VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH PHONG

PHÕNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ

Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm

Mã số: 9.38.01.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS.TS Cao Thị Oanh

HÀ NỘI, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ “Phòng ngừa tình hình tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ” là công trình

nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và tài liệu trong luận án là trung thực và chƣa

đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tất cả những tham khảo và

kế thừa đều đƣợc trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thanh Phong

MỤC LỤC

1 MỞ ĐẦU

9 CHƢƠNG I TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 1.2 15 21 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài

1.3 1.4 22 Đánh giá tình hình nghiên cứu Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

24 CHƢƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TỘI PHẠM DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

THỰC HIỆN

2.1 24

Khái niệm, chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện

2.2 Mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc của phòng ngừa tình 36

hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện

2.3 Cơ sở và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do 45

ngƣời chƣa thành niên thực hiện

CHƢƠNG 3 TÌNH HÌNH VÀ THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH 64

HÌNH TỘI PHẠM DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ

3.1 Tình hình phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa 64

thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ

3.2 69

Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ.

CHƢƠNG 4 DỰ BÁO VÀ TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH 96

HÌNH TỘI PHẠM DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ

4.1. 96

4.2. 105

Dự báo tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ trong thời gian tới Các giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ

143 KẾT LUẬN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

CAND Công an nhân dân

CTN Chƣa thành niên

GS Giáo sƣ

HĐND Hội đồng nhân dân

NCS Nghiên cứu sinh

NCTN Ngƣời chƣa thành niên

Nxb Nhà xuất bản

PCTP Phòng chống tội phạm

PNTP Phòng ngừa tội phạm

TAND Tòa án nhân dân

THTP Tình hình tội phạm

TNB Tây Nam Bộ

TS Tiến sĩ

UBND Ủy ban nhân dân

UNICEF Quỹ nhi đồng liên hợp quốc

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

1. Sơ đồ 2.1 Mô hình cơ chế tâm lý, xã hội của hành vi phạm tội cụ thể .......... 48

2. Sơ đồ 3.1 Sự phối hợp của các chủ thể trong công tác tuyên truyền phòng

chống tội phạm. .............................................................................................. 90

3. Sơ đồ 3.2 Sự phối hợp của các chủ thể trong phát hiện xử lý tội phạm. ....... 91

4. Sơ đồ 3.3:Sự phối hợp của các chủ thể trong công tác giúp đỡ đối tƣợng tái

hòa nhập cộng đồng. ..................................................................................... .92

5. Sơ đồ 3.4:Sự phối hợp giữa các chủ thể trong công tác đƣa đối tƣợng vào

trƣờng giáo dƣỡng. ........................................................................................ 93

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc thế hệ thanh, thiếu niên Việt

Nam luôn thể hiện đƣợc vai trò là lực lƣợng xung kích, đi đầu trong mọi phong trào

cách mạng do Đảng cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu đã khởi xƣớng và lãnh

đạo. Thực tiễn đã chứng minh lực lƣợng thanh, thiếu niên Việt Nam đã có những

đóng góp vô cùng to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất

tổ quốc và trong giai đoạn hiện nay đất nƣớc ta đang trong quá trình đổi mới và hội

nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì đòi hỏi lực lƣợng thanh, thiếu niên cần phát

huy nhiều hơn nữa tinh thần yêu nƣớc, yêu quê hƣơng, dám nghĩ, dám làm sẵn sàng

cống hiến cho tổ quốc, cho đồng bào. Nhƣ chủ tịch Hồ Chí Minh đã kỳ vọng: “Non

sông Việt Nam có trở nên tƣơi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bƣớc tới đài

vinh quang hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu…”.

[50, Tr.32].

Xác định vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên nên trong quá trình lãnh

đạo đất nƣớc Đảng ta luôn quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dƣỡng cho thế hệ thanh

thiếu niên. Nhiều chủ trƣơng, nghị quyết đã đƣợc Đảng ta đề ra để chỉ đạo định

hƣớng về công tác thanh niên. Nghị quyết 25 của ban chấp hành Trung ƣơng Đảng,

khoá X khẳng định: “Thanh niên là lực lƣợng xã hội to lớn, một trong những nhân

tố quan trọng quyết định tƣơng lai, vận mệnh dân tộc; là lực lƣợng chủ yếu trên

nhiều lĩnh vực, đảm nhận những công việc đòi hỏi hi sinh, gian khổ, sức khoẻ và

sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn

năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình. Song, do còn trẻ, thiếu kinh nghiệm

nên thanh niên cần sự giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi trƣớc và toàn xã hội” [2,

tr.1].Tuy nhiên, bên cạnh đại đa số thanh, thiếu niên tích cực học tập, rèn luyện

phấn đấu vƣơn lên để trở thành ngƣời có ích cho xã hội, xứng đáng với vai trò, vị trí

1

và sự quan tâm của toàn xã hội thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên

thiếu tu dƣỡng rèn luyện, phai nhạt lý tƣởng, giảm sút niềm tin, sống thực dụng,

thích hƣởng thụ, xa rời truyền thống văn hoá dân tộc, không chấp hành pháp luật…

từ đó dẫn đến suy thoái về phẩm chất đạo đức, lệch chuẩn, hƣớng ngoại, dễ mắc các

tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật, thậm chí trở thành tội phạm. Theo thống kê của Bộ

công an, trong thời gian từ năm 2006-2010 tỷ lệ phạm pháp hình sự trong lứa tuổi

thanh, thiếu niên (từ 14 đến 30) ở nƣớc ta chiếm 80-85% bình quân 40 đến 50 ngàn

vụ một năm. Trong đó, đáng chú ý số đối tƣợng là NCTN ( từ 14 đến dƣới 18 tuổi)

chiếm 32,9% tổng số đối tƣợng phạm tội [14, tr.2]. Điều đó cho thấy sự “trẻ hoá”

của thành phần đối tƣợng phạm tội. Đặc biệt càng nguy hiểm hơn khi số đối tƣợng

CTN không chỉ gây ra những loại tội phạm ít nghiêm trọng mà đã gây ra những loại

tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Thực trạng đó đặt

ra nhiệm vụ cấp bách cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội phải tập trung nghiên

cứu, chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kiềm chế, kéo giảm

THTP trong thanh, thiếu niên nói chung và NCTN nói riêng.

Qua tổng kết 15 năm thực hiện nghị quyết 09/NQ-CP và chƣơng trình quốc

gia PCTP (1998-2010) của ban chỉ đạo 138/CP, 5 năm thực hiện Chỉ thị 48/CT-TW

của Bộ chính trị về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTP trong

tình hình mới (2010-2014), công tác PCTP ở nƣớc ta đã thu đƣợc nhiều kết quả

quan trọng, góp phần tích cực giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng pháp luật, phục vụ công

cuộc phát triển đất nƣớc.Tuy nhiên, qua tổng kết vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại,

THTP vẫn còn diễn biến phức tạp, nhiều loại tội phạm chƣa đƣợc kiềm chế, xuất

hiện một số phƣơng thức thủ đoạn phạm tội mới, tội phạm xuyên quốc gia… mà

đặc biệt là sự gia tăng tội phạm trong lứa tuổi CTN. Nguyên nhân của tình hình trên

một phần là do các yếu tố khách quan, nhƣ tác động của các vấn đề xã hội phức tạp

nảy sinh trong cơ chế thị trƣờng và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã

hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền…nhƣng chủ yếu là do những hạn chế

yếu kém trong công tác đấu tranh PCTP, nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp uỷ Đảng,

chính quyền, ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ chức một số ngành, địa phƣơng chƣa thật

2

sự quan tâm chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy nhiệm vụ

PCTP chƣa đƣợc đƣa vào chƣơng trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng,

nhà nƣớc. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia một cách

hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở các cơ quan

bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng chéo, trùng lặp. Năng

lực tham mƣu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng nhƣ tinh thần trách nhiệm, thái độ

phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết tấn công tội phạm của một bộ phận

cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ lực lƣợng chuyên trách còn hạn

chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu cần kỹ thuật bảo đảm cho công tác phòng,

chống tội phạm còn nhiều khó khăn, hạn chế.Chính sách đãi ngộ đối với lực lƣợng

trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm còn chƣa phù hợp [105, tr.2]. Những

nguyên nhân tồn tại yếu kém đó đã làm hạn chế hiệu quả công tác PCTP nói chung,

tội phạm trong lứa tuổi CTN nói riêng.

Khu vực miền TNB (còn có tên gọi là Đồng bằng sông Cửu Long) là một

trong những địa bàn chiến lƣợc của cả nƣớc, gồm 13 tỉnh, thành phố (Long An,

Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau) với diện tích 40.553,1 Km2, dân

số 17.390.500 ngƣời (chiếm 19,58% dân số cả nƣớc), mật độ dân số gần gấp 2 lần mật độ dân số trung bình của cả nƣớc (429 ngƣời/km2 so với 268 ngƣời/km2) [ 104,

Tr 61,62]. Đây là vùng đồng bằng châu thổ lớn nhất nƣớc ta, rất thuận lợi cho việc

sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, đời

sống của ngƣời dân còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, cơ sở hạ tầng

chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của xã hội. Trong những năm qua THTP, tệ nạn xã hội

trên địa bàn các tỉnh TNB diễn biến hết sức phức tạp. Theo thống kê của Bộ công

an, hàng năm tội phạm ở cụm Thành phố Hồ Chí Minh, miền Đông và miền TNB

xảy ra chiếm gần 40% tổng số vụ phạm tội của cả nƣớc, (riêng miền TNB chiếm

12% ). Trong đó NCTN chiếm tỉ lệ khá cao so với cả nƣớc. Thực tế này đã và đang

gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực đến tình hình an ninh trật tự, tác động trực tiếp

3

đến sự phát triển của miền TNB và cả nƣớc.

Thực tiễn trên đang đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu đầy đủ, cụ thể, rõ

ràng, có luận cứ khoa học, góp phần hoàn thiện về lý luận cũng nhƣ biện pháp công

tác nhằm tăng cƣờng hiệu quả công tác phòng ngừa THTP nói chung, tội phạm do

NCTN thực hiện nói riêng. Là một cán bộ tham mƣu và trực tiếp làm công tác trên

lĩnh vực phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long- một tỉnh

thuộc khu vực TNB, NCS luôn trăn trở và quan tâm nghiên cứu những vấn đề liên

quan đến công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Chính vì vậy, tác giả

chọn, nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên

thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ” làm luận án tiến sĩ luật học là rất cấp

thiết cả về lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích của luận án

Mục đích của luận án là xây dựng các biện pháp nhằm tăng cƣờng phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

Nhiệm vụ của luận án

-Tổng quan về tình hình nghiên cứu của các công trình trong và ngoài nƣớc có

liên quan đến hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện; Đánh giá khái quát

phạm vi và mức độ nghiên cứu của những công trình này, xác định những kiến thức

đƣợc kế thừa và làm rõ những vấn đề cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu trong luận án.

-Tổng hợp những vấn đề lý luận về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện,

từ đó xây dựng những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm, cụ thể là nhóm tội

phạm do NCTN thực hiện nhƣ khái niệm, các nguyên tắc phòng ngừa, các biện

pháp phòng ngừa và chủ thể phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

-Đánh giá thực trạng phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các

tỉnh TNB, cụ thể là thực trạng về cơ sở chính trị pháp lý, thực trạng hệ thống lý

luận, thực trạng tổ chức lực lƣợng phòng ngừa và thực trạng áp dụng các biện pháp

4

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

-Dự báo hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các

tỉnh TNB trong thời gian tới.

-Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cƣờng phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt

động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu

Xét về nội dung, luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt

động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trong phạm vi khoa học tội phạm học

thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Trong đó bao gồm

nhiều biện pháp nhƣ: biện pháp chính trị tƣ tƣởng, Văn hoá giáo dục, kinh tế, các

biện pháp chuyên ngành của lực lƣợng trực tiếp phòng chống tội phạm tại địa bàn

các tỉnh Tây Nam bộ. Ngoài ra, luận án còn nghiên cứu các chủ thể và hoạt động

phối hợp trong phòng chống tội phạm do NCTN thực hiện của các chủ thể trực tiếp

tổ chức thực hiện công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn Tây

Nam Bộ.

Về thời gian nghiên cứu: luận án sử dụng số liệu nghiên cứu trong phạm vi

từ năm 2006 – 2017.

Về không gian: luận án nghiên cứu hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện trên địa bàn 13 tỉnh, thành phố TNB. Bao gồm các tỉnh Long An, Tiền

Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc

Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

Phương pháp luận

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng phƣơng pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác- Lênin;

5

các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nƣớc Cộng hòa XHCN Việt

Nam về phòng ngừa cũng nhƣ quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động

phòng ngừa THTP nói chung, THTP do NCTN thực hiện.

Phương pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp hệ thống: Phƣơng pháp hệ thống đƣợc sử dụng khi tác giả tổng

quan tình hình nghiên cứu tại chƣơng 1 và những vấn đề lý luận tại chƣơng 2.

Phƣơng pháp thống kê: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong việc thống kê

số vụ phạm tội, số ngƣời phạm tội, thống kê một số đặc điểm về nhân thân của

NCTN phạm tội, thống kê các loại hình phạt đƣợc tòa án áp dụng tại Chƣơng 3 của

luận án, thống kê số NCTN bị đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng, thống kê thiệt hại do tội

phạm CTN gây ra đƣợc sử dụng ở Chƣơng 3 và Chƣơng 4.

Phƣơng pháp nghiên cứu điển hình: Phƣơng pháp nghiên cứu điển hình đƣợc

sử dụng khi nghiên cứu điển hình một số địa bàn tập trung nhiều các tội phạm do

NCTN thực hiện, điển hình về đặc điểm nhân thân của NCTN phạm tội ở Chƣơng 3

và Chƣơng 4.

Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích: Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích đƣợc sử

dụng trong việc tổng hợp, phân tích kết quả từ các hoạt động phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện, các số liệu thống kê về THTP do NCTN thực hiện, các bản án có

hiệu lực của tòa án tại Chƣơng 3, Chƣơng 4, Phân tích thực trạng hoạt động phòng

ngừa tội phạm của các chủ thể phòng ngừa tại Chƣơng 3.

Phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử: Phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử đƣợc sử

dụng khi đánh giá thực trạng phòng ngừa Tại Chƣơng 3, đề xuất các biện pháp tăng

cƣờng phòng ngừa tội phạm tại Chƣơng 4.

Phƣơng pháp nghiên cứu so sánh: Phƣơng pháp nghiên cứu so sánh đƣợc sử

dụng khi tác giả so sánh hệ số nguy hiểm của tội phạm ở một số địa phƣơng khu

vực TNB, so sánh mức độ, THTP do NCTN thực hiện ở các giai đoạn khác nhau.

Phƣơng pháp điều tra xã hội học: Phƣơng pháp điều tra xã hội học đƣợc sử

dụng khi đánh giá cấp độ, tỷ lệ ẩn của tội phạm do NCTN thực hiện, dự báo một số

6

vấn đề của THTP do NCTN thực hiện tại Chƣơng 3.

Phƣơng pháp chuyên gia: Phƣơng pháp chuyên gia đƣợc sử dụng khi đánh

giá tội phạm ẩn, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, dự báo THTP do NCTN

thực hiện trong thời gian tới, các biện pháp phòng ngừa tội phạm tại Chƣơng 3.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu của tội phạm

học nhƣ phƣơng pháp quy nạp và diễn dịch, phƣơng pháp mô tả, phƣơng pháp

nghiên cứu hồ sơ vụ án trong nội dung chƣơng những vấn đề lý luận về phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện...

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

Thứ nhất, Làm rõ những lý luận về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện

trên địa bàn các tỉnh TNB giai đoạn hiện nay. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa

nhóm tội phạm trên một địa bàn cụ thể sẽ đƣợc tác giả luận án xây dựng làm cơ sở

cho hoạt động phòng ngừa nhóm tội phạm do NCTN thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, Phản ánh thực trạng phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa

bàn các tỉnh TNB. Đánh giá những thành tựu cũng nhƣ những hạn chế tồn tại trong

hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện của các chủ thể và tìm ra những

nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó.

Thứ ba, Cung cấp những thông số mới nhất và đánh giá phần ẩn của THTP

do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB thông qua việc đánh giá thực trạng

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

Thứ tư, Làm sáng tỏ những nguyên nhân và điều kiện của THTP do NCTN

thực hiện tại địa bàn các tỉnh TNB hiện nay thông qua việc đánh giá thực trạng

PCTP, đó là những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP và những nguyên

nhân điều kiện làm phát sinh các tội phạm cụ thể trong đó có tội phạm do NCTN

thực hiện.

Thứ năm, Dự báo về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các

tỉnh TNB trong thời gian sắp tới, bao gồm dự báo về khách thể phòng ngừa là

THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB và dự báo về chủ thể phòng

7

ngừa.

Thứ sáu, Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cƣờng phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB, các biện pháp này bao gồm hoàn thiện

cơ sở chính trị pháp lý và hệ thống lý luận; hoàn thiện tổ chức lực lƣợng phòng

ngừa; tăng cƣờng các biện pháp phòng ngừa của các chủ thể trong việc ngăn ngừa

trƣớc không cho tội phạm xảy ra và tăng cƣờng phát hiện, xử lý sau khi tội phạm

xảy ra nhằm tiếp tục phòng chống tội phạm.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án

Ý nghĩa lý luận: với việc tổng hợp, Xây dựng hệ thống lý luận về phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện, phòng ngừa nhóm tội phạm, quan điểm về NCTN,

NCTN phạm tội... Luận án là công trình nghiên cứu sẽ trang bị về mặt lý luận cho

hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện cũng nhƣ phòng ngừa tội phạm

nói chung. Những điểm mới của luận án sẽ góp phần hoàn thiện về mặt lý luận cho

hoạt động phòng ngừa không chỉ riêng ở tội phạm do NCTN thực hiện mà còn

mang tính tham khảo cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm khác, phòng ngừa

THTP nói chung.

Về mặt thực tiễn: luận án là công trình nghiên cứu có thể đƣợc sử dụng, tham

khảo trong hoạt động phòng ngừa một nhóm tội phạm và phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện tại địa bàn các tỉnh TNB trong giai đoạn hiện nay hoặc trong thời

gian sắp tới. Mặt khác, luận án cũng có thể là tài liệu tham khảo cho những ngƣời

nghiên cứu, học viên, sinh viên có quan tâm và những cán bộ đang làm việc trong

các cơ quan chuyên trách về phòng chống tội phạm.

7. Kết cấu của luận án: luận án bao gồm 4 chƣơng

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời

chƣa thành niên thực hiện.

Chương 3: Tình hình và thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời

chƣa thành niên thực hiện trên dịa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

Chương 4: Dự báo và giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội phạm

8

do ngƣời chƣa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm đƣợc đề cập một cách tƣơng đối đầy

đủ trong một số giáo trình nghiên cứu, bao gồm các vấn đề về định nghĩa, nội dung,

nguyên tắc, biện pháp và chủ thể của hoạt động PNTP. Ở định nghĩa PNTP và nội

dung PNTP, nhìn chung các tác giả đều thống nhất trong việc xác định nội hàm của

khái niệm phòng ngừa, tức là việc sử dụng những biện pháp nhà nƣớc và xã hội tác

động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm hạn chế tiến tới loại trừ tội

phạm ra khỏi xã hội. Nội dung phòng ngừa đƣợc các tác giả thống nhất trong việc

xác định chung thông qua nội dung phòng ngừa bằng biện pháp nhà nƣớc và biện

pháp phòng ngừa mang tính xã hội. Cụ thể giáo trình đƣợc sử dụng trong giảng dạy

tại các trƣờng đại học nhƣ giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả trƣờng Đại

học Luật Hà Nội, nhà xuất Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2000, giáo trình tội

phạm học, của tác giả Võ Khánh Vinh, Đại học Huế, Nxb Giáo dục 1999 [129],

giáo trình tội phạm học, Nxb Giáo dục Việt Nam 2010 do tác giả Dƣơng Tuyết

Miên chủ biên [60],…

GS.TS Võ Khánh Vinh khi viết quyển Giáo trình tội phạm học của trƣờng

Đại học Huế năm 1999 có nội dung đáng chú ý là đề cập đến biện pháp Nhân chủng

học [129, tr.163], tức là biện pháp tác động đến quá trình di cƣ và thích nghi xã hội

của ngƣời di cƣ hay một số tiêu chí phân loại đáng chú ý nhƣ việc phân loại theo cơ

chế hoạt động hay các biện pháp phòng ngừa có thể đƣợc nhóm theo sự phát triển

của hoạt động phòng ngừa có mục đích nhƣ phòng ngừa ở giai đoạn sớm, ngăn chặn

tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chƣa đạt, các biện pháp phòng

ngừa tái phạm.

Giáo trình cảnh sát nhân dân làm việc với trẻ em làm trái pháp luật của

9

trường đại học cảnh sát nhân dân (nay là học viện Cảnh sát nhân dân)năm 2000 do

TS Đỗ Bá Cở chủ biên [32], đã trình bày khá đầy đủ các khái niệm về trẻ em và trẻ

em làm trái pháp luật; nhận thức về công tác quản lý, giáo dục trẻ em làm trái pháp

luật; quy trình, kĩ năng làm việc với trẻ em làm trái pháp luật… giáo trình đã giúp

cho nghiên cứu sinh nhận thức đƣợc nhiều lý luận trong quá trình nghiên cứu.

Tác giả Nguyễn Trí Dũng và Chữ Văn Chí đồng chủ biên quyển sách phòng

chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các tác giả cho rằng "phòng

ngừa tội phạm là sử dụng các biện pháp, chiến thuật, phƣơng tiện nghiệp vụ cần

thiết, với sự tham gia của các lực lƣợng xã hội nhằm khắc phục mọi nguyên nhân và

điều kiện không để tội phạm phát sinh phát triển" [38, tr.18] và khái niệm phòng

ngừa này cần phân biệt với khái niệm PCTP, khái niệm đấu tranh chống tội phạm.

Những vấn đề lý luận về luật hình sự, tố tụng hình sự và tội phạm học của

Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội 1981

[120]; Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện Nghiên

cứu nhà nƣớc và pháp luật, Nxb CAND, Hà Nội 2000 [124]; Tội phạm học hiện đại

và phòng ngừa tội phạm của tác giả Nguyễn Xuân Yêm, Nxb CAND, Hà Nội 2001

[134]. Trong các công trình này, lý luận về PNTP đã đƣợc đề cập khá rõ và nhìn

chung không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, liên quan

đến định nghĩa phòng ngừa tội phạm, trong khi đa số tác giả thừa nhận PNTP là

hoạt động nhằm ngăn ngừa trƣớc và hoạt động chống sau khi tội phạm xảy ra thì TS

Nguyễn Mạnh Kháng tác giả phần phòng ngừa tội phạm trong quyển Tội phạm học

Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện Nghiên cứu nhà nƣớc và pháp

luật Nxb CAND 2000 [52], lại cho rằng PNTP đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp: "PNTP

hiểu theo nguyên nghĩa của nó là ngăn ngừa tội phạm xảy ra, bảo vệ xã hội, Nhà

nƣớc và công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm" [52, tr 135,136]. Phòng ngừa

thanh thiếu niên phạm tội- trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội của

GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb CAND năm 2004 [135]. Đây là một công trình

nghiên cứu ở mức độ tổng quan, toàn diện về phòng ngừa thanh thiếu niên phạm

tội- trách nhiệm của gia đình, nhà trƣờng và xã hội dƣới góc độ lý luận và thực tiễn.

10

Theo nhận xét, đánh giá của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, cho rằng tội phạm trong

lứa tuổi thanh, thiếu niên trong thời gian qua tăng nhanh, diễn biến ngày càng phức

tạp, xâm nhập vào học đƣờng. Thực tế đó đặt ra cho Đảng, nhà nƣớc ta phải có

những chủ trƣơng, giải pháp, chính sách, pháp luật đối với NCTN phạm tội. Để

khắc phục tình trạng đó, đòi hỏi phải có sự chung tay, góp sức của toàn Đảng, toàn

quân, toàn dân, phải phát huy đƣợc sức mạnh của cả hệ thống chính trị mà nhất là

của gia đình, nhà trƣờng và toàn thể xã hội. Quyển sách này cũng đề cập đến những

vấn đề cơ bản nhƣ tình hình, kết quả đấu tranh, phƣơng hƣớng và các giải pháp

PCTP do NCTN gây ra, tội phạm và tệ nạn xã hội trong nhà trƣờng. Có thể nói đây

là quyển sách có giá trị khoa học cao giúp tác giả định hƣớng trong suốt quá trình

nghiên cứu.

Sách chuyên khảo “Tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn Hà Nội, thực

trạng và giải pháp” do tác giả Trịnh Quốc Toản chủ biên, Nxb CAND, năm 2007

[103]. Tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự, về phòng

ngừa tội phạm CTN; tiến hành điều tra khảo sát THTP CTN trong trại giam, trƣờng

giáo dƣỡng và những trƣờng hợp thi hành án xong đã và đang tái hoà nhập cộng

đồng ở Hà Nội; thực trạng THTP, nguyên nhân , điều kiện và kết quả đấu tranh

phòng chống tội phạm CTN ở các quận nội thành Hà Nội; đồng thời tác giả cũng

đƣa ra dự báo THTP do NCTN thực hiện ở Hà Nội trong thời gian tới và hệ thống

các giải pháp đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Phòng, tránh vi phạm pháp luật và tệ nạn ma tuý trong lứa tuổi thanh, thiếu

niên. PGS.TS Nguyễn Minh Đức chủ biên, Nxb Thông tin và truyền thông, năm

2012 [45]. Nội dung của quyển sách đã trình bày về phƣơng thức, thủ đoạn hoạt

động vi phạm pháp luật của thanh, thiếu niên trong giai đoạn hiện nay; các giải pháp

phòng tránh, cũng nhƣ các quy định của pháp luật về xử lý NCTN vi phạm pháp

luật. Theo PGS.TS Nguyễn Minh Đức, các hành vi vi phạm pháp luật của thanh,

thiếu niên và học sinh, sinh viên hiện nay bên cạnh những nguyên nhân khách quan,

chủ quan khác nhau còn có nguyên nhân rất quan trọng là thiếu hiểu biết pháp luật,

thiếu kĩ năng sống, bồng bột, hiếu thắng và thiếu kinh nghiệm phòng tránh khi đối

11

mặt với nguy cơ và hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời khác. Đồng thời còn có

một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến việc thanh, thiếu niên phạm tội là do từ phía

nạn nhân [45, Tr.68].

Các vấn đề cần quan tâm ở tuổi vị thành niên do tác giả Hà Thƣơng biên

soạn- Nxb Lao Động, năm 2006 [98]. Đánh giá toàn diện về góc độ tâm lý lứa tuổi

NCTN, qua đó định hƣớng cho công tác giáo dục thanh, thiếu niên. Đây là tài liệu

rất hữu ích phục vụ cho tác giả luận án trong quá trình nghiên cứu.

Luận án tiến sĩ luật học “Hoạt động của công an nhân dân trong phòng ngừa

người chưa thành niên phạm tội trong tình hình hiện nay ở Việt Nam” do tác giả Đỗ

Bá Cở thực hiện năm 2000 [33]. Kết quả nghiên cứu đã nêu lên và giải quyết những

vấn đề lý luận cơ bản về NCTN phạm tội, xác định rỏ các chủ thể tham gia, mối

quan hệ phối hợp giữa các chủ thể và trách nhiệm của chủ thể trực tiếp, nòng cốt

của lực lƣợng CAND.; khảo sát thực trạng NCTN phạm tội và công tác phòng ngừa

NCTN phạm tội của lực lƣợng CAND; chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng

NCTN phạm tội, đánh giá ƣu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân trong hoạt động

phòng ngừa NCTN phạm tội; dự báo xu hƣớng tội phạm CTN trong thời gian tới,

những vấn đề khách quan và chủ quan làm cho THTP ở lứa tuổi này diễn biến phức

tạp từ đó đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng

ngừa NCTN phạm tội. [33, tr.18]

Luận án tiến sĩ luật học: “Những vấn đề lí luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng

đối với NCTN trong tố tụng Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Phƣợng- Đại học quốc

gia Hà Nội, năm 2008 [78]. Tác giả đã nghiên cứu, khảo sát THTP do NCTN gây ra

bị xét xử và các thủ tục tiến hành tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng

thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do đặc thù của NCTN nên

tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt động tố tụng của toà án.

Luận án tiến sĩ Luật học “Hoạt động của toà án nhân dân trong phòng ngừa

tội phạm do người chưa thành niên thực hiện” của tác giả Trần Hữu Quân, Học viện

12

cảnh sát nhân dân, năm 2014 [79]. Luận án cũng đã làm rõ đặc điểm tội phạm học

do NCTN thực hiện, phân tích thực trạng hoạt động PNTP do NCTN thực hiện của

ngành TAND; Dự báo tình hình do NCTN thực hiện và những yếu tố tác động đến

hoạt động PNTP do NCTN thực hiện của TAND trong thời gian tới. luận án đã tiến

hành thu thập, đối chiếu, so sánh THTP do NCTN thực hiện rất cụ thể, đây là tài

liệu giúp cho tác giả nhiều số liệu có giá trị.

Luận án tiến sĩ Luật học “hoạt động của lực lượng cảnh sát điều tra tội

phạm về trật tự xã hội trong phòng ngừa tội phạm do NCTN gây ra ở khu vực miền

Tây Nam Bộ” của tác giả Lê Tấn Tới, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2014 [105].

Luận án đã đi sâu nghiên cứu những qui định về NCTN phạm tội, đặc điểm tội

phạm học của NCTN phạm tội, dự báo tình hình NCTN phạm tội trong những năm

tới trên địa bàn các tỉnh TNB và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

phòng ngừa trong thời gian tới. Tuy nhiên, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu về hoạt

động phòng ngừa của lực lƣợng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, chƣa đề

cập đến hoạt động phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện của các lực lƣợng chức

năng khác, cũng nhƣ chƣa đánh giá đƣợc những hạn chế trong công tác phối hợp

của các lực lƣợng chức năng trong công tác phòng ngừa đối với loại tội phạm này.

Trong nhóm Các bài tạp chí viết về phòng ngừa tội phạm có các bài viết:

Vấn đề kiểm soát tội phạm của tác giả Đào Trí Úc, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số

6 năm 1999 [108], Về những xu hướng và nội dung cơ bản của chiến lược đấu tranh

với tình hình tội phạm của tác giả Võ Khánh Vinh, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số

10 năm 2004 [130], phòng ngừa tội phạm trong cộng đồng dân cư của tác giả Hồ

Trọng Ngũ, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp Luật số 6 năm 2005 [70], bài Phòng ngừa tội

phạm và tệ nạn xã hội bảo đảm phát triển con người bền vững của tác giả Phạm

Hồng Hải, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 5 năm 2005 [47], bài viết Phòng ngừa

tội phạm trong tội phạm học của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, tạp chí Luật học số 6

năm 2007 [49], bài viết Về các nguyên tắc cơ bản trong phòng ngừa tội phạm của

tác giả Trịnh Tiến Việt trên tạp chí kiểm sát số 9 năm 2008 [127], bài viết về Tội

13

phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm của tác giả Phạm Văn Tỉnh, tạp chí

Nhà nƣớc và Pháp luật số 4 năm 2009 [101]... Qua các bài viết này, liên quan đến

định nghĩa phòng ngừa tội phạm, NCS nhận thấy rằng các tác giả có hai xu hƣớng

một loại định nghĩa PNTP theo nghĩa mở rộng, tức là bao gồm hoạt động phòng

ngừa và chống tội phạm. Nhƣng ngƣợc lại, tác giả Nguyễn Ngọc Hòa thì cho rằng

"PNTP phải đƣợc hiểu theo phạm vi nguyên nghĩa của nó. Phòng ngừa tội phạm là

những hoạt động loại trừ, làm thay đổi của tội phạm hoặc khống chế tác dụng của

nó nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra” [49, tr.25].

Các đề tài khoa học cấp Bộ và cấp cơ sở nhƣ: “Tội phạm giết người và công

tác phòng ngừa, đấu tranh tại các tỉnh, thành phố phía nam, thực trạng, nguyên

nhân và giải pháp” của tác giả Phạm Hồng Cử, năm 2004 [37]; “Cướp tài sản bằng

thủ đoạn gây mê hành khách trên phương tiện giao thông đường bộ các tỉnh phía

nam- giải pháp phòng ngừa và đấu tranh” của tác giả Nguyễn Bá nhiên, năm 2005

[71]; “Tội phạm trộm cắp xe máy có tổ chức tại các tỉnh, thành phía nam- Thực

trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh” của tác giả Vũ Anh Sơn, năm 2003

[96]… Các đề tài khoa học nói trên đi sâu nghiên cứu về từng loại tội phạm và công

tác phòng ngừa ở các địa bàn phía nam. Tuy nhiên, chƣa có đề tài khoa học nào đi

sâu nghiên cứu về công tác phòng ngừa NCTN phạm tội ở địa bàn các tỉnh Tây

Nam Bộ.

Các tài liệu tổng kết 5 năm 2000 – 2005; 2006 – 2011 đề án IV, chƣơng trình

quốc gia phòng chống tội phạm “Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em

và tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên” của Bộ công an và các bài tham luận của

Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm các đơn vị, địa phƣơng khu vực TNB đã phản

ánh rất phong phú về thực tiễn, số liệu và những kinh nghiệm quí báu về công tác

PCTP do NCTN thực hiện. Song các tài liệu trên chỉ mang tính thống kê, khái quát

đơn thuần chƣa đi sâu phân tích về lý luận, nguyên nhân sâu xa, tiềm ẩn dẫn đến sự

gia tăng THTP trong lứa tuổi CTN, cũng nhƣ những tồn tại hạn chế trong phòng

14

ngừa NCTN phạm tội.

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài

Cẩm nang hướng dẫn PNTP của văn phòng liên hiệp quốc về ma tuý và tội

phạm. Cuốn sách này đƣợc xuất bản vào năm 2010 bởi các chuyên gia về PCTP;

Trong đó tập trung phân tích các hƣớng dẫn liên quan của Liên Hiệp Quốc đƣợc coi

nhƣ tiêu chuẩn về PCTP, bao gồm: “Hƣớng dẫn cho sự hợp tác và hổ trợ kỷ thuật

trong lĩnh vực PNTP ở thành thị năm 1995”; “ Hƣớng dẫn đối với PNTP năm 2002

và những nghị quyết của Hội Đồng Bảo an về việc PNTP” [58]. Các hƣớng dẫn này

đƣợc phân tích trong mối liên hệ đối với các kết quả của những nghiên cứu khoa

học liên quan và kinh nghiệm thực tiễn PNTP của các quốc gia thời gian gần đây.

Trong nghiên cứu này dã khẳng định rõ vai trò trung tâm và lãnh đạo của các cơ

quan chính phủ trong PCTP. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng và nhằm để

đƣa ra hƣớng dẫn mở, có thể áp dụng linh hoạt chung cho các quốc gia có hệ thống

chính trị, pháp luật , tập quán, đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội… khác nhau. Nên

khi áp dụng cho từng quốc gia cụ thể thì có những vấn đề chƣa phù hợp.

Tác giả Malkova khi viết quyển giáo trình tội phạm học dùng cho các trƣờng

đại học, Nxb Thông tin pháp lý năm 2006 của [154], đã đề cập đến những vấn đề cơ

bản nhất về PNTP nhƣ định nghĩa PNTP (đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là ngăn ngừa

trƣớc không để cho tội phạm xảy ra), nội dung PNTP, các nguyên tắc trong hoạt

động PNTP, các chủ thể PNTP và đặc biệt trong các biện pháp PNTP, Malkova đã

nhấn mạnh đến các biện pháp tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm

nhằm ngăn ngừa trƣớc không cho tội phạm xảy ra; tuy nhiên, bên cạnh đó tác giả

cũng đã thừa nhận những biện pháp mang tính cƣỡng chế nhà nƣớc đƣợc áp dụng

nhằm chống tội phạm cũng đƣợc xem là biện pháp PNTP. Có thể thấy những vấn đề

lý luận về PNTP đƣợc đề cập đến trong quyển giáo trình này có nội dung khá tƣơng

đồng với các giáo trình tội phạm học ở Việt Nam hiện nay.

Sách tội phạm và tội phạm học ở Nhật Bản của tác giả Can Ueda do TS.

Nguyễn Xuân Yêm và TS. Hồ Trọng Ngũ Dịch từ nguyên bản tiếng Nga của Nxb

15

Tiến bộ, Moscow, 1989 [160], tác giả đã tập trung vào việc xác định nội dung cơ

bản của các biện pháp đấu tranh chống tội phạm, trong đó đã nhấn mạnh toàn bộ

các chính sách xã hội "chính sách kinh tế và văn hóa là những biện pháp đấu tranh

chống tội phạm” [160, tr.18], chủ thể của hoạt động PCTP theo tác giả bao gồm cả

các nhà khoa học bên cạnh các chủ thể các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội.

Đồng thời, việc áp dụng hình phạt tù, tử hình, các biện pháp nhằm tái hòa nhập xã

hội cũng đƣợc công trình đề cập.

Trong quyển Criminology, Nxb Mcgraw- Hill, New York, 1991 của tác giả

Freda Adler và các cộng sự [143], có thể thấy các biện pháp PNTP đã đƣợc nhắc tới

với những học thuyết cụ thể. Trên nền tảng tiếp cận những vấn đề cơ bản của tội

phạm học và các vấn đề của tội phạm hiện đại, các tác giả đã giành nội dung của

quyển sách khái quát các học thuyết của tội phạm học trong lịch sử và trong mỗi

học thuyết, các tác giả đã đề cập đến quan điểm của các nhà tội phạm học tiêu biểu

cho từng trƣờng phái và các biện pháp phòng ngừa tƣơng ứng . Những biện pháp

PNTP tƣơng ứng với các học thuyết này là tài liệu tham khảo quan trọng khi nghiên

cứu sinh tổng hợp, xây dựng lý luận PNTP cũng nhƣ khi đề ra các giải pháp PNTP

do NCTN thực hiện.

Sách Crime prevention in Urbạn Community của tác giả Koichi Miyazawa,

Sétuo Miyazawa Nxb Kluwer Law and Taxation, 1995 [149], khi nói về hoạt động

PNTP, các tác giả đã phân tích các hoạt động phòng ngừa trên thực tiễn tại các quốc

gia nhƣ Anh, Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản ... Đây có thể xem là công trình tập

hợp các bài viết liên quan đến hoạt động PNTP ở nhiều quốc gia trên thế giới, Tuy

nhiên, trong khuôn khổ bài viết phục vụ cho hội thảo nên chỉ tập trung vào các biện

pháp PNTP đang đƣợc áp dụng trên thực tế chứ chƣa đi sâu nghiên cứu các vấn đề

lý luận khác về phòng ngừa tội phạm.

Sách di truyền học thái độ ứng sự và tội phạm của tác giả N. Doubinine_ I.

Karpiets- V. Koudriavtsev (Lê Tuấn Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp), Nxb Công an

nhân dân năm 2003 [156], cũng đã đề cập đến khái niệm, các biện pháp PNTP, chủ

thể PNTP. Sau khi xem PNTP là “cái trục” của cuộc đấu tranh chống tội phạm, các

16

tác giả đã khẳng định các biện pháp PNTP bao gồm những biện pháp phòng ngừa

nói chung bằng kinh tế, chính trị, tƣ tƣởng, văn hóa, giáo dục, pháp lý... Và các biện

pháp phòng ngừa mang tính cƣỡng chế... Khi bàn về các chủ thể PNTP, điểm đáng

chú ý là ngoài những chủ thể là cơ quan nhà nƣớc, các tác giả cũng đã khẳng định

rằng do tính chất nghiêm trọng của việc đấu tranh chống tội phạm nên không thể ủy

nhiệm công việc này cho một tổ chức nào mà đƣợc toàn thể xã hội và từng tế bào

nhỏ của xã hội đều phải cùng trực tiếp tham gia [156, tr.85].

Giáo sƣ Larry J. Siegel ( giảng viên tại khoa tƣ pháp hình sự và tội phạm học

của đại học Massachusetts, Hoa Kỳ). Khi viết quyển sách “Juvenile Delinquency:

Theory, Practice, and Law (Trẻ vị thành niên phạm tội: Học thuyết, Thực tế và Luật

pháp) đã tập trung nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện các học thuyết trên thế

giới về con đƣờng dẫn tới sự phạm tội của NCTN; yếu tố môi trƣờng và các điều

kiện hoàn cảnh tác động tới hành vi của NCTN; vấn đề pháp lý và hệ thống tƣ pháp

hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên [151].

Ở cấp độ sách chuyên khảo, là quyển sách những khía cạnh tâm lý xã hội về

tình trạng phạm tội của NCTN của tác giả A. I. Đôn-Gô-Va, nhà xuất bản pháp lý

Hà Nội 1987 [137]. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm, do NCTN thực

hiện đƣợc tác giả đề cập khá rõ nét trong các biện pháp PNTP do NCTN thực hiện

và những chủ thể áp dụng những biện pháp phòng ngừa cụ thể đó. Những biện pháp

đƣợc đề cập nhằm ngăn ngừa trƣớc không để cho NCTN thực hiện phạm tội và

những biện pháp nhằm chống sau khi tội phạm xảy ra cũng nhƣ lƣu ý những khi áp

dụng các biện pháp này sẽ đƣợc nghiên cứu sinh tham khảo khi xây dựng biện pháp

PNTP do NCTN thực hiện.

Crime Prevention by Early Intervention ( phòng ngừa tội phạm bằng cách

can thiệp sớm) là chủ đề của bài viết liên quan đến hoạt động PNTP do NCTN của

tập san Châu Âu trong lĩnh vực chính sách hình sự và nghiên cứu của trung tâm

nghiên cứu và cung cấp tƣ liệu, Nxb Kugler, 1996 [159]. Trong các bài viết này, khi

đề cập đến các biện pháp phòng ngừa tội phạm, các tác giả cũng đã trình bày các

17

biện pháp PNTP do NCTN thực hiện, trong đó đáng chú ý là biện pháp sàng lọc đối

tƣợng có nguy cơ phạm tội và nghiên cứu sinh có thể tham khảo phƣơng pháp này

trong việc phòng ngừa hành vi phạm tội ở ngƣời chƣa thành niên.

Nhóm đồng sự cùng Franklin E. Zimring (giáo sƣ chuyên ngành luật học và

giám đốc viện nghiên cứu các chính sách pháp luật thuộc đại học Chicago, Hoa Kỳ

đã nghiên cứu về quá trình áp dụng pháp luật đối với NCTN phạm tội trong suốt thế

kỷ XX đã đƣa ra luận điểm trong công trình nghiên cứu A Century of Juvenile

justice (Vấn đề thực thi tƣ pháp đối với trẻ vị thành niên trong một thế kỷ) [142], đã

đƣa ra chi tiết và so sánh các chính sách tƣ pháp áp dụng đối với NCTN phạm tội

trong suốt 100 năm.

Juvenile Delinquency: Causses and Control của Robert Agnew (giáo sƣ xã

hội học của đại học Emory, Hoa Kỳ và là chủ tịch của hội tội phạm học Hoa kỳ) và

Timothy Brezina (giáo sƣ xã hội học tại khoa tƣ pháp hình sự của đại học bang

Georgia, Hoa kỳ) (Trẻ vị thành niên phạm tội: nguyên nhân và cách kiểm soát)

[158], Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến hành vi NCTN phạm tội và đƣa

ra các chính sách phòng ngừa, ngăn chặn, kiểm soát hành vi này.

James Burfeind (giáo sƣ xã hội học, chuyên nghiên cứu về các học thuyêt tội

phạm học, tội phạm vị thành niên, tƣ pháp hình sự đối với NCTN tại đại học

Motana, Hoa kỳ) và Dawn Jeglum Bartusch (tiến sĩ trợ lí giáo sƣ James) đã nêu

quan điểm trong công trình Juvenile Delinquency: An Integrated Approach (trẻ vị

thành niên phạm tội: một cách nhìn tổng quan) đã phân tích về hiện tƣợng NCTN

phạm tội dƣới góc độ của tội phạm học, tâm lý học, sinh vật học, xã hội học. [147].

Juvenile Delinquency: The core (bản chất của hiện tƣợng trẻ vị thành niên

phạm tội) của giáo sƣ Larry J. Siegel; Brandon C. Welsh (Hoa kỳ- trích dẫn nhƣ

trên) [152].Tác giả đã đƣa ra những nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của

NCTN, nghiên cứu nhũng vấn đề cốt lõi thuộc về bản chất của hiện tƣợng phạm tội

của ngƣời chƣa thành niên.

Juvenile Delinquency in a Diverse Society (Hiện tƣợng trẻ vị thành niên

18

phạm tội trong một xã hội đa màu) của giáo sƣ Kristin A. Bates (tiến sĩ đại học

Washington) và Richelle S. Swan (tiến sĩ đại học Irvine bang Califorinia) [150]. Tác

giả đã nghiên cứu xem xét, phân tích, đánh giá hiện tƣợng trẻ vị thành niên phạm tội

trong bối cảnh xã hội với nhiều vấn đề phức tạp, đa dạng nhƣ quy định chuẩn mực

xã hội, các yếu tố xã hội nhƣ tôn giáo, dân tộc, giai cấp, giới tính).

Giáo sƣ Richard Lawrence, hiện là giảng viên chuyên ngành tƣ pháp hình sự

tại đại học St. Cloud State bang Minesota, Hoa kỳ đã nghiên cứu đã viết quyển

School Crime and Juvenile Justice (Tội phạm học đƣờng và tƣ pháp hình sự đối với

trẻ vị thành niên )[157]. Tác giả đã nghiên cứu và đánh giá về bản chất, mức độ và

nguyên nhân của tội phạm học đƣờng và các hành vi vi phạm pháp luật.

Các giáo sƣ chuyên ngành tƣ pháp hình sự tại đại học quốc tế A&M bang

Texas, Hoa kỳ) gồm Dean J. Champion, Alida V. Merlo (giáo sƣ giảng dạy khoa

tội phạm học của đại học Indiana, Hoa kỳ), Peter J. Benekos (giáo sƣ chuyên ngành

tƣ pháp hình sự và xã hội học tại đại học Mercyhurst, Hoa kỳ) Đồng tác giả công

trình The Juvenile Justice System: Delinquency, Processing, and the Law (hệ thống

tƣ pháp hình sự trong vấn đề trẻ vị thành niên phạm tội: sự phạm pháp; quá trình tố

tụng và luật pháp) [139]. Tác giả đã định nghĩa các hành vi phạm tội của NCTN,

phân tích và đề xuất những ý kiến giải quyết trong quá trình áp dụng các thủ tục tố

tụng hình sự đối với trẻ em từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Juvenile Delinquency của giáo sƣ Donald J. Shoemaker (trẻ vị thành niên

phạm tội của giáo sƣ xã hội học tại viện Bách khoa Virginia và đại học bang

Virginia, Hoa kỳ) [140]. Tác giả cung cấp một cách nhìn toàn diện và giới thiệu

những quan điểm mới nhất về hành vi phạm tội và việc thực thi pháp luật đối với

ngƣời chƣa thành niên.

Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu về phòng ngừa NCTN phạm tội

cụ thể nhƣ:

Tác giả Ueda Can ở Nhật Bản đã cho rằng nhóm tội phạm càng quấy, giết

19

ngƣời trong các trƣờng học có tới 95% các học sinh hƣ hỏng gây ra. Theo tác giả thì

nguyên nhân trƣớc hết là sự dồn nén tâm lý và hình thành ý thức phá hoại, một số

do rèn luyện kém trở nên lỗ mãn, ngỗ ngƣợc, thù hằng, bực tức, ghen tuông, do ảnh

hƣởng của phim ảnh, sách báo có nội dung bạo lực, rùng rợn; sự đô thị hoá quá

nhanh đã phá vỡ xã hội truyền thống, làm phát triển tƣ tƣởng cá nhân, thói ích kĩ

trong xã hội Nhật Bản hiện đại [161, Tr.102]

Công tác điều tra thân thiện với trẻ em của các tác giả thuộc UNICEP do cục

cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Tổng cục VI, Bộ công an biên soạn lại,

tháng 5/2007. Đây là tài liệu rất hữu ích đã phân tích về các giai đoạn phát triển của

trẻ em, tâm lý trẻ em và công tác điều tra thân thiện đối với trẻ em. Điểm mới của

tập tài liệu này là xem trẻ em làm trái pháp luật là nạn nhân của xã hội cần có chính

sách giúp đở, hổ trợ… Điển hình cho quan điểm này là các nƣớc nhƣ: Thuỵ Điển,

Hà Lan, Niu Di Lân, Ô-Xtrây-Li-a [35]. Các chƣơng trình phòng ngừa tội phạm, tài

liệu chuyên đề về phòng ngừa tội phạm trong thanh, thiếu niên ở Vƣơng quốc Anh

nhƣ: Chiến lƣợc phòng ngừa tội phạm trong thanh, thiếu niên của Bob Asford năm

2007, chƣơng trình PNTP trong thanh thiếu niên của chính phủ vƣơng Quốc

Anh…Các chƣơng trình này rất toàn diện: từ định hƣớng phát triển nhân cách, giáo

dục thể chất, giáo dục văn hoá, tạo việc làm cho thanh niên đến tăng cƣờng các biện

pháp kiểm soát xã hội của chính quyền trung ƣơng và địa phƣơng, của các lực

lƣợng chức năng làm công tác giáo dục, phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật do thanh, thiếu niên gây ra.

Luật về tội phạm NCTN của tác giả Frederick B. Susmann, A.B., M.S. in

Edm, LL.B xuất bản 1968 tại New York, Hoa Kỳ [144], đây là những tài liệu điển

hình của các quốc gia phát triển cao về kinh tế, có hệ thống pháp luật khác với nƣớc

ta. Tuy nhiên, dù khác nhau cơ bản về thể chế chính trị nhƣng qua nghiên cứu các

tài liệu trên cho thấy tất cả các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến công tác

hoàn thiện hệ thống tƣ pháp NCTN phạm tội, dành nhiều chính sách ƣu tiên trong

20

phòng, chống NCTN vi phạm pháp luật, phạm tội.

Do điều kiện còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm tƣ liệu và tiếp cận

nghiên cứu, đánh giá những vấn đề liên quan đến công tác phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tác giả cũng đã cố gắng

nghiên cứu khái quát đƣợc những nét cơ bản về kết quả nghiên cứu và quan điểm

của các quốc gia về tội phạm trong lứa tuổi CTN, công tác PNTP trong lứa tuổi

CTN. Đây là những nội dung mang tính chất thông tin khoa học sâu sắc làm cơ sở

và trang bị tầm nhìn khách quan, khoa học về lĩnh vực mà tác giả đang nghiên cứu.

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu

- Thành tựu: Qua tham khảo những công trình nghiên cứu liên quan đến lý

luận về PNTP trong và ngoài nƣớc NCS nhận thấy rằng các công trình nghiên cứu

của các tác giả trong nƣớc quan tâm đến định nghĩa, nội dung, phân loại các biện

pháp phòng ngừa, các nguyên tắc của hoạt động phòng ngừa. Trong khi đó các nhà

khoa học nƣớc ngoài quan tâm nhiều về các biện pháp PNTP cụ thể và chủ thể áp

dụng các biện pháp phòng ngừa, Những vấn đề lý luận về PNTP này đã đƣợc tác

giả xây dựng dựa trên các thông số về THTP trên thực tiễn, trên cơ sở phân tích

nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP, các đặc điểm thuộc về cá nhân

ngƣời phạm tội, đặc biệt là thông qua việc đánh giá hoạt động phòng ngừa trên thực

tiễn cũng nhƣ dự báo về tội phạm trong tƣơng lai. Đây có thể đƣợc xem là những

vấn đề cơ bản để xây dựng những lý luận về phòng ngừa sai phạm. Những điểm

mới về lý luận, nhất là những điểm mới trong biện pháp PNTP ở nƣớc ngoài đã

đƣợc các tác giả đề cập trong các công trình nêu trên nghiên cứu sinh sẽ tham khảo

chọn lọc những một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về PNTP và đề ra các

giải pháp nhằm phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB

có hiệu quả.

Hạn chế: Hầu hết tất cả các tài liệu nêu trên đều đƣợc nghiên cứu ở nhiều

khía cạnh, góc độ khác nhau nhƣ: về nhóm tội phạm, về địa bàn nghiên cứu, chủ thể

thực hiện công tác phòng ngừa, phạm vi nghiên cứu… Do đó mỗi công trình nghiên

21

cứu đều có giá trị quan trọng trong công tác PNTP nói chung, PNTP CTN nói riêng.

Tuy nhiên, qua phân tích, đánh giá chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ

thể, có hệ thống về vấn đề phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện ở địa bàn các tỉnh

TNB. Do đó, việc nghiên cứu luận án “Phòng ngừa tình hình tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ” là vấn đề cấp thiết và

không bị trùng lặp với công trình khoa học nào.

1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Luận án sẽ tiếp thu, kế thừa những ƣu điểm của các công trình đã nêu, đồng

thời tác giả cũng sẽ tiếp tục làm rõ những vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu hoặc đã

đƣợc đề cập nhƣng còn ở mức độ tổng quát, chung nhất, chƣa chuyên sâu vào một

vấn đề cụ thể. Với tinh thần đó, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:

Thứ nhất, trên cơ sở tổng hợp, xây dựng những vấn đề lý luận về phòng ngừa

THTP nói chung và nhóm tội phạm, luận án sẽ xây dựng những vấn đề lý luận về

phòng ngừa nhóm tội phạm do NCTN thực hiện bao gồm các vấn đề nhƣ khái niệm,

đặc điểm pháp lý của tội phạm do NCTN thực hiện; xác định bản chất phòng ngừa,

cơ sở của phòng ngừa, các nguyên tắc phòng ngừa, các biện pháp phòng ngừa, chủ

thể phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

Thứ hai, luận án sẽ làm rõ thực trạng phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

Thực trạng phòng ngừa bao gồm thực trạng về cơ sở chính trị- pháp lý, thực trạng

về hệ thống lý luận, thực trạng tổ chức lực lƣợng phòng ngừa, thực trạng áp dụng

biện pháp phòng ngừa của các chủ thể. Thông qua thực trạng PNTP, luận án sẽ thể

hiện các thông số của THTP do NCTN thực hiện giai đoạn 2006- 2017; xác định

những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP do NCTN thực hiện trên địa

bàn các tỉnh TNB. Ngoài ra, luận án sẽ đánh giá những thành tựu cũng nhƣ những

hạn chế trong hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện của các chủ thể

phòng ngừa và dự báo hoạt động PNTP này tại địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

Thứ ba, từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã nêu, luận án sẽ đề xuất

những biện pháp nhằm tăng cƣờng phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa

22

bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Với những đặc điểm đặc thù của từng quốc gia mà cuộc đấu tranh phòng,

chống tội phạm nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng đƣợc tiến hành

với nhiều hình thức khác nhau, trong đó hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm cung

cấp nền tảng lý luận cho hoạt động phòng ngừa THTP trên thực tiễn luôn đƣợc các

quốc gia quan tâm. Hoạt động nghiên cứu khoa học này không chỉ đƣợc thực hiện

bởi các nhà nghiên cứu tại các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu mà còn đƣợc

thực hiện bởi các chuyên gia đang công tác tại những cơ quan chuyên trách phòng

ngừa, đấu tranh tội phạm.

Hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện, quan điểm của các nhà

khoa học có hai xu hƣớng. Xu hƣớng thứ nhất là tiếp cận hoạt động PNTP dƣới góc

độ các nhà nghiên cứu đƣợc trang bị kiến thức về tội phạm học. Những công trình

này trên cơ sở đánh giá THTP do NCTN thực hiện sẽ phân tích nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm, dự báo THTP trong thời gian tới và đề ra các biện pháp

PNTP. Các giải pháp này bao gồm các giải pháp mang tính xã hội nhằm ngăn ngừa

trƣớc không để tội phạm xảy ra và những giải pháp mang tính “chống”, Tức là

những giải pháp điều tra, truy tố, xét xử sau khi tội phạm đã xảy ra. Tuy nhiên, do

tác giả của các công trình này chủ yếu là các nhà nghiên cứu nên các giải pháp về

mặt chuyên môn nghiệp vụ chỉ đƣợc đề cập ở mức độ nêu vấn đề chứ chƣa đƣa ra

đƣợc những kiến nghị cụ thể mang tính chuyên sâu. Xu hƣớng thứ hai là các công

trình nghiên cứu của các tác giả đang công tác tại các cơ quan PCTP trên thực tiễn.

Những công trình này chủ yếu nghiên cứu hoạt động nghiệp vụ cụ thể trong hoạt

động PCTP do NCTN thực hiện cho nên không tập trung vào thực trạng phòng

ngừa, đánh giá những thành tựu và hạn chế của PNTP mà chủ yếu là phân tích đánh

giá một khâu hoặc một hoạt động phòng chống của chủ thể cụ thể và từ đó đề xuất

những kiến nghị tƣơng ứng. Dù nghiên cứu theo xu hƣớng nào thì những công trình

này là tài liệu tham khảo quan trọng cho NCS giải quyết nội dung của luận án, Bởi

lẽ, theo quan điểm của NCS thì phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn

các tỉnh TNB hiện nay chỉ có thể đạt hiệu quả nhƣ mong muốn khi có sự kết hợp

giữa các biện pháp ngăn ngừa trƣớc và những biện pháp phát hiện, xử lý sau khi tội

23

phạm xảy ra.

CHƢƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN

2.1. Khái niệm, chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa

thành niên thực hiện

2.1.1. Quan điểm về người chưa thành niên phạm tội

Trong quá trình phát triển con ngƣời thƣờng trãi qua những giai đoạn với

những lứa tuổi khác nhau, vì vậy đã hình thành nên những tên gọi, thuật ngữ khác

nhau tƣơng ứng với từng giai đoạn phát triển đó nhƣ: trẻ em, thiếu niên, thanh niên,

trung niên… Tuy nhiên, trong thuật ngữ khoa học pháp lý của hầu hết các quốc gia

đã sử dụng phổ biến cách gọi là thành niên và CTN. Đó là cách phân loại dựa vào

độ tuổi, ngƣời thành niên là ngƣời thuộc lứa tuổi đã trƣởng thành, NCTN là ngƣời

trẻ tuổi, chƣa thật sự trƣởng thành cả về thể chất và tinh thần. Tuy nhiên, việc quy

định ranh giới độ tuổi thành niên và CTN ở mỗi quốc gia không thống nhất nhau.

Tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán của mỗi

quốc gia, mỗi lĩnh vực khác nhau thì ranh giới về độ tuổi giữa ngƣời thành niên và

NCTN cũng khác nhau.

Thuật ngữ NCTN đƣợc sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học khác nhau

nhƣ tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, luật học. Tùy theo từng góc độ nghiên

cứu, lĩnh vực nghiên cứu mà các nhà khoa học đƣa ra các quan điểm khác nhau.

Theo các nhà tâm lý học thì cho rằng thời kỳ CTN là thời kỳ quá độ tuổi trẻ em

chuyển lên ngƣời lớn và là thời kỳ gắn liền với các xung đột, xáo trộn tâm trạng, nó

cũng đồng nghĩa với tuổi đang lớn, đang trƣởng thành. Xét về góc độ pháp luật thì

cũng có các quan điểm nhƣ: Điều 161 của Bộ luật Lao động 2016 quy định “ngƣời

lao động CTN là ngƣời lao động dƣới 18 tuổi” [87, tr.37]; Điều 21 Bộ luật dân sự

2015 quy định “ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên là ngƣời thành niên, ngƣời chƣa đủ 18

24

tuổi là ngƣời chƣa thành niên” [86, tr.5]; BLHS năm 2015 ( sửa đổi bổ sung 2017)

dành trọn chƣơng XII để quy định đối với ngƣời dƣới 18 tuổi [130, tr.59-70];

BLTTHS 2015 dành trọn chƣơng XXVIII từ điều 413 đến 430 để quy định thủ tục

tố tụng đối với ngƣời dƣới 18 tuổi [89, tr.340-354]… nhƣ vậy hệ thống pháp luật

Việt Nam thống nhất quy định NCTN là ngƣời dƣới 18 tuổi.

Theo Công ƣớc Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1989 thì: “trẻ em có nghĩa là

bất kỳ ngƣời nào dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp pháp luật có thể đƣợc áp dụng với trẻ

em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [57, tr.1] và điều 11 của quy tắc tối thiểu

phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tƣớc quyền tự do 1990 quy định

“những NCTN là những ngƣời dƣới 18 tuổi” [164, tr.2].

Nhƣ vậy theo các quy định của pháp luật Việt Nam và công ƣớc của Liên hợp

quốc thì NCTN là những ngƣời dƣới 18 tuổi, còn NCTN phạm tội chỉ bao gồm

những ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi thực hiện những hành vi nguy hiểm cho

xã hội đƣợc BLHS quy định là tội phạm. Quan điểm trên hoàn toàn phù hợp giữa

luật pháp của Việt Nam và những khái niệm về trẻ em đƣợc quy định trong các

công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.

Đặc điểm tâm lý của NCTN có những biểu hiện khá phức tạp và mang những

đặc trƣng riêng tùy theo từng giai đoạn của sự phát triển. Qua việc nghiên cứu

những đặc trƣng về tâm sinh lý xã hội của NCTN, có thể thấy một số điểm khác biệt

so với ngƣời thành niên: Về mặt sinh lý trẻ em phát triển rất nhanh về chiều cao và

thể trạng, khá hoàn chỉnh về giới tính. Điều này có ảnh hƣởng đến đời sống tâm lý

của các em, là cơ sở gây ra mất tính cân bằng chung, tính dễ kích thích, tính hiểu

động, tính nổi nóng, đặc biệt trên lĩnh vực tình cảm. Đây là giai đoạn chuyển tiếp

giữa NCTN trở thành ngƣời thành niên.Về mặt tâm lý: sự phát triển tâm lý ở lứa

tuổi này mang tính chuyển tiếp giữa giai đoạn phát triển tâm lý của tuổi nhỏ và giai

đoạn phát triển tâm lý của tuổi đang trƣởng thành. Ở tuổi CTN, những tiền đề cơ

bản của một nhân cách hoàn chỉnh đang đƣợc tạo thành và là cơ sở cho sự phát triển

của các em đến tuổi trƣởng thành.Vì vậy, sự biến đổi trong thời kỳ này là vô cùng

25

quan trọng cần đƣợc tính đến.Những biến đổi này đôi khi mang tính chất phá vỡ tận

gốc những đặc điểm, những hứng thú và quan hệ đã có từ trƣớc. Sự phát triển này

có tính mạnh mẽ và nhảy vọt. Nếu không biết và không tính đến thì quá trình giáo

dục, phòng ngừa sẽ không có hiệu quả và sự hình thành nhân cách có thể sẽ diễn ra

một cách tự phát gây khó khăn lớn cho công tác giáo dục, cho quan hệ giữa trẻ em

và ngƣời lớn.Vì vậy, đã có một số em vi phạm pháp luật và trở thành kẻ phạm tội,

cho nên cần phải xem xét đến năng lực trách nhiệm hình sự. Ở mỗi quốc gia trên thế

giới, căn cứ vào tình hình cụ thể mà pháp luật quy định tuổi chịu trách nhiệm hình

sự ở những độ tuổi có khác nhau.

Ngƣời chƣa thành niên chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi

của NCTN là ranh giới để phân biệt họ với ngƣời thành niên. Theo đó ngƣời chƣa

đủ 18 tuổi là NCTN, chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Còn ngƣời từ đủ

18 tuổi trở lên về nguyên tắc có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân. Từ những

phân tích trên tác giả đƣa ra khái niệm về NCTN nhƣ sau: Người chưa thành niên là

người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy

đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.

Khi phân loại, thống kê những ngƣời phạm tội (chủ thể của tội phạm) thƣờng

đƣợc sử dụng theo nhiều cách khác nhau nhƣ theo giới tính, tiền án, tiền sự, dân tộc,

địa bàn… trong đó có cách chia theo mức độ (lứa tuổi). Trong cách phân loại này

thƣờng đƣợc chia ra theo 2 loại: ngƣời thành niên phạm tội (tội phạm do ngƣời lớn

gây ra) và những NCTN phạm tội (tội phạm do những NCTN gây ra). Trong khoa

học Luật hình sự và Tội phạm học luôn luôn xem xét NCTN phạm tội hoặc làm trái

pháp luật là một chủ thể đặc biệt cần phải đƣợc nghiên cứu và áp dụng biện pháp

phòng ngừa, xử lý phù hợp.

Vấn đề NCTN phạm tội phổ biến ở tất cả các nƣớc trên thế giới do những

nguyên nhân và lý do khác nhau. Giai đoạn hiện nay nó đã trở thành mối quan tâm

lớn của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có liên quan, không chỉ đòi hỏi sự ngăn

26

ngừa phạm pháp bằng các biện pháp tƣ pháp hay hình phạt mà còn phải đảm bảo

việc bảo vệ phúc lợi và các quyền của tất cả những NCTN làm trái pháp luật nói

chung và tội phạm nói riêng.

Những điều kiện xác định chủ thể của tội phạm là ngƣời phải đạt đến một độ

tuổi nhất định. Ở mỗi nƣớc, Luật hình sự đều quy định một độ tuổi khác nhau tùy

thuộc vào sự phát triển của trẻ em, nhận thức xã hội của các em, về THTP và yêu

cầu đấu tranh PCTP ở trẻ em.

* Quy tắc Bắc Kinh (Điều 4) đều khuyến nghị các nƣớc có quy định độ tuổi

tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự ở trẻ em không đƣợc ở mức quá thấp và phải “lƣu

ý đến thực tế của độ tuổi trƣởng thành về trí tuệ tinh thần và tình cảm của ngƣời

phải chịu trách nhiệm hình sự” [164, tr.4]. Liên hợp quốc tiến hành khảo sát tình

hình về việc PNTP ở NCTN trên thế giới, kết quả cho thấy là: tuổi chịu trách nhiệm

hình sự quy định khác nhau giữa các nƣớc: từ 7 tuổi (Bănglađét, Brunây, Ai Cập,

Thụy Sĩ, Thái lan, Tuynidi, Ấn Độ, Xingapo…); đến 18 tuổi (Cônggô, Irắc, Mêhicô,

Vênêzuêla). Nhiều nƣớc có quy định hai độ tuổi (Achentina, Trung Quốc, Cuba,

Nhật Bản, Gioócđani, Mali, Mêhicô, Xênêgan, Urugoay, Nam Tƣ (cũ), Thái Lan…)

Có những nƣớc (Ấn Độ, Pakixtan) lại quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 16

tuổi ở nữ, tức là sớm hơn so với nam giới 2 năm. Tuy nhiên, có những nƣớc không

quy định độ tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự nhƣ Chile, Côtxta Rica, Tây Ban

Nha… Ở Mêhicô và Mỹ, nhiều bang không quy định độ tuổi này, song ở nhiều

bang khác tuổi quy định là từ 6 đến 12 tuổi.

*Đối với Việt Nam, các nhà làm luật cũng đƣa ra các điều luật làm rõ khái

niệm NCTN phạm tội để có sự ngăn ngừa phạm pháp bằng biện pháp tƣ pháp hay

hình phạt cho đúng mức. BLHS 2015 dành trọn Chƣơng XII quy định đối với

NCTN phạm tội từ Điều 90 đến Điều 107. Nghiên cứu về những quy định đó có thể

khái quát rút ra khái niệm về NCTN phạm tội nhƣ sau:

Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có

27

hành vi vi phạm vào các quy định trong Bộ luật hình sự và họ phải chịu trách nhiệm

hình sự về hành vi của mình theo quy định của pháp luật hình sự nước Cộng hòa Xã

hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.1.2. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên

thực hiện

Tình hình tội phạm nói chung là một hiện tƣợng xã hội tiêu cực, trái pháp luật

hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình lịch sử xã hội; đƣợc thể hiện ở

một tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời

gian nhất định.

Phòng ngừa THTP là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế,

chính trị, tƣ tƣởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành

dƣới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều

kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ

hoàn toàn THTP ra khỏi đời sống xã hội.

Phòng ngừa THTP đòi hỏi phải thu hút sự tham gia, phối hợp đồng bộ của các

cấp ủy Đảng, Chính quyền, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Đồng thời phải sử

dụng tổng hợp nhiều biện pháp: Biện pháp kinh tế, biện pháp chính trị xã hội, biện

pháp văn hóa tƣ tƣởng, biện pháp hành chính, biện pháp pháp luật…

Hiện nay quan điểm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam về định nghĩa phòng

ngừa THTP có hai quan điểm phổ biến nhất đó là: Quan điểm thứ nhất cho rằng

phòng ngừa THTP bao gồm cả hoạt động phòng và chống tội phạm; Quan điểm thứ

hai cho rằng phòng ngừa THTP chỉ là những hoạt động tác động những nguyên

nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm, quan điểm này ít đƣợc sự đồng tình của

các nhà khoa học, và theo tác giả nó còn khiếm khuyết, chƣa toàn diện.

Từ những phân tích trên tác giả đƣa ra khái niệm về phòng ngừa THTP do

28

NCTN thực hiện nhƣ sau:

Phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện là việc áp

dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, chính trị, hành chính, pháp luật, nghiệp vụ

chuyên ngành… do các cơ quan, tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo

của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước, nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các

nguyên nhân, điều kiện phạm tội của người chưa thành niên; không để cho tội phạm

chưa thành niên xảy ra và tiến hành các biện pháp nhằm kịp thời phát hiện, xử lý

tội phạm làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm trong

lứa tuổi chưa thành niên ra khỏi đời sống xã hội.

Từ khái niệm trên có thể rút ra một số nhận xét đặc trƣng của phòng ngừa tình

hình NCTN phạm tội:

- Đối tƣợng của hoạt động phòng ngừa tình hình NCTN phạm tội là những

nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm trong lứa tuổi CTN. Đó là tất

cả những yếu tố tiêu cực của môi trƣờng gia đình, nhà trƣờng, xã hội tác động tới

các đối tƣợng là ngƣời ở lứa tuổi chƣa thành niên.

- Chủ thể tham gia phòng ngừa NCTN phạm tội ở nƣớc ta gồm những lực

lƣợng rộng rãi nhƣ: các cơ quan Đảng, nhà nƣớc, tổ chức xã hội và mọi công dân

đều phải có trách nhiệm thực hiện phòng ngừa, trong đó cơ quan CAND là chủ thể

trực tiếp, nòng cốt.

- Các biện pháp tiến hành trong hoạt động phòng ngừa NCTN phạm tội đƣợc

sử dụng phù hợp với lứa tuổi CTN. Đó là những biện pháp có tính giáo dục là chính

nhƣ: giáo dục văn hóa, giáo dục phẩm chất đạo đức, hƣớng nghiệp, dạy nghề… về

bản chất đây là những biện pháp không mang tính cƣỡng chế bắt buột và đƣợc tiến

hành rộng rãi, tuân theo các nguyên tắc PNTP. Song song đó, là các biện pháp mang

tính cƣỡng chế của nhà nƣớc, đó chính là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử,

29

giáo dục, cải tạo bắt buộc…

- Mục đích của phòng ngừa NCTN phạm tội nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ

tình trạng phạm tội của lứa tuổi này, giáo dục để các em trở thành những con ngƣời

có ích cho xã hội.

2.1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên

thực hiện.

Tội phạm do NCTN thực hiện là một hiện tƣợng xã hội nằm trong cơ cấu tội

phạm nói chung. Vì vậy đấu tranh với hiện tƣợng này cần huy động đƣợc lực lƣợng

đông đảo của toàn xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của các chủ thể. Trong quá

trình đó, các chủ thể này bao gồm chủ thể lãnh đạo, chủ thể tổ chức thực hiện có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

*Đảng cộng sản Việt Nam :

Điều 4 Hiến pháp nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã khẳng định: “Đảng

cộng sản Việt Nam- đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng

thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu

trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy

chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng, là lực

lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội” [81, tr.2]. Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể

lãnh đạo công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Đảng Cộng sản Việt Nam

chỉ đạo công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện thông qua việc hoạch định

và ban hành đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách bằng các nghị quyết, chỉ thị của

Đảng. Bên cạnh đó, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong hoạt động PNTP do

NCTN thực hiện còn thể hiện ở sự tiên phong, giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện của các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên.

Với vai trò là lực lƣợng tổ chức và lãnh đạo toàn diện các mặt đời sống của nhân

dân Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn đƣợc ghi nhận là chủ thể quan

trọng của hoạt động phòng ngừa THTP nói chung và tội phạm trong lứa tuổi CTN

30

nói riêng.

* Quốc hội

“ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà

nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc hội thực hiện

quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nƣớc và

giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nƣớc”. [82, tr.1] Quốc hội là chủ thể

phòng ngừa tội phạm có vai trò trong việc ban hành các luật điều chỉnh hoạt động

PNTP, trong đó có các tội phạm do NCTN thực hiện nhƣ ban hành Hiến pháp, Các

văn bản luật nhƣ Luật Trẻ em, BLHS, BLTTHS, … ngoài ra Quốc hội còn có vai

trò trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, của cán

bộ nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội trong đó có các tội về NCTN, tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật liên quan đến

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

* Hội đồng nhân dân các cấp:

Hội đồng nhân dân các cấp có vai trò trong phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện thể hiện trong nhiệm kì hoạt động HĐND tham gia vào hoạt động phòng ngừa

THTP dƣới các hình thức sau: Tham gia vào chƣơng trình phòng ngừa THTP chung

của nhà nƣớc; Kịp thời ra những nghị quyết, quyết nghị tạo điều kiện cho các cơ

quan nhà nƣớc và tổ chức xã hội thực hiện vai trò phòng ngừa THTP; Thành lập các

tiểu ban chuyên trách về phòng ngừa THTP; Kiểm tra, giám sát hoạt động của các

tổ chức cá nhân nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội; Các đại biểu HĐND bằng

hoạt động cá nhân tham gia vào hoạt động phòng ngừa THTP; Chủ trì tổ chức các

hoạt động phòng ngừa THTP của các HĐND trên thực tế mang tính chất định

hƣớng chung, là loại hoạt động có tính chất thúc đẩy hoạt động phòng ngừa THTP

của các chủ thể khác. Tất nhiên, với tính chất là cơ quan đại diện quyền lực địa

phƣơng hoạt động phòng ngừa của các HĐND luôn luôn thu hút đƣợc sự tham gia

31

đông đảo của các thành phần xã hội và có giá trị thực tiễn rất tích cực.

*Chính phủ

Điều 20 luật tổ chức Chính phủ 2005, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của

Chính phủ trong việc quản lý về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; “Chính phủ

thống nhất quản lý nhà nƣớc về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội…Tổ chức

thực hiện các chính sách, pháp luật, xây dựng nền an ninh nhân dân, phong trào

toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, phòng ngừa đấu tranh

chống các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”. Chính

phủ có vai trò trong phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện thông qua triển khai thi

hành các quy định của pháp luật, thông qua việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn

thực hiện pháp luật PNTP do Quốc hội ban hành. Triển khai các biện pháp mang

tính xã hội nhƣ xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, giáo

dục... trong toàn quốc nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ngƣời dân

nhằm PNTP. Bên cạnh đó, Chính phủ còn có vai trò lãnh đạo hoạt động PCTP do

NCTN thực hiện thông qua ban chỉ đạo quốc gia PCTP, xây dựng các chƣơng trình

quốc gia phòng chống tội phạm.

*Uỷ ban nhân dân các cấp:

UBND các cấp là cơ quan hành chính nhà nƣớc có nhiệm vụ triển khai các

chƣơng trình phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện của Chính phủ, triển khai thực

hiện các nghị quyết của HĐND các cấp về chƣơng trình PNTP do NCTN thực hiện

tại địa phƣơng. Bên cạnh đó, UBND các cấp còn xây dựng và triển khai kế hoạch

phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục ở địa phƣơng nhằm nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của ngƣời dân có tác dụng PNTP. Xây dựng các chƣơng trình, kế hoạch

lãnh đạo hoạt động phòng ngừa các tội phạm do NCTN thực hiện ở địa phƣơng.

Ngoài ra, UBND các cấp có vai trò quan trọng trong việc phát động quần chúng

nhân dân tham gia PNTP, quản lý các đối tƣợng có tiền án, tiền sự, ngƣời có nhân

thân xấu, tham gia cùng với các cơ quan khác giám sát. giáo dục ngƣời phạm tội tại

32

địa phƣơng.

* Các cơ quan hành chính nhà nƣớc chuyên môn

Các cơ quan hành chính nhà nƣớc bao gồm Bộ, cơ quan ngang bộ, Sở,

Phòng... từ trung ƣơng tới địa phƣơng. Tùy vào chức năng nhiệm vụ của mình, các

chủ thể này tiến hành hoạt động triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện trong phạm vi toàn quốc hay trong từng địa phƣơng nhất định.

Hình thức hoạt động triển khai thi hành pháp luật về phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện thông qua việc hƣớng dẫn thi hành pháp luật liên quan đến NCTN, pháp

luật về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện hoặc thông qua việc xây dựng triển

khai các biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

cho ngƣời dân nhằm tạo cơ sở cho PNTP trên thực tế.

*Các cơ quan tiến hành tố tụng

Là những chủ thể trong đấu tranh chống tội phạm, giữ vai trò trọng yếu trong

tham mƣu, hƣớng dẫn và trực tiếp tổ chức hoạt động PNTP, trong đó có tội phạm là

NCTN. Những chủ thể này có nhiệm vụ trực tiếp phát hiện, điều tra làm rõ hành vi

phạm tội của NCTN để áp dụng các biện pháp cần thiết trong tố tụng, xét xử hoặc

đƣa vào các trƣờng giáo dƣỡng để cải tạo, giáo dục, rèn luyện, thể hiện các biện

pháp riêng có của mình để phòng ngừa chung và phòng ngừa cá biệt. Các cơ quan

tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.

Công an là lực lƣợng nòng cốt trong việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an

toàn xã hội (điều 4, điều 5 luật công an nhân dân năm 2014). Lực lƣợng CAND bao

gồm lực lƣợng Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân và Công an xã. Lực lƣợng

công an có vai trò tham mƣu cho Đảng, Nhà nƣớc trong việc hoạch định các

chƣơng trình PCTP trong đó có các tội phạm do NCTN thực hiện, trực tiếp tham gia

hoạt động phòng chống các loại tội phạm do NCTN thực hiện thông qua chức năng

nhiệm vụ của mình nhƣ phát hiện, điều tra, khởi tố vụ án, khởi tố bị can là chủ thể

giữ vai trò quan trọng trong việc hƣớng dẫn tạo điều kiện cho các chủ thể khác nhất

33

là quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động PCTP do NCTN thực hiện.

VKSND là cơ quan thực hành quyền Công Tố và kiểm sát các hoạt động tƣ

pháp. ( Điều 17,và điều 39 Luật Tổ chức VKSND năm 2014) Viện kiểm sát có vai

trò trong việc phối hợp với các chủ thể xây dựng triển khai các chƣơng trình PCTP

do NCTN thực hiện thực hiện việc tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng chống tội

phạm do NCTN thực hiện và đƣa ra những kiến nghị về các biện pháp phòng ngừa

tội phạm [84, tr.10,17]. Bên cạnh đó VKSND còn có vai trò trực tiếp trong việc

kiểm soát hoạt động điều tra tội phạm do NCTN thực hiện, thực hiện chức năng

truy tố và buộc tội trong hoạt động xét xử các tội phạm do NCTN thực hiện.

VKSND áp dụng nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của NCTN.

Thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với NCTN hoặc có liên

quan đến NCTN phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của NCTN. Thông qua công tác

kiểm sát của mình để phát hiện những trƣờng hợp NCTN phạm tội, những việc làm

oan sai, vi phạm pháp luật đối với NCTN, những trƣờng hợp dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc

NCTN vào con đƣờng phạm tội và những chủ thể không làm tròn trách nhiệm trong

việc giáo dục, chăm sóc trẻ em dẫn đến trẻ em phạm tội để có biện pháp xử lý trƣớc

pháp luật. Ngoài ra, khi thực hiện chức năng công tố của mình, cùng với Công an và

Tòa án làm rõ các hành vi phạm tội của NCTN, tìm ra nguyên nhân, điều kiện dẫn

đến hành vi phạm tội cụ thể đó, yêu cầu cơ quan có trách nhiệm khắc phục, tìm cách

giải quyết kịp thời. VKSND còn có nhiệm vụ cùng phối hợp với các ngành, các cơ

quan hữu quan tiến hành tuyên truyền rộng rãi pháp luật cho mọi ngƣời, đặc biệt là

pháp luật có liên quan đến phòng ngừa NCTN phạm tội để mọi ngƣời nhận thức

đƣợc vị trí, tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, từ đó tích cực, tự giác tham

gia vào công tác phòng ngừa NCTN phạm tội.

Toà án nhân dân, Theo điều 2 và điều 17, Luật tổ chức TAND năm 2014, quy

định: “ Bằng hoạt động của mình, TAND góp phần giáo dục công dân trung thành

với tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của

cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh PCTP, các vi phạm pháp luật khác” và “ TAND

phối hợp với các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, đề xuất các chủ trƣơng, chính sách,

34

pháp luật về phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia,

trật tự an toàn xã hội” [85, tr.1, 6]. TAND với chức năng xét xử có vai trò PNTP do

NCTN thực hiện thông qua hoạt động xét xử các tội phạm do NCTN thực hiện để

phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung cho toàn xã hội, giám sát hoạt động thi

hành án đối với NCTN phạm tội, ngoài ra, TAND các cấp còn có vai trò trong việc

tuyên truyền giáo dục pháp luậ,t phối hợp với các chủ thể khác xây dựng và triển

khai các kế hoạch PCTP trong đó có tội phạm do NCTN thực hiện. Trong quá trình

xét xử tội phạm do NCTN thực hiện, TAND áp dụng nguyên tắc bảo đảm thực hiện

quyền và nghĩa vụ cho NCTN, vì lợi ích tốt nhất của NCTN. Thông qua các hoạt

động xét xử TAND làm rõ các hành vi phạm tội của các bị cáo là NCTN, áp dụng

khung hình phạt đúng với nguyên tắc xét xử đƣợc quy định trong pháp luật. Những

vấn đề liên quan đến NCTN đƣợc làm rõ và hết sức thận trọng trong quá trình xét

xử vừa công khai, vừa mang tính giáo dục cao. Thông qua các hƣớng dẫn của mình,

TAND đƣa ra những kiến nghị với Nhà nƣớc về thực hiện các chính sách xã hội có

liên quan tới phòng ngừa NCTN phạm tội theo Chƣơng trình quốc gia phòng, chống

tội phạm.

*Các tổ chức và cá nhân trong xã hội:

Các tổ chức có vai trò phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện bao gồm các tổ

chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế... Các tổ chức

này tham gia phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện thông qua việc giáo dục, kiểm

tra, giám sát cán bộ, nhân viên, đoàn viên, hội viên thuộc tổ chức đó thực hiện các

biện pháp phòng ngừa các tội phạm do NCTN thực hiện, cung cấp thông tin, tài liệu

có ý nghĩa PNTP nói chung, trong đó có tội phạm do NCTN thực hiện cho các cơ

quan chức năng phối hợp với các chủ thể khác thực hiện các chƣơng trình phòng

ngừa các tội phạm do NCTN thực hiện. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào chức năng của

mình các tổ chức này giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chƣơng trình,

kế hoạch phát triển kinh tế, nâng cao trình độ văn hóa cho ngƣời dân những yếu tố

đảm bảo cho việc ngăn ngừa các cá nhân NCTN không phạm tội vì yếu tố vật chất

35

và hạn chế trong nhận thức pháp luật.

Các cá nhân công dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện thông qua việc phát hiện, tố giác tội phạm, giúp đỡ những ngƣời có tiền

án, tiền sự tại địa phƣơng cải tạo tái hòa nhập cộng đồng, tích cực hƣởng ứng các

chƣơng trình, kế hoạch PNTP do NCTN thực hiện đƣợc các cơ quan chức năng phổ

biến, triển khai, hƣớng dẫn tại địa bàn cơ sở, đặc biệt là có vai trò quan trọng trong

việc quản lý xây dựng khu dân cƣ, Ấp, Khóm, Khu phố, Thôn, Bản…an toàn về an

ninh trật tự, quản lý các thành viên trong gia đình không thực hiện các hành vi phạm

tội trong đó có ngƣời chƣa thành niên.

2.2. Mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội

phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện

2.2.1 Mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa

thành niên thực hiện

* Mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên

thực hiện

Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện là vấn đề lý luận và thực tiễn phức tạp.

Là biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm hiệu quả nhất ở các phƣơng diện

chính trị, kinh tế, xã hội… Mục đích loại trừ THTP trong lứa tuổi CTN ra khỏi đời

sống xã hội, Nhà nƣớc cần coi công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện là

hoạt động thƣờng xuyên, có sự đảm bảo về vật chất cũng nhƣ các phƣơng tiện pháp

luật, cƣỡng bức, giáo dục…

Mục đích của phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện là từng bƣớc loại bỏ

những nguyên nhân và điều kiện của THTP trong lứa tuổi CTN; thiết lập và phân

định chức năng phòng ngừa THTP cho các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, công

dân… Nâng cao chất lƣợng hiệu quả các hình thức của hoạt động phòng ngừa

36

THTP trong lứa tuổi chƣa thành niên.

Từ những phân tích trên tác giả đƣa ra quan điểm nhƣ sau: Mục đích phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB là việc áp dụng tổng thể,

đồng bộ các biện pháp chính trị tƣ tƣởng, văn hóa, giáo dục, kinh tế, pháp luật…do

các cơ quan, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội và mọi công dân của khu vực

TNB tiến hành, nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện làm phát

sinh THTP do NCTN thực hiện ở địa bàn các tỉnh TNB. Tiến tới mục tiêu không để

cho tội phạm do NCTN thực hiện xảy ra, kéo giảm và từng bƣớc loại trừ tội phạm

do NCTN thực hiện ra khỏi đời sống xã hội. Để đạt đƣợc mục đích đó cần phải:

- Làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự phạm tội và các biện pháp,

phƣơng tiện phòng ngừa hiệu quả. Hoàn thiện đƣợc hệ thống các tổ chức phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện từ trung ƣơng đến cơ sở dƣới sự lãnh đạo của

Đảng, quản lý điều hành của Nhà nƣớc.

- Phải thu hút đƣợc sự tham gia rộng rãi của các cấp chính quyền, các tổ chức

xã hội, các nhà hoạt động chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân trong công tác

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

- Phân công, phân cấp và nêu cao ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp

mà đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện.

* Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên

thực hiện

Hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện tập trung vào những giải

pháp nhằm xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội của lớp NCTN, nó có đặc thù

riêng và có sự khác nhau cơ bản giữa phòng ngừa NCTN phạm tội và PNTP nói

chung. Vì vậy, tiến hành PNTP do NCTN có ý nghĩa thiết thực:

Thứ Nhất: Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện góp phần kéo giảm thiệt hại

37

về kinh tế do tội phạm gây ra và chi phí cho hoạt động phòng ngừa loại tội phạm

này. Đây là biện pháp mang lại hiệu quả kinh tế nhất. Bởi vì, khi tiến hành hoạt

động phòng ngừa huy động đƣợc mọi lực lƣợng, các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức

xã hội và mọi thành viên trong xã hội tham gia. Những hoạt động phòng ngừa này

đƣợc tiến hành từ cơ sở, nó gắn liền với cuộc sống, với lao động sản xuất, với sinh

hoạt hằng ngày nên rất sát thực và hiệu quả. Chẳng hạn, mỗi gia đình đều có trách

nhiệm với con em mình, với tất cả các thành viên trong gia đình, trong giáo dục

truyền thống, đạo đức, ý thức pháp luật… cũng là hoạt động mang ý nghĩa phòng

ngừa sâu sắc. Mỗi tổ chức, cá nhân thấy rõ trách nhiệm của mình đối với xã hội

trong đấu tranh chống tội phạm do NCTN thực hiện sẽ tạo nên những thuận lợi

trong phòng ngừa và góp phần làm giảm THTP. Nếu đem so sánh sức lực bỏ ra của

hoạt động phòng ngừa với công việc điều tra phát hiện, xử lý tội phạm đã xảy ra thì

rõ ràng phòng ngừa vẫn có hiệu quả hơn. Khi tội phạm xảy ra thì xã hội và con

ngƣời có những mất mát, thiệt thòi và sẽ chịu đựng những tác động xấu, chƣa nói

đến việc tác động đến cả thế hệ trẻ, tƣơng lai của đất nƣớc mà chúng ta đang cần

định hƣớng, giáo dục họ để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Thứ hai: Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện góp phần thể hiện tính nhân

văn, nhân đạo sâu sắc của chế độ XHCN. Nếu nhƣ nói đến PNTP nói chung và

NCTN phạm tội nói riêng là việc ngăn chặn trƣớc khi hành vi phạm tội xảy ra thì có

thể thấy rằng, PNTP còn mang tính nhân đạo. Trong xã hội ta, phòng ngừa, ngăn

chặn những hành vi phạm tội không để nó xảy ra chính là chúng ta đã ngăn chặn

việc những đứa trẻ chƣa trƣởng thành sa vào con đƣờng phạm tội, không để họ đến

bƣớc đƣờng cùng, phải chịu xử lý của pháp luật, thoát khỏi sự chia lìa với gia đình,

thoát khỏi cảnh tù tội, mang vết xấu trong cuộc đời. Đối với NCTN đƣợc cả cộng

đồng giúp đỡ, giáo dục, mau chóng hòa nhập với cuộc sống, xóa đi những mặc cảm,

ấn tƣợng, thù oán, thành kiến và từ trong sâu thẳm những tâm hồn ấy sẽ có những

định hƣớng tƣơng lai cho một cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhất là từ trong mỗi gia đình,

mỗi dòng họ, thôn xóm càng nhận thức rõ ràng và nâng cao trách nhiệm giáo dục,

38

dạy dỗ con em mình tránh đƣợc những sa ngã, mua chuộc, cám dỗ của tội phạm và

luôn luôn đấu tranh, ngăn chặn hành vi phạm tội, xây dựng môi trƣờng “sống và

làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

Thứ ba: Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện góp phần hổ trợ và nâng cao

hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tội phạm. Bởi vì phòng ngừa THTP lứa tuổi CTN

có hiệu quả sẽ làm giảm tình trạng phạm tội, thu hẹp đối tƣợng phạm tội, ngăn chặn

và phát hiện kịp thời những nảy sinh của loại tội phạm mới, không để tội phạm có

điều kiện len lỏi làm mọt ruỗng, phá hoại hạnh phúc từng gia đình và cả cộng đồng.

Đồng thời giúp cho cơ quan bảo vệ pháp luật nắm chắc tình hình, đẩy mạnh các

hoạt động nghiệp vụ, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu, điều tra,

phát hiện và xử lý tội phạm, bảo vệ bằng đƣợc các em ở lứa tuổi CTN. Đối với các

cơ quan, tổ chức xã hội, nhà trƣờng hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình, nâng cao ý

thức phối hợp với các cơ quan chức năng để hạn chế hành vi phạm tội ở các em với

mức độ thấp nhất, không để phát sinh các loại tội phạm này ở cơ sở, địa phƣơng

mình. Nhƣ vậy, trong đấu tranh chống tội phạm hình sự có hiệu quả thì không thể

không làm tốt công tác phòng ngừa tình hình NCTN phạm tội, vì đây là một mắc

xích, một bộ phận cấu thành của tội phạm. Sự tác động tăng, giảm, lên, xuống và

các phƣơng thức thủ đoạn mới của tội phạm ở NCTN đều có tác động đến các chiều

biến thiên của tội phạm, gây nên những phức tạp, rắc rối trong đấu tranh chống tội

phạm và làm ảnh hƣởng đến trật tự xã hội, nếp sống, kỷ luật, kỷ cƣơng của nền

pháp chế Xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư: Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện góp phần tăng cƣờng pháp chế

XHCN, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN. Thông qua việc các loại tội phạm

do NCTN thực hiện đƣợc phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật,

không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội, các quyền lợi hợp pháp của mọi

công dân đều đƣợc pháp luật bảo vệ, không để cho tội phạm xâm hại, góp phần xây

dựng xã hội theo hƣớng “Thƣợng tôn pháp luật”.

Thứ năm: Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện cũng góp phần nâng cao vị

39

thế vai trò của Đảng, nhà nƣớc ta trong quan hệ đối nội, đối ngoại. Đảng cộng sản

Việt Nam với vai trò lãnh đạo đã đƣợc ghi nhận trong hiến pháp, Nhà nƣớc Cộng

hòa XHCN Việt Nam là cơ quan thể chế hóa đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng. Vì

vậy, công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện mang lại hiệu quả góp phần

ổn định xã hội, tạo môi trƣờng bình yên, tạo động lực thúc đẩy phát triển mọi mặt

đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nƣớc từng bƣớc xây dựng xã hội “ công

bằng, dân chủ, văn minh”. Đó sẽ là minh chứng cụ thể để mọi công dân Việt Nam

tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng và vị thế của Đảng, Nhà nƣớc ta ngày càng

đƣợc nâng lên trong cộng đồng thế giới.

Có thể khẳng định phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện có ý nghĩa rất quan

trọng trong công cuộc đấu tranh giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đây

là công tác mang tính chủ động phòng ngừa từ “nguồn cội” của tội phạm. Nó không

chỉ mang lại hiệu quả cao mà còn tiết kiệm đƣợc nguồn nhân lực, vật lực cho xã

hội. Đồng thời nó mang tính nhân văn sâu sắc phù hợp với bản chất của chế độ

XHCN ở nƣớc ta.

2.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành

niên thực hiện

- Nguyên tắc pháp chế XHCN, hoạt động phòng ngừa và các biện pháp phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện phải hợp hiến và hợp pháp. Nguyên tắc pháp chế

trong hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện đƣợc hiểu là hoạt động

phòng ngừa phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật ở

đây là quy định của hiến pháp, các văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp luật

khác có liên quan đến hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Việc tuân

thủ các quy định của pháp luật trong phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện không

chỉ thể hiện trong việc áp dụng các biện pháp PNTP mà còn thể hiện ở các biện

pháp tuyên truyền giáo dục, cải tạo bắt buộc, đào tạo nghề, tạo điều kiện tái hòa

nhập cộng đồng… cho những đối tƣợng là NCTN phạm tội. Xuất phát từ tính nguy

hiểm và hậu quả của loại tội phạm là NCTN để lại cho xã hội thì có thể thấy đƣợc

40

tâm lý từ phía các chủ thể của hoạt động phòng ngừa là muốn nhanh chóng hạn chế,

loại trừ, triệt tiêu tội phạm do NCTN thực hiện ra khỏi đời sống xã hội. Tâm lý này

của chủ thể PNTP do NCTN thực hiện có thể dẫn đến những nguy cơ vi phạm pháp

luật trong việc triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa và hoạt động điều tra,

xử lý tội phạm là NCTN. Do đó, tuân thủ các nguyên tắc pháp chế XHCN là yêu

cầu đầu tiên và quan trọng nhất trong phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện nhằm

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những ngƣời có liên quan, đặc biệt là các quyền

nhân thân của NCTN. Để nguyên tắc pháp chế đƣợc tuân thủ trong hoạt động PNTP

do NCTN thực hiện thì yêu cầu các quy định của pháp luật về PNTP này phải đƣợc

hoàn thiện bên cạnh đó ý thức tuân thủ các quy định pháp luật từ các chủ thể PNTP

cũng giữ vai trò rất quan trọng. Các biện pháp phòng ngừa cũng nhƣ các chủ thể áp

dụng biện pháp phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện phải tuân thủ các quy định

của pháp luật nói chung, pháp luật về chính sách hình sự đối với NCTN, Luật trẻ

em, Các công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết...

Nhằm mục đích bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em và

những ngƣời có liên quan đến hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ là bảo đảm cho hoạt động phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện đạt hiệu quả.

- Nguyên tắc dân chủ XHCN cần lôi cuốn đông đảo quần chúng lao động vào

hoạt động phòng ngừa. Chú ý lôi cuốn các tổ chức đại diện của nhân dân vào hoạt

động phòng ngừa NCTN phạm tội. Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện đƣợc hiểu là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia

của các tầng lớp, lực lƣợng trong xã hội đặc biệt là quần chúng nhân dân. Phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện thực chất là hoạt động quản lý xã hội. THTP do

NCTN thực hiện và những đối tƣợng CTN phạm tội có mối liên hệ mật thiết đến

đặc điểm tình hình dân cƣ, kinh tế, văn hóa của từng khu vực. Vì vậy, phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện phải đƣợc sự hƣởng ứng tham gia rộng rãi từ phía ngƣời

dân thì mới có thể đạt đƣợc hiệu quả nhƣ mong muốn. Do đó, để nguyên tắc này

đƣợc áp dụng trong thực tế thì cần thiết phải có sự ghi nhận nội dung này trong các

41

quy định của pháp luật về phòng ngừa các tội do NCTN thực hiện. Bên cạnh đó, cần

phải nhận thức rằng các chủ thể PNTP là quần chúng nhân dân là lực lƣợng đông

đảo nhất không có công cụ, phƣơng tiện để đấu tranh trực tiếp với tội phạm CTN do

vậy, quần chúng nhân dân cần đƣợc sự hƣớng dẫn, tạo điều kiện từ các chủ thể

chuyên trách là cơ quan nhà nƣớc trực tiếp áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát

hiện, xử lý tội phạm do NCTN thực hiện. Sự hƣớng dẫn tạo điều kiện cho quần

chúng nhân dân tham gia PNTP do NCTN thực hiện thể hiện ở nhiều hình thức

khác nhau nhƣ xây dựng, triển khai các chƣơng trình PCTP huy động sự tham gia

của quần chúng nhân dân, tiếp nhận và xử lý có hiệu quả các tin báo, tố giác về tội

phạm từ quần chúng nhân dân, hƣớng dẫn huấn luyện, diễn tập cho các tổ chức

nhân dân tự quản các biện pháp cần thiết trong phát hiện, xử lý các hành vi có dấu

hiệu vi phạm pháp luật. Việc thực hiện tuân thủ nguyên tắc dân chủ trong hoạt động

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện nhằm phát huy hết sức mạnh của các tầng

lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động phòng ngừa trƣớc không để cho tội phạm

xảy ra và kịp thời phát hiện tội phạm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng

ngừa tội phạm.

- Nguyên tắc nhân đạo, các biện pháp phòng ngừa không hạ thấp danh dự

nhân phẩm NCTN, không làm tổn thƣơng sức khỏe, tinh thần của NCTN mà nhằm

giáo dục, cải tạo, hƣớng NCTN đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Cƣỡng bức là cần thiết

song là để NCTN trở về với cuộc sống lƣơng thiện (cƣỡng bức với tƣ cách tác động

khôi phục NCTN không thể đồng nghĩa với cƣỡng bức mang tính hành hạ NCTN).

Chính vì vậy, khi tiến hành các biện pháp phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện,

các chủ thể phòng ngừa không đƣợc sử dụng các biện pháp nhằm gây tổn thƣơng

đến NCTN. Khi triển khai áp dụng các biện pháp phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện các chủ thể phòng ngừa vì mục đích PNTP có thể áp dụng các biện pháp gây

tổn thƣơng đến NCTN phạm tội. Trong hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện các chủ thể phòng ngừa ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật,

thì một tiêu chí rất quan trọng nữa là phải cân nhắc xem các biện pháp đó có nguy

cơ gây tổn thƣơng đến NCTN hay không. Để nguyên tắc này đƣợc thực hiện trên

42

thực tế thì yêu cầu nội dung của nguyên tắc phải đƣợc thể hiện trong các văn bản

pháp luật về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Bên cạnh đó, các chủ thể

phòng ngừa cần nắm rõ tinh thần nội dung của nguyên tắc nhân đạo khi xây dựng

chƣơng trình PNTP do NCTN thực hiện đặc biệt là xây dựng các biện pháp phòng

ngừa. Các biện pháp này mặc dù hƣớng đến mục đích cuối cùng là PNTP do NCTN

thực hiện nhƣng nếu nhƣ các biện pháp đó lại gây tổn thƣơng cho NCTN thì các

biện pháp đó không đƣợc áp dụng. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc nhân đạo trong

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện có ý nghĩa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

của NCTN, bảo đảm tính nhân đạo XHCN của chế độ ta trong hoạt động PNTP và

nhằm hƣớng đến mục đích chung nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động PNTP, bảo

vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời chƣa thành niên.

- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện. Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện phải mang tính hệ thống, có sự

điều hành thống nhất và hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nƣớc, xã hội và cá nhân. Hình

thức, nội dung và phạm vi của hoạt động phòng ngừa cần phải đƣợc xác định thống

nhất giữa các chủ thể hoạt động phòng ngừa. Trong thực tế phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện đã từng bƣớc đƣợc đi vào nề nếp, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của các chủ thể ngày càng đƣợc quy định rõ ràng, rành mạch. Tuy nhên, khi tổ chức

thực hiện vẫn còn sự đùn đẩy trách nhiệm, trùng dẫm trong công tác phòng ngừa,

lúng túng trong công tác phối hợp… làm cho công tác phòng ngừa mang lại hiệu

quả chƣa cao, đôi khi gây lãng phí về lực lƣợng, phƣơng tiện. Để thực hiện tốt quy

chế này cần ban hành những quy định chi tiết cụ thể hơn các quy định của pháp luật

về trách nhiệm của các ngành các cấp trong phòng ngừa THTP do NCTN, đặc biệt

là phát huy vai trò của cấp ủy, ngƣời đứng đầu, cấp trên phải thƣờng xuyên kiểm tra

đôn đốc, tháo gở những khó khăn, vƣớng mắc trong phối hợp của các chủ thể. Mục

đích của nguyên tắc này nhằm phát huy tối đa vai trò của từng chủ thể trong phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện, khắc phục những tồn tại nhƣ trên, tạo đƣợc sự

thông suốt trong công tác phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa

43

THTP do NCTN thực hiện.

- Nguyên tắc cụ thể của hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

Hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện cần mang tính cụ thể về lĩnh vực

phòng ngừa, hành vi cần phòng ngừa và địa điểm phòng ngừa cũng nhƣ đối tƣợng

phòng ngừa. Tính cụ thể sẽ đảm bảo tính hiệu quả của công tác phòng ngừa THTP

và khắc phục nguyên nhân của THTP do NCTN thực hiện phải đƣợc tiến hành cụ

thể phù hợp với những đặc điểm nhân thân của nhóm đối tƣợng là NCTN mà hoạt

động phòng ngừa hƣớng đến, đặc biệt là phải tùy thuộc vào tình hình về địa lý, dân

cƣ, phong tục tập quán, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế, tình hình chính trị, xã

hội... Nói cách khác nguyên tắc này thể hiện ở hai mặt: thứ nhất, phòng ngừa THTP

do NCTN thực hiện phải đƣợc tiến hành cụ thể đối với các đối tƣợng có nhân thân

khác nhau tùy vào độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp đối với các đối tƣợng có

nguy cơ phạm tội cao nhƣ NCTN không có nghề nghiệp, có nhân thân xấu vừa có

tiền án, tiền sự... thì cần đƣợc áp dụng những biện pháp phòng ngừa riêng biệt khác

với ngƣời bình thƣờng trong xã hội. Thứ hai, ở mỗi địa phƣơng sẽ có những đặc

trƣng về tự nhiên, phong tục tập quán, môi trƣờng xã hội ảnh hƣởng đến tình hình

các tội phạm do NCTN thực hiện nhƣ các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm,

nguyên nhân dẫn đến THTP do NCTN thực hiện khu vực thành thị, nông thôn sẽ

khác nhau. Chính vì vậy, tƣơng ứng với những đặc điểm về tự nhiên và xã hội này

mà chủ thể phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện có thể lựa chọn các phƣơng

thức, biện pháp khác nhau cho phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi địa phƣơng

hay nói cách khác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện phải căn cứ vào đặc điểm

THTP, thực tiễn tự nhiên, xã hội và thực tiễn khả năng của chủ thể PNTP. Để áp

dụng đƣợc nguyên tắc này khi thiết kế các biện pháp phòng ngừa các chủ thể phòng

ngừa phải nghiên cứu kỹ đối tƣợng chịu sự tác động cũng nhƣ những điều kiện xã

hội, kinh tế, văn hóa, phong tục vùng miền mà đối tƣợng đó đang sống để có biện

pháp tác động phù hợp. Ý nghĩa quan trọng nhất của nguyên tắc này là nhằm đảm

bảo hiệu quả cho hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ - việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa

44

THTP do NCTN thực hiện phải có căn cứ khoa học. Những biện pháp đó phải mang

tính tiến bộ, đồng bộ và có hiệu quả đồng thời cần phải sử dụng các thành tựu khoa

học đã có. THTP do NCTN thực hiện sẽ có những thay đổi liên tục cùng với những

thay đổi của tình hình chung. Quá trình hội nhập quốc tế, sự phát triển khoa học

công nghệ, cuộc cách mạng 4.0…đã và đang tác động đến THTP do NCTN thực

hiện. Phƣơng thức, thủ đoạn của tội phạm sẽ thay đổi theo hƣớng ngày càng tinh vi,

tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia sẽ có chiều hƣớng gia tăng nguy

hiểm hơn. Để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện đồi hỏi các

chủ thể PNTP phải thƣờng xuyên tổng kết đút rút kinh nghiệm từ thực tiễn, tiếp thu

và vận dụng phù hợp những quan điểm tiến bộ về phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện, quan tâm đến việc tiếp nhận, chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật

hiện đại vào công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Mục đích của nguyên

tắc này là nhằm mang lại hiệu quả tối ƣu nhất trong triển khai thực hiện các biện

pháp phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

2.3. Cơ sở và các biện pháp của phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời

chƣa thành niên thực hiện

2.3.1 Cơ sở của phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành niên

thực hiện

2.3.1.1 Cơ sở lý luận của phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành

niên thực hiện

* Lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

Do luận án đƣợc nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác

Leenin, vì vậy khi luận giải vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm NCS

dựa vào những quan điểm biện chứng khoa học. Theo đó, quan điểm của các nhà tội

phạm học Mác xít khẳng định rằng THTP trong đó có THTP do NCTN thực hiện là

hiện tƣợng xã hội chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nhất định của xã hội loài ngƣời

và sẽ mất đi khi các nguyên nhân làm phát sinh ra nó không còn nữa, chính vì vậy,

45

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện là hoạt động có thể thực hiện đƣợc nếu nhƣ

xác định đƣợc đúng nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh và thúc đẩy chúng xuất

hiện trên thực tế.

Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm trong lý luận tội phạm học Mác xít

đƣợc lý giải dựa trên cặp phạm trù “nhân- quả” trong triết học Mác Lênin, theo

đó, " nhân- quả là phạm trù triết học dùng để chỉ mối liên hệ nguồn gốc tất yếu của

các hiện tƣợng, trong đó hiện tƣợng này (đƣợc gọi là)sản sinh ra hiện tƣợng

khác(đƣợc gọi là kết quả hay hành động)" [153, tr.405]. Khi đề cập đến nguyên

nhân, triết học Mác Lênin phân biệt thành hai loại đầy đủ và đặc thù, trong đó:

"nguyên nhân đầy đủ là tập hợp tất cả những hoàn cảnh mà khi có chúng thì nhất

thiết kết quả xảy ra; nguyên nhân đặc thù là tập hợp hàng loạt hoàn cảnh mà khi

xuất hiện ( với nhiều hoàn cảnh khác nhau đã có trong một tình huống nhất định

trƣớc khi kết quả xuất hiện, cấu thành những điều kiện tác động của nguyên nhân)

thì dẫn đến sự xuất hiện của kết quả" [153, tr.405]. Mặc khác tiếp thu quan điểm

của triết học Mác Lênin khi xem xét nguyên nhân, kết quả là" những vòng khâu tác

động qua lại, trong đó kết quả do quy định đến lƣợt mình, lại đóng vai trò tích cực

bằng các tác động ngƣợc trởlại" [153, tr.405 ]. Vận dụng quan điểm này, xem việc

xác định nguyên nhân và điều kiện các tội phạm do NCTN thực hiện là xác định

nguyên nhân đặc thù, tức là vừa xác định nguyên nhân làm phát sinh, vừa xác định

các điều kiện tác động đến nguyên nhân và thúc đẩy kết quả xảy ra. Nhƣ vậy, phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện về lý luận là hoàn toàn có thể thực hiện đƣợc Nếu

nhƣ xác định đƣợc nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm này trên thực tiễn

đời sống xã hội.

Do phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên một địa bàn, vùng, miền cụ

thể thì ngoài việc xác định nguyên nhân và điều kiện chung nhất, đặc thù nhất của

THTP do NCTN thực hiện mà còn phải xác định những nguyên nhân đặc trƣng do

đặc điểm chính trị, kinh tế,môi trƣờng xã hội... của vùng miền đó, là những nguyên

nhân điều kiện của THTP do NCTN thực hiện. Chính vì vậy, để phòng ngừa THTP

46

do NCTN thực hiện có hiệu quả thì yêu cầu phải xác định đƣợc đầy đủ nguyên nhân

và điều kiện làm phát sinh THTP do NCTN thực hiện xảy ra. Tuy nhiên, trong lý

luận tội phạm học hiện nay tại Việt Nam chỉ có lý giải nguyên nhân và điều kiện

của THTP nói chung và nguyên nhân điều kiện của THTP do NCTN thực hiện một

cách chung nhất, chƣa có lý luận về nguyên nhân và điều kiện của THTP ở một

vùng, khu vực nhất định.

GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng " nguyên nhân và điều kiện của THTP đƣợc

hiểu là hệ thống các hiện tƣợng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế xã hội tƣơng

ứng quyết định sự ra đời của THTP nhƣ là hậu quả của mình" [129, tr.84]. GS.

TSKH Đào Trí Úc, nguyên nhân và điều kiện của THTP đƣợc hiểu là những mâu

thuẫn của những quá trình xã hội [108, tr.72] . Đồng thuận với quan điểm này, tập

thể tác giả của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội cũng cho rằng "nguyên nhân và điều

kiện của THTP là tập hợp những ảnh hƣởng, quá trình xã hội trực tiếp làm phát sinh

THTP” [140, tr.90]. Nhƣ vậy nguyên nhân và điều kiện của THTP đƣợc các nhà

khoa học lý giải dựa trên những hiện tƣợng và quá trình xã hội, nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm cụ thể đã đƣợc tiếp nhận thông qua cơ chế tâm lý xã hội của

hành vi phạm tội; PGS.TS Phạm Văn Tỉnh đã xây dựng mô hình S_X_R [101,

tr.191] dựa vào cơ chế hành vi của con ngƣời trong khoa học tâm lý học và mô hình

này đƣợc thừa nhận trong khoa học tội phạm hiện nay tại Việt Nam; trong đó S là

các yếu tố môi trƣờng bên ngoài (kích thích khách thể), X là con ngƣời có những

đặc điểm nhân thân đặc trƣng (kích thích phƣơng tiện) và R là sự trả lời các kích

thích bao gồm 3 khâu: động cơ hóa hành vi, kế hoạch hóa hành vi và hiện thực hóa

47

hành vi.

Chủ thể hành vi với những đặc điểm nhân thân – ký hiệu là X

Hiện thực hóa hành

Hiện thực hóa hành

vi

Kế hoạch hóa hành vi Hiện thực hóa hành vi Động cơ hóa vì hành vi

vi

Hiện thực hóa hành

vi

Môi trƣờng sống bao gồm cả tình huống - ký hiệu là S

Sơ đồ 2.1:Mô hình cơ chế tâm lý, xã hội của hành vi phạm tội cụ thể

Với cách tiếp cận này, việc xác định các đặc điểm thuộc về nhân thân con

ngƣời cụ thể và sự tƣơng tác giữa các đặc điểm nhân thân này với môi trƣờng sống

của con ngƣời giữ vai trò quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện

của tội phạm cụ thể chứ không phải là xác định sự tƣơng tác giữa những hiện tƣợng

và quá trình xã hội nhƣ khi lý giải nguyên nhân và điều kiện của THTP. Với mô

hình trên đã chứng minh cho quan điểm nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ

thể đó là sự tƣơng tác giữa các yếu tố thuộc về cá nhân con ngƣời với môi trƣờng

sống bao gồm nhiều tình huống khách quan.

Nhƣ vậy, có thể thấy trong lý luận tội phạm học Việt Nam hiện nay, nguyên

nhân và điều kiện của THTP, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể đã đƣợc

các nhà khoa học lý giải nhƣng chƣa có công trình nghiên cứu về nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm do NCTN thực hiện ở trong phạm vi vùng miền trên phạm vi

cả nƣớc. Đây là yêu cầu quan trọng cần đƣợc giải quyết để xây dựng hệ thống lý

luận về phòng ngừa nhóm tội phạm theo khu vực, vùng, miền đây là vấn đề đặt ra

48

cần đƣợc nghiên cứu giải quyết.

* Lý luận về bản chất của phòng ngừa tội phạm do ngƣời chƣa thành

niên thực hiện

Liên quan đến vấn đề này, GS.TS Võ Khánh Vinh đã cho rằng "các biện pháp

phòng ngừa chung hƣớng đến việc khắc phục hoặc làm mất hiệu lực các nguyên

nhân và điều kiện của THTP nói chung (trong cả nƣớc hoặc trong một vùng). Các

biện pháp riêng có địa chỉ là nhóm tội phạm này hay nhóm tội phạm khác. Việc

phòng ngừa các cá nhân hƣớng đến việc khắc phục hoặc phong tỏa các nguyên nhân

và điều kiện của tội phạm cụ thể” [129, tr.165]. Cùng với quan điểm trên và trên cơ

sở tham khảo định nghĩa phòng ngừa tội phạm của các nhà khoa học ở các công

trình khác nhau, tác giả luận án đã định nghĩa phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện, đó là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp kinh tế, chính trị, hành chính, pháp

luật, nghiệp vụ chuyên ngành… do các cơ quan, tổ chức và công dân tiến hành dƣới

sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện

phạm tội của NCTN; không để cho tội phạm CTN xảy ra và tiến hành các biện pháp

nhằm kịp thời phát hiện, xử lý tội phạm làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn

toàn THTP trong lứa tuổi CTN ra khỏi đời sống xã hội. Bên cạnh đó, lý luận về

PNTP đã chỉ ra rằng, PNTP có thể thực hiện đƣợc ở ba mức độ: PNTP nói chung,

phòng ngừa nhóm tội phạm, phòng ngừa tội phạm cụ thể.

Trong công trình tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn.

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Kháng đã nêu, “khi Căn cứ vào mục tiêu phòng ngừa (theo

tính chất của tội phạm) thấy PNTP có thể là phòng ngừa chung, phòng ngừa một

loại tội phạm, PNTP cụ thể” [52, tr.245]. Nhƣ vậy, về mặt lý luận PNTP mà cụ thể

là các biện pháp phòng ngừa đối với THTP, loại tội phạm, PNTP cụ thể đã đƣợc

nhiều nhà khoa học thừa nhận.Tuy nhiên, phòng ngừa loại tội phạm hoặc nhóm tội

phạm là gì và bản chất của phòng ngừa chƣa đƣợc nghiên cứu. Đánh giá trên đã thể

hiện bản chất của phòng ngừa nhóm tội phạm, bao giờ bản chất thứ nhất là sử dụng

các biện pháp xã hội và biện pháp hành chính Nhà nƣớc tác động vào nguyên nhân

49

và điều kiện của nhóm tội phạm nhằm ngăn ngừa trƣớc không để cho nhóm tội

phạm xảy ra. Các biện pháp xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho

ngƣời đƣợc ƣu tiên áp dụng trong trƣờng hợp này. Bản chất thứ hai là sử dụng các

biện pháp xã hội và biện pháp hành chính Nhà nƣớc trong việc phát hiện, xử lý sau

khi nhóm tội phạm xảy ra nhằm tiếp tục phòng ngừa nhóm tội phạm. Dựa vào quan

điểm phòng ngừa nhóm tội phạm CTN và nguyên nhân, điều kiện của nhóm tội

phạm CTN vừa nêu thì tác giả cho rằng phòng ngừa nhóm tội phạm do NCTN thực

hiện thể hiện ở hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: phòng ngừa THTP nói chung, tức là sử dụng

các biện pháp nhà nƣớc và xã hội tác động vào hiện tƣợng và quá trình xã hội có

khả năng làm phát sinh và thúc đẩy tội phạm xuất hiện, trong đó có tội phạm do

NCTN thực hiện.

Quan điểm thứ hai: phòng ngừa nhóm tội phạm còn đƣợc thực hiện bởi

phòng ngừa các tội phạm cụ thể thuộc nhóm tội phạm đó, tức là lý do sự tƣơng tác

giữa các yếu tố thuộc về hoàn cảnh khách quan bên ngoài với các đặc điểm nhân

thân của cá nhân dẫn đến tình hình thành động cơ phạm tội, kế hoạch hóa hành vi

phạm tội và thực hiện hành vi phạm tội trên thực tế, đồng thời áp dụng các biện

pháp nhà nƣớc và xã hội tác động vào những yếu tố khách quan bên ngoài các đặc

điểm nhân thân ngƣời phạm tội nhằm ngăn ngừa việc hình thành động cơ lên kế

hoạch và thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.

Những quan điểm nêu trên có thể xem là cơ sở lý luận của phòng ngừa các

tội do NCTN thực hiện. Phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện cũng xuất phát từ

việc xác định nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội phạm này và đƣợc nhận thức

ở hai cấp độ: thứ nhất, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh THTP trong đó có

các tội phạm do NCTN thực hiện, đó là sự tƣơng tác giữa hiện tƣợng và quá trình xã

hội nhƣ kinh tế xã hội, văn hóa xã hội, giáo dục xã hội, tổ chức quản lý xã hội pháp

luật ...; Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện của THTP do NCTN thực hiện còn đƣợc

nhận thức ở khía cạnh nguyên nhân và điều kiện các tội phạm cụ thể, đó là sự tƣơng

50

tác giữa những đặc điểm cá nhân ngƣời CTN phạm tội với những tình huống và

hoàn cảnh khách quan bên ngoài dẫn đến việc hình thành ba khâu trong cơ chế tâm

lý xã hội của hành vi phạm tội, đó là quá trình hình thành động cơ phạm tội, kế

hoạch hóa hành vi phạm tội và hiện thực hành vi phạm tội cụ thể.

Trong hệ thống lý luận về PNTP ở Việt Nam hiện nay, các biện pháp PNTP

có thể đƣợc phân chia thành các biện pháp phòng ngừa chung trên toàn lãnh thổ

hoặc những biện pháp PNTP trong từng địa phƣơng. Liên quan đến vấn đề này,

GS.TS Nguyễn Xuân Yêm cho rằng "việc nghiên cứu tội phạm ở một lãnh thổ, xã,

Phƣờng là một trong những lĩnh vực nghiên cứu tội phạm và của nó trong mối liên

quan trực tiếp với sự phát triển kinh tế và văn hóa xã hội của địa phƣơng và đƣa ra

các kế hoạch, biện pháp phòng ngừa các vi phạm pháp luật và tội phạm trên địa bàn

lãnh thổ. Việc nghiên cứu tội phạm ở một khu vực, tỉnh, thành phố, quận, huyện,

xã, phƣờng, thị trấn giúp phát hiện những nguyên nhân điều kiện cụ thể ở địa

phƣơng làm phát sinh tội phạm, trên cơ sở đó đề ra hệ thống các biện pháp phòng

ngừa có hiệu quả hơn, phân tích đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, các

tổ chức xã hội và nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm" [135]. Cách

phân chia này cũng đã đƣợc thừa nhận bởi các nhà khoa học nhƣ GS.TSKH Đào Trí

Úc trong công trình Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam

[108,tr.82], GS.TS Võ Khánh Vinh trong công trình giáo trình tội phạm học [131,

tr.84]. Nhƣ vậy, sự khác biệt trong biện pháp PNTP ở khu vực địa phƣơng khác

nhau xuất phát từ đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, xã hội, dân cƣ của những khu vực

đó. Tƣơng ứng với những đặc trƣng này, các nguyên nhân và điều kiện làm phát

sinh tội phạm, bên cạnh những nguyên nhân và điều kiện chung, phổ biến trong cả

nƣớc còn là những nguyên nhân và điều kiện xuất phát chính trong nội tại xã hội

của khu vực, địa phƣơng, bao gồm những nguyên nhân khách quan bên ngoài tác

động vào những nguyên nhân chủ quan phát sinh trong quá trình điều hành quản lý

xã hội. Trên cơ sở nhận thức các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm

trên địa bàn, các chủ thể PNTP sẽ tiến hành những biện pháp phòng ngừa nhóm tội

51

phạm bằng cách tác động nhằm hạn chế thấp nhất những nguyên nhân và điều kiện

làm phát sinh THTP nói chung và nguyên nhân điều kiện của các tội phạm cụ thể

trong nhóm tội phạm chƣa thành niên.

Cách phân chia biện pháp PNTP dựa vào khu vực, địa phƣơng này cũng

hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc cụ thể hóa đã trong nguyên tắc phòng ngừa

THTP, tức là các biện pháp PNTP phải đƣợc thiết kế cụ thể phù hợp với đặc điểm

từng vùng, miền cụ thể với các đối tƣợng có các đặc điểm nhân thân khác nhau. Với

các đặc điểm riêng biệt của từng địa bàn chính quyền địa phƣơng dựa vào các chính

sách quy định của pháp luật nói chung sẽ ban hành những biện pháp PNTP phù hợp

với THTP và các đặc điểm đặc trƣng của địa phƣơng. Điều đáng lƣu ý là mặc dù

ban hành những chính sách những biện pháp phòng ngừa tội phạm đặc thù nhƣng

các chủ thể phòng ngừa tội phạm vẫn phải tuân thủ nguyên tắc trong hoạt động

phòng ngừa tội phạm nhƣ nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc

dân chủ đặc biệt là các biện pháp phòng ngừa tội phạm này không đƣợc mâu thuẫn

giữa các biện pháp PNTP đƣợc áp dụng trên toàn quốc liên quan đến cùng lĩnh vực

nội dung phòng ngừa tội phạm.

Những vấn đề lý luận về phòng ngừa nhóm tội phạm đƣợc trình bày là cơ sở

để xây dựng nên những biện pháp phòng ngừa các tội phạm do NCTN thực hiện

trên một địa bàn nhất định. Với THTP trong quá khứ và hiện tại, các chủ thể PNTP

sẽ xác định đƣợc nguyên nhân và điều kiện khách quan, những nguyên nhân và điều

kiện chủ quan làm phát sinh nhóm tội phạm trên địa bàn, Trong đó đặc biệt chú ý

đến các nguyên nhân và điều kiện phát sinh do các đặc điểm về tự nhiên, lịch sử,

dân cƣ và những yếu tố khách quan bên ngoài tác động đến tình hình các tội phạm

do NCTN thực hiện ở địa phƣơng nhƣ THTP do NCTN thực hiện trong cả nƣớc,

trên thế giới và khu vực, Vị trí địa lý (các khu vực là trung tâm thƣơng mại, địa bàn

dân cƣ, địa bàn giáp giới hành chính…), các yếu tố thuộc về lịch sử địa phƣơng có

ảnh hƣởng đến sự xuất hiện và gia tăng các tội phạm do NCTN thực hiện. Ngoài ra,

các nguyên nhân và điều kiện từ chính sách, các quy định của chính quyền địa

52

phƣơng liên quan đến việc phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục. Các quy định liên

quan đến PNTP nói chung và phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện nói riêng cũng

cần đƣợc quan tâm nhằm kịp thời đề ra các biện pháp PNTP hiệu quả thông qua

việc tác động vào những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.

2.3.1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý phòng ngừa tình hình tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện

Đảng và Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chủ trƣơng và văn bản pháp luật về

PNTP và đây chính là cơ sở chính trị pháp lý quan trọng cho hoạt động phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện và phòng ngừa các tội phạm này cũng chính là thực hiện

các chủ trƣơng, quy định đó. Từ ngày thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa

ngày 2 tháng 9 năm 1945 cho đến nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều chủ

trƣơng, văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động PNTP, trong đó có liên quan đến

NCTN phạm tội.

Bộ luật hình sự nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam 2015 đƣợc Quốc hội thông

qua ngày 27/11/2015 và đƣợc sửa đổi, bổ sung vào ngày 26/6/2016, có hiệu lực từ

ngày 1/1/2018, đã dành trọn một chƣơng XII quy định đối với ngƣời dƣới 18 tuổi

phạm tội. Trong dó, đề ra nguyên tắc, các biện pháp xử lý, biện pháp tƣ pháp và

hình phạt đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội. BLTTHS năm 2015 dành một

chƣơng XXVIII để quy định về thủ tục tố tụng đối với ngƣời dƣới 18 tuổi. Nhìn

chung, những quy định trong BLHS và BLTTHS nhƣ đã nêu trên đƣợc xây dựng

theo xu hƣớng đảm bảo quyền lợi cho ngƣời dƣới 18 tuổi, phƣơng châm giáo dục là

chính, thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nƣớc ta đối với ngƣời chƣa

thành niên và phù hợp với Công ƣớc của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.

Luật trẻ em đề ra các yêu cầu bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi

phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng là phải: “Bảo đảm trẻ em

đƣợc đối xử công bằng, bình đẳng, tôn trọng, phù hợp với độ tuổi và mức độ trƣởng

thành của trẻ em; Ƣu tiên giải quyết nhanh chóng các vụ việc liên quan đến trẻ em

53

để giảm thiểu tổn hại đến thể chất và tinh thần của trẻ em; Bảo đảm sự hỗ trợ của

cha mẹ, ngƣời giám hộ, ngƣời đại diện hợp pháp khác đối với trẻ em trong suốt quá

trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ

em; Ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, luật

sƣ, trợ giúp viên pháp lý phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo

dục đối với trẻ em; sử dụng ngôn ngữ thân thiện, dễ hiểu với trẻ em; Bảo đảm

quyền đƣợc bào chữa, trợ giúp pháp lý cho trẻ em; Chủ động phòng ngừa, ngăn

chặn hành vi vi phạm pháp luật và tái phạm của trẻ em thông qua việc kịp thời hỗ

trợ, can thiệp để giải quyết các nguyên nhân, điều kiện vi phạm pháp luật, giúp trẻ

em phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng; Bảo đảm kịp thời cung cấp các biện pháp

phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp an toàn, liên tục, đầy đủ, linh hoạt, phù hợp với nhu

cầu, hoàn cảnh, độ tuổi, đặc điểm tâm lý, sinh lý của từng trẻ em trên cơ sở xem xét

và tôn trọng ý kiến, nguyện vọng, tình cảm và thái độ của trẻ em; Bảo đảm sự liên

kết chặt chẽ, kịp thời giữa các cơ quan, tổ chức, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ

em, gia đình, cơ sở giáo dục với các cơ quan tiến hành tố tụng, xử lý vi phạm hành

chính; Ƣu tiên áp dụng các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp hoặc biện pháp

giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn, biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối

với trẻ em vi phạm pháp luật; biện pháp cƣỡng chế và hạn chế tự do chỉ đƣợc áp

dụng sau khi các biện pháp ngăn chặn, giáo dục khác không phù hợp; Bảo đảm bí

mật đời sống riêng tƣ của trẻ em; áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm hạn chế trẻ

em phải xuất hiện trƣớc công chúng trong quá trình tố tụng” [92, tr.23].

Những văn bản trên là cơ sở để các chủ thể phòng ngừa tội phạm do NCTN

thực hiện đề ra đƣờng lối, chủ trƣơng trong công tác PNTP do NCTN thực hiện,

cũng nhƣ trong áp dụng đối sách với NCTN pham tội.

2.3.1.3. Cơ sở thực tiễn trong phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa

thành niên thực hiện

Xuất phát từ thực tiễn tính chất nguy hiểm của các tội phạm do NCTN thực

hiện đối với xã hội và cần đƣợc quản lý chặt chẽ từ phía nhà nƣớc. Hiện nay, tội

54

phạm do NCTN thực hiện đƣợc xem là một trong những tội phạm khá phức tạp,

Tính nguy hiểm của tội phạm này thể hiện ở chổ tính nguy hiểm do loại tội phạm

này gây ra ngày càng cao, phƣơng thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, xu hƣớng

NCTN bị lôi kéo tham gia hoạt động phạm tội có tổ chức ngày càng gia tăng. Tính

nguy hiểm của tội phạm do NCTN thực hiện còn thể hiện ở các đặc điểm nhân thân

ngƣời phạm tội. Ngƣời chƣa thành niên phạm tội đa dạng về thành phần, bao gồm

các tội phạm chuyên nghiệp, hay hành vi có tổ chức chặt chẽ, hình thành băng

nhóm sẵn sàng đối phó lại với các cơ quan chức năng, phạm tội nhiều lần, tái phạm

nguy hiểm. Ngoài ra, tính nguy hiểm của tình hình các tội phạm do NCTN thực

hiện thể hiện ở hậu quả, những thiệt hại mà tội phạm này gây ra cho xã hội. Những

thiệt hại này là những thiệt hại do nạn nhân, gia đình nạn nhân, thiệt hại cho chính

ngƣời phạm tội, gia đình ngƣời phạm tội. Những thiệt hại do tội phạm CTN thực

hiện là những thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần hiện hữu trƣớc mắt và cả về

lâu dài cho xã hội.

Thứ nhất: Thiệt hại về tinh thần cho tội phạm do NCTN gây ra cho xã hội, đã

tác động mạnh về tinh thần của nhân dân, họ cảm thấy bất an cho bản thân và những

thành viên trong gia đình, đặc biệt là những NCTN nhƣ là con, em họ, xuất hiện tâm

lý lo lắng những NCTN trong gia đình bị lôi kéo vào con đƣờng phạm tội hay trở

thành nạn nhân của tội phạm. Những tổn thƣơng về tinh thần của nạn nhân, gia đình

nạn nhân, ngƣời phạm tội, gia đình ngƣời phạm tội. Có thể khẳng định rằng tội

phạm do NCTN thực hiện không chỉ gây thiệt hại về vật chất nhƣ đã trình bày mà

còn gây ra những thiệt hại về tinh thần cho chính ngƣời phạm tội cho gia đình họ và

xã hội. Nhƣ vậy, với sự tồn tại tính nguy hiểm của tội phạm do NCTN thực hiện

trong xã hội, với những hậu quả thiệt hại mà tội phạm này đã gây ra cho xã hội thì

phòng ngừa nhóm tội phạm này là vấn đề cấp thiết của mỗi quốc gia và mỗi địa

phƣơng đây chính là cơ sở thực tiễn cho phòng ngừa các tội do NCTN thực hiện.

Thứ hai: Những thiệt hại về vật chất do các tội của NCTN thực hiện gây ra

cho xã hội đƣợc thể hiện ở giá trị của tài sản kinh tế bị xâm hại do ngƣời tội phạm

55

do NCTN gây ra. Thiệt hại vật chất còn thể hiện ở chi phí mà nhà nƣớc và xã hội

phải chi trả nhằm khắc phục hậu quả đó, có thể là hoạt động tuần tra canh gác xử lý

hoặc có thể là chi phí cho hoạt động phòng ngừa trƣớc không cho tội phạm xảy ra

nhƣ chi phí cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục, chi phi đƣa cho trƣờng giáo

dƣỡng… Tội phạm do NCTN thực hiện trở nên gánh nặng cho gia đình và xã hội,

ngƣời phạm tội có thể thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hại đến tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm ngƣời bị hại, gây ra những thiệt hại tổn thất về tinh thần

cho nạn nhân và xã hội.

2.3.2. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa thành

niên thực hiện

2.3.2.1. Nhóm các biện pháp phòng ngừa xã hội

Phòng ngừa xã hội đối với NCTN phạm tội là việc sử dụng tổng hợp các biện

pháp rộng rãi trong phạm vi toàn xã hội về các lĩnh vực chính trị, tƣ tƣởng, kinh tế,

văn hóa, pháp luật… nhằm xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội của NCTN, góp

phần hạn chế, làm giảm và xóa bỏ hiện tƣợng này. Đây là biện pháp có tính chất

chung, rộng rãi và phòng ngừa từ xa. Vì vậy, nó có tính chất chiến lƣợc lâu dài và

tạo thế chủ động. Trong thực tế ở nƣớc ta, các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với

tội phạm nói chung và NCTN phạm tội nói riêng đƣợc gắn liền với chức năng quản

lý nhà nƣớc và đƣợc tổ chức thực hiện thƣờng xuyên. Có thể nêu ra một số biện

pháp chính sau đây:

- Trƣớc hết phải nói tới các biện pháp phát triển kinh tế, đây là một biện pháp

cơ bản, quan trọng trong nhóm biện pháp phòng ngừa xã hội. Đây là biện pháp tác

động vào chính sách phát triển của nền kinh tế, làm nâng cao đời sống cho nhân dân

đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội. Khi kinh tế phát

triển nó đảm bảo vững chắc, tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách xã hội,

và những vấn đề liên quan trực tiếp đến PNTP của NCTN. Đặc biệt trong tình hình

nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng nhƣ hiện nay, mặt trái của nó đã gây nên không ít

56

khó khăn cho việc giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Kinh tế phát

triển là một trong những điều kiện để giải quyết những vấn đề tồn tại trong xã hội

liên quan đến công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện nhƣ: trẻ em thất học,

gia đình khó khăn về kinh tế, nghèo đói, khổ cực, tình trạng lang thang ăn xin, làm

thuê, lao động trong môi trƣờng nặng nhọc, độc hại… Để giải quyết vấn đề trên,

Nhà nƣớc đã chú trọng phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần

theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa sẽ có điều kiện tạo ra nhiều việc làm, cải thiện và

nâng cao đời sống cho ngƣời lao động và NCTN phát triển các công trình văn hóa,

xã hội, mở nhiều trƣờng lớp giáo dục hƣớng nghiệp, dạy nghề, tạo môi trƣờng văn

hóa, pháp luật trong xã hội. Nội dung của biện pháp này là tổ chức phát triển kinh

tế, sản xuất phù hợp với địa phƣơng mình. Dựa trên sức lao động, tài nguyên hiện

có, đặc điểm từng khu dân cƣ và những vấn đề liên quan đến an ninh trật tự mà đề

ra những giải pháp hợp lý, vừa thu hút đƣợc lao động, tạo việc làm cho nhiều ngƣời,

vừa quản lý đƣợc họ và đẩy mạnh ngành, nghề ở địa phƣơng, nâng cao mức sống

cho ngƣời dân, góp phần đẩy lùi tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Biện pháp văn hóa, giáo dục, đây là biện pháp mà Nhà nƣớc và các cơ quan

chức năng có kế hoạch giáo dục nhằm nâng cao trình độ nhận thức văn hóa, đạo đức

cho lớp NCTN. Biện pháp này sẽ góp phần xóa bỏ những nguyên nhân, điều kiện

dẫn đến phạm tội của NCTN do trình độ văn hóa thấp, chƣa có nhận thức đúng đắn

về đạo đức, thẩm mỹ phù hợp. Nội dung của biện pháp này là quan tâm tạo điều

kiện cho NCTN đƣợc giáo dục đúng đắn về đạo đức, thẩm mỹ. Đảng và Nhà nƣớc

cần quan tâm và chú trọng đảm bảo các chính sách về giáo dục văn hóa cho mọi

tầng lớp nhân dân nhƣ khuyến khích việc học tập phổ cập trình độ trung học, chú ý

mở trƣờng lớp cho các em ở vùng sâu, vùng xa, khuyến khích phong trào khuyến

học… đồng thời đang từng bƣớc cải tiến đổi mới toàn diện nội dung chƣơng trình

học tập ở các cấp. Điều đó sẽ tạo điều kiện đảm bảo phổ cập văn hóa cho trẻ em,

giúp các em có nhận thức đúng đắn về cuộc sống, lao động và rèn luyện phẩm chất

đạo đức tốt. Ngoài ra, nhà trƣờng cần quan tâm đến việc giáo dục học sinh về đạo

đức, về pháp luật, đồng thời nhà trƣờng cần chú ý đến việc nâng cao chất lƣợng của

57

đội ngũ giáo viên về chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Nhà trƣờng cần

phối hợp với chính quyền địa phƣơng sở tại và các tổ chức, đoàn thể quần chúng

nhƣ hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội ngƣời cao tuổi… để cùng bàn bạc các biện

pháp nhằm xây dựng môi trƣờng lành mạnh ở khu vực xung quanh trƣờng học cũng

nhƣ trên địa bàn dân cƣ nơi các em học sinh sinh sống đồng thời để mọi ngƣời đều

có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, giáo dục các em ở mọi lúc, mọi nơi, ngăn

ngừa các em tiếp xúc với môi trƣờng xấu cũng nhƣ có các hành vi tiêu cực.

Các biện pháp tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp luật trong tầng lớp thanh,

thiếu niên, NCTN. Trƣớc hết là giáo dục cho mọi ngƣời nói chung và NCTN nói

riêng những tri thức về pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật. Cần chú ý giáo dục cho

các em chuẩn mực đạo đức xã hội, sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, lấy

chuẩn mực xã hội làm thƣớc đo các hành vi xử sự. Trong giáo dục chính trị, tƣ

tƣởng cần coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục nhân cách, truyền thống, đạo

đức, pháp luật, có những nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với lứa tuổi, tâm

lý NCTN. Cần xem xét kỹ các văn bản pháp luật và dƣới luật đã ban hành có liên

quan tới NCTN phạm tội, xác định những điều đã phù hợp, chƣa phù hợp cần bổ

sung, điều chỉnh cho đúng với tình hình thực tế hiện nay trong phòng ngừa NCTN

phạm tội. Vấn đề quan trọng là để các em hiểu về luật, những vấn đề liên quan đến

mình mà tự giác chấp hành và tích cực tham gia vào các hoạt động lên án, PCTP

ngay tại cơ sở nơi mình đang sống, học tập và làm việc. Tổ chức cho NCTN tham

gia vào các hoạt động chính trị - xã hội, phát động rộng rãi các phong trào thi đua

trong thanh, thiếu niên, duy trì và phát triển đều khắp ở mọi nơi, mọi lúc nhằm thu

hút đông đảo các em tham gia. Xây dựng ý thức, mục đích và lẽ sống để các em

nhận rõ vai trò làm chủ của mình trong xã hội tƣơng lai mà có trách nhiệm rèn

luyện, học tập tránh đƣợc những vi phạm pháp luật.

- Xây dựng lối sống lành mạnh, tạo ra môi trƣờng xã hội tốt: Từng khu phố,

cụm dân cƣ, làng bản, thôn xóm tổ chức cho NCTN tham gia vào các hoạt động văn

hóa, xã hội, các câu lạc bộ, ban văn nghệ, các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí,

58

thu hút các em vào các tổ, đội thanh niên xung kích, câu lạc bộ thanh niên PCTP,

thanh niên an ninh, thanh – thiếu niên tự quản… để các em tham gia trực tiếp vào

các hoạt động giữ gìn trật tự xã hội, phát hiện và đấu tranh các hành vi vi phạm

pháp luật trong mọi ngƣời và trong thanh, thiếu niên. Trong chiến lƣợc PNTP nói

chung và phòng ngừa tội phạm là NCTN nói riêng, vấn đề quan trọng là phải có các

tổ chức phù hợp thu hút đƣợc mọi tầng lớp, lứa tuổi cùng tham gia. Những hoạt

động văn hóa - xã hội lành mạnh vừa bổ ích, phù hợp với lứa tuổi, vừa tạo nên

những môi trƣờng tốt để các em nâng cao sự nhận thức hiểu biết trong quan hệ,

cách sống, tự rèn luyện mình, chống các biểu hiện tiêu cực và hành vi vi phạm pháp

luật. Ngoài ra, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng thực hiện tốt các

biện pháp hỗ trợ góp phần củng cố gia đình bền vững, gia đình văn hóa, gia đình

hạnh phúc thông qua các hình thức nhƣ đẩy mạnh công tác hòa giải để giải quyết

mâu thuẫn; đẩy mạnh công tác kế hoạch hóa gia đình mỗi gia đình nên có một hoặc

hai con để nuôi dạy con tốt., đảm bảo cho NCTN sống trong gia đình ấm no, hạnh

phúc, tạo thuận lợi cho NCTN phát triển bình thƣờng.

Để thực hiện tốt đƣợc những biện pháp trên đòi hỏi có sự tham gia tích cực

của các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, đặc biệt là những

ngành chức năng có liên quan trực tiếp nhƣ cơ quan kinh tế, lao động, xã hội, giáo

dục đào tạo, các tổ chức xã hội nhƣ Ủy ban chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em,

Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên mà đặt biệt là gia đình và nhà trƣờng… việc thực

hiện các biện pháp trên của mọi lực lƣợng xã hội có ý nghĩa rất to lớn, góp phần xóa

bỏ nguyên nhân, điều kiện dẫn đến NCTN phạm tội.

2.3.2.2. Nhóm các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

Đây là nhóm các biện pháp đƣợc thực hiện phù hợp với yêu cầu nghiệp vụ

chuyên môn của từng ngành, từng lực lƣợng xã hội trên cơ sở những quy định của

pháp luật nhằm hƣớng đến xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện phạm tội của lứa tuổi

CTN. Các biện pháp này ngoài mục đích trừng trị ngƣời phạm tội còn mục đích

phòng ngừa tái phạm và phòng ngừa chung trong xã hội. Nội dung cơ bản của biện

59

pháp này gồm những vấn đề sau:

Biện pháp điều tra cơ bản, quản lý đối tƣợng: Tiến hành phân loại, rà soát

những đối tƣợng là NCTN phạm tội, thanh thiếu niên phạm tội, để đƣa vào diện đối

tƣợng theo dõi nghiệp vụ cơ bản. Những đối tƣợng này có những biện pháp giám

sát riêng, thƣờng xuyên kiểm tra, kiểm diện, báo cáo về những di biến động và theo

dõi quá trình cải tạo của từng đối tƣợng cụ thể.

- Cơ quan Điều tra kết hợp với Tòa án, Viện kiểm sát trong quá trình từ khi

phát hiện đến điều tra, xử lý NCTN phạm tội. Sử dụng những biện pháp nghiệp vụ

để phát hiện, ngăn chặn không để NCTN sa vào con đƣờng tội lỗi. Nếu đã xảy ra

vụ việc thì phải hạn chế thấp nhất hậu quả và thiệt hại. Tổ chức kiểm điểm, đấu

tranh với hành vi vi phạm của NCTN tại các cụm dân cƣ, bản làng, thôn xóm. Tổ

chức các hình thức quản lý, phân công cộng đồng trách nhiệm theo dõi, giám sát

NCTN thƣờng vi phạm pháp luật. Cùng gia đình, nhà trƣờng, tổ chức xã hội thƣờng

xuyên phối hợp trong quản lý, giáo dục ngƣời chƣa thành niên.

Việc nhanh chóng phát hiện ra các hành vi phạm tội của NCTN có ý nghĩa

trong việc làm rõ tội phạm, các nguyên nhân điều kiện dẫn đến tội phạm để có biện

pháp phòng ngừa cụ thể cũng nhƣ có những kiến nghị hợp lý với các ngành, các cấp

trong việc bịt kín những sơ hở, thiếu sót khiến NCTN không có điều kiện phạm tội.

Đây cũng chính là biện pháp ngăn chặn bảo vệ các em. Sự chậm trễ trong việc phát

hiện làm rõ hành vi phạm tội của NCTN sẽ gây ra những hậu quả, tác hại cho xã

hội, gây ảnh hƣởng xấu trong tƣ tƣởng quần chúng nhân dân dẫn đến các em có

biểu hiện coi thƣờng pháp luật, kỷ cƣơng của Nhà nƣớc. Vì vậy, cùng với việc phát

hiện, điều tra làm rõ hành vi phạm tội của NCTN, Viện kiểm sát, Tòa án cần kịp

thời đƣa ra truy tố, xét xử những trƣờng hợp cần thiết, với những việc gây hậu quả,

tác hại nghiêm trọng cần có hình thức xử lý nghiêm khắc để răn đe, giáo dục, cảnh

tỉnh với những kẻ đang có tƣ tƣởng chuẩn bị đi vào con đƣờng phạm tội, nhƣ vậy

vừa có tác dụng phòng ngừa chung, vừa có tác dụng phòng ngừa riêng.

- Các biện pháp giáo dục cải tạo đối với NCTN phạm tội. Giáo dục, cải tạo

60

NCTN phạm tội là biện pháp cần thiết trong PNTP của NCTN. Nhằm làm chuyển

biến nhận thức, hiểu biết xã hội, nhận ra lẽ phải, biết phân biệt đúng, sai của NCTN

là việc làm hết sức khó khăn. Nhiều cơ quan đoàn thể, chính quyền, nhà trƣờng, gia

đình, những ngƣời có uy tín cùng tham gia giáo dục quản lý các em, trƣớc hết là

không để các em hƣ, dẫn đến phạm pháp và phạm tội. Khi NCTN phạm tội ở mức

độ nhẹ, không nghiêm trọng, trong trƣờng hợp phạm tội lần đầu có thể bị phê bình,

khiển trách, cảnh cáo hoặc sử dụng hình thức tác động của tập thể, các đoàn thể, tổ

chức xã hội, của quần chúng (dùng áp lực dƣ luận xã hội) tiến hành kiểm điểm, đấu

tranh lên án hành vi phạm tội của ngƣời chƣa thành niên.

Sử dụng lực lƣợng quần chúng nhân dân nơi các em đang sống, sinh hoạt để

tiến hành giáo dục, cải tạo tại chỗ hoặc thông qua những ngƣời thân, ngƣời có uy tín

giúp cho các em nhận thức đƣợc những việc làm sai trái, hối hận mà tích cực sửa

chữa tiến bộ. Vấn đề quan trọng là kiểm soát đƣợc hành vi của các em, theo dõi

giám sát hằng ngày, không để hành vi vi phạm pháp luật tái diễn. Đối với các em

bƣớng bỉnh, khó giáo dục, cải tạo phải kiên trì tìm hiểu, phát hiện sở thích, những

điểm yếu cố hữu, những ảnh hƣởng xấu của xã hội, bạn bè, ngƣời thân để có

phƣơng hƣớng, biện pháp thích hợp. Tiến hành giáo dục cải tạo tại chỗ phải tính

đến những trƣờng hợp không thể giáo dục cải tạo tại cơ sở đƣợc nữa thì phải có

hình thức xử lý cao hơn nhƣ đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng, cơ sở cai nghiện bắt buột.

Đây là các biện pháp thay đổi môi trƣờng, cách ly sự giao tiếp hàng ngày với bên

ngoài xã hội, tập trung vào việc học văn hóa, học nghề, lao động có sự kèm cặp,

quản lý giáo dục của các trƣờng, trại. Một mặt nâng cao trình độ văn hóa nhận thức

cho các em, một mặt dạy các em có nghề, yêu quý lao động, sau này ra trƣờng, trại

có nghề nghiệp để kiếm sống. Giáo dục cải tạo này nhằm nâng cao giá trị lao động,

giá trị con ngƣời trong xã hội. Thời gian ở trƣờng, trại giam sẽ giúp các em có điều

kiện để tu dƣỡng, rèn luyện và tự cải tạo mình. Cách ly các em khỏi xã hội trong

một khoảng thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục là giúp các em có thời gian nhìn

lại một cách tƣờng tận những hành vi tội lỗi đã mắc phải, những điểm cần phải sửa

61

chữa, khắc phục, phấn đấu thành những ngƣời có ích cho xã hội. Đồng thời nhằm

giữ gìn kỷ luật, kỷ cƣơng, tính nghiêm minh của pháp luật trong mọi trƣờng hợp xử

lý ngƣời phạm tội.

- Các biện pháp phòng ngừa cá biệt đối với NCTN phạm tội. Phòng ngừa cá

biệt có ý nghĩa là việc thông qua công tác theo dõi, giám sát, quản lý đối với những

đối tƣợng là NCTN đang có biểu hiện hoạt động phạm tội, nhằm ngăn chặn, đấu

tranh, xử lý kịp thời không để hành vi phạm tội xảy ra, cụ thể: Nắm chắc các diễn

biến tƣ tƣởng, hành động của những NCTN đã có tiền án, tiền sự vẫn chƣa chịu cải

tạo mà đang có biểu hiện hoạt động, giáo dục, thuyết phục, giúp đỡ, chỉ ra những

sai lầm, thiếu sót, bắt họ cam kết sửa chữa, gặp gỡ cá biệt từng đối tƣợng thƣờng có

hoạt động nổi, gây nhiều phức tạp về an ninh trật tự tại địa phƣơng để răn đe giáo

dục, giúp đỡ vật chất khi khó khăn, tạo điều kiện học tập, bố trí việc làm thuận lợi,

giảm bớt khó khăn kinh tế…nhằm ngăn ngừa NCTN phạm tội.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Chƣơng 2 của luận án đã giải quyết những vấn đề cơ bản về lý luận phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện bao gồm:

Thứ nhất, xác định quan điểm về NCTN phạm tội và khái niệm về phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện. Xác định các chủ thể phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện bao gồm chủ thể lãnh đạo và các chủ thể triển khai kế hoạch phòng ngừa.

Thứ hai, làm rõ mục đích của phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện là từng

bƣớc loại bỏ những nguyên nhân và điều kiện của THTP trong lứa tuổi CTN; thiết

lập và phân định chức năng phòng ngừa THTP cho các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức

xã hội, công dân… Nâng cao chất lƣợng hiệu quả các hình thức của hoạt động

phòng ngừa THTP trong lứa tuổi CTN. xác định ý nghĩa của phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện bao gồm ý nghĩa về kinh tế, ý nghĩa mang tính nhân đạo, ý nghĩa

62

trong công tác phòng ngừa, ý nghĩa trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN và

nâng cao vị thế của Đảng và nhà nƣớc ta trong đối nội, đối ngoại. Xác định các

nguyên tắc của phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện đó là các nguyên tắc pháp

chế XHCN, nguyên tắc dân chủ XHCN, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc phối hợp

chặt chẽ giữa các chủ thể trong phòng ngừa, nguyên tắc cụ thể, nguyên tắc khoa học

và tiến bộ.

Thứ ba, đƣa ra những cơ sở lý luận của phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện. Trong đó, luận án làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm đã

đƣợc thừa nhận trong khoa học tội phạm Việt Nam làm cơ sở cho hoạt động phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện. Lý luận về phòng ngừa nhóm tội phạm và nguyên

nhân điều kiện của nhóm tội phạm đồng thời luận án cũng giải quyết vấn đề lý luận

về phòng ngừa nhóm tội phạm trên một địa bàn cụ thể. Đề ra những cơ sở chính trị,

pháp lý và cơ sở thực tiễn trong phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Xác định

các biện pháp phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trong đó có nhóm biện pháp

63

phòng ngừa xã hội và nhóm biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ.

CHƢƠNG 3

TÌNH HÌNH VÀ THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM DO NGƢỜI

CHƢA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN

CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ

3.1. Tình hình phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên

thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ

3.1.1. Khái quát tình hình phòng ngừa tình hình tội phạm do người chưa

thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ

Về tình hình phạm pháp hình sự nói chung, hằng năm trên địa bàn các tỉnh,

thành phố TNB xảy ra trên dƣới 7 nghìn vụ và tăng giảm không đáng kể. Cao nhất

là năm 2008 với 7.601 vụ, thấp nhất là năm 2017 với 5.818 vụ. Thống kê từ 2006

đến 2017 toàn khu vực xảy ra 82.005 vụ, chiếm 13,13% số vụ xảy ra của cả nƣớc

(82.005 vụ/624.730 vụ). [Xem bảng 3.2]. Trong số đó NCTN vi phạm pháp luật khu

vực miền TNB hằng năm trên dƣới 2.500 vụ, tăng giảm không bền vững. Cao nhất

là 2016 với 3.062 vụ NCTN vi phạm pháp luật ở khu vực TNB, thấp nhất là năm

2013 với 1.880 vụ, so với cả nƣớc tình hình NCTN vi phạm pháp luật giai đoạn

2006 - 2017 ở khu vực miền TNB chiếm tỉ lệ 20,68% về số vụ (2.435 vụ/113.330

vụ), 18,06% số NCTN bị xử lý (31.471 NCTN/174.258 NCTN) [Xem bảng 3.3].

Về tình hình NCTN phạm tội, theo thống kê của TAND các tỉnh, thành phố

khu vực miền TNB cũng tăng giảm không ổn định qua từng năm, cao nhất là năm

2012 với 722 NCTN phạm tội, thấp nhất là 2006 với 419 NCTN phạm tội. Theo

thống kê giai đoạn 2006-2017 số NCTN phạm tội ở khu vực TNB là 6.925 ngƣời

chiếm tỉ lệ 14,17% số NCTN phạm tội cả nƣớc ( 6.925 ngƣời\48.868 ngƣời). [Xem

bảng 3.5].

Về cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện giai đoạn 2006 - 2017 chủ yếu tập

64

trung nhiều nhất là tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sở hữu,

xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Trong đó, trộm cắp tài sản 2.595 NCTN phạm tội

chiếm 37,47%, cƣớp tài sản 656 NCTN phạm tội chiếm 9,47%, cố ý gây thƣơng

tích 8,93% NCTN phạm tội chiếm 12,9% , Hiếp dâm 592 NCTN phạm tội chiếm

8,40%. [Xem bảng 3.6].

Về đặc điểm nhân thân của NCTN vi phạm pháp luật ở khu vực miền TNB

nổi lên một số đặc điểm sau: về giới tính qua khảo sát thực tế đa số NCTN vi phạm

pháp luật là nam giới chiếm tỉ lệ 96,49% , nữ giới 3,51%. [Xem bảng 3.7]; về trình

độ văn hóa số NCTN có trình độ Trung học cơ sở trở lên chiếm 44,69%, tiểu học

chiếm 40,15%, mù chữ chiếm 15,16%. Thống kê cho thấy tỉ lệ NCTN có trình độ từ

trung học cơ sở trở lên vi phạm pháp luật chiếm tỉ lệ khá cao và không có sự chênh

lệch với số NCTN vi phạm pháp luật có trình độ thấp hơn [ Xem bảng 3.8]. Tuy

nhiên, qua khảo sát cũng thấy nổi lên số NCTN bỏ học vi phạm pháp luật chiếm tỉ

lệ khá cao 53,71% so với tổng số NCTN vi phạm pháp luật trong khu vực. Những

địa phƣơng có số NCTN vi phạm pháp luật cao nhất là Đồng Tháp, An Giang

thấp nhất là Sóc Trăng, Bến Tre [Xem bảng 3.9]. Về độ tuổi NCTN vi phạm

pháp luật ở khu vực TNB tập trung nhiều nhất là từ 16 đến dƣới 18 tuổi chiếm

58,03% từ 14 đến dƣới 16 tuổi chiếm 31,18%, dƣới 14 tuổi chiếm 10,14% [Xem

bảng 3.10]. Về mức độ vi phạm pháp luật số NCTN vi phạm lần thứ nhất chiếm

68,25%, vi phạm lần thứ 2 trở lên chiếm 31,75%. Số liệu cho thấy các em vi

phạm đa số là nhất thời cơ hội, bộc phát do thiếu hiểu biết, tuy nhiên, vẫn có

những em vi phạm có hệ thống, mang tính chuyên nghiệp và nguy hiểm [Xem

bảng 3.11]. Về hoàn cảnh gia đình qua khảo sát tại 6 trại tạm giam của Công an

các tỉnh, thành phố khu vực TNB từ 2006-2017 với 1.256 NCTN bị tạm giam

thấy rằng những NCTN có hoàn cảnh gia đình khó khăn phạm tội chiếm tỉ lệ cao

hơn so với NCTN có hoàn cảnh gia đình đủ ăn và khá giả (khó khăn 622 ngƣời

chiếm 49,52%, đủ ăn 374 chiếm 29,78%, khá giả 260 ngƣời chiếm 20,70%). Tuy

nhiên, số NCTN trong những gia đình khá giả mua bán kinh doanh phát đạt và

một số là con của cán bộ, công chức, cha mẹ có địa vị trong xã hội… cũng chiếm

65

tỉ lệ cao 20,7% là điều đáng báo động [Xem bảng 3.12].

3.1.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình phòng ngừa tình hình tội

phạm do người chưa thành niên thực hiên trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

- Nguyên nhân, điều kiện từ phía nhận thức của ngƣời chƣa thành niên

+ Có thể khẳng định rằng, chính bản thân NCTN quyết định trong việc lựa

chọn hành vi ứng xử cho riêng mình. Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi NCTN đang trong

quá trình phát triển hoàn thiện thể chất và tinh thần, nhận thức chƣa đầy đủ toàn

diện về những hậu quả, tác hại do hành vi của mình gây ra nên phần lớn các em

chƣa tự chủ đƣợc bản thân, dễ bị lôi kéo, kích động tham gia vào những việc làm sai

trái để thoả mãn nhu cầu cá nhân nên vi phạm pháp luật hoặc phạm tội. Qua khảo

sát 402 đƣợc các lực lƣợng chức năng làm việc thì có 87 em chiếm 21,61% do bản

thân các em thiếu tiền ăn chơi, tiêu xài, hay bốc đồng muốn thể hiện bản thân dẫn

đến hoạt động phạm tội.

+ Những NCTN phạm tội đại đa số có học vấn thấp, kiến thức về pháp luật

còn nhiều hạn chế, thậm chí có những trƣờng hợp không nhận thức đƣợc hành vi

của mình dẫn đến hậu quả nguy hiểm, tác hại cho xã hội hoặc vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, một số khác thì có trình độ, am hiểu pháp luật nhƣng do bản chất bốc

đồng, bị tác động bởi những đối tƣợng xấu nên có những hành động coi thƣờng

pháp luật, cố tình vi phạm.

- Nguyên nhân và điều kiện từ phía gia đình:

+ Nhiều gia đình có cuộc sống khá giả nuông chiều con một cách thái hóa,

do cha mẹ đi làm ăn xa kiếm tiền không có thời gian để quan tâm con cái. Tuy

nhiên, họ có rất nhiều tiền và do vậy đã bù đắp cho con trẻ bằng việc nuông chiều

đáp ứng mọi nhu cầu của chúng. Điều này dẫn đến tình trạng hình thành nhu cầu

hƣởng thụ của các con mà không nghĩ đến nghĩa vụ của bản thân đối với cha mẹ và

xã hội. Các em này thƣờng rất ích kỷ, thích chơi bời, ỷ lại, đua đòi, lƣời học tập rèn

luyện nên dễ bị lôi kéo vào những môi trƣờng sinh hoạt không lành mạnh nhƣ các

tụ điểm vui chơi giải trí trá hình với các hoạt động tệ nạn xã hội nhƣ: hút chích, mại

66

dâm, cờ bạc …Đây chính là nguyên nhân tại sao một bộ phận NCTN phạm tội ở địa

bàn các tỉnh thành phố TNB thời gian qua lại là con những gia đình khá giả [Xem

bảng 3.1].

+ Ngƣợc lại những gia đình do điều kiện kinh tế quá khó khăn, mãi lo kiếm

sống, đi làm xa gia đình, ít quan tâm đến con cái. Những đứa trẻ sinh ra trong

những gia đình này thƣờng có cuộc sống thiếu thốn, phải bỏ học, ra đời sớm để mƣu

sinh và dễ đi vào con đƣờng phạm tội. Về nguyên nhân này thì khu vực miền TNB

chiếm tỉ lệ khá cao 49,52% [ Xem bảng 13.12]. Nguyên nhân do tỉ lệ hộ nghèo toàn

vùng còn khá cao (theo tổng cục thống kê đến năm 2012 khu vực TNB hộ nghèo

chiếm 11,6% ), tỉ lệ trẻ bỏ học vi phạm pháp luật hằng năm vẫn còn rất cao 53,71%

[Xem bảng 3.9]. Những em thoát ly gia đình sớm, sống tự lập ngoài xã hội, chƣa có

kiến thức kinh nghiệm xã hội, nên dễ bị sa ngã, bị dụ dỗ, lôi kéo vào con đƣờng

phạm tội.

+ Do gia đình không bình thƣờng, không hoàn chỉnh. Đó là những trƣờng

hợp NCTN sống trong hoàn cảnh gia đình thiếu cha hoặc mẹ hay mồ côi cả cha và

mẹ, sống với mẹ kế, cha dƣợng, sống với ông bà đã già yếu… những em có hoàn

cảnh nhƣ vậy dễ tự ti, tổn thƣơng về tâm lý, dễ nảy sinh những tâm lý tiêu cực dẫn

đến những hành vi vi phạm pháp luật.

+ Do NCTN trong một gia đình mà các thành viên trong gia đình thiếu

gƣơng mẫu, thậm chí còn dung túng bao che cho những hành vi vi phạm pháp luật

hoặc chính những thành viên trong gia đình là những ngƣời phạm tội, tham gia vào

các tệ nạn xã hội … Do đó đã tác động tiêu cực đến việc hình thành nhân cách của

các em hay xúi giục cho NCTN phạm tội.

+ Do sự phối hợp của một số gia đình và nhà trƣờng thiếu sự chặt chẽ. Do

bận công việc làm ăn, hầu nhƣ các bậc cha mẹ ít có điều kiện để chăm sóc và giáo

dục con cái, họ giao phó sự giáo dục con cái cho nhà trƣờng, không quan tâm đến

67

kết quả học tập và tâm lý của con trẻ. Trong khi đó môi trƣờng bên ngoài còn rất

nhiều cám dỗ không lành mạnh, có rất nhiều bạn bè xấu sẵn sàng lôi kéo các em vi

phạm pháp luật.

- Nguyên nhân từ phía nhà trƣờng:

+ Việc quản lý học sinh ở một số trƣờng chƣa tốt. Tình trạng bạo lực học

đƣờng, tệ nạn xã hội xâm nhập vào học đƣờng vẫn còn xảy ra nhiều nơi. Một số

thầy cô giáo chƣa thật sự là tấm gƣơng sáng cho học sinh noi theo, còn có hiện

tƣợng thầy cô giáo sống buông thả, vi phạm đạo đức nhà giáo. Hoặc, vì chạy theo

bệnh thành tích, lạm dụng việc dạy thêm, học thêm ngoài giờ… từ đó hình thành

tâm lý không tôn trọng thầy cô, nên việc dạy dỗ hình thành nhân cách cho các em sẽ

kém hiệu quả.

+ Việc giáo dục đạo đức, pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho

học sinh trong các nhà trƣờng phổ thông chƣa đƣợc chú trọng, việc bồi dƣỡng kỹ

năng sống, kiến thức xã hội cho các em còn hạn chế. Hoạt động đoàn, đội trong nhà

trƣờng còn mang nặng hình thức ít thu hút đƣợc thanh, thiếu niên tham gia.

- Nguyên nhân, điều kiện từ phía xã hội:

+ Những thiếu sót trong công tác giáo dục văn hoá, tƣ tƣởng thông qua các

phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ sách, báo, phim ảnh mà đặc biệt là các trang

mạng xã hội… do công tác quản lý của các cơ quan chức năng còn lỏng lẽo, chƣa

theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ nên các sản phẩm văn hoá ngoại lai,

đồi truỵ độc hại dễ dàng xâm nhập vào xã hội trong đó có NCTN. Từ đó, đã tác

động tiêu cực đến việc hình thành tƣ tƣởng, nhân cách, suy nghĩ của NCTN. Đây

chính là nguyên nhân hình thành tƣ tƣởng thực dụng, sống thác loạn, chạy theo

đồng tiền, thiếu tƣ tƣởng niền tin vào chế độ XHCN trong một bộ phận ngƣời chƣa

thành niên.

+ Ảnh hƣởng từ mặt trái của cơ chế thị trƣờng dẫn đến sự phân hoá giàu

nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Con em những gia đình giàu có

nếu không quản lý tốt dễ nhiễm các thói hƣ, tật xấu ăn chơi đua đòi, lãng phí,

68

nghiện ngập… Con em những gia đình nghèo khó thì phải lăn lộn với cuộc sống từ

rất sớm cũng rất dễ sa vào con đƣờng trộm cắp, cƣớp giật, cố ý gây thƣơng tích,

nghiện ma tuý…

+ Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quá trình đô thị quá diễn ra

nhanh chóng. Những phong tục tập quán, nếp sinh hoạt ở những vùng nông thôn bị

“ đảo lộn” thay vào đó là nếp sống thành thị, công nghiệp đã làm mất đi những

phong tục tập quán tốt đẹp của khu vực TNB nhƣ lòng khoan dung độ lƣợng, tƣơng

thân tƣơng ái, cần cù ngày càng lu mờ, thay vào đó là tính ích kỷ, vô cảm, không

quan tâm đến những vấn đề chung của xã hội, sống thực dụng, vun vén cho bản

thân mình.

+ Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội ở khu vực TNB

trong thời gian qua tuy đạt đƣợc nhiều thành tựu tích cực nhƣng vẫn còn nhiều hạn

chế bất cập phạm pháp hình sự tuy đƣợc kiềm chế nhƣng vẫn còn ở mức cao hàng

năm xảy ra trên dƣới 7.000 vụ chiếm 13,13 % so cả nƣớc [Xem bảng 3.2]. tỉ lệ kéo

giảm tội phạm chƣa bền vững tăng giảm theo từng năm, trong đó có tội phạm do

NCTN thực hiện [Bảng 3.2 và 3.4]. Điều đó chứng tỏ các chủ thể phòng chống tội

phạm chƣa có những giải pháp căn cơ hữu hiệu mang tính chiến lƣợc lâu dài để kéo

giảm THTP trong đó có THTP do NCTN thực hiện một cách bền vững.

3.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành

niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ

3.2.1. Thực trạng về hệ thống lý luận

Lênin đã chỉ ra rằng, giải quyết nhiệm vụ tiêu diệt nguồn gốc trong xã hội

của tội phạm không phải chỉ tiến hành bằng cuộc đấu tranh chống tội phạm với sự

giúp đỡ của pháp luật và hoạt động của các cơ quan trừng phạt, mà là một kế hoạch

rộng lớn hơn: tổ chức lại xã hội, hoàn thiện hệ thống và các tổ chức xã hội, giải

phóng nó khỏi các lề thói xấu của những hình thức kinh tế- xã hội của giai cấp bóc

lột, giáo dục con ngƣời mới. Theo chủ nghĩa Mác Lênin, chính lối sống cộng sản

chủ nghĩa sẽ loại trừ hành vi phạm tội, nhƣ vậy không thể loại trừ tội phạm bằng

69

con đƣờng cải cách những mặt riêng lẻ của đời sống xã hội, mà chỉ bằng con đƣờng

thay đổi toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội: cải tạo những quan hệ xã hội bóc lột

thành quan hệ xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tƣ tƣởng chủ nghĩa Mác- Lênin đã đặt

nền móng cho lý luận trong cuộc đấu tranh loại từ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội

Trãi qua nhiều hình thái kinh tế xã hội của xã hội loài ngƣời và hệ tƣ tƣởng

của giai cấp thống trị xã hội trong từng hình thái kinh tế xã hội có những đặc trƣng

riêng, trong đó có những quan điểm về đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật

và tội phạm. Lịch sử đã chứng minh tính hiệu quả của các biện pháp PCTP và vi

phạm pháp luật đã từng đƣợc áp dụng qua các giai đoạn phát triển của xã hội loài

ngƣời. Trong nhiều thế kỷ qua nhận thức của con ngƣời vẫn quan niệm: Nếu nhƣ

nhà nƣớc có một hệ thống pháp luật nghiêm khắc, tòa án sử dụng hình phạt rộng rãi,

lực lƣợng trấn áp của giai cấp thống trị mạnh mẽ thì chắc chắn tội phạm sẽ đƣợc

chấm dứt. Tƣ tƣởng này thịnh hành vào thời kì chiếm hữu nô lệ, phong kiến và

ngày nay vẫn còn tồn tại. Trong lịch sử, các biện pháp trừng phạt kẻ phạm tội hết

sức dã man đã từng áp dụng phổ biến vào thời kỳ trung cổ nhƣ chém đầu, ném vào

vạc dầu, cho thú vật xé xác, chu di tam tộc ... nhƣng tội phạm vẫn tồn tại, thậm chí

gia tăng. Các Mác đã khẳng định "tính tàn bạo đặc trƣng cho những pháp luật để

trừng phạt sự hèn nhát bởi vì sự hèn nhát chỉ có thể năng động khi nó trở thành tàn

bạo". Thực tế đã chứng minh, Sự tàn bạo này sẽ làm nảy sinh ra sự tàn bạo khác

tƣơng ứng. Những hình phạt đau đớn và chà đạp tâm hồn con ngƣời không bao giờ

làm giảm đƣợc tội phạm. Hơn nữa, gieo rắc sự tàn bạo sẽ ảnh hƣởng cực kỳ bất lợi

trong nhận thức xã hội, nó làm chai sạn tình cảm con ngƣời, nó xa lạ với chủ nghĩa

nhân đạo đang mong muốn ở xã hội loài ngƣời. Lênin đã viết: "Trong lý tƣởng của

chúng ta không có chỗ cho bạo lực đối với con ngƣời".

Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay và giai đoạn sắp tới để xây dựng một xã

hội không còn tội phạm thì hình phạt nghiêm khắc vẫn và sẽ luôn là công cụ quan

trọng để góp phần ngăn chặn sự gia tăng của THTP và trong nhiều trƣờng hợp nó có

ý nghĩa quyết định đối với việc giáo dục và cải tạo kẻ phạm tội, ngăn ngừa họ và

những ngƣời khác không tiếp tục phạm tội hoặc tái phạm. Tuy vậy, hình phạt chỉ

70

đƣợc áp dụng khi mà một tội phạm hay một hành vi vi phạm pháp luật đã xảy ra và

điều có nghĩa là xã hội đã không biết cách, không còn cách hoặc không kịp thời

phòng ngừa chúng. Đối với toàn xã hội, điều quan trọng hơn cả là không để lọt bất

cứ một hành vi phạm tội nào, ngăn ngừa những hành vi không tuân thủ pháp luật có

thể xảy ra. Nếu làm đƣợc điều này xã hội sẽ đỡ mất công sức, của cải để khắc phục

những hậu quả do tội phạm gây ra và cũng không phải tiến hành các hoạt động phát

hiện, điều tra, truy tố, xét xử, giam giữ, trừng phạt kẻ phạm tội. Nhƣ Các Mác đã

nói "ngƣời làm luật thông thái cần phải phòng ngừa tội phạm làm sao để khỏi phải

trừng phạt nó".

Trong lý luận cũng nhƣ trong thực tiễn đấu tranh với hiện tƣợng tội phạm,

các thuật ngữ phòng ngừa hay chống hay đấu tranh chống tội phạm vẫn đƣợc sử

dụng thƣờng xuyên thành một cụm từ nhƣ: cuộc đấu tranh PCTP hay đấu tranh

chống và PNTP nhƣng chƣa có sự phân biệt, giải thích một cách rõ ràng. Tình trạng

lẫn lộn giữa khái niệm cũng diễn ra phổ biến, sự nhầm lẫn giữa khái niệm PNTP và

chống tội phạm có thể dẫn đến những hậu quả nhất định. Khi đó, chúng ta sẽ thiếu

những cơ sở lý luận để soi sáng những hoạt động thực tiễn, cải tạo thực tiễn, tổng

kết thực tiễn và tiếp tục phát triển lý luận khoa học về PNTP; Không xác định đƣợc

phƣơng hƣớng chính của cuộc đấu tranh với hiện tƣợng tội phạm và làm lu mờ mặt

này hay mặt khác của cuộc đấu tranh; phƣơng hƣớng và các mục đích cần đạt đƣợc

của cuộc đấu tranh cũng không xác định đƣợc và không có cơ sở để đánh giá hiệu

quả của nó... Nhƣ vậy, việc làm sáng tỏ bản chất của khái niệm PNTP và chống tội

phạm đã đặt ra nhƣ một nhu cầu vừa có ý nghĩa lý luận vừa mang ý nghĩa thực tiễn.

Phòng ngừa tội phạm không để cho tội phạm xảy ra và gây nên những hậu

quả nguy hiểm cho xã hội, không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu

những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật. Mục tiêu xuyên suốt của phòng ngừa

chính là không để cho tội phạm xảy ra, và điều này đã quy định phƣơng hƣớng chủ

yếu của phòng ngừa là tập trung vào việc hạn chế, kiềm tỏa, tiến tới loại trừ và triệt

tiêu những hiện tƣợng, quá trình là nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm.

Khác với PNTP, chống tội phạm thực chất chỉ đƣợc áp dụng khi mà tội phạm đã

71

xảy ra, điều đó có nghĩa là PNTP chƣa triệt để. Mục đích của chống tội phạm xét

cho cùng là mỗi tội phạm không tránh khỏi hình phạt và ngăn chặn không cho hậu

quả tiếp tục xảy ra. Mục đích này đã quy định phƣơng hƣớng chính của chống tội

phạm là kịp thời phát hiện tội phạm, nhanh chóng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành

hình phạt đối với kẻ phạm tội trƣớc pháp luật.

Điều 31 BLHS năm 2015 quy định mục đích của hình phạt là: "Hình phạt

không chỉ nhằm trừng trị ngƣời, pháp nhân thƣơng mại phạm tội mà còn giáo dục

họ ý thức tuân tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ

phạm tội mới; Giáo dục ngƣời, pháp nhân thƣơng mại khác tuân thủ theo pháp luật,

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm" [88, tr.22]. Quy định này có ý nghĩa to

lớn của các biện pháp chống tội phạm tức là việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử,

thi hành hình phạt đối với việc ngăn ngừa tội phạm trong điều kiện xã hội hiện nay

mà nhiều ngƣời cho rằng: chống tội phạm là một bộ phận cần thiết và quan trọng

của PNTP nhằm đảm bảo tính triệt để của các biện pháp phòng ngừa, có hiệu quả.

Bởi vì ai cũng thấy rõ: khi áp dụng hình phạt đối với kẻ phạm tội, hình phạt không

chỉ tác động trực tiếp đối với ngƣời đó để đảm bảo cho tính bắt buộc phải chịu trách

nhiệm pháp lý khi gây ra tội phạm mà còn ngăn chặn chính họ khỏi tiếp tục phạm

tội và phạm tội mới. Đồng thời, hình phạt còn có ý nghĩa phòng ngừa chung thông

qua việc tuyên truyền tác động giáo dục xã hội tích cực tham gia đấu tranh với tội

phạm, thức tính, răn đe những ngƣời chƣa vi phạm pháp luật và phạm tội.

Do thấu hiểu sâu sắc ý nghĩa của hình phạt, nắm đƣợc bản chất của hành vi

chống đối xã hội của con ngƣời và niềm tin vô hạn vào khả năng có thể loại trừ tội

phạm ra khỏi đời sống xã hội, Lê Nin đã nêu lên quan điểm nổi tiếng nhƣ sau: “kết

án có điều kiện; lên án trƣớc xã hội; thay thế việc tù giam bằng lao động cƣỡng bức

ở nhà; thay thế nhà tù bằng các cơ quan giáo dục; đƣa ra các tòa án đồng chí kể cả

trong quân đội và công nhân” [153, tr.490]. Quan điểm này cho thấy không thể thủ

tiêu nguồn gốc của tội phạm chỉ bằng hình phạt mà phải cải thiện hệ thống hình

phạt theo hƣớng phòng ngừa. Quan điểm này đã trở thành kim chỉ nam cho các hoạt

động xây dựng hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự các nƣớc XHCN để nó

72

ngày càng năng động hơn, trong nhiều trƣờng hợp nó mất đi tính chất cƣỡng chế

trừng phạt và chuyển sang cƣỡng chế giáo dục. Những hình phạt dạng đó đang đƣợc

quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam và đã phát huy tác dụng tích cực trong

đời sống xã hội đó là các hình phạt: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù

nhƣng cho hƣởng án treo, quản chế, đƣa vào cơ sở giáo dục, trƣờng giáo dƣỡng...

Có thể khẳng định không thể phủ nhận vai trò quan trọng của hình phạt đối với

công tác PCTP trong giai đoạn hiện nay. Các loại hình phạt mang tính chất cƣỡng

chế giáo dục để gây tác động giáo dục phòng ngừa đối với ngƣời không vững bền

về tính cách và khẳng định vai trò đặc biệt của pháp luật hình sự trong PNTP. Ngay

cả các cơ quan bảo vệ pháp luật nhƣ hoạt động thanh tra nhà nƣớc, thanh tra chuyên

ngành thì vấn đề nổi cộm vẫn chỉ là kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp

luật hoặc có dấu hiệu phạm tội để xử lý và kiến nghị xử lý, còn việc phát hiện

nguyên nhân, điều kiện để kiến nghị khắc phục nhằm đảm bảo cho những hành vi

đó không xảy ra nữa thì ít đƣợc quan tâm. Hoạt động của các cơ quan Tòa án, Kiểm

sát, Điều tra chỉ chú trọng về hƣớng phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thi hành án

đối với kẻ phạm tội và nhƣ vậy các hoạt động có mục đích nhằm loại trừ hoặc cô

lập các nhân tố là nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội hay biến đổi xấu về

nhân cách của những cá nhân có nguy cơ phạm tội đã ít đƣợc chú ý và hoặc đƣợc

giải quyết nhƣ những nhiệm vụ thứ yếu. Đó là biểu hiện của quan điểm cho rằng

PNTP chỉ là một bộ phận của chống tội phạm.

Thực chất những quan điểm đặt quan niệm phòng ngừa lên trên đã bao hàm

cả khái niệm chống tội phạm và coi phòng ngừa chỉ là bộ phận của chống tội phạm,

đã có sự nhầm lẫn giữa ý nghĩa và bản chất của vấn đề, giữa thực tiễn và lý luận.

Đây là hai vấn đề có tính năng và tác dụng khác nhau nhƣng lại bổ trợ, tƣơng hổ

cho nhau.Về mặt lý luận ngƣời ta dễ thống nhất với nhau một điểm là PNTP chỉ đạt

đƣợc hiệu quả một khi hiểu rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, chống

tội phạm sẽ giảm bớt gánh nặng khi phòng ngừa mang lại kết quả tích cực. Trong

thực tiễn, do những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội rất đa dạng, phức

tạp và có thể biến đổi cùng với những thay đổi của đời sống xã hội nên nhận thức

73

của con ngƣời nhiều khi không theo kịp. Sự bị động trong PNTP tất yếu sẽ dẫn đến

hậu quả tội phạm xảy ra và lúc đó chống tội phạm cần phải phát huy tác dụng. Kinh

nghiệm đấu tranh với hiện tƣợng tội phạm cho biết trong nhiều trƣờng hợp những

nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội đƣợc phát hiện và tổng kết thông qua

các hoạt động chống tội phạm. Nhƣ vậy, rõ ràng giữa PNTP và chống tội phạm đã

có mối quan hệ hữu cơ, ràng buộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau nhƣ hai bộ phận cấu

thành không thể tách rời của cuộc đấu tranh với hiện tƣợng tội phạm nói chung và

tội phạm của NCTN nói riêng. Mối quan hệ này có thể đƣợc hình thành nhƣ mối

quan hệ giữa “Xây” và “Chống” trong quan điểm tƣ tƣởng Hồ Chí Minh “ Xây và

Chống nhƣ hai bánh xe vững chắc, Chống triệt để đảm bảo cho việc xây thành công,

Xây phát triển mạnh mẽ thì đối tƣợng chống sẽ đƣợc xóa bỏ tận gốc”. Tức là thông

qua “Chống” để hiểu rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội để “Xây” những điều

kiện về Kinh tế, xã hội, môi trƣờng sống tốt đẹp… để lấn át và triệt tiêu những

nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội và qua đó để khỏi phải chống tội phạm.

Một khi đã thừa nhận mối quan hệ tƣơng hỗ giữa hai phƣơng hƣớng cơ bản của

cuộc đấu tranh với hiện tƣợng tội phạm thì có ý nghĩa không đƣợc coi trọng hay

xem nhẹ bất kỳ một phƣơng hƣớng nào những hoàn cảnh và điều kiện xã hội cụ thể

chƣa cho phép. Trong hoàn cảnh hiện nay của xã hội cần tiến hành đồng thời cả hai

phƣơng hƣớng trên là nhiệm vụ có tính nguyên tắc.

Do đặc thù về lịch sử của các tỉnh khu vực TNB, hệ thống lý luận về tội phạm

học và PNTP XHCN, trong đó có hệ thống lý luận về tội phạm học ở các tỉnhTNB

chỉ ra đời sau năm 1975 và tập trung nghiên cứu ở các trƣờng đại học. Có thể thấy

rằng hệ thống lý luận về tội phạm học và PNTP do NCTN thực hiện ở địa bàn các

tỉnh TNB còn khá nghèo nàn, lạc hậu, hạn chế. Các công trình nghiên cứu khoa học,

luận án tiến sĩ, thạc sĩ, giáo trình về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện ở địa

bàn các tỉnh TNB ít đƣợc đề cập và chƣa đƣợc quan tâm, từ đó có rất ít công trình

khoa học, luận án, giáo trình về phòng ngừa THTP đƣợc nghiên cứu tại địa bàn các

tỉnhTNB đƣợc công bố và áp dụng vào thực tế. Hầu hết hệ thống lý luận về phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện đƣợc ứng dụng vào thực tiễn và giảng dạy ở các

74

trƣờng đại học khu vực TNB đều sử dụng kết quả nghiên cứu của thế giới, khu vực

và trong nƣớc. Cụ thể, trong chƣơng tổng quan, tác giả có nhắc tới các công trình

nhƣ: Sách chuyên khảo của GS.TS Đào Trí Úc, GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình

Tội phạm học của GS.TS Võ Khánh Vinh, Đề tài khoa học cấp bộ của của TS Lê

Thế Tuân, Luận án TS Luật học của Lê Tấn Tới và nhiều công trình khoa học khác

có đề cập đến hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Tuy nhiên, điểm

dễ nhận thấy là hầu hết các công trình này chƣa xây dựng đƣợc hệ thống hoàn chỉnh

về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện ở khu vực TNB mà chỉ dừng lại những

vấn đề mang tính tổng quát, áp dụng chung cho cả nƣớc, chƣa có một công trình tài

liệu nào nghiên cứu chuyên sâu về lý luận phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện ở

địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

Thực trạng trên xuất phát từ những lý do đặc thù về lịch sử vùng đất TNB và

những lý do từ tình hình chung của cả nƣớc, đó là Việt Nam chƣa có cơ quan PCTP

nhƣ ở một số nƣớc phát triển mà hoạt động phòng ngừa THTP chủ yếu tập trung ở

các lực lƣợng Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, chính vì vậy, hiện nay khu vực TNB

chƣa có đội ngũ cán bộ chuyên trách cả về nghiên cứu lý luận lẫn hoạt động thực

tiễn. Hiện tại trên địa bàn các tỉnh khu vực TNB có một số trƣờng đại học đã dần

hình thành đội ngũ nghiên cứu, giảng viên phụ trách môn tội phạm học. Tuy nhiên,

hoạt động của đội ngũ này chỉ dừng lại ở hoạt động giảng dạy, hƣớng dẫn sinh viên

viết khóa luận, luận văn… trong khi đó việc nghiên cứu khoa học nhằm xây dựng

hệ thống lý luận về tội phạm học nói chung và phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện chƣa đƣợc chú trọng.

Thực trạng này xuất phát từ nhiều lý do nhƣng lý do quan trọng nhất là Chính

phủ và các Bộ ngành có liên quan cũng nhƣ các cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh

khu vực TNB chƣa có một chủ trƣơng, chính sách sử dụng đội ngũ này trong việc

phát triển hệ thống lý luận PNTP, hoạt động của đội ngũ giáo viên hầu hết là mang

tính tự phát và chỉ diễn ra trong nội bộ của các trƣờng. Hàng năm, Sở khoa học và

công nghệ các tỉnh khu vực TNB đều có triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học

75

các cấp nhƣng thiếu vắng ngƣời chủ nhiệm đề tài là các nhà khoa học, các giảng

viên ở các trƣờng. Thực tế này cho thấy rằng giữa các trƣờng đại học và chính

quyền các tỉnh, thành phố trong khu vực TNB chƣa có sự gắn kết, hợp tác nghiên

cứu, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, của giảng viên chủ yếu là cấp

trƣờng và cấp bộ (theo chiều dọc quản lý) và kết quả của các công trình này chỉ

dừng lại ở việc nghiệm thu chứ không đƣợc áp dụng rộng rãi vào thực tiễn. Ngƣợc

lại, trong quá trình thực tế công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện nói

riêng sẽ xuất hiện nhiều nội dung bất cập, vấn đề mới cần đƣợc tổng kết thực tiễn

bổ sung vào hệ thống lý luận, nhƣng chƣa đƣợc kịp thời, đầy đủ. Từ những yếu tố

trên làm ảnh hƣởng đến việc xây dựng phát triển hệ thống lý luận về phòng ngừa

THTP, trong đó có phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

3.2.2. Thực trạng về cơ sở chính trị - pháp lý

- Những kết quả đạt đƣợc về cơ sở chính trị, pháp lý:

Hiến pháp 2013 đã khắc phục những hạn chế trong các văn bản pháp luật quy

định quyền của NCTNPT, Nhà nƣớc đã chú ý xây dựng những quy định cụ thể, chặt

chẻ và đầy đủ. Biểu hiện tiến bộ là sửa đôi bổ sung những quy định cụ thể, ban hành

một số đạo luật mới cũng nhƣ những văn bản hƣớng dẫn thi hành các đạo luật này.

Cụ thể nhƣ: pháp luật hình sự 2015 tại chƣơng XII từ điều 90 đến điều 107 đã quy

định chính sách hình sự của nhà nƣớc ta đối với NCTNPT. Những điều luật này đã

tạo hành lang pháp lý vững chắc để NCTNPT bảo vệ quyền của mình thể hiện chính

sách nhân đạo của nhà nƣớc ta đối với NCTNPT. NCTNPT có những khác biệt so

với ngƣời đã thành niên phạm tội, thể hiện trong các quy định về hình phạt, các biện

pháp tƣ pháp, quyết định hình phạt và xoá án tích. Bộ luật TTHS 2015 và các quy

định của luật trẻ em 2016 cũng đề ra nguyên tắc trong hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử đối với NCTNPT theo hƣớng ngày càng thân thiện, bảo vệ và thực thi đầy đủ

quyền của NCTNPT. Có thể đánh giá chung thực trạng pháp lý đối với NCTNPT đã

thể hiện tính tích cực, sự tƣơng thích của pháp luật Việt Nam về quyền của

NCTNPT. Nội dung của các văn bản pháp luật hiện nay tiếp tục kế thừa các quy

76

định trƣớc đó, quyền của NCTNPT ngày càng đƣợc quy định cụ thể rõ ràng hơn.

Đây là hành lang pháp lý vững chắc để NCTNPT bảo vệ quyền lợi cho mình, là

công cụ hữu hiệu để các chủ thể có thẩm quyền thực hiện các hoạt động phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện đƣợc chính xác, hiệu quả, đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo vệ

quyền của NCTNPT phù hợp với pháp luật quốc tế liên quan đến vấ đề này.

Trên cơ sở những chủ trƣơng, nghị quyết, văn bản pháp luật của Ban Chấp

hành Trung ƣơng, Quốc hội, Chính phủ nhƣ trên thì trong từng giai đoạn Tỉnh ủy,

HĐND, UBND các tỉnh khu vực TNB đều có thể chế thành nghị quyết, chƣơng

trình hành động, kế hoạch để triển khai thực hiện đến cấp cơ sở. Đó chính là cơ sở

chính trị, pháp lý cho hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn

các tỉnh Tây Nam Bộ.

- Những hạn chế về cơ sở chính trị, pháp lý của hoạt động phòng THTP do

NCTN thực hiện.

Thứ nhất, Các tỉnh khu vực TNB có những đặc thù riêng nên có những vấn đề

khi đƣa vào thực tiễn áp dụng cho từng địa phƣơng ở khu vực TNB thì Đảng, Chính

quyền các tỉnh TNB chƣa chủ động sáng tạo trong việc đề ra các chủ trƣơng, kế

hoạch và những quy định mang tính đặc thù riêng biệt của địa phƣơng mình, hầu hết

các nghị quyết, chƣơng trình, kế hoạch đều đƣợc xây dựng trên cơ sở cấp Trung

ƣơng chỉ đạo.

Thứ hai, các đề án, chƣơng trình, kế hoạch về phòng ngừa tội phạm nói chung,

tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng khi xây dựng có nêu đƣợc quan điểm chỉ

đạo, mục tiêu, yêu cầu cần đạt đƣợc và phân công trách nhiệm cụ thể cho các

ngành, các cấp. Tuy nhiên, chƣa có những quy định trong công tác phối hợp giữa

các ngành, các cấp từ đó khi triển khai thực hiện sẽ dẫn đến sự trông chờ vào sự chỉ

đạo của cấp trên, đùn đẩy trách nhiệm, không quan tâm đúng mức đối với công tác

phòng chống tội phạm hay một số cấp ủy, lãnh đạo nhận thức chƣa đầy đủ về trách

77

nhiệm của mình trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Thứ ba, do NCTN phạm tội là chủ thể đặc biệt của tội phạm, có đặc điểm về

tâm, sinh lý, sự hiểu biết, chính sách hình sự,… khác với tội phạm là ngƣời đã thành

niên các quy định pháp luật đều phù hợp với Công ƣớc Liên hiệp quốc về quyền trẻ

em. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam chƣa có những quy định cụ thể về cơ

cấu tổ chức bộ máy các cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành án hình sự chuyên trách

cũng nhƣ quy trình điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm là ngƣời chƣa

thành niên.

3.2.3. Thực trạng về lực lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ phòng ngừa tội

phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

Lực lƣợng phòng ngừa tình hình tội phạm do NCTN thực hiện bao gồm nhiều

chủ thể nhƣ đã nêu trong phần lý luận ở chƣơng 2 của luận án. Tuy nhiên, trong phạm

vi luận án này NCS chỉ đề cập đến những thực trạng, kết quả tổ chức thực hiện và

những giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa THTP của các chủ thể trực tiếp tổ chức thực

hiện công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện tại địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

- Những kết quả đạt đƣợc về tổ chức đội ngũ phòng ngừa tội phạm:

Trong công tác tổ chức lực lƣợng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật

hiện nay, theo thống kê của Sở Tƣ pháp các tỉnh khu vực TNB, toàn khu vực có

1052 báo cáo viên cấp tỉnh, 2982 báo cáo viên cấp huyện, 14.220 báo cáo viên cấp

cơ sở và khoảng 16.474 tuyên truyền viên, 1040 cộng tác viên trợ giúp pháp lý,

17.987 tổ hòa giải với 87.532 hòa giải viên ở cơ sở. Đây là lực lƣợng quan trọng

trong hoạt động tuyên truyền pháp luật về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện

trong khu vực Tây Nam Bộ [bảng 3.14].

Trong lực lƣợng CAND mà cụ thể là lực lƣợng cảnh sát điều tra tội phạm về

trật tự xã hội trực tiếp làm nhiệm vụ PCTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh

khu vực TNB, bao gồm lực lƣợng của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã

hội các tỉnh, thành phố, đội cảnh sát điều tra về trật tự xã hội Công an các huyện,

78

thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, bộ phận cán bộ chiến sĩ phụ trách trật tự xã hội

Công an phƣờng, xã, thị trấn hiện có 3.099 ngƣời về trình độ nghiệp vụ: sơ cấp 87

ngƣời chiếm tỉ lệ 2,80%, trung cấp 1.705 ngƣời chiếm 55%, Đại học 1.289 ngƣời

chiếm 41,59%; về trình độ lý luận chính trị: sơ cấp 1.670 ngƣời chiếm 53,88%,

trung cấp 1.286 ngƣời chiếm 41,49%, cao cấp 183 ngƣời chiếm 5,9%; về chức

danh: trinh sát viên 2.067 ngƣời chiếm tỉ lệ 66,69%, Điều tra viên 946 ngƣời chiếm

tỉ lệ 20,52%, lực lƣợng tham mƣu, hậu cần 86 ngƣời chiếm tỉ lệ 2,77% [Bảng 3.15].

Về đội ngũ kiểm sát viên hiện nay các tỉnh TNB có 3.361 kiểm sát viên sơ cấp,

1.655 kiểm sát viên trung cấp. Phân bố ở cấp huyện, quận 1.312 ngƣời, cấp tỉnh,

thành phố 343 ngƣời. về trình độ Thạc sĩ 37, còn lại là cử nhân. Lực lƣợng này

ngoài việc đƣợc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, hàng năm đều có tập huấn ngắn

hạn về kĩ năng của kiểm sát viên [Bảng 3.16].

Về đội ngũ thẩm phán trong tổng số 2.974 biên chế của ngành TAND của các

tỉnh miền TNB có 1.163 thẩm phán chiếm 41,6% biên chế. Trong đó, có 20 thẩm

phán cao cấp chiếm 1,7% trong tổng số thẩm phán, 270 thẩm phán trung cấp chiếm

23,2% trong tổng số thẩm phán, 473 thẩm phán sơ cấp chiếm78,77% trong tổng số

thẩm phán. Về trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao cấp 463, trung cấp 612, sơ cấp

674; ngoại ngữ cử nhân 11, có chứng chỉ 2.282; trình độ tin học cử nhân 47, có

chứng chỉ 2.413 [Bảng 3.17].

Bên cạnh đó, tham gia công tác xét xử còn có 10.680 Hội thẩm nhân dân,

trong đó có 930 Hội thẩm của TAND các tỉnh TNB, 9.750 Hội thẩm của TAND cấp

quận, huyện. Có 322 tổ chức đăng kí hành nghề Luật sƣ với 474 Luật sƣ (465 thuộc

đoàn Luật sƣ trong nƣớc và 9 Luật sƣ thuộc tổ chức hành nghề Luật sƣ nƣớc ngoài).

Hầu hết các hội thẩm nhân dân, Luật sƣ đều có trình độ từ cử nhân trở lên. Hàng

năm lực lƣợng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Luật sƣ đều đƣợc tập huấn về

những thay đổi, quy định mới của các văn bản pháp luật hoặc các hƣớng dẫn của

TAND tối cao về đƣờng lối xét xử các vụ án, trong đó có xét xử về các vụ án do

79

NCTN gây ra.

- Những hạn chế trong đội ngũ phòng ngừa tội phạm:

Thứ nhất: Trình độ chuyên môn của đội ngũ báo cáo viên pháp luật không

đồng đều, lực lƣợng báo cáo viên có trình độ cao từ đại học trở lên chủ yếu tập

trung ở nhóm báo cáo viên pháp luật của tỉnh, thành phố. Trong khi đó thì lực lƣợng

báo cáo viên cấp cơ sở, tuyên truyền viên trong các cơ quan ban ngành đóng vai trò

rất quan trọng trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật ở cơ sở.

Thứ hai: So với đặc điểm địa lý, dân cƣ, số vụ phạm tội xảy ra thì lực lƣợng

phát hiện và xử lý tội phạm còn thiếu so với yêu cầu công tác từ đó dẫn đến sự “quá

tải” gây ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động phòng ngừa của các chủ thể này trên địa

bàn các tỉnh TNB. Chế độ chính sách đặc thù cho lực lƣợng tham gia tố tụng còn

thấp trong khi đó thì áp lực công việc trách nhiệm đặt ra cho lực lƣợng này rất cao

vì vậy dẫn đến tâm lý “e ngại” không mạnh dạn đấu tranh với tội phạm, tuân thủ

pháp luật một cách cứng nhắc dẫn đến hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, xử

lý tội phạm nói chung và tội phạm CTN nói riêng chƣa cao.

Thứ ba: Lực lƣợng cộng tác viên trợ giúp pháp lý ít tham gia giải quyết vụ

việc, tham gia trợ giúp pháp lý trên lĩnh vực tố tụng không nhiều, nên khi tham gia

còn lúng túng thiếu tính chủ động, chƣa thực hiện đầy đủ chức năng trợ giúp pháp

lý cho ngƣời phạm tội. Hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý chƣa phù hợp, việc xã hội

hóa hoạt động trợ giúp pháp lý còn nhiều hạn chế.

3.2.4. Thực trạng triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình

tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ

3.2.4.1. Thực trạng triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa xã hội

* Các biện pháp kinh tế - xã hội

- Những kết quả đạt đƣợc trong việc áp dụng các biện pháp kinh tế - xã hội

Nhận thức đƣợc một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới THTP nói

80

chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng là các vấn đề thuộc về kinh tế - xã

hội. Trong những năm qua, Chính phủ, Đảng bộ và chính quyền các tỉnh TNB đã

tập trung nhiều giải pháp phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện điều

kiện vật chất, tinh thần cho ngƣời dân. Cụ thể là thực hiện Nghị quyết số 21/NQ-

TW ngày 20/01/2003 của Bộ Chính trị ban hành về phƣơng hƣớng, nhiệm vụ, giải

pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo An ninh quốc phòng vùng đồng bằng

sông Cửu Long giai đoạn 2001 – 2010; Quyết định số 2270/QĐ-TTg năm 2013 của

Thủ tƣớng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch thực hiện kết luận số 28-KL/TW về

phƣơng hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo An ninh

quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020. Qua triển khai thực

hiện đến nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có những bƣớc phát triển khá toàn

diện, đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển chung của cả nƣớc. Trong đó có

những điểm nổi bật nhƣ: Vùng duy trì tốc độ tăng trƣởng cao liên tục so với bình

quân cả nƣớc, đƣợc đầu tƣ nhiều từ nguồn nhân lực Trung ƣơng, nhiều cơ chế chính

sách đúng đắn, môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh đƣợc cải thiện đã tạo điều kiện cho

sản xuất phát triển, đặc biệt là các ngành sản xuất gắn với tiềm năng thế mạnh của

vùng. GDP từ 2006 – 2015 đạt 155.116 tỉ đồng, tăng bình quân hàng năm

13,01%.Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hƣớng tích cực, hiện đại, tỷ trọng ngành

công nghiệp dịch vụ tăng và giảm dần tỷ trọng ngành Nông nghiệp. Đến nay, cơ cấu

các ngành kinh tế trong GDP của vùng Nông, Lâm, Ngƣ nghiệp 39%, Công nghiệp

– xây dựng 26,3%, Dịch vụ 35%. Vùng đã thu hút đƣợc nhiều nguồn lực đầu tƣ

trong giai đoạn 2010 – 2015 toàn vùng đã huy động tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội đạt

627 nghìn tỉ đồng chiếm 40,5% so GDP.Cùng với phát triển kinh tế các địa phƣơng

trong vùng đều hết sức quan tâm đến văn hóa, xã hội. Các lĩnh vực văn hóa – xã hội

có bƣớc tiến bộ. Tỉ lệ hộ nghèo trong toàn khu vực 6% giảm 7,45% so 2010, giải

quyết việc làm bình quân 375.000 lao động/năm, tỉ lệ dân nông thôn đƣợc cấp nƣớc

sạch trên 87%, hỗ trợ cất 88.665 căn nhà tình thƣơng cho hộ nghèo, đào tạo dạy

nghề cho trên 400.000 lao động, tạo việc làm 371.000 ngƣời, hỗ trợ cho vay vốn sản

81

xuất nông nghiệp trên 400 tỉ đồng, xây dựng các cụm tuyến dân cƣ vùng lũ ổn định

chỗ ở cho 138.000 hộ, trong đó có 27.000 hộ nghèo, cấp thẻ bảo hiểm y tế, tạo điền

kiện cho 600.000 hộ nghèo đƣợc chăm sóc sức khỏe [163, tr.4].

- Những hạn chế trong việc áp dụng các biện pháp kinh tế - xã hội

Thứ nhất: Tình trạng lao động nhàn rỗi, thất nghiệp ở khu vực nông thôn còn

khá nhiều. Thu nhập bình quân đầu ngƣời còn thấp so với mặt bằng chung cả nƣớc,

đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đây cũng là nguyên nhân điều kiện làm

phát sinh tình hình tội phạm. Theo kết quả điều tra xã hội học [Phiếu 3.1] thì tỉ lệ

NCTN vi phạm pháp luật chiếm 68,97% là con em trong những gia đình nghèo khổ,

thiếu thốn. Do điều kiện gia đình nghèo, kinh tế khó khăn nên cha mẹ và những

ngƣời thân trong gia đình chỉ lo mƣu sinh, đi làm ăn xa, ít quan tâm đến giáo dục

con cái từ đó các em dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật dẫn đến

phạm tội.

Thứ hai: Do tác động từ mặt trái của cơ chế thị trƣờng, quá trình đô thị hóa

diễn ra nhanh chóng dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo khoảng cách ngày càng lớn,

số hộ nông dân mất đất sản xuất ngày càng nhiều, một lƣợng lớn dân cƣ, đặc biệt là

dân cƣ trong độ tuổi lao động không có việc làm, chƣa thích nghi đƣợc với môi

trƣờng làm việc công nghiệp, môi trƣờng vừa đƣợc đô thị hóa. Có thể thẳng thắn

nhìn nhận rằng trong thời gian qua khi thực hiện cơ chế chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

Chính phủ, Đảng bộ và chính quyền các tỉnh trong khu vực chƣa có những đối sách

hữu hiệu mang tầm chiến lƣợc để chuẩn bị cho các quá trình này, nhất là định

hƣớng đào tạo nghề, giải quyết việc làm trong môi trƣờng mới. Hậu quả dẫn đến

một số ngƣời dân bị phá sản, thất nghiệp, sa vào các tệ nạn xã hội và tội phạm.

Thứ ba: Trong những năm qua, khu vực TNB chịu ảnh hƣởng nặng nề của tình

hình biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, dịch bệnh, gây thiệt hại

nặng nề đến lao động sản xuất của ngƣời dân. Mặt khác, giá cả thị trƣờng biến động

bất thƣờng, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong khu vực còn yếu so với thị

82

trƣờng trong nƣớc và thế giới. Những yếu tố đó đã làm cho đời sống ngƣời dân gặp

khó khăn, một số hộ nông dân bị “thất trắng”, phá sản, không có khả năng trả nợ

ngân hàng,… Trƣớc thực trạng nhƣ trên nhƣng cấp ủy Đảng, chính quyền trong khu

vực chƣa có những chính sách hữu hiệu, kịp thời nhƣ: tìm thị trƣờng đầu ra cho sản

phẩm, hỗ trợ khoa học kỹ thuật cho nông dân, hỗ trợ vốn, khoanh nợ, giãn nợ cho

những hộ sản xuất bị thiệt hại hay triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm trong

nông nghiệp,… có thể nói rằng những chính sách hỗ trợ cho ngƣời dân trong thời

gian qua chƣa kịp thời, còn thấp so với mức thiệt hại thực tế, hiệu quả mang lại cho

việc ổn định sản xuất, nâng cao đời sống, vật chất tinh thần cho ngƣời dân chỉ mang

tính giải pháp tình thế trƣớc mắt, chƣa mang tầm chiến lƣợc ổn định lâu dài.

* Các biện pháp văn hóa, giáo dục

- Những kết quả đạt đƣợc trong việc áp dụng các biện pháp văn hóa, giáo dục

Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp khu vực TNB cũng rất chú trọng công tác

đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ văn hóa, cải thiện đời sống

tinh thần cho ngƣời dân. Ngân sách đầu tƣ cho giáo dục, đào tạo ngày càng tăng, cơ

sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu dạy và học từng bƣớc hiện đại, đội

ngũ giáo viên, cán bộ công nhân, viên chức ngành giáo dục về cơ bản đã đƣợc

chuẩn hóa, phƣơng pháp dạy học đƣợc đổi mới, việc giáo dục truyền thống, lý

tƣởng cách mạng, giáo dục về nhân cách đạo đức, lối sống đƣợc chú trọng hơn,

công tác xã hội hóa giáo dục - đào tạo đạt đƣợc kết quả tích cực. Phát huy đƣợc vai

trò của toàn xã hội, gắn kết đƣợc mối quan hệ giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội

trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Chất lƣợng giáo dục - đào tạo đƣợc nâng cao, là cơ sở

để đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo ở các tỉnhkhu vực Tây Nam Bộ.

Trong tổng thể các biện pháp về văn hóa, giáo dục nhằm phòng ngừa THTP do

NCTN thực hiện thì các tỉnh khu vực TNB chú trọng các biện pháp tuyên truyền

giáo dục về tác hại của các tệ nạn xã hội, tuyên truyền về pháp luật PCTP, an toàn

giao thông. Thông qua các biện pháp tuyên truyền nhƣ sinh hoạt dƣới cờ, tổ chức

83

hội nghị, tọa đàm, mít tinh, cổ động, tờ rơi, pa nô áp phích, về nguồn, hội trại…

Hàng năm các tỉnh TNB đều có xây dựng kế hoạch hƣởng ứng ngày toàn dân tham

gia PCTP, ngày toàn dân tham gia phòng chống ma túy, phát 200.000 tờ rơi về

phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, tổ chức 525 hội thi về phòng chống tội phạm,

kiến thức pháp luật, treo trên 130.000 băng rol khẩu hiệu, xây dựng 8.450 cụm

panô, xây dựng 676 chuyên mục, viết 55.000 tin bài để tuyên truyền trên các

phƣơng tiện thông tin đại chúng về các nội dung PCTP, trong đó có tội phạm do

NCTN thực hiện [105].

Về công tác tuyên truyền tố giác tội phạm, nhiều hình thức vận động quần

chúng nhân dân đã đƣợc triển khai áp dụng. Nhiều mô hình PCTP đƣợc xây dựng

và phát huy hiệu quả, điển hình nhƣ: mô hình quản lý giáo dục trẻ em làm trái pháp

luật tại cộng đồng dân cƣ; mô hình câu lạc bộ PCTP; mô hình tự quản trong khu

nhà trọ, tự quản trong nghiệp đoàn xe honda ôm; mô hình cổng an ninh trật tự,… từ

những mô hình trên đã từng bƣớc nâng cao ý thức của quần chúng trong công tác

đấu tranh PCTP, tệ nạn xã hội nói chung, trong đó có tội phạm do NCTN gây ra.

Công tác giáo dục - đào tạo nâng cao trình độ dân trí là một trong những yếu tố

giữ vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm do

NCTN thực hiện nói riêng. Các tỉnh khu vực TNB đã đạt đƣợc những thành tựu

quan trọng về giáo dục – đào tạo; đến nay đã hoàn thành chƣơng trình phổ cập giáo

dục mầm non, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trƣờng đạt 99% đối với bậc tiểu học,

85% bậc trung học cơ sở và 60% bậc trung học phổ thông [163, tr.4].

- Những hạn chế trong việc áp dụng các biện pháp văn hóa - giáo dục

Thứ nhất: Hoạt động tuyên truyền pháp luật về phòng chống tội phạm, tệ nạn

xã hội chƣa đƣợc thƣờng xuyên, chỉ mang tính "thời vụ", chỉ thực hiện cao điểm khi

có sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, cho nên thiếu sự chủ động phối hợp;

không có kế hoạch chuẩn bị kinh phí, phƣơng tiện, lực lƣợng dẫn đến chất lƣợng và

84

hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về PCTP chƣa cao.

Thứ hai: Công tác giáo dục PCTP, tệ nạn xã hội trong hệ thống giáo dục phổ

thông ở tỉnh khu vực TNB chƣa đƣợc chú trọng. Chƣa có chƣơng trình riêng mà chỉ

lồng ghép vào môn giáo dục công dân và chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền giáo dục

về an toàn giao thông, phòng chống ma túy, bạo lực học đƣờng chứ chƣa đi sâu vào

lĩnh vực PCTP do NCTN thực hiện. Bên cạnh đó, chất lƣợng giáo viên giảng dạy

pháp luật tại các trƣờng chƣa đạt yêu cầu, đại đa số chƣa đƣợc đào tạo chuyên

ngành về pháp luật, kiến thức pháp luật còn hạn chế, hiệu quả truyền đạt chƣa cao.

Thứ ba: Các chƣơng trình tuyên truyền pháp luật nói chung, trong đó có tuyên

truyền về PCTP do NCTN thực hiện phần lớn mang tính chung chung, phổ biến

rộng rãi vào mọi thành phần đối tƣợng trong xã hội, chƣa có những chƣơng trình

tập trung hƣớng vào những đối tƣợng cá biệt đối tƣợng có nguy cơ cao thực hiện

hành vi phạm tội.

3.2.4.2. Thực trạng hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ

- Những kết quả đạt được trong hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ

Song song với biện pháp phòng ngừa, tuyên truyền, vận động, giáo dục là phải

tăng cƣờng công tác đấu tranh, xử lý triệt để tội phạm do NCTN gây ra. Trong đó

có các biện pháp đƣợc chú trọng đó là:

Lực lƣợng Công an các tỉnh TNB đã tiến hành điều tra và rà soát 219 địa bàn,

tuyến trọng điểm phức tạp, xác minh trên 50.000 lƣợt đối tƣợng hình sự. Qua đó đã

phân loại xử lý bằng các hình thức đƣa cơ sở giáo dục, trƣờng giáo dƣỡng, giáo dục

tại xã, phƣờng, thị trấn trên 30.000 đối tƣợng, đƣa vào diện quản lý 42.670 đối

tƣợng,… Qua công tác điều tra, rà soát quản lý đối tƣợng đã nắm chắc đƣợc tình

hình, diễn biến hoạt động của tội phạm, phát hiện tội phạm, đồng thời tìm ra những

nguyên nhân, điều kiện dẫn đến gia tăng THTP trong đó có tội phạm CTN, đồng

thời khắc phục những sơ hở thiếu sót trong công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu

85

tranh với tội phạm trong đó có tội phạm chƣa thành niên.

Trong 12 năm (2006 - 2017), lực lƣợng Công an tỉnh khu vực TNB đã xác lập

578 chuyên án trinh sát và chuyên án truy xét đấu tranh triệt phá 2.745 băng nhóm

tội phạm hình sự, bắt xử lý 15.172 đối tƣợng [Bảng 3.13]. Các chuyên án đều đƣợc

xác lập đấu tranh với các loại tội phạm hình sự nói chung, không xác lập chuyên án

đấu tranh với tội phạm do NCTN gây ra. Song, có nhiều chuyên án có các đối tƣợng

là NCTN tham gia phạm tội cùng với ngƣời thành niên. Kết quả đấu tranh chuyên

án đã có những tác động nhất định trong phòng ngừa, răn đe tội phạm hình sự, trong

đó có tội phạm do NCTN gây ra trên địa bàn các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ.

Công tác xử lý hành chính đã tiến hành lập hồ sơ đƣa vào cơ sở giáo dục,

trƣờng giáo dƣỡng (theo Nghị định số 75/2003/NĐ.CP ngày 27/6/2003 của Chính

phủ và Nghị định số 142/2003/NĐ.CP ngày 24/11/2003 của Chính phủ nay thay thế

bằng Nghị định số 02/2014/NĐ.CP ngày 10/01/2014 của Chính phủ quy định về chế

độ áp dụng thi hành biện pháp xử lý hành chính đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng và cơ

sở giáo dục bắt buộc). Kết quả trong giai đoạn (2006 – 2017) đã lập hồ sơ đƣa vào

cơ sở giáo dục 983 đối tƣợng và đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng 367 NCTN có hành vi

vi phạm pháp luật nhƣng chƣa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự [Bảng 3.13].

Đồng thời thực hiện về Nghị định 56/2006/NĐ.CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ

về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2003/NĐ.CP đã tiến hành lập

hồ sơ giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn 11.551 đối tƣợng có hành vi vi phạm pháp

luật tại cơ sở. Có thể khẳng định công tác đƣa cơ sở giáo dục, trƣờng giáo dƣỡng và

quản lý giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn đã phát huy đƣợc hiệu quả cao trong phòng

ngừa phát hiện tội phạm nói chung, tội phạm do NCTN gây ra.

Hàng năm , lực lƣợng các tỉnh khu vực TNB thƣờng xuyên mở các đợt cao

điểm tấn công trấn áp toàn diện các loại tội phạm, tệ nạn xã hội trong đó có tội

phạm do NCTN thực hiện. Mỗi năm thực hiện từ 3 đến 5 đợt với sự chỉ đạo của Bộ

Công an, ngoài ra trong từng thời điểm và thực tế diễn biến THTP, Công an các tỉnh

khu vực TNB còn chủ động mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm "nổi

86

lên" ở địa phƣơng. Theo thống kê của lực lƣợng Công an các tỉnh, thành phố trong

khu vực thì từ 2006 – 2017 đã tiến hành điều tra 45.499 vụ án hình sự, khởi tố, bắt giữ,

xử lý 64.245 đối tƣợng, triệt xóa 17.684 tụ điểm cờ bạc, mại dâm, tiêm chích ma túy

với 78.772 đối tƣợng, truy bắt vận động đầu thú 4.822 đối tƣợng truy nã [34, tr. 12].

- Những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ

Thứ nhất: Quá trình phối hợp giữa các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử còn

nhiều lúng túng. Mối quan hệ giữa lực lƣợng điều tra tội phạm với các lực lƣợng

khác chƣa phát huy đƣợc tác dụng triệt để trong hoạt động điều tra các vụ án do

NCTN gây ra. Một số trƣờng hợp việc trao đổi thông tin, triển khai lực lƣợng xuống

hiện trƣờng còn chậm, công tác khám nghiệm hiện trƣờng chƣa đƣợc thực hiện đầy

đủ, bỏ sót những tình tiết, tang vật, dấu vết tội phạm. Đây là nguyên nhân dẫn đến

công tác điều tra gặp bế tắc, không xác định đƣợc tội phạm.

Thứ hai: Công tác điều tra phát hiện đƣa đối tƣợng vào diện quản lý nhất là đối

tƣợng CTN còn mang tính hình thức, thiếu chặt chẽ, còn bỏ sót lọt đối tƣợng. Việc

phân công, phân cấp trong quản lý đối tƣợng của một số đơn vị, địa phƣơng chƣa

hợp lý, vẫn giao cho lực lƣợng cảnh sát khu vực, Công an phụ trách xã về ANTT là

chủ yếu, việc vận dụng biện pháp nghiệp vụ trong công tác phát hiện và quản lý đối

tƣợng chƣa đƣợc chú trọng chủ yếu là sử dụng biện pháp hành chính công khai vì

vậy công tác quản lý đối tƣợng hiệu quả đạt không cao, đặc biệt là công tác phát

hiện, quản lý đối tƣợng là ngƣời chƣa thành niên.

Thứ ba: Công tác giáo dục đối tƣợng tại xã, phƣờng, thị trấn còn nhiều hạn

chế. Mặc dù có sự phân công, phân cấp rõ ràng nhƣng các ban ngành, đoàn thể ở cơ

sở chƣa quan tâm đúng mức, chƣa phát huy hết vị trí vai trò của ngành mình khi

đƣợc phân công quản lý giáo dục đối tƣợng, thực tế chủ công trong công tác này

vẫn là lực lƣợng Công an cơ sở. Bên cạnh đó, thì Nghị định số 111/2003/NĐ.CP

ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành

chính giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn thay thế cho Nghị định 163/2003/NĐ.CP

87

ngày 19/12/2003 của Chính phủ bƣớc đầu đi vào triển khai thực hiện còn nhiều sơ

hở, bất cập dẫn đến trong một thời gian dài các địa phƣơng gặp khó khăn trong việc

lập hồ sơ giáo dục đối tƣợng tại xã, phƣờng, thị trấn kéo theo việc đƣa cơ sở giáo

dục, trƣờng giáo dƣỡng cũng rất hạn chế. Trong thời gian khi chƣa đƣợc sửa đổi, bổ

sung bằng Nghị định 56/2006/NĐ.CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định 111/2003/NĐ.CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ về

chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn.

Thứ tư: Phong trào toàn dân tham gia PCTP đã đƣợc phát triển rộng khắp

mang lại những hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động,

hƣớng dẫn còn nhiều hạn chế, thiếu tính thƣờng xuyên, phát triển không đồng đều

giữa các địa bàn. Một số mô hình PCTP còn mang tính hình thức "rập khuôn" chƣa

phù hợp với đặc điểm và tình hình địa bàn nên hiệu quả mang lại không cao. Phong

trào tố giác tội phạm trong nhân dân còn hạn chế, lực lƣợng quần chúng và mạng

lƣới cộng tác viên PCTP của lực lƣợng Công an còn mỏng chƣa đáp ứng đƣợc yêu

cầu nhiệm vụ đặt ra dẫn đến việc quản lý giám sát địa bàn, đối tƣợng còn lỏng lẽo

có nơi còn bỏ trống địa bàn.

Thứ năm: Việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác phát hiện, xử lý tội

phạm do NCTN thực hiện chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, các báo cáo sơ, tổng kết

còn rất sơ sài nhiều báo cáo chỉ mang tính chất thống kê chƣa đi sâu phân tích

nguyên nhân, điều kiện của THTP cũng nhƣ những bài học kinh nghiệm rút ra trong

công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh tội phạm nói chung trong đó có tội phạm

do NCTN thực hiện.

3.2.5. Thực trạng cơ chế phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa tình hình

tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ

- Kết quả đạt đƣợc trong cơ chế phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện

+ Phối hợp trong hoạt động tuyên truyền

Trong thời gian qua, Tỉnh ủy, HĐND, UBND các tỉnh khu vực TNB đã thƣờng

xuyên chỉ đạo cho các cơ quan chuyên trách nhƣ: Công an, Sở Tƣ pháp, Sở Y tế, Sở

88

Giáo dục và Đào tạo, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ,

Hội Cựu chiến binh… xây dựng các chƣơng trình giáo dục, tuyên truyền PNTP, tệ

nạn xã hội. Điển hình của hoạt động này là thành lập Hội đồng phổ biến giáo dục

pháp luật các cấp do ngành Tƣ pháp làm cơ quan thƣờng trực. Có thể thấy rằng hội

đồng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật chính là một mô hình điển hình cho

công tác PNTP bằng biện pháp tuyên truyền vận động cho quần chúng nhân dân và

toàn xã hội.

Tỉnh ủy, Thành ủy và HĐND, UBND các tỉnh TNB còn ra nhiều chỉ thị, nghị

quyết, kế hoạch chỉ đạo cho các ban ngành, đoàn thể (Công an, Mặt trận Tổ quốc,

Sở Y tế, Sở Lao động và thƣơng binh xã hội, Sở Giáo dục, Hội Liên hiệp Phụ nữ,

Tỉnh đoàn, Hội Cựu chiến binh,…) “ký kết” kế hoạch liên tịch về phòng chống các

loại tội phạm trong đó có tội phạm do NCTN gây ra. Qua đó, từng ban ngành,

đoàn thể theo chức năng, nhiệm vụ chuyên môn đã xây dựng kế hoạch hoạt động

PNTP do NCTN gây ra bằng các việc làm cụ thể nhƣ: Tập huấn cho gần 7000

lƣợt cán bộ chiến sĩ lực lƣợng Công an làm công tác tuyên truyền, phát động

phong trào phòng ngừa tội phạm, phát hành trên 300.000 tờ rơi về phƣơng thức

thủ đoạn của tội phạm do NCTN gây ra và các biện pháp phòng, chống. Sở giáo

dục chỉ đạo cho Ban giám hiệu các trƣờng thông qua giảng dạy tăng cƣờng giáo

dục về đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, tuyên tuyền về PCTP, tệ nạn xã

hội; Sở Y tế chỉ đạo tiếp nhận điều trị y học và tâm lý cho NCTN nghiện ma

túy; Mặt trận Tổ quốc thông qua phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa khu dân cƣ, nếp sống văn minh nơi công cộng, phong trào toàn dân

chung sức xây dựng nông thôn mới để phát động và gửi thƣ ngỏ đến từng hộ gia

đình cho cam kết không vi phạm pháp luật, tích cực tham gia PCTP, tệ nạn xã

hội. Đài phát thanh truyền hình tỉnh, thành phố, đài Trung ƣơng trong khu vực và

các đài truyền thanh quận, huyện, thị xã đã dành nhiều thời lƣợng phát sóng

tuyên truyền về phòng ngừa tội phạm do NCTN gây ra.

Trong đấu tranh, phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện, lực lƣợng Công an

đóng vai trò rất quan trọng. Thời gian qua Công an các tỉnh khu vực TNB đã tranh

89

thủ sự ủng hộ của các ban ngành, đoàn thể và cấp ủy, chính quyền trong hoạt động

PNTP khi chúng mới phát sinh. Trong đó, nổi bật là việc phân loại đối tƣợng theo

giới, độ tuổi để bàn giao cho các ban ngành quản lý, giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện

đào tạo nghề, giải quyết việc làm… Qua đó, huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của

cả hệ thống chính trị, giảm bớt gánh nặng cho lực lƣợng Công an trong việc quản lý

giáo dục đối tƣợng. Ngoài ra, lực lƣợng Công an các cấp từ tỉnh đến cơ sở với vai

trò là thƣờng trực Ban Chỉ đạo PCTP, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn

dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã làm tốt công tác tham mƣu cho cấp ủy Đảng, chính

quyền các cấp trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ PCTP ở địa phƣơng đạt hiệu quả.

Đến nay trong toàn khu vực TNB có trên 95% ấp, khóm, khu dân cƣ, cơ quan doanh

nghiệp, trƣờng học và cơ sở thờ tự đạt chuẩn an toàn về an ninh, trật tự.

Các đoàn thể Hội LHPN, Đoàn Thanh niên Lực lƣợng Công an

UBND huyện

UBND cấp xã Tƣ pháp, Thông tin - truyền thông, Văn Hóa - thể thao và du lịch, Lao động thƣơng binh - xã hội

Sơ đồ 3.1.Sự phối hợp của các chủ thể trong công tác tuyên truyền phòng

90

chống tội phạm.

Ngoài ra, lực lƣợng Công an các tỉnh trong khu vực đã chỉ đạo phối hợp xây

dựng quy chế phối hợp PCTP giữa những địa bàn giáp giới liên tỉnh, liên huyện,

liên xã qua đó tạo điều kiện thuận lợi trong công tác PCTP nói chung, tội phạm do

NCTN gây ra nói riêng. Loại bỏ những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý địa

bàn, đối tƣợng ở những khu vực giáp ranh về địa giới hành chính.

+ Phối hợp trong hoạt động phát hiện, xử lý tội phạm NCTN

Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ

quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh thƣờng xuyên có những cuộc họp liên ngành. Nội dung chính là nhằm

tháo gỡ những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình tố tụng liên quan đến các vụ

án, thống nhất quan điểm đƣờng lối xử lý đối với những vụ án phức tạp, vụ án gây

bức xúc trong xã hội đồng thời đánh giá tìm ra nguyên nhân và điều kiện làm phát

Cơ quan

sinh tội phạm, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc PNTP nói chung và

Thi hành

án hình

Các lực lƣợng khác trong CA nhƣ trinh sát, QLHC, giao thông… thông qua hoạt động nghiệp vụ phát hiện tội phạm

Tin báo tố giác tội phạm từ quần chúng, các đoàn thể

Cơ quan THAHS

PNTP do NCTN thực hiện nói riêng cho từng chủ thể.

Lực lƣợng điều tra trongCAND

Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra phát hiện dấu hiệu tội phạm

Các ban ngành thông qua các hoạt động chuyên môn phát hiện dấu hiệu tội phạm

VKSND, TAND

91

Sơ đồ 3.2: Sự phối hợp của các chủ thể trong phát hiện xử lý tội phạm.

+ Phối hợp trong công tác giáo dục, cảm hóa đối tượng là NCTN vi phạm

pháp luật tại cơ sở

Lực lƣợng công an cơ sở trong quá trình quản lý địa bàn, đối tƣợng, qua công

tác đấu tranh PCTP, phát hiện những đối tƣợng là NCTN vi phạm pháp luật cần

phải áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phƣờng, Thị trấn thì tiến hành lập hồ sơ

tham mƣu cho UBND ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục đối với đối tƣợng

vi phạm, đồng thời phân công cho một cá nhân hay tập thể một đoàn thể nhƣ: Đoàn

thanh niên, Phụ nữ, Cựu chiến binh…trực tiếp theo dõi quản lý giáo dục, giúp đỡ

cho NCTN vi phạm sửa chữa tiến bộ. Đối với NCTN đi trƣờng giáo dƣỡng, tù tha

về thì sau khi tiếp nhận lực lƣợng Công an sẽ lập hồ sơ tham mƣu cho UBND phân

công các ngành phối hợp với đoàn thể giám sát giúp đở, tạo việc làm, đào tạo nghề,

cho vay vốn… để NCTN sớm ổn định cuộc sống.

Lực lƣợng Công an xã phát hiện lập hồ sơ đề nghị đƣa vào diện UBND cấp xã (Hội đồng tƣ vấn) ra quyết định đƣa đối tƣợng vào diện Đoàn thể, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, gia đình… theo dõi, quản lý giáo dục

Sơ đồ 3.3:Sự phối hợp của các chủ thể trong công tác giáo dục quản lý đối

tƣợng vi phạm pháp luật tại cơ sở.

Các ngành đoàn thể đƣợc phân công theo dõi, giúp đỡ thông qua xây dựng các mô hình tái hòa nhập cộng đồng

UBND cấp xã phân công ban ngành đoàn thể giám sát, giúp đỡ

Công an xã tiếp nhận lập hồ sơ sau khi đối tƣợng đi tù hoặc đi trƣờng giáo dƣỡng về địa phƣơng

Sơ đồ 3.3:Sự phối hợp của các chủ thể trong công tác giúp đỡ đối tƣợng tái

hòa nhập cộng đồng..

92

+ Phối hợp đưa NCTN vào trường giáo dưỡng

Đối với NCTN vi phạm pháp luật, sau khi đƣợc áp dụng biện pháp giáo dục

tại Xã, Phƣờng, Thị trấn mà không sữa chữa tiến bộ, tiếp tục vi phạm thì cơ quan

Công an cấp xã tiến hành lập hồ sơ tham mƣu cho hội đồng tƣ vấn cấp xã đề

nghị đƣa đối tƣợng vào trƣờng giáo dƣỡng, sau đó chuyển hồ sơ cho phòng tƣ

pháp cấp huyện thẩm định tính hợp pháp của hồ sơ, nếu hồ sơ hợp pháp thì

phòng tƣ pháp chuyển cho Công an cấp huyện đề nghị đến tòa án ra quyết định

đƣa NCTN vào trƣờng giáo dƣỡng.

Công an cấp huyện, Công an cấp xã lập hồ sơ

Tƣ pháp cấp huyện thẩm định hồ sơ Công an cấp huyện đề nghị Tòa án ra quyết định đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng

Sơ đồ 3.4:Sự phối hợp giữa các chủ thể trong công tác đƣa đối tƣợng vào

trƣờng giáo dƣỡng.

- Những hạn chế trong cơ chế phối hợp phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện:

Thứ nhất: Trong cơ chế phối hợp tuyên truyền phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện, hoạt động của Hội đồng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật còn

mang tính hình thức trong chỉ đạo và triển khai thực hiện. Chƣa có sự phân công

trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan thành viên với cơ quan thƣờng trực hội đồng.

Hoạt động của hội đồng chủ yếu dựa vào kế hoạch của Sở Tƣ pháp tỉnh, thành phố,

Phòng Tƣ pháp các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các thành viên hội

đồng chủ yếu là hoạt động kiêm nhiệm nên còn nặng về công tác chuyên môn, chƣa

quan tâm hoặc thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng phân công.

Thứ hai: Các chủ thể PNTP nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng

trong hoạt động có ký kết các kế hoạch liên tịch, có quy chế phối hợp hoạt động.

Tuy nhiên, hoạt động này thiếu thƣờng xuyên liên tục, thậm chí có nơi còn mang

tính hành chính, thể hiện trên văn bản chứ chƣa triển khai đi vào thực tiễn, cấp ủy,

93

lãnh đạo một số ban ngành đoàn thể xem công tác PCTP là của các cơ quan chuyên

trách dẫn đến thiếu tinh thần trách nhiệm, không quan tâm đến công tác PCTP. Bên

cạnh đó, cấp ủy, chính quyền các cấp trong công tác chỉ đạo, điều hành lĩnh vực

PCTP cũng chƣa có những quy định chế tài, kiểm điểm trách nhiệm, kỷ luật đối với

những tập thể, cá nhân không hoàn thành tốt nhiệm vụ PCTP theo chức năng đƣợc

phân công phụ trách.

Thứ ba: Trong công tác quản lý giáo dục đối tƣợng tại xã, phƣờng, thị trấn, cơ

quan Công an tiến hành lập hồ sơ và bàn giao lại cho các ban ngành, đoàn thể theo

dõi quản lý giáo dục giúp đỡ đối tƣợng. Tuy nhiên, các ban ngành, đoàn thể thiếu sự

quan tâm thƣờng xuyên, không chủ động trong công tác mời gọi giáo dục đối tƣợng

mà còn trông chờ vào lực lƣợng Công an.

Thứ tư: Việc phối hợp trao đổi thông tin về THTP, phối hợp PCTP giữa các

tỉnh trong và ngoài khu vực TNB, giữa các địa bàn giáp ranh còn nhiều hạn chế,

chƣa có một quy định cụ thể rõ ràng trong cơ chế phối hợp. Việc trao đổi thông tin

về THTP chỉ đƣợc thực hiện trong các cuộc họp định kỳ hàng tháng, quý, sáu tháng,

năm. Những tình hình đột xuất thì các đơn vị địa phƣơng chỉ báo cáo cấp trên, chƣa

chủ động thông báo cho các địa phƣơng trong khu vực giáp ranh.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Chƣơng 3 của luận án tập trung vào việc đánh giá thực trạng PNTP do

NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB và dự báo hoạt động phòng ngừa các

loại tội phạm này trong thời gian tới. Liên quan đến thực trạng phòng ngừa, chúng

tôi đánh giá những kết quả đã đạt đƣợc và những hạn chế về cơ sở lý luận, chính trị,

pháp lý, về tổ chức của lực lƣợng PNTP cơ chế phối hợp trong hoạt động PNTP và

thực trạng triển khai, áp dụng các biện pháp PNTP do NCTN thực hiện. Có thể nhận

định rằng thực tiễn phòng ngừa nhóm tội phạm do NCTN thực hiện tại địa bàn các

tỉnh TNB đã đạt đƣợc kết quả bƣớc đầu, tuy nhiên, hoạt động này cũng tồn tại

những hạn chế nhất định nhƣ đã trình bày trong phần nội dung của chƣơng. Có thể

khái quát những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế trên là:

- Mặc dù cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh khu vực TNB đã có nhiều chủ

94

trƣơng, văn bản chỉ đạo hoạt động PNTP nói chung trong đó có tội phạm CTN,

những hoạt động phòng ngừa các tội phạm này chƣa đƣợc thực hiện bởi một cơ

quan PNTP chuyên trách. Cũng chính vì lý do này mà hiện nay trên địa bàn các tỉnh

TNB chƣa có các nhà khoa học PNTP, sự khiếm khuyết về hệ thống lý luận PNTP

nói chung và tội phạm CTN nói riêng đã ảnh hƣởng quan trọng đến hiệu quả PNTP

trên thực tế.

- Đội ngũ phòng ngừa xã hội lẫn lực lƣợng phát hiện, xử lý tội phạm chƣa

đƣợc quan tâm đầu tƣ, đặc biệt là sự thiếu thốn về máy móc, trang thiết bị phƣơng

tiện giao thông liên lạc, các phƣơng tiện kỹ thuật nghiệp vụ... Cũng ảnh hƣởng nhất

định đến công tác phát hiện, xử lý tội phạm. Hoạt động phối hợp của các chủ thể

PNTP chƣa đƣợc tiến hành dựa trên cơ sở pháp lý, một quy chế cụ thể cho nên hoạt

động này chƣa đƣợc tiến hành thƣờng xuyên và chƣa đạt đƣợc những kết quả nổi

bật nhƣ mong muốn.

- Phòng ngừa xã hội không cho tội phạm xảy ra mặc dù đã đƣợc nhận thức

mang ý nghĩa rất quan trọng nhƣng vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác

nhau, các biện pháp về mặt xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của

ngƣời dân vẫn còn mang nặng tính tình thế nhất thời, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu

nguyện vọng của nhân dân, một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu

số đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn. Đây là những khu vực có THTP do NCTN

thực hiện tăng cao hơn so với các khu vực khác.

- Các cơ quan chức năng chƣa có những giải pháp tốt nhằm huy động sức

mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân tham gia tố giác

tội phạm dẫn đến THTP, tệ nạn xã hội từng lúc, từng nơi ở những địa bàn nông

thôn, khu dân cƣ còn diễn biến phức tạp và tồn tại trong thời gian dài.

Việc xác định đƣợc các nguyên nhân của các hạn chế này cùng với kết quả

của dự báo khách thể phòng ngừa, chủ thể phòng ngừa trong thời gian tới tại địa bàn

các tỉnh khu vực TNB là cơ sở để chúng tôi xây dựng các biện pháp nhằm tăng

95

cƣờng PCTP do NCTN thực hiện trên địa bàn.

CHƢƠNG 4

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI

PHẠM DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN

TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ

4.1. Dự báo tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên thực hiện trên

địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ trong thời gian tới.

4.1.1. Cơ sở dự báo

Một là: Đảng và Nhà nƣớc ta vẫn kiên trì công cuộc đổi mới toàn diện trên

tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là đổi mới về kinh tế để đạt đƣợc mục tiêu

chiến lƣợc này Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng thực hiện nhất quán và lâu dài

chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị

trƣờng, có sự quản lý của nhà nƣớc theo định hƣớng XHCN, "Nhà nƣớc tập trung

làm tốt các chức năng định hƣớng sự phát triển bằng các chiến lƣợc, quy hoạch, kế

hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trƣờng...

Thực hiện quản lý nhà nƣớc bằng hệ thống pháp luật... "Nền kinh tế thị trƣờng đƣợc

thiết lập trong thời kỳ đổi mới ở nƣớc ta trong giai đoạn qua và trong những năm tới

là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đại đa số

ngƣời dân. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trƣờng cũng thể hiện mặt trái của nó, và

những mặt trái này tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội nƣớc ta

trong đó có THTP và tệ nạn xã hội. Do tác động của nền kinh tế thị trƣờng, xu thế

quốc tế hóa, khu vực hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế, sự tham gia vào AFTA và tổ

chức thƣơng mại thế giới (WTO) sẽ là mảnh đất tốt cho sự xâm nhập văn hóa độc

hại, lối sống thực dụng và sự thất nghiệp. Sự có mặt của ngƣời nƣớc ngoài ở nƣớc

ta nói chung, khu vực miền TNB nói riêng sẽ tăng lên đáng kể về số lƣợng, sự diễn

96

biến phức tạp và tác động mạnh mẽ của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội của khu

vực và trên thế giới sẽ ảnh hƣởng diễn biến của THTP hình sự nói chung và THTP

do NCTN gây ra ở nƣớc ta, trong đó có các tỉnh khu vực miền Tây Nam Bộ.

Hai là: miền TNB là vùng có khí hậu cận xích đạo thuận lợi phát triển ngành

nông nghiệp, đặc biệt là phát triển trồng lúa nƣớc và các cây lƣơng thực. Mặc dù

diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chƣa tới 30% của cả nƣớc nhƣng miền

TNB đã đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30%

giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lƣợng thủy sản... Bên cạnh đó, khu vực

dịch vụ của khu vực miền TNB phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhƣ xuất nhập

khẩu, vận tải thủy, du lịch, đáng chú ý là xuất khẩu gạo chiếm 80% của cả nƣớc và

du lịch sinh thái trên sông nƣớc. Ngoài ra, khu vực miền TNB còn có các triển vọng

về dầu khí trong thềm lục địa nhƣ bể trầm tích Nam Côn Sơn có khoảng 3 tỷ tấn

dầu quy đổi... Quyết định 492/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tƣớng

Chính phủ phê duyệt đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm-vùng đồng bằng sông

Cửu Long. Theo đó thì miền TNB là vùng kinh tế trọng điểm, phát triển kinh tế

động lực ở phía tây nam của nƣớc ta. Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm này

đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt. Nội dung cơ bản của Đề án là đến năm

2020, vùng kinh tế trọng điểm này là trung tâm lớn về sản xuất lúa, gạo, nuôi trồng

thủy sản của cả nƣớc. Ngoài ra, vùng kinh tế này cũng đóng vai trò quan trọng trong

chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và

xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của cả nƣớc... Có thể khẳng định rằng: với

những điều kiện thuận lợi về địa lý, thổ nhƣỡng, khí hậu... Và sự quan tâm của

Chính phủ là nhân tố quan trọng quyết định cho sự phát triển toàn diện về kinh tế,

văn hóa, thƣơng mại, du lịch và giao lƣu quốc tế trong thời gian tới của khu vực

miền Tây Nam Bộ.

Ba là: theo đánh giá của các cơ quan chức năng và thực tế đời sống của

ngƣời dân đã cho thấy miền TNB đang trên đà phát triển nhanh, kinh tế tăng trƣởng

không ngừng (năm 2008 là 10,23%, năm 2009 là 10,52%, năm 2010 là 10,6%, năm

97

2012 là 13,7%; GDP tính theo đầu ngƣời tăng từ 500 USD năm 2008, 750 USD

năm 2010, qua năm 2012 là 1000 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hƣớng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bƣớc. Tuy nhiên, do xã hội phát triển, tốc độ đô

thị hóa khá nhanh đã dẫn đến tình trạng di dân tự do từ nơi khác đến ngày càng tăng

(năm 2005 dân số toàn khu vực là 16.859.300 ngƣời, năm 2011 là 17.330.900

ngƣời. Ngoài ra, còn có hàng trăm ngàn ngƣời đến làm ăn sinh sống không quản lý

đƣợc hộ khẩu, về cƣ trú...); Vấn đề giải quyết việc làm còn khó khăn (năm 2008 tỷ

lệ thất nghiệp toàn khu vực là 4,12%, năm 2009 là 4,54%, năm 2011 là 4,08%, năm

2015 là 3,37%); chất lƣợng giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập, điều kiện cơ sở hạ

tầng còn nhiều khó khăn; kết quả thực hiện chƣơng trình xóa đói giảm nghèo chƣa

đạt mục tiêu, yêu cầu (năm 2008 hộ nghèo chiếm 11,4% dân số, năm 2010 là

12,6%, năm 2011 là 11,6%)... Đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản

lý nhà nƣớc về an ninh trật tự.

Bốn là: do công tác quản lý kinh tế còn sơ hở, khả năng điều hành quản lý xã

hội của các địa phƣơng trong khu vực còn non kém và thiếu kinh nghiệm; trình độ

năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều bất cập nhất là ở những địa bàn

cơ sở; Tình trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn xãy ra ở nhiều nơi,

sự thiếu hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn

chế; sự tác động mạnh mẽ, sâu rộng của mặt trái cơ chế thị trƣờng; sự chống phá

của các thế lực thù địch; sự ảnh hƣởng của lối sống tự do, đề cao giá trị vật chất,

văn hóa ngoại lai... Đã tác động mạnh mẽ đến hiệu quả công tác phòng ngừa NCTN

vi phạm pháp luật, phạm tội ở khu vực TNB.

Năm là: THTP trên thế giới và khu vực diễn biến phức tạp đã và đang tiếp

tục ảnh hƣởng đến THTP của nƣớc ta nói chung và miền TNB nói riêng. Bên

cạnh đó, THTP trên địa bàn các tỉnh khu vực miền TNB trong thời gian qua vẫn

còn diễn biến phức tạp; cùng với sự diễn biến phức tạp và đa dạng của THTP của

cả nƣớc. Trong khi đó, các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội

98

vẫn còn có những bất cập, chƣa kịp thời chấn chỉnh, từ đó tạo kẽ hở để tội phạm

hoạt động; NCTN theo đó cũng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc

phạm tội.

Sáu là: hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật ngày càng đƣợc tăng

cƣờng và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức cán bộ, đƣợc đào tạo bài bản, chính quy, có

trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, các phƣơng tiện các phƣơng tiện kĩ thuật,

nghiệp vụ đƣợc trang bị đầy đủ hơn sẽ là cơ sở vững chắc để nhà nƣớc đảm bảo an

ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đấu tranh PCTP có hiệu quả, trong

đó có công tác PNTP do NCTN gây ra. Hơn nữa, các chủ trƣơng của Đảng, Nhà

nƣớc và các ngành chức năng có những nội dung mới phù hợp với thực tế, gần gũi

hơn trong cuộc sống sẽ là những cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng thực

thi nhiệm vụ phòng ngừa NCTN phạm tội ngày càng đi vào chiều sâu đạt hiệu quả

cao hơn.

4.1.2. Nội dung dự báo

Trong những năm tới tình hình an ninh trật tự, kinh tế xã hội trên địa bàn các

tỉnh TNB vẫn tiếp tục ổn định và tăng trƣởng bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh những

thuận lợi thì nhiều nguy cơ, thách thức cũng đƣợc đặt ra. Đó là những khó khăn

trong quản lý và điều hành tinh tế, vấn đề đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống

cho nhân dân, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, đặc biệt là ổn định an ninh trật tự,

trong đó phải làm tốt công tác PNTP, đặc biệt là tội phạm chƣa thành niên.

Trong thời gian tới, nền kinh tế thị trƣờng tiếp tục đƣợc phát triển, tình hình

kinh tế, xã hội sẽ còn có nhiều điều kiện phát triển và hội nhập sâu rộng hơn với nền

kinh tế quốc tế. Song bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng vẫn hàng

ngày, hàng giờ tác động ảnh hƣởng trực tiếp đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội

trên phạm vi cả nƣớc nói chung và khu vực TNB nói riêng. Với bối cảnh nhƣ vậy,

THTP và tội phạm là NCTN gây ra sẽ có xu hƣớng gia tăng về số lƣợng cũng nhƣ

tính chất, mức độ ngày càng phức tạp hơn. Thực tế cho thấy do mặt trái tiêu cực nền

99

kinh tế thị trƣờng, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn hơn, số lƣợng

ngƣời thất nghiệp, số lƣợng các gia đình tập trung làm kinh tế, bỏ bê chuyện học

hành của con cái, số lƣợng trẻ em không đến trƣờng hoặc không theo đuổi việc học

hành đến nơi đến chốn sẽ còn nhiều và đây là nguồn bổ sung rất lớn vào đội ngũ

những ngƣời thất nghiệp, số trẻ em ở các thị xã, thị trấn sống lang thang lêu lổng,

thoát khỏi sự quản lý, giáo dục của gia đình và rất dễ đi đến con đƣờng phạm tội.

Đồng thời, do nền kinh tế mở cửa, hội nhập và phát triển cũng sẽ ảnh hƣởng rất lớn

đến quá trình phạm tội của NCTN bởi lối sống thực dụng cũng nhƣ ảnh hƣởng của

phim ảnh, internet, các trang mạng xã hội... của tội phạm nƣớc ngoài sẽ xâm nhập

vào Việt Nam và sẽ lây lan, ảnh hƣởng đến lớp trẻ, tệ nạn xã hội luôn có mảnh đất

để phát triển, đó là bạn đồng hành của tội phạm. Hiện nay, có nhiều phƣơng tiện

nghe nhìn, nhiều loại văn hóa phẩm dễ đến hộ gia đình và phổ biến ngoài xã hội kể

cả những văn hóa phẩm đồi trụy, các trò chơi bạo lực, khiêu dâm, kích dục, yêu

đƣơng trên mạng... tác động trực tiếp đến sự tò mò, hiếu kỳ và đam mê của NCTN.

Thực tế này, Nếu không đƣợc quản lý tốt sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến nhân cách, tâm

sinh lý và dẫn đến quá trình phạm tội của ngƣời chƣa thành niên.

Hiện nay và trong tƣơng lai gần công tác giáo dục ở nhà trƣờng đang có

nhiều bất cập, đang đƣợc thử nghiệm, từng bƣớc hoàn chỉnh và còn gặp không ít

khó khăn, phức tạp. Công việc này không thể một sớm một chiều mà có thể ổn định,

nâng cao chất lƣợng công tác giáo dục, quản lý học sinh ở các nhà trƣờng. Tình

trạng học sinh đi học mà không đến lớp, lang thang, tụ tập thành băng nhóm, sử

dụng ma túy, đánh nhau gây rối, đua xe trái phép... là những dấu hiệu đáng báo

động cho tình hình thực tiễn hiện nay. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa

của THTP ở lứa tuổi chƣa thành niên.

Thực tiễn công tác đấu tranh, PCTP, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong thời

gian qua đã đƣợc kiềm chế song, về cơ bản tình hình phạm pháp hình sự vẫn không

giảm, thậm chí từng nơi, từng lúc còn phức tạp hơn, quá trình gây án mang tính tinh

vi xảo quyệt, táo bạo và nguy hiểm hơn. Điều đó đã tác động, ảnh hƣởng không ít

100

đến NCTN phạm tội. Trong khi đó, việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa ngăn

chặn đối với NCTN phạm tội của các ngành chức năng còn nhiều hạn chế và hệ

thống hành lang pháp lý phục vụ cho công việc này cũng chƣa đƣợc hoàn thiện đầy

đủ. Đây là những yếu tố khách quan nhƣng cũng có vai trò nhất định trong việc áp

dụng các biện pháp phòng ngừa đối với NCTN phạm tội. Với những nét về THTP

nêu trên cho chúng ta thấy, nếu không có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn

kịp thời thì tình trạng NCTN phạm tội trong thời gian tới vẫn tiếp tục có chiều

hƣớng gia tăng và sẽ ngày càng phức tạp hơn.

* Dự báo về tình hình tội phạm chƣa thành niên.

Từ những cơ sở nêu trên, có thể dự báo về THTP do NCTN gây ra trên địa

bàn các tỉnh khu vực miền TNB thời gian tới về số vụ và số NCTN bị bắt giữ, xử lý

sẽ tăng, giảm theo từng năm. Tuy nhiên, xu hƣớng tăng so với những năm gần đây

là chủ yếu; phƣơng thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi và liều lĩnh

manh động hơn; các loại tội phạm xâm phạm sở hữu và gây rối sẽ chiếm tỷ lệ cao

trong đó tập trung vào một số nhóm tội phạm sau:

** Nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu: các tội trộm cắp tài sản, cƣớp giật sẽ

chiếm tỷ lệ cao nhất trong các tội danh do NCTN gây ra. Bởi vì, Đây là nhóm tội

phạm và vi phạm dễ thực hiện, dể che dấu hành vi và tài sản dễ tiêu thụ. Hơn nữa

tài sản của các nạn nhân vừa là tác động trực tiếp vào lòng ham muốn của đối

tƣợng, vừa là để giải quyết những nhu cầu thực tế của ngƣời thực hiện, trong khi đó

NCTN là những ngƣời chƣa có những suy nghĩ chính chắn nên dễ bị tác động và

thực hiện để đạt mục đích. Mặt khác, theo quy luật của sự phát triển, một khi đời

sống của ngƣời dân đƣợc nâng lên thì của cải nhiều ra và nhu cầu đi lại mua sắm,

tham quan du lịch và hƣởng thụ ngày càng cao. Trong khi đó, do tác động của mặt

trái cơ chế thị trƣờng nên nhiều em không đƣợc quan tâm, giáo dục và quản lý chặt

chẽ sẽ hình thành xu hƣớng sống tự do, coi trọng giá trị vật chất, thích hƣởng thụ và

không muốn lao động... hoặc phát sinh nhiều gia đình, nhiều trẻ em lâm vào hoàn

cảnh nghèo khó, bỏ học, sống lang thang... Từ nhu cầu bản năng sẽ dần trở thành

101

ngƣời phạm tội hoặc vi phạm pháp luật có tính chất phổ biến. Tội phạm trộm cắp

mà NCTN thực hiện sẽ tập trung chủ yếu vào những đồ gọn nhẹ, dễ tiêu thụ nhƣ đồ

dùng sinh hoạt, phƣơng tiện đi lại... tiếp tục phát triển. Chính điều này là một trong

những yếu tố làm cho tội phạm NCTN gây ra trong nhóm tội phạm xâm phạm sở

hữu có điều kiện gia tăng.

** Nhóm tội phạm xâm phạm trật tự công cộng: gồm các tổ chức gây rối trật

tự công cộng, vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông, chống

ngƣời thi hành công vụ cũng sẽ có chiều hƣớng gia tăng. Bởi vì, với sự phát triển

mạnh mẽ của các loại hình dịch vụ giải trí quán bar, nhà hàng, khách sạn, karaoke,

vũ trƣờng... sẽ là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm, trong đó có các tội

nhƣ trên. Mặt khác, do kinh tế phát triển, nhiều gia đình có điều kiện kinh tế luôn

chiều chuộng, mua sắm cho con cái mình các loại phƣơng tiện giao thông đắt tiền,

cung cấp tiền một cách phung phí... với sự bồng bột và hiếu động của tâm lý lứa

tuổi, các em rất dễ vi phạm vào các tội danh gây rối trật tự công cộng, vi phạm các

quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, đua xe trái phép, chống

ngƣời thi hành công vụ...

** Nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm con

ngƣời: gồm các tội cố ý gây thƣơng tích, hiếp dâm, cƣỡng dâm, giết ngƣời có chiều

hƣớng gia tăng, tăng giảm thất thƣờng không bền vững tùy tình hình triển khai công

tác đấu tranh phòng chống của địa phƣơng, xong cơ bản sẽ là gia tăng. Bởi do tình

hình xã hội phát triển, các loại hình giải trí phát triển mạnh mẽ. Song song đó, các

loại hình phim ảnh có tính chất kích động, bạo lực cũng tác động đến suy nghĩ, hành

động của NCTN. Máu " yêng hùng" cùng với sự kích động các trang mạng sẽ khiến

các em gây ra các vụ gây thƣơng tích, thậm chí giết ngƣời chỉ vì những mâu thuẫn

rất nhỏ, chỉ vì các em sĩ diện, muốn tự khẳng định mình. Sự phát triển mạnh mẽ

của khoa học công nghệ, internet, điện thoại di động thông minh... không thể quản

lý đƣợc đã kéo theo các loại hình giải trí, phim ảnh đồi trụy kích thích sự tò mò

khám phá của lớp trẻ, dẫn các em phạm vào các tội hiếp dâm, cƣỡng dâm, giao cấu

102

trẻ em. Hiện nay, việc quản lý của các cơ quan chức năng ở địa bàn các tỉnh TNB

về các dịch vụ và tệ nạn xã hội còn gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này sẽ liên quan

trực tiếp đến tệ nạn xã hội và tình hình phạm tội của NCTN. Tội phạm do NCTN

thực hiện có sự chỉ đạo của ngƣời lớn tuổi, lôi kéo, xúi giục, tổ chức, tạo điều kiện

sẽ ngày càng phức tạp hơn. Loại tội phạm có tổ chức của NCTN dƣới dạng băng,

nhóm cũng có chiều hƣớng gia tăng. Những vấn đề này sẽ tác động mạnh mẽ đến

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

** Nhóm tội phạm về ma túy: tội phạm về ma túy trên địa bàn các tỉnh, khu

vực miền TNB trong thời gian tới sẽ có nhiều diễn biến phức tạp. Do giao thông

thuận tiện, các loại hình dịch vụ du lịch phát triển mạnh, vì vậy tội phạm ma túy

cũng sẽ phát triển, kéo theo những ngƣời nghiện và sử dụng ma túy nhiều hơn,

trong đó có đông đảo NCTN. Bên cạnh đó, NCTN sức đề kháng chƣa tốt, dễ bị

nghiện ngập và trở thành những đối tƣợng phạm tội có liên quan đến ma túy.

* Về phƣơng thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm CTN thể hiện trên các

mặt nhƣ sau:

** Hoạt động tội phạm có tổ chức hình thành băng nhóm sẽ phát triển nhanh,

đáng chú ý là sẽ có nhiều hơn sự chỉ đạo và tổ chức của ngƣời lớn. Có thể tập trung

nhiều ở các nhóm tội danh nhƣ trộm cắp, cƣớp giật, cƣớp, gây rối, cƣỡng đoạt tài

sản...

** Xu hƣớng sử dụng vũ khí, phƣơng tiện hoạt động phạm tội của NCTN sẽ

tăng lên, nhất là sử dụng súng tự chế và các loại vũ khí thô sơ nhƣ dao, gậy, côn, lê,

mã tấu... sẽ xuất hiện các hành vi phạm tội mới nhƣ dùng bom xăng, sử dụng công

nghệ cao để phạm tội, tống tiền bằng nhiều hình thức.

** Hoạt động lƣu động, liên kết ở nhiều địa bàn, nhiều địa phƣơng trong

vùng, thậm chí là cả nƣớc và tội phạm xuyên quốc gia sẽ mang tính phổ biến hơn

trong thời gian tới; đối tƣợng phạm tội tập trung nhiều ở nhóm trẻ em lang thang, cơ

103

nhở, trẻ em làm trái pháp luật.

* Dự báo chủ thể phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện

** Về nguồn nhân lực phòng ngừa tội phạm

Nhƣ đã trình bày tại phòng thực trạng đội ngũ, lực lƣợng phòng ngừa, chủ

thể PNTP do NCTN thực hiện là toàn xã hội nhƣng cơ quan công an, cơ quan tiến

hành tố tụng đƣợc xem là chủ thể chịu trách nhiệm là lực lƣợng nồng cốt. Với

những số liệu thống kê nhƣ đã trình bày đã cho thấy sự “quá tải” trong công việc

của chủ thể thƣờng xuyên và chuyên trách này. Với nguồn nhân lực hiện nay, nếu

trong những năm tới, nguồn nhân lực cho lực lƣợng này không đƣợc bổ sung và

nâng cao trình độ thì tác giả cho rằng khó có thể đảm bảo đƣợc khả năng phát hiện,

điều tra các tội phạm trên địa bàn các tỉnh khu vực TNB. Bên cạnh đó, sự thiếu

vắng cơ quan PNTP chuyên trách sẽ dẫn tới sự thiếu vắng lực lƣợng PNTP chuyên

nghiệp mà chỉ dừng lại ở phạm vi phòng, chống theo chức năng, nhiệm vụ của từng

chủ thể. Điều này sẽ dẫn đến sự thiếu hụt về cơ sở lý luận mang tính định hƣớng,

soi sáng cho hoạt động PNTP trên thực tiễn và ảnh hƣởng quan trọng đến hiệu quả

phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng.

** Về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động phòng ngừa tội phạm

Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động PNTP bao gồm cơ sở, trang thiết bị

khác nhƣng chúng tôi quan tâm nhiều nhất đến các phƣơng tiện, thiết bị phát hiện

tội phạm. Trong thời gian qua các trang thiết bị phục vụ trong PCTP đã từng bƣớc

đƣợc đƣa vào sử dụng mang lại hiệu quả cao trong phòng ngừa đấu tranh với tội

phạm. Tuy nhiên, vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn trong công tác PCTP.

Nhiều công cụ, phƣơng tiện thiết bị kỹ thuật tiên tiến chƣa đƣợc trang bị cho các

đơn vị, địa phƣơng trong PCTP. Nguồn ngân sách bố trí cho công tác PCTP ở các

tỉnh TNB còn hạn hẹp chƣa đáp ứng nhu cầu. Tình trạng này nếu không đƣợc giải

quyết kịp thời sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động PCTP nói chung, tội

104

phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.

4.2. Các giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời

chƣa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ

4.2.1. Hoàn thiện cơ sở lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ

Trong luận án này bƣớc đầu xây dựng hệ thống lý luận về phòng ngừa THTP,

PNTP do NCTN gây ra, mục đích, nguyên tắc, nội dung biện pháp phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện, tuy nhiên với phạm vi của một luận án tiến sĩ, tác giả

chỉ mới đặt ra những vấn đề nền tảng cho việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện

của THTP do NCTN thực hiện làm tiền đề cho việc hoàn thiện lý luận về phòng

ngừa nhóm tội phạm này, nó mang tính đặc thù riêng của khu vực TNB. Do vậy, để

tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận về phòng ngừa tội phạm vừa phù hợp với quan

điểm chung của hệ thống lý luận về phòng ngừa THTP của thế giới, trong nƣớc

đồng thời gắn với đặc điểm của từng địa phƣơng, từng nhóm tội phạm và từng loại

tội phạm cụ thể, đây là một yêu cầu cấp thiết cần đƣợc hoàn thiện trong thời gian tới

để bổ sung cho hệ thống lý luận về khoa học tội phạm học của Việt Nam. Những

vấn đề lý luận này phải là cơ sở quan trọng để phòng ngừa THTP, phòng ngừa

nhóm tội phạm, PNTP cụ thể trong đó có tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn

các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ.

Muốn hoàn thiện hệ thống lý luận về phòng ngừa tội phạm hiện nay tại các

tỉnh khu vực miền TNB thì cần có một cơ quan chuyên trách về phòng ngừa THTP.

Để tạo nền tảng làm tiền đề cho việc xây dựng các cơ quan chuyên trách nghiên cứu

và thực hiện nhiệm vụ về PNTP ở khu vực TNB, trƣớc hết các trƣờng đại học giảng

dạy môn tội phạm học cần phải tạo điều kiện thành lập bộ môn tội phạm học và

hoạt động độc lập theo hình mẫu nhƣ một trung tâm tội phạm học. Đây là nơi tập

trung đƣợc nguồn nhân lực là những ngƣời đƣợc đào tạo chuyên sâu về chuyên

ngành tội phạm học, có trình độ lý luận, khả năng nghiên cứu và khả năng giảng

dạy. Để sử dụng độ ngũ cán bộ này cho hoạt động nghiên cứu khoa học, xây dựng

105

hệ thống lý luận PNTP trong lứa tuổi CTN thì cần có sự liên kết giữa chính quyền

các đơn vị, địa phƣơng nhằm tạo điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất cho việc

nghiên cứu các đề tài khoa học.

Các địa phƣơng xem xét kí kết hợp đồng với các trƣờng, nhóm khoa học, nhà

khoa học phụ trách nghiên cứu từng đề tài khoa học về phòng ngừa THTP để phục

vụ cho địa phƣơng, đơn vị mình, nhƣ vậy sẽ tạo đƣợc sự chủ động của từng địa

phƣơng đồng thời những vấn đề nghiên cứu đặt ra cũng sát với nhu cầu thực tiễn

hơn. Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo PCTP của từng tỉnh, thành phố cần quan tâm đầu tƣ,

khuyến khích những cán bộ công tác thực tiễn trên lĩnh vực PCTP nhƣ: Công an,

Viện kiểm sát, Tòa án tích cực tham gia nghiên cứu khoa học đặc biệt là trên lĩnh

vựcPCTP. Khi có những chính sách và đầu tƣ hợp lý thì hệ thống lý luận về PCTP,

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện sẽ từng bƣớc đƣợc hoàn thiện

Mặc khác, thì Ban chỉ đạo 138 quốc gia, Ban chỉ đạo PCTP và xây dựng

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc các tỉnh khu vực miền TNB thƣờng

xuyên tổ chức tổng kết thực tiễn, hội thảo, tọa đàm để bổ sung cho hệ thống lý luận

về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm ngày càng hoàn thiện hơn.

Một vấn đề đặt ra cũng rất quan trọng đó là để tiếp cận và lĩnh hội những kiến

thức về tội phạm học và PNTP của thế giới, các cấp, các ngành cần quan tâm đầu tƣ

hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm với những nhà khoa học hàng đầu trên lĩnh

vựcPCTP, liên kết đào tạo nguồn nhân lực có chất lƣợng cao, cử cán bộ ra nƣớc

ngoài học tập, nghiên cứu lý luận về PNTP ở những nƣớc phát triển, từ đó xây dựng

hệ thống lý luận về PNTP phù hợp với tình hình của Việt Nam nói chung và khu

vực TNB nói riêng.

4.2.2. Hoàn thiện cơ sở chính trị - pháp lý của hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên dịa bàn các tỉnh Tây

Nam bộ

- Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần chủ động hơn nữa trong việc ban hành

các chính sách, nghị quyết, chƣơng trình PCTP nói chung, PCTP trong trẻ em, lứa

106

tuổi CTN để chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, qua tổng kết đánh giá

chúng ta cũng nhìn nhận rằng chƣa có nhiều chính sách, kế hoạch mang tính sáng

tạo, đột phá, đặc thù của từng địa phƣơng. Để có cơ sở cho các chủ thể tiến hành

các hoạt động phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh khu vực

miền TNB, Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND các tỉnh khu vực miền TNB cần chủ động

hơn nữa trong việc ban hành các chủ trƣơng, chính sách về PNTP trong dó có tội

phạm CTN. Với những đặc thù riêng về địa lý, dân cƣ, phong tục tập quán,... của

vùng TNB, Tỉnh ủy, HĐND, UBND các tỉnh khu vực miền TNB cần linh hoạt ban

hành các chủ trƣơng, chính sách về phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện.

Chính sách phát triển kinh tế, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, thu hút cán bộ về

vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn... nhằm mục đích kéo giảm, tiến tới xóa

bỏ THTP. Những chủ trƣởng chính sách đó là cơ sở vững chắc để các chủ thể tiến

hành các nội dung, giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm.

Bên cạnh đó,UBND các tỉnh TNB, các ngành chức năng cần xây dựng qui chế

phối hợp đồng bộ giữa các tỉnh, thành trong nƣớc, giữa các tỉnh có đƣờng biên giới

An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Long An với các địa phƣơng của các nƣớc

Campuchia, Thái Lan trong phòng chống tội phạm ở những địa bàn biên giới, khu

vực giáp giới nhằm kịp thời hỗ trợ, hợp tác giao lƣu học hỏi kinh nghiệm, hỗ trợ

trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.

- Hội đồng nhân dân, UBND các tỉnh khu vực miền TNB cần kịp thời kiến

nghị Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan ban hành, sửa đổi, bổ sung và

hƣớng dẫn thực hiện những qui định của pháp luật liên quan đến công tác phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện.Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn cả nƣớc nói chung, các tỉnh khu vực

TNB nói riêng. Cấp ủy, Chính quyền các tỉnh khu vực TNB cần tham mƣu, đề xuất

Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và

hƣớng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật có liên quan nhƣ: Luật trẻ em, BLHS,

107

BLTTHS, Luật xử lý vi phạm hành chính... cụ thể ở một số điểm nhƣ sau:

* Về pháp luật hình sự

Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành đã dành một chƣơng XII quy định về

NCTN phạm tội (ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội) với phƣơng châm nhân đạo hóa

chính sách hình sự đối với NCTN phạm tội; giúp các em nhận thức, sửa chữa sai

lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Những qui định

trên tuy đã đƣợc điều chỉnh, bổ sung nhƣng vẫn bộc lộ một số hạn chế, cần phải sửa

đổi, hoàn thiện để bảo đảm việc thực thi đƣợc thống nhất, thuận lợi đồng thời tuân

thủ hơn nữa chuẩn mực quốc tế đối với tƣ pháp cho ngƣời chƣa thành niên.

Thứ nhất: về khái niệm NCTN, đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng vì

nó xuyên suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đối với

NCTN phạm tội. Trong BLHS năm 2015 chƣa có khái niệm cụ thể về NCTN nên

cần bổ sung Điều 90 khái niệm NCTN sau đó mới nên nêu việc áp dụng BLHS đối

với NCTN phạm tội. Vì vậy tác giả đề xuất sửa đổi nhƣ sau:

Điều 90: Áp dụng Bộ luật hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội

Ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa đủ 18 tuổi, chƣa phát triển đầy đủ về thể

chất và tinh thần, về tâm sinh lý, kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức của họ có

nhiều hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, dễ bị kích động, lôi kéo,

khả năng kiềm chế bản thân chƣa cao, điều kiện sinh sống còn nhiều phụ thuộc...

Ngƣời chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách

nhiệm hình sự theo những quy định của Chƣơng này, theo những quy định khác của

phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với những quy định của chƣơng này.

Thứ hai, về việc miễn TNHS đối với NCTN phạm tội: khoản 2 Điều 91

BLHS năm 2015 quy định: “ Ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các

trƣờng hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn

hậu quả, nếu không thuộc trƣờng hợp quy định tại điều 29 của Bộ luật này, thi có

thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại mục 2

chƣơng này ( gồm Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; Giáo dục tại xã, phƣờng, thị

108

trấn); Ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội

nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141,171, 248, 249, 250, 251,

252 của Bộ luật này; Ngƣời từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng

quy định tại khoản 2 điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều

123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251, 252 của Bộ luật

này; Ngƣời dƣới 18 tuổi là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án” [130] .

Nhƣ vậy, theo quy định nhƣ trên thì ngƣời dƣới 18 tuổi có thể đƣợc miễn trách

nhiệm hình sự hoặc có thể không đƣợc miễn trách nhiệm hình sự khi phạm tội ít

nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.

Trong khi đó, khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: “Ngƣời từ đủ 14

tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng

hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141,

142, 143, 144, 150, 151, 168, 169,170, 171, 173,178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,

266, 286, 287, 289, 290, 299, 303,304” [88]. Nhƣ vậy họ không phải chịu trách

nhiệm hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng. Do vậy, khoản

2 Điều 12; khoản 2 Điều 91 và các quy định về miễn TNHS đã bộc lộ mâu thuẫn và

bất cập trong quy định của BLHS nên cần thiết phải sửa đổi, bổ sung hoặc cần có

hƣớng dẫn chi tiết để thực hiện cho phù hợp. Vì vậy, tác giả đề nghị sửa đổi, bổ

sung nhƣ sau:

Khoản 2 Điều 91: “NCTN từ đủ 16 tuổi, nhƣng chƣa đủ 18 tuổi có thể đƣợc

miễn trách nhiệm hình sự, nếu ngƣời đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm

trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và đƣợc gia đình, cơ quan, tổ

chức nhận giám sát, giáo dục”.

Thứ ba, BLHS nên liệt kê cụ thể các loại tội danh có thể đƣợc thực hiện bởi

NCTN và phải dành cho NCTN phạm tội một chƣơng riêng biệt. Với quy định nhƣ

vậy trƣớc tiên thể hiện sự minh bạch trong chính sách hình sự đối với NCTN phạm

tội. Hơn nữa, điều này thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến

hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng. Việc liệt kê nhƣ trên là cần thiết vì trên thực

109

tế NCTN do độ tuổi và đặc điểm tâm, sinh lý không phạm vào một số tội nhất định,

và trên thực tế các cơ quan áp dụng pháp luật cũng không xử lý hình sự NCTN đối

với một số tội danh nhất định. Luật cần phải quy định rõ chủ thể của loại tội phạm

này không phải là ngƣời chƣa thành niên.

Thứ tư, nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, các quy định của pháp luật

hình sự về nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội phải triệt để tôn trọng nguyên

tắc: chỉ xử lý về hình phạt đối với NCTN nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình

sự và áp dụng các biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã,

phƣờng, thị trấn hoặc áp dụng biện pháp giáo dục tại trƣờng giáo dƣỡng không bảo

đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa; tránh việc áp dụng các chế tài hạn chế các

quyền tự do của NCTN. Trên cơ sở những nguyên tắc và tƣ tƣởng nói trên thì quy

định tại điều 91 BLHS về nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội có một số vấn

đề cần phải hoàn thiện thêm. Vì xử lý NCTN phạm tội không thuần túy là vấn đề

pháp lý mà còn là vấn đề xã hội nên trong các nguyên tắc về xử lý NCTN phạm tội

phải có qui định cụ thể về vấn đề này. Thực tiễn cho thấy môi trƣờng xã hội có ảnh

hƣởng rất lớn đối với việc phạm tội cũng nhƣ là việc tái hòa nhập cộng đồng của

NCTN. Có một số trƣờng hợp, các chủ thể không mang tính Nhà nƣớc nhƣ: Gia

đình, nhà trƣờng, các tổ chức xã hội lại có vai trò quan trọng hơn các chủ thể công

quyền trong việc xử lý NCTN phạm tội. Mặc dù vậy, BLHS của nƣớc ta chƣa đƣa

ra nguyên tắc hoặc quy định cụ thể để phát huy vai trò của các chủ thể phi Nhà

nƣớc trong xử lý NCTN phạm tội. Thiết nghĩ rằng Điều 91 BLHS nên đƣợc bổ sung

một khoản nhƣ sau: “các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp chặt

chẽ với gia đình, nhà trƣờng, các tổ chức xã hội trong việc xử lý NCTN phạm tội”.

Cũng bàn về nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, theo “Báo cáo đánh

giá các quy định của BLHS liên quan đến NCTN và thực tiễn thi hành” do nhóm

chuyên gia pháp lý thuộc Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tƣ pháp phối hợp

với các chuyên gia của UNICEF thực hiện đã đƣa ra các khuyến nghị sửa đổi Điều

91 BLHS cho phù hợp với các tiêu chuẩn và quy định quốc tế có liên quan về quyền

trẻ em, đặc biệt là Công ƣớc Liên hợp quốc về Quyền trẻ em nhƣ sau: Sửa Điều 91

110

BLHS, bổ sung các quy định “…lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm

hàng đầu trong tất cả các hoạt động có liên quan đến NCTN, bao gồm điều tra, truy

tố và xét xử các hành vi phạm tội do NCTN gây ra”; “việc tƣớc quyền tự do chỉ là

biện pháp cuối cùng và trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể” và “tất cả cơ quan

và cán bộ nhà nƣớc phải tôn trọng và bảo đảm quyền đƣợc nêu ra trong BLHS này

đối với mỗi NCTN thuộc quyền tài phán của họ mà không có bất cứ một sự phân

biệt đối xử nào, bất kể trẻ em, cha mẹ hay ngƣời giám hộ pháp lý của trẻ em đó

thuộc chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến gì khác, nguồn

gốc quốc gia, dân tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và những

mối tƣơng quan khác” [166]

Thứ năm, về áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội. Hình phạt cảnh cáo

và hình phạt tiền quy định tại Điều 98, Điều 99 BLHS năm 2015. Đối với hình phạt

cảnh cáo, từ khi BLHS có hiệu lực thi hành các Tòa án thƣờng ít áp dụng hình phạt

cảnh cáo đối với NCTN. Nếu tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của họ gây ra ở

mức độ thấp thì có thể miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho họ theo

quy định tại Điều 29 BLHS nên mục đích của hình phạt cảnh cáo không đạt đƣợc.

Đối với hình phạt tiền, trên thực tế NCTN thƣờng không có tài sản hoặc thu nhập

ổn định nên việc áp dụng hình phạt tiền đối với NCTN cũng bộc lộ những hạn chế

nhất định và không hợp lý.

Về hình phạt tù có thời hạn Điều 101 và tổng hợp hình phạt trong trƣờng hợp

NCTN phạm nhiều tội theo Điều 103, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án Điều

104 BLHS năm 2015 quy định: Mức hình phạt tù cao nhất đối với NCTN phạm tội

từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi là mƣời tám năm tù; mức hình phạt tù cao nhất đƣợc

áp dụng đối với NCTN phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi là mƣời hai năm tù.

Nhƣ vậy, đối với NCTN phạm một tội hay phạm nhiều tội thì mức hình phạt đƣợc

áp dụng đối với họ cũng không vƣợt quá mức hình phạt trên là bất hợp lý. Vì vậy

cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp vừa thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của

111

Nhà nƣớc vừa đảm bảo tính công bằng trong xã hội.

Với quy định trên chỉ chấp nhận đƣợc khi tội nặng nhất đƣợc thực hiện khi

ngƣời phạm tội dƣới 18 tuổi, sau khi đủ 18 tuổi ngƣời này lại phạm một hoặc nhiều

tội mà hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội thấp hơn hoặc bằng

mức hình phạt tối đa quy định tại Điều 101 BLHS năm 2015. Đối với trƣờng hợp áp

dụng hình phạt đối với tội hoặc các tội đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội đã thành

niên cao hơn mức hình phạt tối đa theo quy định, thì quy định tại khoản 1 Điều 103

đã bộc lộ sự bất hợp lý. Bởi vì hình phạt của tội hoặc các tội đƣợc thực hiện khi

ngƣời phạm tội đã thành niên đã cao hơn mức hình phạt cao nhất theo quy định tại

Điều 101 BLHS, nhƣng khi tổng hợp hình phạt với hình phạt của tội nặng nhất

đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội CTN thì hình phạt chung của tất cả các tội lại

thấp hơn hình phạt của tội hoặc các tội đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội đã thành

niên (chỉ bằng mức tối đa quy định tại Điều 101 BLHS).

Trƣờng hợp các tội đều đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội CTN đƣợc phân

chia làm hai nhóm độ tuổi:

Nhóm độ tuổi thứ nhất: ngƣời chƣa thành niên từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi thì

hình phạt chung không đƣợc vƣợt quá mức cao nhất quy định tại khoản 2 Điều 101

BLHS năm 2015. Nếu khung hình phạt đối với tội nặng nhất của điều luật đƣợc áp

dụng là chung thân, tử hình thì mức phạt tù không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời

hạn thì mức hình phạt tù tổng hợp cao nhất không quá ½ mức phạt tù của khung

hình phạt đối với tội nặng nhất.

Nhóm độ tuổi thứ hai: các tội đều đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội từ đủ 16

tuổi đến dƣới 18 tuổi thì hình phạt chung không vƣợt quá mức cao nhất quy định tại

khoản 1 Điều 101 BLHS năm 2015. Nếu khung hình phạt của tội nặng nhất đƣợc áp

dụng quy định tù chung thân hoặc tử hình thì hình phạt chung cao nhất không vƣợt

quá 18 năm tù; nếu tù có thời hạn thì hình phạt chung không quá ¾ mức phạt tù của

khung hình phạt đối với tội nặng nhất.

Từ những bất cập nêu trên tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 101 và Điều

112

103 BLHS năm 2015 nhƣ sau:

Điều 101. Tù có thời hạn

Ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:

1. Đối với ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật

đƣợc áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt

cao nhất đƣợc áp dụng không quá hai mƣơi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức

hình phạt cao nhất đƣợc áp dụng không quá ba phần tƣ mức phạt tù mà điều luật

đó quy định.

2. Đối với ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật

đƣợc áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt

cao nhất đƣợc áp dụng không quá mƣời lăm năm tù; nếu là tù có thời hạn thì

mức phạt cao nhất đƣợc đƣợc áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà

điều luật quy định.

Điều 103. Tổng hợp hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội

1. Đối với ngƣời phạm tội, có tội đƣợc thực hiện trƣớc khi đủ 18 tuổi, có tội

đƣợc thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng nhƣ sau:

a) Nếu tội nặng nhất đƣợc thực hiện khi ngƣời đó chƣa đủ 18 tuổi, thì hình

phạt chung không vƣợt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 101 của Bộ

luật này.

Trong trƣờng hợp sau khi đủ 18 tuổi, ngƣời này lại phạm một tội hoặc nhiều

tội mà hình phạt đối với tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội cao hơn mức hình

phạt tối đa quy định tại Điều 101 của Bộ luật này, thì hình phạt chung của tất cả các

tội bằng hình phạt của tội hoặc hình phạt tổng hợp của các tội đƣợc thực hiện khi

ngƣời phạm tội đã đủ 18 tuổi.

b) Nếu tội nặng nhất đƣợc thực hiện khi ngƣời đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt

chung đƣợc áp dụng nhƣ đối với ngƣời đã thành niên phạm tội.

2. Trong trƣờng hợp các tội đều đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội chƣa đủ 18

113

tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt đƣợc thực hiện nhƣ sau:

a) Nếu các tội hoặc tội nặng nhất đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội ở độ tuổi

từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi, thì hình phạt chung không vƣợt quá mức hình phạt

cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 101 của Bộ luật này.

b) Nếu các tội hoặc tội nặng nhất đƣợc thực hiện khi ngƣời phạm tội ở độ tuổi

từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi, thì hình phạt chung không đƣợc vƣợt quá mức hình

phạt cao nhất quy định tại khoản 2 Điều 101 của Bộ luật này.

Thứ sáu, qua nghiên cứu những chế tài pháp luật hình sự đối với NCTN phạm

tội còn nặng về giam giữ. Cụ thể, trong số các chế tài áp dụng đối với NCTN phạm

tội có 2 chế tài áp dụng đối với NCTN phạm tội đó là đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng

hoặc tù có thời hạn, cả hai chế tài này đều tƣớc tự do của ngƣời phạm tội. Vì vậy

cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý chuyển hƣớng vào

Chƣơng XII của BLHS cho phù hợp với khung chuẩn mực quốc tế về tƣ pháp

NCTN. Đồng thời xem xét xây dựng các hình phạt khác thay thế cho phạt tiền, cảnh

cáo và hình phạt giam giữ nhƣng vẫn đảm bảo tính giáo dục, phòng ngừa hiệu quả

nhƣ: biện pháp buộc phải chịu thử thách; lao động phục vụ cộng đồng; các chƣơng

trình thay thế cho xử phạt tại cộng đồng và các chƣơng trình tƣ pháp phục hồi.

Thứ bảy, là các biện pháp tƣ pháp đối với NCTN phạm tội, luật hiện hành

không quy định trách nhiệm của gia đình trong việc thực hiện biện pháp tƣ pháp

giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn. Thay vì không đƣợc quy định trong luật, vấn đề

này lại đƣợc điều chỉnh bởi quyền lập quy (Nghị định 111/2013/NĐ-CP đƣợc sửa,

đổi bổ sung theo nghị định 56/2016/NĐ-CP về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành

chính giáo dục tại xã, phƣờng). Chính điều này làm giảm hiệu quả áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn. Trên thực tiễn, đã có những gia đình không

phối hợp với chính quyền địa phƣơng trong việc thực hiện biện pháp tƣ pháp này.

Do đó, Luật chứ không phải Nghị định, phải quy định cụ thể về trách nhiệm của gia

đình trong việc phối hợp cùng với các cơ quan Nhà nƣớc thực hiện biện pháp giáo

dục tại xã, phƣờng, thị trấn; đồng thời quy định chế tài áp dụng nếu gia đình không

114

thực hiện trách nhiệm phối hợp của mình với cơ quan thi hành án.

* Về pháp luật tố tụng hình sự:

Cũng nhƣ pháp luật hình sự, pháp luật TTHS ở nƣớc ta cũng đã thể hiện tƣơng

đối đầy đủ chính sách nhân đạo khi xử lý hình sự đối với NCTN. Tuy nhiên, các

quy định của BLTTHS về NCTN nhiều khi không đƣợc thực hiện một cách hiệu

quả vì thiếu các quy định pháp luật cụ thể hƣớng dẫn thi hành. Liên quan đến lĩnh

vực pháp luật TTHS về NCTN, chúng tôi có những kiến nghị sau:

Thứ nhất, để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật cần sửa đổi, bổ sung

Điều 413 của BLTTHS quy định về phạm vi áp dụng. Bởi theo quy định của Điều

413 thì “thủ tục tố tụng đối với ngƣời bị buộc tội, ngƣời bị hại, ngƣời làm chứng là

ngƣời dƣới 18 tuổi đƣợc áp dụng theo quy định của chƣơng này, đồng thời theo

những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chƣơng

này” [89]. Điều này đƣợc TAND tối cao hƣớng dẫn nhƣ sau: trƣờng hợp khi phạm

tội bị cáo là NCTN nhƣng khi đƣa bị cáo ra xét xử thì bị cáo đã thành niên thì Tòa

án áp dụng thủ tục tố tụng thông thƣờng nhƣ đối với bị cáo thành niên [102]. Có

nghĩa là thủ tục không bắt buộc có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, không bắt buộc phải có Luật sƣ bào chữa

cho bị cáo. Về mặt hình thức bản thân bị cáo đến khi xét xử đã là ngƣời thành niên,

có nghĩa là bị cáo đã đủ suy nghĩ để tự chứng minh có hay không có sự phạm tội

của mình và tự bảo vệ các quyền lợi khác cho bản thân trƣớc Tòa án. Nhƣng về mặt

nội dung, chúng tôi thấy rằng có vấn đề cần phải cân nhắc, bởi vì khi xét xử bị cáo

là NCTN, pháp luật hình sự bắt buộc phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo là mức

hình phạt theo tuổi ở thời điểm bị cáo phạm tội. Trƣờng hợp này cũng vậy, mặc dù

khi Tòa án mở phiên tòa xét xử bị cáo đã bƣớc vào tuổi 18, thế nhƣng Tòa án không

thể áp dụng hình phạt giống nhƣ ngƣời thành niên đƣợc. Nếu về hình phạt, luật bắt

buộc Hội đồng xét xử phải áp dụng những quy định đối với NCTN phạm tội, nhƣng

về thành phần Hội đồng xét xử, ngƣời bào chữa cho bị cáo lại áp dụng theo thủ tục

chung là chƣa phù hợp. Vì vậy vấn đề này rất cần thiết phải có quy định cụ thể

115

trong Bộ luật tố tụng hình sự.

Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 419 của BLTTHS; bởi trên

thực tế ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi, từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi có thể bị

bắt, tạm giữ, tạm giam trong các trƣờng hợp bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;

đƣợc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhƣng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở

đến việc điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, để quy định có tính bao quát và tạo thuận

lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng thì cần bổ

sung vào cuối khoản 2 và cuối khoản 3 Điều 419 của BLTTHS nội dung: Bị can, bị

cáo bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo đƣợc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác

nhƣng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở đến việc điều tra, truy tố, xét xử.

Thứ ba, sửa đổi khoản 1 Điều 418 BLTTHS thay thuật ngữ “ngƣời đại diện”

bằng thuật ngữ “ ngƣời thân, ngƣời giám hộ” cho phù hợp với quy định của BLDS

năm 2015. Vì vậy, khoản 1 Điều 418 sửa đổi nhƣ sau: Cơ quan điều tra, cơ quan

đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có

thể ra quyết định giao ngƣời bị buộc tội là ngƣời dƣới 18 tuổi cho ngƣời thân hoặc

ngƣời giám hộ của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập

của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Thứ tƣ, khoản 3 Điều 414 BLTTHS quy định quy định nguyên tắc tiến hành

tố tụng quy định: “ Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của ngƣời đại diện của ngƣời

dƣới 18 tuổi, nhà trƣờng, đoàn thanh niên, ngƣời có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm

lý, xã hội, tổ chức khác nơi ngƣời dƣới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.” Tuy

nhiên, tại điều 420 BLTTHS quy định việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện, nhà

trƣờng, tổ chức không đƣa ra quy định khi ngƣời đại diện, thầy giáo, cô giáo, đại

diện nhà trƣờng, đoàn thanh niên, tổ chức khác nơi ngƣời dƣới 18 tuổi học tập, lao

động và công tác đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định cho tham gia tiến

hành tố tụng mà vì lý do chính đáng họ không tham gia đƣợc.

Theo quy định này thì đại diện gia đình bị cáo CTN, nhà trƣờng, Đoàn thanh

niên, các tổ chức khác nơi ngƣời dƣới 18 tuổi sinh sống, học tập, lao động vừa là

116

quyền, vừa là nghĩa vụ phải tham gia tố tụng bởi lẽ chăm sóc giáo dục ngƣời dƣới

18 tuổi là nhiệm vụ của toàn xã hội. Vậy vấn đề đặt ra là trong trƣờng hợp đại diện

nhà trƣờng, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức khác nơi ngƣời

dƣới 18 tuổi sinh sống, học tập, lao động vắng mặt tại phiên tòa mà có lý do chính

đáng thì Tòa án có tiếp tục xét xử vụ án không hay phải hoãn phiên tòa và nếu hoãn

phiên tòa thì căn cứ vào điều nào. Mặt khác, thực tế xét xử cho thấy Tòa án gặp rất

nhiều khó khăn đối với những trƣờng hợp gia đình bị cáo ở địa phƣơng quá xa nơi

xử án hoặc gia đình không thực hiện trách nhiệm gì với bị cáo nên không đến tham

gia phiên tòa. Nếu thực hiện đúng quy định của Điều 306 thì phiên tòa phải hoãn

nhiều lần

Do đó, cần bổ sung vào khoản 4 Điều 420 BLTTHS nhƣ sau:

Điều 420. Việc tham gia tố tụng của ngƣời thân, ngƣời giám hộ, nhà

trƣờng, tổ chức (sửa đổi, bổ sung)...

4. Tại phiên tòa xét xử bị cáo là ngƣời dƣới 18 tuổi phải có mặt đại diện của

ngƣời thân, ngƣời giám hộ của bị cáo, trừ trƣờng hợp đại diện ngƣời thân, ngƣời

giám hộ cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc ở quá xa nơi xét xử

không có điều kiện tham gia, đại diện của nhà trƣờng, tổ chức.

Trong trƣờng hợp đại diện ngƣời thân, ngƣời giám hộ của bị cáo, đại diện của

nhà trƣờng, tổ chức của ngƣời dƣới 18 tuổi vắng mặt tại phiên tòa mà có lý do chính

đáng thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung Điều 423 BLTTHS: Về thành phần Hội đồng xét

xử cần bổ sung thêm thành viên của Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em trong thành

phần Hội thẩm nhân dân khi xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là ngƣời chƣa đủ 18

tuổi. Trên thực tiễn, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em có vai trò quan trọng trong

việc giáo dục ngƣời CTN. Chính vì vậy, cùng với đại diện gia đình, nhà trƣờng và

các tổ chức xã hội cần quy định thêm đại diện của Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em

trong thành phần Hội thẩm nhân dân nhƣ sau:

117

BLTTHS hiện hành quy định:

Điều 423. Xét xử

1. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo

viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc ngƣời có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý

ngƣời dƣới 18 tuổi.

Kiến nghị sửa lại thành:

1. Thành phần trong Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo

viên, là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc là cán bộ Ủy ban bảo

vệ, chăm sóc trẻ em.

4.2.3. Triển khai, áp dụng đồng bộ các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ

4.2.3.1 Các biện pháp phòng ngừa xã hội

* Biện pháp kinh tế

- Các tỉnh khu vực TNB cần tham mƣu đề xuất cho Đảng, nhà nƣớc ban hành

nhiều chính sách đặc thù phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng, tạo cho vùng thế

chủ động tích cực trong thu hút đầu tƣ và phát triển sản xuất. Cho phép các tỉnh,

thành phố khu vực TNB thí điểm nhiều mô hình, cách làm mới trong sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nhƣ mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, mô hình đƣa

hàng Việt về nông thôn, mô hình liên kết “bốn nhà”...

- Tiến hành xây dựng, rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tăng cƣờng liên

kết giữa các tỉnh trong vùng và các địa phƣơng trong cả nƣớc. Xác định các chiến

lƣợc phát triển phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phƣơng,

khu vực TNB và cả nƣớc nhằm phát huy hiệu quả một cách toàn diện. Cần có kế

hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng hình thành các vùng chuyên canh, sản

xuất hàng hóa lớn, tập trung, đạt tiêu chuẩn về chất lƣợng có giá trị xuất khẩu và

tính cạnh tranh với các vùng miền trong nƣớc và các nƣớc trong khu vực.

- Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm nông,

118

lâm, thủy sản, công nghiệp dệt, may, cơ khí... đi đôi với phát triển dịch vụ du lịch

theo hƣớng hình thành các trung tâm thƣơng mại lớn tại Cần Thơ, Phú Quốc và các

đô thị lớn trong vùng nhằm tháo gỡ những khó khăn vƣớng mắc trong vùng nhƣ:

giải quyết việc làm, giải quyết đầu ra cho sản phẩm, tăng nguồn thu nhập ngƣời dân

và ngân sách nhà nƣớc.

- Đề xuất Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đề ra nhiều cơ chế chính sách

nhằm thu hút nhiều nguồn nhân lực đầu tƣ cho vùng. Đẩy mạnh cải cách hành chính

tạo môi trƣờng đầu tƣ thông thoáng, chú trọng thu hút, kêu gọi đầu tƣ vào lĩnh vực

giao thông, thủy lợi, nƣớc sạch, vệ sinh môi trƣờng, ứng phó với biến đổi khí hậu,

đẩy mạnh hợp tác với các vùng Đông Nam bộ, Tây nguyên, Duyên hải miền Trung

và các địa phƣơng của các nƣớc láng giềng nhƣ Thái Lan, Campuchia.

* Biện pháp chính trị tư tưởng

Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thức X (2012 – 2017) đồng chí Tổng bí thƣ

Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng nhấn mạnh: “cần coi trọng và làm tốt hơn nữa

công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng cho thanh thiếu niên, coi đây vừa là yêu cầu,

nhiệm vụ cấp bách vừa mang tính chiến lƣợc lâu dài và là thƣớc đo hiệu quả hoạt

động của đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn cách mạng mới” [44]. Để

góp phần xây dựng thanh, thiếu niên giàu lòng yêu nƣớc, tự cƣờng dân tộc, kiên

định lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý thức

tuân thủ pháp luật, có năng lực bản lĩnh trong giai đoạn hội nhập quốc tế, có sức

khỏe, tri thức, kỹ năng lao động, trở thành những công dân tốt, tích cực tham gia

vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam XHCN. Để đạt đƣợc mục tiêu đó, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền,

mặt trận tổ quốc và các ngành đoàn thể khu vực TNB cần tăng cƣờng và nâng cao

chất lƣợng công tác giáo dục cho thanh thiếu niên nói chung, NCTN nói riêng,

trong đó cần tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp sau:

** Nhận thức đúng và đầy đủ tính cấp bách và tầm quan trọng của công tác

giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, lý tƣởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế

119

hệ trẻ trong đó có ngƣời chƣa thành niên.

+ Các cấp ủy đảng, chính quyền các tỉnh khu vực TNB cần xây dựng chƣơng

trình, kế hoạch để quán triệt thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Ban

chấp hành Trung ƣơng, Chính phủ về công tác thanh niên, công tác bồi dƣỡng, giáo

dục thế hệ trẻ... mà đặc biệt là chỉ thị của Ban bí thƣ trung ƣơng Đảng về tăng

cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tƣởng cách mạng, đạo

đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Tập trung đẩy mạnh tuyên truyền và vận động

cho toàn xã hội thấy đƣợc ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của công

tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Từ đó nâng

cao vai trò trách nhiệm của các ngành các cấp mà đặc biệt là Đoàn thanh niên cộng

sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và

các đoàn thể chính trị trong công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng, đạo đức lối sống

cho thế hệ trẻ.

+ Quan tâm củng cố xây dựng các tổ chức đoàn thanh niên, hội liên hiệp thanh

niên các cấp thật trong sạch vững mạnh. Tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng

nâng cao trình độ cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền giáo dục cho thanh thiếu

niên, chú trọng đào tạo bồi dƣỡng những đoàn viên ƣu tú là cán bộ đoàn, cán bộ hội

làm hạt nhân cho công tác tuyên truyền, giáo dục thanh, thiếu niên.

** Xây dựng môi trƣờng xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ học

tập, rèn luyện, phấn đấu trƣởng thành.

+ Các cấp ủy Đảng, chính quyền khu vực TNB tiếp tục chỉ đạo triển khai thực

hiện có hiệu quả nghị quyết TW4/NQ - TW khóa XI về những vấn đề cấp bách về

xây dựng đảng hiện nay, chỉ thị 05/CT -TW của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng

khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh. Phát huy vai trò tiên phong gƣơng mẫu của tổ chức đảng và đảng viên, ngăn

chặn và từng bƣớc đẩy lùi tình trạng suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức lối

sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên

120

và quần chúng nhân dân trong đó có tầng lớp thanh niên, ngƣời chƣa thành niên.

+ Tổ chức thực hiện nghiêm túc các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nƣớc liên quan đến thanh thiếu niên nhƣ chiến lƣợc phát

triển gia đình Việt Nam, chƣơng trình hành động quốc gia vì trẻ em, chiến lƣợc phát

triển thanh niên Việt Nam, Luật trẻ em, Luật hôn nhân gia đình... Kịp thời phát

hiện, ngăn chặn, lên án những hành vi bạo lực, xâm hại đối với trẻ em và ngƣời

chƣa thành niên.

+ Tiếp tục tuyên truyền vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ,

nếp sống văn minh nơi công cộng, xây dựng gia đình văn hóa, ấp, khóm, cơ quan,

doanh nghiệp an toàn về an ninh trật tự. Từng bƣớc xây dựng con ngƣời mới XHCN

có ý thức “mỗi ngƣời vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mỗi ngƣời”. Có ý thức tự trọng, tự

chủ, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sống và làm việc theo hiến pháp,

pháp luật, phù hợp thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc Việt Nam.

+ Các cơ quan văn hóa, thông tin truyền thông phải thƣờng xuyên kiểm tra kịp

thời phát hiện và đấu tranh ngăn chặn các sản phẩm văn hóa độc hại, các thông tin

sai lệch, âm mƣu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng văn hóa tác động tiêu

cực đến nhận thức, tƣ tƣởng, tình cảm, lối sống của thanh thiếu niên. Đồng thời khai

thác phát huy có hiệu quả các thiết chế văn hóa lành mạnh, tiên tiến có giá trị giáo

dục chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ.

**Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác giáo dục lý

tƣởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ thanh thiếu niên, NCTN.

+ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam

là những tổ chức tập hợp thanh, thiếu niên cần chủ động tham mƣu cho các cấp ủy

đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo cho các ngành, các cấp nâng cao vai trò trách

nhiệm trong công tác giáo dục thanh, thiếu niên và NCTN. Thông qua các nghị

quyết, chƣơng trình, kế hoạch công tác, các cấp ủy đảng, chính quyền qui định và

phân công trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, từng cấp trong công tác giáo dục

121

thanh thiếu niên, ngƣời chƣa thành niên.

+ Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp mà đặc biệt là sự phối

hợp giữa gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong việc quản lý giáo dục, chăm sóc đối

với thế hệ thanh thiếu niên, NCTN. Đối với những thanh niên chậm tiến, mắc phải

tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật thì cần có kế hoạch phân công cụ thể cho từng cá

nhân tổ chức theo dõi, quản lý, giáo dục tránh trƣờng hợp đùn đẩy trách nhiệm,

buông lỏng quản lý hay cho rằng đó là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách mà

cụ thể là của lực lƣợng công an.

+ Thƣờng xuyên nghiên cứu đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục

lý tƣởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh thiếu niên, NCTN. Các

cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thanh niên, hội liên hiệp thanh niên phải thƣờng

xuyên trao đổi, tiếp xúc đối thoại với thế hệ thanh thiếu niên, kịp thời nắm bắt tâm

tƣ nguyện vọng, tình hình tƣ tƣởng trong thanh thiếu niên, kịp thời đấu tranh phê

phán, uốn nắn những lệch lạc, biểu hiện sai trái, tiêu cực trong thanh thiếu niên.

+ Xây dựng và nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến trong vận động

tập hợp, giáo dục thanh thiếu niên nhƣ mô hình Thanh niên tự thân lập nghiệp,

tuổi trẻ với pháp luật, câu lạc bộ thanh niên PCTP... Đồng thời đa dạng hóa các

diễn đàn, hội thi, hội thao, văn hóa văn nghệ nhằm thu hút và tập hợp thanh niên.

Qua đó, vừa làm công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng, vừa khuyến khích cho thế

hệ trẻ tham gia phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng, tăng cƣờng khả

năng đoàn kết tập hợp thanh thiếu niên, ngăn ngừa đƣợc những tác động tiêu cực

từ môi trƣờng xã hội.

* Biện pháp văn hóa, giáo dục

- Các tỉnh khu vực TNB cần triển khai quán triệt thực hiện nghiêm túc tinh

thần Nghị quyết 29/NQ – TW ngày 04/11/2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh

tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Tạo chuyển biến

căn bản, mạnh mẽ về chất lƣợng, hiệu quả giáo dục và đào tạo của khu vực TNB,

122

đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân, phục vụ phát

triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giáo dục hƣớng tập

trung vào đối tƣợng thanh thiếu niên, NCTN phát triển toàn diện về nhân cách, kiến

thức văn hóa, rèn luyện nâng cao thể chất, phát huy tốt khả năng sáng tạo của mỗi

cá nhân, đảm bảo cuộc sống và làm việc có hiệu quả.

+ Các cấp ủy đảng, chính quyền khu vực TNB cần tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ

đạo thực hiện đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào

tạo theo hƣớng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của ngƣời học, tích cực

nghiên cứu áp dụng và phát triển các mô hình giáo dục mới trong các cơ sở giáo dục

phổ thông theo phƣơng châm “học đi đôi với hành”, giáo dục kết hợp với lao động

sản xuất, nhà trƣờng gắn liền với xã hội.

+ Tập trung mọi nguồn lực đầu tƣ nâng cấp cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên

tại các cơ sở đào tạo và dạy nghề. Tiến hành khảo sát đánh giá và qui hoạch chất

lƣợng nguồn nhân lực của khu vực TNB tạo cơ sở cho việc đề ra chƣơng trình, kế

hoạch đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo và dạy nghề, gắn với nhu cầu

sử dụng lao động của các doanh nghiệp và xã hội. Đổi mới nội dung chƣơng trình

đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển đặc thù của vùng Tây Nam Bộ.

+ Thông qua các chính sách miễn giảm học phí, học bổng... ƣu tiên đào tạo

cho con em vùng sâu, vùng biên giới, đặc biệt khó khăn, con em đồng bào dân tộc

thiểu số có cơ hội đƣợc học tập và việc làm nhằm nâng cao trình độ dân trí, ổn định

đời sống vùng đồng bào dân tộc. Đồng thời có chính sách thu hút nguồn nhân lực có

chất lƣợng cao về công tác, làm việc tại những vùng trọng điểm khó khăn, góp phần

kéo giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng trong khu vực đồng bằng sông

Cửu Long và cả nƣớc nói chung.

* Biện pháp an sinh xã hội

- Bên cạnh giải pháp nâng cao hiệu quả chất lƣợng công tác giáo dục đào tạo.

Các tỉnh khu vực TNB cần triển khai đồng bộ những giải pháp nhằm đảm bảo an

sinh xã hội, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là đối với

123

ngƣời nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa nhất là vùng dân tộc Khơ me Nam bộ.

+ Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm

nông thôn, hỗ trợ khoa học kỹ thuật, giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, ƣu đãi

trong vay vốn tín dụng, tìm thị trƣờng lao động trong và ngoài nƣớc để tạo việc làm

cho lực lƣợng lao động trong vùng, nhằm tăng thu nhập ổn định cuộc sống.

+ Khôi phục các làng nghề truyền thống nhƣ gốm sứ ở Vĩnh Long, nem Lai

Vung Đồng Tháp, làng lụa Bảy Núi An Giang, làng đóng ghe xuồng Ngã Bảy

Phụng Hiệp... gắn với phát triển du lịch miệt vƣờn, du lịch sông nƣớc nhằm bảo tồn

các di sản văn hóa của vùng, góp phần phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho ngƣời

lao động vùng dồng bằng sông Cửu Long.

+ Tiếp tục thực hiện đề án Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân. Ƣu tiên

cấp thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo quan tâm mở rộng mạng lƣới y

tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào nghèo,

khó khăn đƣợc tiếp cận các dịch vụ y tế hiện đại.

- Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lƣợng cuộc vận động toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ, nếp sống văn minh nơi công cộng

gắn với cuộc vận động toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới. Đảm bảo

nhu cầu sinh hoạt văn hóa cho nhân dân. Bảo tồn và phát huy các loại hình văn

hóa đặc trƣng của vùng đồng bằng nam bộ nhƣ đờn ca tài tử, đua ghe ngo, lễ hội

đua bò... giữ gìn và phát huy những giá trị tiêu biểu, loại bỏ dần những hủ tục,

từng bƣớc xây dựng những giá trị mới về nghệ thuật và hình thành nếp sống mới

tiến bộ hơn ở vùng Tây Nam Bộ.

Có thể khẳng định các biện pháp phòng ngừa xã hội là những giải pháp căn

cơ, bền vững để kéo giảm và tiến tới xóa bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Khi

xã hội phát triển, trình độ dân trí đƣợc nâng lên, đời sống vật chất tinh thần của

nhân dân ngày càng đƣợc đáp ứng tốt hơn, tình trạng thất nghiệp, sự phân hóa giàu

nghèo, tình trạng bất công trong xã hội sẽ bị thu hẹp thay vào đó là một môi trƣờng

xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc thì nhất

124

định tội phạm nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện sẽ bị “diệt vong”.

4.2.3.2 Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan tư pháp, cơ

quan chuyên trách phòng chống tội phạm

Tổ chức tốt công tác quản lý hành chính, điều tra nắm chắc tình hình đối

tượng là người chưa thành niên có nguy cơ và điều kiện phạm tội nhằm phòng

ngừa ngăn chặn tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật, phạm tội

- Lực lƣợng công an mà trực tiếp là công an xã, phƣờng, thị trấn, cảnh sát khu

vực, công an phụ trách xã về an ninh trật tự... phải thực hiện tốt công tác quản lý

đăng ký hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng, giám sát quản lý số đối tƣợng áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn, đối tƣợng có biểu hiện vi phạm pháp

luật... Nhằm kịp thời phát hiện những di biến động của đối tƣợng để có kế hoạch,

biện pháp đối phó hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động PNTP do NCTN

gây ra. Đồng thời với vai trò thƣờng trực, lực lƣợng công an cần phối hợp với các

ngành, đoàn thể tổ chức tốt hoạt động quản lý, giáo dục và giúp đỡ trẻ em hƣ, trẻ

em làm trái pháp luật tại cộng đồng dân cƣ, hạn chế thấp nhất tình trạng tái phạm

tội.Trong đó, tập trung triển khai thực hiện các mô hình điểm về quản lý, giáo dục,

giúp đỡ NCTN phạm pháp tại cộng đồng.

- Củng cố và nâng cao chất lƣợng hoạt động của các đội kiểm tra liên ngành

văn hóa - thông tin, truyền thông, quản lý thị trƣờng, kế hoạch đầu tƣ, công an...

thƣờng xuyên kiểm tra quản lý chặt những cơ sở phát hành, buôn bán kinh doanh

sách, băng, đĩa, các ấn phẩm văn hóa, dịch vụ internet... nhằm kịp thời phát hiện

ngăn chặn, thu giữ những ấn phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy, độc hại, kích động

bạo lực... gây ảnh hƣởng tiêu cực đến quá trình phát triển nhân cách của trẻ em và

NCTN, loại trừ nguyên nhân có ảnh hƣởng trực tiếp đến THTP do NCTN thực hiện.

- Lực lƣợng công an cơ sở phối hợp chặt chẽ với lực lƣợng quân đội, dân quân

tự vệ, dân phòng tăng cƣờng công tác tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự,

chú trọng ở những địa bàn, tuyến, lĩnh vực trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự.

Việc tuần tra kiểm soát phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục và thay đổi cách

125

thức, phƣơng pháp tiến hành không theo một quy luật nhất định. Cần đầu tƣ trang

thiết bị, phƣơng tiện hiện đại nhƣ: phƣơng tiện giao thông, thông tin liên lạc, ghi

âm, ghi hình, vũ khí, công cụ hỗ trợ… để nâng cao chất lƣợng tuần tra kiểm soát.

Thông qua các biện pháp hành chính nhƣ quản lý nhân, hộ khẩu, quản lý cƣ trú để

phát hiện di biến động của tội phạm, góp phần tích cực trong hoạt động phòng ngừa

tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh, thành phố Tây Nam Bộ.

- Trên cơ sở công tác quản lý nhân hộ khẩu, quản lý địa bàn, các lực lƣợng

chức năng mà chủ công là lực lƣợng công an tiến hành công tác sƣu tra, xác minh,

quản lý nghiệp vụ các đối tƣợng có khả năng, điều kiện phạm tội, đối tƣợng tù, cơ

sở giáo dục, trƣờng giáo dƣỡng, cơ sở chữa bệnh bắt buộc tha về địa phƣơng; các

đối tƣợng hình sự khác... Từ đó chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn kịp thời

hoạt động của tội phạm, trong đó có tội phạm do NCTN gây ra. Đồng thời tăng

cƣờng khảo sát sƣu tra chuyên đề, sƣu tra theo tuyến, lĩnh vực, theo hệ loại đối

tƣợng để phục vụ tốt cho việc đề ra chƣơng trình, kế hoạch và các biện pháp phòng

ngừa, đấu tranh, PCTP. Để phát huy hiệu quả đòi hỏi công tác sƣu tra, điều tra phải

đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, liên tục, một cách có hệ thống, kịp thời thu thập bổ

sung thông tin về địa bàn, lĩnh vực, đối tƣợng... để có đối sách kịp thời mang lại

hiệu quả cao.

Triển khai thực hiện tốt công tác tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm

khi có tội phạm, công tác điều tra, truy tố, xét xử khi có tội phạm do người chưa

thành niên gây ra góp phần xử lý nghiêm đúng người, đúng tội theo quy định

của pháp luật

*Tăng cƣờng hoạt động tiếp nhận xử lý tin báo, tố giác tội phạm nói chung, tội

phạm do NCTN thực hiện nói riêng.

Để phát huy tốt vai trò của quần chúng nhân dân trong hoạt động PCTP nói

chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng thì ngoài yêu cầu nâng cao ý thức

cho ngƣời dân thì việc tạo điều kiện của các cơ quan chức năng cho quần chúng

tham gia phát hiện tố giác tội phạm là vấn đề hết sức quan trọng. Số điện thoại

126

nóng, hòm thƣ tố giác tội phạm, trực ban hình sự của các cơ quan công an phải

đƣợc hoạt động suốt 24/24 và có cơ chế tiếp nhận phối hợp xử lý tin một cách

nhanh chóng hiệu quả. Thực tế ở các tỉnh thành phố TNB trong thời gian qua cũng

đã triển khai thực hiện hòm thƣ tố giác tội phạm, tụ điểm tiếp nhận thông tin tố giác

tội phạm, số điện thoại an ninh trật tự…Tuy nhiên, số lƣợng còn hạn chế, chƣa có

ngƣời phụ trách kiểm tra thƣờng xuyên, đặt ở những nơi nhƣ trƣớc cổng cơ quan

công an, trụ sở ấp, khóm do vậy lƣợng thông tin tố giác tội phạm còn rất hạn chế.

Để nâng cao hiệu quả trong công tác tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm trong thời

gian tới, cần công khai các số điện thoại của các lực lƣợng chức năng, công an

phƣờng, đội, đồn công an... ở những nơi công cộng để nhân dân dễ dàng liên lạc tố

giác tội phạm đƣợc nhanh chóng, đảm bảo bí mật, an toàn, tiết kiệm và thuận lợi.

Có bộ phận chuyên trách trong tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm ở các cơ

quan chức năng. Đảm bảo mọi nguồn thông tin phải đƣợc xác minh và xử lý, tránh

tình trạng bỏ sót lọt không xử lý tin báo tố giác tội phạm sẽ gây mất lòng tin trong

quần chúng nhân dân. Đồng thời phải xây dựng quy chế phân định rõ vai trò trách

nhiệm của từng cơ quan, cá nhân trong công tác tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội

phạm nhằm cho việc xử lý tin báo tố giác tội phạm đƣợc nhanh chóng, kịp thời, hạn

chế thấp nhất hậu quả do tội phạm gây ra.

*Tăng cƣờng giải pháp trong phòng ngừa, phát hiện NCTN phạm tội trên địa

bàn các tỉnh, thành phố Tây Nam Bộ.

Công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tội phạm do NCTN

thực hiện nói riêng là một trong những giải pháp cơ bản đƣợc đặt lên hàng đầu. Tuy

nhiên, công tác trấn áp tội phạm, điều tra làm rõ tội phạm phục vụ cho việc truy tố,

xét xử đúng ngƣời, đúng tội trƣớc pháp luật là một giải pháp rất quan trọng. Do vậy,

các lực lƣợng chuyên trách chủ công (lực lƣợng công an các cấp) cần thƣờng xuyên

tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, chú ý tập trung vào những địa

bàn trong điểm phức tạp, hay từng loại tội phạm có diễn biến phức tạp nhƣ tội trộm

127

cắp tài sản, cƣớp giật tài sản, cố ý gây thƣơng tích, hiếp dâm...

Áp dụng có hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, nghiệp vụ điều tra của

lực lƣợng công an kịp thời phát hiện, xử lý, lập hồ sơ giáo dục tại xã, phƣờng, thị

trấn... nhằm làm vô hiệu hóa các hoạt động vi phạm pháp luật, phạm tội của NCTN.

Công tác tấn công trấn áp tội phạm đạt hiệu quả cũng góp phần răn đe, ngăn chặn

tội phạm, kéo giảm THTP nói chung và tội phạm do NCTN thực hiện.

Phân công cán bộ điều tra các vụ án do NCTN thực hiện cần xem xét chọn

những điều tra viên có đủ năng lực, phẩm chất, nhiều kinh nghiệm mà đặc biệt là

những điều tra viên am hiểu sâu về tâm lý tội phạm nhất là tội phạm CTN, đồng

thời phải nắm vững những quy định của pháp luật về NCTN. Trong quá trình hỏi

cung bị can là NCTN thì nhiệm vụ của điều tra viên không chỉ đơn thuần là làm rõ

những tình tiết của vụ án, làm rõ vai trò trách nhiệm của từng bị can trong vụ án,

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, nguyên nhân, điều kiện phạm tội... mà điều

tra viên phải bằng những kinh nghiệm, kiến thức pháp luật, nghiệp vụ của mình để

giáo dục thuyết phục cho bị can thấy rõ những sai phạm của mình mà ăn năn, hối

cải, tự giác khai báo thành khẩn, góp phần nâng cao chất lƣợng hỏi cung bị can, đƣa

vụ án ra truy tố, xét xử đúng ngƣời, đúng tội, tránh oan sai, sót lọt tội phạm.

Hiện nay tội phạm do NCTN thực hiện ở khu vực Tây Nam Bộ ngày càng có

sự liên kết, hoạt động liên tỉnh, liên huyện, phƣơng thức thủ đoạn ngày càng tinh vi,

hình thành băng nhóm, phạm tội có tổ chức... Vì vậy công tác điều tra tội phạm do

NCTN thực hiện cần xác lập các chuyên án đấu tranh để phát hiện ra tội phạm một

cách triệt để hơn, không để sót lọt tội phạm. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra

cũng cần chú trọng công tác phát hiện các phƣơng thức, thủ đoạn, xu hƣớng phát

triển của tội phạm để tổng kết rút kinh nghiệm, chủ động đề ra những giải pháp

phòng ngừa có hiệu quả.

*Phát huy vai trò của VKSND trong phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện.

Bằng các biện pháp nghiệp vụ lực lƣợng KSND các cấp tăng cƣờng công tác

kiểm tra, quản lý, phân loại và xử lý tin báo tố giác tội phạm, không để tin báo tố

128

giác tội phạm tồn đọng, kéo dài, qua công tác kiểm tra giám sát yêu cầu các cơ quan

chức năng xác minh, điều tra có hay không có sự kiện phạm tội để có biện pháp xử

lý tiếp theo cho phù hợp. Bên cạnh đó,VKSND cũng chủ động phối hợp với cơ

quan điều tra, tòa án chọn những vụ án điểm đƣa ra xét xử theo trình tự thủ tục cải

cách tƣ pháp, đồng thời tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong

nhân dân.

Bên cạnh những biện pháp tác động trực tiếp đến quá trình phát hiện, điều tra,

truy tố, xét xử thì VKSND các cấp cũng cần thực hiện tốt các quyền về kháng nghị,

kiến nghị, yêu cầu khi phát hiện những sơ hở thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố

tụng để xử lý tội phạm một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định của pháp

luật. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ VKSND cần có sự phối hợp chặt chẽ với cơ

quan điều tra, tòa án, thi hành án để thống nhất chủ trƣơng biện pháp PNTP trên

tinh thần hiệp đồng công tác, hỗ trợ giúp đỡ nhau nhƣng phải đúng chức năng,

nhiệm vụ và nguyên tắc hoạt động độc lập của từng ngành, tránh xu hƣớng thỏa

hiệp một chiều, đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau.

*Tổ chức tốt công tác xét xử đối với NCTN phạm tội.

Nghị quyết số 49/NQ – TW của Bộ Chính trị đã đặt ra mục tiêu: “Xây dựng

nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng

bƣớc hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hoạt

động tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử đƣợc tiến hành có hiệu quả và hiệu

lực cao” [10, tr.2]. Có thể khẳng định trong hoạt động của các cơ quan tƣ pháp thì

hoạt động xét xử của tòa án giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ hoạt động của quá

trình tố tụng, để đạt đƣợc mục đích cốt lõi là phòng ngừa, triệt tiêu tội phạm ra khỏi

đời sống xã hội thì khi tiến hành xét xử các vụ án nói chung, vụ án có tội phạm là

NCTN nói riêng thì tòa án cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau đây:

Tổ chức và hoạt động xét xử trƣớc hết phải tuân thủ đầy đủ những quy định,

nguyên tắc của pháp luật mà cụ thể là luật hình sự, tố tụng hình sự. Đây là nguyên

tắc cơ bản của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, TAND nói riêng. Có thực

129

hiện tốt nguyên tắc này thì pháp chế mới đƣợc triệt để tranh thủ, các quyền và nghĩa

vụ của con ngƣời, quyền trẻ em, quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố

tụng mới đƣợc đảm bảo đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của bị cáo là NCTN... Từ đó

thì việc xét xử mới đảm bảo đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật đáp ứng yêu cầu

phòng ngừa, xử lý tội phạm trong hoạt động xét xử - khâu mấu chốt quyết định để

áp dụng hình thức xử lý đối với NCTN phạm tội.

Toà án nhân dân các cấp cần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lƣợng tranh

tụng tại phiên tòa xem đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp. Đây là vấn đề đã

đƣợc Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 5 Điều 103 “nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử đƣợc đảm bảo” [81, tr.26] và nó hoàn toàn phù hợp với tinh thần cải

cách tƣ pháp và cần phải đƣợc thực hiện một cách triệt để trong các phiên tòa xét xử

nhất là trong xét xử đối với NCTN. Khi xét xử phải đảm bảo cho mọi công dân đều

bình đẳng trƣớc pháp luật, thực sự dân chủ, nghiêm minh, khách quan theo đúng

tinh thần cải cách tƣ pháp. Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo quy

định của pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử

của thẩm phán, hội thẩm. Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh

tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại

diện viện kiểm sát, của luật sƣ bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn và những

ngƣời tham gia tố tụng khác để đƣa ra bản án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.

Do NCTN có những đặc điểm tâm lý, khả năng nhận thức, kiến thức pháp

luật... có những khác biệt so với ngƣời trƣởng thành và pháp luật cũng có những chế

định riêng đối với NCTN, do vậy trong tổ chức xét xử tòa án cũng cần xem xét điều

chỉnh một số thủ tục xét xử cho phù hợp mang lại hiệu quả cho hoạt động xét xử.

Thay đổi nghi thức phòng xử án cho NCTN. Việc bố trí phòng xét xử hiện nay chƣa

phù hợp gây tâm lý không tốt cho NCTN. Cần có những phiên tòa thân thiện gần

gũi cho NCTN, có thể nhƣ không có vành móng ngựa, hội đồng xét xử có thể ngồi

gần hơn, thấp hơn nhằm tạo tâm lý gần gũi, bớt căng thẳng tâm lý, tạo đƣợc sự tin

tƣởng vào sự nghiêm minh của phiên tòa đối với bị cáo là NCTN. Đồng thời, hạn

chế áp dụng hình thức xét xử lƣu động đối với NCTN phạm tội trừ trƣờng hợp đặc

130

biệt cần giáo dục tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Do NCTN là

ngƣời chƣa trƣởng thành, chƣa nhận thức đầy đủ đúng sai nên khi có hành vi phạm

tội, bị đƣa ra xét xử sẽ có tác động lớn về tâm sinh lý của NCTN . Nếu đƣa ra xét xử

lƣu động với sự chứng kiến của đông đảo ngƣời thân, bạn bè, thầy cô... sẽ tạo cho

NCTN một sự mặc cảm, một dấu ấn tiêu cực khó phai đối với việc hình thành nhân

cách sau này của NCTN. Cần xem xét xét xử kín để hạn chế những ảnh hƣởng tiêu

cực đối với NCTN theo tinh thần hiến pháp 2013 “...Trong trƣờng hợp đặc biệt...

bảo vệ NCTN... TAND có thể xem xét xử kín” [81, tr.26]. Bên cạnh đó, thì tòa án

cũng cần làm tốt công tác giải thích, giáo dục pháp luật tại các phiên tòa xét xử.

Những ngƣời tiến hành tố tụng bằng những kiến thức pháp lý của mình giải thích

giáo dục cho bị cáo là NCTN và những ngƣời tham dự phiên tòa hiểu và tuân thủ

pháp luật. Đây là biện pháp hiệu quả, đặc biệt quan trọng đối với phiên tòa xét xử

NCTN để họ nhận thức đƣợc tội lỗi của mình, sửa chửa và không mắc phải sai lầm

tiếp theo. Thông qua hoạt động xét xử bị cáo là NCTN tòa án chỉ ra đƣợc nguyên

nhân và điều kiện của tội phạm để có kiến nghị cho các cơ quan, tổ chức hữu quan

khắc phục hạn chế, sơ hở là nguyên nhân, điều kiện làm cho tội phạm CTN phát

sinh đây là giải pháp quan trọng trong phòng ngừa tội phạm của Toà án nhân dân.

*Tăng cƣờng phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện thông qua hoạt động thi

hành án hình sự

Trong hoạt động thi hành án hình sự, nhất là trong hoạt động thi hành án phạt

tù đối với phạm nhân là NCTN thì yêu cầu cần thiết hiện nay là phải có biện pháp

cải tạo riêng, phù hợp với đặc điểm tâm lý của NCTN, các trại giam, trại tạm giam,

nhà tạm giữ cần có khu, phòng riêng trong việc giam, giữ phạm nhân là NCTN,

trong lao động cũng cần phân công công việc cho phù hợp với thể trạng, lứa tuổi

của phạm nhân là NCTN nhằm đảm bảo các quyền, nghĩa vụ của NCTN phạm tội.

Để làm tốt yêu cầu này, vấn đề xây dựng cơ sở vật chất ở trại giam, trại tạm giam,

nhà tạm giữ và nâng cao chất lƣợng, số lƣợng của cán bộ quản giáo tại các trại

giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ là vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay. Bên

cạnh việc nâng cao chất lƣợng, số lƣợng đội ngũ cán bộ quản giáo thì cần đổi mới

131

hình thức, biện pháp giáo dục, cải tạo NCTN phạm tội theo hƣớng nhân đạo, nhân

văn, vì con ngƣời, tôn trọng quyền con ngƣời, quyền trẻ em, NCTN theo quy định

của pháp luật.

Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục

pháp luật cho quần chúng nhân dân về phòng ngừa tội phạm nói chung, tội

phạm do người chưa thành niên thực hiện nói riêng trên địa bàn các tỉnh TNB

- Cần có một cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp trong công tác

vận động tuyên truyền giáo dục pháp luật. Trong đó lực lƣợng Công an phải phối

hợp chặt chẽ với Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy

ban dân số gia đình và trẻ em, Sở Lao động thƣơng bình và xã hội, Sở Giáo dục đào

tạo, Sở Tƣ pháp để tuyên truyền giáo dục và phổ biến pháp luật, tuyên truyền công

tác PCTP và tệ nạn xã hội. Để nâng cao hiệu quả các mối quan hệ phối hợp trên thì

trƣớc hết các cấp ủy, chính quyền phải quan tâm chỉ đạo sâu sát thông qua các chỉ

thị, nghị quyết và công tác kiểm tra, giám sát, đồng thời đƣa công tác tuyên truyền

phổ biến giáo dục pháp luật, PCTP vào trong các tiêu chí đánh giá tổ chức cơ sở

Đảng, chấm điểm thi đua, khen thƣởng, kĩ luật hàng năm của đơn vị, địa phƣơng.

Từ đó mới nâng cao đƣợc vai trò trách nhiệm của cấp ủy, thủ trƣởng đơn vị trong

công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và phòng chống tội phạm.

- Đổi mới nội dung, phƣơng thức tuyên truyền vận động ý thức chấp hành

pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc điểm phong tục tập

quán, điều kiện lao động sản xuất ở từng địa phƣơng, phù hợp với trình độ và tâm lý

của tầng lớp thanh thiếu niên, NCTN thông qua các hình thức phong phú đa dạng

nhƣ: Thông qua hệ thống loa truyền thanh ở từng ấp, khóm, khu dân cƣ; thông qua

các cuộc thi, hội thảo, hái hoa dâng chủ, câu lạc bộ pháp luật, câu lạc bộ “tình

thƣơng và trách nhiệm”, tủ sách pháp luật, thƣ viện pháp luật, tổ, đội, nhóm cộng

tác viên tuyên truyền pháp luật... để thƣờng xuyên giáo dục phổ biến pháp luật tới

đông đảo quần chúng nhân dân và NCTN để mọi ngƣời tự nâng cao nhận thức pháp

luật của mình. Trong tuyên truyền giáo dục pháp luật tuy đa dạng về hình thức,

132

phong phú về nội dung nhƣng tùy theo đối tƣợng và mục đích cần đạt đƣợc thì cần

có sự chọn lọc trọng tâm trọng điểm, để phòng ngừa tình hình NCTN phạm tội ở

khu vực TNB cần tập trung tuyên truyền phòng ngừa 4 nhóm tội phạm phổ biến ở

khu vực, đó là: Trộm cắp tài sản, cƣớp giật tài sản, cố ý gây thƣơng tích, hiếp dâm

trẻ em... vận động quần chúng tích cực tham gia phòng ngừa tố giác tội phạm, vận

động đối tƣợng ra đầu thú, tham gia giáo dục giúp đỡ NCTN tái hòa nhập cộng

đồng, tuyên truyền về tâm lý giới tính lứa tuổi CTN, những quyền cơ bản của trẻ em

đƣợc qui định trong pháp luật Việt Nam, nguyên nhân, điều kiện, phƣơng thức thủ

đoạn phạm tội của NCTN... để mọi ngƣời cảnh giác đề phòng, phát hiện tố giác

hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội của ngƣời chƣa thành niên.

- Mặt khác, để công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, PCTP, tệ nạn xã hội

đƣợc thƣờng xuyên, liên tục thì cần liên kết với các phong trào toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cƣ, nếp sống văn minh nơi công cộng, phong

trào chung tay xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo... Thông qua các đợt

vận động thực hiện các phong trào cách mạng ở địa phƣơng để lồng ghép nội dung

tuyên truyền giáo dục pháp luật về PCTP, tệ nạn xã hội trong đó có nội dung phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện.

- Bên cạnh công tác tuyên truyền vận động ý thức chấp hành pháp luật thì biện

pháp xử lý nghiêm minh những đối tƣợng phạm tội cũng có tác dụng răn đe tội

phạm. Các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án cần nghiên cứu đƣa ra xét xử một

số vụ án điểm để răn đe những đối tƣợng khác. Đồng thời các đoàn thể địa phƣơng,

các cơ quan tuyên truyền vận động các em có quá khứ lầm lỗi, phạm tội tự sự về

những lỗi lầm của mình và ý chí khắc phục vƣơn lên để làm gƣơng cho các em khác

rút kinh nghiệm, hoặc mời gia đình, cha, mẹ, ngƣời thân có con em vi phạm pháp

luật, phạm tội nói về sự ân hận, sai lầm của gia đình trong việc buông lỏng quản lý

giáo dục con cái để xảy ra hậu quả đáng tiếc để mọi ngƣời quan tâm nuôi dạy, chăm

sóc, giáo dục con cái tốt hơn.

Xây dựng và củng cố nâng chất lượng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh

133

tổ quốc, phòng ngừa, phát hiện và tố giác tội phạm do người chưa thành niên

gây ra, quản lý, giáo dục, giúp đỡ cho người chưa thành niên phạm tội, vi phạm

pháp luật tiến bộ hòa nhập với cộng đồng.

- Các cấp ủy đảng, chính quyền, lãnh đạo các đơn vị, địa phƣơng phải xác định

“Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ đặc biệt của

toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc” [4,

tr.1]. Từ đó để xác định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của phong trào toàn dân bảo

vệ an ninh tổ quốc là một nhiệm vụ trọng tâm, thƣờng xuyên, phải đƣợc các cấp các

ngành đƣa vào nghị quyết, chƣơng trình công tác để triển khai thực hiện có hiệu quả

cao nhất.

- Quan tâm cũng cố và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quần chúng

tham gia bảo vệ an ninh trật tự, PCTP ở cơ sở nhƣ: tổ tự quản, đội dân phòng, ban

hòa giải, hội đồng bảo vệ an ninh trật tự an toàn xã hội... hoạt động có hiệu quả.

Thông qua việc đầu tƣ phân bổ ngân sách hàng năm, vận động cá nhân, tổ chức, cơ

quan, doanh nghiệp... để tạo các nguồn quỹ phục vụ cho việc duy trì và củng cố

phát triển nhân rộng các mô hình phong trào mang lại hiệu quả thiết thực nhƣ: mô

hình “đèn trƣớc ngõ, mỏ trong nhà”, mô hình “đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng

bào dân tộc Khmer” ở Trà Vinh, Sóc Trăng; “giáo dục tự quản, tự phòng” ở Cà

Mau; “hỗ trợ vốn cho trẻ em vi phạm pháp luật” ở Đồng Tháp; “Đội xe ôm xung

kích bảo vệ ANTT” ở Hậu Giang, Vĩnh Long; “đảng viên và doanh nghiệp đỡ đầu

cho hộ nghèo” ở Bạc Liêu; “liên kết tự quản, tự bảo vệ trong ngƣ dân đánh bắt xa

bờ” ở Bến Tre, Tiền Giang... Bên cạnh việc tạo điều kiện về kinh phí để duy trì phát

huy các mô hình phong trào thì cũng cần thƣờng xuyên tổ chức sơ tổng kết rút kinh

nghiệm, tổ chức tọa đàm, giao lƣu học hỏi giữa các địa phƣơng để mô hình ngày

càng lan tỏa, phát huy đƣợc hiệu quả tích cực trong cả khu vực Tây Nam Bộ.

- Thực hiện tốt quy chế liên kết, phối hợp đảm bảo an ninh trật tự ở những địa

bàn giáp giới hành chính giữa các xã thị trấn, quận huyện, thị xã, tỉnh, thành phố.

Chú trọng xây dựng các mô hình phối kết hợp trong phát động phong trào toàn dân

134

bảo vệ an ninh tổ quốc, quản lý hành chính về an ninh trật tự, PCTP, tệ nạn xã hội...

- Tranh thủ vận động và thuyết phục những chức sắc trong các tôn giáo, ngƣời

có uy tín trong đồng bào dân tộc Khơ Me, trong dòng họ cộng tác thành những lực

lƣợng nòng cốt trong công tác vận động toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, đặc biệt là

cảm hóa giáo dục NCTN vi phạm pháp luật tại cộng đồng dân cƣ, góp phần hạn chế

nguy cơ phạm tội của NCTN, đảm bảo an ninh trật tự ngay tại cơ sở.

- Bên cạnh việc nâng cao chất lƣợng hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh tổ quốc, thì các cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp cần làm tốt công tác tái hòa

nhập cộng đồng cho những ngƣời có quá khứ lầm lỗi, vi phạm pháp luật, bị xử lý

phạt tù khi trở về địa phƣơng, xem đây là một bộ phận của công tác phát động

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc. Trƣớc hết cần tập trung tuyên truyền

vận động quần chúng nhân dân, các cấp, các ngành và toàn xã hội tích cực tham gia

xóa bỏ mặc cảm, kì thị, hỗ trợ giúp đỡ những ngƣời thi hành xong án phạt tù, đi

trƣờng giáo dƣỡng, cơ sở giáo dục trở về địa phƣơng ổn định cuộc sống.

Lực lƣợng chức năng tiến hành rà soát, phân loại, cập nhật thông tin, bổ sung

hồ sơ về đối tƣợng từ đó phân hóa từng đối tƣợng cụ thể để phối hợp với các ngành,

các cấp có biện pháp giáo dục cảm hóa giúp đỡ cho phù hợp. Phòng ngừa không để

đối tƣợng tái phạm, vi phạm pháp luật. Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, doanh

nghiệp, tổ chức dạy nghề, tạo điều kiện vay vốn, vận động các doanh nghiệp, các tổ

chức sản xuất kinh doanh tiếp nhận ngƣời chấp hành xong án phạt tù, đi cơ sở giáo

dục, trƣờng giáo dƣỡng về vào làm việc tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm

tạo cho họ việc làm và thu nhập ổn định cuộc sống.Nghiên cứu xây dựng và nhân

rộng một số mô hình tái hòa nhập cộng đồng mang lại hiệu quả thiết thực nhƣ: mô

hình vận động gây quỹ tái hòa nhập cộng đồng, mô hình hội phụ nữ giáo dục chồng,

135

con không vi phạm pháp luật, tái phạm tội...

4.2.4. Củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác phòng ngừa

tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây

Nam Bộ

Đào tạo, bồi dưỡng thật chuyên sâu đội ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát

viên, Thẩm phán tòa án, và các lực lượng chuyên trách phòng chống tội phạm do

NCTN thực hiện ở các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ.

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển đất nƣớc trong quá trình hội

nhập quốc tế, THTP do NCTN gây ra ngày càng diễn biến phức tạp, thủ đoạn gây

án ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây hậu quả tác hại lớn cho xã hội... Vì vậy, để đáp

ứng đƣợc yêu cầu phòng ngừa đấu tranh với loại tội phạm này đòi hỏi lực lƣợng

Công an, Viện kiểm sát, Tòa án phải đƣợc nâng cao trình độ, bản lĩnh và đƣợc tổ

chức chính qui, hiện đại. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết

định đối với việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngừa THTP nói chung, tội

phạm do NCTN thực hiện nói riêng. Giải pháp này đòi hỏi phải thực hiện tốt những

nội dung sau:

-Tăng cƣờng công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, phẩm chất đạo đức cho các

lực lƣợng tham gia công tác phòng ngừa THTP nói chung, tội phạm trong lứa tuổi

CTN nói riêng. Thƣờng xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm, nghiên cứu pháp

luật, nghiệp vụ và tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nƣớc và quốc tế;

đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh và các

phong trào thi đua của từng ngành, từng cấp. Thực hiện tốt qui chế quản lý đối với

lực lƣợng làm công tác phòng chống tội phạm nhất là cán bộ làm việc ở những môi

trƣờng dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Kiên quyết đƣa ra khỏi bộ máy, cấm đảm

nhiệm các chức vụ, chức danh Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,... có biểu

hiện tiêu cực, tham nhũng, không đủ năng lực, phẩm chất đạo đức. Từng bƣớc xây

dựng đội ngũ thực hiện công tác PCTP và PCTP do NCTN thực hiện ngày càng

136

trong sạch vững mạnh.

-Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên trách PCTP đặc biệt là

các cơ quan tƣ pháp nhƣ cảnh sát điều tra, viện kiểm sát, tòa án theo hƣớng tinh gọn

hoạt động hiệu quả. Chú trọng xây dựng các cơ quan chuyên trách ở cơ sở cấp quận,

huyện. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc, nâng cao năng lực của lãnh đạo, chỉ

huy, ngƣời đứng đầu cơ quan. Chấn chỉnh lễ tiết, tác phong, của lực lƣợng tham gia

PCTP.Tăng cƣờng lực lƣợng cho đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tòa

án, thực hiện tốt công tác tuyển dụng, quy hoạch bố trí cán bộ, bổ nhiệm, miễn

nhiệm, đào tạo và đào tạo lại.

- Tăng cƣờng quân số cho đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tòa

án là một nhu cầu bức xúc của các tỉnh miền TNB. Vấn đề này đòi hỏi các tỉnh,

thành phố cần rà soát lại đội ngũ cán bộ của các cơ quan tƣ pháp để đề nghị Chính

phủ, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp, TAND tối cao, VKSND tối cao quan tâm đáp ứng.

Đồng thời cần phải có kế hoạch phân bổ hợp lý cán bộ hiện có của từng ngành, từng

cấp cho phù hợp với tình hình tránh lãng phí cán bộ, “thiếu nhƣng lại thừa”. Việc

tuyển dụng, qui hoạch, bố trí cán bộ, bổ nhiệm, miễn nhiệm phải đảm bảo tiêu

chuẩn chức danh qui định. Ngoài các tiêu chuẩn chung theo quy định cũng cần xem

xét đến các tố chất, năng khiếu, bản lĩnh trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án đối với NCTN phạm tội.

- Tăng cƣờng công tác đào tạo cho lực lƣợng Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán và các lực lƣợng trực tiếp tham gia công tác PCTP cho các tỉnh khu vực

miền Tây Nam Bộ.

+ Đề nghị các cơ sở đào tạo của lực lƣợng CAND, VKSND, TAND, Tƣ pháp

... liên kết với các tỉnh khu vực TNB tổ chức các khóa đào tạo về nghiệp vụ, ngoại

ngữ, tin học nhằm nâng cao trình độ, đủ tiêu chuẩn theo qui định để bổ nhiệm các

chức danh tƣ pháp và bố trí vào các cơ quan phòng chống tội phạm cho đội ngũ cán

bộ các tỉnh miền TNB, chú ý đào tạo kĩ năng này phòng ngừa THTP do NCTN thực

hiện. Đồng thời, thƣờng xuyên tổ chức các khóa bồi dƣỡng, tập huấn ngắn hạn, hội

137

thảo, tọa đàm, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm về kết quả công tác phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện, đặc biệt là đề án 4 trong chƣơng trình quốc gia phòng

chống tội phạm.

+ Công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện mang tính đặc thù riêng,

nhƣng hiện nay các tỉnh khu vực TNB chƣa có đội ngũ chuyên trách để phòng ngừa,

đấu tranh với loại tội phạm này, đặc biệt là trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Do

vậy, để nâng cao hiệu quả trong công tác PCTP do NCTN thực hiện trong thời gian

tới cần đào tạo đội ngũ cán bộ Điều tra, Kiểm sát, xét xử chuyên trách về phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện, hƣớng tới thành lập hệ thống cơ quan chuyên

trách phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trong phạm vi cả nƣớc, khu vực miền

TNB, các tỉnh, thành phố...

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỷ thuật trang thiết bị, phương tiện, kinh

phí cho các lực lượng tham gia công tác phòng ngừa THTP nói chung, phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện ở các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ.

Đây là yếu tố rất quan trọng đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa THTP nói

chung, phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện nói riêng đạt đƣợc chất lƣợng, hiệu

quả. Vì vậy, cần có sự quan tâm của các ngành, các cấp nhất là sự quan tâm của

Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, tỉnh ủy, UBND các tỉnh khu vực miền

TNB. Lực lƣợng chuyên trách công tác PCTP, đặc biệt là Công an, Viện kiểm sát,

Tòa án các tỉnh khu vực TNB cần khảo sát xây dựng đề án, kế hoạch, hiện đại hóa

trang thiết bị, phƣơng tiện, có cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phòng ngừa

THTP. Tận dụng các nguồn để bổ sung kinh phí, trang thiết bị, phƣơng tiện chú ý

các nguồn kinh phí địa phƣơng và cả nguồn đầu tƣ hỗ trợ theo các đề án của

Trung ƣơng.

Chính quyền các cấp khu vực TNB tập trung tăng cƣờng các phƣơng tiện tham

gia công tác quản lý, theo dõi, phát hiện hành vi vi phạm của NCTN nhƣ: Lắp đặt

camera giám sát an ninh, các thiết bị theo dõi, báo động trong một số trƣờng hợp

cần áp dụng các biện pháp phòng ngừa, khi phát hiện sớm thì biện pháp phòng ngừa

138

sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.

4.2.5. Tăng cường chủ thể và mối quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tình

hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh khu vực

Tây Nam Bộ

*Tăng cƣờng chủ thể phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các

tỉnh TNB.

Cần xây dựng mô hình phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện cho phù hợp

với đặc điểm của loại tội phạm CTN và đặc điểm tình hình, kinh tế, văn hóa, xã hội,

an ninh quốc phòng vùng TNB. Mặc khác, để nâng cao hiệu quả công tác phòng

ngừa THTP cần xây dựng trung tâm nghiên cứu tội phạm ở các tỉnh miền TNB,

trong đó có một bộ phận chuyên trách nghiên cứu về tội phạm CTN ở các tỉnh TNB.

Nhiệm vụ của trung tâm là xác định THTP, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm

nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng ở khu vực TNB. Các cơ quan tiến

hành tố tụng giữ vai trò nòng cốt trong công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử

tội phạm. Các cơ quan ban ngành, đoàn thể các cấp có qui chế phối hợp với các lực

lƣợng nòng cốt trong tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa, phát hiện đấu tranh ngăn

chặn và xử lý tội phạm.

*Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp trong hoạt động của các chủ thể phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện.

Nhiệm vụ PCTP, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ

của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Công tác đấu tranh PCTP muốn đạt đƣợc hiệu

quả cao đòi hỏi phải huy động đƣợc sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,

của toàn xã hội, trong đó các cơ quan chuyên trách là lực lƣợng nòng cốt, là chỗ dựa

vững chắc để các cơ quan, ban ngành đoàn thể, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị

xã hội và quần chúng nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện đấu tranh ngăn chặn

đẩy lùi tội phạm.

+ Trƣớc hết cần có sự phối hợp chặc chẽ, đồng bộ giữa cơ quan Điều tra, Viện

kiểm sát, Tòa án, trong quá trình từ giai đoạn phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi

139

hành án đối với vụ án do NCTN thực hiện. Đây là mối quan hệ nhằm đóng góp bổ

sung, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động tố tụng, đảm bảo cho việc

xử lý tội phạm một cách khách quan, đúng pháp luật. Thực tiễn thời gian qua ba cơ

quan này ở các địa phƣơng cũng thƣờng xuyên tổ chức kết hợp liên ngành nhằm rút

kinh nghiệm hoạt động, tìm ra đƣờng lối giải quyết những vụ việc còn vƣớng mắc,

tồn đọng, nhất là các vụ án phức tạp, chƣa thống nhất quan điểm giữa ba ngành.

Tuy nhiên, các cuộc họp liên cơ quan này là do sự thỏa thuận giữa thủ trƣởng của

các đơn vị chứ chƣa có một qui định, một văn bản hƣớng dẫn cụ thể. Để sự phối

hợp giữa ba cơ quan tố tụng đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, đạt mục tiêu chung là

giải quyết nhanh chóng các vụ án, xử lý đúng pháp luật mà không vi phạm nguyên

tắc hoạt động độc lập của từng cơ quan tiến hành tố tụng thì cần thiết phải có một

văn bản pháp lý nhất định, trong đó qui định rõ nội dung phối hợp, cách thức phối

hợp, trách nhiệm của từng chủ thể trong hoạt động phối hợp.

+ Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách về PCTP,

cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, các đoàn thể,

gia đình, nhà trƣờng trong phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Đặc biệt là xây

dựng qui chế phối hợp giữa mặt trận tổ quốc, đoàn thanh niên, phụ nữ với các cơ

quan tƣ pháp trong tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật, phòng ngừa, phát hiện,

đấu tranh ngăn chặn và xử lý tội phạm, trợ giúp cho tội phạm là NCTN tái hòa

nhập cộng đồng.

+ Trong tình hình hiện nay, tội phạm nói chung và tội phạm CTN có xu hƣớng

hoạt động liên huyện, liên tỉnh, lợi dụng những địa bàn giáp giới giữa các địa

phƣơng, nơi giao lƣu mua bán, sản xuất kinh doanh tập trung đông ngƣời để ẩn náu

hoạt động, mặt khác các cơ quan PCTP thƣờng đùn đẩy trách nhiệm, buông lỏng

quản lý ở những địa bàn này tạo điều kiện cho tội phạm hoạt động. Vì vậy, để có sự

phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong việc quản lý địa bàn, phòng chống

tội phạm ở những địa bàn giáp giới đòi hỏi các cơ quan chuyên trách PCTP phải

xây dựng qui chế phối hợp, phân công trách nhiệm cho từng địa phƣơng, kịp thời

140

phối hợp giải quyết các vụ việc về an ninh trật tự liên quan đến nhiều địa phƣơng,

đơn vị đồng thời kịp thông báo cho nhau về âm mƣu, phƣơng thức, thủ đoạn hoạt

động của tội phạm để chủ động phòng ngừa, đấu tranh.

*Tăng cƣờng mở rộng hợp tác quốc tế trong phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện.

Trong quá trình hội nhập, mở cửa gia nhập Tổ chức thƣơng mại quốc tế, tham

gia các hiệp định đa phƣơng, song phƣơng trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh

vực PCTP, do vậy tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong phòng ngừa THTP do NCTN

thực hiện là một giải pháp cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Là thành viên của

Liên hợp quốc đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng và tuân thủ các qui định của công

ƣớc quốc tể về quyền con ngƣời, quyền trẻ em, đây là những văn bản có tính định

hƣớng khuôn khổ mà mỗi quốc gia thành viên phải tuân thủ, trong đó có Việt Nam.

Chính quyền các tỉnh TNB cần lựa chọn những cán bộ có đủ phẩm chất, năng

lực đƣa đi đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ về PCTP thông qua các dự án hỗ trợ của

chính phủ các nƣớc đặc biệt là đào tạo, tập huấn về kỹ năng phòng ngừa tội phạm

do NCTN thực hiện. Kiến thức về khoa học tâm lý tội phạm của NCTN, đồng thời

cần tranh thủ nguồn viện trợ của chính phủ các nƣớc, các tổ chức quốc tế trang bị cơ

sở vật chất, phƣơng tiện kỹ thuật phục vụ cho công tác PCTP.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 4

Chƣơng 4 của Luận án tập trung vào việc dự báo tình hình tội phạm do

NCTN thực hiện, đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cƣờng phòng ngừa tội phạm

do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh khu vực TNB. Các biện pháp tăng cƣờng

này gồm những vấn đề chính: tăng cƣờng về cơ ở lý luận, cơ sở chính trị, pháp lý;

tăng cƣờng lực lƣợng phòng ngừa; tăng cƣờng triển khai áp dụng các biện pháp

PNTP do NCTN thực hiện. Ba vấn đề này có liên quan mật thiết với nhau, bổ trợ

cho nhau, trong đó tăng cƣờng hệ thống lý luận, cơ sở chính trị, pháp lý có vai trò

nền tảng định hƣớng cho hoạt động của các chủ thể trong việc triển khai các biện

141

pháp phòng ngừa. Các tỉnh khu vực TNB phải dựa vào những cơ sở lý luận, cơ sở

pháp lý chung để áp dụng linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với đặc thù của địa

phƣơng, cần chủ động ban hành các chủ trƣơng, chính sách liên quan đến công tác

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn Tây Nam Bộ.

Trong đề xuất triển khai áp dụng các biện pháp PNTP, luận án tập trung vào

hai nhóm giải pháp chính đó là: biện pháp phòng ngừa xã hội (nhƣ giáo dục chính

trị tƣ tƣởng, văn hóa xã hội, phát triển kinh tế nâng cao đời sống), biện pháp phòng

ngừa nghiệp vụ của các cơ quan tƣ pháp, cơ quan chuyên trách PCTP (nhƣ tuyên

truyền giáo dục pháp luật, vận động phong trào phòng ngừa tố giác tội phạm, biện

pháp quản lý hành chính, biện pháp phòng ngừa trong hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử thi hành án hình sự). Trong những biện pháp trên thì biện pháp kinh tế - xã

hội giữ vai trò tiên quyết trong việc xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội, là nền

tảng để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, thƣợng tôn pháp luật trong xã hội.

Song song đó thì các biện pháp phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình

sự cũng cần chú trọng đúng mức khi THTP do NCTN thực hiện còn diễn biến phức

tạp trong giai đoạn hiện nay. Công tác phòng ngừa tình hình NCTN phạm tội phải

đƣợc tiến hành đồng bộ bằng nhiều giải pháp với sự tham gia đông đảo của các

ngành các cấp, các chủ thể PCTP nên đòi hỏi phải có sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau và

cùng hƣớng tới một mục tiêu chung là phòng ngừa nhằm kéo giảm THTP, tiến tới

142

loại trừ tội phạm do NCTN thực hiện ra khỏi đời sống xã hội.

KẾT LUẬN

Tây Nam Bộ là một trong những địa bàn chiến lƣợc của cả nƣớc. Có vai trò và

ảnh hƣởng quan trọng đến chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Trong

những năm qua mặc dù tình hình quốc tế, trong nƣớc và khu vực TNB còn tiềm ẩn

nhiều khó khăn thách thức nhƣng với sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, nỗ lực của

các bộ, ngành trung ƣơng, địa phƣơng, tình hình kinh tế xã hội vùng TNB tiếp tục

phát triển ổn định, quốc phòng an ninh đƣợc giữ vững không để xảy ra tình huống

đột biến bất ngờ. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế đạt 7,8%, thu nhập bình quân đầu

ngƣời đạt 40,27 triệu đồng/ngƣời/năm, công tác an ninh xã hội ngày càng đƣợc

quan tâm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hƣởng thụ của ngƣời dân, cơ sở hạ

tầng ngày càng đƣợc hoàn thiện... Tuy nhiên, song song với sự phát triển về mọi

mặt thì khu vực miền TNB cũng đang tiểm ẩn những vấn đề phức tạp khó khăn

nhƣ: ảnh hƣởng của thiên tai, xâm nhập mặn, tình trạng thất nghiệp ở khu vực nông

thôn còn nhiều, trình độ dân trí ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, đặc biệt

là THTP nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện ngày càng có xu hƣớng gia tăng,

mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.

Với sự nổ lực quyết tâm cao của các ngành, các cấp, các chủ thể phòng chống

tội phạm, trong thời gian qua tội phạm nói chung và tội phạm do NCTN thực hiện

luôn đƣợc kiềm chế, kéo giảm. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì những kết quả

trên chƣa thật sự bền vững, từng lúc, từng nơi thì tội phạm do NCTN thực hiện gia

tăng về số vụ, số ngƣời phạm tội, sự trẻ hóa của tội phạm, tính chất nguy hiểm. Do

vậy, NCS chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm do ngƣời chƣa thành niên

thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ” là đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành

tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, với bố cục gồm bốn chƣơng luận án đã giải

quyết đƣợc một số vấn đề sau:

Thứ nhất: Luận án đã khái quát tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài

143

nƣớc liên quan đến phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm do NCTN thực

hiện nói riêng. Qua đó, tác giả cũng đã khái quát đƣợc thành tựu của các công trình,

xác định đƣợc những nội dung cần đƣợc kế thừa, những nội dung cần đƣợc nghiên

cứu thêm để định hƣớng cho việc nghiên cứu của luận án.

Thứ hai: Luận án đã trình bày những vấn đề lý luận về tội phạm CTN, phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện, nội dung, giải pháp, nguyên tắc, chủ thể thực hiện

phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện. Đây là cơ sở lý luận để áp dụng vào một

địa bàn, một nhóm tội phạm cụ thể trong triển khai các biện pháp phòng ngừa

THTP do NCTN thực hiện.

Thứ ba: Dựa vào những lý luận về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện,

luận án đánh giá thực trạng về hoạt động nhận thức, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa

THTP, thực trạng về giải pháp phòng ngừa, thực trạng áp dụng các giải pháp phòng

ngừa THTP ở khu vực TNB. Qua khảo sát nghiên cứu thực trạng thấy nổi lên mấy

vấn đề:

- Về cơ sở lý luận, cở sở chính trị, pháp lý về phòng ngừa tội phạm do NCTN

thực hiện còn nhiều hạn chế, chƣa có một công trình nghiên cứu khoa học nào mang

tính định hƣớng, dẫn đƣờng cho hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, các cấp ủy Đảng,

Chính quyền các tỉnh, thành phố khu vực TNB đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách,

triển khai nhiều biện pháp nhằm kịp thời kéo giảm THTP do NCTN thực hiện.

- Luận án đã đánh giá về thực trạng tổ chức lực lƣợng của các chủ thể PNTP

do NCTN thực hiện nhƣ đội ngũ cán bộ tƣ pháp, tuyên truyền viên pháp luật, Điều

tra viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Cán bộ quản giáo, Phụ nữ, Đoàn thanh niên...

những thế mạnh cũng nhƣ những tồn tại hạn chế bất cập ảnh hƣởng đến việc triển

khai công tác PNTP trên thực tế. Trong đó nổi lên là sự bất cập về số lƣợng, chất

lƣợng của đội ngũ cán bộ tƣ pháp nhƣ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán

đồng thời cơ chế phối hợp giữa các chủ thể cũng còn thiếu chặt chẽ đồng bộ là

nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác PNTP do NCTN thực hiện.

- Về thực trạng phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện, Luận án đã đƣa ra dự

144

báo về phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trên địa bàn các tỉnh TNB trong thời

gian tới, trong đó tập trung vào hai vấn đề đó là dự báo về THTP do NCTN thực

hiện trong thời gian tới và dự báo về chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa THTP

do NCTN thực hiện. Về cơ bản trong thời gian tới tội phạm do NCTN thực hiện sẽ

có chiều hƣớng gia tăng và nguy hiểm hơn, phƣơng thức, thủ đoạn ngày càng tinh

vi và xuất hiện những phƣơng thức thủ đoạn phạm tội mới... Do vậy, đòi hỏi các

chủ thể hoạt động phòng ngừa cũng đòi hỏi có sự đổi mới căn bản toàn diện cho

phù hợp với tình hình, đáp ứng kịp yêu cầu phòng ngừa tội phạm do NCTN thực

hiện trong giai đoạn hiện nay.

Thứ tư: Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cùng với kết quả thực trạng

phòng ngừa, cơ sở dự báo công tác phòng ngừa THTP do NCTN thực hiện trong

thời gian tới, Luận án đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cƣờng phòng

ngừa THTP do NCTN thực hiện. Các giải pháp này bao gồm hoàn thiện cơ sở lý

luận, cơ sở chính trị - pháp lý, các biện pháp phòng ngừa xã hội nhƣ: giáo dục chính

trị tƣ tƣởng, tuyên truyền pháp luật, biện pháp kinh tế, văn hóa, xã hội. Biện pháp

phòng ngừa mang tính nghiệp vụ chuyên ngành của các ngành tƣ pháp nhƣ: điều tra

cơ bản, quản lý đối tƣợng, biện pháp hành chính, áp dụng các biện pháp phòng ngừa

tội phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.

Có thể khẳng định những nội dung đƣợc đƣa ra và giải quyết trong Luận án

mặc dù chƣa thực sự đầy đủ, sâu sắc và toàn diện. Nhƣng Luận án sẽ góp phần ứng

dụng trong công tác thực tiễn và đáp ứng một phần cho nhu cầu tham khảo, nghiên

cứu tiếp thu để hoàn thiện về lý luận và thực tiễn sau này, nhằm phục vụ tốt hơn cho

công tác phòng ngừa THTP do NCTN gây ra, góp phần kéo giảm THTP trong khu

145

vực TNB nói riêng và cả nƣớc nói chung.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Đặc điểm tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở địa bàn các tỉnh

Tây Nam Bộ và những giải pháp phòng ngừa, Tạp chí Công thƣơng, số 12, tháng

11/2017.

2. Một số vấn đề về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm

146

tội trong Bộ luật hình sự năm 2015, Tạp chí Công thƣơng, số 13, tháng 12/2017.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam (2015), Chỉ thị số 42-

CT/TW ngày 24/3/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo

dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-

2030.

2. Ban chấp hành trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam, (2008), Nghị quyết

25-NQ/TW, ngày 25/7/2008 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chỉ thị số

48-CT/TW, ngày 22.10.2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

4. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chỉ thị số

09/CT/TW, ngày 01.12.2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong

trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc trong tình hình mới.

5. Ban chấp hành trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam, (2013), Nghị quyết

số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,

đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế

6. Ban chỉ đạo Chƣơng trình quốc gia phòng chống tội phạm (1999), Đề án

IV Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm “Đấu tranh phòng chống các loại

tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên”.

7. Ban chỉ đạo Đề án 4, Bộ Công an, Báo cáo sơ kết 5 năm (2006 – 2010) Đề

án 4 Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm “Đấu tranh phòng chống các

loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên”.

8. Lƣu Hoài Bảo, (2014), một số giải pháp phòng chống tội phạm do người

147

chưa thành niên thực hiện. Tạp chí Kiểm sát, số 14/ 2014

9. Nguyễn Lai Bình (2012), Vai trò của nhà trường trong phòng ngừa tội

phạm do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Tạp chí kiểm

sát, số 9, tr. 9-12

10. Bộ Chính Trị, (2005), Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 2/ 6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến 2020, Hà Nội.

11. Bộ Chính trị (2008), Chỉ thị 48-CT/TW ngày 26/3/2008 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

12. Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 5/11/2012 về tăng cường

sự lãnh Đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong

tình hình mới.

13. Bộ Công an, (2005), Cẩm nang pháp luật về quyền trẻ em, Cục quản lý

trại giam, Hà Nội

14. Bộ công an, (2010), Báo cáo sơ kết 5 năm đề án 4 chương trình quốc gia

phòng chống tội phạm" đấu tranh phòng chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em,

tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên. Giai đoạn 2006- 2010.

15. Bộ công an, (2013), Báo cáo đánh giá luật pháp và thực tiễn thi hành

pháp luật về xử lý chuyển hướng, tư pháp phục hồi đối với người chưa thành niên vi

phạm pháp luật, Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm, Cục Cảnh Sát Hình Sự.

16. Bộ Nội vụ (1997), Một số văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

17. Bộ Tƣ Pháp, (2012), Báo cáo đánh giá các quy định của Bộ luật hình sự

liên quan đến người chưa thành niên và thực tiễn thi hành, Nxb Tƣ Pháp, Hà Nội

18. Các vấn đề cần quan tâm ở tuổi vị thành niên, Nxb Lao động, Hà Nội

(2006).

19. Lê cảm,( 2011), Học thuyết về tội phạm- những ván đề cơ bản, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

20. Lê Cảm, Đỗ Thị Phƣợng, (2004), Tư pháp hình sự đối với người chưa

thành niên-những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so

148

sánh luật học, Tòa án nhân dân 20/10 /2004.

21. Lƣu Ngọc Cảnh, (2010), Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối

với người chưa thành niên phạm tội theo luật Hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ

luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

22. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP của Chính phủ về tăng

cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ngày 31.1.1998.

23. Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương

trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ngày 31.7.1998.

24. Chính phủ (2000), Nghị định 59/2000/NĐ-CP quy định về việc thi hành

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người thành niên phạm tội, ngày

30.01.2000.

25. Chính phủ (2003), Nghị định 163/CP ban hành quy chế giáo dục tại xã,

phường, thị trấn đối với những người vi phạm pháp luật, Chính phủ, ngày

19.12.2003.

26. Chính phủ (2004), Nghị định số 142/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy

định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường giáo dưỡng, ngày

24.11.2003.

27. Chính phủ (2003), Nghị định số 142/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy

định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, ngày

27.06.2003.

28. Chính phủ (2014), Nghị định 02/2014/NĐ-CP “ Quy định áp dụng thi

hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo

dục bắt buộc”.

29. Chính phủ, (2013), Nghị định 111/2013/NĐ-CP, ngày 30/9/2013 quy

định chế độ áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính giáo dục tại xã, phường,

thị trấn.

30. Chính phủ, (2015), Nghị định 56/2016/NĐ-CP, ngày 29/6/2016 về sửa

đổi, bổ sung Nghị định 111/2013/NĐ-CP, ngày 30/9/2013 quy định chế độ áp dụng

149

biện pháp xử lý vi phạm hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

31. Bùi Thành Chung (2014), Hỏi cung bị can chưa thành niên phạm tội về

trật tự xã hội, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát Nhân dân

32. Đỗ Bá Cở (2000), Cảnh sát nhân dân làm việc với trẻ em làm trái pháp

luật, Giáo trình Trƣờng Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

33. Đỗ Bá Cở (2000), Hoạt động của lực lượng Công an nhân dân trong

phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội trong tình hình hiện nay, Luận án tiến

sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

34. Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự an toàn, xã hội (2006 – 2012),

Báo cáo tổng kết năm từ 2006 đến 2012 về tình hình, kết quả đấu tranh phòng

chống tội phạm hình sự.

35. Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (2007), Tài liệu tập huấn

về công tác điều tra thân thiện với trẻ em, Hà Nội.

36. Cục Thống kê Việt Nam, (2012), Niên giám thống kê Việt Nam.

37. Phạm Hồng Cử, (2004), Tội phạm giết người và công tác phòng ngừa,

đấu tranh tại các tỉnh, thành phố phía nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

38. Nguyễn Chí Dũng, Chữ Văn Chí, (2010), Phòng chống tội phạm trong

giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Lƣu Tuấn Dũng (2007), Tội phạm của người chưa thành niên và đặc

điểm tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Trƣờng đại học luật, Thành phố Hồ Chí Minh.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm 2011), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Trần Phƣơng Đạt (2004), Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ em ở Việt

Nam theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Đề tài nghiên cứu khoa học

150

cấp Bộ Công an.

43. Đề án, Chương trình phòng ngừa và giải quyết trẻ em lang thang, trẻ em

bị xâm hại tình dục và trẻ em lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại, nguy

hiểm từ năm 2005 – 2010, Hà Nội - 2006.

44. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, (2012), Văn kiện đại hội lần X,

nhiệm kỳ 2012-2017

45. Nguyễn Minh Đức (2012), Phòng, tránh vi phạm pháp luật và tệ nạn ma

túy trong lứa tuổi thanh, thiếu niên, Nxb Thông tin và Tuyên truyền, Hà Nội.

46. Khổng Minh Hà, Đỗ Bá Hỏa, Phạm Ngọc Cƣờng (2009), Phòng ngừa tội

phạm do người chưa thành niên gây ra, Nxb Công an nhân dân.

47. Phạm Hồng Hải, (2005), Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội đảm bảo

phát triển con người bền vững, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 5/2005

48. Nguyễn Thanh Hạo (1996), Đấu tranh phòng chống tội phạm của người

chưa thành niên, Luận án cao học luật, Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và Pháp luật.

49. Phạm Ngọc Hòa, (2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp

chí Luật học, số 6/2007

50. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia.

51. Hội luật gia Việt Nam, (2007), Trợ giúp pháp lý và đại diện cho người

chưa thành niên gặp xung đột với pháp luật, nạn nhân trẻ em và nhân chứng trẻ em.

52. Nguyễn Mạnh Kháng, (2000), Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý

luận và thực tiễn

53. Vũ Đức Khiển (1987), Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội,

Nxb Pháp lý, Hà Nội.

54. Hoàng Minh Khôi (2012), Đặc điểm và một số nguyên nhân dẫn đến vi

phạm pháp luật của người chưa thành niên, Nghiên cứu Lập pháp, số 14, tr. 47-54

55. Hoàng Minh Khôi (2015), Hoàn thiện chính sách hình sự nhằm bảo vệ

quyền con người, quyền công dân của người chưa thành niên phạm tội theo hiến

pháp năm 2013, Nghiên cứu lập pháp, số 14, Tr 3-12

56. Nguyễn Hải Lâm (2009), Một số đặc trưng tâm lý của nhóm người chưa

151

thành niên phạm tội ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Tạp chí tâm lý học, số 7, tr.49-52

57. Liên hợp quốc (1989) Công ước về quyền trẻ em, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

58. Liên Hợp Quốc, (1990), Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa

phạm pháp với người chưa thành niên (hướng dẫn Riyadh), tài liệu tập huấn.

59. Hoàng Văn Lợi, Nguyễn Minh, (2000), Hướng dẫn thực hành các tiêu

chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp người chưa thành niên, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

60. Dƣơng Tuyết Miên, (2010), Giáo trình tội phạm học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội

61. Đinh Xuân Nam, (2008), Thực trạng và giải pháp phòng chống vi phạm

pháp luật của người chưa thành niên, nghiên cứu lập pháp (20) tr. 34-38.

62. Mai Quỳnh Nam (1996), Quan hệ xã hội và tội phạm vị thành niên, Xã

hội học, số 4, tr.45-49

63. Đặng Thanh Nga, Trƣơng Quang Vinh (2014), Người chưa thành niên

phạm tội đặc điểm tâm lý và chính sách xử lý, Nxb Tƣ Pháp, Hà Nội.

64. Đặng Thanh Nga (2007), Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên có

hành vi phạm tội, Luận án Tiến sĩ tâm lý học, Viện Tâm lý học.

65. Đặng Thanh Nga (2008), Một số đặc điểm tâm lí của người chưa thành

niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 1, tr. 39-44

66. Đặng Thanh Nga (2008), Thực trạng về mức độ nhận thức pháp luật của

người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí tâm lý học, Số 6, tr.53-56

67. Đào Thị Nga (1997), Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên

phạm tội, Luận án cao học luật, Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và Pháp luật.

68. Nguyễn Quang Nghĩa, Nguyễn Ngọc Cƣờng (2011), các vụ cướp tài sản

do người chưa thành niên thực hiện, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

69. Trịnh Thị Kim Ngọc (2013), Tình trạng gia tăng tội phạm ở người chưa

thành niên- một cảnh báo cấp thiết về phát triển bền vững ở Việt Nam, Nghiên cứu

152

con ngƣời, số 2, tr.45-58.

70. Hồ Trọng Ngũ, (2005), Phòng ngừa tội phạm trong cộng đồng dân cư,

Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 6/2005

71. Nguyễn Bá Nhiên, (2005), Cướp tài sản bằng thủ đoạn gây mê hành

khách trên phương tiện giao thông đường bộ các tỉnh phía nam- giải pháp phòng

ngừa và đấu tranh

72. Ngô Hoàng Oanh (2010), Tình hình tội phạm người chưa thành niên,

thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp, Tạp chí Nghề Luật, số 5, Tr. 8-12, 58, số

6, Tr. 16-18.

73. Cao Thị Oanh, (2007), Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình

sự của người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số 10/2007.

74. Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an các tỉnh Tây

Nam bộ (2006 – 2017), Báo cáo tổng kết đề án 4 Chương trình quốc gia phòng

chống tội phạm “Đấu tranh phòng chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội

phạm trong lứa tuổi chưa thành niên” từ năm 2006 đến 2017, các tỉnh, thành phố

khu vực miền Tây Nam bộ.

75. Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an các tỉnh Tây

Nam bộ ( 2011), kết luận điều tra, Cáo trạng, Bản án và hồ sơ các vụ án hình sự

điển hình do người chưa thành niên gây ra các tỉnh, thành phố khu vực miền Tây

Nam bộ từ năm 2006 đến năm 2015.

76. Phan Hoài Phƣơng (2012), Một số giải pháp phòng ngừa người chưa

thành niên phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Tạp chí Kiểm sát,

Tr. 41-43

77. Đỗ Thị Phƣợng (2004), Bàn về khái niệm và cơ sở áp dụng thủ tục đối

với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong

luật tố tụng Việt Nam, Tạp chí luật học, Số 4, tr. 33-38

78. Đỗ Thị Phƣợng (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố

tụng đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt nam, Luận án

153

Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

79. Trần Hữu Quân, (2014), Hoạt động của tòa án nhân dân trong phòng

ngừa người chưa thành niên phạm tội, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát

nhân dân, Hà Nội

80. Quốc hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

81. Quốc hội, (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Hà Nội.

82. Quốc hội, (2014). Luật tổ chức Quốc hội, Hà Nội.

83. Quốc hội, (2014), Luật Công an nhân dân, Hà Nội.

84. Quốc hội, (2014), Luật tổ chức Viên kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

85. Quốc hội, (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

86. Quốc hội, (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

87. Quốc hội, (2016), Bộ luật lao động, Hà Nội.

88. Quốc hội, (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

89. Quốc hội, (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

90. Quốc hội, (2015), Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội.

91. Quốc hội, (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.

92. Quốc hội, (2016), Luật trẻ em, Hà Nội.

93. Vũ Thị Thu Quyên, (2015), Pháp luật về quyền của người chưa thành

niên phạm tội ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh’ Hà Nội

94. Lý Văn Quyền, (2010), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội

95. Đặng Thanh Sơn, (2008), Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa

thành niên, Nghiên cứu lập pháp (20), tr.6-15.

96. Vũ Anh Sơn, (2003), Tội phạm trộm cắp xe máy có tổ chức ở các tỉnh,

thành phía nam- thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh.

97. Ngô Ngọc Thủy, Võ Khánh Vinh, Lý Văn Quyền, (1998), Giáo trình tội

phạm học, Đại học luật Hà Nội.

98. Hà Thƣơng (2006), Các vấn đề cần quan tâm ở tuổi vị thành niên, Nxb

154

Lao động, Hà Nội.

99. Trịnh Việt Tiến,( 2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội

phạm học, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

100. Trần Quang Tiệp (2005), Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã

hội trong đấu tranh phòng, chống người chưa thành niên phạm tội, Nhà nƣớc và

pháp luật, số 1, tr.62-66.

101. Phạm Văn Tỉnh, (2009), Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội

phạm, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 4/2009

102. Tòa án nhân dân tối cao, (2002), Công văn số 81/2002/TANDTC, ngày

20/6/2002 về giải đáp các vấn đề nghiệp vụ

103. Trịnh quốc Toản (2007), Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện

trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Thực trạng và giải pháp, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

104. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2012), Niên Giám thống kê năm 2012,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

105. Lê Tấn Tới (2014), Hoạt động của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm

về trật tự xã hội trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở khu

vực Tây Nam Bộ, luận án Tiến sĩ Luật Học, Học viện Cảnh sát nhân dân

106. Tăng Thị Thu Trang (2010), Đấu tranh phòng chống tội phạm do người

chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật

học

107. Lê Hoài Trung, (2001), Thực trạng và giải pháp phòng ngừa tội phạm

vị thành niên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật

Thành phố Hồ Chí Minh.

108. Đào Trí Úc, (1999), Vấn đề kiểm soát tội phạm, Tạp chí Nhà nƣớc và

Pháp luật

109. UNICEF, (2012), Đánh giá các tương thích các điều khoản của Bộ luật

tố tụng hình sự về người vi phạm pháp luật hình sự, người bị hại, người làm chứng

155

là người chưa thành niên với các chuẩn mực quốc tế, Nxb Tƣ Pháp, Hà Nội.

110. UNICEF, (2012), Báo cáo đánh giá luật pháp và thực tiễn thi hành

pháp luật về xử lý chuyển hướng tư pháp phục hồi đối với người chưa thành niên vi

phạm pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.

111. UNICEF, (2012), Báo cáo đánh giá các quy định của Bộ luật hình sự

liên quan đến người chưa thành niên và thực tiễn thi hành, Bộ Tƣ pháp, Nxb Tƣ

Pháp, Hà Nội.

112. UNICEF, (2010), Kết quả khảo sát về thực thi tố tụng hình sự với người

chưa thành niên tại Hà Nội, Hà Nội.

113. UNICEF-Viện khoa học pháp lý, (2005), Nghiên cứu đánh giá phân

tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt

Nam, (báo cáo tổng hợp), Hà Nội.

114. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF, (2005), Giải quyết Vi

phạm pháp luật của người chưa thành niên, Tài liệu tập huấn.

115. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, (2005), Một số thuật ngữ và

nguyên tắc cơ bản về tư pháp người chưa thành niên, Tài liệu tập huấn.

116. Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, UNICEF, (2005), Người chưa

thành niên và công an, Tài liệu tập huấn.

117. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF, (2005), Phục hồi và các

dịch vụ hỗ trợ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, Tài liệu tập huấn.

118. Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, UNICEF, (2005), Sự phát triển của

trẻ em và hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, Tài liệu tập huấn.

119. Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, UNICEF, (2005), Tình hình người

chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam, Tài liệu tập huấn.

120. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, (1981), Những vấn đề lý luận về

luật hình sự, tố tụng hình sự và tội phạm học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

121. UNICEP (2007), Công tác điều tra thân thiện với trẻ em.

122. UNICEF Việt Nam- Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao,

Báo cáo tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn của sự cần thiết thành lập tòa án

156

chuyên trách đối với người chưa thành niên ở Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

123. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ công an,

Bộ Tƣ Pháp, Bộ Lao động Thƣơng binh Xã hội (văn bản số 01/2011/TTLT-

VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH, 2011), Thông tư liên tịch hướng dẫn thi

hành một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự Đối với người tham gia tố tụng là

người chưa thành niên, Hà Nội

124. Viện nghiên cứu Nhà nƣớc và Pháp luật, (2000), Tội phạm học Việt

Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

125. Viện nghiên cứu pháp lý, Bộ tƣ pháp (2003), Nghiên cứu đánh giá phân

tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt

Nam, Hà Nội.

126. Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, (2006), Tư pháp người chưa thành

niên, (phần phụ lục), Cục xuất bản, Hà Nội.

127. Trịnh Tiến Việt, (2008), Các nguyên tắc cơ bản trong phòng ngừa tội

phạm, Tạp chí Kiểm Sát, số 9/2008

128. Bùi Thới Vinh, (2013), Các tội chiếm đoạt tài sản do người chưa thành

niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải

pháp phòng, chống, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt

Nam.

129. Võ Khánh Vinh, (1999), Giáo trình tội phạm học, Đại học Huế,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

. 130. Võ Khánh Vinh, (2004), Những xu hướng và nội dung cơ bản của

chiến lược đấu tranh với tình hình tội phạm, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật

131. Võ Khánh Vinh, (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

132. Trƣơng Xuân Vinh, (2006), Chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng cho

người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại trại giam và các trường giáo dưỡng-

157

Thực trạng và giải pháp, Tạp chí luật học, Số 4, Tr. 48-53

133. Vụ pháp luật hình sự-hành chính (Bộ Tƣ pháp) và UNICEF, (2010),

Báo cáo đánh giá kiến nghị về xử lý chuyển hướng tư pháp phục hồi đối với người

chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam, Hà Nội.

134. Nguyễn Xuân Yêm, (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội

phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

135. Nguyễn Xuân Yêm, (2004), Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội,

trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

136. Nguyễn Văn Xi (2006), Động lực tâm lý của trẻ em làm trái pháp luật,

Tạp chí của Ủy ban Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam.

TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI

137. A.I. Đôn- Gô- Va (1987), Những khía cạnh tâm lý xã hội về tình trạng

phạm tội của người chưa thành niên, Lục Thanh Hải dịch, Nxb Tƣ Pháp, Hà Nội

138. Bob Ashford, (2007), Chiến lược phòng ngừa tội phạm trong thanh

thiếu niên, Vƣơng quốc Anh

139. Dean. J. Champion, Alida V. Merlo, Peter J. Benkos (2012), The

Juvenile justice System: Delinquency, Processing, and the Law ( Hệ thống tư pháp

hình sự trong vấn đề trẻ vị thành niên phạm tội: Sự phạm pháp, quá trình tố tụng và

luật pháp)

140. Donald J. Shoemaker (2009), Juvenile Delinquency ( Trẻ vị thành niên

phạm tội)

141. Erik Erikson (1994), Thuyết xã hội – tâm lý người Đức, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

142. Franklin E Zimring, Margaret K. Rosenheim, David S. Tanenhaus,

Bernardine Dohrn (2002), A Century of Juvenile ( Vấn đề thực thi tư pháp đối với

trẻ vị thành niên trong một thế kỷ)

143. Freda Adler, (1991), Criminology ( Tội phạm học), Nxb Mcgraw- Hill,

158

New York

144. Frederik B. Susmann, A.B (1968), Luật về tội phạm người chưa thành

niên, New York, USA.

145. G.I.Xe-Tra-Rop (1977), Nghiên cứu phòng ngừa các tội phạm thân thể

Cộng hòa liên bang Xô Viết, Nxb Công an nhân dân.

146. G.I.Xe-Tra-Gop, (1977), Công trình nghiên cứu các tội phạm thân thể (

Khoa học nghiên cứu tội phạm, Viện khoa học Bộ công an)

147. James Burfeind, Dawn jeglum Bartusch (2010), Juvenile Delinquency:

An Integated Approach ( Trẻ thành niên phạm tội: một cách nhìn tổng quan)

148. Jumpon Phansumrit và Patchrang Ketkludyoo (2006), Hệ thống tư pháp

người chưa thành niên ở Thái Lan

149. Koichi Miyazawa, Setuo Miyazawa, (1995), Crime Prevention in Urban

Community (Phòng chống tội phạm trong cộng đồng đô thị)

150. Kristin A. Bastes, Richelle S. Swan (2013), Juvenile Delinquena

Diverse Society ( Hiện tượng trẻ vị thành niên phạm tội trong một xã hội đa màu)

151. Larry J. Siegel; Brandon C.Welsh, Joseph J. Senna (2014), Juvenile

Delinquency: Theory, Practice and Law ( Trẻ vị thành niên phạm tội: Học thuyết,

thực tế và luật pháp)

152. Larry J. Siegel; Brandon C.Welsh, (2010), Juvenile Delinquency: The

Core ( Bản chất và hiện tượng của trẻ vị thành niên phạm tội)

153. Lê Nin, (1952), Nhà nƣớc và cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội

154. Malkova, (2006), Giáo trình tội phạm học, Nxb Pháp lý, Hà Nội

155. Meda Chsney Lind, Randall G. Shelden (2014), Girls, Delinquency, and

juvenile justice ( Trẻ em gái phạm tội và vấn đề thực thi pháp luật)

156. N. Doubinine. I. Karpiets- V. Koudriavtsev (2003), Di truyền học, thái

độ ứng xử và tội phạm, Nxb Công an nhân dân

157. Richard Lawrence (2006), School Crime and juvenile justice ( Tội phạm

học đường và tư pháp hình sự đối với trẻ vị thành niên)

158. Robrt Agnew và Timothy Brezina (2011), Juvenile Delinquency:

159

Causes and control ( Trẻ vị thành niên phạm tội: nguyên nhân và cách kiểm soát)

159. Trung tâm nghiên cứu và cung cấp tƣ liệu, (1996), Crime Prevesion by

Early Intervention ( phòng ngừa tội phạm bằng cách can thiệp sớm), Nxb Kugler

160. Ueda Can (1994), Tội phạm và tội phạm học ở Nhật Bản hiện đại, Tài

liệu dịch, Nxb Công an nhân dân.

161. Ueda Can (1994), Nghiên cứu về bạo lực trong các trường phổ thông ở

Nhật Bản, Nxb Công an nhân dân.

162. Xetrarop.G.I (1977), Khoa học nghiên cứu tội phạm, Bản dịch tiếng

Việt của Viện Khoa học Công an, Hà Nội.

TÀI LIỆU TRÊN MẠNG INTERNET

163. Nguyễn Văn Cƣờng (2013), Giải pháp phát triển kinh tế- xã hội , tăng

thu ngân sách vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí phát triển và hội nhập, số

11(21) tháng7,8/2013, tr85-90.

http://www.vjol.info/index.php/kttc/article/viewFile/12333/11305, Truy cập

12/2017

164. Liên hợp quốc, (1985), Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp

quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên ( Quy tắc Bắc Kinh)

Nguồn: http://hr.law.vnu.edu.vn/abipoly_518/286/cac-quy-tac-tieu-chuan-

toi-thieu-cua-lien-hop-quoc-ve-hoat-dong-tu-phap-doi-voi, truy cập 12/2017

165. Trần Minh Tơn, (2017), Quan điểm và giải pháp chiến lƣợc phòng

chống tội phạm thời kì Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản 2017

.https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/Quan-diem-va-giai-phap-chien-

luoc-phong-chong-toi-pham-thoi-ky-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-6561/

160

Truy cập 8/2018

PHỤ LỤC 1: CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Bảng 3.1.

DIỆN T CH VÀ DÂN SỐ CÁC TỈNH MIỀN TÂY NAM BỘ

Phạm vi Diện tích (km2) Dân số ngƣời Mật độ ngƣời km2)

Cả nƣớc Miền Tây Nam Bộ Long An 1 Tiền Giang 2 Bến Tre 3 330.951,1 40.553,4 4.492,4 2.508,3 2.357,7 88.772,9 17.390,5 1.458,2 1.692,5 1.258,5 268 429 325 675 534

4 Trà Vinh 2.341,2 1.015,3 434

5 6 7 Vĩnh Long Đồng Tháp An Giang 1.504,9 3.377,0 3.536,7 1.033,6 1.676,3 2.153,7 687 496 609

8 Kiên Giang 6.348,5 1.726,2 272

9 Cần Thơ 1.409,0 1.214,1 862

10 Hậu Giang 1.602,5 769,7 480

11 Sóc Trăng 3.311,6 1.301,9 393

12 Bạc Liêu 2.468,7 873,4 354

13 Cà Mau 5.294,9 1.217,1 230

Nguồn: Tổng cục Thống kê - Tính đến 31 tháng 12 năm 2012

Bảng 3.2.

TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ CẢ NƢỚC VÀ KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ 2 6 - 2017)

CẢ NƢỚC MIỀN TÂY NAM BỘ

NĂM

Số vụ xảy ra Số vụ xảy ra Số vụ khám phá Đối tƣợng bị bắt giữ Số vụ khám phá

161

2006 2007 2008 2009 53.886 50.878 53.594 50.963 39.713 37.752 38.962 36.847 Đối tƣợng bị bắt giữ 56.101 45.996 50.604 48.496 7.094 7.323 7.601 6.891 5.784 5.860 6.057 5.490 7.493 7.422 7.764 7.289

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 48.836 49.393 50.723 59.111 52.093 52.253 54.511 48.489 34.869 35.315 37.221 44.033 36.033 40.145 42.558 39.040 45.643 50.663 70.503 88.259 59.216 54.851 80.210 77.241 6.267 6.620 6.780 7.142 6.751 7.177 6.541 5.818 5.023 5.255 5.609 5.937 5.213 6.039 6.285 5.766 6.713 7.200 7.543 8.514 7.147 7.837 10.427 10.041

624.730 462.488 727.783 95.390= 13% CỘNG 82.005= 13,13% 68.318= 14,77%

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam Bộ và C45 - Bộ Công an

Bảng 3.3.

CẢ NƢỚC TỶ LỆ THỐNG KÊ SỐ LƢ NG NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT CẢ NƢỚC VÀ KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ (2006 - 2017) MIỀN TÂY NAM BỘ NĂM

Ngƣời Vụ Ngƣời

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Vụ 10.468 10.361 10.702 9.484 843 8.662 8.892 7.208 9.017 9.633 10.625 9.848 Ngƣời 16.446 15.589 16.687 14.465 12.878 13.686 13.289 10.603 13.749 14.661 16.875 15.320 2.774 2.667 2.902 2.701 2.254 2.783 2.534 1.880 2.405 2.717 3.062 2.792 19,73% 19,69% 20,93% 19,83% 20,10% 23,13% 20,81% 19,14% 19,9% 28,2% 20,67% 20,60% 16,86% 17,10% 17,39% 18,67% 17,50% 19,39% 17,43% 17,43% 17,49% 18,53% 18,10% 28,35% Vụ 2.066 2.041 2.240 1.881 1.695 2.004 2.055 1.380 1.797 2.043 2.197 2.036

113.330 174.258 23.435 31.471 20,68% 18,06% CỘNG

162

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam Bộ và C45 - Bộ Công an

Bảng 3.4.

TÌNH HÌNH PHẠM PHÁP HÌNH SỰ VÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ 2 6 - 2017) NCTN VPPL TỶ LỆ NĂM PHẠM PHÁP HÌNH SỰ

TS vụ KP TS đối tƣợng TS vụ KP TS đối tƣợng TS vụ KP TS đối tƣợng

2.066 2.041 2.240 1.881 1.695 2.004 2.055 1.380 1.797 2.043 2.197 2.036 2.774 2.667 2.902 2.701 2.254 2.783 2.534 1.880 2.405 2.717 3.062 2.792 35,71% 34,82% 36,98% 34,26% 33,74% 38,13% 33,63% 23,24% 27,54% 23,86% 34,95% 35,30% 37,02% 35,93% 37,37% 37,05% 33,57% 38,65% 33,59% 22,08% 29,51% 25,94% 29,37% 27,80% 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 5.784 5.860 6.057 5.490 5.023 5.255 5.609 5.937 5.213 6.039 6.285 5.766 7.493 7.422 7.764 7.289 6.713 7.200 7.543 8.514 7.147 7.837 10.427 10.041

34,30% 32,99% 95.390 23.435 31.471 CỘNG 68.318

163

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.5.

THỐNG KÊ SỐ LƢ NG NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI CẢ NƢỚC VÀ KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ (2006 - 2017)

CẢ NƢỚC TỶ LỆ MIỀN TÂY NAM BỘ

NĂM 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

3.929 4.115 4.254 3.973 3.978 3.440 3.559 4.513 4.318 4.575 4.218 3.996 48.868 419 531 640 615 506 709 722 572 492 537 615 567 6.925 10,66% 12,90% 15,04% 15,47% 12,71% 20,61% 20,28% 12,67% 11,39% 11,73% 14,60% 14,20% 14,17% CỘNG

164

Nguồn: Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.6.

BẢNG THỐNG KÊ CƠ CẤU NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ 2 6 - 2017)

TỘI DANH

NĂM TỔNG SỐ Giết ngƣời Cƣớp TS Hiếp dâm Trộm cắp TS Cố ý gây TT Đánh bạc Tội khác Cƣỡng đoạt TS Gây rối TTCC Chống ngƣời THCV Môi giới MD Cƣớp giật tài sản Mua bán, TT… ma túy

419 531 640 615 506 709 722 572 492 537 615 567 6.925 24 36 47 42 29 49 39 8 28 31 35 33 401 166 223 262 226 160 249 241 316 140 167 230 215 2.595 28 43 45 47 51 61 70 20 49 54 50 47 565 50 51 70 90 45 78 66 22 39 43 59 53 656 62 59 52 35 35 45 53 18 58 67 52 46 582 36 37 60 42 48 53 22 34 31 14 74 67 518 4 16 32 22 36 32 55 55 46 61 38 32 429 8 4 6 4 8 3 14 1 5 7 6 7 73 1 1 8 6 5 5 6 9 13 17 8 13 92 5 6 1 8 4 5 16 16 6 13 9 5 94 0 0 2 0 0 0 6 0 0 0 1 0 9 0 0 0 1 0 1 6 0 0 0 0 0 8

35 55 55 92 85 128 128 73 77 63 53 49 893 5,79% 9,47% 1,05% 8,40% 8,16% 37,47% 12,90% 6,20% 0,13% 0,12% 1,32% 1,35% 7,48% 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Cộng Tỷ lệ

165

Nguồn: Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.7.

THỐNG KÊ GIỚI T NH NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT 2 6 - 2017) Tỷ lệ Nam Nữ Năm Tỷ lệ Tổng số

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 96,54% 96,10% 97,14% 97,04% 96,50% 94,93% 96,61% 97,45% 97,67% 96,13% 96,89% 95,60% 96 104 83 80 79 141 86 48 56 105 96 123 3,46% 3,90% 2,86% 2,96% 3,50% 5,07% 3,39% 2,55% 2,33% 3,87% 3,11% 4,40%

2.774 2.667 2.902 2.701 2.254 2.783 2.534 1.880 2.405 2.717 3.062 2.792 31.471 2.678 2.563 2.819 2.621 2.175 2.642 2.448 1.832 2.349 2.612 2.966 2.669 30.366 96,49% 1097 3,51% Cộng

166

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.8.

THỐNG KÊ TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT 2 6 - 2017)

Năm Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tổng số Mù chữ Tiểu học THCS trở lên

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

581 2.774 480 2.667 510 2.902 344 2.701 329 2.254 340 2.783 414 2.534 138 1.880 315 2.405 428 2.717 480 3.062 2.792 411 31.471 4.770 20,94% 18,00% 17,57% 12,74% 14,60% 12,22% 16,34% 7,34% 13,09% 15,75% 15,68% 14,75% 15,16% 1.233 1.116 1.383 950 899 1.250 893 645 912 1.071 1.191 1.093 12.636 44,45% 41,84% 47,66% 35,17% 39,88% 44,92% 35,24% 34,31% 37,92% 39,41% 38,92% 39,15% 40,15% 960 1.071 1.009 1.407 1.026 1.193 1.227 1.097 1.178 1.218 1.391 1.288 14.065 34,61% 40,16% 34,77% 52,09% 45,52% 42,87% 48,42% 58,35% 48,98% 44,82% 45,43% 46,13% 44,69% Cộng

167

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.9. THỐNG KÊ TRÌNH ĐỘ VĂN HÓA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN BỎ HỌC VI PHẠM PHÁP LUẬT 2 6 - 2017)

Số bỏ học VPPL Tỷ lệ Tỉnh, thành phố miền Tây Nam bộ Tổng số ngƣời CTN VPPL

Long An Tiền Giang Bến Tre Vĩnh Long Trà Vinh Đồng Tháp Cần Thơ An Giang Kiên Giang Hậu Giang Sóc Trăng Bạc Liêu Cà Mau

38,20% 74,25% 62,70% 52,87% 71,32% 41,25% 50,82% 43,95% 50,38% 60,09% 70,83% 60,45% 56,25% 53,71% Cộng 1.073 1.738 1.313 808 1.408 1.926 1.501 1.606 1.271 1.251 1.096 884 1.029 16.904 2.809 2.341 2.095 1.529 1.975 4.669 2.954 3.656 2.523 2.082 1.547 1.462 1.829 31.471

168

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.10.

THỐNG KÊ LỨA TUỔI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT 2 6 - 2017)

Năm Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tổng số Đủ 14 - dƣới 16 Đủ 16 - dƣới 18

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2.774 2.667 2.901 2.701 2.254 2.783 2.534 1.880 2.405 2.717 3.062 2.792 Dƣới 14 tuổi 360 280 370 254 173 328 171 172 163 277 337 306 12,98% 10,50% 12,75% 9,40% 7,68% 11,79% 6,75% 9,15% 6,77% 10,19% 11,02% 10,96% 1.036 901 852 836 724 913 896 424 695 846 1.006 886 37,35% 33,78% 29,37% 30,95% 32,12% 32,81% 35,36% 22,55% 28,89% 31,13% 32,86% 31,74% 1.378 1.486 1.679 1.611 1.357 1.542 1.467 1.284 1.547 1.594 1.719 1.600 49,68% 55,72% 57,88% 59,64% 60,20% 55,41% 57,89% 68,30% 64,32% 58,66% 56,12% 57,30%

10.015 31,18% 18.264 58,03% Cộng 31.471 3.191 10,14%

169

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.11. THỐNG KÊ MỨC ĐỘ VI PHẠM CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT 2 6 - 2017)

Lần 1 Tỷ lệ Lần 2 trở lên Tỷ lệ Năm Tổng số

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

61,93% 64,98% 57,10% 62,94% 71,87% 71,54% 68,43% 77,55% 69,97% 73,46% 69,45% 73,82% 68,25% 1.056 934 1.245 1.001 634 792 800 422 722 721 935 731 9.993 38,07% 35,02% 42,90% 37,06% 28,13% 28,46% 31,57% 22,45% 30,03% 26,54% 30,55% 26,18% 31,75% 2.774 2.667 2.902 2.701 2.254 2.783 2.534 1.880 2.405 2.717 3.062 2.792 31.471 1.718 1.733 1.657 1.700 1.620 1.991 1.734 1.458 1.683 1.996 2.127 2.061 21.478 Cộng

170

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.12.

THỐNG KÊ VỀ ĐIỀU KIỆN GIA ĐÌNH NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ĐANG BỊ TẠM GIAM TẠI CÔNG AN CÁC TỈNH BẠC LIÊU, CÀ MAU, TRÀ VINH, HẬU GIANG, BẾN TRE VÀ THÀNH PHỐ CẦN THƠ 2 6 - 2017)

Năm

Khó khăn Điều kiện gia đình Đủ ăn Khá giả

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

Tổng số đối tƣợng 94 94 97 74 66 89 119 102 118 123 142 138 1.256 100% 29 39 35 37 23 40 71 63 71 74 71 69 622 49,52% 36 29 28 19 26 24 32 29 34 37 43 37 374 29,78% 29 26 34 18 17 25 16 10 13 12 28 32 260 20,70% Tổng số Tỷ lệ%

171

Nguồn: PC81B Công an các tỉnhBạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh, Hậu Giang, Bến Tre và thành phố Cần Thơ

Bảng 3.13.

THỐNG KÊ CÔNG TÁC TẤN CÔNG TRẤN ÁP TỘI PHẠM HÌNH SỰ KHU VỰC MIỀN TÂY NAM BỘ 2 6 - 2017)

ĐT XLTP Triệt phá TNXH Triệt phá băng nhóm ĐỊA BÀN Bắt TN Đƣa CSGD Đƣa TGD Số vụ Đối tƣợng Số lƣợng Đối tƣợng Số lƣợng Đối tƣợng

Long An Tiền Giang Cần Thơ 5.670 2.943 3.437 7.089 4.806 4.338 230 206 157 1.161 1.794 700 341 498 194 723 787 565 273 400 245 921 741 583 5.634 4.209 3.816

Đồng Tháp 6.292 9.368 395 2.245 543 1.051 420 1.543 6.567

Bến Tre Vĩnh Long Sóc Trăng Trà Vinh An Giang 1.849 2.358 2.401 3.651 6.071 2.590 3.021 3.406 5.190 8.566 153 148 184 296 483 1.102 638 766 1.663 1.937 242 198 539 542 577 654 533 529 772 1.514 197 250 177 360 689 1.028 1.601 2.267 3.756 676 4.264 7.541 9.345 11.871 4.151

Kiên Giang 1.823 2.717 83 782 231 845 345 1.731 9.090

Hậu Giang Bạc Liêu Cà Mau

1.606 2.618 4.780 45.499 2.631 3.740 6.783 64.245 122 211 77 2.745 814 1.085 485 15.172 119 415 383 4.822 512 506 983 9.974 139 207 367 4.069 282 1.774 781 17.684 2.197 6.502 3.585 78.772 Cộng

172

Nguồn: PC45 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ.

Bảng 3.14

THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ HÕA GIẢI NĂM 2 6-2017 HÕA GIẢI PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Số lƣợng báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật

Báo cáo viên

STT Tỉnh Số tổ hòa giải Số hòa giải viên Số vụ, việc hòa giải thành Cộng Số tài liệu phát hành (bộ) Tuyên truyền viên Cấp tỉnh Cấp huyện Số vụ, việc nhận hòa giải Số thôn, tổ dân phố và tƣơng đƣơng

Số lƣợt ngƣời đƣợc tuyên truyền PL theo hình thức tuyên truyền miệng

Số cuộc tuyên truyền PL theo hình thức tuyên truyền miệng (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)=(4)+(5)+(6) (8) (9) (10) (11) (12)

14.717 492.130 105.406 80 324 1.826 2.230 1.113 1.053 6.831 5.755 4.254 1

34.698 1.187.129 47.400 46 360 2.085 2.491 1.009 1.025 6.039 2.525 1.726 2

32.580 1.615.000 85.000 140 380 3.680 4.200 630 630 3.670 1.965 1.775 3

1.162 69.257 444.592 121 339 1.098 1.558 687 851 4.360 6.713 4.746 4

24.597 332.023 16.029 71 163 2.169 2.403 852 852 6.208 2.859 2.042 5

13.919 324.255 9.850 71 164 1.050 1.285 846 846 6.485 2.638 1.845 6

3.954 519.292 18.875 126 60 453 639 773 801 3.907 3.193 1.210 7

173

128 2.640.818 110.000 40 150 1.248 1.438 783 2.333 11.248 2.131 125 8 Long An Tiền Giang Cần Thơ Đồng Tháp Bến Tre Vĩnh Long Sóc Trăng Trà Vinh

9 12.075 499.841 225.996 122 104 2.354 2.580 920 6.261 6.752 5.067

10 17.935 539.739 118.512 54 424 1.593 2.071 920 928 6.282 3.180 2.445

11 9.673 301.877 25.735 24 135 817 524 528 3.484 3.097 2.227 976

12 2.470 35.190 83 71 218 574 442 538 3.785 2.560 1.479 863

13 12.567 632.878 68.512 86 161 1.207 1.454 935 912 6.806 6.806 5.474 An Giang Kiên Giang Hậu Giang Bạc Liêu Cà Mau

174

Nguồn: Cục Bổ trợ pháp lý - Bộ Tư pháp

Bảng 3.15

THỐNG KÊ LỰC LƢ NG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỘI PHẠM VỀ TRẬT TỰ XÃ HỘI CÔNG AN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ MIỀN TÂY NAM BỘ Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2 17

TRÌNH ĐỘ TỔNG QUÂN SỐ CHỨC DANH Nghiệp vụ Lý luận chính trị CBCS TỈNH, THÀNH PHỐ Lãnh đạo TS PC45 TM-HC Cấp huyện Cấp phƣờng Sơ học Trung học Đại học Sơ cấp Trung cấp Cao cấp TS viên ĐT viên

(1) Long An (2) 331 (3) 51 (4) 280 (5) 0 (6) 47 (7) 284 (8) 9 (10) 182 Trên đại học (11) 3 (12) 146 (13) 163 (14) 22 (15) 213 (16) 100 (9) 137 (17) 8

Tiền Giang Cần Thơ Đồng Tháp Bến Tre Vĩnh Long Sóc Trăng Trà Vinh An Giang 285 212 310 220 205 268 225 240 63 66 50 40 45 48 44 53 222 146 260 180 160 220 157 187 0 0 0 0 0 0 24 0 51 60 41 32 29 38 36 69 234 252 269 188 176 230 189 171 10 2 12 3 7 8 1 9 159 37 170 121 112 21 93 63 4 0 2 1 1 3 1 0 129 175 138 98 92 144 129 164 132 33 154 107 97 115 91 56 24 4 18 15 16 9 5 20 181 151 199 142 131 174 178 160 97 53 103 73 68 89 42 75 112 173 126 95 58 236 130 168 7 8 8 5 6 5 5 5

Kiên Giang Hậu Giang Bạc Liêu Cà Mau 269 197 141 196 42 36 40 38 227 137 101 158 0 24 0 0 53 47 37 57 216 150 104 139 4 12 1 9 84 71 40 128 0 1 0 2 185 107 68 95 65 77 72 84 19 13 1 17 198 140 96 104 65 49 38 84 181 113 100 57 6 8 7 8

175

Nguồn: PC45, PX13 Công an các tỉnh, thành phố ở khu vực miền Tây Nam bộ

Bảng 3.16 THỐNG KÊ LỰC LƢ NG VIỆN KIỂM SÁT CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ KHU VỰC TÂY NAM BỘ

Tổng số Kiểm sát viên

Chuyên môn Ngoại ngữ Tin học Trình độ Lý luận chính trị

Tỉnh, TP

Kiểm sát viên cao cấp Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung học Sơ cấp Trung cấp Sơ cấp Cử nhân Cơ sở Cử nhân Cơ sở Kiểm sát viên trung cấp Kiểm sát viên sơ cấp Cử nhân, Cao cấp

0 127 258 0 4 381 0 0 38 0 347 0 1 384 0 385

0 113 237 0 2 347 0 0 27 0 323 0 0 350 0 350

0 156 283 0 6 433 0 0 32 0 407 0 2 437 1 438

0 139 275 0 3 411 0 0 35 0 379 0 0 314 0 314

0 112 232 0 2 342 0 0 29 0 315 0 0 344 0 344

0 132 249 0 3 378 0 0 39 0 342 0 0 381 0 381

0 115 279 0 0 394 0 0 17 0 377 0 1 393 1 393

0 98 233 0 4 329 0 0 31 0 300 0 0 331 0 331

0 142 267 0 4 405 0 0 37 0 372 0 0 409 1 408

176

0 141 284 0 4 421 0 0 43 0 382 0 1 424 0 425 Long An Tiền Giang Cần Thơ Đồng Tháp Bến Tre Vĩnh Long Sóc Trăng Trà Vinh An Giang Kiên Giang

122 241 0 0 363 0 0 0 28 335 363 0 0 0 363 0

118 240 0 2 356 0 0 0 36 320 358 0 0 0 358 0

136 276 0 3 409 0 0 0 39 373 412 0 0 1 411 0

0 0 0 0 0 5 4 1.655 3.361 4.979 431 4.585 5.011 5.012 0 Hậu Giang Bạc Liêu Cà Mau Tổng số

Bảng 3.17 Nguồn: Vụ Tổ chức - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

THỐNG KÊ LỰC LƢ NG TÕA ÁN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ KHU VỰC TÂY NAM BỘ

Tổng số biên chế Trình độ

Chuyên môn Ngoại ngữ Tin học

Tỉnh, TP

Đối tƣợng khác Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung học Sơ cấp Trung cấp Sơ cấp Cử nhân Cơ sở Cử nhân Cơ sở Thẩm phán Cao cấp Thẩm phán Trung cấp Thẩm phán Sơ cấp Lý luận chính trị Cử nhân, Cao cấp

Long An 1 31 259 0 22 256 9 4 37 31 231 0 214 2 221 3 1

24 88 191 0 10 275 9 3 32 39 0 1 203 8 229 4 1

Tiền Giang Cần Thơ 25 65 119 0 16 196 2 3 25 54 88 4 115 3 107 1 1

35 89 174 0 22 270 3 2 57 117 0 3 270 10 274 3 1

Đồng Tháp Bến Tre 16 81 121 0 4 200 9 2 43 7 0 0 124 1 125 0 1

23 71 123 0 14 193 3 1 45 88 0 0 222 5 217 1 1

177

25 47 126 0 13 181 5 1 29 11 117 0 165 4 155 1 1 Vĩnh Long Sóc Trăng

Trà Vinh 0 16 58 110 0 1 2 173 2 6 34 20 76 0 157 2 159

An Giang 0 31 94 164 0 0 11 254 14 4 42 79 85 0 178 1 242

0 31 85 151 0 3 252 6 14 1 40 56 93 2 126 3 148

1 12 40 87 0 0 124 8 2 2 19 13 0 0 131 1 132

Kiên Giang Hậu Giang Bạc Liêu 1 13 39 97 0 1 148 20 1 2 19 7 0 0 124 1 125

Cà Mau 1 18 60 124 0 19 181 0 4 0 41 94 0 0 197 4 196

Tổng số 0 10 270 848 1.846 148 2.703 37 77 31 463 616 690 10 2.226 45 2.330

178

Nguồn: Vụ Tổ chức - Tòa án nhân dân tối cao

PHỤ LỤC 2: CÁC PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Phiếu số 3.1

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC Về hoàn cảnh gia đình NCTN vi phạm pháp luật

- Mục đích: Phục vụ nghiên cứu luận án“Phòng ngừa tình hình tội phạm do

người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ”.

- Ngƣời tiến hành điều tra: Nguyễn Thanh Phong - Tác giả của luận án.

- Đối tƣợng tiến hành điều tra: Cảnh sát khu vực và lãnh đạo Công an xã,

phƣờng, thị trấn thuộc tỉnh Vĩnh Long; số lƣợng là 165 ngƣời.

- Địa bàn và thời gian tiến hành điều tra: Công an 107 xã, phƣờng, thị trấn

thuộc 08 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Vĩnh Long, trong năm 2015.

- Hình thức điều tra: Lấy ý kiến trực tiếp qua Hội nghị tổng kết chuyên đề

“Phòng chống tội phạm và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ năm 2015”

do Ban Chỉ đạo Phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn

dân bảo vệ ANTQ tỉnh Vĩnh Long tổ chức vào ngày 10 tháng 11 năm 2015.

- Nội dung tiến hành điều tra:

+ Tổng số ngƣời CTN (dƣới 18 tuổi) đồng chí đƣợc tiếp xúc làm việc là….. em.

+ Câu hỏi: Hoàn cảnh nào dẫn đến ngƣời CTN vi phạm pháp luật

+ Trả lời: Đánh số vào một trong những đáp án sau:

1. Do gia đình nghèo khổ thiếu thốn nên vi phạm pháp luật VPPL

2. Gia đình đủ ăn nhƣng vẫn vi phạm pháp luật

3. Gia đình khá giả, đáp ứng đầy đủ nhu cầu sống nhƣng vẫn vi phạm pháp

luật

Xin chân thành cám ơn các đồng chí đã tham gia tiến hành thực hiện Phiếu

điều tra xã hội học này./.

Vĩnh Long, ngày 10 tháng 11 năm 2015

Ngƣời tham gia

179

(kí tên, ghi tên và chức vụ)

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

- Tổng số NCTN (dƣới 18 tuổi) đƣợc tiếp xúc làm việc là 361 em.

- Hoàn cảnh dẫn đến NCTN vi phạm pháp luật là:

1. Do gia đình nghèo khổ thiếu thốn nên vi phạm pháp luật 249 em, chiếm

68,97%.

2. Gia đình đủ ăn nhƣng vẫn vi phạm pháp luật 42 em, chiếm 11,63%.

3. Gia đình khá giả, đáp ứng đầy đủ nhu cầu sống nhƣng vẫn vi phạm pháp

luật 70 em, chiếm 19,39%.

180

-------------------------------------------

Phiếu số 3.2

PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Về nguyên nhân và điều kiện NCTN vi phạm pháp luật

- Mục đích: Phục vụ nghiên cứu Luận án “Phòng ngừa tình hình tội phạm do

người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ”.

- Ngƣời tiến hành điều tra: Nguyễn Thanh Phong - Tác giả của luận án.

- Đối tƣợng tiến hành điều tra: Trinh sát hình sự phụ trách địa bàn và Điều tra viên của các đơn vị PC45, Công an huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Vĩnh Long. Tổng số 59 đồng chí.

- Địa bàn và thời gian tiến hành điều tra: Tỉnh Vĩnh Long, năm 2015.

- Hình thức điều tra: Lấy ý kiến trực tiếp qua Hội nghị tổng kết chuyên đề “Phòng chống tội phạm và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ năm 2015” do Ban Chỉ đạo Phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ tỉnh Vĩnh Long tổ chức vào ngày 10 tháng 11 năm 2015.

- Nội dung tiến hành điều tra:

+ Tổng số ngƣời CTN (dƣới 18 tuổi) đồng chí đƣợc tiếp xúc làm việc là….. em.

+ Câu hỏi: Nguyên nhân, điều kiện nào dẫn đến ngƣời CTN vi phạm pháp luật

+ Trả lời: Đánh số vào một trong những đáp án sau:

1. Nguyên nhân từ sự quản lý, giáo dục của gia đình

2. Nguyên nhân từ những sơ hở của nhà trƣờng

3. Nguyên nhân từ những thiếu xót của xã hội

4. Nguyên nhân từ bản thân của các em

Xin chân thành cám ơn các đồng chí đã tham gia tiến hành thực hiện Phiếu

điều tra xã hội học này./.

Vĩnh Long, ngày 10 tháng 11 năm 2015

Ngƣời tham gia

181

(kí tên, ghi tên và chức vụ)

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

- Tổng số NCTN vi phạm pháp luật đƣợc Trinh sát hình sự và Điều tra viên

tiếp xúc làm việc là 402 em.

- Nguyên nhân, điều kiện dẫn đến NCTN vi phạm pháp luật là:

1. Nguyên nhân từ sự quản lý, giáo dục của gia đình 259 em, chiếm 64,42%.

2. Nguyên nhân từ những sơ hở của nhà trƣờng 31 em, chiếm 7,71%.

3. Nguyên nhân từ những thiếu sót của xã hội 25 em, chiếm 6,21%.

4. Nguyên nhân từ bản thân của các em 87 em, chiếm 21,61%.

182

-------------------------------------------