro ̣ng cho ho ̣ vı̀ “nế u tôi không cho ho ̣, CIA sẽ làm viê ̣c đó”. Bài viế t rõ ràng ngu ̣ ý là tı̀nh báo Mỹ quyế t phá vỡ mong muố n của Tổ ng thố ng Carter, và nế u cầ n, ho ̣ sẽ hố i lô ̣ các sỹ quan quân đô ̣i Panama để phá hoa ̣i tiế n trı̀nh đàm phán(4). Tôi không thể không tự hỏi liê ̣u những tên sát nhân đã bắ t đầ u tı́nh đế n chuyê ̣n ham ̃ ha ̣i Torrijos hay chưa. Tôi đã từng nhı̀n thấ y bức ảnh chu ̣p Torrijos và Greene cùng ngồ i với nhau, đăng trên mu ̣c “Nhân vâ ̣t” của tờ Time hay Newsweek. Dưới bức ảnh chú thı́ch, tác giả là mô ̣t vi ̣ khách đă ̣c biê ̣t, là mô ̣t người ba ̣n tố t của tướng Torrijos. Tôi không hiể u vi ̣ tướng nghı ̃ gı̀ về viê ̣c mô ̣t nhà văn mà ông hế t sức tin câ ̣y la ̣i viế t mô ̣t bài phê bı̀nh như vâ ̣y. Bài viế t của Graham Greene còn đă ̣t ra câu hỏi khác, liên quan đế n cái ngày tôi ngồ i uố ng cà phê với Tướng Torrijos năm 1972. Khi đó, tôi cho rằ ng Tướng Torrijos biế t cái trò viê ̣n trơ ̣ nước ngoài là để làm ông giàu lên trong khi đưa đấ t nước ông lâm vào cảnh khố n cùng do nơ ̣ nầ n. Tôi chắ c ông biế t tấ t cả những thứ đó diễn ra vı̀ người ta tin rằ ng tấ t cả các quan chức đề u dễ bi ̣ mua chuô ̣c. Ông cuñ g biế t rằ ng, viê ̣c ông quyế t không theo đuổ i lơị ı́ch cá nhân- mà thay vào đó là sử du ̣ng viê ̣n trơ ̣ nước ngoài để thực sự giúp người dân của mı̀nh- sẽ đươc̣ coi là mô ̣t mố i đe do ̣a, và rố t cu ̣c có thể làm lung lay toàn bô ̣ hê ̣ thố ng. Cả thế giới đang dõi theo người đàn ông này; hành đô ̣ng của ông không chı̉ có ảnh hưởng ở Panama mà còn lên toàn thế giới vı̀ thế không thể xem nhe ̣. Tôi đã từng hỏi, liê ̣u chế đô ̣ tâ ̣p đoàn tri ̣ sẽ phản ứng thế nào khi những khoản vay dành cho Panama có thể giúp cho người nghèo mà không gây ra những khoản nơ ̣ khổ ng lồ . Giờ đây tôi la ̣i
- băn khoăn không biế t liê ̣u Torrijos có ân hâ ̣n với những gı̀ mà tôi và ông đã thỏa thuâ ̣n với nhau ngày hôm đó- bản thâ ̣n tôi cuñ g không mấ y chắ c chắ n về suy nghı ̃ của mı̀nh đố i với những thỏa thuâ ̣n đó. Tôi đã rút khỏi vai trò sát thủ kinh tế của mı̀nh. Tôi chấ p nhâ ̣n chơi theo luâ ̣t của ông chứ không phải của tôi, đã chấ p nhâ ̣n những đòi hỏi về sự chân thực của ông để lấ y nhiề u hơp̣ đồ ng hơn. nế u chı̉ xét đơn thuầ n về mă ̣t kinh tế , đó là mô ̣t quyế t đinh ̣ làm ăn khôn ngoan cho MAIN. Tuy nhiên, điề u đó la ̣i không đúng với những gı̀ mà Claudine đã tiêm nhiễm cho tôi: nó không củng cố cho đế chế toàn cầ u. Có phải giờ đây nó đã ta ̣o điề u kiê ̣n để cho những tên chó săn đươc̣ thả sức tung hoành không? Lich ̣ sử Châu Mỹ Latinh có không ı́t những anh hùng đã ra đi, tôi đã nghı ̃ như vâ ̣y khi rời khỏi căn nhà gỗ của Torrijos ngày hôm đó. Mô ̣t hê ̣ thố ng đươc̣ dựng lên bởi những quan chức tham nhuñ g không thể tử tế với những người không thể bi ̣mua chuô ̣c. Đô ̣t nhiên tôi cảm giác mı̀nh như bi ̣ hoa mắ t. Mô ̣t bóng dáng quen thuô ̣c đang đi chầ m châ ̣m do ̣c theo hành lang. Lúc đầ u, tôi bố i rố i đế n mức tin rằ ng đó là Humphrey Bogart, nhưng Bogart đã qua đời từ rấ t lâu rồ i. Sau đó tôi nhâ ̣n ra người đàn ông đang nhe ̣ nhàng đi ngang qua tôi là mô ̣t trong những nhân vâ ̣t vı ̃ đa ̣i trong làng văn ho ̣c hiê ̣n đa ̣i Anh, tác giả của Kiêu hãnh và Vinh quang, Những diễn viên hài, Những người đàn ông của chúng tôi ở Havana, và của bài báo mà tôi vừa đă ̣t xuố ng chiế c bàn ca ̣nh mı̀nh. Graham Greene ngâ ̣p ngừng trong giây lát, nhı̀n xung quanh rồ i đi thẳ ng đế n quầ y ăn. Tôi muố n go ̣i hoă ̣c đuổ i theo ông, song tôi đã dừng la ̣i. Mô ̣t gio ̣ng nói trong tôi vang lên bảo rằ ng ông cầ n sự riêng tư; mô ̣t gio ̣ng nói khác la ̣i bảo ông ta sẽ tránh xa tôi. Tôi cầ m tờ New York Review of Books lên, và chı̉ mô ̣t lúc sau đã nga ̣c nhiên thấ y mı̀nh đang đứng trên lố i vào quầ y ăn. Tôi đã ăn điể m tâm rồ i nên khi tôi bước vào, người phu ̣c vu ̣ nhı̀n tôi với ánh mắ t nga ̣c nhiên. Tôi liế c nhı̀n xung quanh. Graham Greene đang ngồ i mô ̣t mı̀nh ở chiế c bàn sát tường. Tôi chı̉ chiế c bàn bên ca ̣nh ông và hỏi người phu ̣c vu ̣: “Liê ̣u tôi có thể ngồ i ở kia và ăn thêm mô ̣t bữa điể m tâm nữa không?” Tôi vố n là người hay boa tiề n rô ̣ng raĩ , nên người phu ̣c vu ̣ mı̉m cười mô ̣t cách ranh mañ h và đưa tôi đế n chiế c bàn đó. Greene như đang bi ̣ hút vào tờ báo ông đang đo ̣c. Tôi go ̣i cafe và bánh sừng bò mâ ̣t ong. Tôi muố n biế t Greene nghı ̃ gı̀ về Panama, về Tướng Torrijos và về vu ̣ kênh đào Panama, nhưng tôi còn chưa biế t bắ t chuyê ̣n với ông như thế nào. Rồ i chơṭ ông ngẩ ng lên, uố ng mô ̣t ngu ̣m nước. “Xin lỗi ông”, tôi nói. Ông nhı̀n tôi giâ ̣n dữ- hay ı́t ra thı̀ tôi cảm thấ y thế . “Vâng?” “Tôi rấ t ghét làm phiề n người khác mô ̣t cách đô ̣t ngô ̣t như thế này, nhưng xin hỏi ông có phải Graham Greene?” “Vâng, nhưng ta ̣i sao ông nhâ ̣n ra tôi?”. Ông mı̉m cười ấ m áp, “ở Panama hầ u hế t mo ̣i người không nhâ ̣n ra tôi.” Tôi liề n thú nhâ ̣n rằ ng ông là tác giả mà tôi yêu thı́ch nhấ t, và sau đó tôi giới thiê ̣u tóm tắ t với ông về cuô ̣c đời mı̀nh, về công viê ̣c của tôi ở MAIN và những lầ n gă ̣p gỡ Torrijos. Ông hỏi liê ̣u tôi có phải là nhà tư vấ n đã viế t bài báo về viê ̣c Mỹ nên rút khỏi Panama không: “Trên tờ Boston Globe thı̀ phải, nế u tôi nhớ không nhầ m?” Tôi nha ̣c nhiên đế n sững sờ. “Ở vào điạ vi ̣ của ông, đó là mô ̣t hành đô ̣ng duñ g cảm”, ông nói: “Ông không nga ̣i chuyể n sang ngồ i cùng bàn với tôi chứ?” Tôi chuyể n sang bàn của Greene và ngồ i đó với ông cả tiế ng rưỡi đồ ng hồ . Qua nói chuyê ̣n, tôi nhâ ̣n thấ y, quan hê ̣ giữa Greene và Tướng Torrijos đã trở nên thân thiế t thế nào. Đôi khi
- Greene nói về vi ̣tướng như mô ̣t người cha nói về con trai mı̀nh vâ ̣y. Ông nói: “Tướng Torrijos muố n tôi viế t mô ̣t cuố n sách về đấ t nước của ông ta. Tôi vừa mới bắ t tay vào viê ̣c đó. Nó sẽ là mô ̣t câu chuyê ̣n có thực- hơi khác với thói quen thông thường của tôi”. Tôi hỏi ông ta ̣i sao ông thường viế t tiể u thuyế t mà không viế t truyê ̣n hiê ̣n thực. “Viế t những điề u hư cấ u an toàn hơn”, ông nói. “Phầ n lớn những đề tài mà tôi viế t là những vấ n đề gây tranh caĩ . Về Viê ̣t Nam, về Haiti, về cách ma ̣ng Mêxicô. Rấ t nhiề u nhà xuấ t bản sơ ̣ phải xuấ t bản những cuố n truyê ̣n theo chủ nghıã hiê ̣n thực về các đề tài này.” Ông chı̉ vào tờ New York Review of Books mà tôi đang đă ̣t bên chiế c bàn bên ca ̣nh. “Những từ ngữ kiể u như thế này có thể đem la ̣i những tổ n thấ t lớn”. Rồ i ông cười nói tiế p: “Bên ca ̣nh đó, tôi thı́ch viế t truyê ̣n hư cấ u. Khi viế t hư cấ u tôi thấ y mı̀nh tự do hơn”. rồ i ông chăm chú nhı̀n tôi, nói: “Điề u quan tro ̣ng là viế t về những điề u có ý nghıã . Giố ng như bài báo của anh trên tờ Globe về kênh đào Panama ấ y”. Rõ ràng ông rấ t khâm phu ̣c Tướng Torrijos. Có vẻ như người đứng đầ u nhà nước Panama đã gây đươc̣ ấ n tươṇ g ma ̣nh với nhà văn nay, giố ng như đố i với những người nghèo và vô sản. Tôi cuñ g cảm nhâ ̣n đươc̣ rằ ng Greene rấ t lo cho tı́nh ma ̣ng của ba ̣n mı̀nh. “Đấ u la ̣i với tên Khổ ng lồ của phương Bắ c là mô ̣t khó khăn ghê gớm”, ông lắ c đầ u buồ n ba,̃ “tôi lo cho sự an toàn của ông ấ y”. Đã đế n lúc Greene phải đi. “Tôi phải kip̣ chuyế n bay sang Pháp”, ông nói, châ ̣m raĩ đứng dâ ̣y và bắ t tay tôi. Ông nhı̀n thẳ ng vào mắ t tôi: “Sao anh không viế t sách”, ông gâ ̣t đầ u đầ y khı́ch lê ̣, “anh rấ t có năng khiế u. Nhưng anh nên nhớ, phải luôn viế t về những điề u có ý nghıã ”. Ông quay bước đi, rồ i chơṭ dừng la ̣i, quay đầ u nói với tôi: “Đừng lo. Tướng Torrijos sẽ không sao đâu, ông ấ y sẽ lấ y la ̣i đươc̣ kênh đào”. Torrijos đúng là đã lấ y la ̣i đươc̣ kênh đào. Trong cùng năm đó, năm 1977, ông đã đàm phán thành công các hiê ̣p ước mới về quyề n kiể m soát kênh đào Panama với Tổ ng thố ng Carter. Sau đó Nhà trắ ng phải thuyế t phu ̣c Nghi ̣ viê ̣n Mỹ thông qua hiê ̣p ước. Mô ̣t cuô ̣c đấ u tranh dai dẳ ng và đầ y cam go diễn ra. Theo kế t quả kiể m phiế u cuố i cùng, Hiê ̣p ước Kênh đào đã đươc̣ phê chuẩ n nhờ hơn đúng mô ̣t phiế u. Phe bảo thủ sẽ trả đuã vu ̣ này. Vài năm sau đó, khi cuố n sách Tı̀m hiể u về vi ̣ tướng của Graham Greene đươc̣ xuấ t bản, ông đề tă ̣ng: “Tă ̣ng những người ba ̣n của ba ̣n tôi, Omar Torrijos, ở Nicaragua, El Salvado và Panama”. Chương 18 Vua của những vi vua ̣ Trong khoảng thời gian từ năm 1975 đế n năm 1978, tôi thường đế n Iran. Đôi khi tôi di chuyễn giữa Mỹ Latinh hoă ̣c Inđônêxia và Têhêran.Sa (vua của những vi ̣ vua, danh hiê ̣u chức thức của ông) là mô ̣t trường hơp̣ hoàn toàn khác với những nước mà chúng tôi từng làm viê ̣c. Iran rấ t nhiề u dầ u, và giố ng như Ảrâ ̣p Xêút, nó không cầ n phải vay nơ ̣ để tài trơ ̣ cho những dự án đầ y tham vo ̣ng của mı̀nh. Tuy nhiên, Iran hoàn toàn khác Ảrâ ̣p Xêút vı̀ phầ n lớn dân số nước này không phải là người Ả râ ̣p mà chủ yế u là người Trung Đông và người theo đa ̣o Hồ i. Bên ca ̣nh đó, nước này còn có mô ̣t lich ̣ sử đầ y rẫy những xáo trô ̣n về chı́nh tri-̣ kể cả trong nước và với các nước láng giề ng. Vı̀ thế , chúng tôi đã dùng mô ̣t cách khác: Washington và giới kinh doanh cùng hơp̣ lực biế n Sa thành mô ̣t biể u tươṇ g của sự tiế n bô ̣.
- Chúng tôi đã tâ ̣p trung mo ̣i nỗ lực để chứng minh cho cả thế giới thấ y rằ ng, mô ̣t đấ t nước hùng ma ̣nh, dân chủ, làm ba ̣n với những lơị ı́ch chı́nh tri ̣ và quyề n lơị tâ ̣p thể của Mỹ sẽ làm đươc̣ gı̀. Chẳ ng hề bâ ̣n lòng đế n cái tiế ng không dân chủ rõ rành rành, cuñ g như mô ̣t sự thâ ̣t tuy ı́t lô ̣ liễu hơn là CIA đã sắ p đă ̣t âm mưu nhằ m lâ ̣t đổ vi ̣ thủ tướng đã đươc̣ phái dân chủ cho ̣n; Washington và các đố i tác đồ ng minh của mı̀nh quyế t chứng minh cho đươc̣ rằ ng, chı́nh phủ của nhà vua có thể là hı̀nh mẫu thay thế cho chı́nh phủ ở các nước như Iraq, Libi, Trung Quố c, Triề u Tiên và nhiề u quố c gia khác, nơi đang dấ y lên mô ̣t làn sóng ngầ m ma ̣nh mẽ chố ng la ̣i My.̃ Nế u chı̉ nhı̀n bề ngoài, Sa tỏ ra là mô ̣t người ba ̣n cấ p tiế n của những người dân yế u thế . Năm 1962, Sa ra lê ̣nh phân chia tấ t cả những vùng đấ t riêng rô ̣ng lớn và trao trả la ̣i cho nông dân. Năm tiế p theo, ông ta phát đô ̣ng cuô ̣c Cách ma ̣ng trắ ng, trong đó có chương trı̀nh cải cách kinh tế – xã hô ̣i toàn diê ̣n. Những năm 70, quyề n lực của OPEC không ngừng lớn ma ̣nh, và nhà vua ngày càng có ảnh hưởng trên trường quố c tế . Cùng thời gian đó, Iran cuñ g xây dựng mô ̣t trong những lực lươṇ g quân đô ̣i hùng ma ̣nh nhấ t ở khu vực Trung Đông theo Đa ̣o hồ i.1 MAIN tham gia vào các dự án trên hầ u khắ p Iran, từ những khu du lich ̣ do ̣c biể n Caspi ở phı́a bắ c đế n các căn cứ quân sự bı́ mâ ̣t nhı̀n ra eo biể n Hormuz ở miề n nam. Cuñ g như mo ̣i lầ n, công viê ̣c chı́nh của chúng tôi là dự báo các tiề m năng phát triể n của khu vực và thiế t kế các ma ̣ng lưới phân phố i, truyề n tải và phát điê ̣n đủ để cung cấ p năng lươṇ g cầ n thiế t cho phát triể n công nghiê ̣p và thương ma ̣i, để hiê ̣n thực hóa những con số dự báo này. Dầ n dầ n tôi đi hầ u hế t các vùng của Iran. Tôi đi theo những con đường la ̣c đà qua những ngo ̣n núi trên sa ma ̣c, từ Kirman đế n Bandar ‘Abbas, lang thang quanh các tàn tı́ch Persepolis, nơi từng là cung điê ̣n huyề n thoa ̣i của những vi ̣vua cổ và cuñ g là mô ̣t trong những kỳ quan của thế giới Cổ đa ̣i. Tôi đã đi đế n những điạ danh nổ i tiế ng tráng lê ̣ của đấ t nước này: Shiraz, Isfahan, và thành phố của những chiế c lề u vải gầ n Persepolis, nơi Sa lên ngôi. Dầ n dầ n, tôi trở nên yêu mảnh đấ t này và những con người đầ y phức ta ̣p của nó. Bề ngoài, Iran có vẻ là mô ̣t hı̀nh mẫu cho sự kế t hơp̣ giữa đa ̣o Hồ i và đa ̣o thiên chúa. Song, tôi nhanh chóng nhâ ̣n ra rằ ng, cái bề ngoài yên bı̀nh đó có thể che giấ u cả mô ̣t sự oán giâ ̣n sâu sắ c bên trong. Mô ̣t buổ i chiề u muô ̣n năm 1977, tôi trở la ̣i phòng mı̀nh ở khách sa ̣n và tı̀m thấ y mô ̣t tờ giấ y nhét dưới cửa. Tôi kinh nga ̣c thấ y trong đó có chữ ký của mô ̣t chı̉ thi ̣ tên là Yamin. Tôi chưa bao giờ gă ̣p ông ta, nhưng trong mô ̣t chı̉ thi ̣ của Chı́nh phủ, ông ta đươc̣ mô tả như mô ̣t nhân vâ ̣t nổ i tiế ng với quan điể m cấ p tiế n và tư tưởng lâ ̣t đổ ma ̣nh mẽ nhấ t. Với nét chữ tiế ng Anh tuyê ̣t đe ̣p, ông mời tôi đế n gă ̣p ông ta ̣i mô ̣t nhà hàng do ông cho ̣n. Song, có mô ̣t lời cảnh báo trước: tôi chı̉ đươc̣ đế n nế u thực sự quan tâm đế n mô ̣t bô ̣ mă ̣t khác của đấ t nước Iran mà hầ u hế t những người “ở vi ̣ trı́ của tôi” không bao giờ thấ y. Tôi tự hỏi không biế t Yamin có biế t gı̀ về vai trò thực sự của tôi hay không. Tôi nhâ ̣n ra rằ ng, tôi đang phải chấ p nhâ ̣n mô ̣t rủi ro lớn, song, tôi không thể chố ng la ̣i cái ý muố n gă ̣p mă ̣t nhân vâ ̣t đầ y bı́ hiể m này. Taxi thả tôi xuố ng trước mô ̣t cái cổ ng bé xı́u bên trong mô ̣t bức tường cao- cao đế n mức tôi không thể nhı̀ thấ y tòa nhà phı́a bên trong. Mô ̣t phu ̣ nữ Iran xinh đe ̣p, vâ ̣n áo choàng đen dài dẫn tôi đi do ̣c theo mô ̣t hành lang nhỏ, có mái che thấ p, đươc̣ chiế u sáng bởi các đèn dầ u trang trı́ tuyê ̣t đe ̣p. Đế n cuố i hành lang, chúng tôi bước vào mô ̣t căn phòng sáng chói, khiế n tôi lóa cả mắ t, như thể đang ở bên trong mô ̣t viên kim cương vâ ̣y. Khi mắ t đã bắ t đầ u quen với ánh sáng, tôi mới thấ y tường của căn phòng đề u đươc̣ khảm đá quý và xà cừ. Nhà hàng đươc̣ chiế u sáng bằ ng những ngo ̣n nế n trắ ng cao, vươn lên từ những chân đèn bằ ng đồ ng, đươc̣ cha ̣m khắ c hế t sức tinh xảo. Mô ̣t người đàn ông cao lớn, với mái tóc đen dài, vâ ̣n mô ̣t bô ̣ complet ngàu xanh nước biể n đươc̣ cắ t may riêng tiế n đế n bắ t tay tôi. Ông ta tự giới thiê ̣u mı̀nh là Yamin. Gio ̣ng nói của ông
- cho thấ y ông ta là mô ̣t người Iran, từng đươc̣ giáo du ̣c trong hê ̣ thố ng trường ho ̣c của Anh. Ngay lâ ̣p tức, tôi vô cùng sửng số t bởi ông chẳ ng hề giố ng với mô ̣t phầ n tử cấ p tiế n có tư tưởng lâ ̣t đổ chút nào. Ông mời tôi đi qua mấ y daỹ bàn, nơi các că ̣p tı̀nh nhân đang lă ̣ng lẽ dùng bữa; đế n mô ̣t góc rấ t kı́n đáo. Ông cam đoan chúng tôi có thể nói chuyê ̣n mô ̣t cách tuyê ̣t đố i bı́ mâ ̣t. Tôi thấ y rõ ràng nhà hàng này chı̉ dành cho những buổ i tố i he ̣n hò bı́ mâ ̣t. Và rấ t có thể , đêm đó, chı̉ duy có cuô ̣c gă ̣p mă ̣t của chúng tôi không phải là mô ̣t cuô ̣c he ̣n hò yêu đương. Yamin rấ t thân mâ ̣t. Qua nói chuyê ̣n tôi hiể u ra rằ ng, ông ta nghı ̃ tôi chı̉ dơn thuầ n là mô ̣t nhà tư vấ n kinh tế , chứ không phải mô ̣t người với những đô ̣ng cơ không thể tiế t lô ̣. Ông nói ông cho ̣n tôi vı̀ ông biế t rằ ng tôi đã từng là tı̀nh nguyê ̣n viên của Quân đoàn Hòa bı̀nh và vı̀ người ta nói với ông rằ ng, tôi luôn tı̀m mo ̣i cơ hô ̣i để tı̀m hiể u về đấ t nước của ông và hòa nhâ ̣p với đồ ng bào ông. “Anh còn rấ t trẻ so với hầ u hế t những người khác ở vi ̣ trı́ của anh”, ông ta nói. “Anh rấ t quan tâm đế n đấ t nước tôi và đế n những vấ n đề hiê ̣n thời của chúng tôi. Anh là niề m hy vo ̣ng của chúng tôi.” Câu nói này, khung cảnh của nhà hàng, bề ngoài của Yamin, và sự hiê ̣n diê ̣n của rấ t nhiề u người nữa trong nhà hàng, mang la ̣i cho tôi cảm giác khá thoải mái. Tôi đã quen với viê ̣c mo ̣i người đố i xử tố t với mı̀nh, giố ng như Rasy ở Java và Fidel ở Panama, và tôi coi đó như mô ̣t lời khen và mô ̣t cơ hô ̣i. Tôi biế t, tôi khác với những người Mỹ khác bởi tôi luôn say mê những nơi mà tôi đế n. Tôi biế t, mo ̣i người sẽ nhanh chóng đố i xử nồ ng hâ ̣u với ba ̣n nế u ba ̣n sẵn sàng cởi mở tấ m lòng và hòa nhâ ̣p vào nề n văn hóa của ho ̣. Yamin hỏi tôi có biế t gı̀ về dự án Sa ma ̣c nở hoa không. (2) “Nhà vua tin rằ ng, sa ma ̣c của chúng tôi từng là những vùng đồ ng bằ ng phı̀ nhiêu và những khu rừng xum xuê tươi tố t. Ít nhấ t thı̀ đó cuñ g là những gı̀ ông ta quả quyế t. Theo truyề n thuyế t này, dưới triề u đa ̣i của Alexander Đa ̣i đế , những đô ̣i quân hùng ma ̣nh đã càn quét qua vùng đấ t này, mang theo hàng triê ̣u con dê và cừu. Những con vâ ̣t này đã ăn tấ t cả cỏ và các loa ̣i cây khác. Sự biế n mấ t của những loài thực vâ ̣t này đã gây nên ha ̣n hán và cuố i cùng cả vùng đó biế n thành sa ma ̣c. Giờ đây, tấ t cả những gı̀ chúng tôi phải làm, như nhà vua nói, đó là trồ ng ở đây hàng triê ̣u, hàng triê ̣u cây. Sau đó, rấ t nhanh mưa sẽ đế n và sa ma ̣c sẽ xanh tươi trở la ̣i. Tấ t nhiên, để làm đươc̣ điề u này, chúng tôi phải cầ n đế n hàng trăm triê ̣u đô la.” Ông ta cười khiêm nhường. “Các công ty như công ty của anh sẽ kiế m đươc̣ những món lơị khổ ng lồ .” “Tôi cươc̣ là anh chẳ ng tin vào truyề n thuyế t này.” “Sa ma ̣c chı̉ là mô ̣t biể u tươṇ g. Để mang la ̣i màu xanh cho nó, người ta không chı̉ cầ n có nông nghiê ̣p mà còn hơn thế rấ t nhiề u.” Vài người hầ u bàn bấ t ngờ đi đế n chỗ chúng tôi với những khay đầ y thức ăn Iran đươc̣ bầ y biê ̣n rấ t đe ̣p. Yamin xin phép tôi để cho ̣n mô ̣t thực đơn từ nhiề u khay thức ăn. Sau đó, ông ta quay trở la ̣i. “Tôi có mô ̣t câu hỏi cho anh, anh Perkin, xin lỗi nế u tôi có quá đường đô ̣t. Điề u gı̀ đã tàn phá nề n văn hóa của những người dân bản xứ ở nước anh, những người Anh điêng ấ y?” Tôi đáp, tôi nghı ̃ có rấ t nhiề u yế u tố trong đó có lòng tham và sự xuấ t hiê ̣n của những vũ khı́ tố i tân. “Đúng. Hoàn toàn đúng. Tấ t cả những cái đó đề u là nguyên nhân. Nhưng hơn hế t, chẳ ng phải là chı́nh nó đã biế n thành sự hủy hoa ̣i môi trường ư?” Rồ i ông giải thı́ch về viê ̣c những cánh rừng và những loài vâ ̣t như trâu bò đã bi ̣ tàn phá thế nào, và khi con người chuyể n đế n sinh số ng ở những vùng đấ t riêng, thı̀ những gố c rễ căn bản nhấ t của văn hóa đã bi ̣su ̣p đổ ra sao. “Anh thấ y đấ y, tı̀nh hı̀nh ở đây cuñ g y như vâ ̣y”, ông ta nói. “Sa ma ̣c là môi trường của chúng
- tôi. Dự án Sa ma ̣c nở hoa đe do ̣a phá hủy toàn bô ̣ nề n văn hóa của chúng tôi. Làm sao chúng tôi có thể để điề u đó xảy ra đươc̣ chứ?” Tôi nói với ông rằ ng, theo tôi hiể u thı̀ ý tưởng về dự án này do chı́nh đồ ng bào của ông nghı ̃ ra. Ông đáp trả bằ ng mô ̣t tiế ng cười đầ y hoài nghi, và nói, chı́nh Chı́nh phủ của đấ t nước tôi đã gieo rắ c ý tưởng đó vào đầ u óc của nhà vua, và rằ ng, nhà vua chı̉ là mô ̣t con rố i trong tay Chı́nh phủ My.̃ “Mô ̣t người dân Pecxich chı́nh cố ng sẽ không đời nào để điề u đó xảy ra”, Yamin nói. Rồ i ông bắ t đầ u mô ̣t bài nói dài về mố i quan hê ̣ giữa nhân dân ông- những người Bedouins- và sa ma ̣c. Ông nhấ n ma ̣nh rằ ng, nhiề u người Iran mă ̣c dù trở thành người thành thi ̣ song vẫn đi nghı̉ ở sa ma ̣c. Ho ̣ dựng những ngôi lề u đủ lớn cho cả gia đı̀nh và ở đó đế n cả tuầ n. “Chúng tôi- nhân dân tôi- là mô ̣t phầ n của sa ma ̣c. Những người dân mà nhà vua đang đòi thố ng tri ̣bằ ng bàn tay thép của ông ta không thuô ̣c về sa ma ̣c. Chúng tôi chı́nh là sa ma ̣c.” Sau đó, ông ta kể cho tôi nghe về những kinh nghiê ̣m của chı́nh bản thân ông về sa ma ̣c. Khi buổ i tố i trôi qua, ông đưa tôi trở la ̣i cánh cửa nhỏ bên trong bức tường cao. Xe taxi vẫn đơị tôi ở bên ngoài. Yamin bắ t tay và cảm ơn tôi vı̀ đã dành thời gian gă ̣p ông. Mô ̣t lầ n nữa, ông nhắ c la ̣i đế n tuổ i trẻ và sự cới mở của tôi, và rằ ng, viê ̣c tôi có đươc̣ mô ̣t vi ̣ trı́ như vâ ̣y mang la ̣i cho ông niề m hy vo ̣ng về tương lai. “Tôi hế t sức vui mừng vı̀ gă ̣p đươc̣ mô ̣t người như anh vào lúc này.” Ông tiế p tu ̣c nắ m chă ̣t tay tôi. “Tôi chı̉ xin anh thêm mô ̣t ân huê ̣ nữa: Tôi không đề nghi ̣ anh điề u này mô ̣t cách hời hơṭ đâu. Tôi làm vâ ̣y vı̀ sau khi nói chuyê ̣n với anh tố i nay tôi biế t nó sẽ rấ t có ý nghıã với anh. Anh sẽ ho ̣c đươc̣ nhiề u điề u từ viê ̣c này.” “Vâ ̣y tôi có thể làm đươc̣ gı̀ cho ông?” “Tôi muố n giới thiê ̣u anh với mô ̣t người ba ̣n rấ t thân của tôi, mô ̣t người có thể nói cho anh biế t rấ t nhiề u điề u về vi ̣ vua của chúng tôi. Ông ta có thể khiế n anh sửng số t, song tôi đảm bảo với anh rằ ng, anh rấ t nên giành thời gian gă ̣p ông ta.” Chương 19 Lời xưng tô ̣i của mô ̣t người chiụ nhu ̣c hıǹ h Vài ngày sau, Yamin lái xe đưa tôi ra khỏi thành phố Têhêran, qua mô ̣t khu nhà ổ chuô ̣t bẩ n thı̉u và nghèo đói, do ̣c theo con đường mòn la ̣c đà, đế n gầ n vùng sa ma ̣c. Khi mă ̣t trời đã khuấ t sau thành phố , Yamin dừng xe bên những túp lề u đắ p bằ ng bùn nằ m giữa những ră ̣ng co ̣. Ông giải thı́ch: “Ốc đảo này đã có từ lâu rồ i, hàng thế kỷ trước khi Marco Polo đă ̣t chân đế n đây”. Rồ i ông dẫn tôi đế n mô ̣t trong những chiế c lề u. Ông nói: “Người đàn ông số ng trong chiế c lề u này có bằ ng tiế n sỹ ta ̣i mô ̣t trong những trường đa ̣i ho ̣c danh tiế ng nhấ t nước My.̃ Vı̀ những lý do mà sau này anh sẽ biế t, tôi không thể tiế t lô ̣ tên của ông ta. Anh có thể go ̣i ông ấ y là tiế n sỹ Doc”. Yamin gõ cửa, từ sau cánh cửa gỗ vang lên tiế ng trả lời nghèn nghe ̣n. Yamin đẩ y cửa và chúng tôi bước vào. Căn lề u nhỏ xı́u, không có cửa sổ , ánh sáng yế u ớt hắ t ra từ chiế c đèn dầ u đă ̣t trên mô ̣t chiế c bàn thấ p ở góc phòng. Khi mắ t tôi đã quen với bóng tố i, tôi nhâ ̣n thấ y sàn nhà bẩ n thı̉u đươc̣ phủ bằ ng những tấ m thảm Ba Tư. Hı̀nh da ̣ng lờ mờ của người chủ căn lề u hiê ̣n ra. Ông ta ngồ i quay mă ̣t vào ngo ̣n đèn để không ai có thể nhı̀n thấ y khuôn mă ̣t. Tôi chı̉ thấ y toàn thân ông ta quấ n trong những tấ m mề n, trên đầ u đô ̣i mô ̣t vâ ̣t gı̀ đó. Ông ta ngồ i trên mô ̣t chiế c xe lăn và
- ngoài chiế c bàn ra, đây là đồ đa ̣c duy nhấ t trong căn lề u. Yamin ra hiê ̣u cho tôi ngồ i xuố ng thảm. Yamin tiế n về phı́a trước, nhe ̣ nhàng ôm hôn người đàn ông,thı̀ thầ m điề u gı̀ đó vào tai ông ta, rồ i quay la ̣i ngồ i xuố ng bên ca ̣nh tôi. “Thưa ngài, tôi đã kể cho ngài nghe về ông Perkins đây”, Yamin nói, “hôm nay chúng tôi rấ t vinh ha ̣nh đươc̣ đế n thăm ngài.” “Ông Perkins, chào mừng ông đế n với chúng tôi”. Mô ̣t gio ̣ng nói trầ m khàn vang lên. Tiế ng Anh của ông ta cực kỳ chuẩ n xác. Song tôi phải cúi sát về phı́a trước mới nghe đươc̣ những gı̀ ông nói. “Trước mă ̣t ông là người đàn ông ố m yế u. Trước đây, tôi cuñ g đã từng khỏe ma ̣nh như ông. Tôi đã từng là cố vấ n thân câ ̣n và tin câ ̣y nhấ t của Quố c vương”. Ông ta ngừng la ̣i mô ̣t lúc lâu “Quố c vương của tấ t cả các Quố c vương, Vua của tấ t cả các vi ̣ Vua”. Gio ̣ng nói của ông ta buồ n bã nhiề u hơn là giâ ̣n dữ. “Cá nhân tôi biế t rấ t nhiề u nhà lañ h đa ̣o trên thế giới, từ Aixenhao, Nixon đế n Tướng Đờ Gôn. Ho ̣ tin tưởng tôi sẽ giúp đưa đấ t nước này đi theo chủ nghıã tư bản. Quố c vương tin tưởng tôi, và”, người đàn ông chơṭ bâ ̣t ra mô ̣t âm thanh nghe như tiế ng ho, nhưng tôi nghı ̃ là ông ta đang cười”, “tôi tin tưởng Quố c vương. Tôi tin vào những lời nói hoa mỹ của ông ta. Ông ta đã làm cho tôi tin là Iran sẽ đưa thế giới Hồ i giáo tiế n vào mô ̣t kỷ nguyên mới, rằ ng Ba Tư sẽ thực hiê ̣n đươc̣ lời hứa của mı̀nh. Đó dường như là sứ mê ̣nh của đấ t chúng tôi, của Quố c vương, của tôi và của tấ t cả những ai tin rằ ng chúng tôi sinh ra là để thực hiê ̣n sứ mê ̣nh đã đươc̣ giao phó đó”. Cả đố ng chăn như chuyể n đô ̣ng, chiế c xe lăn khẽ keõ ke ̣t và hơi xoay la ̣i. Lúc này tôi có thể nhı̀n thấ y những đường nét trên khuôn mă ̣t và bô ̣ râu râ ̣m của ông ta. Rồ i tim tôi bỗng thắ t la ̣i. Trước mă ̣t tôi là mô ̣t khuôn mă ̣t phẳ ng ly.̀ Không có muĩ , người đàn ông trước mă ̣t tôi không có muĩ . “Hẳ n không phải là mô ̣t cảnh tươṇ g đe ̣p, phải không ông Perkins? Thâ ̣t tê ̣ là ông không đươc̣ nhı̀n thấ y nó ngoài ánh sáng. Đúng là mô ̣t bức tranh khủng khiế p”. Rồ i tiế ng cười nghèn nghe ̣n la ̣i cấ t lên từ ông ta. Ông ta nói tiế p: “Tôi tin ông hiể u là tôi buô ̣c phải giữ kı́n danh tı́nh của mı̀nh. Tấ t nhiên nế u muố n, ông có thể tı̀m hiể u xem tôi là ai, dù có thể ông sẽ phát hiê ̣n ra rằ ng tôi đã chế t. Đúng vâ ̣y, trên danh nghıã tôi đã không còn tồ n ta ̣i trên thế giới này. Nhưng tôi tin ông sẽ không cố tı̀m hiể u. Sẽ tố t hơn cho bản thân ông và gia đı̀nh ông nế u ông không làm vâ ̣y. Đâu đâu cuñ g có vây cánh của Quố c vương và SAVAK (Cơ quan tı̀nh báo an ninh Iran)”. Chiế c ghế la ̣i khẽ rung lên và trở la ̣i vi ̣ trı́ bắ t đầ u. Tôi có cảm giác như vừa đươc̣ giải thoát vı̀ không phải nhı̀n thấ y tấ t cả nỗi đau đớn vı̀ bi ̣ hành ha ̣ mà người đàn ông đó phải chiu.̣ Khi đó, tôi chưa biế t về phong tu ̣c này của đa ̣o Hồ i. Những người bi ̣ coi là đem la ̣i sự ô nhu ̣c cho xã hô ̣i hay cho lañ h tu ̣ của mı̀nh sẽ bi ̣ trừng pha ̣t bằ ng cách cắ t muĩ . Bằ ng cách đó, ho ̣ bi ̣ đánh dấ u suố t đời- khuôn mă ̣t của người đàn ông này rõ ràng đã chứng minh điề u đó. Không chờ tôi đáp la ̣i, ông ta la ̣i tiế p tu ̣c: “Ông Perkins, tôi tin chắ c ông đang thắ c mắ c vı̀ sao chúng tôi mời ông đế n đây. Ông thấ y đây, kẻ luôn tự xưng mı̀nh là Vua của các vi ̣ Vua thực chấ t là mô ̣t con quỷ Satăng. CIA của các ông đã phế truấ t cha ông ta, và dù rấ t ghét khi phải nói ra, nhưng viê ̣c này đươc̣ thực hiê ̣n với sự giúp đỡ của tôi. Vı̀ cha ông ta bi ̣coi là đồ ng minh của phát xı́t. Và sau đó là thảm ho ̣a Mossadegh. Ngày nay, Quố c vương của chúng tôi còn vươṭ xa cả Hitle trong cái thế giới của quỷ dữ. Chı́nh phủ các ông biế t rõ ông ta làm những điề u này và hoàn toàn ủng hô ̣”. “Ta ̣i sao la ̣i như vâ ̣y?” tôi hỏi “Đơn giản thôi, ông ta thực sự là đồ ng minh duy nhấ t của các ông ở Trung Đông này. Mà thế giới công nghiê ̣p la ̣i đang quay quanh tru ̣c dầ u lửa là Trung Đông. Tấ t nhiên các ông còn có đồ ng minh là Ixaren, nhưng thực chấ t đó là mô ̣t món nơ ̣ chứ không phải là tài sản của các ông. Và ở
- Ixaren la ̣i chẳ ng có dầ u. Các chı́nh tri ̣gia nước ông sẽ phải xoa diụ các cử tri Do Thái, phải dùng tiề n của ho ̣ để tài trơ ̣ cho các chiế n dich ̣ của mı̀nh. Vı̀ thế , tôi e là với Ixaren, các ông đang bi ̣ mắ c ke ̣t. Tuy nhiên, Iran chı́nh là chı̀a khóa giúp các ông giải quyế t vấ n đề này. Những công ty dầ u lửa của các ông- những công ty đang nắ m giữ thâ ̣m chı́ nhiề u quyề n lực hơn cả người Do Thái- cầ n chúng tôi. Các ông cầ n, hoă ̣c ı́t nhấ t là các ông nghı ̃ rằ ng mı̀nh cầ n Quố c vương. Giố ng như khi các ông nghı ̃ mı̀nh cầ n những nhà lañ h đa ̣o tham nhuñ g”. “Phải chăng ngài muố n ngu ̣ ý mô ̣t điề u gı̀ khác? Liê ̣u trường hơp̣ Iran có giố ng như mô ̣t vài nước không?” “Thâ ̣m chı́ còn có thể tồ i tê ̣ hơn thế nhiề u. Ông thấ y đấ y, vi ̣ Quố c vương này sẽ không nắ m quyề n lâu nữa đâu. Cả thế giới Hồ i giáo căm ghét ông ta. Không chı̉ người Hồ i giáo ở các nước Ả râ ̣p mà là ở khắ p nơi- ở Inđônêxia, ở My,̃ nhưng đa số vẫn là ngay ở đấ t nước này, từ chı́nh những thầ n dân Ba Tư của ông ta”. Mô ̣t tiế ng đô ̣ng lớn chơṭ phát ra từ phı́a ông ta, và tôi nhâ ̣n thấ y ông vừa đâ ̣p ma ̣nh tay xuố ng thành ghế . “Ông ta là quỷ dữ. Người Ba Tư chúng tôi căm ghét ông ta”. Sau đó là sự im lă ̣ng, chı̉ còn nghe thấ y hơi thở nă ̣ng nho ̣c của tiế n sy,̃ hẳ n là ông ta đã kiê ̣t sức vı̀ cố gắ ng quá mức. “Tiế n sỹ rấ t gầ n guĩ với các giáo sỹ Hồ i giáo”. Yamin khẽ nói với tôi mô ̣t cách bı̀nh tıñ h: “Ở đấ t nước này, có mô ̣t thế giới ngầ m khổ ng lồ đứng đằ ng sau các phe phái tôn giáo và nó có mă ̣t ở hầ u khắ p đấ t nước, ngoa ̣i trừ mô ̣t số ı́t người thuô ̣c tầ ng lớp doanh nhân đươc̣ hưởng lơị từ chế đô ̣ tư bản chủ nghıã của Quố c vương”. “Tôi không nghi ngờ ông”, tôi nói, “nhưng tôi phải nói rằ ng qua bố n lầ n đế n thăm đấ t nước này, tôi không hề nhâ ̣n thấ y những điề u đó. Tấ t cả những người tôi từng trò chuyê ̣n đề u bày tỏ lòng yêu kı́nh đố i với Quố c vương, và đánh giá cao sự tăng trưởng kinh tế của đấ t nước này”. “Đó là vı̀ anh không nói tiế ng Farsi”, Yamin nhâ ̣n xét. “Anh chı̉ nghe những điề u đó từ những người vố n đươc̣ lơị nhiề u nhấ t từ chı́nh sách của Quố c vương. Đó là những người đươc̣ giáo du ̣c ở Mỹ hoă ̣c Anh rồ i trở về làm viê ̣c cho Quố c vương. Đây, chı́nh tiế n sỹ là mô ̣t ngoa ̣i lê ̣.” Yamin chơṭ ngừng la ̣i, dường như để cân nhắ c xem nên nói tiế p điề u gı̀. Rồ i ông tiế p tu ̣c : “Giới báo chı́ của các anh cuñ g vâ ̣y. Ho ̣ chı̉ nói chuyê ̣n với mô ̣t số ı́t những người ho ̣ hàng và thân câ ̣n thuô ̣c phe của Quố c vương. Và tấ t nhiên, báo chı́ của anh đa phầ n cuñ g bi ̣ chi phố i bởi dầ u lửa. Vı̀ thế ho ̣ chı̉ nghe những gı̀ ho ̣ muố n nghe và viế t những gı̀ mà những người đăng quảng cáo trên báo muố n đo ̣c”. “Ông có biế t vı̀ sao chúng tôi nói những điề u này với ông không, ông Perkins”, tiế n sỹ la ̣i lên tiế ng, gio ̣ng nói thâ ̣m chı́ còn khàn hơn lúc trước. Hı̀nh như những nỗ lực để nói chuyê ̣n và bày tỏ cảm xúc đã làm ca ̣n kiê ̣t phầ n năng lươṇ g nhỏ nhoi còn la ̣i mà người đàn ông này cố dành cho buổ i nói chuyê ̣n hôm đó. Tiế n sỹ nói tiế p: “Bởi vı̀ chúng tôi muố n thuyế t phu ̣c ông rời khỏi đây cuñ g như thuyế t phu ̣c công ty ông tránh xa đấ t nước chúng tôi. Chúng tôi muố n cảnh báo cho biế t rằ ng mă ̣c dù ông có thể nghı ̃ mı̀nh sẽ kiế m đươc̣ mô ̣t vu ̣ làm ăn hời ở đấ t nước này, nhưng đó chı̉ là ảo tưởng mà thôi. Chı́nh phủ này không tồ n ta ̣i lâu nữa đâu”. Và mô ̣t lầ n nữa tôi la ̣i nghe thấ y tiế ng tay đâ ̣p ma ̣nh xuố ng thành ghế . “Và mô ̣t khi chı́nh phủ này không còn, chı́nh phủ khác sẽ không thông cảm với ông và những người giố ng như ông nữa đâu”. “Có phải ý ngài muố n nói chúng tôi sẽ chẳ ng có lơị gı̀ ở đây phải không?” Tiế n sỹ gu ̣c xuố ng vı̀ mô ̣t cơn ho. Yamin tiế n về phı́a tiế n sỹ và vỗ vỗ vào lưng ông ta để giúp ông ngừng cơn ho. Khi cơn ho đã qua, Yamin nói vài câu bằ ng tiế ng Farsi rồ i quay về ngồ i xuố ng bên ca ̣nh tôi. “Chúng ta phải kế t thúc buổ i nói chuyê ̣n ta ̣i đây”, Yamin nói với tôi, “và để trả lời cho câu hỏi của ông thı̀ thưa vâng, các ông sẽ không có đươc̣ gı̀ ở đây đâu. Các ông đã làm viê ̣c rấ t vấ t
- vả, nhưng đế n ngày hái quả, chı́nh phủ của Quố c vương sẽ su ̣p đổ ”. Trên đường trở về , tôi hỏi Yamin vı̀ sao ông và tiế n sỹ muố n giúp MAIN thoát khỏi thảm ho ̣a tài chı́nh mà ông ta đã tiên đoán. “Chúng tôi rẩ t muố n nhı̀n thấ y công ty của anh bi ̣ phá sản. Tuy nhiên, chúng tôi thấ y các anh rời khỏi Iran hơn. chı̉ cầ n mô ̣t công ty như công ty của anh ra đi sẽ có thể các công ty khác cuñ g ra đi theo. Đó là những gı̀ chung tôi đang hy vo ̣ng. Anh thấ y đây, chúng tôi không muố n nơi này biế n thành mô ̣t biể n máu, nhưng Quố c vương phải ra đi và chúng tôi sẽ làm bấ t cứ viê ̣c gı̀ để điề u đó có thể xảy ra dễ dàng hơn. vı̀ thế chúng tôi cầ u thánh Allah rằ ng anh sẽ thuyế t phu ̣c đươc̣ ngài Zambotti đưa công ty ra khỏi đấ t nước này ngay khi còn có thể ”. “Nhưng ta ̣i sao la ̣i là tôi?” “Ngay từ khi chúng ta cùng ăn tố i với nhau và nói chuyê ̣n về Dự án Sa ma ̣c nở hoa, tôi đã biế t anh là người sẵn lòng tiế p nhâ ̣n sự thâ ̣t. Tôi biế t những thông tin mà chúng tôi có đươc̣ về anh là chı́nh xác- anh là nhân vâ ̣t ở giữa hai thế giới, là người đứng giữa”. Câu nói của Yamin khiế n tôi tự hỏi không hiể u anh ta thực sự biế t những gı̀ về tôi. Chương 20 Sự su ̣p đổ của mô ̣t vi vua ̣ Mô ̣t buổ i tố i năm 1978, khi đang ngồ i mô ̣t mı̀nh ta ̣i quầ y bar sang tro ̣ng bên ngoài tiề n sảnh Khách sa ̣n InterContinent ở Têhêran, chơṭ ai đó vỗ vào vai tôi. Tôi quay la ̣i. Trước mă ̣t tôi là mô ̣t người Iran to béo, mă ̣c complet. “John Perkins! Không nhâ ̣n ra tôi sao”. Chàng cựu cầ u thủ bóng đá đã lên cân khá nhiề u song gio ̣ng nói thı̀ không lẫn vào đâu đươc̣ . Đúng là Farhad, người ba ̣n cũ của tôi ở Middlebury mà tôi đã không gă ̣p hơn mười năm nay. Chúng tôi ôm lấ y nhau, rồ i cùng ngồ i xuố ng trò chuyê ̣n. Tôi nhanh chóng nhâ ̣n ra rằ ng Farhad biế t tấ t cả mo ̣i thứ về bản thân tôi và về công viê ̣c của tôi. Nhưng rõ ràng là anh không hề có ý muố n nói cho tôi biế t về công viê ̣c của mı̀nh. Khi chúng tôi bắ t đầ u go ̣i đế n lươṭ bia thứ hai, Farhad nói: “Thôi, đi thẳ ng vào vấ n đề nhé. Ngày mai tôi sẽ bay sang Roma. Cha me ̣ tôi đang số ng ở đó. Tôi cuñ g đã mua vé cho anh đi cùng chuyế n bay của tôi. Anh phải rời khỏi đây. Mo ̣i thứ ở đây đang đảo lô ̣n hế t cả rồ i.” Anh đưa tôi vé máy bay. Ngay lâ ̣p tức, tôi tin anh. Đế n Roma, chúng tôi ăn tố i với cha me ̣ của Farhad. Cha anh, mô ̣t vi ̣ tướng Iran nay đã nghı̉ hưu, đã từng đứng ra đỡ đa ̣n cho Quố c vương khi ông ta bi ̣ ám sát. Nhưng giờ đây những ảo tưởng của ông về Quố c vương đã tan vỡ. Ông nói, những năm gầ n đây, Quố c vương đã bô ̣c lô ̣ rõ bản chấ t của mı̀nh, lô ̣ rõ sự nga ̣o ma ̣n và tham lam của ông ta. Vi ̣ tướng già lên án, chı́ch sách của My-̃ mà cu ̣ thể là chı́nh sách ủng hô ̣ Ixaren, hâ ̣u thuẫn cho các nhà lañ h đa ̣o tham nhuñ g và chı́nh phủ chuyên quyề n ba ̣o ngươc̣ - đã làm dấ y lên sự căm thù, oán hâ ̣n ở khắ p Trung Đông. Ông tiên đóan, Quố c vương sẽ su ̣p đổ chı̉ trong vòng vài tháng tới. Ông nói: “Anh biế t đấ y, chı́nh các anh đã gieo những mầ m mố ng nổ i nổ i loa ̣n từ đầ u những năm 50 khi lâ ̣t đổ Mossadegh. Hồ i đó các anh nghı ̃ đó là mô ̣t cách khôn ngoan, và tôi cuñ g vâ ̣y. Nhưng giờ đây, các anh và cả chúng tôi nữa đang phải gă ̣t lấ y những gı̀ mà các anh đã từng gieo.” (1) Tôi sững sờ trước lời tuyên bố của vi ̣ tướng già. Tôi đã từng nghe Yamin và tiế n sỹ nói đế n những điề u này, nhưng khi những lời đó do chı́nh vi ̣ tướng già này nói ra thı̀ nó mang mô ̣t ý nghıã
- khác hẳ n. Tı́nh đế n khi đó, tấ t cả mo ̣i người đề u biế t đế n sự tồ n ta ̣i mô ̣t thế giới ngầ m của những người Hồ i giáo cực đoan, nhưng chúng tôi tự thuyế t phu ̣c mı̀nh rằ ng Quố c vương đươc̣ đa số người dân yêu mế n và vı̀ thế ông ta có ảnh hưởng hơn bấ t cứ ai về mă ̣t chı́nh tri.̣ Tuy nhiên, vi ̣ tướng già, cha của Farhad rấ t kiên quyế t: “Haỹ ghi nhớ những gı̀ tôi nói”, ông trinh ̣ tro ̣ng tuyên bố , “sự su ̣p đổ của Quố c vương chı̉ là sự khởi đầ u. Nó báo trước cho chúng ta biế t thế giới Hồ i giáo sẽ đi tới đâu trong tương lai. Sự phẫn nô ̣ của chúng tôi đã đươc̣ nung nấ u quá lâu dưới lớp cát kia. Sớm muô ̣n gı̀, cơn giâ ̣n dữ đó cuñ g sẽ bùng lên”. Trong suố t bữa tố i, tôi đươc̣ nghe rấ t nhiề u về Ayatollah Ruhollah Khomeini. Cả Farhad và cha anh đề u không tán thành chủ nghıã Shiite cuồ ng tı́n của Khomeini nhưng rõ ràng là ho ̣ đánh giá rấ t cao những gı̀ Khomeini đã làm để chố ng la ̣i Quố c vương- hai cha con Farhad cho tôi biế t Khomeini là mô ̣t giáo sy,̃ sinh năm 1902 trong mô ̣t gia đı̀nh trung thành với trường phái Shiite ở mô ̣t ngôi làng gầ n Têhêran, và Khomeini có nghıã là “Đươc̣ Chúa Trời ta ̣o ra” Khomeini đã quyế t đinh ̣ không tham gia vào những cuô ̣c chiế n giữa Quố c vương và Mossadegh vào đầ u những năm 50, song đế n thâ ̣p kỷ 60, ông ta la ̣i tı́ch cực phản đố i Quố c vương và chı̉ trı́ch nhà cầ m quyề n gay gắ t đế n mức ông ta bi ̣ tru ̣c xuấ t sang Thổ Nhı ̃ Ky,̀ sau đó là đế n thánh điạ của người Shiite ở An Najaf, Iraq. Ở đây, ông ta trở thành người lañ h đa ̣o nổ i tiế ng của phe đố i lâ ̣p. Ông liên tu ̣c viế t những lá thư, bài báo, truyề n thông điê ̣p qua băng ghi âm nhằ m kı́ch đô ̣ng người Iran đứng lên lâ ̣t đổ Quố c vương và thành lâ ̣p mô ̣t nhà nước của các giáo sy.̃ Hai ngày sau bữa tố i của tôi với cha con Farhad, tôi đươc̣ tin về những vu ̣ đánh bom và nổ i dâ ̣y ở Iran. Ayatollah Khomeini và các giáo sỹ bắ t đầ u tấ n công và nhanh chóng giành quyề n kiế m soát. Sau đó, mo ̣i thứ diễn ra rấ t nhanh. Cơn thinh ̣ nô ̣ mà cha Farhad nhắ c tới đã bùng nổ thành mô ̣t cuô ̣c nổ i dâ ̣y đầ y ba ̣o lực của người Hồ i giáo. Quố c vương phải bỏ cha ̣y sang Ai Câ ̣p vào tháng 1 năm 1979, và sau đó, đươc̣ chuẩ n đoán là bi ̣ mắ c bê ̣nh ung thư, và ông ta đã đế n New York chữa tri.̣ Những người theo Ayatollah Khomeini đòi Quố c vương quay trở la ̣i Iran. Tháng 11 năm 1979, mô ̣t nhóm sỹ quan Hồ i giáo đã chiế m giữ Đa ̣i sứ quán Mỹ ta ̣i Têhêran, bắ t 22 người Mỹ làm con tim trong 444 ngày.2 Tổ ng thố ng Carter đã rấ t nỗ lực đàm phán để giải cứu cho các con tin này. Khi các nỗ lực đàm phán không mang la ̣i kế t quả, tháng 4 năm 1980, Tổ ng thố ng đã ha ̣ lê ̣nh cho quân đô ̣i tấ n công giải cứu con tin. Sự kiế n này đã trở thành mô ̣t thảm ho ̣a, và đươc̣ vı́ như chiế c đinh cuố i cùng đóng lên chiế c quan tài chôn vui chức tổ ng thổ ng của Carter. Trước sức ép rấ t lớn từ các nhóm chı́nh tri ̣ và thương ma ̣i My,̃ Quố c vương vố n đang mang trong mı̀nh căn bê ̣nh ung thư đã buô ̣c phải rời khỏi nước My.̃ Khi về đế n Têhêran, ông ta chẳ ng tı̀m đươc̣ chỗ nào để ẩ n náu; tấ t cả ba ̣n bè cũ đề u xa lánh ông ta. Song, Tướng Torrijos, với lòng nhân ái vố n có đã cho phép Quố c vương ti ̣ na ̣n chı́nh tri ̣ ở Panama dù bản thân ông không ưa gı̀ quan điể m chı́nh tri ̣ của Quố c vương. Nơi trú ẩ n cuố i cùng của Quố c vương la ̣i chı́nh là nơi mà gầ n đây diễn ra các cuô ̣c đàm phán về Hiê ̣p ước Kênh đào Panama mới. Các giáo sỹ yêu cầ u trao đổ i Quố c vương với các con tin trong Đa ̣i sứ quán Mỹ ta ̣i Têhêran. Những người trước đây phản đố i viê ̣c ký kế t Hiê ̣p ước nói trên đã buô ̣c tô ̣i Tướng Torrijos là tham nhuñ g và câu kế t với Quố c vương, đe do ̣a tı́nh ma ̣ng các công dân My.̃ Ho ̣ đòi phải giao nô ̣p Quố c vương cho Ayatollah Khomeini. Điề u nực cười là, chı̉ vài tuầ n trước đó, nhiề u người trong số ho ̣ còn là những kẻ ủng hô ̣ Quố c vương trung thành nhấ t. Vua của các vi ̣ Vua lừng lẫy mô ̣t thời, cuố i cùng đươc̣ đưa trở về Ai Câ ̣p và sau đó mấ t ta ̣i đây vı̀ bi ̣ung thư. Tiên đoán của tiế n sỹ đã thành sự thâ ̣t. MAIN mấ t hàng triê ̣u đô la ta ̣i Iran, và nhiề u đich ̣ thủ khác của chúng tôi cuñ g vâ ̣y. Carter thấ t ba ̣i trong cuô ̣c tái tranh cử. Chı́nh quyề n Reagan- Bush
- lên nắ m quyề n với lời hứa sẽ tı̀m cách trả tự do cho các con tin, ha ̣ bê ̣ nắ m quyề n với lời hứa sẽ tı̀m cách trả tự do cho các con tin, ha ̣ bê ̣ các giáo sy,̃ trả la ̣i nề n dân chủ cho Iran và giải quyế t tı̀nh hı̀nh kênh đào Panama. Đố i với tôi, đó là mô ̣t bài ho ̣c không thể chố i caĩ . Iran là mô ̣t minh chứng rõ ràng rằ ng, Mỹ luôn cố phủ nhâ ̣n sự thâ ̣t về vai trò của chúng tôi trên thế giới. Không thể hiể u nổ i ta ̣i sao chúng tôi la ̣i có thể bi ̣ thông tin sai la ̣c đế n thế về Quố c vương và về làn sóng căm phẫn đang dâng lên chố ng la ̣i ông ta. Ngay cả nhân viên của những công ty như MAIN, vố n đă ̣t cả tru ̣ sở hoa ̣t đô ̣ng ở đấ t nước này cuñ g không đươc̣ biế t về điề u đó. Chắ c chắ n là NSA và CIA đã nhı̀n thấ y cái điề u mà Torrijos biế t rấ t rõ, thâ ̣m chı́ ngay từ khi tôi gă ̣p ông vào năm 1972. song chı́nh ma ̣ng lưới tı̀nh báo của chúng tôi đã cố tı̀nh khı́ch lê ̣ chúng tôi nhắ m mắ t làm ngơ trước sự thâ ̣t này. Chương 21 Côlômbia- hòn đá tảng của Châu Mỹ Latinh Mô ̣t mă ̣t, Ảrâ ̣p Xêút, Iran và Panama là những nước vừa rấ t hấ p dẫn vừa khiể n người ta lo nga ̣i, song mă ̣t khác đây la ̣i là những quố c gia hoàn toàn khác so với quy luâ ̣t thông thường. Do Ảrâ ̣p Xêút và Iran có trữ lươṇ g dầ u lớn, còn Panama la ̣i có kênh đào, nên ba nước này không giố ng với những nước khác. Trường hơp̣ của Côlômbia thı̀ điể n hı̀nh hơn, và MAIN vừa là công ty thiế t kế , vừa là công ty thi công hàng đầ u cho mô ̣t dự án thủy điê ̣n khổ ng lồ ở nước này. Mô ̣t giáo sư đa ̣i ho ̣c Côlômbia, người đang viế t mô ̣t cuố n sách về lich ̣ sử mố i quan hê ̣ giữa Panama và Mỹ có lầ n nói với tôi rằ ng Tổ ng thố ng Teddy Roosevelt đánh giá cao tầ m quan tro ̣ng của Côlômbia. Người ta bảo, có lầ n vi ̣ Tổ ng thổ ng và cựu đa ̣i tá trong cuô ̣c chiế n My-̃ Tây Ban Nha này đã chı̉ vào bản đồ và miêu tả Côlômbia như “hòn đá đı̉nh vòm của cánh cửa hı̀nh vòng cung Nam My”̃ . Tôi chưa bao giờ xác minh la ̣i câu chuyê ̣n này song có thể nhı̀n thấ y rõ điề u đó trên bản đồ Nam My:̃ Côlômbia nằ m ở đı̉nh trên cùng của Nam Mỹ và dường như là điể m nố i tấ t cả những phầ n còn la ̣i của lu ̣c điạ với nhau. Côlômbia nố i tấ t cả các nước Nam Mỹ với eo biể n Panama, và do đó với cả vùng Trung và Bắ c My.̃ Cho dù có đúng là Roosevelt đã nói như vâ ̣y về Côlômbia hay không thı̀ ông ta cuñ g chı̉ là mô ̣t trong số nhiề u tổ ng thổ ng ý thức đươc̣ vai trò then chố t của Côlômbia. Trong gầ n hai thế ky,̉ nước Mỹ đã coi Côlômbia là hòn đá tảng- hoă ̣c go ̣i mô ̣t cách chı́nh xách hơn là cửa ngõ dẫn vào bán cầ u nam, cả về kinh tế và chı́nh tri.̣ Côlômbia còn đươc̣ trời phú cho mô ̣t thiên nhiên tuyê ̣t đe ̣p: Những baĩ biể n mê hồ n với những hàng co ̣ cha ̣y dài ở cả bên bờ Thái Bı̀nh Dương và Đa ̣i Tây Dương, những ngo ̣n núi hùng vı,̃ những cánh đồ ng hoang có thể sánh ngang với những thảo nguyên mênh mông của Bắ c My,̃ và những cánh rừng nhiê ̣t đới với vô số loài thực vâ ̣t. Con người nơi đây cuñ g mang những nét tı́nh cách đă ̣c biê ̣t, kế t hơp̣ các nét đă ̣c trưng về thể chấ t, văn hóa nghê ̣ thuâ ̣t của rấ t nhiề u dân tô ̣c, từ người Taironas bản xứ tới người nhâ ̣p cư từ Châu Phi, Châu Á, Châu Âu và Trung Đông. Từ xa xưa, Côlômbia đã đóng vai trò quan tro ̣ng trong lich ̣ sử và văn hóa của khu vực Châu Mỹ Latinh. Trong thời kỳ thực dân, Côlômbia là nơi ở của các lañ h chúa từ tấ t cả các thuô ̣c điạ của Tây Ban Nha ở miề n Bắ c Pêru và miề n Nam Côxta Rica. Rấ t nhiề u đoàn tàu lớn chở vàng đã xuấ t phát từ thành phố ven biể n Cartagena của Côlômbia, chở những kho báu vô giá từ những vùng xa xôi ở Nam Mỹ như Chilê và Áchentina tới các bế n cảng ở Tây Ban Nha. Rấ t nhiề u sự kiê ̣n then chố t trong các cuô ̣c chiế n giành đô ̣c lâ ̣p đã diễn ra ở Côlômbia; vı́ du ̣, quân đô ̣i của Simón Bolı́var đã chiế n thắ ng quân đô ̣i Hoàng gia Tây Ban Nha trong trâ ̣n chiế n quan tro ̣ng ở
- chiế n trường Boyacá năm 1819. Đương nhiên, Côlômbia nổ i tiế ng là quê hương của nhiề u nhà văn, nghê ̣ sy,̃ triế t gia và nhân tài chói sáng nhấ t Châu Mỹ Latin. Đấ t nước này cuñ g nổ i tiế ng có mô ̣t chı́nh phủ đươc̣ tı́n nhiê ̣m và tương đố i dân chủ. Côlômbia trở thành hı̀nh mẫu cho các chương trı̀nh xây dựng đấ t nước của Tổ ng thố ng Kenedy ở khắ p Châu Mỹ Latinh. Không giố ng trường hơp̣ của Goatêmala, Chı́nh phủ Côlômbia không bi ̣ mang tiế ng là do CIA lâ ̣p ra; và cuñ g không giố ng Nicaragoa, Chı́nh phủ Côlômbia là mô ̣t chı́nh phủ do dân bầ u, hoàn toàn trái ngươc̣ với những chı́nh phủ đô ̣c tài cánh hữu. Cuố i cùng, khác với rấ t nhiề u nước, trong đó có cả những nước ma ̣nh như Braxin và Áchentina, Côlômbia không mấ t lòng tin vào nước My.̃ Côlômbia tiế p tu ̣c là hı̀nh ảnh của mô ̣t đồ ng minh đáng tin câ ̣y, dù nước này có đầ y rẫy những tâ ̣p đoàn buôn ma túy.1 Tuy nhiên, vòng hào quang sáng chói trong lich ̣ sử Côlômbia la ̣i bi ̣ lu mờ bởi lòng căm thù và ba ̣o lực. Nơi ở của các vi ̣ lañ h chúa Tây Ban Nha cuñ g chı́nh là ngôi nhà của Giáo hô ̣i Thiên chúa. Những pháo đài nguy nga, những đồ n điề n, thành phố đề u đươc̣ xây dựng trên xương máu của những người nô lê ̣ da đỏ và Châu Phi. Kho báu trên những chiế c thuyề n chở vàng, những báu vâ ̣t linh thiêng và những kiê ̣t tác nghê ̣ thuâ ̣t đươc̣ nấ u chảy để vâ ̣n chuyể n dễ dàng hơn đề u là đồ cướp đoa ̣t từ trái tim của những người Cổ đa ̣i. Bản thân những nề n văn hóa đáng tự hào đã bi ̣ lưỡi kiế m của quân Tây Ban Nha xâm lươc̣ và bê ̣nh dich ̣ tàn phá. Gầ n đây hơn, cuô ̣c bầ u cử tổ ng thố ng gây nhiề u tranh caĩ năm 1945 đã gây chia rẽ sâu sắ c giữa các đảng phái chı́nh tri ̣ và dẫn đế n sự kiê ̣n La Violencia (1948-1957) khiế n hơn hai trăm nghı̀n người thiê ̣t ma ̣ng. Cho dù chứa đầ y những mâu thuẫn và cả những nghich ̣ lý như vâ ̣y, song Côlômbia vẫn luôn đươc̣ Washington và phố Wall từ trước đế n nay xem là mô ̣t nhân tố cố t yế u thúc đẩ y các lơị ı́ch thương ma ̣i và chı́nh tri ̣ trong mố i quan hê ̣ giữa Panama và My.̃ Ngoài vi ̣ trı́ điạ chı́nh tri ̣ quan tro ̣ng của Côlômbia, điề u này còn do nhiề u nhân tố khác nữa, trong đó có quan điể m cho rằ ng các nhà lañ h đa ̣o trên cả bán cầ u này đang hướng tới Bogotá để có thêm sức ma ̣nh và sự chı̉ dẫn, cuñ g như trên thực tế là nước này đang cung cấ p cho thi ̣ trường Mỹ rấ t nhiề u sản phẩ m như cà phê, chuố i, hàng dê ̣t may, hoa tươi, dầ u và ma túy, đồ ng thời cuñ g là thi ̣ trường tiêu dùng hàng hóa và dicḥ vu ̣ của My.̃ Mô ̣t trong những dich ̣ vu ̣ quan tro ̣ng nhấ t mà chúng tôi cung cấ p cho Côlômbia trong giai đoa ̣n cuố i thế kỷ XX là chuyên gia xây dựng và kỹ thuâ ̣t. Côlômbia rấ t giố ng với nhiề u nơi tôi đã từng tới làm viê ̣c. Rấ t dễ thấ y đấ t nước này có thể vay những khoản nơ ̣ lớn và sau đó thanh toán các khoản nơ ̣ này bằ ng lơị nhuâ ̣n có đươc̣ từ chı́nh các dự án cuñ g như bằ ng nguồ n tài nguyên thiên nhiên của nước mı̀nh. Vı̀ thế , những khoản đầ u tư lớn vào ma ̣ng lưới điê ̣n, đường cao tố c, và viễn thông sẽ giúp Côlômbia khai thác các nguồ n tài nguyên dầ u và khı́ ga của nước này và phát triể n những vùng đấ t hoang sơ của Amazon. Ngươc̣ la ̣i, chı́nh những dự án đó sẽ mang la ̣i nguồ n thu cầ n thiế t để trả các khoản vay, bao gồ m cả laĩ suấ t. Đó là về lý thuyế t. Tuy nhiên, sự thực nhấ t quán với ý đinh ̣ thực sự của chúng tôi trên khắ p thế giới này là chiế m Bogotá để mở rô ̣ng hơn nữa đế chế toàn cầ u. Công viê ̣c của tôi ở đây cuñ g giố ng như ở nhiề u nơi khác, đó là chứng minh rằ ng nước này cầ n những khoản vay cực lớn. Côlômbia không có đươc̣ mô ̣t người như Torrijos; vı̀ thế tôi thấ y mı̀nh chẳ ng còn lựa cho ̣n nào khác ngoài viê ̣c cố thổ i phồ ng lên các dự báo về tro ̣ng tải điê ̣n và tăng trưởng kinh tế . Ngoa ̣i trừ những cảm giác tô ̣i lỗi mà đôi khi tôi chơṭ có về công viê ̣c của mı̀nh, đố i với tôi, Côlômbia đã trở thành nơi trú ẩ n bı́ mâ ̣t. Tôi và Ann đã số ng ở đây hai tháng vào đầ u thâ ̣p niên 70. chúng tôi còn bỏ tiề n mua cả mô ̣t trang tra ̣i nhỏ trồ ng cà phê nằ m ở dải núi do ̣c theo bờ biể n Caribê. Tôi nghı ̃ thời gian chúng tôi bên nhau khi đó suýt nữa đã có thể giúp chúng tôi hàn gắ n những nỗi đau mà chung tôi đã gây cho nhau trong những năm trước đó. Song, những vế t thương
- đó còn quá sâu, và phải đế n khi cuô ̣c hôn nhân của chúng tôi kế t thúc, tôi mới nhâ ̣n ra rằ ng tôi đã thực sự gắ n bó với đấ t nước này. Trong thâ ̣p niên 70, MAIN đã nhâ ̣n đươc̣ mô ̣t số hơp̣ đồ ng dự án xây dựng cơ sở ha ̣ tầ ng, trong đó có dự án xây dựng ma ̣ng lưới nhà máy thủy điê ̣n và phân phố i điê ̣n để chuyể n tải điê ̣n từ rừng sâu cho tới những thành phố nằ m tı́t trên núi cao. Tôi đươc̣ phân mô ̣t văn phòng ở thành phố duyên hải Barranquilla. Chı́nh ở đó, năm 1977, tôi đã gă ̣p cô gái Côlômbia xinh đe ̣p, người đã làm thay đổ i cả cuô ̣c đời tôi. Khác với các phu ̣ nữ Côlômbia khác, Paula có mái tóc dài vàng óng và đôi mắ t xanh lu ̣c quyế n ru.̃ Cha me ̣ cô ấ y là người Bắ c Ý đế n sinh số ng ở Côlômbia, và để kế thừa truyề n thố ng của gia đı̀nh, Paula trở thành nhà thiế t kế thời trang. Tuy nhiên, Paula đã tiế n mô ̣t bước xa hơn thế . Cô xây dựng mô ̣t nhà máy nhỏ để sản xuấ t các trang phu ̣c theo thiế t kế của mı̀nh. Những trang phu ̣c do Paula thiế t kế đươc̣ đem bán ở các cửa hàng thời trang sang tro ̣ng trên khắ p đấ t nước Côlômbia cuñ g như ở Panama và Vênêzuêla. Cô ấ y là mô ̣t người rấ t nhân hâ ̣u và đã giúp tôi vươṭ qua những tổ n thương mà cuô ̣c hôn nhân tan vỡ để la ̣i trong tôi và khiế n tôi thay đổ i thái đô ̣ đố i với phu ̣ nữ vố n làm tôi khố n khổ . Cô ấ y cuñ g khiế n tôi nhâ ̣n ra rấ t nhiề u hâ ̣u quả mà công viê ̣c của tôi đưa la ̣i. Như tôi vẫn luôn nói, cuô ̣c số ng là sự kế t hơp̣ mô ̣t chuỗi những điề u trùng hơp̣ ngẫu nhiên mà chúng ta không thể nào kiế m soát nổ i. Đố i với tôi, đó là viê ̣c đươc̣ nuôi da ̣y ta ̣i trường nô ̣i trú nam ở vùng nông thôn New Hampshire với tư cách là con trai của mô ̣t giáo viên, gă ̣p Ann và chú Frank của cô ấ y, chiế n tranh Viê ̣t Nam và gă ̣p Einar Greve. Song, mô ̣t khi đã rơi vào những hoàn cảnh ngẫu nhiên, chúng ta buô ̣c phải lựa cho ̣n. Cách phản ứng của mỗi chúng ta, những gı̀ chúng ta làm khi đố i mă ̣t với những sự ngẫu nhiên đó quyế t đinh ̣ tấ t cả. Vı́ du ̣, trở thành nam sinh xuấ t sắ c của trường, kế t hôn với Ann, tham gia Quân đoàn Hòa bı̀nh và quyế t đinh ̣ trở thành mô ̣t sát thủ kinh tế - tấ t cả những quyế t đinh ̣ này đã đưa tôi đế n với cuô ̣c số ng hiê ̣n ta ̣i. Paula là mô ̣t sự ngẫu nhiên khác của tôi, và ảnh hưởng của cô ấ y với tôi đã đưa tôi đế n những hành đô ̣ng làm thay đổ i cả cuô ̣c đời tôi. Trước khi gă ̣p cô ấ y, tôi đã xoay xở khá tố t với guồ ng máy công viê ̣c của mı̀nh. Dù tôi thường tự hỏi bản thân mı̀nh đang làm gı̀, đôi khi tôi cảm thấ y tô ̣i lỗi vı̀ công viê ̣c của mı̀nh, song tôi vẫn tı̀m ra cách để hơp̣ lý hóa viê ̣c tôi tiế p tu ̣c ở la ̣i trong hê ̣ thố ng đó. Có lẽ Paula chı̉ vô tı̀nh xuấ t hiê ̣n đúng vào thời điể m cầ n thiế t. Có thể khi đó tôi đã quyế t tâm, cuñ g có thể những gı̀ tôi đã trải qua ở Ảrâ ̣p Xêút, ở Iran và ở Panama đã thôi thúc tôi phải hành đô ̣ng. Nhưng tôi chắ c chắ n rằ ng cuñ g như Claudine đã từng là mô ̣t cô ̣ng cu ̣ để thuyế t phu ̣c tôi tham gia vào hàng ngũ của các sát thủ kinh tế , thı̀ Paula là những gı̀ mà tôi cầ n vào lúc đó. Cô ấ y đã thuyế t phu ̣c tôi nhı̀n la ̣i chı́nh mı̀nh, để thấ y rằ ng, tôi sẽ không bao giờ có đươc̣ ha ̣nh phúc nế u tôi vẫn tiế p tu ̣c đóng vai trò đó. Chương 22 Nề n cô ̣ng hòa Mỹ và đế chế toàn cầ u Mô ̣t hôm, khi chúng tôi đang ngồ i trong mô ̣t quán cafe, Paula chơṭ nói với tôi: “Em sẽ nói thẳ ng. Những người da đỏ và tấ t cả những nông dân số ng do ̣c theo con sông mà công ty các anh đang xây đâ ̣p đề u căm ghét các anh. Thâ ̣m chı́ cả những người số ng trong thành phố vố n không chiụ ảnh hưởng trực tiế p cuñ g thông cảm với những nhóm du kı́ch đã tấ n công vào tra ̣i xây dựng của các anh. Chı́nh phủ của các anh go ̣i những người này la những tên cô ̣ng sản, là những kẻ
- khủng bố , là những tên buôn lâ ̣u ma túy nhưng sự thâ ̣t ho ̣ chı̉ là những người bı̀nh thường, sinh số ng trên mảnh đấ t đang bi ̣công ty các anh phá hoa ̣i.” Tôi vừa kể cho Paula nghe về Manuel Torres. Manuel là mô ̣t kỹ sư của MAIN và là mô ̣t trong số những người đã bi ̣ du kı́ch tấ n công ta ̣i công trường xây đâ ̣p thủy điê ̣n của chúng tôi. Anh là người Côlômbia, đang làm viê ̣c ở đây vı̀ Bô ̣ Ngoa ̣i giao Mỹ có quy đinh ̣ cấ m chúng tôi đưa công dân Mỹ đế n làm viê ̣c ở nơi này. Chúng tôi go ̣i đó là Thuyế t thế ma ̣ng. Nó tươṇ g trưng cho mô ̣t thái đô ̣ mà tôi càng ngày càng căm ghét. Cảm nhâ ̣n của tôi về chı́nh sách này khiế n tôi càng ngày càng khó chiụ ngay với chı́nh bản thân mı̀nh. “Theo Manuel kể la ̣i, bo ̣n chúng bắ n AK-47 lên trời và dưới chân anh ta”, tôi kể cho Paula nghe. “Lúc kể la ̣i điề u này, Manuel có vẻ rấ t bı̀nh tıñ h nhưng anh biế t anh ấ y đã rấ t hoảng loa ̣n. Bo ̣n chúng không bắ n ai cả, chı̉ trao cho ho ̣ mô ̣t bức thứ và cho tấ t cả những người này xuố ng thuyề n của chúng.” “Chúa ơi”, Paula thố t lên. “Anh chằ ng tô ̣i nghiê ̣p đó chắ c hẳ n rấ t sơ ̣ haĩ ” “Hẳ n nhiên rồ i”. Rồ i tôi kể cho Paula rằ ng tôi đã hỏi Manuel xem liê ̣u nhóm du kı́ch đó có phải là FARC hay M-19, hai trong số những nhóm du kı́ch khét tiế ng nhấ t của Côlômbia hay không. “Và anh ta trả lời thế nào?” “Anh ta nói là không phải. Nhưng anh ta nói anh ta tin vào những gı̀ ho ̣ viế t trong lá thư đó”. Paula cầ m tờ báo tôi mang theo và đo ̣c to nô ̣i dung lá thư đươc̣ in trên đó: “Chúng tôi, những người làm viê ̣c ngày đem chı̉ để tồ n ta ̣i, thề trên máu của ông cha mı̀nh rằ ng, chúng tôi sẽ không bao giờ cho phép xây những con đâ ̣p do ̣c trên những dòng song của chúng tôi. Chúng tôi chı̉ là những người thổ dân da đỏ và người lai, nhưng chúng tôi thà chế t chứ không chiụ đứng nhı̀n đấ t đai của chúng tôi ngâ ̣p trong nước. Chúng tôi cảnh cáo những người anh em Côlômbia: Các anh không đươc̣ làm viê ̣c cho các công ty xây dựng này nữa”. Đă ̣t tờ báo xuố ng, Paula hỏi tôi: “Thế anh đã nói gı̀ với anh ta?” Tôi ngầ n ngừ, nhưng chı̉ trong chố c lát rồ i nói: “Anh không có sự lựa cho ̣n nào khác. Anh phải tuân theo mê ̣nh lê ̣nh của công ty. Anh đã hỏi Manuel xem liê ̣u anh ta có tin mô ̣t lá thư như vâ ̣y là do mô ̣t người nông dân viế t ra hay không”. Paula chăm chú nhı̀n tôi, kiên nhẫn lắ ng nghe. “Anh ta chı̉ nhún vai”, tôi bắ t gă ̣p ánh mắ t của Paula. “Ôi, Paula, anh căm ghét chı́nh bản thân mı̀nh trong cái vai trò này”. “Rồ i sau đó anh làm gı̀?” Paula dồ n tôi vào thế bı́. “Anh đấ m ma ̣nh xuố ng bàn. Chı̉ để hăm do ̣a anh ta mà thôi. Anh hỏi liê ̣u những người nông dân cầ m súng AK-47 có ý nghıã gı̀ với anh ta không. Rồ i anh hỏi liê ̣u anh ta có biế t ai là người đã sáng chế ra súng AK-47 hay không”. “Anh ta biế t chứ?” “Có, nhưng phải khó khăn lắ m anh mới nghe đươc̣ câu trả lời của anh ta.”Mô ̣t người Nga”, anh ta bảo thế . Tấ t nhiên anh nói cho anh ta biế t rằ ng anh ta đúng, vı̀ người sáng chế ra súng AK- 47 là mô ̣t người Nga tên là Kalashnikov. Đó là mô ̣t sỹ quan từng đươc̣ tă ̣ng huy chương cấ p cao trong Hồ ng quân. Anh phải hỏi quanh co thế để Manuel hiể u rằ ng những người viế t lá thư đó là cô ̣ng sản”. “Thế anh có tin điề u đó không?” Câu hỏi của Paula khiế n tôi im bă ̣t. Làm sao tôi có thể trả lời câu hỏi đó mô ̣t cách trung thực chứ? Tôi chơṭ nhớ về Iran và về những gı̀ mà Yamin từng nói với tôi, mô ̣t người đứng giữa hai thế giới- người ở giữa. Xét về mô ̣t khı́a ca ̣nh nào đó, tôi ước giá mà tôi đã ở trong cái tra ̣i nơi xây đâ ̣p khi nhóm du kı́ch tấ n công, hoă ̣c giá như tôi là mô ̣t trong những tên du kı́ch đó. Mô ̣t cảm
- giác khó tả bủa vây lấ y tôi, hı̀nh như tôi ghen ty ̣ với Yamin, với tiế n sỹ và với những kẻ phiế n loa ̣n người Côlômbia. Ho ̣ có chı́nh kiế n rõ ràng. Ho ̣ đã cho ̣n những thế giới thực chứ không phải những vùng đấ t nào đó chẳ ng thuô ̣c về ai cả. Cuố i cùng tôi nói: “Anh có công viê ̣c phải làm”. Paula mı̉m cười. “Anh căm ghét công viê ̣c đó”, tôi nói tiế p. Tôi nghı ̃ đế n hı̀nh ảnh của những người luôn xuấ t hiê ̣n trong tôi suố t những năm qua, Tom Paine và những người anh hùng trong cuô ̣c đấ u tranh giành đô ̣c lâ ̣p, những tên cướp biể n và những người dân vùng biên. Ho ̣ đã vùng dâ ̣y chứ không chiụ đứng ở giữa. Ho ̣ đã vùng lên bảo vê ̣ quan điể m của mı̀nh và chiụ chấ p nhâ ̣n hâ ̣u quả. “Mỗi ngày anh la ̣i cảm thấ y chán ghét công viê ̣c của mı̀nh hơn”. Paula cầ m lấ y tay tôi: “công viê ̣c của anh?” Chúng tôi nhı̀n nhau, và tôi hiể u ý Paula: “Không, anh chán ghét bản thân mı̀nh”. Paula nắ m chă ̣t tay tôi và khẽ gâ ̣t đầ u. Ngay lúc đó tôi chơṭ có cảm giác như vừa đươc̣ giải thoát vı̀ tôi đã thú nhâ ̣n đươc̣ điề u đó. “Vâ ̣y anh sẽ làm gı̀, John?” Tôi không trả lời. Cảm giác đươc̣ giải thoát chơṭ biế n thành cảm giác phòng thủ. Tôi lắ p bắ p những lời biê ̣n minh chung chung: Rằ ng tôi đang cố làm viê ̣c tố t, rằ ng tôi đang tı̀m cách thay đổ i hê ̣ thố ng này từ bên trong, và mô ̣t lý lẽ cũ rı́ch nữa là nế u tôi không làm viê ̣c đó, có thể mô ̣t người khác tồ i tê ̣ hơn tôi rấ t nhiề u sẽ làm. Nhưng qua cái cách Paula nhı̀n tôi, tôi hiể u rằ ng cô ấ y không chấ p nhâ ̣n những lời thanh minh đó. Và còn tê ̣ hơn là tôi biế t bản thân mô ̣t sự thâ ̣t hiể n nghiên là: Chı́nh tôi, chứ không phải công viê ̣c của tôi mới đáng trách. “Thế còn em”, cuố i cùng tôi cấ t tiế ng, “em tin vào điề u gı̀?” Paula buông tay tôi, khẽ thở dài và nói: “Có phải anh đang cố chuyể n sang đề tài khác?” Tôi gâ ̣t đầ u. “Đươc̣ thôi”, cô ấ y nói. “Nhưng với mô ̣t điề u kiê ̣n. Đó là chúng ta sẽ tiế p tu ̣c câu chuyê ̣n này vào mô ̣t dip̣ khác.” Nói rồ i, Paula cầ m mô ̣t chiế c thı̀a lên ngắ m nghı́a. “Em biế t là mô ̣t số du kı́ch đã từng đươc̣ huấ n luyê ̣n ở Nga và Trung Quố c”. Vừa nói, cô ấ y vừa dùng thı̀a quấ y ly cà phê của mı̀nh, rồ i la ̣i châ ̣m raĩ liế m nhe ̣ chiế c thı̀a. “Ho ̣ còn có thể làm gı̀ đây? Ho ̣ cầ n phải biế t về những vũ khı́ hiê ̣n đa ̣i và cách thức chố ng la ̣i những người lı́nh đã từng ho ̣c qua trường lớp của nước anh. Đôi lúc ho ̣ bán côcain để có tiề n mua quân nhu. Ho ̣ còn có thể làm gı̀ khác để mua súng chứ? Ho ̣ đang chố ng la ̣i những thế lực kinh khủng. Ngân hàng Thế giới (WB) của các anh chẳ ng giúp ho ̣ tự bảo vê ̣ mı̀nh. Trên thực tế , chúng WB đã đẩ y ho ̣ vào tı̀nh thế hiê ̣n ta ̣i.” Paula nhấ p mô ̣t ngu ̣m cà phê rồ i nói tiế p: “Em tin đó là lý do khiế n ho ̣ làm những viê ̣c như vâ ̣y. Điê ̣n chı̉ đem la ̣i lơị ı́ch cho mô ̣t số ı́t những người Côlômbia giàu có, và hàng nghı̀n người khác sẽ chế t vı̀ nguồ n nước và cá bi ̣nhiễm đô ̣c sau khi các anh xây xong đâ ̣p.” Nghe cô ấ y nói mô ̣t cách đầ y chia sẻ với những người đang chố ng đố i chúng tôi, và cả bản thân tôi, tôi chơṭ thấ y bủn rủn. Cả người tôi như muố n quy ̣ xuố ng, mề m nhuñ . “Làm sao em la ̣i biế t về du kı́ch vâ ̣y?” Ngay cả khi hỏi câu này tôi cuñ g có cảm giác nôn nào, linh cảm cho biế t tôi không muố n nghe câu trả lời của cô ấ y. “Em đã ho ̣c cùng trường với mô ̣t vài người trong số ho ̣”, Paula nói. Rồ i cô ấ y thở dài, đẩ y tách cà phê ra xa. “Anh trai em đã tham gia phong trào đó”. Tôi cảm thấ y mı̀nh như mô ̣t quả bóng bi ̣ xı̀ hơi. Tôi cứ nghı ̃ mı̀nh đã biế t mo ̣i điề u về cô ấ y nhưng điề u này thı̀... Trong đầ u tôi thoáng hiê ̣n ra hı̀nh ảnh mô ̣t người đàn ông trở về nhà và nhı̀n thấ y vơ ̣ mı̀nh đang nằ m trên giường với mô ̣t người đàn ông khác. “Ta ̣i sao em không bao giờ kể cho anh nghe về chuyê ̣n này?”
- “Vı̀ em không thấ y nó quan tro ̣ng. Ta ̣i sao em phải kể chứ? Đó chẳ ng phải là chuyê ̣n để em khoe khoang”, rồ i cô ấ y chơṭ dừng la ̣i. “Em đã không gă ̣p anh ấ y suố t hai năm nay. Anh ấ y phải rấ t thâ ̣n tro ̣ng.” “Làm sao em biế t đươc̣ là anh ấ y còn số ng?” “Em không biế t, nhưng gầ n đây anh ấ y bi ̣đưa vào danh sách truy nã của Chı́nh phủ. Đó là mô ̣t dấ u hiê ̣u tố t.” Tôi không biế t phải phán xét hay phải phòng thủ trước Paula. Tôi hy vo ̣ng cô ấ y không nhâ ̣n thấ y sự ghen ty ̣ của tôi. “Làm thế nào mà anh ấ y la ̣i trở thành du kı́ch thế ?”, tôi hỏi. May mắ n thay, cô ấ y vẫn đang chăm chú nhı̀n vào tách cà phê của mı̀nh. “Vı̀ đã tham gia biể u tı̀nh ở ngoài văn phòng mô ̣t công ty khai thác dầ u- Occidental, em nghı ̃ thế . Anh ấ y phản đố i viê ̣c khoan đào đấ t đai của quê hương, ở những cánh rừng nơi có mô ̣t bô ̣ tô ̣c đang phải đố i mă ̣t với na ̣n tuyê ̣t chủng- anh ấ y tham gia cùng khoảng hai mươi người ba ̣n nữa. Quân đô ̣i đã đàn áp ho ̣, đánh đâ ̣p rồ i cho ho ̣ vào tù- chẳ ng phải vı̀ ho ̣ đã làm gi pha ̣m pháp mà chı̉ vı̀ ho ̣ đã đứng ở bên ngoài các văn phòng, chı̉ đứng giương cao các tấ m áp phı́ch và hát mà thôi”. Paula liế c ra ngoài cửa sổ rồ i nói tiế p: “Chúng giữ anh ấ y trong tù gầ n sáu tháng. Anh ấ y chưa bao giờ kể cho chúng em nghe chuyê ̣n gı̀ đã xảy ra trong thời gian đó, nhưng sau khi ra tù, anh ấ y trở thành mô ̣t con người khác hẳ n”. Đó là cuô ̣c nói chuyê ̣n đầ u tiên trong vô vàn những cuô ̣c nói chuyê ̣n như thế giữa tôi và Paula, và giờ tôi đã biế t rằ ng những cuô ̣c tranh luâ ̣n này là cơ sở cho những gı̀ diễn ra sau đó. Tâm hồ n tôi như tan nát, nhưng tôi vẫn bi ̣ chi phố i bởi đồ ng tiề n và nhiề u điể m yế u khác mà NSA đã chı̉ ra khi ho ̣ mô tả về tôi mô ̣t thâ ̣p niên trước đây, năm 1968. Bằ ng cách buô ̣c tôi phải thừa nhâ ̣n điề u này và đố i mă ̣t với những cảm xúc bên trong sự say mê của tôi đố i với những tên cướp biể n và những phiế n quân khác, Paula đã giúp tôi đi theo con đường cứu rỗi linh hồ n tôi. Ngoài tı̀nh thế khó xử của cá nhân tôi, thời gian ở Côlômbia cuñ g giúp tôi hiể u rõ sự khác biê ̣t giữa nề n cô ̣ng hòa Mỹ kiể u cũ và đế chế toàn cầ u mới. Nề n cô ̣ng hòa đem la ̣i hy vo ̣ng cho thế giới. Nề n tảng của nó là đa ̣o đức và triế t ho ̣c chứ không phải là chủ nghıã thực du ̣ng. Nó dựa trên những khái niê ̣m về công bằ ng và bı̀nh đẳ ng cho tấ t cả mo ̣i người. Song nó cuñ g mang tı́nh thực tiễn, nó không phải chı̉ là mô ̣t giấ c mơ không tưởng mà thực sự là mô ̣t thực tế cao quy,́ đang số ng và đang hı́t thở. Nó có thể mở rô ̣ng vòng tay che chở cho những con người bi ̣ áp bức. Nó là niề m cảm hứng song cuñ g hàm chứa sức ma ̣nh bên trong. Khi cầ n, nó có thể biế n thành hành đô ̣ng, như những gı̀ đã từng xảy ra trong Chiế n tranh Thế giới thứ II, để bảo vê ̣ những nguyên tắ c mà nó đa ̣i diê ̣n. Chı́nh những thể chế cố t lõi nhấ t- những tâ ̣p đoàn lớn, những ngân hàng lớn và bô ̣ máy chı́nh phủ- đang đe do ̣a nề n cô ̣ng hòa thay vı̀ thế phải đươc̣ sử du ̣ng để ta ̣o nên những thay đổ i cơ bản trên thế giới. Các thể chế đó đang sở hữu các ma ̣ng lưới viễn thông và hê ̣ thố ng giao thông cầ n thiế t để chấ m dứt dicḥ bê ̣nh, na ̣n đói và thâ ̣m chı́ là cả chiế n tranh- mô ̣t khi thuyế t phu ̣c đươc̣ các thể chế tin tưởng tham gia vào sự nghiê ̣p chung đó. Mă ̣t khác, đế chế toàn cầ u la ̣i là sự báo ứng của nề n cô ̣ng hòa. Đó là mô ̣t hê ̣ thố ng vi ̣ ky,̉ chı̉ phu ̣c vu ̣ cho bản thân mı̀nh, tham lam và thực du ̣ng, mô ̣t hê ̣ thố ng dựa vào chủ nghıã tro ̣ng thương. Giố ng như các đế chế trước đó, cánh tay của đế chế toàn cầ u chı̉ mở ra thâu tóm các nguồ n lực khổ ng lồ , chô ̣p lấ y mo ̣i thứ trong tầ m mắ t và lèn chă ̣t túi tham vô đô ̣ của nó. Nó sẽ dùng bấ t cứ công cu ̣ nào nó cho là cầ n thiế t để giúp những kẻ thố ng tri ̣giành đươc̣ quyề n lực và giàu có. Tấ t nhiên, để có thể hiể u đươc̣ sự khác biê ̣t đó, tôi cuñ g dầ n nhı̀n nhâ ̣n rõ hơn vai trò của chı́nh mı̀nh. Claudine đã từng cảnh cáo tôi. Cô ấ y đã rấ t thành thâ ̣t khi nói về những gı̀ người ta mong đơị tôi mô ̣t khi tôi chấ p nhâ ̣n làm viê ̣c cho MAIN. Tấ t nhiên, để hiể u đươc̣ ý sâu xa đó, tôi đã phải kinh qua những nơi như Inđônêxia, Panama, Iran và Côlômbia. Và nó cuñ g đòi hỏi cả
- lòng kiên nhẫn, tı̀nh yêu và cả những chuyê ̣n riêng tư của mô ̣t phu ̣ nữ như Paula. Tôi đã rấ t trung thành với nề n cô ̣ng hòa My,̃ song những gı̀ chúng tôi cố duy trı̀ thông qua hı̀nh thức chủ nghıã thực dân mới và hế t sức tinh vi này, cuñ g tố n kém tương đương với những hoa ̣t đô ̣ng quân sự mà chúng tôi đã cố thực hiê ̣n ở Viê ̣t Nam. Nế u Đông Nam Á da ̣y cho chúng tôi biế t rằ ng quân đô ̣i cuñ g có những ha ̣n chế của nó, thı̀ các nhà kinh tế la ̣i đáp trả bằ ng cách va ̣ch ra mô ̣t kế hoa ̣ch tố t hơn; và các tổ chức viê ̣n trơ ̣ nước ngoài, các nhà thầ u tư nhân làm cho các tổ chức này (hay nói đúng hơn là đươc̣ các tổ chức này phu ̣c vu ̣) dầ n dầ n đã thực hiê ̣n kế hoa ̣ch này mô ̣t cách hế t sức thành tha ̣o. Ở các nước trên mo ̣i châu lu ̣c, tôi đã thấ y những người đang làm viê ̣c cho các tâ ̣p đoàn My-̃ dù không phải là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n chı́nh thức của ma ̣ng lưới EHM- tham gia vào những công viê ̣c còn nguy ha ̣i hơn rấ t nhiề u so với bấ t kỳ điề u gı̀ mà các lý thuyế t âm nưu từng miêu tả. Giố ng như nhiề u kỹ sư khác của MAIN, những người công nhân này không nhı̀n ra hâ ̣u quả của những viê ̣c mà ho ̣ đang làm. Ho ̣ tin rằ ng các xı́ nghiê ̣p, nhà máy đóng giầ y hay sản xuấ t linh kiê ̣n ôtô cho công ty của ho ̣ đang giúp những người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo chứ không phải là đẩ y ho ̣ quay la ̣i thời nô lê ̣ của những trang tra ̣i Trung cổ và các đồ n điề n phương Nam. Giố ng như những người bi ̣ bóc lô ̣t trước đây, những người nông nô hay nô lê ̣ thời hiê ̣n đa ̣i đề u bi ̣ thuyế t phu ̣c rằ ng ho ̣ còn sung sướng hơn nhiề u so với những người xấ u số số ng bên lề xã hô ̣i, dưới gầ m cầ u ở Châu Âu, trong rừng già Châu Phi hay ở những miề n đấ t hoang vu nơi biên giới nước My.̃ Cuô ̣c đấ u tranh với bản thân để quyế t đinh ̣ xem liê ̣u tôi nên tiế p tu ̣c làm hay bỏ MAIN dầ n trở thành mô ̣t cuô ̣c chiế n công khai. Không còn gı̀ nghi ngờ nữa, trong tiề m thức tôi muố n ra đi, nhưng cái phầ n thuô ̣c về mô ̣t con người có kiế n thức kinh tế của tôi la ̣i không chắ c chắ n như vâ ̣y. Đế chế riêng của tôi đang tiế p tu ̣c mở rô ̣ng; tôi thuê thêm nhân viên, đă ̣t tru ̣ sở ở nhiề u nước, có thêm cổ phầ n và cái tôi trong tôi cuñ g ngày càng lớn. Bên ca ̣nh sự cám dỗ của đồ ng tiề n và lố i số ng giàu sang, quyề n lực, tôi vẫn nhớ Claudine từng cảnh báo tôi rằ ng, mô ̣t khi tôi đã tham gia vào công viê ̣c này, sẽ không có đường lui. Tấ t nhiên, Paula coi khinh tấ t cả những cái đó. “Vâ ̣y cô ấ y biế t những gı̀?” Tôi chı̉ ra rằ ng Claudine đã đúng về rấ t nhiề u thứ. “Mo ̣i chuyê ̣n đó đề u đã từ rấ t lâu rồ i. Cuô ̣c số ng đã thay đổ i. Hơn nữa, điề u đó thı̀ có gı̀ khác nào? Anh không hài lòng với bản thân mı̀nh. Claudine hay bấ t cứ ai khác cuñ g không thể làm cho mo ̣i thứ xấ u hơn đươc̣ nữa?” Đó là điê ̣p khúc mà Paula cứ liên tu ̣c nhắ c đi nhắ c la ̣i, và dầ n dầ n tôi cuñ g đồ ng ý với ý kiế n của cô ấ y. Tôi thừa nhâ ̣n với cô ấ y và với bản thân tôi rằ ng tấ t cả tiề n ba ̣c, những chuyế n đi, tấ t cả những thứ hào nhoáng cuñ g không thể khỏa lấ p đươc̣ cảm giác tô ̣i lỗi, bấ t ổ n và căng thẳ ng. Là mô ̣t hô ̣i viên của MAIN, tôi đang trở nên giàu có và có thế lực, và tôi biế t rằ ng nế u tôi ở la ̣i với MAIN lâu hơn, tôi sẽ mắ c vào cái bẫy đó suố t đời. Môt ngày khác, khi chúng tôi đang đi da ̣o do ̣c theo bờ biể n gầ n mô ̣t pháo đài cổ của Tây Ban Nha ở Cartagena, nơi đã phải chiụ đựng vô số các cuô ̣c tấ n công của bo ̣n cướp biể n, Paula chơṭ nghı ̃ ra mô ̣t cách mà tôi chưa từng nghı ̃ tới. “Nế u như anh không bao giờ nói ra những gı̀ anh biế t thı̀ sao nhı̉?”, Paula hỏi. “Ý của em là... chı̉ giữ im lă ̣ng?” “Đúng thế . Không ta ̣o cho ho ̣ bấ t cứ lý do nào để theo dõi anh cả. Tức là, haỹ ta ̣o ra mô ̣t lý do khiế n ho ̣ để anh yên, không khuấ y đô ̣ng mo ̣i thứ lên”. Ý kiế n này rấ t hay- tôi tự hỏi ta ̣i sao trước đây tôi chưa từng nghı ̃ đế n điề u này. Tôi sẽ không viế t sách hay làm bấ t cứ điề u gı̀ để lô ̣ ra những sự thâ ̣t mà tôi đã biế t và chứng kiế n. Tôi sẽ không còn là thành viên của đô ̣i quân viễn chinh kia nữa; thay vào đó, tôi sẽ chı̉ là mô ̣t cá nhân, chı̉ chú
- tâm vào hưởng thu ̣ cuô ̣c số ng, đi du lich ̣ tı̀m thú vui, và có thể xây dựng la ̣i gia đı̀nh với mô ̣t người như Paula. Tôi đã chán ngấ y mo ̣i thứ rồ i, đơn giản là tôi chı̉ muố n thoát ra mà thôi. “Tấ t cả những gı̀ Claudine nói với anh đề u là dố i trá”, Paula nói tiế p. “Cuô ̣c số ng của anh là mô ̣t sự dố i trá”. Rồ i cô ấ y mı̉m cười đô ̣ lươṇ g: “Gầ n đây anh đã xem la ̣i bản lý lich ̣ của mı̀nh hay chưa?” Tôi phải thừa nhâ ̣n là tôi chưa từng làm viê ̣c đó. “Haỹ xem la ̣i đi”, Paula khuyên tôi. “Em đã đo ̣c bản dich ̣ sang tiế ng Tây Ban Nha. Nế u bản đó giố ng với bản tiế ng Anh, em nghı ̃ anh sẽ phát hiê ̣n ra nhiề u điề u rấ t thú vi ̣đấ y”. Chương 23 Bản lý lich ̣ dố i trá Khi đang còn ở Côlômbia, tôi nhâ ̣n đươc̣ tin rằ ng Jake Daber đã thôi không còn giữ chức Chủ tich ̣ MAIN. Đúng như dự đoán, Chủ tich ̣ và Giám đố c điề u hành Mac Hall đã chı̉ đinh ̣ Bruno thay thế Dauber. Đường dây điê ̣n thoa ̣i giữa Boston và Barranquilla hoa ̣t đô ̣ng liên tu ̣c. Tấ t cả mo ̣i người đề u đoán tôi cuñ g sẽ sớm đươc̣ thăng chức; vı̀ dù gı̀ tôi cuñ g là mô ̣t trong những người đươc̣ Bruno tin câ ̣y. Những thay đổ i và tin đồ n này càng thôi thúc tôi xem xét la ̣i vi ̣ trı́ của mı̀nh. Khi còn ở Côlômbia, đã nghe theo lời khuyên của Paula và đo ̣c bản lý lich ̣ của mı̀nh bằ ng tiế ng Tây Ban Nha. Tôi thực sự bi ̣ số c. Trở về Boston, tôi đã tı̀m cả bản tiế ng Anh và cả tờ ta ̣p chı́ của công ty, MAINLINES số tháng 11/1978. Trong số đó, tôi đươc̣ nhắ c đế n trong bài báo có tên là “Các chuyên gia đem la ̣i cho các khách hàng của MAIN những dich ̣ vu ̣ mới” (xem trang 133 và 134). Tôi từng có thời rấ t tự hào về bản lý lich ̣ và bài báo đó, nhưng bây giờ, sau khi đo ̣c chúng theo cách nhı̀n của Paula, trong tôi dấ y lên mô ̣t cảm xúc thấ t vo ̣ng và giâ ̣n dữ. Tư liê ̣u sử du ̣ng cho bài viế t đó cho thấ y mô ̣t sự giả ta ̣o có chủ đinh,̣ nế u không muố n nói là hoàn toàn dố i trá. Và những văn bản này còn có mô ̣t ý nghıã quan tro ̣ng hơn, mô ̣t thực tế phản ánh thực tiễn thời đa ̣i của chúng ta và đô ̣ng cha ̣m đế n cố t lõi của hành trı̀nh xây dựng đế chế toàn cầ u. Chúng là hı̀nh ảnh thu nhỏ của mô ̣t chiế n lươc̣ đươc̣ tı́nh toán để phô diễn những diê ̣n ma ̣o bên ngoài và ngu ̣y trang cho sự thâ ̣t bên trong. Theo mô ̣t cách nào đó, chúng tươṇ g trưng cho câu chuyê ̣n cuô ̣c đời tôi, mô ̣t lớp sơn láng bóng che đâ ̣y cái bề mă ̣t giả dố i. Tấ t nhiên, tôi chẳ ng thoải mái gı̀ khi nhâ ̣n ra rằ ng tôi phải chiụ phầ n lớn trách nhiê ̣m về những gı̀ đươc̣ viế t ra trong bản lý lich ̣ của mı̀nh. Theo quy đinh ̣ làm viê ̣c thông thường, người ta yêu cầ u tôi phải liên tu ̣c câ ̣p nhâ ̣t bản lý lich ̣ cá nhân cơ bản và tâ ̣p hồ sơ với các thông tin về khách hàng của tôi và những công viê ̣c mà tôi đã làm. Nế u mô ̣t người làm công tác tiế p thi ̣hay giám đố c dự án muố n đưa tôi vào mô ̣t bản đề xuấ t hay sử du ̣ng danh tiế ng của tôi, ho ̣ có thể nhào nă ̣n các thông tin này để đáp ứng mô ̣t cách tố t nhấ t các nhu cầ u cu ̣ thể của ho ̣. Vı́ du ̣, ho ̣ có thể nhấ n ma ̣nh về kinh nghiê ̣m làm viê ̣ của tôi ở Trung Đông, hoă ̣c về viê ̣c tôi đã phát biể u ta ̣i Ngân hàng Thế giới và các diễn đàn quố c tế khác. Bấ t cứ khi nào những người này sửa đổ i xong bản lý lich ̣ của tôi theo ý của ho ̣, ho ̣ sẽ phải đươc̣ tôi chấ p thuâ ̣n rồ i mới đươc̣ công khai bản lý lich ̣ đã sửa đổ i đó. Tuy nhiên, giố ng như nhiề u nhân viên khác của MAIN, tôi đi rấ t nhiề u, chı́nh vı̀ thế cuñ g thường có nhiề u trường hơp̣ ngoa ̣i lê ̣ là tôi không đươc̣ biế t bản lý lich ̣ của mı̀nh đã đươc̣ sửa đổ i. Do đó bản lý lich ̣ mà Paula nói để tôi đo ̣c, cả bản tiế ng Tây Ban Nha và bản tiế ng Anh đề u hoàn toàn mới đố i với tôi, dù rằ ng những thông tin ghi trong đó đề u đã từng xảy ra trong cuô ̣c đời tôi.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn