BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRƯƠNG THỊ THU HIỀN

THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI- 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG THỊ THU HIỀN

THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 9 34 04 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Trần Văn Giao

2. PGS.TS. Nguyễn Tiệp

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ với đề tài “Thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi;

các tài liệu được trích dẫn trong luận án có nguồn gốc rõ ràng; những kết luận khoa

học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên.

Tác giả luận án

Trương Thị Thu Hiền

MỤC LỤC Trang

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 12

1.1 Các nghiên cứu trong và ngoài nước về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ....................................... 12 1.2 Đánh giá về các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước và định hướng nghiên cứu .......................................................................... 32 Chương 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP ......................................................................................... 36 2.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 36 2.2 Nội dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ..... 44 2.3 Vai trò của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp .................... 50 2.4 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp .............................................................................. 53 2.5 Quy định của luật pháp quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp ............................ 55 2.6 Quy định về bảo hiểm thất nghiệp của một số nước trên thế giới và những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam .............................................. 59

Chương 3. THỰC TRẠNG THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................ 75 3.1 Thực trạng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ............................................. 75 3.2 Phân tích thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009-2017 ............................................................... 86 3.3 Đánh giá thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam .............................................................................................. 104

Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM .... 129 4.1 Dự báo xu hướng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030 .......... 129 4.2 Quan điểm hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ............... 138 4.3 Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030 ...................................... 139 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 165 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CÁC PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội

BHTN Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH Bảo hiểm xã hội

BHYT Bảo hiểm y tế

DVVL Dịch vụ việc làm

GTVL Giới thiệu việc làm

HĐLĐ Hợp đồng lao động

HĐLV Hợp đồng làm việc

Tổ chức Lao động Quốc tế ILO

LĐ-TB&XH Lao động- Thương binh và Xã hội

LLLĐ Lực lượng lao động

NLĐ Người lao động

NSDLĐ Người sử dụng lao động

NSNN Ngân sách nhà nước

TCTN Trợ cấp thất nghiệp

TTHC Thủ tục hành chính

TTLĐ Thị trường lao động

TW Trung ương

UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng

3.1

3.2

3.3 Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động và số người thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2003-2008 Tỷ lệ thất nghiệp và số người thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009-2017 Số người tham gia BHTN trong tương quan với lực lượng lao động cả nước giai đoạn 2009-2017

3.4 Kết quả thu bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2009-2017 3.5 Chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017 3.6 Cân đối thu- chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010- 2017 3.7

3.8

Tình hình giải quyết các chế độ bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017 Tỷ lệ người được nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp trong tổng số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và tổng số người thất nghiệp giai đoạn 2010- 2017

3.9 Kết quả bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009-2017 3.10 Danh mục thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp 3.11 Tỷ lệ đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở một số quốc gia 3.12 Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp ở một số quốc gia 3.13 Nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017 3.14 Cơ cấu chi bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017

3.15

4.1

4.2

4.3

4.4

4.5 Các địa phương có số điểm giải quyết bảo hiểm thất nghiệp nhiều nhất nước Lực lượng lao động, số người thất nghiệp, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2003-2017 Dự báo lực lượng lao động, số người thất nghiệp, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2018-2030 Dự kiến cân đối thu-chi bảo hiểm thất nghiệp trong 5 năm đối với 1 người lao động có tham gia học nghề (mức lương tối thiểu thời điểm 30/6/2018) Dự kiến cân đối thu-chi bảo hiểm thất nghiệp trong 5 năm đối với 1 người lao động không tham gia học nghề (mức lương tối thiểu thời điểm 30/6/2018) Mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho một người tham gia bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010- 2017

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Số hiệu Tên hình vẽ, đồ thị

Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ chi bảo hiểm thất nghiệp so với tổng thu bảo hiểm thất

nghiệp giai đoạn 2010-2017

Biểu đồ 3.2 Tỷ lệ lao động mất việc làm được hưởng trợ cấp thất nghiệp trong

tổng số người thất nghiệp và người tham gia bảo hiểm thất nghiệp

giai đoạn 2010-2017

Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ lao động mất việc làm được tư vấn, giới thiệu việc làm trong

tổng số người thất nghiệp giai đoạn 2010-2017

Biểu đồ 3.4 Tỷ lệ lao động mất việc làm được hỗ trợ học nghề trong tổng số người thất nghiệp và người tham gia bảo hiểm thất nghiệp giai

đoạn 2010-2017

Biểu đồ 3.5 Tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong lực

lượng lao động Việt Nam giai đoạn 2009-2017

Biểu đồ 3.6 Cơ cấu chi bảo hiểm thất nghiệp năm 2017 (%)

Sơ đồ 3.1 Mô tả đối tượng người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm thất

nghiệp

Sơ đồ 3.2 Mô tả đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp hiện hành ở Việt

Nam

Sơ đồ 3.3 Quy trình giải quyết hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho người

lao động mất việc làm

Sơ đồ 4.1 Mô hình cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động- việc làm

Sơ đồ 4.2 Các bộ phận hợp thành tổng dân số, nguồn lao động, dân số trong

độ tuổi lao động, ngoài độ tuổi lao động, dân số hoạt động kinh tế, không hoạt động kinh tế

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Về lý luận

Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế- xã hội luôn tồn tại ở tất cả các quốc

gia, không phân biệt trình độ phát triển hay chế độ chính trị, đồng thời, có thể gây ra

hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội và bản thân người thất nghiệp. Vì vậy, Chính

phủ các nước luôn đặt ra cho mình một tỷ lệ thất nghiệp chấp nhận được đồng thời

lựa chọn các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục hậu quả của thất

nghiệp. Trong số các biện pháp đó, bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp tất yếu,

khách quan, hiện được thực hiện ở 80 quốc gia và ngày càng phát huy được vai trò

hết sức to lớn của nó. Đối với người lao động, người thất nghiệp: Bảo hiểm thất

nghiệp gián tiếp ngăn ngừa, hạn chế thất nghiệp cho người lao động; trực tiếp bù

đắp một phần thu nhập cho người thất nghiệp; động viên người tham gia bảo hiểm

thất nghiệp hăng hái, yên tâm làm việc (đối với người đang có việc làm) hoặc tạo

động lực để họ nhanh chóng tìm kiếm việc làm (đối với người chưa có việc làm);

duy trì, củng cố, phát triển niềm tin của người lao động, người thất nghiệp vào tính

nhân đạo, nhân văn sâu sắc của bộ máy lãnh đạo đất nước. Đối với người sử dụng

lao động: Bảo hiểm thất nghiệp làm giảm gánh nặng tài chính cho người sử dụng

lao động trong những trường hợp bất khả kháng dẫn đến việc không đảm bảo được

việc làm cho người lao động; không phải chỉ trả bất kỳ khoản trợ cấp nào dành cho

người lao động khi họ thôi việc, nghỉ việc vì đã có quỹ bảo hiểm thất nghiệp chi trả.

Đối với quốc gia: Bảo hiểm thất nghiệp như một chất xúc tác giúp đảm bảo việc

làm bền vững cho người lao động, từ đó hạn chế thất nghiệp, đảm bảo an sinh xã

hội, góp phần ổn định vĩ mô nền kinh tế, tạo nên sự phát triển bền vững của mỗi

quốc gia. Với vai trò to lớn đó, ngày nay, bảo hiểm thất nghiệp đã trở thành bộ phận

quan trọng không thể thiếu của hệ thống chính sách an sinh xã hội của các nước

phát triển, đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp giúp hiện thực hóa các mục tiêu, ý

tưởng của các nhà chính trị về bảo hiểm thất nghiệp thông qua hệ thống thể chế làm

cơ sở cho việc tổ chức triển khai bảo hiểm thất nghiệp theo đúng định hướng, chủ

trương, đường lối của các nhà chính trị. Trong các nội dung quản lý nhà nước về

1

bảo hiểm thất nghiệp, thể chế có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định

đối với các nội dung còn lại của quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp: tổ chức

bộ máy, nhân sự, nguồn lực vật chất, tài chính, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo về BHTN... Do đó, một thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp hoàn chỉnh sẽ giúp cho hoạt động quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

có hiệu lực, hiệu quả, từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi của chính sách bảo

hiểm thất nghiệp trên thực tế.

Tuy nhiên hiện nay các nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước về thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp chưa nhiều (chỉ có một vài tác giả nghiên

cứu khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp, quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp,

thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp); một số nội dung liên quan khác

chưa được nghiên cứu như nội dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo

hiểm thất nghiệp, vai trò của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp và

các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp.

1.2 Về thực tiễn

Ở Việt Nam, để đảm bảo quyền được làm việc của công dân về việc làm theo

Hiến pháp 2013, Nhà nước đã và đang thực hiện nghĩa vụ tạo việc làm đồng thời có

các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục tình trạng thất nghiệp cho người lao

động, trong đó có chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

Từ ngày 01/01/2009, chính sách bảo hiểm thất nghiệp chính thức được áp

dụng ở Việt Nam với mục đích hỗ trợ người lao động bị mất việc làm một phần thu

nhập đồng thời hỗ trợ họ được học nghề, tìm việc làm để tái gia nhập thị trường lao

động, ổn định cuộc sống. Với nỗ lực này, Việt Nam trở thành nước thứ 79 trên thế

giới và nước thứ 2 ở ASEAN thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.

Đến nay, sau hơn 10 năm thực hiện, Việt Nam đã đạt được những thành tựu

to lớn trong thực hiện bảo hiểm thất nghiệp nhưng thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể là: Tên gọi ”Bảo hiểm thất

nghiệp” chưa phản ánh đúng nội dung của chính sách Bảo hiểm thất nghiệp; Quy

định hiện hành chưa phát huy sự chủ động của các địa phương trong quản lý bảo

hiểm thất nghiệp; chưa đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng người lao động,

người sử dụng lao động về giới tính, độ tuổi, khu vực, quy mô; chưa đảm bảo tính

2

hiện đại đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp trong giai đoạn

hiện nay; Một số quy định còn chưa hợp lý và chưa đảm bảo tính minh bạch: về đối

tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, về các chế độ bảo hiểm thất nghiệp, về chế độ

thông tin quản lý, quan hệ phối hợp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có

liên quan trong triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, về quỹ bảo

hiểm thất nghiệp, về chế tài xử lý vi phạm và thủ tục hành chính về bảo hiểm thất

nghiệp...

Tất cả những bất cập này là một phần nguyên nhân của tình trạng người sử

dụng lao động không tuân thủ nghĩa vụ thông báo định kỳ về tình hình biến động

lao động, tập huấn hướng dẫn thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, chậm đóng, nợ đọng

bảo hiểm thất nghiệp; tình trạng người lao động trục lợi bảo hiểm thất nghiệp:

không trung thực khi khai báo tình trạng việc làm, vừa hưởng bảo hiểm thất nghiệp

vừa tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp, nâng cao mức đóng góp trước khi nghỉ

việc để được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp cao hơn, gần đến tuổi nghỉ hưu thì xin

nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp hoặc vừa hưởng chế độ thai sản vừa hưởng

trợ cấp thất nghiệp, người lao động trong quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng

vẫn tiếp tục đi làm việc mà không tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp

hoặc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp ở địa phương khác ...

Đây cũng là nguyên nhân mà mặc dù bảo hiểm thất nghiệp đã tạo ra hiệu ứng

xã hội rất tốt, góp phần ngăn ngừa, khắc phục, hạn chế hậu quả của thất nghiệp

nhưng trên thực tế, tỷ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong lực lượng lao động

Việt Nam hiện nay chỉ chiếm khoảng 21,82% (giai đoạn 2009-2017 dao động từ

12,15% đến 21,82%) với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 1,07%, làm cho độ bao

phủ bảo hiểm thất nghiệp hiện rất thấp.

Ngoài ra, trong bối cảnh hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có

ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của con người, trong đó có vấn

đề lao động, việc làm, thất nghiệp; mang đến những cơ hội và thách thức đối với

quản trị nhà nước nói chung, quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực nói riêng, trong

đó có quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp. Vì vậy, hoàn thiện thể chế quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp cũng sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp

thiết, giúp tận dụng những tác động tích cực, vượt qua những tác động tiêu cực, từ

đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong giai

3

đoạn hiện nay (khi mà tỷ lệ thất nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên, ở

lao động có trình độ cao ngày càng tăng) và trong tương lai (khi nhu cầu về lao

động phổ thông ngày càng giảm đi do tốc độ của tự động hóa, rô bốt hóa, ...).

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài "Thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án

Tiến sĩ là cần thiết, phù hợp với chuyên ngành đào tạo, có ý nghĩa nhất định về mặt

lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở khoa

học về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, trên cơ sở đó làm rõ và

đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xây dựng tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến

thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp.

- Xây dựng cơ sở khoa học thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp:

một số khái niệm cơ bản (bảo hiểm thất nghiệp, quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp, thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp), nội dung cơ bản của thể

chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, vai trò của thể chế quản lý nhà nước

về bảo hiểm thất nghiệp, các nhân tố chủ yếu tác động đến thể chế quản lý nhà nước

về bảo hiểm thất nghiệp, quy định của luật pháp quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp.

- Nghiên cứu thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước

có nhiều thành công trong quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, có đặc điểm

tương đồng với Việt Nam, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

- Phân tích thực trạng thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, đưa ra

đánh giá chung về tác động của chính sách bảo hiểm thất nghiệp đến tỷ lệ thất

nghiệp, về hiệu quả của chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam thời gian qua.

- Phân tích, đánh giá, đưa ra nhận định về những thành công và bất cập về thể

chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009-2017.

- Phân tích bối cảnh Việt Nam hiện nay, tấm nhìn đến năm 2030 và dự báo

những tác động đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp; phân tích

4

quan điểm phát triển bảo hiểm thất nghiệp của Đảng và Nhà nước Việt Nam; dự báo

lực lượng lao động, số người thất nghiệp, số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp,

số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030; từ đó, dự báo

xu hướng phát triển thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp đến năm

2030.

- Đưa ra quan điểm và đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

- Về lý luận: Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về thể

chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp.

- Về thực tiễn: Đối tượng nghiên cứu của luận án là thể chế bảo hiểm thất

nghiệp của một số nước, thực tiễn về bảo hiểm thất nghiệp và thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

- Giới hạn về nội dung nghiên cứu:

Luận án không nghiên cứu tất cả các nội dung của thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay mà chỉ tập trung vào 7 nội dung cơ bản,

gồm các quy định về: hình thức tham gia, đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp;

các chế độ bảo hiểm thất nghiệp; tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý nhà nước về bảo

hiểm thất nghiệp; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các

cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực hiện chính sách

bảo hiểm thất nghiệp; quỹ BHTN; xử lý vi phạm, thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân,

giải quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm thất nghiệp và thủ tục

hành chính về bảo hiểm thất nghiệp (được trình bày ở mục 2.2, chương 2).

Bên cạnh đó, luận án không nghiên cứu tất cả các nội dung của thể chế quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở 6 quốc gia để rút ra bài học kinh nghiệm vận

dụng vào hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam mà chỉ tập trung vào 8

nội dung cơ bản trong quy định của mỗi nước, gồm: đối tượng tham gia, hình thức

tham gia, các bên đóng góp vào quỹ BHTN, mức đóng BHTN, mức hưởng TCTN,

thời gian hưởng TCTN, điều kiện hưởng BHTN, tổ chức bộ máy quản lý BHTN

(được trình bày ở mục 2.7.1, chương 2).

5

- Giới hạn về thời gian nghiên cứu:

Thời gian nghiên cứu thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam được giới hạn từ

ngày chính sách bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu có hiệu lực thực thi ở Việt Nam (ngày

01/01/2009) đến nay, tầm nhìn đến năm 2030- thời điểm cả nước thi đua lập thành

tích chào mừng kỷ niệm 55 năm ngày thống nhất đất nước và 45 năm thực hiện

công cuộc đổi mới đất nước.

Các nghiên cứu liên quan về thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam, được giới hạn

từ năm 2003 đến nay (trước và sau khi có chính sách bảo hiểm thất nghiệp) để có cơ

sở đánh giá tác động của chính sách này đến thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam.

Các nghiên cứu liên quan về quy định bảo hiểm thất nghiệp của 6 quốc gia

trên thế giới được giới hạn từ năm ban hành quy định mới nhất về BHTN hiện đang

còn hiệu lực thực thi đến nay.

- Giới hạn về không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu thể chế quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, để có cơ sở hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp ở Việt Nam, luận án mở rộng không quan nghiên cứu đến các quy định

về BHTN của Tổ chức Lao động Quốc tế và các nước: Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoa

Kỳ, Canada, Trung Quốc và Thái Lan.

4. Giả thuyết khoa học và các câu hỏi nghiên cứu của luận án

4.1 Giả thuyết khoa học

Luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu sau đây: Hơn 10 năm qua, mặc dù có

những thành công nhưng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam vẫn còn tồn tại những bất cập nhất định. Nếu có một hệ thống giải pháp đồng

bộ giúp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp thì chính sách

bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu mà nhà nước đặt ra, từ đó, sẽ

mang lại hiệu quả, phát huy vai trò đảm bảo một phần đời sống cho người thất

nghiệp, tạo cơ hội cho người lao động nhanh chóng tái hòa nhập thị trường lao

động, góp phần ổn định vĩ mô nền kinh tế, trở thành chính sách có vị trí ngày càng

quan trọng trong hệ thống chính sách thị trường lao động và an sinh xã hội của Việt

Nam.

4.2.2 Câu hỏi nghiên cứu

Luận án giải quyết các câu hỏi nghiên cứu chính sau đây:

6

- Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp là gì?

- Việt Nam có thể học được những gì từ kinh nghiệm của các nước trên thế

giới để hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp?

- Tại sao nhiều đối tượng người thất nghiệp, người lao động có rủi ro việc làm

cao ở Việt Nam chưa được tiếp cận với chính sách bảo hiểm thất nghiệp?

- Tại sao người lao động mất việc làm chỉ quan tâm đến chế độ trợ cấp thất

nghiệp, mà không quan tâm đến chế độ khác của chính sách bảo hiểm thất nghiệp?

- Tại sao chế độ đào tạo nghề cho người lao động mất việc làm ít thu hút sự

tham gia của người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, chưa thực sự mang lại hiệu quả

như mong đợi?

- Tại sao vẫn còn tình trạng người lao động “lách luật” để hưởng bảo hiểm thất

nghiệp, tình trạng nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp như báo chí phản ánh thời gian

qua?

- Cần phải hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam theo quan điểm nào?

- Để hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam,

cần phải có những giải pháp gì?

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử Mác- Lênin, luận án đi sâu nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn

có liên quan đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp nhằm đánh giá

thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi góp phần hoàn thiện thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Luận án vận dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu sau đây:

5.2.1 Phương pháp nghiên cứu định tính

- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: Luận án sử dụng phương pháp

này để tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu đã có liên quan đến đề tài, từ

đó so sánh, chọn lọc những công trình có gắn bó mật thiết với đề tài để đưa vào luận

án (chương 1). Tác giả cũng sử dụng phương pháp này để hệ thống lại các nghiên

cứu đã có liên quan đến cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

7

nghiệp, từ đó, có sự kế thừa, phát triển hơn so với các nghiên cứu đã có (chương 2).

- Phương pháp nghiên cứu tình huống: Lựa chọn, phân tích một số quy định về

bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới: Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoa Kỳ,

Canada (4 quốc gia có nhiều thành công trong thực hiện bảo hiểm thất nghiệp) và

Trung Quốc, Thái Lan (2 quốc gia đã thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, có điều kiện

tương đồng với Việt Nam). Luận án sử dụng phương pháp này để làm sâu sắc thêm

kinh nghiệm ở các nước trên thế giới về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp (chương 2).

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Luận án xem thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp là một hệ thống lớn, trong đó có các hệ thống con, đó là các

yếu tố cấu thành nên thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp. Để hoàn

thiện hệ thống lớn, việc hoàn thiện từng hệ thống con là hết sức cần thiết. Luận án

sử dụng phương pháp này trong phân tích, đánh giá thực trạng thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp ở chương 3 và đưa ra những giải pháp hoàn thiện ở

chương 4.

- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn 02 chuyên gia (đại diện lãnh đạo Phòng

Bảo hiểm thất nghiệp thuộc Trung tâm Dịch vụ việc làm Thành phố Hồ Chí Minh

và đại diện lãnh đạo Phòng Chế độ chính sách thuộc Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ

Chí Minh) về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp. Tác giả sử dụng

phương pháp này để bổ sung, củng cố các lập luận của mình ở phần phân tích, đánh

giá thực trạng (chương 3) và đưa ra giải pháp hoàn thiện (chương 4).

5.2.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng

- Phương pháp khảo sát trực tuyến: tiến hành khảo sát ý kiến của 400 người

lao động trên phạm vi cả nước về chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam (đặc

điểm đối tượng tham gia khảo sát được mô tả ở mục 1, phụ lục 11). Cách lựa chọn

mẫu và kích thước mẫu được nêu trong phụ lục 10. Theo đó, tác giả sử dụng

phương pháp chọn mẫu là ngẫu nhiên phi xác suất và kích thước mẫu được tính

 Nn

1/(

2N .

)

toán theo công thức Slovin- một phương pháp được sử dụng nhiều trong nghiên cứu

khoa học: (Trong đó: N: lực lượng lao động tại thời điểm khảo sát

: sai số cho phép (5%)). Sử dụng phương pháp này để làm

(53.984.200 người) và

cơ sở bổ sung, củng cố cho các nhận định, phân tích, đánh giá thực trạng về thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp (chương 3) và đưa ra các giải pháp hoàn

8

thiện (chương 4).

- Phương pháp phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS: sử dụng phương pháp

này để phân tích một số nội dung chuyên sâu (đa biến, liên kết chéo) từ số liệu thu

thập được từ kết quả khảo sát trực tuyến đối với 400 người lao động để làm minh

chứng cho các đánh giá cần gắn nội dung khảo sát với đối tượng khảo sát (chương

3). Dữ liệu phân tích được trình bày ở phụ lục 11.

- Phương pháp dự báo số liệu (về lực lượng lao động, số người thất nghiệp, số

người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, số người được giải quyết chế độ bảo hiểm thất

nghiệp) bằng mô hình hồi quy theo thời gian hay còn gọi là mô hình dự báo dựa vào

xu thế (được trình bày tại phụ lục 12, 13, 14 và 15). Luận án sử dụng phương pháp

này để làm rõ cơ sở để đưa ra những dự báo về xu hướng bảo hiểm thất nghiệp đến

năm 2030 (chương 4).

6. Những đóng góp mới của luận án

6.1. Đóng góp mới về mặt lý luận

Về mặt lý luận, luận án kế thừa và phát triển cơ sở lý luận thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp, bổ sung về mặt học thuật các khái niệm về bảo hiểm

thất nghiệp, quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp; nội dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp; vai trò của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp và các

nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp.

Trong đó, 7 nội dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

là cơ sở quan trọng nhất để tác giả tổ chức một cách xuyên suốt và lôgic việc mô tả,

đánh giá thực trạng (ở chương 3) và đưa ra hệ thống giải pháp hoàn thiện thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam (ở chương 4).

6.2. Đóng góp mới về mặt thực tiễn

Về mặt thực tiễn, luận án có những đóng góp mới như sau:

Một là, qua nghiên cứu các quy định về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước

trên thế giới có nhiều thành công trong thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

và một số nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam đã có bước đi trước trong

thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, luận án góp phần làm sâu sắc thêm kinh nghiệm của

các nước về bảo hiểm thất nghiệp và rút ra những giá trị có thể vận dụng để hoàn

thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

9

Hai là, qua mô tả, phân tích thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam trước và sau

khi thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, phân tích thực trạng bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam từ khi triển khai đến nay, luận án đã có những nhận xét quan trọng về

những đóng góp của chính sách bảo hiểm thất nghiệp, như là cách ghi nhận hiệu

quả của chính sách này trong việc ngăn ngừa, khắc phục, hạn chế tình trạng thất

nghiệp ở Việt Nam.

Ba là, qua phân tích và đánh giá một cách toàn diện thực trạng thể chế quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam từ khi triển khai đến nay, luận án đã

đánh giá được những thành công và bất cập của thực trạng thể chế quản lý nhà nước

về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam thời gian qua.

Bốn là, qua thực hiện công tác dự báo: bối cảnh Việt Nam và sự tác động đến

thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, dự báo các chỉ tiêu lao động, thất

nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, xu hướng phát triển thể chế quản lý nhà nước về bảo

hiểm thất nghiệp đến năm 2030, luận án đã cho thấy cái nhìn tương lai trong hơn 10

năm đến về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, có tính đến tác động

có thể có từ bối cảnh hiện tại, nhất là từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Năm là, qua việc xây dựng, đề xuất quan điểm và hệ thống giải pháp hoàn

thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, luận án giúp nâng cao hiệu

quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong tương lai, góp phần đưa chính

sách bảo hiểm thất nghiệp ngày càng đến được với người lao động thực sự có nhu

cầu, nguyện vọng, giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của những người

tham gia bảo hiểm thất nghiệp, từ đó, góp phần ổn định xã hội, phát triển đất nước.

Trong đó, một số đề xuất quan trọng như: Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm

thất nghiệp đến lao động khu vực phi chính thức và lao động khu vực nông, lâm,

thủy sản; quy định thêm hình thức tham gia bảo hiểm thất nghiệp tự nguyện; Bổ

sung thêm chế độ hỗ trợ mới: “Cho vay ưu đãi từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp”; Tăng

mức hỗ trợ đối với chế độ hỗ trợ học nghề; có hỗ trợ đột xuất trong các trường hợp

người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp gặp rủi ro; Xây dựng và ban hành quy định về

xây dựng, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động- việc làm; Đổi mới

công tác tổ chức thông tin, thống kê về bảo hiểm thất nghiệp; không thu bảo hiểm

thất nghiệp đối với người lao động đã hết tuổi lao động mà chưa đủ điều kiện hưởng

lương hưu; giảm mức thu đối với một số đối tượng người sử dụng lao động đồng

10

thời tăng một số khoản chi cần thiết khác (tăng mức đầu tư ứng dụng công nghệ

thông tin; tăng mức hỗ trợ học nghề, …); bổ sung chế tài xử lý vi phạm pháp luật về

Bảo hiểm thất nghiệp một cách đầy đủ, nghiêm khắc không những đối với người lao

động, người sử dụng lao động mà còn đối với bộ máy các cơ quan quản lý, thực thi

bảo hiểm thất nghiệp và đội ngũ công chức, viên chức trong các cơ quan đó; Giao

Trung tâm Dịch vụ việc làm chức năng tổ chức chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người

lao động; ...

7. Ý nghĩa của luận án

Luận án có những ý nghĩa sau đây:

Thứ nhất, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và có

hệ thống về lý luận và thực tiễn thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam từ khi triển khai đến nay, góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp và làm sâu sắc, sinh động thêm thực tiễn

thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

Thứ hai, luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, nhà hoạch

định chính sách về bảo hiểm thất nghiệp.

Thứ ba, luận án là tài liệu nghiên cứu, giảng dạy có giá trị trong lĩnh vực bảo

hiểm, an sinh xã hội, quản lý nhà nước về kinh tế- xã hội và là tài liệu tham khảo

cho các nghiên cứu tiếp theo về bảo hiểm thất nghiệp về sau.

8. Cấu trúc của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục, tài liệu tham khảo, kết cấu của

luận án gồm có 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở khoa học về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp

Chương 3. Thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam hiện nay

Chương 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về

11

bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 Các nghiên cứu trong và ngoài nước về thể chế quản lý nhà nước về bảo

hiểm thất nghiệp

Các nghiên cứu liên quan đến thể chế QLNN về BHTN đã được nhiều cá

nhân, tổ chức trong và ngoài nước nghiên cứu và công bố dưới nhiều hình thức khác

nhau.

1.1.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Ngay khi ra đời, ILO đã phê chuẩn Công ước thất nghiệp C2 vào năm 1919

[125]. Tiếp đến các năm sau, tổ chức này còn phê chuẩn các Công ước khác: Công

ước phòng chống thất nghiệp C44, năm 1934 [126]; Công ước ASXH C102, năm

1952 [127]; Công ước xúc tiến, hỗ trợ và bảo vệ phòng chống thất nghiệp C168

năm 1991[128]. Những công ước này định hướng cho các nước tham gia phê chuẩn

Công ước hoạch định chính sách tìm kiếm biện pháp phòng chống thất nghiệp để

bảo vệ NLĐ và gia đình họ. Có một số nhà khoa học trên thế giới đã công bố những

công trình nghiên cứu của mình liên quan đến BHTN và TCTN.

Trong cuốn sách “Business Cylces and Unemployment” (tạm dịch là “Chu kỳ

kinh doanh và thất nghiệp”) của Cơ quan nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ xuất

bản năm 1923 [140], tác giả chương “Unemployment Insurance”, Leo Wolman, đã

có nghiên cứu nội dung chính sách BHTN ở Anh và thảo luận về chế độ BHTN dự

kiến áp dụng tại Hoa Kỳ. Đây là một trong số rất ít những cuốn sách có nội dung

nghiên cứu về BHTN sớm nhất trên thế giới. Lúc này chính sách BHTN chỉ mới

được hình thành và phát triển ở một số quốc gia. Công trình này liên quan đến luận

án ở nội dung: quá trình hình thành và phát triển BHTN trên thế giới. Đây là các

thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn về thể chế QLNN về BHTN ở các

nước trên thế giới, từ đó, có thông tin đa chiều trong nghiên cứu thể chế QLNN về

BHTN ở Việt Nam.

Trong cuốn sách “Public Administration” (Hành chính công) xuất bản năm

1927 [117], tác giả P.Y. Blundun đã đề cập đến vấn đề quản lý BHTN trong quản

lý hệ thống ASXH tại chương 5 “Administrative Aspects of Social Insurance:

12

Unemployment Insurance” (tạm dịch là: “Các khía cạnh hành chính của BHXH:

BHTN”. Đây là một trong số rất ít các công trình nghiên cứu đầu tiên về quản lý

BHTN. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: khái niệm BHTN. Đây là

thông tin hữu ích giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu và hệ thống cơ sở lý luận về

thể chế QLNN về BHTN (chương 2).

Tháng 3/2000, ngân hàng Phát triển liên Mỹ Inter-America Development

Bank đã thực hiện nghiên cứu về “Unemployment Insurance: Case studies and

lessons for Latin America and Caribbean” [139] (tạm dịch là: “Bảo hiểm thất

nghiệp: Nghiên cứu tình huống và những bài học cho các nước Mỹ La tinh và Ca ri

bê) với 83 trang. Trong nghiên cứu các tác giả đã dành 12 trang để giới thiệu và mô

tả tổng quan chung về chính sách BHTN (mục đích, mục tiêu của chính sách, sự

khác nhau giữa BHTN và các dạng hỗ trợ mất việc làm khác, xu hướng quốc tế về

BHTN…), 46 trang để mô tả chính sách BHTN ở 6 nước: Argentina, Barbados,

Brazil, Nhật, Ba Lan và Hoa Kỳ (về nguồn gốc của chính sách, tài chính, nội dung

chính sách, quản lý chính sách và các điểm chính cần quan tâm), 6 trang để bàn về

BHTN và tài chính cho hoạt động đào tạo và 19 trang để nhận xét và đưa ra khuyến

nghị về chính sách đối với các nước Mỹ La tinh và Ca ri bê. Công trình này liên

quan đến luận án ở nội dung: BHTN ở Hoa Kỳ, xu hướng quốc tế về BHTN. Đây là

thông tin hữu ích giúp tác giả có cơ sở để lựa chọn các quốc gia cần nghiên cứu, học

hỏi kinh nghiệm, vận dụng phù hợp vào điều kiện của Việt Nam (chương 2).

Năm 2006, tác giả Konstantinos Tatsiramos có bài viết "Unemployment

insurance in Europe: Unemployment duration and subsequent employment

stability" [143] (tạm dịch là: “Bảo hiểm thất nghiệp ở châu Âu: thời gian thất

nghiệp và vấn đề ổn định việc làm tiếp theo) đăng trên Tạp chí Journal of the

European Economic Association (Tạp chí Hiệp hội Kinh tế châu Âu). Với 23 trang

chưa kể tài liệu tham khảo và phụ lục, bài báo đưa ra các bằng chứng về tác dụng

của BHTN đến tình trạng thất nghiệp (bằng chứng từ số liệu ở 8 quốc gia ở châu Âu

(gồm: Đan Mạch, Pháp, Đức, Ireland, Vương quốc Anh, Ý, Hy Lạp và Tây Ban

Nha) được Ủy ban European Community Household Panel cung cấp, từ đó, phân

tích và đưa ra các đề xuất về chính sách để ổn định việc làm cho NLĐ ở các nước

châu Âu trong các giai đoạn tiếp theo. . Công trình này liên quan đến luận án ở nội

dung: làm rõ chế độ BHTN ở Đan Mạch. Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có cơ

13

sở lựa chọn Đan Mạch để nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, áp dụng vào điều kiện

của Việt Nam để phục vụ cho luận án (chương 2).

Tháng 2/2009, Nghiên cứu “Unemployment Insurance: Current Situation and

Potential Reforms” [152] (tạm dịch là: “Bảo hiểm thất nghiệp: tình hình hiện tại và

những cải cách tiềm năng”) của tác giả Wayne Wroman đăng trên website

www.urban.org của Viện Đô thị Hoa Kỳ. Bài báo đánh giá tình hình quỹ BHTN,

quản lý BHTN tại Hoa Kỳ tính đến hết năm 2008, từ đó đưa ra các khuyến nghị

nhằm cải cách chính sách BHTN trong giai đoạn khủng hoảng và suy thoái kinh tế.

Theo đó, Chính phủ liên bang cần phải thực hiện nâng mức thuế đóng góp để cải

thiện tài chính chương trình BHTN; cung cấp ưu đãi tài chính cho các bang để tăng

dự trữ quỹ BHTN, … . Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ chế

độ BHTN ở Hoa Kỳ. Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có cơ sở lựa chọn Hoa

Kỳ để nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, áp dụng vào điều kiện của Việt Nam để

phục vụ cho luận án (chương 2).

Năm 2013, nhóm tác giả gồm John Carter, Michel Bédard và Céline Peyron

Bista thuộc dự án nghiên cứu của ILO về "Thúc đẩy và xây dựng bảo hiểm thất

nghiệp và dịch vụ việc làm trong khu vực ASEAN", được tài trợ bởi Chính phủ Nhật

Bản đã hoàn thành báo cáo “Comparative review of unemployment and employment

insurance experiences in Asia and worldwide” [132] (tạm dịch là Xem xét so sánh

tỷ lệ thất nghiệp và kinh nghiệm về bảo hiểm việc làm ở các nước châu Á và toàn

thế giới) với 112 trang. Báo cáo này trình bày tổng quan về BHTN (UI) và các

chương trình bảo hiểm việc làm (EI) tại chỗ ở 14 quốc gia như là một phương tiện

cung cấp một phần thu nhập thay thế cho NLĐ tham gia bảo hiểm trong khi họ mất

việc làm và đang tìm kiếm việc làm mới. Các quốc gia được lựa chọn cho việc xem

xét so sánh không chỉ dựa trên tiêu chí khác nhau về phạm vi địa lý sao cho đại diện

cho toàn thế giới mà còn dựa trên tiêu chí khác nhau về trình độ phát triển kinh tế ở

các gia đoạn khác nhau. Tại Bắc Mỹ có Canada và Hoa Kỳ; ở Nam Mỹ có

Argentina và Chile; ở châu Âu có Đan Mạch, Pháp và Đức; ở Trung Đông có

Bahrain; ở Đông Nam Á có Thái Lan và Việt Nam và ở Đông Á có Trung Quốc,

Nhật Bản, Mông Cổ và Hàn Quốc. Mục đích của báo cáo là để làm nổi bật các tính

năng chính và thông lệ áp dụng trong chính sách BHTN ở các quốc gia. Công trình

này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ BHTN ở một số quốc gia: Canada,

14

Hoa Kỳ, Đan Mạch, Thái Lan, Trung Quốc. Đây là thông tin hữu ích, đáng tin cậy

giúp tác giả có thêm thông tin trong nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước này,

áp dụng vào điều kiện của Việt Nam (chương 2).

Cũng trong năm 2013, nhóm nghiên cứu gồm 3 thành viên: Haroon Bhorat,

Sumayya Goga và David Tseng- là các chuyên gia tư vấn chính sách của tổ chức

The Africa Growth Initiative- AIG (tạm dịch là tổ chức “Sáng kiến tăng trưởng

châu Phi”) thuộc Cơ quan Nghiên cứu Chính sách Phát triển (DPRU) tại Đại học

Cape Town chuyên về nghiên cứu kinh tế xã hội, tập trung vào thị trường lao động,

đói nghèo và bất bình đẳng tại Viện Brookings, Hoa Kỳ, đã tiến hành một nghiên

cứu về: “Unemployment insurance in South Africa: A descriptive overview of

claimants and claims” (tạm dịch là: “Bảo hiểm thất nghiệp ở Nam Phi: Một mô tả

tổng quan về người yêu cầu bồi thường và các yêu cầu bồi thường”) [121]. Nghiên

cứu này chủ yếu xem xét tác động của hệ thống BHTN trên TTLĐ ở Nam Phi thông

qua phân tích mô tả hành vi của người yêu cầu bồi thường và các yêu cầu bồi

thường trong hệ thống tài chính BHTN của Nam Phi (UIF). Nghiên cứu cũng mô tả

các quy định trong thiết kế hệ thống UIF ở Nam Phi- là cơ sở quan trọng trong việc

xác định quyền truy cập vào hệ thống trong thời gian hưởng lợi, cũng như xác định

số tiền trợ cấp thất nghiệp mà NLĐ được hưởng. Theo quan điểm rằng Nam Phi có

tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trên thế giới, hệ thống UIF là nghiêm ngặt vì thời gian trợ

cấp phụ thuộc vào lịch sử quá trình công tác trước đó của NLĐ mặc dù lợi ích thay

thế thu nhập là tiến bộ hơn so với thu nhập trước đó của họ. Dữ liệu hành chính

được sử dụng trong nghiên cứu này được lấy từ UIF, theo quý, từ năm 2005 đến

quý 3 năm 2011. Bài báo được tổ chức thành ba phần, trong đó, phần 1 cung cấp

tổng quan về thể chế của hệ thống BHTN ở Nam Phi, nêu bật các khía cạnh chính

của hệ thống này cũng như những thay đổi của hệ thống theo thời gian trước khi

tiến hành mô tả tổng quan bốn nội dung của người yêu cầu bồi thường và tuyên bố

UIF giữa năm 2005 và năm 2011 (ở phần 2) và đưa ra những kết luận (ở phần 3).

Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: thủ tục thực hiện chi trả BHTN và

các chế độ BHTN mà người hưởng lợi được hưởng. Đây là thông tin hữu ích giúp

tác giả có cái nhìn đa dạng hơn trong đề xuất các chế độ BHTN cho NLĐ (chương

4).

Năm 2014, bài báo “Labor Market Effects of Unemployment Insurance

15

Design” [144] (tạm dịch là: “Những ảnh hưởng của thị trường lao động đến thiết

kế bảo hiểm thất nghiệp”) của hai tác giả Konstantinos Tatsiramos và Jan C. van

Ours đăng trên tạp chí Journal of Economic Surveys (Tạp chí Khảo sát kinh tế) đưa

ra các bằng chứng lý thuyết và thực nghiệm về ảnh hưởng tích cực đối với người

nhận BHTN và thảo luận về tác động của nó trong thiết kế chính sách BHTN. Bài

báo tập trung vào hai đặc điểm chính của một hệ thống BHTN là mức hưởng và thời

gian hưởng tối đa, thảo luận về vai trò của các điều kiện hưởng BHTN. Bài báo tóm

tắt các tranh luận gần đây trong thiết kế chính sách BHTN và đưa ra quan điểm về

một hệ thống BHTN mà trong đó cả mức hưởng và thời gian hưởng là khác nhau

tùy theo chu kỳ kinh doanh, vai trò của việc giới hạn tỷ lệ thanh toán tùy theo kết

quả hoạt động tìm kiếm việc làm và tùy theo tuổi tác. Công trình này liên quan đến

luận án ở nội dung: sự cần thiết và vai trò của chính sách BHTN trong hỗ trợ NLĐ.

Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có những thông tin hữu ích về cách thức đánh

giá hiệu quả của chính sách BHTN ở Việt Nam (chương 3).

Cũng vào năm 2014, bài báo “Who Receives Unemployment Insurance?” (tạm

dịch là: “Ai nhận bảo hiểm thất nghiệp?” của ba tác giả Marc Chan, Marios

Michaelides và Sisi Zhang đăng trên Tạp chí Research in Applied Economics (Tạp

chí Nghiên cứu kinh tế ứng dụng) [138]. Bài báo sử dụng dữ liệu hành chính BHTN

kết hợp với dữ liệu khảo sát Dân số năm 2003 của Hoa Kỳ để phân tích và đưa nhận

xét về mức hưởng giữa các nhóm người lao động (phụ nữ, người không phải là

người da trắng, thanh niên và người lao động không có bằng trung học, đại học,

công nhân “cổ xanh”) so với mức hưởng trung bình khi họ mất việc. Nhóm tác giả

chỉ ra nguyên nhân và đưa ra đề xuất thay đổi các quy định về điều kiện hưởng

BHTN để nâng cao mức độ chi trả đối với người lao động làm việc bán thời gian

góp phần làm cho chính sách BHTN ở Hoa Kỳ phục vụ đa dạng hơn cho những

người thất nghiệp mới và LLLĐ trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Công trình này liên

quan đến luận án ở nội dung: làm rõ BHTN ở Hoa Kỳ. Đây là thông tin hữu ích

giúp tác giả có thêm thông tin đáng tin cậy cho phần nghiên cứu về BHTN ở Hoa

Kỳ (chương 2).

Năm 2015, nghiên cứu “Unemployment Insurance: Programs and Benefits”

[133] (tạm dịch là: “Bảo hiểm thất nghiệp: Các chương trình và lợi ích”) được tổ

chức Congressional Research Service chuẩn bị cho các thành viên Quốc hội và các

16

ủy ban của Quốc hội Hoa Kỳ do hai tác giả Julie M. Whittaker và Katelin P. Isaacs

thực hiện, xuất bản ngày 9 tháng 12 năm 2015 đã mô tả chi tiết hai chương trình

TCTN ở Hoa Kỳ là UC và EB. Báo cáo mô tả, so sánh, đánh giá nội dung và lợi ích

từ hai chương trình này ở các tiểu bang, miêu tả cụ thể cách xác định thời gian

hưởng, mức hưởng, xác định điều kiện được hưởng TCTN và cơ cấu tài chính của

quỹ BHTN. Theo báo cáo, chương trình UC cung cấp mức hỗ trợ thu nhập tối đa là

26 tuần ở hầu hết các tiểu bang. Khi nền kinh tế tồn tại tình trạng thất nghiệp cao,

chương trình EB có thể được thực hiện cung cấp mức hỗ trợ thêm đến 13 hoặc 20

tuần lợi ích, tùy thuộc vào điều kiện lao động, pháp luật và kinh tế của mỗi tiểu

bang. Chương trình EB được tài trợ 50% bởi chính phủ liên bang và 50% của các

tiểu bang. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ BHTN ở Hoa Kỳ

một cách toàn diện. Cũng giống như công trình của ba tác giả Marc Chan, Marios

Michaelides và Sisi Zhang , đây cũng là thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm

thông tin đáng tin cậy cho phần nghiên cứu về BHTN ở Hoa Kỳ (chương 2).

Cũng vào năm 2015, luận án tiến sĩ chuyên ngành Trung Quốc học với tên gọi

“Chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Trung Quốc (1986-2010)” [67] của tác giả Nguyễn

Mai Phương nghiên cứu về các lý thuyết của phương Tây và của Trung Quốc về

thất nghiệp và BHTN, hệ thống hóa quá trình hình thành và phát triển của chế độ

BHTN ở Trung Quốc, xâu chuỗi và phân tích những vấn đề của BHTN Trung Quốc

trên ba phương diện: tác động của BHTN đối với đối tượng thụ hưởng và xã hội,

vấn đề đầu tư và sử dụng quỹ BHTN và cơ chế quản lý, vận hành quỹ BHTN, từ đó

có những gợi mở về chính sách BHTN mang tính tham khảo cho các nhà hoạch

định chính sách BHTN ở Việt Nam. Luận án tiếp cận BHTN trên phương diện xã

hội học, kinh tế học và liên ngành. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung:

làm rõ BHTN ở Trung Quốc. Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thông

tin đáng tin cậy cho phần nghiên cứu về BHTN ở Trung Quốc (chương 2).

Năm 2016, Trung tâm tăng trưởng công bằng của Washington thực hiện một

loạt bài viết về “Delivering equitable growth: strategies for the next

Administration” (tạm dịch là “Thực hiện tăng trưởng công bằng: các chiến lược

cho chính quyền tiếp theo”) nhằm mục đích hướng dẫn cho hai nhóm chuyển tiếp

của tổng thống Hoa Kỳ về một loạt các vấn đề chính sách kinh tế cốt lõi cho tương

lai của đất nước. Liên quan đến BHTN trong loạt bài viết này, tác giả Till Von

17

Wachter, một giáo sư kinh tế kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dân số

California thuộc Đại học California-Los Angeles đã có bài viết với tiêu đề:

“Unemployment insurance reform: a primer” (tạm dịch là “Cải cách bảo hiểm thất

nghiệp: một ngòi nổ”) [145]. Với 10 trang, bài viết nêu lên sự cần thiết phải cải

cách BHTN ở Hoa Kỳ với các bằng chứng cụ thể, đồng thời, phân tích, đưa ra các

bất cập cần phải giải quyết trong thời gian đến. Tác giả đã đưa ra hai nhóm giải

pháp: Một là, về điều chỉnh hệ thống BHTN với 6 đề xuất: quy định thời gian

hưởng BHTN tối thiểu là 26 tuần trong Luật liên bang, cần tổ chức các khoản phúc

lợi khẩn cấp ở liên bang cho TCTN một cách bền vững, hệ thống thu thập số liệu đã

lỗi thời cần được hiện đại hóa bằng cách áp dụng bốn chiến lược bổ sung (tăng

cường thu thập dữ liệu của các tiểu bang; thiết lập một cơ quan thông tin dữ liệu

quốc gia về dữ liệu BHTN tại Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ hoặc Cục Điều tra

Dân số Hoa Kỳ; hỗ trợ những thay đổi này bằng cách cung cấp một phần mềm

thông thường và cung cấp tài trợ vừa phải để nâng cấp phần cứng, thiết lập một giao

thức để cho phép truy cập dữ liệu cho mục đích nghiên cứu và để cải thiện hệ thống

BHTN, có cơ chế để đảm bảo sự tuân thủ của tiểu bang đối với yêu cầu của liên

bang), mở rộng phạm vi BHTN cho phù hợp với cơ cấu lao động hiện đại, giải

quyết các khoản tài trợ ngắn hạn trong các quỹ uỷ thác BHTN của các tiểu bang,

hiện đại hóa quản lý BHTN, ... Hai là, đổi mới hệ thống BHTN với 2 đề xuất: Thiết

lập một hệ thống chia sẻ công việc hoạt động để ngăn ngừa việc sa thải tốn kém và

thử nghiệm việc áp dụng bảo hiểm tiền lương để trợ giúp NLĐ quay trở lại làm

việc. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ BHTN ở Hoa Kỳ.

Cũng giống như các công trình về BHTN ở Hoa Kỳ khác, đây cũng là thông tin hữu

ích giúp tác giả có thêm thông tin đáng tin cậy cho phần nghiên cứu về BHTN ở

Hoa Kỳ (chương 2).

Năm 2017, nhóm tác giả gồm: Tomi Kyyrä, Hanna Pesola và Aarne Rissanen

đã thực hiện một báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về: “Unemployment Insurance in

Finland: A Review of Recent Changes and Empirical Evidence on Behavioral

Responses” (tạm dịch là: Bảo hiểm thất nghiệp ở Phần Lan: Đánh giá những thay

đổi gần đây và các bằng chứng thực nghiệm về phản ứng hành vi”) [146]. Báo cáo

này là một phần của dự án nghiên cứu do Viện Hàn lâm Phần Lan tài trợ (Grant

133930). Với 98 trang, báo cáo này gồm có hai mục đích chính: Một là cung cấp

18

một cái nhìn tổng quan về hệ thống BHTN ở Phần Lan thông qua việc mô những

thay đổi chính về tiêu chuẩn, mức sinh lợi và thời gian hưởng BHTN từ năm 2000

đến nay, đồng thời, đánh giá xem những thay đổi đó đã làm thay đổi mức độ hào

phóng của chương trình BHTN theo thời gian như thế nào. Hai là tóm tắt những gì

liên quan về tác động về lợi ích của BHTN trong bối cảnh TTLĐ ở Phần Lan thông

qua cái nhìn về lý thuyết kinh tế về BHTN và bằng chứng thực nghiệm về phản ứng

hành vi thông qua các khảo sát và đưa ra một số kết quả mới về các ảnh hưởng của

tiêu chuẩn, mức độ và thời gian hưởng lợi đến kết quả TTLĐ ở Phần Lan. Công

trình này liên quan đến luận án ở nội dung: các chế độ BHTN mà người hưởng lợi

được hưởng. Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có cái nhìn đa dạng hơn trong đề

xuất sự hỗ trợ tốt hơn trong các chế độ BHTN cho NLĐ ở Việt Nam (chương 4).

1.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước

- Giáo trình, sách:

Năm 2009, Giáo trình Bảo hiểm thất nghiệp do PGS.TS. Nguyễn Tiệp làm

chủ biên [92] đã được Nhà xuất bản Lao động- Xã hội ấn hành. Với 284 trang, 5

chương, cuốn giáo trình đã làm rõ 5 vấn đề lớn: khái quát chung về BHTN và môn

học BHTN, tài chính BHTN, tình hình thất nghiệp và các chính sách giải quyết cho

NLĐ thất nghiệp ở Việt Nam, đo lường thất nghiệp và thống kê trong nghiên cứu

BHTN, khung pháp luật và tổ chức quản lý BHTN ở Việt Nam.

Liên quan đến thể chế QLNN về BHTN, giáo trình đã dành 34 trang (từ trang

50 đến trang 84) để giới thiệu về BHTN ở một số nước: Cộng hòa Liên bang Đức,

Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc; 22 trang (từ trang 218 đến

trang 241) để mô tả khung pháp luật BHTN ở Việt Nam với các quy định hiện hành

về BHTN trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và các quy định liên quan khác; 15

trang (từ trang 244 đến trang 258) để mô tả các quy định về quản lý BHTN ở Việt

Nam (bao gồm QLNN về BHTN và quản lý sự nghiệp BHTN) và 5 trang (từ trang

258 đến trang 263) để trình bày định hướng triển khai quy định pháp luật về BHTN.

Công trình này liên quan đến luận án ở các nội dung: BHTN ở Trung Quốc,

khung pháp luật BHTN ở Việt Nam thời điểm mới triển khai BHTN (2009), các khái

niệm: BHTN, QLNN về BHTN. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm cơ

sở trong nghiên cứu, tổng hợp cơ sở khoa học QLNN về BHTN ở chương 1.

- Bài báo khoa học trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành:

19

Bài báo “Phác họa mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất

nghiệp ở Việt Nam” [77], đăng trên tạp chí BHXH số 11 năm 2008 của tác giả Phạm

Đình Thành khái quát chung ba mô hình tổ chức thực hiện chính sách BHTN được

đề xuất để tham khảo: Mô hình thứ nhất: ngành lao động tổ chức thực hiện; Mô

hình thứ hai: ngành BHXH tổ chức thực hiện; Mô hình thứ ba: liên kết giữa 2

ngành: lao động và BHXH hoặc thêm ngành Tài chính tổ chức thực hiện. Qua phân

tích các nội dung của chính sách BHTN hiện hành, cũng như căn cứ vào cơ cấu tổ

chức, bộ máy thực hiện các chính sách xã hội hiện tại, tác giả cho rằng mô hình thứ

hai - ngành BHXH tổ chức thực hiện là mô hình hợp lý và mang lại hiệu quả kinh tế

- xã hội hơn cả trong nhiều năm tới. Từ đó, tác giả phác họa mô hình thực hiện

BHTN theo mô hình thứ hai- ngành BHXH tổ chức thực hiện, trong đó ngành

BHXH thực hiện việc chi trả trợ cấp, hỗ trợ thông tin tìm việc làm và chủ động liên

kết với các cơ sở đào tạo nghề để đào tạo nghề cho NLĐ mất việc làm. Để áp dụng

mô hình thứ hai này, tác giả cho rằng các cơ quan QLNN về BHTN ở Việt Nam cần

nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt

động QLNN về BHTN trong thời gian đến. Công trình này liên quan đến luận án ở

nội dung: làm rõ ưu điểm của từng mô hình tổ chức thực hiện BHTN ở Việt Nam,

trong đó có mô hình thứ ba là mô hình mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay. Đây là

các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm cơ sở trong nghiên cứu hoàn thiện thể chế

QLNN về BHTN về tổ chức bộ máy QLNN về BHTN ở chương 4.

Tạp chí Doanh nhân và Pháp luật số 41 năm 2010 có đăng bài “Thực hiện

chính sách bảo hiểm thất nghiệp: Cần sự chung tay của nhà nước và doanh nghiệp”

[82] của tác giả Nguyễn Đình Thơ. Bài báo đề cập đến những vướng mắc mới nảy

sinh trong quá trình thực hiện chính sách BHTN trên thực tế, nêu lên sự cần thiết

phải có sự chung tay của nhà nước và doanh nghiệp, trong đó nhà nước cần tăng

cường vai trò của mình trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, hoàn thiện

thủ tục và doanh nghiệp cần có ý thức tham gia BHTN, thể hiện sự quan tâm của

doanh nghiệp đến NLĐ. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ

hiệu lực của chính sách BHTN trên thực tế những năm 2009-2010. Đây là các

thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm cơ sở trong phân tích về tính hiệu lực của

chính sách BHTN giai đoạn 2009-2017 ở chương 3.

Trên Tạp chí Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã hội số 59/2010, tác giả Phạm

20

Đỗ Dũng có bài viết “Bảo hiểm thất nghiệp sau gần 2 năm thực hiện: thực trạng và

giải pháp” [13]. Bài báo phản ánh công tác triển khai chính sách BHTN trong hai

năm 2009 và 2010. Bài báo cũng nêu lên các tồn tại, vướng mắc trong quá trình tổ

chức thực hiện như NLĐ chưa hiểu hết quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia

BHTN; nhiều doanh nghiệp còn trốn đóng, nợ đọng BHXH, BHTN; một số quy

định chưa hợp lý; nhu cầu học nghề của NLĐ chưa cao. Tác giả đề xuất một số giải

pháp thúc đẩy việc thực thi chính sách BHTN như: đẩy mạnh công tác thông tin,

tuyên truyền cho NLĐ, NSDLĐ và cán bộ thực thi chính sách; sửa đổi, bổ sung các

văn bản hướng dẫn cho phù hợp với điều kiện thực tế. Công trình này liên quan đến

luận án ở nội dung: làm rõ sự chưa phù hợp ở các văn bản hướng dẫn thực thi chính

sách BHTN trong hai năm đầu triển khai BHTN và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung

các quy định này. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn về quá

trình sửa đổi, bổ sung chính sách BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009-2010, từ đó

hoàn thiện hơn việc mô tả quá trình ban hành và điều chỉnh chính sách ở Trung

ương giai đoạn 2009-2017 (chương 3).

Tạp chí Lao động- Xã hội số 406 (Từ 01-15/5/2011) có bài “Xung quanh vấn

đề thu, chi bảo hiểm thất nghiệp” [21] của tác giả Điều Bá Được. Tác giả đã khẳng

định những thành công của chính sách BHTN qua 3 năm thực hiện 2009-2011

thông qua các kết quả về thu- chi BHTN, đồng thời cũng đề cập đến những vấn đề

nảy sinh phải kịp thời tháo gỡ như: quy định về thời gian nộp sổ BHXH, quy định

về NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, quy định về mức phí tư vấn, GTVL, chế

tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Công trình này liên quan đến luận

án ở nội dung: làm rõ sự chưa phù hợp trong các quy định triển khai chính sách

BHTN trong giai đoạn 2009-2011 về thu-chi BHTN và đề xuất việc sửa đổi, bổ

sung các quy định này. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn

về quá trình sửa đổi, bổ sung chính sách BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009-2011,

từ đó có cơ sở để đánh giá chính sách BHTN ở Việt Nam luôn không ngừng được

sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn (chương 3).

Bài viết “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp”

của tác giả Bùi Ngọc Thanh [75] đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 427 (từ

16-31/03/2012) nêu lên những kết quả bước đầu của ba năm triển khai chính sách

trên thực tế; những vướng mắc cần được khắc phục, hoàn thiện như tình trạng hiểu

21

không đúng mục đích của chính sách, trục lợi quỹ, nguy cơ khó cân bằng quỹ. Tác

giả chỉ ra nguyên nhân của những vướng mắc là do các quy định còn thiếu chặt chẽ

và NLĐ lợi dụng những sơ hở này. Tác giả đưa ra các giải pháp khắc phục gồm:

quy định rõ ràng, cụ thể trường hợp nào đích thực là thất nghiệp và phải có cơ chế

kiểm soát được người thất nghiệp đang hưởng BHTN. Công trình này liên quan đến

luận án ở nội dung: làm rõ sự chưa phù hợp ở các văn bản hướng dẫn thực thi chính

sách BHTN trong giai đoạn 2009-2011. Cũng giống như bài báo của tác giả Điều

Bá Được, công trình này cũng giúp tác giả có thêm thực tiễn về quá trình sửa đổi,

bổ sung chính sách BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009-2011, từ đó hoàn thiện hơn

việc mô tả quá trình ban hành và điều chỉnh chính sách ở Trung ương giai đoạn

2009-2017 (chương 3).

Bài báo: “Bảo hiểm thất nghiệp: Những vướng mắc cần tháo gỡ” [27] của tác

giả Nguyễn Thu Hạnh trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 24 (2013) nêu lên thực

trạng sau 5 năm triển khai chính sách BHTN: nợ đọng BHTN cao trong khi việc chi

trả còn chậm trễ. Tác giả đưa ra nhận định về những hạn chế, vướng mắc cần tháo

gỡ, đó là: khó khăn trong cân đối thu- chi, số lượng người học nghề vẫn ở mức thấp,

tình trạng doạnh nghiệp lách luật, trốn đóng BHTN còn diễn ra, một số quy định

chưa phù hợp với thực tế, bộ máy tổ chức chưa được tổ chức theo hệ thống ngành

dọc. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp như: điều chỉnh chính sách kịp

thời, nâng mức hỗ trợ học nghề, có chế tài xử lý nghiêm việc trốn đóng, nợ BHTN,

đẩy mạnh công tác nghiệp vụ trong quản lý, tăng cường công tác tuyên truyền, đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ BHTN. Công trình này liên quan đến luận

án ở nội dung: làm rõ những bất cập trong quá trình triển khai thực hiện chính sách

BHTN giai đoạn 2009-2013, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện chính sách.

Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn về quá trình sửa đổi, bổ

sung chính sách BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009-2011, từ đó, có những đánh giá

(chương 3), đề xuất sửa đổi, bổ sung thể chế QLNN về BHTN (chương 4) được

toàn diện hơn.

Tạp chí Thanh tra tài chính số 6 (2013) có đăng bài “Bảo hiểm thất nghiệp-

Một chính sách cần được tiếp tục hoàn chỉnh” [81] của tác giả Nguyễn Ngọc Thịnh.

Trong bài viết, tác giả hệ thống những quy định pháp lý hiện hành về BHTN, một

số nội dung cơ bản của chính sách BHTN. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên những

22

điểm bất cập trong thực hiện chính sách BHTN như: bất cập về đối tượng được

hưởng TCTN, bất cập trong thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề, tìm việc làm. Tác

giả cho rằng những sửa đổi quy định về chính sách BHTN thời gian qua chủ yếu là

về trình tự, thủ tục, trong thời gian đến cần phải quy định chặt chẽ: các trường hợp

không phải thất nghiệp thực sự sẽ không được hưởng chính sách, người đang hưởng

TCTN khi đã tìm được việc làm mới thì không được hưởng TCTN cho thời gian

còn lại. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ sự chưa phù hợp

của chế độ TCTN. Mặc dù không đồng tình với quan điểm rằng những người thất

nghiệp do nguyên nhân từ chính họ thì sẽ không được hưởng TCTN, nhưng đây là

nghiên cứu hữu ích để tác giả có những quan sát đa chiều về trợ cấp thất nghiệp, từ

đó, có những đề xuất sửa đổi, bổ sung các chế độ BHTN (chương 4).

Năm 2013, bài viết “Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp góp phần đảm bảo an

sinh xã hội ở Việt Nam” [79] của tác giả Nguyễn Trọng Thản đăng trên Tạp chí

Nghiên cứu Tài chính kế toán số 12 (125) khẳng định vai trò to lớn của chính sách

BHTN là góp phần đảm bảo ASXH. Tác giả khẳng định những thành tựu mà chính

sách BHTN đã đạt được đồng thời nhận định chính sách này vẫn còn nhiều kẻ hở,

tạo điều kiện cho các đối tượng lạm dụng quỹ (điều kiện hưởng, mức hưởng chưa

hợp lý, đối tượng tham gia còn hạn chế, cơ quan BHXH không có thẩm quyền xử lý

vi phạm, chưa có chế tài để cưỡng chế các đơn vị vi phạm quy định về BHTN, quy

định về hoạt động đầu tư quỹ chưa hợp lý,… Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp:

tính toán lại mức hưởng và thời gian hưởng, tổ chức dạy nghề tập trung, quy định rõ

chi phí tư vấn việc làm cho các Trung tâm DVVL, giao cho cơ quan BHXH chức

năng thanh tra chuyên ngành về BHTN, có hệ thống nghiên cứu thị trường và thông

tin TTLĐ chuẩn xác hơn, nhạy cảm hơn, thu thập đầy đủ, nghiên cứu lại hiệu quả

của việc đào tạo nghề, thay đổi quy định lãi suất cho vay trong hoạt động đầu tư,

nguồn kinh phí sử dụng để chi trả chi phí quản lý, phân công lại trách nhiệm giữa

hai ngành BHXH và ngành LĐ-TB&XH. Công trình này liên quan đến luận án ở

nội dung: làm rõ sự chưa phù hợp ở các văn bản hướng dẫn thực thi chính sách

BHTN giai đoạn 2009-2013 và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các quy định này. Đây

là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn về quá trình sửa đổi, bổ sung

chính sách BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009-2013 để hoàn thiện các phân tích

thực trạng (chương 3).

23

Bài viết “Mô hình tổ chức, hoạt động của Trung tâm Dịch vụ việc làm gắn với

tiếp nhận, giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp” [53] của tác giả Quang Lễ đăng

trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 479 (từ 16-31/5/2014). Tác giả đã chỉ ra những

hạn chế trong quy định cách thức tổ chức thực hiện của mô hình tổ chức Trung tâm

DVVL hiện tại: Chưa xây dựng từng loại mô hình đáp ứng với nhu cầu của từng địa

phương để bố trí, sử dụng cán bộ thực hiện từng khâu trong quy trình; công tác tư

vấn, GTVL và hỗ trợ học nghề đối với người thất nghiệp chưa đạt hiệu quả như

mong muốn; sự phối hợp giữa các phòng/bộ phận thực hiện chức năng tư vấn,

GTVL và dạy nghề có hiệu quả chưa cao. Theo tác giả, cần phải ban hành quy định

sửa đổi, bổ sung nhằm đưa ra mô hình thống nhất, áp dụng phù hợp với điều kiện

của địa phương, mô hình này phải đẩy mạnh công tác tư vấn việc làm, tư vấn học

nghề đối với NLĐ thất nghiệp, nâng cao trách nhiệm của từng cán bộ thực hiện

nhiệm vụ tư vấn, GTVL, dạy nghề, đẩy mạnh công tác hỗ trợ học nghề. Theo đó,

tác giả đề xuất nên quy định mô hình mới đối với Trung tâm DVVL theo hướng gắn

với việc tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN. Cụ thể là, thành lập bộ phận tiếp đón

NLĐ tại các trung tâm với mục đích đón tiếp, tư vấn và phân loại nhu cầu của NLĐ.

Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ công tác tư vấn, GTVL tại

Trung tâm DVVL cấp tỉnh. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực

tiễn về hoạt động của các Trung tâm DVVL, từ đó, có đề xuất sửa đổi, bổ sung quy

định nâng cao năng lực đào tạo nghề ở địa phương để giải quyết tốt hơn chế độ hỗ

trợ đào tạo nghề cho NLĐ hưởng BHTN (chương 4).

Tạp chí Lao động- Xã hội số 481 (từ 16-30/6/2014) có đăng bài “Mở rộng đối

tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp: Nhu cầu tất yếu” [52] của tác giả Quang Lê.

Bài báo khẳng định, việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN theo Luật Việc làm

năm 2013 là tất yếu và đúng đắn. Và để thực hiện được, trong thời gian đến cần có

các giải pháp như: sớm ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Việc làm về BHTN,

trong đó hướng dẫn cụ thể về việc tham gia và đóng BHTN, chính sách hỗ trợ học

nghề, tư vấn, GTVL đối với người thất nghiệp; tăng cường công tác tuyên truyền và

phổ biến pháp luật liên quan đến lao động, tiền lương và BHTN; đẩy mạnh công tác

quản lý lao động, sớm áp dụng công nghệ thông tin để quản lý lao động nói chung

và quản lý BHTN nói riêng; thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật lao

động, Luật Việc làm, các luật liên quan khác để thực hiện BHTN theo đúng quy

24

định; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và thực hiện BHTN; tăng cường công

tác hợp tác quốc tế để thu thập kinh nghiệm, phương pháp quản lý các đối tượng

này. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ đối tượng tham gia

BHTN theo quy định hiện hành theo Luật Việc làm 2013, từ đó, đề xuất những giải

pháp để hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện BHTN. Đây là các thông tin hữu ích

giúp tác giả củng cố thêm cơ sở để đưa ra các biện pháp hoàn thiện thể chế QLNN

về BHTN (chương 4). Tuy nhiên, các giải pháp cũng chỉ dừng lại ở sự gợi ý chung

chung, không cụ thể.

Tháng 6/2016, trên Tạp chí Nghiên cứu khu vực và quốc tế thuộc Viện Nghiên

cứu Quốc tế, Đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc, số 23 đã có bài báo "The Fish"

and "the Fishing Rod:" Unemployment Insurance in Vietnam (tạm dịch là “Con cá”

và “Cần câu”: Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam) của hai tác giả Tae Gyun Park

and Đỗ Diệu Khuê. Bài báo sử dụng dữ liệu trực tiếp từ Việt Nam, tiến hành phân

tích chính sách BHTN dựa trên các chỉ tiêu quan trọng như độ bao phủ, điều kiện

hưởng và lợi ích nhận được khi tham gia BHTN đồng thời phân tích những thách

thức của chính sách BHTN dưới sự thay đổi của nền kinh tế. Bài báo trình bày sự so

sánh giữa quy định về BHTN năm 2009 và năm 2015 để cho thấy những cải cách về

BHTN ở Việt Nam và những điều chỉnh này làm cải thiện điều kiện BHTN hiện tại

như thế nào. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: nêu lên được những

hiệu quả mà chính sách BHTN mang lại cho NLĐ Việt Nam, những nội dung

BHTN hiện hành. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm cái nhìn đa

chiều của các tác giả khác nhau về hiệu quả của BHTN (chương 3).

- Tham luận hội thảo, hội nghị:

Năm 2003, tại Hội thảo khoa học “Hoàn thiện chính sách tài chính đảm bảo

An sinh xã hội” do Bộ Tài chính tổ chức, TS. Đặng Anh Duệ đã có bài báo: “Để

xây dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” [10]. Bài báo nêu

lên sự cần thiết phải có chế độ BHTN trong hệ thống các chế độ BHXH ở Việt Nam

và điều kiện về mặt tài chính để xây dựng và thực hiện chế độ này. Công trình này

liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ sự cần thiết của chế độ BHTN ở Việt Nam.

Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn trước khi chính sách BHTN

được triển khai ở Việt Nam, từ đó, giúp hoàn thiện đánh giá về thực trạng BHTN ở

Việt Nam giai đoạn 2010-2017 (chương 3).

25

Tại Hội nghị tổng kết ba năm thực hiện BHTN ngày 23/5/2012, Bộ LĐ-

TB&XH đã có báo cáo tổng kết tình hình triển khai thực hiện BHTN từ năm 2009

đến năm 2012. Báo cáo đã có đánh giá cụ thể về những mặt được, chưa được và các

kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách trong thời gian đến: thời gian hưởng, mức

hưởng, điều kiện hưởng, các chế độ BHTN... Những giải pháp mà báo cáo này nêu ra

đã được Nhà nước cụ thể hóa trong Luật Việc làm 2013. Công trình này liên quan

đến luận án ở nội dung: làm rõ thực tiễn triển khai BHTN giai đoạn 2009-2012,

những đánh giá về chính sách BHTN theo cách tiếp cận của các cơ quan QLNN về

BHTN. Đây là thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn về quá trình sửa đổi,

bổ sung chính sách BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009-2012 để hoàn thiện các phân

tích thực trạng thể chế QLNN về BHTN (chương 3).

Tại Hội thảo “Quy trình tiếp nhận, giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp đối

với người lao động” do Cục Việc làm, Bộ LĐ-TB&XH tổ chức ngày 09/1/2014 tại

Cần Thơ, 6 tham luận của các Trung tâm DVVL: TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình

Dương, Đồng Nai, Long An và Tiền Giang đã được đưa ra trình bày và thảo luận.

Trong đó, báo cáo của Trung tâm DVVL Cần Thơ nổi bật với mô hình “Một điểm

đến” tạo sự gần gũi, cảm giác an tâm cho NLĐ, đảm bảo đúng trình tự thực hiện và

đúng quy định hiện hành của pháp luật. Báo cáo của Trung tâm DVVL Bình Dương

nêu rõ cần có sự phối hợp chặt chẽ, sâu sát của các cấp lãnh đạo và sự phối hợp linh

hoạt giữa các phòng chuyên môn thuộc Trung tâm. Báo cáo của Trung tâm DVVL

Đồng Nai nêu lên sự cần thiết phải xây dựng quy trình tổ chức tiếp nhận, giải quyết

chế độ BHTN theo hướng khép kín để NLĐ và doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận,

tìm hiểu thông tin chính sách BHTN đồng thời giúp NLĐ thuận lợi hơn, nhanh

chóng hơn khi đến giải quyết chế độ, kịp thời hơn khi được tư vấn, GTVL, hỗ trợ

học nghề. Báo cáo của Trung tâm DVVL Tiền Giang nhấn mạnh việc Trung tâm đã

thực hiện mô hình chuyên môn hóa các công đoạn trong quá trình giải quyết chế độ

BHTN bằng cách thành lập 5 bộ phận chuyên môn thuộc phòng BHTN, nhờ vậy, dễ

dàng kiểm soát sai sót ở từng khâu, có sự phối hợp nhịp nhàng ở từng bộ phận, việc

tiếp nhận xử lý hồ sơ luôn chính xác, kịp thời và trả kết quả đúng hạn. Công trình

này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ quy trình, thủ tục giải quyết chế độ

BHTN ở các Trung tâm DVVL cấp tỉnh. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả

có thêm thực tiễn giải quyết chế độ BHTN ở các địa phương, từ đó, có những đề

26

xuất về quy trình, thủ tục, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong giải quyết

chế độ BHTN (chương 4).

- Đề tài nghiên cứu khoa học các cấp:

Năm 2000, tác giả Nguyễn Văn Định và các cộng sự của bộ môn Kinh tế Bảo

hiểm - Trường Đaị học Kinh tế Quốc dân thực hiện đề tài khoa học cấp bộ với tên

gọi “Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”

(mã số B2000-38-62). Nội dung của đề tài này [17] mới chỉ dừng lại ở mức độ định

tính là chủ yếu, như là: sự cần thiết khách quan phải triển khai BHTN, phân tích

thực trạng thất nghiệp và nêu lên một số quan điểm chung khi tổ chức triển khai

BHTN ở nước ta. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: thực trạng thất

nghiệp ở Việt Nam trước khi chính sách BHTN được triển khai. Đây là các thông

tin hữu ích giúp tác giả có sự so sánh, đánh giá hiệu quả BHTN ở Việt Nam sau khi thực hiện BHTN (chương 3).

Năm 2004, tác giả Nguyễn Huy Ban và các cộng sự tại BHXH Việt Nam đã

thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học với tên gọi: “Nghiên cứu những nội dung cơ

bản của bảo hiểm thất nghiệp hiện đại- vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất

nghiệp ở Việt Nam” [1]. Với 4 chương, đề tài đã làm rõ vấn đề lao động, việc làm,

thất nghiệp; những quy định về TCTN trong các Công ước quốc tế; quá trình hình

thành TCTN; kinh nghiệm thực hiện TCTN ở các nước trên thế giới đồng thời đưa

ra định hướng thực hiện BHTN ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, một số các quy

định về tổ chức thực hiện, quản lý BHTN được nghiên cứu, cụ thể là việc đưa ra

một số mô hình thực hiện BHTN nhưng vấn đề quy định cách thức tổ chức thực

hiện như thế nào thì chưa được làm rõ, đồng thời chưa phân biệt rõ BHTN và

TCTN. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ một số quy định

của ILO và của một số nước trên thế giới về trợ cấp thất nghiệp. Tuy có sự chưa

phân biệt rõ giữa TCTN và BHTN, các đề xuất chưa cụ thể, nhưng là thông tin hữu

ích giúp tác giả có cái nhìn đa chiều, từ đó, có những đề xuất sửa đổi, bổ sung thể

chế QLNN về BHTN ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Năm 2008, đề tài nghiên cứu khoa học “Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam” [18] do tác giả Nguyễn Văn Định, Trường Đại học Kinh tế quốc dân và các

cộng sự thực hiện đã làm rõ những vấn đề lý luận về thất nghiệp, TCTN và BHTN;

đánh giá thực trạng thất nghiệp, nhu cầu và khả năng tham gia BHTN; làm rõ quan

27

điểm về tổ chức BHTN, đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện quy định để

tổ chức BHTN ở nước ta. Theo đó, mô hình mà nhóm tác giả lựa chọn là mô hình

mà cơ quan BHXH Việt Nam đứng ra tổ chức BHTN, còn Bộ LĐ-TB&XH chỉ là

cơ quan QLNN về BHTN. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: những

vấn đề lý luận về thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, thực trạng thất nghiệp ở Việt

Nam trước khi có chính sách BHTN. Đây là các thông tin hữu ích giúp tác giả có hệ

thống cơ sở lý luận về thất nghiệp (chương 2) và đánh giá thực trạng thất nghiệp ở

Việt Nam trước và sau khi có BHTN (chương 3).

Năm 2013, đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính

sách BHTN nhằm tăng cường tính bền vững” [100] do Cục Việc làm, Bộ LĐ-

TB&XH chủ trì, tác giả Lê Quang Trung làm chủ nhiệm đã nêu lên một số vấn đề

liên quan đến QLNN về BHTN với 5 nội dung cơ bản: Hướng dẫn, tuyên truyền

chính sách BHTN của nhà nước; Đăng ký tình trạng thất nghiệp cho những người

đang bị thất nghiệp; Tính toán chế độ BHTN theo quy định của pháp luật; Chi tiền

TCTN cho người thất nghiệp đủ điều kiện hưởng BHTN và Kiểm tra, giám sát việc

thực hiện BHTN, phát hiện các vấn đề phát sinh và xử lý kịp thời. Trong đó, có

những đề cập liên quan đến quy trình thực hiện BHTN và bộ máy tổ chức, đồng

thời đưa ra hướng đề xuất rằng: đóng góp BHTN phải được mở rộng từng bước để

tránh tăng đột ngột các chi phí, gây khó khăn đối với NSDLĐ, ảnh hưởng tiêu cực

đến vấn đề duy trì việc làm cho NLĐ ở các đơn vị sử dụng lao động. Bên cạnh đó,

đề tài nhấn mạnh vai trò của Trung tâm DVVL- cầu nối giữa NLĐ và NSDLĐ- nơi

cung cấp cho NLĐ thông tin để lựa chọn nghề, trình độ đào tạo nghề, nơi học nghề,

lựa chọn công việc phù hợp với khả năng và nguyện vọng; về kỹ năng tìm việc làm;

tự tạo việc làm- nơi tư vấn cho NSDLĐ về tuyển dụng lao động; quản trị và phát

triển nguồn nhân lực; sử dụng lao động và phát triển việc làm; tư vấn chính sách,

pháp luật lao động ... Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: làm rõ quy

trình thực hiện BHTN và bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHTN. Đây là các

thông tin hữu ích giúp tác giả có thêm thực tiễn về quá trình thực hiện BHTN, đồng

thời, khẳng định sự đúng đắn của thể chế QLNN về BHTN khi chuyển bộ máy tiếp

nhận, giải quyết chế độ BHTN từ Phòng LĐ-TB&XH cấp huyện sang Trung tâm

DVVL cấp tỉnh (chương 3).

- Luận án, luận văn:

28

Năm 2005, luận án tiến sĩ Luật học “Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền

kinh tế thị trường ở Việt Nam” [85] được thực hiện bởi tác giả Lê Thị Hoài Thu.

Với 193 trang, 3 chương, luận án đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thất

nghiệp, người thất nghiệp, chế độ BHTN cũng như ý nghĩa của việc điều chỉnh pháp

luật đối với chế độ BHTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam; phân tích, đánh

giá tình hình thất nghiệp, các chế độ hỗ trợ NLĐ mất việc làm qua các thời kỳ phát

triển của nền kinh tế cũng như luận giải về sự cần thiết khách quan của việc xây

dựng chế độ BHTN ở Việt Nam; từ đó, đề nghị một số kiến nghị bước đầu về việc

xây dựng và thực hiện chế độ BHTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: phạm

vi, đối tượng áp dụng, điều kiện, thời gian hưởng, mức hưởng, nguồn hình thành và

sử dụng quỹ, quản lý và tổ chức thực hiện chế độ BHTN, các biện pháp giúp người

thất nghiệp trở lại với thị trường lao động Việt Nam. Đây là công trình khoa học

nghiên cứu về BHTN dưới góc độ luật học, là tài liệu tham khảo có giá trị cho các

nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam khi nghiên cứu xây dựng chính sách BHTN

ở Việt Nam, áp dụng từ ngày 01/01/2009. Xuyên suốt luận án, tác giả tiếp cận

BHTN là một nhánh của chế độ BHXH, từ đó, các gợi ý về chính sách và tổ chức

quản lý BHTN cũng tập trung theo cách tiếp cận này. Công trình này liên quan đến

luận án ở nội dung: những phân tích về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, mức

hưởng BHTN, các hỗ trợ khác để NLĐ quay trở lại TTLĐ. Đây là các thông tin hữu

ích giúp tác giả có thêm sự tiếp cận đa chiều từ đó có những đề xuất về đối tượng

của BHTN và sự hỗ trợ NLĐ thông qua các chế độ BHTN (chương 4).

Năm 2013, Luận án tiến sĩ Quản trị kinh doanh của tác giả Phùng Thị Cẩm

Châu về “Hoàn thiện quá trình thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh

Thái Nguyên” [5] với mục đích đánh giá việc thực hiện BHTN tại tỉnh Thái Nguyên

trong năm 2012 và đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường việc thực hiện chính

sách này ở Thái Nguyên trong những năm tới. Để giải quyết vấn đề nghiên cứu được

đề cập ở trên, tác giả tiến hành phỏng vấn 348 NLĐ đã thụ hưởng BHTN tại tỉnh

Thái Nguyên trong số 2.665 NLĐ đã được lựa chọn để trả lời cho bảng câu hỏi. Sau

khi có được thông tin khảo sát từ NLĐ, tác giả đánh giá, phân tích để giải quyết 4

mục tiêu nghiên cứu: (1) Mô tả các đặc điểm của những người trả lời phỏng vấn;

xác định nhận thức của những người trả lời phỏng vấn về việc thực hiện BHTN về

các vấn đề: đối tượng của BHTN, điều kiện hưởng BHTN, quỹ BHTN, các chế độ

29

của BHTN và quy trình hưởng BHTN; so sánh nhận thức về việc thực hiện BHTN

giữa các nhóm người trả lời phỏng vấn khi phân chia họ thành các nhóm theo tiêu

chí: Loại hình đơn vị mà NLĐ đã làm việc trước khi thất nghiệp và (4) đề xuất một

số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách BHTN tại tỉnh

Thái Nguyên trong các năm tiếp theo đồng thời tập trung trả lời 4 câu hỏi: (1) Hồ sơ

của người trả lời phỏng vấn ra sao về: tuổi, giới tính, loại đơn vị mà NLĐ đã làm

việc trước khi thất nghiệp, loại hợp đồng lao động/ hợp đồng làm việc đã ký kết

trước khi thất nghiệp, tình trạng công việc hiện tại, thời gian tham gia BHTN, tình

trạng hưởng BHTN; (2) Nhận thức của những người trả lời về việc thực hiện BHTN

đối với các vấn đề: đối tượng của BHTN, điều kiện hưởng BHTN, quỹ BHTN, các

chế độ của BHTN và quy trình hưởng BHTN; (3) Có sự khác biệt đáng kể không

trong nhận thức về việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp giữa các nhóm người trả lời

khi phân nhóm họ theo tiêu chí: Loại hình đơn vị mà người lao động đã làmviệc

trước khi thất nghiệp và (4) Những khuyến nghị nào được đề xuất nhằm tăng cường

việc thực hiện chính sách BHTN tại tỉnh Thái Nguyên trong các năm tiếp theo.

Trong các khuyến nghị của mình, tác giả có đề cập đến việc cần mở rộng đối tượng

hưởng BHTN và thực hiện chính sách BHTN tự nguyện. Tuy nhiên, việc thực hiện

chính sách BHTN tự nguyện như thế nào, cho đối tượng nào, cách thức thực hiện ra

sao thì chưa được đề cập đến. Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung:

những khuyến nghị của tác giả về mở rộng đối tượng của BHTN và chính sách

BHTN tự nguyện. Tuy chưa rõ ràng về ý tưởng nhưng cũng giúp ích cho tác giả

trong việc củng cố quan điểm cần mở rộng đối tượng BHTN hiện nay và có thêm

hình thức BHTN tự nguyện bên cạnh hình thức bắt buộc như hiện nay (chương 4).

Năm 2016, Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Trường về “Quản

lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện nay” [101]. Với 151 trang, 4

chương, luận án đã hệ thống hoá và làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của QLNN

về BHTN, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác

QLNN về BHTN, đáp ứng yêu cầu đổi mới QLNN trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế. Mục đích nghiên cứu của luận án này là nhằm cung cấp các luận cứ khoa

học cho các cơ quan hoạch định, thực thi luật pháp, chính sách về BHTN để phục

vụ cho việc điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện QLNN về BHTN ở Việt Nam [101, tr. 3]

với ý nghĩa về mặt lý luận là góp phần làm sáng tỏ khung lý thuyết của QLNN về

30

BHTN trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, nhất là về nội

dung, phương thức, công cụ và biện pháp tăng cường QLNN về BHTN [101, tr. 3]

và ý nghĩa về mặt thực tiễn là góp phần nâng cao nhận thức, thúc đẩy sự tham gia

của NLĐ, tăng cường và hoàn thiện QLNN về BHTN nhằm bảm đảm an sinh xã

hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh ở Việt Nam [101, tr. 3]. Luận

án đã tập trung giải quyết 4 mục tiêu cụ thể sau: làm rõ cơ sở lý luận của QLNN về

BHTN trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam; tổng hợp, phân tích kinh nghiệm QLNN về BHTN của một số quốc gia và rút

ra bài học cho Việt Nam; đánh giá khách quan thực trạng QLNN về BHTN giai

đoạn 2009-2014, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của

QLNN về BHTN và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện QLNN về BHTN

đến năm 2020, tầm nhìn 2025 [101, tr. 13-14]. Luận án đã nêu ra 6 nội dung QLNN

về BHTN gồm: hoạch định chiến lược, chính sách BHTN; xây dựng hệ thống pháp

luật về BHTN; tổ chức thực hiện chính sách BHTN; kiểm tra, giám sát hoạt động

BHTN; xây dựng tổ chức hệ thống BHTN và tổ chức công tác tuyên truyền. Tuy

nhiên, xuyên suốt toàn luận án, các nội dung liên quan đến thể chế QLNN về

BHTN- một nội dung quan trọng của QLNN về BHTN trên phương diện nghiên

cứu của khoa học Quản lý công- lại chưa được tổ chức nghiên cứu một cách toàn

diện và chuyên sâu, cụ thể là: Ở chương 2, về cơ sở lý luận của QLNN về BHTN,

trong tổng số 58 trang, tác giả chỉ dành 4 trang để phân tích về mặt lý luận về

hoạch định chiến lược, chính sách BHTN và xây dựng hệ thống pháp luật về BHTN

(trang 43-47). Ở chương 3, về thực trạng QLNN về BHTN ở Việt Nam, trong tổng

số 48 trang, tác giả chỉ dành 4 trang đề cập đến thực trạng hoạch định chính sách

BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009- 2014 (trang 98-102), từ đó đưa ra 7 dòng nhận

định về thành tựu của công tác hoạch định chính sách pháp luật BHTN: Công tác

hoạch định chính sách pháp luật BHTN ngày càng hoàn thiện (dòng 7-13, trang

115) và đưa ra 20 dòng nhận định về hạn chế của công tác hoạch định chính sách

pháp luật BHTN: một số chính sách ban hành còn chậm, chưa đáp ứng được yêu

cầu thực tế (dòng 8-29, trang 118). Ở chương 4, về phương hướng và giải pháp

hoàn thiện QLNN về BHTN ở nước ta, trong tổng số 26 trang, tác giả chỉ dành gần

3 trang đề cập đến các giải pháp hoàn thiện chính sách BHTN (từ trang 130 đến

trang 132), tuy nhiên, các giải pháp này được đề cập chung chung, không cụ thể.

31

Công trình này liên quan đến luận án ở nội dung: khái niệm QLNN về BHTN, thực

trạng BHTN ở Việt Nam và một số vấn đề bất cập về thể chế QLNN về BHTN.

Mặc dù không có chung nhận định với tác giả ở các đánh giá và đề xuất về thể chế

nhưng công trình đã cung cấp cho tác giả các thông tin hữu ích để nghiên cứu, hệ

thống cơ sở lý luận về thể chế QLNN về BHTN (chương 2), đánh giá thể chế

QLNN về BHTN (chương 3) và đề xuất giải pháp hoàn thiện (chương 4).

1.2 Đánh giá về các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước và định hướng

nghiên cứu

1.2.1. Những giá trị có thể tiếp thu

Qua nghiên cứu hệ thống các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có

liên quan đến thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam và các nước trên thế giới, tác

giả nhận thấy rằng xây dựng thể chế QLNN về BHTN phù hợp là vấn đề rất được

quan tâm ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở các nước phát triển và các nghiên cứu

về thể chế QLNN về BHTN được thực hiện từ rất sớm, vào những năm đầu của thế

kỷ XX, khi chính sách BHTN mới được một số rất ít các nước thực hiện.

Một số các công trình nghiên cứu đã nêu bật sự cần thiết phải thực hiện chế độ

BHTN ở các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, nêu bật vai trò,

tầm quan trọng của chính sách BHTN, đặc biệt là khi xảy ra khủng hoảng, suy thoái

kinh tế. Một số nghiên cứu đã phân tích nội dung chính sách BHTN ở các nước, ở

khu vực, ở các vùng lãnh thổ hay ở một địa phương cụ thể của một quốc gia, thu

thập, đánh giá kết quả thực thi chính sách ở các nước, các địa phương trong một

khoảng thời gian nhất định, từ đó, đưa ra những khuyến nghị về chính sách đối với

một số quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó, các công trình ngoài nước chủ yếu tập

trung phản ánh BHTN trên giác độ kinh tế- xã hội, quan tâm nhiều đến nội dung cải

thiện các chế độ của BHTN, vấn đề thiết kế chính sách BHTN sao cho phù hợp với

từng giai đoạn phát triển; các công trình trong nước nghiên cứu về các nội dung

chính sách BHTN mà Việt Nam nên có (đối với các nghiên cứu trước năm 2008,

khi chính sách BHTN chưa được thực thi ở Việt Nam) và về những bất cập của

chính sách so với thực tế triển khai trên phạm vi cả nước hoặc một địa phương cụ

thể (đối với các nghiên cứu từ năm 2009 đến nay, khi chính sách BHTN được thực

thi ở Việt Nam).

Nhìn chung, những vấn đề được nêu trong các công trình hoàn toàn xuất phát

32

từ thực tế khách quan và mang tính khoa học. Phần lớn các giải pháp được đề xuất

trong các công trình này đã được Chính phủ các nước, trong đó có Việt Nam nghiên

cứu áp dụng, tiếp thu, điều chỉnh trong quá trình xây dựng, hoạch định, điều chỉnh

chính sách BHTN. Các công trình nêu trên là cơ sở quan trọng cho việc tổ chức

nghiên cứu đề tài “Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam”.

Trong các nghiên cứu kể trên, tác giả hoàn toàn đồng ý với đề xuất phải hiện

đại hóa quản lý BHTN của tác giả Till Von Wachter (2016) với Chính phủ Hoa Kỳ.

Tác giả cũng hoàn toàn đồng ý với tác giả Lê Thị Hoài Thu (2005) rằng khi mới ban

hành chính sách BHTN, phạm vi áp dụng BHTN nên giới hạn ở một số đối tượng

nhưng về lâu dài sẽ mở rộng phạm vi áp dụng khi điều kiện cho phép. Tác giả cũng

đồng ý với những phát hiện của tác giả Phùng Thị Cẩm Châu (2013) khi nghiên cứu

thực tế triển khai BHTN tại tỉnh Thái Nguyên và cho rằng đối tượng tham gia

BHTN hiện nay còn hạn chế và khuyến nghị nên mở rộng đối tượng tham gia bằng

hình thức BHTN tự nguyện bên cạnh hình thức BHTN bắt buộc. Các luận điểm này

sẽ được tác giả phát triển và tổ chức nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu

hơn sao cho phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt Nam.

1.2.2. Những vấn đề liên quan đến luận án chưa được đề cập

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án kể trên

chưa đề cập đến những nội dung sau:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tiếp cận thể chế QLNN về BHTN ở nhiều

giác độ khác nhau: về quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh, luật học, xã hội học …

Chưa có công trình nào tiếp cận thể chế QLNN về BHTN dưới góc độ khoa học

Quản lý công.

Thứ hai, các công trình chỉ nêu lên một khía cạnh nhỏ của pháp luật BHTN,

quá trình thực thi chính sách BHTN mà những quy định này đang gặp khó khăn,

vướng mắc trong quá trình triển khai tại một thời điểm, giai đoạn cụ thể nào đó, ở

một địa phương, một nước, một nhóm nước cụ thể nào đó. Chưa có công trình nào

tiếp cận một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn thể chế QLNN về BHTN ở Việt

Nam.

Thứ ba, các công trình đều có những đánh giá, giải pháp logic và khoa học,

tuy nhiên, còn chung chung và chưa cụ thể. Trong số đó, một số tác giả đã đề cập

đến sự cần thiết phải mở rộng đối tượng của chính sách nhưng chưa nêu cụ thể mở

33

rộng cho đối tượng nào, mở rộng như thế nào và cách tổ chức thực hiện ra sao. Một

số tác giả đã đề cập đến vấn đề thay đổi quy định về cách thức tổ chức thực hiện

nhưng không đề xuất cụ thể đổi mới tổ chức thực hiện như thế nào. Rất ít công trình

đề cập đến QLNN về BHTN ở Việt Nam. Một vài công trình có tiếp cận nhưng khối

lượng nghiên cứu dành cho thể chế QLNN về BHTN là rất ít.

Thứ tư, trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là dưới tác động của cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ tư, thể chế QLNN ở tất cả các ngành, lĩnh vực đều có những

ảnh hưởng hết sức to lớn, cả ở mặt tiêu cực và mặt tích cực. Chưa có công trình

nghiên cứu nào đề cập đến thể chế QLNN về BHTN trong bối cảnh này. Cũng như

chưa có công trình nào nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện thể chế

QLNN về BHTN ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, trong đó có sự tác động, ảnh

hưởng to lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Như vậy, có thể nói, hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến thể chế

QLNN về BHTN nói trên chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện, chuyên

sâu về lý luận thể chế QLNN về BHTN và thực tiễn thể chế QLNN về BHTN ở

Việt Nam.

1.2.3. Định hướng nghiên cứu của luận án

Từ những vấn đề mà các công trình nghiên cứu trước đây chưa đề cập, luận án

“Thể chế Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam” sẽ tập trung

nghiên cứu bốn nội dung chính sau đây:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận hoàn chỉnh về thể chế QLNN về BHTN,

trong đó đưa ra quan điểm của tác giả về khái niệm thể chế QLNN về BHTN, vai

trò, nội dung thể chế QLNN về BHTN, các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế

QLNN về BHTN theo cách tiếp cận từ giác độ khoa học quản lý công, đồng thời

nghiên cứu kinh nghiệm về thể chế QLNN về BHTN ở một số nước để rút ra bài

học cho Việt Nam.

Thứ hai, hệ thống, đánh giá toàn diện thực trạng thất nghiệp, BHTN, thể chế

QLNN về BHTN ở Việt Nam từ khi chính sách BHTN bắt đầu triển khai trên thực

tế (năm 2009) đến thời điểm hiện nay.

Thứ ba, dự báo các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế QLNN về BHTN

trong bối cảnh hiện nay, trong đó có tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ tư, từ đó, dự báo xu hướng phát triển thể chế QLNN về BHTN và đưa ra quan

34

điểm của tác giả về hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN hiện nay, tầm nhìn đến

2030.

Thứ tư, phân tích và đưa ra một hệ thống các giải pháp đồng bộ, rõ ràng, cụ

thể, khả thi nhằm hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN, trong đó nổi bật là bốn đề

xuất: (1) Thêm chế độ hỗ trợ “cho vay ưu đãi hỗ trợ NLĐ từ quỹ BHTN” đối với

NLĐ tham gia BHTN bị mất việc làm; (2) Mở rộng đối tượng tham gia BHTN đến

NLĐ khu vực phi chính thức (NLĐ tự tạo việc làm, NLĐ hành nghề tự do, NLĐ làm

công ăn lương không có giao kết HĐLĐ hoặc có HĐLĐ dưới 3 tháng) và NLĐ khu

vực nông lâm thủy sản thông qua hình thức BHTN tự nguyện; (3) Ban hành quy

định về xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động- việc làm để kiểm soát quá

trình giải quyết chế độ chính sách BHTN một cách chủ động, đảm bảo công bằng,

đúng quy định của pháp luật, tránh tình trạng trục lợi BHTN và (4) Hoàn thiện các

quy định về công tác quản lý nguồn thu- chi BHTN để đảm bảo mức thu BHTN

công bằng hơn cho các đối tượng NLĐ, NSDLĐ và các khoản chi cần thiết được

đầu tư hợp lý hơn.

Đây là những vấn đề thời sự, sáng tạo và không trùng lắp với các công trình đã

công bố.

Kết luận chương 1

Chương 1 mô tả tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước liên

quan đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp. Trên cơ sở đó, đánh giá

kết quả mà các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước đã đạt được, xác định

những giá trị có thể tiếp thu và những vấn đề liên quan đến luận án chưa được đề

cập, từ đó, xác định định hướng nghiên cứu của luận án. Theo đó, tác giả đã nghiên

cứu, tổng hợp được 35 tài liệu tham khảo có giá trị ở trong và ngoài nước liên quan

mật thiết nhất đến để tài thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp (trong

nước: 22, ngoài nước: 13). Tác giả đã nêu khái quát nội dung nghiên cứu của các

công trình, mối liên hệ của từng công trình với luận án của tác giả, đồng thời đã chỉ

ra 4 nội dung liên quan đến luận án mà các công trình đã có chưa đề cập, từ đó, xác

định 4 vấn đề mang tính thời sự, sáng tạo và không trùng lắp với các công trình đã

35

công bố làm định hướng nghiên cứu của đề tài luận án.

Chương 2

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

2.1. Một số khái niệm cơ bản

2.1.1 Bảo hiểm thất nghiệp

- Khái niệm Thất nghiệp

Có nhiều khái niệm về thất nghiệp, song định nghĩa thất nghiệp của Tổ chức

Lao động quốc tế ILO được nhiều nhà kinh tế và nhiều nước tán thành. Theo định

nghĩa của tổ chức này thì: Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong

độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương

thịnh hành [16, tr 60].

- Khái niệm Người thất nghiệp

Khái niệm người thất nghiệp cũng có những quan điểm và nhận thức khác

nhau tùy theo mục đích và hoàn cảnh của mỗi nước, chẳng hạn:

+ Người thất nghiệp là NLĐ tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ

thực hiện những công việc ngắn hạn (cách hiểu ở Cộng hòa Liên bang Đức).

+ Người thất nghiệp là NLĐ không có việc làm, muốn làm việc, có năng lực

làm việc (cách hiểu ở Thái Lan).

+ Người thất nghiệp là người không có việc làm trong tuần lễ điều tra, có khả

năng làm việc, đang tích cực tìm việc làm hoặc chờ kết quả xin việc làm (cách hiểu

ở Nhật Bản).

+ Người thất nghiệp là NLĐ không có việc làm, không làm kể cả một giờ

trong tuần lễ điều tra đang đi tìm việc làm và có điều kiện là họ làm ngay (cách hiểu

của Tổ chức Lao động Quốc tế).

Dù quan niệm thế nào đi nữa, một NLĐ được coi là người thất nghiệp phải

thể hiện đầy đủ ba đặc trưng sau: (1) Là NLĐ, có khả năng lao động; (2) Đang

không có việc làm và (3) Đang tìm kiếm việc làm [16, tr 61].

- Khái niệm Bảo hiểm

Có nhiều quan niệm khác nhau về bảo hiểm dựa trên những góc độ và mục

đích nghiên cứu cụ thể. Một cách chung nhất, có thể hiểu: “Bảo hiểm là một hoạt

36

động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được

hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra

nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền

bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm

trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù trừ chúng theo quy luật thống kê” [16, tr.

14].

- Khái niệm Bảo hiểm thất nghiệp

Hiện nay, các loại hình bảo hiểm là vô cùng đa dạng, nhưng nhìn chung có thể

phân thành 4 loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm thương mại, BHXH, BHYT và BHTN.

BHTN là thuật ngữ được các nhà khoa học xem xét từ nhiều góc độ khác

nhau. Trong quá trình nghiên cứu của mình, tác giả nhận thấy, BHTN hiện nay đang

được tiếp cận chủ yếu trên ba phương diện: kinh tế, tài chính và xã hội. Trên

phương diện kinh tế, các nghiên cứu xem xét BHTN với vai trò là một chính sách

giúp ổn định vĩ mô nền kinh tế. Trên phương diện tài chính, các nghiên cứu tiếp cận

BHTN về hiệu quả sử dụng quỹ BHTN, vấn đề thu-chi quỹ, đầu tư tăng trưởng quỹ.

Trên phương diện xã hội, các nghiên cứu tiếp cận BHTN là một nhánh của hệ thống

chính sách ASXH hoặc một nhánh của BHXH cấu thành nên chính sách ASXH.

Theo tác giả Lê Thị Hoài Thu (2005), chế độ BHTN hay chế định BHTN được

hiểu là một dạng thuộc hệ thống chế độ BHXH, “Đó là tổng hợp những quy định

của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực đảm

bảo điều kiện vật chất cho người lao động đang có việc làm mà bị mất việc làm vì lý

do khách quan, cũng như trong lĩnh vực giúp người thất nghiệp trở lại với thị

trường lao động [85, tr. 48-49]. Với khái niệm này, tác giả tiếp cận BHTN là một

nhánh của chế độ BHXH.

Theo tác giả Nguyễn Tiệp (2009), “Bảo hiểm thất nghiệp là sự đảm bảo thay

thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của lao động trong trường hợp bị mất việc làm

và đang có nhu cầu tìm việc, đồng thời bao gồm một số biện pháp giúp họ trở lại

với thị trường lao động” [92, tr 19-20]. Với khái niệm này, tác giả khẳng định có

mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chính sách: BHTN và giải quyết việc làm.

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam (năm 2013), “Bảo hiểm thất

nghiệp là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất

việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở

37

đóng vào Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (khoản 4, Điều 3, Luật Việc làm).

Theo tác giả Nguyễn Quang Trường (2016), “Bảo hiểm thất nghiệp là một

hình thức bảo hiểm xã hội dựa trên sự đóng góp của nhà nước, người lao động và

người sử dụng lao động nhằm bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi

mất việc làm, tạo điều kiện cho người lao động tìm được việc làm thông qua tư vấn

và giới thiệu việc làm hoặc đào tạo lại” [101, tr 28].

Từ những quan niệm về BHTN nêu trên, có thể thấy rằng quan niệm về BHTN

có một số điểm chưa thật sự rõ ràng và thống nhất:

- BHTN là chính sách con thuộc nhóm chính sách BHXH (BHXH, BHYT,

BHTN) hay là chính sách con thuộc nhóm chính sách việc làm? Nó có mối quan hệ

gì so với hệ thống chính sách về kinh tế, ASXH khác hay không?

- Đối tượng mà BHTN hướng đến cụ thể là ai? Người trong độ tuổi lao động

nói chung hay chỉ là NLĐ đang có việc làm? Hay người thất nghiệp?

Đồng thời các quan niệm trên chỉ xét BHTN ở phạm vi hẹp, phù hợp với chính

sách BHTN ở Việt Nam nhưng có thể chưa phù hợp với các nước, nếu nghiên cứu

chính sách BHTN đang thực hiện ở các quốc gia khác nhau hiện nay.

Vì vậy, để thống nhất trong quá trình nghiên cứu đề tài này dưới giác độ tiếp

cận của khoa học quản lý công, trên cơ sở kế thừa những quan điểm của những nhà

khoa học đi trước, tác giả quan niệm BHTN theo nghĩa rộng hơn: BHTN là một chính

sách có quan hệ mật thiết với hệ thống chính sách kinh tế của quốc gia, được thực

hiện dưới các hình thức khác nhau thông qua việc hình thành một quỹ tiền tệ có sự

đóng góp của các bên liên quan để hỗ trợ NLĐ và NSDLĐ một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp nhằm phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro do thất nghiệp mang lại.

Theo quan niệm này, có thể hiểu:

- BHTN là một chính sách ở tầm quốc gia, nó không những chỉ là một nhánh

của nhóm chính sách bảo hiểm (BHXH, BHYT, BHTN), mà quan trọng hơn, là một

chính sách không thể thiếu thuộc nhóm chính sách việc làm, cấu thành nên hệ thống

chính sách ASXH. Chính sách BHTN có gắn bó hữu cơ với hệ thống chính sách

kinh tế bởi vì thất nghiệp là một trong hai vấn đề quan trọng, cố hữu của nền kinh tế

thị trường.

- Hình thức thực hiện BHTN có thể là bắt buộc, tự nguyện hoặc cả bắt buộc và

tự nguyện tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia.

38

- Đối tượng mà BHTN hướng đến là NLĐ (bao gồm: NLĐ đang làm việc và

NLĐ bị mất việc làm). Ngoài ra, đối tượng của BHTN có thể được mở rộng đến

những người trong độ tuổi lao động tùy theo điều kiện về quy mô của Quỹ BHTN,

sự hào phóng trong chế độ chi trả BHTN của mỗi quốc gia.

- Đối tượng đóng góp vào quỹ BHTN: NSDLĐ và NLĐ. Đây là hai đối tượng

chính đóng vào quỹ BHTN. Tùy vào quy định của mỗi nước, BHTN có thể bao gồm

sự hỗ trợ từ nhà nước nhằm mục đích bù thiếu cho quỹ BHTN.

- Mục đích của BHTN nhằm hỗ trợ tạm thời một phần tài chính cho NLĐ có

tham gia BHTN khi họ đáp ứng một số điều kiện cụ thể do nhà nước quy định, đồng

thời tổ chức các hoạt động hỗ trợ (tư vấn, GTVL, đào tạo, đào tạo lại, …) để họ

thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm cơ hội tái gia nhập TTLĐ. Bên cạnh đó, BHTN

giúp NLĐ giảm nguy cơ thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ NSDLĐ một phần kinh

phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề trong một số trường hợp nhất định.

Từ đó, giúp phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro do thất nghiệp mang lại.

- BHTN xuất phát từ quan hệ lao động, gắn liền với tình trạng việc làm của

NLĐ, người thất nghiệp. Việc trợ giúp tài chính cho họ luôn gắn liền với các hoạt

động hỗ trợ các hoạt động tìm kiếm, giải quyết việc làm cho họ.

- Quản lý BHTN bao gồm rất nhiều hoạt động: quản lý nguồn thu- chi BHTN,

đảm bảo sử dụng hiệu quả quỹ BHTN, nghiên cứu TTLĐ, nắm bắt thông tin TTLĐ.

cung- cầu lao động, các dòng dịch chuyển lao động, tư vấn việc làm, hỗ trợ tìm việc

làm, tổ chức hoặc hỗ trợ NSDLĐ đào tạo, đào tạo lại người thất nghiệp, người có

nguy cơ mất việc làm…

Với cách hiểu này, BHTN là sự bù đắp một phần thu nhập cho người thất

nghiệp, đồng thời hỗ trợ họ giảm nguy cơ mất việc làm hoặc sớm có cơ hội gia

nhập, tái gia nhập TTLĐ.

2.1.2 Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

- Khái niệm Quản lý

Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, chủ yếu là trong cách dùng thuật

ngữ. Có quan niệm cho rằng, quản lý là hành chính, lại có quan niệm cho rằng quản

lý là cai trị, là điều khiển, chỉ huy. Dù quan niệm như thế nào thì quản lý cũng được

hiểu theo nghĩa chung nhất: Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối

tượng và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến

39

động của môi trường [29].

Có ba dạng quản lý chủ yếu: quản lý giới vô sinh, quản lý giới sinh vật và

quản lý xã hội con người. Trong đó, quản lý xã hội con người là quá trình quản lý

phức tạp nhất, vì cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý đều là con người.

- Khái niệm Quản lý nhà nước

QLNN có ngay sau khi xuất hiện nhà nước, đó là một dạng quản lý đặc biệt-

quản lý toàn xã hội. Chủ thể QLNN là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà

nước được trao quyền lực công, gồm quyền lập pháp, quyền tư pháp và quyền hành

pháp; đối tượng quản lý của nhà nước là tất cả cá nhân và tổ chức sinh sống và hoạt

động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia; QLNN có tính toàn diện trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,

ngoại giao…; QLNN mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật của

nhà nước để quản lý xã hội; Mục tiêu của QLNN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn

định và phát triển bền vững trong xã hội.

Từ những đặc điểm này, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc

biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh

hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ

quan, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì

sự ổn định và phát triển của xã hội [29, tr 9-10].

Trên thực tế, quản lý nhà nước thường được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng,

quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước: lập pháp, hành pháp

và tư pháp; Nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.

Luận án tiếp cận QLNN về BHTN theo nghĩa hẹp này.

- Khái niệm Quản lý nhà nước về Bảo hiểm thất nghiệp

Khái niệm QLNN về BHTN được tác giả Nguyễn Tiệp đề cập lần đầu tiên

trong cuốn giáo trình “BHTN” xuất bản năm 2009, “Quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp là việc nhà nước thực hiện các chức năng về xây dựng, ban hành, tổ

chức thực hiện và bổ sung, điều chỉnh hiệu quả các quy định pháp luật về bảo hiểm

thất nghiệp trong nền kinh tế” [92, tr 241].

Theo tác giả Nguyễn Quang Trường (2016), : “Quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp là toàn bộ các hoạt động xây dựng, phối hợp, tổ chức thực hiện, kiểm

tra, kiểm soát chính sách bảo hiểm thất nghiệp của các bên tham gia, nhằm bảo

40

đảm thực hiện đúng mục tiêu của chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Ngoài ra, quản lý

bảo hiểm thất nghiệp còn bao hàm nội dung quản lý nguồn hình thành quỹ và phát

triển quỹ BHTN để có năng lực thực hiện mục tiêu lâu dài, bền vững” [101, tr 36].

Tuy nhiên, các quan điểm này chưa phản ánh đầy đủ bản chất, nội dung của

QLNN về BHTN theo góc độ tiếp cận của khoa học quản lý công.

Dưới giác độ của khoa học quản lý công, tác giả quan niệm rằng, QLNN về

BHTN là việc Nhà nước bằng quyền lực của mình thông qua một hệ thống các quy

định pháp luật để điều chỉnh hành vi của người thất nghiệp, NLĐ, NSDLĐ đang

sinh sống, làm việc, hoạt động trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm ngăn ngừa tình

trạng thất nghiệp và giảm thiểu rủi ro do hậu quả của thất nghiệp gây ra, góp phần

đảm bảo ASXH và ổn định vĩ mô nền kinh tế.

Với quan niệm QLNN về BHTN của tác giả, có thể hiểu:

+ Chủ thể của QLNN về BHTN là nhà nước, mà cụ thể là các cơ quan, tổ

chức, cá nhân được nhà nước trao quyền, tổ chức ra, đại diện cho nhà nước, được

quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật về BHTN.

+ Đối tượng của QLNN về BHTN là người thất nghiệp, NLĐ, NSDLĐ đang

sinh sống, làm việc, hoạt động trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. Tùy điều kiện của

mỗi nước mà đối tượng này có thể rộng hay hẹp, có thể là tất cả hoặc được giới hạn

trong một phạm vi nhất định.

+ Mục tiêu của QLNN về BHTN là ngăn ngừa tình trạng thất nghiệp và giảm

thiểu rủi ro do hậu quả của thất nghiệp gây ra, góp phần đảm bảo ASXH và ổn định

vĩ mô nền kinh tế. Mục tiêu này được đặt ra trên cơ sở phù hợp với luật pháp quốc

tế về BHTN cũng như điều kiện, hoàn cảnh, đặc thù của mỗi quốc gia.

Với quan niệm QLNN về BHTN của tác giả, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa

QLNN về BHTN với quản lý sự nghiệp BHTN. Quản lý sự nghiệp BHTN là việc

các đơn vị sự nghiệp công lập (BHXH các cấp, Trung tâm DVVL các cấp) thực

hiện các chức năng quản lý liên quan đến hoạt động trực tiếp, thường xuyên của

BHTN (thu- chi BHTN, tiếp nhận, giải quyết chế độ trợ cấp, đào tạo nghề, tư vấn,

GTVL) và chịu sự quản lý của các cơ quan QLNN về BHTN (Chính phủ, Bộ LĐ-

TB&XH, Bộ Tài chính, UBND cấp tỉnh, Sở LĐ-TB&XH, Sở Tài chính). QLNN về

BHTN tạo hành lang pháp lý và các điều kiện tài chính, bộ máy, nhân sự cho hoạt

động sự nghiệp BHTN đồng thời quản lý hoạt động này. Đến lượt mình, kết quả của

41

quản lý sự nghiệp BHTN là cơ sở để các cơ quan QLNN về BHTN đánh giá kết quả

hoạt động chính sách BHTN, từ đó có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nội dung

chính sách BHTN cho phù hợp với tình hình thực tế.

2.1.3 Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Hiện nay, thể chế nói chung và thể chế nhà nước nói riêng là các thuật ngữ

được sử dụng khá phổ biến nhưng lại chưa có sự thống nhất trong cách hiểu. Một

cách chung nhất, các nhà nghiên cứu đi trước tiếp cận các thuật ngữ này ở hai

nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp [30].

- Khái niệm Thể chế

Theo nghĩa rộng, thể chế là một cấu trúc tổng thể các yếu tố để tiến hành

hoạt động của một tổ chức bao gồm cả tổ chức bộ máy với những quy định cụ thể

về nhiệm vụ, quyền hạn, quy tắc hoạt động buộc các thành viên trong tổ chức phải

chấp hành và thậm chí cả hoạt động của các thành viên của tổ chức, nói cách khác

thể chế bao hàm tổ chức với hệ thống các quy tắc, quy chế được sử dụng để điều

chỉnh sự vận hành của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.

Theo nghĩa hẹp, thể chế chỉ bao gồm hệ thống các quy định, chế tài có thể

được ban hành thành văn bản hoặc không, tạo nên hành lang pháp lý cho hoạt động

của tổ chức nào đó.

Theo nghĩa hẹp hơn, thể chế dùng để chỉ những tổ chức với quy tắc, quy chế

của nó gắn liền với mục tiêu chung, mục tiêu xã hội.

Một điều cần lưu ý là, trong tiếng Anh “Institution” có nghĩa là thiết chế hay

thể chế. Tuy nhiên, giữa thiết chế và thể chế lại không hoàn toàn đồng nhất về cách

hiểu. Theo Robertsons: “Thiết chế là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực,

vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội”. Ông

cho rằng, một xã hội muốn tồn tại và phát triển bình thường, phải được hình thành

trên những mô hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn phép chung để từ đó mỗi

thành viên trong xã hội có thể soi vào đó mà hành động cho phù hợp. Thiết chế là

một hệ thống những quy tắc giám sát, điều tiết và điều chỉnh hành vi nhằm đáp ứng

những nhu cầu nhất định của cộng đồng và cá nhân, cụ thể, đó là tổng hợp các

phương pháp, phương thức vận hành nhà nước, vận hành xã hội, các chế độ chính

sách, pháp luật, chuẩn mực, tập quán và sự phân chia quyền lực, vai trò và lợi ích.

Những hệ thống này có thể là chính thức hoặc không chính thức, có tổ chức hoặc

42

không có tổ chức. Theo cách tiếp cận này, thiết chế có phạm vi rộng hơn thể chế.

- Khái niệm Thể chế nhà nước

Theo nghĩa rộng, thể chế nhà nước bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước

với hệ thống quy định do nhà nước xác lập trong hệ thống văn bản pháp luật của

nhà nước và được nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối

quan hệ giữa nhà nước với công dân, các tổ chức nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương

xã hội [25].

Theo nghĩa hẹp, thể chế nhà nước là hệ thống các quy định do nhà nước xác

lập trong hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước và được nhà nước sử dụng để

điều chỉnh các hành vi và mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, các tổ chức

nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội [25].

- Khái niệm Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Kế thừa các khái niệm thể chế và thể chế nhà nước của các nghiên cứu đi

trước vào quá trình nghiên cứu luận án, tác giả cũng quan niệm cách hiểu về thể chế

QLNN về BHTN theo hai nghĩa.

Theo nghĩa rộng, thể chế QLNN về BHTN bao gồm trong đó có cả hệ thống

các cơ quan QLNN về BHTN và cơ chế hoạt động của các cơ quan này trong QLNN

về BHTN.

Theo nghĩa hẹp, thể chế QLNN về BHTN là toàn bộ các quy định, quy tắc do

nhà nước ban hành để điều chỉnh hoạt động QLNN về BHTN, tạo nên hành lang

pháp lý cho hoạt động của các cơ quan QLNN về BHTN và các cán bộ, công chức

có thẩm quyền.

Xuyên suốt luận án, thể chế QLNN về BHTN được tác giả tiếp cận, nghiên

cứu theo nghĩa hẹp này.

Với quan niệm về thể chế QLNN về BHTN theo nghĩa hẹp, thể chế QLNN

về BHTN được cấu thành từ các yếu tố sau đây:

- Hệ thống văn bản mang tính định hướng, chiến lược liên quan đến an sinh

xã hội nói chung và bảo hiểm thất nghiệp nói riêng.

- Hệ thống các văn bản pháp luật quy định nội dung cơ bản về bảo hiểm thất

nghiệp, quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà

nước, quản lý sự nghiệp về bảo hiểm thất nghiệp, quyền, nghĩa vụ của đối tượng

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

43

- Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ, công chức quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp

- Hệ thống các văn bản quy định về tài phán hành chính nhằm giải quyết

tranh chấp, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động, người sử dụng lao động.

- Hệ thống các thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp

2.2 Nội dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Tùy từng lĩnh vực QLNN mà thể chế QLNN có những nội dung cơ bản khác

nhau. Với QLNN về BHTN, thể chế QLNN về BHTN bao gồm 7 nội dung cơ bản:

Một là, Quy định về hình thức tham gia, đối tượng áp dụng bảo hiểm thất

nghiệp

Về hình thức tham gia: Trên thế giới hiện có 2 hình thức mà NLĐ có thể tham

gia BHTN: bắt buộc và tự nguyện. Tùy theo điều kiện của mỗi nước mà có thể chỉ

áp dụng hình thức bắt buộc hoặc chỉ áp dụng hình thức tự nguyện hoặc có thể áp

dụng cả hai hình thức: vừa bắt buộc, vừa tự nguyện.

Về đối tượng áp dụng BHTN: rất đa dạng, BHTN có thể chỉ hướng đến một bộ

phận nhỏ NLĐ hoặc toàn thể NLĐ; có thể hướng đến một phần NLĐ có nhu cầu

hoặc tất cả NLĐ có nhu cầu; có thể chỉ hướng đến đối tượng NLĐ làm công ăn

lương hoặc có thể được mở rộng ra cho tất cả những người có khả năng lao động

nhưng bị thất nghiệp toàn phần…Tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước mà đối

tượng áp dụng BHTN là khác nhau.

Quy định về hình thức tham gia, đối tượng áp dụng BHTN là quy định hết sức

quan trọng, nó quyết định đến quy mô của chính sách, mức độ bao phủ của chính

sách, từ đó quyết định đến hiệu quả của chính sách. Nó còn thể hiện vai trò, vị trí

của chính sách BHTN trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia.

Hai là, Quy định về các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Các chế độ BHTN là khá đa dạng. Nhìn chung có hai nhóm chế độ BHTN áp

dụng ở các nước: (1) nhóm các chế độ hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt thông qua một

khoản tiền trợ cấp trong một khoảng thời gian nhất định khi NLĐ đáp ứng được một

số điều kiện nhất định và (2) nhóm các chế độ hỗ trợ gián tiếp thông qua các hình

thức tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc

làm mới, hỗ trợ vay vốn ... cho NLĐ hoặc hỗ trợ để NSDLĐ đào tạo, nâng cao kỹ

44

năng nghề cho NLĐ...

Trong từng chế độ BHTN, mỗi nước đều quy định điều kiện hưởng, thời gian

hưởng, mức hưởng là khác nhau. Nhưng nhìn chung đối tượng tham gia BHTN sẽ

được bảo vệ khi có đủ các điều kiện như: có năng lực làm việc, hiện chưa có việc

làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm, có đăng ký tìm việc, …

Quy định về các chế độ BHTN sẽ cho thấy mức độ hào phóng mà quỹ BHTN

chi trả cho NLĐ đang tham gia BHTN khi họ không may rơi vào tình trạng mất việc

làm. Các chế độ BHTN càng nhiều, càng đa dạng, sẽ càng giúp cho NLĐ có điều

kiện, động lực, niềm tin để vượt qua khó khăn, từ đó nỗ lực hơn trong quá trình tái

gia nhập TTLĐ, đảm bảo cuộc sống của gia đình mình, cũng đồng nghĩa với việc,

xã hội sẽ bớt đi các hệ lụy đáng tiếc từ hậu quả do thất nghiệp mang lại, an sinh xã

hội được tăng cường, nền kinh tế vĩ mô được ổn định.

Tuy nhiên, mức độ hào phóng về chế độ BHTN ở các quốc gia lại phụ thuộc

vào quy mô, khả năng chi trả của quỹ BHTN, tức là phụ thuộc vào khả năng đóng

góp của NLĐ, của NSDLĐ và mức độ hỗ trợ của NSNN (nếu có) dành cho quỹ

BHTN. Do đó, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước mà quy định về các chế

độ BHTN của họ sẽ khác nhau. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền lợi tối thiểu của

người thất nghiệp đồng thời cũng để họ không ỷ lại vào chế độ BHTN, một số nước

có giới hạn mức hưởng tối thiểu hoặc tối đa mà NLĐ có thể được nhận từ quỹ

BHTN.

Ba là, Quy định về tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp

Quy định về tổ chức bộ máy, nhân sự QLNN về BHTN cho biết có những cơ

quan nào có chức năng QLNN về BHTN, cơ quan nào chủ trì, cơ quan nào phối

hợp, mối liên hệ giữa các cơ quan đó ra sao, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan

như thế nào. Nhân sự QLNN về BHTN là ai, được bố trí như thế nào. Việc tuyển

dụng, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ chính

sách đối với họ ra sao? Chế độ tiền lương của họ như thế nào?

Quy định về tổ chức bộ máy, nhân sự QLNN về BHTN càng rõ ràng, khoa

học thì hiệu quả QLNN về BHTN sẽ được nâng lên, từ đó góp phần nâng cao hiệu

quả chính sách BHTN; ngược lại, sẽ dẫn đến tình trạng cồng kềnh, chồng chéo về

45

chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và nhân sự QLNN về BHTN, làm mất nhiều

thời gian, gây tốn kém, lãnh phí, không đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thực hiện

chính sách.

Bốn là, Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa

vụ của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực

hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

Để QLNN về BHTN, nhà nước tổ chức ra bộ máy QLNN về BHTN và bố trí

nhân sự QLNN về BHTN trong bộ máy đó. Tuy nhiên, để chính sách đi vào cuộc

sống, còn phải có sự tham gia quản lý, thực hiện của một số cơ quan, đơn vị, tổ

chức, cá nhân có liên quan. Do đó, bên cạnh quy định về tổ chức bộ máy và nhân sự

QLNN về BHTN, thể chế QLNN về BHTN còn phải quy định rõ các cơ quan, đơn

vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực hiện BHTN: đó là những cơ

quan nào, đơn vị nào, tổ chức nào? Từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó có chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm gì trong quản lý, thực hiện BHTN; đó là những

cá nhân nào, họ có quyền gì và nghĩa vụ gì liên quan trong quản lý, thực hiện

BHTN?

Cũng giống như quy định về tổ chức bộ máy, nhân sự QLNN về BHTN, quy

định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan,

đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực hiện chính sách BHTN

càng rõ ràng, khoa học thì hiệu quả QLNN về BHTN sẽ được nâng lên, từ đó góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách BHTN. Chẳng hạn, quy định về quyền

và nghĩa vụ của NLĐ, quyền và trách nhiệm của NSDLĐ về BHTN càng rõ ràng,

chặt chẽ, hợp lý thì NLĐ, NSDLĐ càng dễ dàng tuân thủ, thực hiện, không chây ì,

trốn tránh, nhờ đó, ý thức của NLĐ, NSDLĐ về BHTN cũng được nâng cao; quy

định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan BHXH, Trung tâm DVVL

càng rõ ràng, khoa học thì sẽ hạn chế tối đa tình trạng chồng chéo trong thực hiện

nhiệm vụ, từ đó, tăng mức độ phối hợp giữa các cơ quan liên quan, đảm bảo hiệu

quả trong thực thi chính sách…

Năm là, Quy định về quỹ bảo hiểm thất nghiệp

Như đã trình bày ở mục 1.2.1, BHTN được thực hiện dưới các hình thức khác

nhau thông qua việc hình thành một quỹ tiền tệ có sự đóng góp của các bên liên quan

để hỗ trợ NLĐ. Do đó, bên cạnh các quy định khác, quy định về quỹ BHTN là hết

46

sức cần thiết. Nó cho biết quy định của nhà nước về các bên đóng góp vào quỹ, mức

đóng góp của mỗi bên, sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước (nếu có), căn cứ đóng góp,

phương thức đóng, nguồn hình thành quỹ (các khoản thu BHTN), sử dụng quỹ

BHTN (các khoản chi BHTN), quản lý quỹ BHTN (phương thức hạch toán, cơ quan

quản lý, hoạt động đầu tư quỹ, chế độ tài chính đối với quỹ BHTN, quy định về

quản lý và sử dụng kinh phí, phân bổ dự toán, chuyển kinh phí, tổng hợp quyết

toán…).

Quy định về quỹ BHTN càng rõ ràng thì quá trình tổ chức thực hiện BHTN,

nhất là tổ chức thu- chi BHTN, kiểm soát tình trạng an toàn quỹ, … càng thuận lợi,

đảm bảo tính công khai và minh bạch.

Sáu là, Quy định về xử lý vi phạm, thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải

quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm thất nghiệp

Quy định về xử lý vi phạm về BHTN: là quy định về các hành vi vi phạm

hoặc hành vi phạm tội về BHTN, hình thức xử phạt vi phạm hành chính, xử lý hình

sự (nếu có), mức xử lý, xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có) đối

với từng hành vi vi phạm, phạm tội. Tùy theo quy định của mỗi nước, mà các vi

phạm về BHTN có cấu thành tội phạm hay không.

Quy định về thanh tra trong lĩnh vực BHTN: Mục đích của hoạt động thanh

tra về BHTN là nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật về

BHTN để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục;

phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức,

cài nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật về BHTN; phát huy nhân tố tích

cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động QLNN về BHTN; bảo vệ lợi

ích của nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quy

định về thanh tra BHTN là những quy định cụ thể đối tượng thanh tra, cơ quan có

chức năng thanh tra, trình tự, thủ tục thực hiện và các quy định về xây dựng và phê

duyệt kế hoạch thanh tra về BHTN hàng năm.

Quy định về kiểm tra trong QLNN về BHTN: Có hai loại kiểm tra trong

QLNN về BHTN: Kiểm tra chức năng và Kiểm tra nội bộ. Kiểm tra chức năng

trong QLNN về BHTN: Đây là hoạt động kiểm tra của Bộ LĐ-TB&XH thực hiện

đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị không trực thuộc mình về mặt tổ chức trong

việc chấp hành pháp luật, đường lối chính sách và các quy tắc quản lý về ngành hay

47

lĩnh vực mình quản lý thống nhất trong cả nước. Kiểm tra nội bộ trong QLNN về

BHTN: Đây là hoạt động kiểm tra trong nội bộ ngành, một cơ quan, tổ chức do thủ

trưởng cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực, thủ trưởng của các cơ quan, tổ chức, đơn

vị cơ sở của nhà nước tiến hành. Hoạt động này có tính trực thuộc chặt chẽ giữa chủ

thể và đối tượng bị kiểm tra, phạm vi kiểm tra bao quát mọi hoạt động, mọi vấn đề

thuộc nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan cấp dưới, nhân viên dưới quyền. Thủ

trưởng cơ quan có thể trực tiếp kiểm tra hoặc lập tổ chức giúp thủ trưởng kiểm tra.

Khi tiến hành kiểm tra, thủ trưởng cơ quan hoặc tổ chức kiểm tra có quyền áp dụng

mọi hình thức và biện pháp thuộc quyền hạn của thủ trưởng như: khen thưởng cơ

quan, cá nhân, quyết định đình chỉ hoặc bãi bỏ các quyết định sai của cấp dưới, đình

chỉ hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật, kể cả các biện pháp kiểm kê, kiểm soát, kê

biên, niêm phong tài sản, tài liệu...

Quy định về tiếp công dân, giải quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo

về BHTN: Kiến nghị về BHTN là việc công dân đề xuất ý kiến với cơ quan nhà

nước các ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước về

BHTN, kiến nghị không liên quan trực tiếp tới vi phạm pháp luật về BHTN. Yêu

cầu về BHTN là đòi hỏi của công dân để thực hiện quyền chủ thể của họ được pháp

luật quy định, trong một số trường hợp có liên quan tới vi phạm pháp luật nhưng

không trực tiếp tới người yêu cầu. Khiếu nại về BHTN là việc NLĐ, NSDLĐ, các cá

nhân, tổ chức liên quan theo thủ tục do pháp luật quy định đề nghị các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính

của các cơ quan QLNN về BHTN, của cán bộ, công chức có thẩm quyền QLNN về

BHTN khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm

phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối tượng thực hiện khiếu nại về BHTN là

NLĐ, NSDLĐ, các cơ sở dạy nghề, các cá nhân, tổ chức liên quan khác. Đối tượng

khiếu nại là cơ quan QLNN về BHTN, cơ quan quản lý sự nghiệp về BHTN (bảo

hiểm xã hội, trung tâm DVVL), người có thẩm quyền ban hành quyết định hành

chính về BHTN bị cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đối

tượng thực hiện khiếu nại về BHTN; cán bộ, công chức của các cơ quan QLNN về

BHTN, viên chức, NLĐ trong các cơ quan quản lý sự nghiệp về BHTN có hành vi

hành chính bị cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đối

tượng thực hiện khiếu nại về BHTN. Và giải quyết khiếu nại là việc các cơ quan, tổ

48

chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiến hành thụ lý, xác minh, kết

luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Tố cáo về BHTN là việc NLĐ hoặc các

cá nhân có liên quan theo thủ tục do pháp luật quy định, báo cho các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật về BHTN của bất cứ

cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của nhà

nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức liên quan đến BHTN.

Khác với khiếu nại về BHTN, chủ thể được quyền tố cáo về BHTN chỉ là các cá

nhân (có thể một người hoặc nhiều người) mà không bao gồm tổ chức, tổ chức

không có quyền tố cáo. Đối tượng bị tố cáo là bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật

trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức về BHTN;

bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật trong QLNN về BHTN của bất cứ cơ quan, tổ

chức, cá nhân nào liên quan mà chủ thể được quyền tố cáo biết được nhằm thực

hiện trách nhiệm công dân, đảm bảo kỷ cương, trật tự an toàn xã hội về BHTN.

Quy định về tiếp công dân, giải quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về

BHTN là quy định cụ thể về hoạt động tiếp công dân (địa điểm, điều kiện, cơ sở vật

chất, bố trí cán bộ tiếp công dân, quy trình tiếp công dân), xử lý phản ánh, kiến

nghị, xử lý đơn khiếu nại, xử lý đơn tố cáo (tiếp nhận, phân loại, xác định thẩm

quyền giải quyết, xử lý đơn). Quy định rõ ràng, đầy đủ về xử lý vi phạm, thanh tra,

kiểm tra, tiếp công dân, xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực BHTN sẽ

giúp cho pháp chế BHTN được đảm bảo, hoạt động QLNN về BHTN được công

khai, minh bạch, công bằng, nhờ đó đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong QLNN về

BHTN.

Bảy là, Quy định về thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp

Để QLNN về BHTN, các cơ quan QLNN về BHTN ban hành các quy định về

TTHC thực hiện BHTN để đưa BHTN vào cuộc sống. Đó là các quy định về trình

tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện để NLĐ, NSDLĐ, các cá nhân,

tổ chức liên quan giải quyết một công việc, một yêu cầu cụ thể liên quan đến

BHTN. Đó là công cụ, phương tiện quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng

QLNN về BHTN; là cầu nối để chuyển tải các quy định về BHTN của nhà nước vào

cuộc sống một cách cụ thể nhất, dễ hiểu nhất, đảm bảo cho NLĐ, NSDLĐ, các cá

nhân, tổ chức liên quan tiếp cận, thực hiện tốt, đồng thời cũng đảm bảo các quyền,

lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ theo các quy định do nhà nước quy định.

49

TTHC về BHTN do các cơ quan QLNN về BHTN ban hành được công bố

công khai, làm cơ sở để NLĐ, NSDLĐ, các cá nhân, tổ chức liên quan thực hiện.

Quy định TTHC về BHTN bao gồm việc ban hành, công khai các TTHC về: tham

gia BHTN, giải quyết hưởng TCTN (quyết định hưởng, tạm dừng hưởng, tiếp tục

hưởng, chuyển nơi hưởng, ...) và giải quyết các chế độ BHTN khác.

TTHC về BHTN càng chặt chẽ càng đảm bảo tính công bằng trong thực hiện

chính sách, NLĐ, NSDLĐ, các cá nhân, tổ chức liên quan buộc phải tuân thủ theo

quy định, tránh các trường hợp “lách luật”, lạm dụng quỹ. Tuy vậy, TTHC về

BHTN cũng cần phải đảm bảo tính hợp lý và tinh gọn, để không gây khó khăn,

phiền hà, đi lại nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí về thời gian, kinh phí của NLĐ,

NSDLĐ.

2.3 Vai trò của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Thể chế QLNN về BHTN có bốn vai trò hết sức quan trọng đối với QLNN

về BHTN. Cụ thể:

Thứ nhất, thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp là cơ sở pháp

lý của hoạt động quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Với BHTN, Nhà nước sử dụng

quyền lực của mình thông qua một hệ thống các quy định pháp luật để điều chỉnh

hành vi của người thất nghiệp, NLĐ, NSDLĐ với đặc trưng mang tính cưỡng chế

kết hợp với thuyết phục và giáo dục, buộ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan

phải tuân thủ đúng pháp luật về BHTN.

Thể chế QLNN về BHTN với một hệ thống pháp luật (bao gồm luật, các văn

bản dưới luật) do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chính là cơ sở

pháp lý cho các cơ quan QLNN về BHTN thực hiện quản lý, đảm bảo thống nhất

QLNN về BHTN trên phạm vi quốc gia. Từ đó, giúp hiện thực hóa các mục tiêu, ý

tưởng của các nhà chính trị về bảo hiểm thất nghiệp thông qua hệ thống các quy

định làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai bảo hiểm thất nghiệp theo đúng định

hướng, chủ trương, đường lối của các nhà chính trị.

Vai trò này cho thấy, hệ thống văn bản pháp luật về BHTN ngày càng được

bổ sung, hoàn chỉnh, hoàn thiện sẽ góp phần xây dựng một nhà nước dân chủ, hiện

đại, pháp quyền với ý nghĩa đầy đủ của nó, nhờ đó, tính hiệu lực của các thể chế

QLNN về BHTN cũng ngày càng được nâng cao. Hoàn thiện thể chế QLNN về

50

BHTN sẽ là yếu tố đảm bảo cho hệ thống các cơ quan QLNN về BHTN quản lý tốt

chính sách BHTN theo hướng: nhà nước quản lý bằng pháp luật và mọi NLĐ,

NSDLĐ và các cá nhân, tổ chức có liên quan được bình đẳng trước pháp luật và

được làm những điều pháp luật không cấm.

Thứ hai, Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp là cơ sở cho

việc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Thể chế nhà nước nói chung và thể chế QLNN trên từng ngành, lĩnh vực là

một vấn đề được mọi quốc gia trên thế giới quan tâm dựa trên những quan điểm,

nguyên tắc nhất định. Trong đó, cách thức tổ chức bộ máy QLNN như thế nào phải

được thể chế hóa trong văn bản pháp luật của nhà nước.

Thể chế QLNN về BHTN xác định cụ thể, rõ ràng việc phân chia chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm, nguồn lực vật chất, tài chính, nhân

sự cho các cơ quan, tổ chức, từ trung ương đến địa phương. Thể chế QLNN về

BHTN càng rõ ràng, rành mạch, khoa học, cụ thể thì cơ cấu tổ chức của bộ máy

QLNN về BHTN các cấp càng rõ ràng, dễ thực hiện; ngược lại, sẽ dẫn đến tình

trạng bộ máy QLNN về BHTN chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, mất nhiều thời

gian và kinh phí, không hiệu lực và hiệu quả.

Trên thực tế, thể chế QLNN về BHTN thể hiện việc phân công, phân chia

quyền hạn trong tổ chức bộ máy QLNN về BHTN, là cơ sở cho việc xác định: Cần

bao nhiêu cơ quan QLNN về BHTN? Đó là những cơ quan nào? Chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan ra sao trong QLNN về BHTN? Mối

quan hệ giữa chúng ra sao? Trong từng cơ quan QLNN về BHTN thì đơn vị nào chủ

trì, đơn vị nào phối hợp, cách thức tổ chức thực hiện, tham gia, phối hợp ra sao?

Cần tổ chức QLNN về BHTN ở những cấp nào? Ở những cơ quan nào ở địa

phương? Quy mô ra sao? …

Với vai trò này, việc nghiên cứu để các quy định của thể chế QLNN về

BHTN về chức năng, quyền hạn của bộ máy QLNN về BHTN phát huy cao nhất

năng lực của các chủ thể trong quản lý, tổ chức thực hiện BHTN là cũng một trong

những vấn đề cũng cần hết sức quan tâm hiện nay.

Thứ ba, Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp là cơ sở cho

vấn đề nhân sự trong bộ máy quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Yếu tố con người trong tổ chức, tổ chức nói chung và trong các cơ quan quản lý

51

nhà nước nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để tổ chức QLNN về BHTN,

bên cạnh vấn đề tổ chức bộ máy thì việc bố trí nhân sự trong bộ máy đó cũng mang

ý nghĩa hết sức quan trọng. Cách thức bố trí nhân sự QLNN về BHTN như thế nào

cũng là một phần nội dung thể chế QLNN về BHTN được quy định cụ thể trong văn

bản pháp luật của nhà nước.

Thể chế QLNN về BHTN xác định việc phân chia chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức bộ máy gắn với đội ngũ nhân sự ở

các cơ quan, tổ chức đó, từ trung ương đến địa phương. Trên thực tế, nếu chức

năng, nhiệm vụ không được xác định một cách rõ ràng, khoa học thì khó có thể bố

trí hợp lý được từng người cụ thể vào các chức vụ cụ thể, lập ra quá nhiều đơn vị

với chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, hoặc quá vụn vặt, dễ dẫn đến việc bố trí cán

bộ một cách lãng phí. Do đó, thể chế QLNN về BHTN khoa học sẽ là cơ sở quan

trọng để giải quyết vấn đề bố trí nhân sự trong bộ máy QLNN về BHTN.

Với vai trò này, việc nghiên cứu để các quy định của thể chế QLNN về

BHTN về bố trí nhân sự trong bộ máy QLNN về BHTN phát huy cao nhất năng lực

của họ trong QLNN về BHTN cũng một trong những vấn đề cũng cần hết sức quan

tâm hiện nay.

Thứ tư, Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp là cơ sở cho

việc xây dựng mối quan hệ cụ thể giữa nhà nước với các cá nhân, tổ chức liên

quan về bảo hiểm thất nghiệp

Xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, bên cạnh việc thực hiện chức

năng tài chính, vai trò dịch vụ của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng hơn bao

giờ hết. Công chức trong bộ máy hành chính nhà nước không chỉ là người có quyền

mệnh lệnh mà còn là người phục vụ, là đầy tớ của nhân dân. Do đó, nếu quan hệ

giữa nhà nước với công dân và các tổ chức xã hội không được xác lập cụ thể, đầy

đủ bằng một hệ thống thể chế đúng đắn, sẽ làm cho hoạt động QLNN trên các

ngành, lĩnh vực, trong đó có BHTN sẽ trở nên tùy tiện, khó kiểm soát.

Vai trò của thể chế QLNN về BHTN trong việc xây dựng mối quan hệ giữa

nhà nước với công dân và các tổ chức xã hội, mà cụ thể là NLĐ, NSDLĐ, các cơ sở

đào tạo nghề ngoài nhà nước, … được thể hiện các khía cạnh sau:

- Nhà nước với tư cách quyền lực công, tạo ra một khung pháp lý cần thiết

52

(Luật và hệ thống các văn bản lập quy) về BHTN để QLNN về BHTN.

- Nhà nước quản lý, tổ chức thực hiện việc cung ứng dịch vụ công liên quan

đến BHTN, có trách nhiệm đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu chính đáng của NLĐ,

NSDLĐ theo khung pháp lý đã đề ra.

2.4 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp

2.4.1 Tình trạng thất nghiệp trong từng thời kỳ

Tình trạng thất nghiệp của một quốc gia, một địa phương có ảnh hưởng lớn

đến thể chế QLNN về BHTN của quốc gia, địa phương đó. Nếu tỷ lệ thất nghiệp

thấp, số người lao động mất việc làm sẽ giảm, áp lực lên quỹ BHTN cũng sẽ giảm,

làm giảm chi BHTN. Quỹ BHTN sẽ có kết dư lớn hơn, có thể dẫn đến sự tác động

đến thể chế QLNN về BHTN, thể hiện ở sự điều chỉnh một số quy định về mức chi,

nội dung chi BHTN, mức đóng BHTN, ... so với thời kỳ tình trạng thất nghiệp gia

tăng.

Ngược lại, nếu tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, nhu cầu về việc làm giảm xuống,

buộc thể chế QLNN về BHTN sẽ phải thay đổi: các chế độ BHTN mà NLĐ được

hưởng khi mất việc sẽ phải tính toán lại, quy định về tỷ lệ chi trả quỹ BHTN vào

các mục tiêu ngăn ngừa thất nghiệp (thông qua các chế độ hỗ trợ NSDLĐ khi gặp

khó khăn trong sản xuất kinh doanh), hạn chế, khắc phục tình trạng thất nghiệp

(thông qua chế độ TCTN, hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề) sẽ phải

được xem xét lại.

2.4.2. Nhu cầu của người dân về bảo hiểm thất nghiệp

Nhu cầu của người dân về BHTN cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến

thể chế QLNN về BHTN. Nếu nhu cầu về BHTN của người dân gia tăng thì phạm

vi áp dụng và hình thức tham gia BHTN, các bên đóng góp vào quỹ BHTN ... sẽ

phải được xem xét, cân nhắc, thay đổi cho phù hợp. Trong trường hợp cần thiết, có

thể sử dụng đa dạng các hình thức tham gia BHTN để đáp ứng nhu cầu về BHTN

cho người dân, huy động sự tham gia của chính người dân để đảm bảo năng lực tự

an sinh cho họ.

Ngược lại, nếu BHTN chưa thực sự hỗ trợ tốt cho NLĐ, bản thân NLĐ, người

dân không thấy được vai trò, tầm quan trọng của BHTN trong đảm bảo việc làm

cho chính họ, từ đó, không có nhu cầu về BHTN thì thể chế QLNN về BHTN phải

53

được xem xét, cân nhắc, điều chỉnh để BHTN trở thành một chính sách có ý nghĩa

nhân văn sâu sắc trong hệ thống các chính sách xã hội của quốc gia.

2.4.3 Trình độ phát triển thị trường lao động

BHTN là chính sách không những mang lại sự hỗ trợ trực tiếp, trước mắt bằng

tiền trợ cấp cho NLĐ mà còn mang lại cho họ các hỗ trợ gián tiếp, lâu dài thông qua

các biện pháp tư vấn, hỗ trợ việc làm, đào tạo nghề cho NLĐ mất việc.

TTLĐ, theo nghĩa rộng, là nơi cung và cầu lao động tác động qua lại với nhau,

nơi mua bán sức lao động diễn ra giữa NLĐ (cung lao động) và NSDLĐ (cầu lao

động); theo nghĩa hẹp, là nơi diễn ra sự trao đổi theo nguyên tắc thỏa thuận về quan

hệ lao động (việc làm, tiền công và các điều kiện làm việc khác) giữa NLĐ và

NSDLĐ bằng hình thức HĐLĐ.

Một quốc gia hay một địa phương có TTLĐ phát triển là nơi NLĐ có nhiều

khả năng tìm kiếm việc làm, cũng nhiều khả năng có nguy cơ thất nghiệp, tuy

nhiên, việc gắn kết cung- cầu lao động ở những quốc gia, địa phương này sẽ thuận

lợi hơn những nơi có TTLĐ chưa phát triển. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến

các quy định về nội dung, cách thức tổ chức công tác tư vấn, GTVL, đào tạo nghề

cho NLĐ mất việc làm của quốc gia, địa phương đó. Một quốc gia, địa phương có

TTLĐ phát triển còn là nơi hệ thống thông tin TTLĐ minh bạch, rõ ràng, nhờ đó

cung- cầu lao động được quản lý tốt, thông tin kịp thời. Điều này góp phần làm cho

thể chế QLNN về BHTN của quốc gia đó, địa phương đó đảm bảo tính công khai,

minh bạch hơn.

Ngược lại, quốc gia, địa phương nào có TTLĐ chậm phát triển thì thể chế

QLNN về BHTN ở nơi đó phải đảm trách nhiều trách nhiệm hơn trong nỗ lực hỗ trợ

NLĐ mất việc làm tái gia nhập TTLĐ.

2.4.4 Mức độ cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp

Cải cách hành chính được hiểu là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài và

có mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt Cải cách hành chính

nhằm thay đổi và làm hợp lý hóa các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước, với

mục đích tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả QLNN. Cải cách hành chính là xu

hướng tất yếu của các nền hành chính công trên thế giới. Cải cách hành chính trong

QLNN về BHTN cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Mức độ cải cách hành chính

54

trong QLNN về BHTN sẽ quyết định mức độ nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của bộ máy hành chính về BHTN nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý cụ thể của

quốc gia, địa phương trong từng giai đoạn phát triển.

Cải cách hành chính đã và đang làm biến đổi sâu sắc hoạt động QLNN trên

mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Với QLNN về BHTN, mức độ cải cách hành có ảnh

hưởng rất lớn đến quá trình quản lý, điều hành, buộc các quy định về cách thức tổ

chức bộ máy, bố trí nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho QLNN về BHTN cũng sẽ

khác.

Ngoài ra, mức độ cải cách hành chính sẽ ảnh hưởng đến các quy định về

phương thức QLNN về BHTN: theo xu hướng phát triển chung, các cơ quan QLNN

về BHTN sẽ phải xem xét việc ứng dụng công nghệ nhiều hơn trong quản lý, điều

hành, thu thập, phân tích, xử lý thông tin quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý;

quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân sự thực hiện QLNN về

BHTN phải được nghiên cứu, đổi mới hơn để trình độ của đội ngũ công chức ngày

càng nâng cao theo hướng thích nghi tốt hơn với những thay đổi nhanh chóng về

công nghệ…; các thủ tục hành chính về BHTN sẽ phải ngày càng tinh gọn hơn, đảm

bảo tính chính xác nhưng đồng thời giảm thời gian chờ đợi của đối tượng thụ

hưởng…

2.5 Quy định của luật pháp quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp

2.5.1 Các công ước, khuyến nghị liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp

thất nghiệp của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)

Từ khi ra đời (năm 1919) đến nay, ILO đã ban hành rất nhiều Công ước và

Khuyến nghị trong lĩnh vực việc làm và thất nghiệp (Công ước và Khuyến nghị về

Thất nghiệp, năm 1934; Khuyến nghị về Thất nghiệp (lao động trẻ), năm 1935;

Khuyến nghị về Đảm bảo thu nhập, năm 1944; Công ước về ASXH (những tiêu

chuẩn tối thiểu), năm 1952; Công ước và Khuyến nghị về chính sách việc làm,

năm1964; Công ước và Khuyến nghị về phát triển nguồn nhân lực, năm 1975;

Công ước và Khuyến nghị về Quản lý lao động, năm 1978; và Khuyến nghị về

Chính sách việc làm- những điều khoản bổ sung, năm 1984), trong đó có 3 Công

ước liên quan đến BHTN, TCTN sau đây:

+ Công ước C44: Unemployment Provision Convention (tạm dịch là: Công

55

ước Dự phòng thất nghiệp) được Hội nghị toàn thể của ILO kỳ họp thứ 18 thông

qua ngày 23/6/1934 tại Geneva. Công ước có 23 điều quy định cụ thể về đối tượng

áp dụng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng BHTN [126].

+ Công ước C102: Social Security ((Minimum Standards) Convention (tạm

dịch là: Công ước ASXH (những tiêu chuẩn tối thiểu)) được Hội nghị toàn thể của

ILO kỳ họp thứ 35 thông qua ngày 21/6/1952 tại Geneva. Công ước có 15 phần, 87

điều, trong đó phần IV quy định cụ thể về trợ cấp thất nghiệp với 5 điều, từ điều 19

đến điều 24 [127].

+ Công ước C168: Employment Promotion and Protection against

Unemployment Convention (tạm dịch là: Công ước Xúc tiến và Bảo vệ Việc làm

chống lại thất nghiệp) được Hội nghị toàn thể của ILO kỳ họp thứ 75 thông qua

ngày 21/6/1988 tại Geneva. Công ước có 39 điều bao gồm các quy định về các

trường hợp được bảo vệ [128].

Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách BHTN ở các quốc gia tham

gia phê chuẩn Công ước, trong đó có Việt Nam, đều phải dựa trên cơ sở những quy

định khung trong các Công ước này đồng thời có những điều chỉnh, thay đổi, mở

rộng sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, đặc thù của mỗi nước.

2.5.2 Nội dung cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp

- Về đối tượng được bảo vệ

Theo Công ước C44 [126], những người được bảo vệ (Điều 2) là những

NLĐ làm công ăn lương cho chủ sử dụng lao động. Ngoài ra, tùy theo điều kiện của

mình mà mỗi quốc gia có thể mở rộng đến các đối tượng như người giúp việc gia

đình, NLĐ làm việc tại nhà, công nhân viên chức nhà nước, NLĐ có thu nhập cao

có nhu cầu tham gia để tự phòng ngừa rủi ro mất việc, lao động theo mùa vụ, lao

động trẻ sắp đủ tuổi lao động, thành viên trong gia đình chủ sử dụng lao động,

người quá tuổi lao động; không áp dụng đối với thủy thủ, người làm ngư nghiệp,

nông nghiệp.

Theo Công ước C102 [127], những người được bảo vệ (điều 21) bao gồm:

những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất toàn bộ những người

làm công ăn lương hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống khi trường

hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định, hoặc bao gồm những người

làm công ăn lương mà tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn

56

lương làm việc trong các cơ sở công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.

Theo Công ước C168 [128], những người được bảo vệ (Điều 10) là những

người có khả năng lao động nhưng bị thất nghiệp toàn phần do không có việc làm

phù hợp dẫn đến mất nguồn sống. Ngoài ra, mỗi nước tham gia phê chuẩn công ước

phải cố gắng để mở rộng sự bảo vệ đối với một số trường hợp (mất tiền lương do

thất nghiệp từng phần vì nguyên nhân tạm thời giảm bớt công việc bình thường tại

nhà (thất nghiệp từng phần); bị đình chỉ hoặc giảm bớt thu nhập mà không có bất

cứ sự gián đoạn nào trong mối liên hệ với việc làm bởi các lý do như kinh tế, công

nghệ, cơ cấu, nhu cầu tự nhiên, …) và cố gắng trả thêm trợ cấp làm việc cho những

NLĐ làm việc không trọn giờ đang cố gắng tìm kiếm công việc trọn giờ, toàn thời

gian.

Như vậy, đối tượng chính được bảo vệ của BHTN là những người làm công

ăn lương, tuy nhiên, Công ước C168 khuyến khích các quốc gia tham gia phê chuẩn

công ước cố gắng ngày càng mở rộng đối tượng được bảo vệ nhiều hơn các đối

tượng được bảo vệ ban đầu, đến những người có khả năng lao động nhưng bị thất

nghiệp toàn phần.

- Về điều kiện hưởng

Công ước C44 quy định, muốn được hưởng BHTN, người thất nghiệp phải

đáp ứng các điều kiện sau: Có năng lực làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng hiện

tại không có việc làm, có đăng ký tìm việc tại một cơ quan có thẩm quyền do nhà

nước quản lý, có số BHTN để chứng nhận có tham gia BHTN trong thời kỳ dự bị,

trước đó không tự ý nghỉ việc vô cớ hoặc không bị sa thải, kỷ luật, có giấy chứng

nhận mức lương hoặc thu nhập trước khi bị thất nghiệp (trường hợp trả trợ cấp thất

nghiệp theo mức lương).

Công ước C102 quy định, các trường hợp được trợ cấp thất nghiệp là khi họ

rơi vào tình trạng gián đoạn thu nhập do không có khả năng để tìm một công việc

thích hợp, trong điều kiện họ có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc (điều 20).

Công ước C168 không quy định cụ thể điều kiện hưởng mà chỉ đưa ra những

chỉ dẫn về thời gian đóng góp: Nếu luật pháp của quốc gia quy định quyền nhận trợ

cấp thất nghiệp với điều kiện hoàn thành một thời gian làm việc, thời gian này

không được vượt quá mức cần thiết. Mỗi quốc gia phải cố gắng tính toán khoảng

thời gian làm việc cần thiết đối với từng nghề nghiệp của những NLĐ theo thời vụ.

57

Ngoài ra, Điều 20 và 21, quy định về việc từ chối, tạm ngừng hoặc giảm mức hưởng

nếu những người thất nghiệp không có mặt tại lãnh thổ quốc gia, đã tự nguyện nghỉ

việc; đã ngừng làm việc trong thời gian tranh chấp lao động; đã cố gắng để có được

hoặc đã thu được lợi ích bằng cách gian lận; đã từ chối một công việc thích hợp

hoặc đang nhận trợ cấp hỗ trợ thu nhập khác.

- Về thời gian hưởng

Theo Công ước C44, thời gian hưởng dài hay ngắn là phụ thuộc vào khả

năng tài chính của quỹ BHTN, thời gian này càng dài càng tốt nếu quỹ BHTN còn

khả năng chi trả và NLĐ còn cần được nhận trợ cấp BHTN.

Theo Công ước C102, trợ cấp phải được trả trong suốt thời gian trường hợp

bảo vệ xảy ra, được giới hạn: 13 tuần trong thời kỳ 12 tháng, nếu người được bảo vệ

là người làm công ăn lương và 26 tuần trong thời kỳ 12 tháng nếu người được bảo

vệ là người thường trú mà các phương tiện sinh sống trong trường hợp bảo vệ xảy

ra không vượt quá giới hạn quy định”.

Theo Công ước C168, “Trong trường hợp thất nghiệp hoàn toàn, giai đoạn

đầu của việc trả trợ cấp có thể được giới hạn đến 26 tuần cho mỗi kỳ thất nghiệp

hoặc đến 39 tuần trong mỗi giai đoạn thất nghiệp 24 tháng”.

- Về mức hưởng:

Điều 67 Công ước 102 quy định: số tiền trợ cấp cho người hưởng tiêu chuẩn

(người đàn ông có vợ và hai con) nên đạt ít nhất 45 phần trăm của tiền lương tham

khảo.

Khoản 1, Điều 15, Công ước 168 quy định: Mức hưởng phải đạt được 50%

thu nhập trước đó, hoặc được cố định không thấp hơn 50% của mức lương tối thiểu

hoặc mức lương trung bình, hoặc ở mức độ cung cấp những điều cần thiết tối thiểu

cho chi phí sinh hoạt cơ bản.

- Về hình thức và tỷ lệ đóng góp

+ Về hình thức đóng góp: Có thể chọn một trong hai cách: Đóng theo một

khoản cố định và hưởng theo một khoản cố định hoặc đóng theo mức lương và

hưởng theo mức lương.

+ Về tỷ lệ đóng góp: Có thể chọn một trong hai phương thức: Hai bên cùng

chia sẻ theo phương thức đóng góp đồng đều: NSDLĐ đóng đúng bằng NLĐ theo

tỷ lệ 1:1 hoặc NSDLĐ quan tâm nhiều hơn đến NLĐ theo phương thức đóng góp

58

NSDLĐ đóng nhiều hơn một tỷ lệ nhất định so với đóng góp của NLĐ.

- Về tổ chức quản lý bảo hiểm thất nghiệp

Điều 29 của Công ước 168 quy định: Việc quản lý phải có đại diện các bên:

Nếu việc quản lý được giao phó trực tiếp cho một cơ quan của Chính phủ chịu trách

nhiệm trước Quốc hội thì đại diện của người được bảo vệ và NSDLĐ sẽ được liên

kết lại trong một số tổ chức tư vấn theo những điều kiện đã được xác định. Nếu việc

quản lý không được giao phó cho một cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm

trước Quốc hội thì: Đại diện của những người được bảo vệ sẽ tham gia vào tổ chức,

quản lý hoặc được liên kết lại trong tổ chức có khả năng tư vấn theo những điều

kiện đã được xác định; có thể cho phép sự tham gia của các đại diện của NSDLĐ và

đại diện cơ quan có thẩm quyền.

Trên đây là những quy định của luật pháp quốc tế về những nội dung của

BHTN lồng ghép trong các quy định liên quan đến xúc tiến việc làm, ASXH. Trên

cơ sở này, các quốc gia thành viên xây dựng chính sách BHTN sao cho phù hợp với

điều kiện, hoàn cảnh, đặc thù của mình trên cơ sở vận dụng linh hoạt các quy định

khung của ILO: đối tượng được bảo vệ chính là những người làm công ăn lương, có

thể được mở rộng ra cho tất cả những người có khả năng lao động nhưng bị thất

nghiệp toàn phần; đối tượng được bảo vệ khi có đủ các điều kiện như: có năng lực

làm việc, hiện chưa có việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm, có đăng ký tìm

việc, … ; thời gian hưởng trợ cấp tùy theo khả năng chi trả của quỹ BHTN, có giới

hạn thời hạn hưởng tối thiểu hoặc tối đa để đảm bảo quyền lợi tối thiểu của người

thất nghiệp đủ điều kiện hưởng, đồng thời cũng để họ không ỷ lại vào chế độ…

2.6 Thể chế bảo hiểm thất nghiệp của một số nước trên thế giới và những giá

trị có thể vận dụng ở Việt Nam

2.6.1 Thể chế bảo hiểm thất nghiệp của một số nước trên thế giới

2.6.1.1 Các nước có nhiều thành công về bảo hiểm thất nghiệp

a. Thụy Sĩ

Thụy Sĩ là nơi lần đầu tiên trên thế giới quỹ BHTN ra đời dưới sự tổ chức của

chính quyền (tại Béc nơ, năm 1893) [136], [137]. Đây là một trong số các quốc gia

có chế độ ASXH tốt nhất thế giới. Chương trình BHTN hiện hành quy định tại Hiến

pháp Liên bang của Thụy Sĩ [123] được toàn dân phúc quyết thông qua ngày

28/11/2004, có hiệu lực từ ngày 01/01/2008.

59

BHTN ở Thụy Sĩ được tổ chức theo hệ thống ASXH, cùng với BHYT và các

lợi ích gia đình. BHTN được tổ chức ở hai cấp: Liên bang và Tiểu bang.

Các quy định cơ bản cụ thể như sau:

- Về đối tượng tham gia: tất cả NLĐ làm công ăn lương và những NLĐ tự do

có nhu cầu.

- Về hình thức tham gia: bắt buộc và tự nguyện.

- Về các bên đóng góp vào quỹ BHTN: Quỹ BHTN có sự tham gia đóng góp

của người tham gia BHTN, NSDLĐ, ngân sách liên bang và ngân sách các bang

(tổng cộng có 26 bang).

- Về mức đóng góp: Phí BHTN là 2,2% tiền lương (người tham gia đóng 1,1%

và NSDLĐ đóng 1,1%). Nếu tiền lương của NLĐ cao vượt quá một mức quy định

cụ thể thì họ phải đóng khoản phí gọi là phí bổ sung cho quỹ BHTN với mức là 1%

cho phần tiền lương vượt quá.

- Về mức hưởng TCTN: Mức hưởng TCTN ở Thụy Sĩ là rất cao, tối đa lên

đến 80% tiền lương làm căn cứ đóng góp phí BHTN. Nếu không có con cái phụ

thuộc, mức chi trả tối đa là 70% tiền lương.

- Về thời gian hưởng TCTN: Thời gian hưởng tối đa lên đến 24 tháng.

- Về tổ chức bộ máy quản lý BHTN: căn cứ quy định chung về BHTN và

chương trình BHTN tại Hiến pháp liên bang và Luật liên bang về BHTN, mỗi bang

tự quyết định tổ chức thực thi BHTN trong phạm vi bang mình. Mỗi bang có cách

thức tổ chức thực hiện khác nhau tương ứng với cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính

của bang và đặc thù của mỗi bang.

Để đảm bảo an toàn quỹ, hoạt động quản lý BHTN của Thụy Sĩ được tiến

hành rất chặt chẽ, tại những thời điểm khác nhau sẽ có những điều chỉnh khác nhau

về mức đóng góp và mức hưởng. Nếu tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mức quy định

(khoảng 3,5%) hoặc nợ BHTN vượt quá mức quy định (khoảng 2,5%) thì Quốc hội

sẽ tiến hành trưng cầu dân ý để đưa ra các biện pháp đặc biệt về BHTN trong một

khoảng thời gian nhất định (tạm thời) như tăng mức đóng góp và giảm mức hưởng

của một vài đối tượng cụ thể. Sau khi đảm bảo ổn định quỹ tài chính BHTN, các

quy định tạm thời sẽ hết hiệu lực.

b. Đan Mạch

Đan Mạch thực hiện chế độ BHTN cho NLĐ từ năm 1907. Trong một nghiên

60

cứu về các chương trình BHTN tại 30 quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất do Tạp

chí Forbes thực hiện, Đan Mạch là quốc gia đứng đầu khi xét đến mức chi trả

BHTN lên tới 90% của tiền công.

Các quy định cơ bản cụ thể như sau:

- Về đối tượng tham gia: tất cả NLĐ có việc làm và không có việc làm. Người

tự tạo việc làm, sinh viên mới tốt nghiệp, viên chức làm việc trong khu vực công,

các đại biểu dân cử đều có thể tham gia BHTN dưới hình thức tự nguyện.

- Về hình thức tham gia: tự nguyện. Những người không tham gia BHTN tự

nguyện có thể nhận trợ cấp xã hội riêng của Nhà nước.

- Về các bên đóng góp vào quỹ BHTN: có nhiều quỹ BHTN riêng biệt. Mỗi

quỹ BHTN tự quản lý chương trình của mình.

- Về mức đóng BHTN: NLĐ trả phí thành viên cho các chương trình BHTN

khác nhau do các công đoàn hỗ trợ, các quỹ BHTN riêng biệt sẽ thu phí BHTN; xử

lý hồ sơ bảo hiểm và chi trả quyền lợi BHTN. Chính phủ chỉ hỗ trợ một phần kinh

phí vào quỹ BHTN.

- Về mức hưởng TCTN: Số tiền TCTN được hưởng là 90% của thu nhập làm

cơ sở đóng BHTN trước đó sau khi trừ 8% đóng BHXH. Khi một NLĐ đã được

hưởng TCTN ở mức tối đa, thì người đó phải làm việc tối thiểu 26 tuần nữa mới áp

dụng đủ yêu cầu cho một thời gian bảo hiểm mới. Đối với người trên 60 tuổi, nếu

có 20 năm đóng BHTN có thể được về hưu sớm và nhận trợ cấp sau 2,5 năm. Đối

với người trên 63 tuổi được nhận mức TCTN tối đa cho đến khi 67 tuổi. Đối với

thanh niên, TCTN khoảng 410 USD/ 1 tuần cho người mới tham gia BHTN. Thời

gian chờ là 3 tuần đối với đối tượng tự tạo việc làm.

- Về thời gian hưởng TCTN: Thời gian được hưởng TCTN tối đa là 5 năm

(trước năm 1997 là 7 năm). NLĐ có thể nhận 2 năm tiền TCTN trong khoảng thời

gian là 3 năm; tuy nhiên tiền TCTN sẽ dừng khi NLĐ đủ 65 tuổi. Tiền trợ cấp có

thể trả cho 5 ngày/tuần nhưng mức tối đa là 3,760 DKK/ 1 tuần (tương đương 714

USD/1 tuần).

- Về điều kiện hưởng BHTN: Người thất nghiệp được hưởng BHTN khi tham

gia một chương trình BHTN được tài trợ bởi hệ thống công đoàn (NLĐ không nhất

thiết phải là thành viên của tổ chức công đoàn đó nhưng vẫn có thể tham gia).

Người thất nghiệp phải tham gia chương trình BHTN được ít nhất 1 năm, đóng đủ

61

BHTN đủ 52 tuần trong 3 năm trước đó và buộc phải có một chương trình phát triển

cá nhân được ít nhất 52 tuần. Thời gian làm việc tại các nước châu Âu đều có thể

được tính để được hưởng BHTN.

- Về tổ chức bộ máy quản lý BHTN: BHTN được quản lý không phải bởi các

cơ quan của Chính phủ Đan Mạch thực hiện, mà được thực hiện thông qua hệ thống

Ghent do hệ thống liên đoàn lao động chịu trách nhiệm chính.

c. Hoa Kỳ

BHTN của Hoa Kỳ được thực hiện từ năm 1935, được quy định trong Luật

Aan sinh xã hội [147], [133], [145]. Giống như của Thụy Sĩ, chương trình BHTN

gồm có hai hệ thống cấu thành: của Liên bang và của Tiểu bang. Liên bang quy

định những vấn đề chung có tính nguyên tắc về: đối tượng; khung mức đóng, mức

hưởng tối đa, thời gian hưởng tối đa, cơ sở đánh thuế, phân bổ quỹ, ngân sách cho

các chương trình của Liên bang và kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các Tiểu

bang. Trên cơ sở nội dung chính sách khung này, mỗi bang quy định về đối tượng

hưởng, mức hưởng, mức đóng, hình thức đóng; tổ chức thực hiện chi, trả; thủ tục

chi, trả; giải quyết khiếu nại của NLĐ, hướng dẫn, tổ chức thực hiện và quản lý

chương trình của bang mình sao cho phù hợp với đặc thù, điều kiện của mỗi bang.

Luật ASXH của Hoa Kỳ có 11 điều, trong đó điều III và IX quy định các nội dung

liên quan đến BHTN. Căn cứ vào Luật này, đến năm 1937, tất cả các bang của Hoa

Kỳ đều đã ban hành Luật riêng về BHTN thực hiện trong phạm vi mỗi bang được

Hội đồng ASXH thông qua.

Các quy định cơ bản cụ thể như sau:

- Về đối tượng tham gia: gồm NLĐ trong các doanh nghiệp công nghiệp và

thương mại; NLĐ trong các tổ chức phi lợi nhuận có từ 4 lao động trở lên hoặc thời

gian làm việc từ 20 tuần một năm trở lên; các doanh nghiệp trong ngành nông

nghiệp có sử dụng từ 10 lao động trở lên, thời gian làm việc 20 tuần một năm, quỹ

lương 20.000 USD mỗi quý; cán bộ công chức nhà nước cũng thuộc đối tượng tham

gia BHTN ở một số bang. Lao động tự do, lao động khoán việc, người giúp việc gia

đình, lao động thuộc các tổ chức tôn giáo không thuộc đối tượng tham gia.

- Về hình thức tham gia: bắt buộc.

- Về các bên đóng góp vào quỹ BHTN: đa số các bang đều chủ yếu lấy từ

nguồn thuế đánh vào NSDLĐ, chỉ có 3 bang (Alaska, New Jersey, Pensylvania) quy

62

định NLĐ đóng một phần, nhưng rất thấp (khoảng 0,3% tiền lương tháng) và đang

có xu hướng giảm.

- Về mức đóng BHTN: chỉ gồm hai phần thu từ NSDLĐ (NLĐ không phải

đóng góp): phần thứ nhất thu dựa vào lương cơ sở. Luật Liên bang quy định các

Bang thu một khoản thuế nhất định trên ít nhất là 7.000 USD đầu tiên trong thu

nhập của một NLĐ (thường được tính bằng 0,8% của 7.000 USD đầu tiên mà

NSDLĐ trả cho mỗi NLĐ một năm), phần thứ hai thu dựa vào khoản thuế đối với

từng NSDLĐ. NSDLĐ sa thải càng nhiều công nhân và càng có nhiều công nhân

sau khi bị sa thải nhận được TCTN thì NSDLĐ càng phải nộp nhiều thuế. Mức thu

BHTN từ nguồn thuế đánh vào NSDLĐ này được phân bổ vào hai nguồn: Quỹ

BHTN của Liên bang và Quỹ BHTN của tiểu bang. Số tiền thuế mà NSDLĐ đóng

sẽ chỉ nộp 10% cho Quỹ BHTN của Liên bang, 90% còn lại sẽ được đóng vào quỹ

của chính bang đó để giải quyết vấn đề thất nghiệp tại địa phương. Quỹ thất nghiệp

Liên bang sẽ chi cho các chi phí quản lý cấp Bang và Liên bang, và chi cho chương

trình TCTN mở rộng thường xuyên. Thuế nộp cho Bang được giữ trong Quỹ thất

nghiệp của Bang: Khoản này để chi trả cho các khoản trợ cấp và đóng góp một nửa

vào nguồn vốn cho chương trình TCTN mở rộng thường xuyên của Bang- Liên

bang.

- Về mức hưởng TCTN: Khoản TCTN trung bình là 258 USD/tuần, thay thế

được khoảng từ 25% đến 55% thu nhập của NLĐ trước khi mất việc (bình quân

thay thế khoảng 38% thu nhập bị mất).

- Về thời gian hưởng TCTN: Ở hầu hết các bang, người thất nghiệp nhận

được trợ cấp BHTN được chi trả trong khoảng từ 1 đến 39 tuần, thời gian hưởng

phổ biến nhất là 26 tuần cho chương trình BHTN thường xuyên. Ngoài ra, người

thất nghiệp có thể được hưởng thêm tối đa 20 tuần gia hạn trợ cấp trong chương

trình BHTN mở rộng nếu đáp ứng các điều kiện quy định cụ thể.

- Về điều kiện hưởng BHTN: Người thất nghiệp muốn nhận được BHTN thì

cần phải đạt được 4 điều kiện: Phải đăng ký thất nghiệp tại một văn phòng việc làm

công cộng; mất việc làm không phải do lỗi của mình; phải sẵn sàng và đủ khả năng

để tiếp tục một công việc mới và phải kiếm được ít nhất một khoản tiền nhất định

trong khoảng thời gian một năm liền trước khi thất nghiệp.

- Về tổ chức bộ máy quản lý BHTN: Bộ Lao động Hoa Kỳ có trách nhiệm

63

xem xét nếu các chương trình BHTN Nhà nước phù hợp với yêu cầu của liên bang.

Cơ quan này thực hiện việc kiểm tra hàng năm đối với các chương trình của các

bang sao cho phù hợp với yêu cầu của liên bang, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các

cơ quan nhà nước và phục vụ như là một trung tâm dữ liệu thống kê. Mỗi bang tổ

chức bộ máy thực hiện BHTN là khác nhau, đa số thông qua các văn phòng việc

làm công cộng là nơi NLĐ thất nghiệp đăng ký hưởng BHTN. Thu BHTN là do cơ

quan thuế đảm nhiệm.

Ngoài chương trình BHTN thông thường, Hoa Kỳ còn có thêm các chương

trình TCTN mở rộng, gồm: Chương trình TEUC (TCTN khẩn cấp tạm thời của liên

bang) cung cấp thêm 13 tuần trợ cấp cho người thất nghiệp ở tất cả các bang và 26

tuần cho các bang đạt được các tiêu chuẩn nhất định về tỷ lệ thất nghiệp; Chương

trình TCTN mở rộng thường xuyên của Bang-liên bang: cung cấp thêm 13 tuần trợ

cấp cho những người thất nghiệp đã sử dụng hết số tiền trợ cấp nhận được trong 26

tuần nếu đạt được một số điều kiện nhất định, nguồn vốn cho chương trình này một

nửa là từ Liên bang, một nửa là do các bang đóng góp. Các Bang muốn nhận được trợ

cấp từ chương trình này cần phải đạt đủ điều kiện của Liên bang và Trợ cấp thêm của

bang: một số bang dùng nguồn quỹ của mình để trợ cấp thêm cho những người thất

nghiệp đã chi dùng hết số tiền trợ cấp nhận đươc trong các chương trình trên.

d. Canada

Canada thực hiện chế độ BHTN cho NLĐ từ năm 1940 theo Luật An sinh xã

hội [148], [124], từ năm 1996, BHTN được đổi tên là bảo hiểm việc làm.

Các quy định cơ bản cụ thể như sau:

- Về đối tượng tham gia: mọi NLĐ làm việc cho NSDLĐ mỗi tuần ít nhất 15

giờ một tuần đều được tham gia BHTN. NLĐ tự tạo việc làm, công chức, quân nhân

cũng được tham gia BHTN, còn các đại biểu dân cử thì không.

- Về hình thức tham gia: bắt buộc.

- Về các bên đóng góp vào quỹ BHTN: Từ năm 1990 đến nay, Quỹ bảo hiểm

việc làm hoàn toàn do NLĐ và NSDLĐ đóng góp, không có sự hỗ trợ của Chính

phủ.

- Về mức đóng BHTN: Mức đóng BHTN được Bộ Phát triển Xã hội và Việc

làm xem xét điều chỉnh hàng năm trên cơ sở báo cáo phân tích của Phòng Phân tích

thông tin thuộc Bộ. Hiện nay, mức đóng của NLĐ là 1,737$ cho mỗi 100$ thu nhập,

64

mức đóng tối đa là 747$/năm. Mức đóng của NSDLĐ là 2,42$ cho mỗi 100$ tiền

lương chi trả cho NLĐ, tối đa 1045$/năm. NSDLĐ đóng cao hơn khoảng 1,4 lần so

với NLĐ.

- Về mức hưởng TCTN: Mức TCTN bằng 55% thu nhập bình quân hằng tuần

tính theo mức thu nhập của tuần làm việc cuối cùng và tối đa là 457$/tuần. Đối với

người có thu nhập thấp (dưới 25,921$/tuần) thì mức trợ cấp tăng lên là 80% mức

thu nhập tuần. Từ ngày 01/01/2011 mức thu nhập tối đa để đóng BHTN là 44.200$,

tương ứng với mức bảo hiểm tối đa là 468$ một tuần. TCTN ở Canada còn bao gồm

thêm 3 loại trợ cấp khác: trợ cấp thai sản: tối đa 15 tuần, trợ cấp ốm đau: tối đa 15

tuần và trợ cấp nghỉ chăm sóc người thân ốm: tối đa 6 tuần.

- Về thời gian hưởng TCTN: theo quy định của Luật là 14- 45 tuần tùy theo số

giờ làm việc và tỷ lệ thất nghiệp khu vực, có thể tăng lên tối đa 50 tuần vào thời kỳ

suy thoái kinh tế. Cứ 1% tỷ lệ thất nghiệp tăng thêm thì quy định về giờ làm việc sẽ

giảm đi và thời gian được hưởng TCTN của người mất việc sẽ tăng thêm mỗi 2 tuần.

- Về điều kiện hưởng BHTN: người mất việc làm phải có thời gian làm việc

toàn thời gian trước khi thất nghiệp, bình quân khoảng từ 420 giờ đến 700 giờ trong

vòng một năm liền kề trước khi thất nghiệp, một số trường hợp cần đến 910 giờ một

năm; thất nghiệp là không tự nguyện, không do chủ ý của người thất nghiệp, có ít

nhất 7 ngày liên tục không có việc làm, không có thu nhập; phải tích cực tìm việc

làm, sẵn sàng và có thể làm việc ngay khi được các cơ quan có trách nhiệm giới

thiệu.

- Về tổ chức bộ máy quản lý BHTN: Hệ thống Bảo hiểm việc làm ở Canada

được tổ chức theo ngành dọc từ TW xuống địa phương gồm 3 cấp: Cấp liên bang;

cấp khu vực (gồm có 4 khu vực chịu trách nhiệm phụ trách toàn quốc) và cấp địa

phương (gồm có 600 cơ quan Dịch vụ Lao động với 16.000 nhân viên, quản lý đồng

thời Quỹ Bảo hiểm việc làm và hai quỹ khác: Quỹ an sinh tuổi già và Quỹ hưu trí.

Việc thu phí BHTN do Tổng cục Thu thuế Canada chịu trách nhiệm, sau đó sẽ

chuyển số tiền bảo hiểm thu được vào một tài khoản đặc biệt hợp nhất với các tài

khoản của Chính phủ Canada. Bộ Phát triển Xã hội và Việc làm là cơ quan hoạch

định chính sách, quy định các mức thu, mức chi trả của từng đối tượng tham gia

BHTN. Việc QLNN về chế độ BHTN, bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, NSDLĐ, xử lý

tranh chấp (nếu có) do Hội đồng BHTN quốc gia Canada, gồm đại diện các bên

65

tham gia đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, trong đó có 1 đại diện cho NLĐ, 1 đại

diện cho NSDLĐ và 2 thứ trưởng Bộ Phát triển Xã hội và Việc làm Canada.

2.6.1.2 Các nước đã thực hiện bảo hiểm thất nghiệp có điều kiện tương đồng

với Việt Nam

a. Trung Quốc

Trung Quốc thực hiện chế độ BHTN cho NLĐ từ năm 1986. Hiện nay chế độ

BHTN được thực hiện theo quy định hiện hành tại Điều lệ BHTN ban hành năm

1999 [141], [57].

Các quy định cơ bản cụ thể như sau:

- Về đối tượng tham gia: Năm 1986 đối tượng BHTN là những NLĐ mới

được tuyển dụng vào các doanh nghiệp nhà nước ở một số ngành, lĩnh vực cụ thể.

Năm 1993 đối tượng tham gia được mở rộng đến NLĐ ở các ngành, lĩnh vực khác

trong các doanh nghiệp nhà nước mà trước đây chưa có. Từ năm 1999 đến nay, chế

độ BHTN được áp dụng cho tất cả NLĐ ở thành thị gồm: NLĐ làm việc trong các

doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân ở các thành phố và thị trấn; NLĐ làm

việc trong các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp khác và nông dân làm

hợp đồng trong các doanh nghiệp và cơ quan, kể cả NLĐ làm việc trong các tổ chức

xã hội hoặc các đơn vị do cộng đồng điều hành.

- Về hình thức tham gia: bắt buộc.

- Về các bên đóng góp vào quỹ BHTN: Quỹ BHTN hiện có sự tham gia đóng

góp của NSDLĐ và NLĐ. Ngoài sự đóng góp này, nguồn thu của quỹ còn có từ sự

hỗ trợ của nhà nước, tiền lãi đầu tư quỹ và các nguồn quỹ khác. Một số tỉnh và khu

tự trị được phép thành lập các nguồn quỹ điều tiết lại để hỗ trợ cho quỹ BHTN nếu

như quỹ BHTN còn ít hơn mức quy định của nhà nước.

- Về mức đóng BHTN: Năm 1986: doanh nghiệp đóng 1% tiền lương cơ bản

cho quỹ BHTN, NLĐ không phải đóng góp. Năm 1993: mức đóng góp của doanh

nghiệp được sửa đổi là 1% tổng tiền lương, NLĐ cũng không phải đóng góp. Vào

năm 1998, lần đầu tiên NLĐ được yêu cầu tham gia đóng góp vào quỹ BHTN với

mức đóng là đóng 1% tiền lương; mức đóng đối với doanh nghiệp là 2%. Từ năm

1999 đến nay: NLĐ đóng 1% tiền lương; doanh nghiệp đóng 2% quỹ tiền lương.

Nông dân làm việc theo HĐLĐ trong các doanh nghiệp không phải đóng góp.

- Về mức hưởng TCTN: không phụ thuộc vào tỷ lệ đóng góp trước đó. Năm

66

1986, TCTN dựa trên tiền lương tháng bình quân của hai năm trước đó và được chi

trả cho đến 12 hoặc 24 tháng nếu đã có thời gian làm việc trên 5 năm (gắn với thu

nhập của NLĐ). Năm 1993, mức hưởng trợ cấp được quy định dựa trên mức chuẩn

là mức cứu trợ xã hội của nhà nước (khoảng từ 120% đến 150%). Từ năm 1999 đến

nay, tỷ lệ hưởng trợ cấp BHTN được chính quyền địa phương quy định, cao hơn

tiêu chuẩn bảo trợ của địa phương và thấp hơn mức tiền lương tối thiểu ở địa

phương. Bên cạnh khoản trợ cấp BHTN, NLĐ thất nghiệp được hỗ trợ chi phí

GTVL và chi phí đào tạo nghề. Ngoài ra, nếu NLĐ đang hưởng BHTN bị chết, họ

sẽ được hưởng trợ cấp y tế và trợ cấp tuất một lần.

- Về thời gian hưởng TCTN: Nếu NLĐ có từ 1 năm đến dưới 5 năm đóng

BHTN: thời gian chi trả trợ cấp BHTN tối đa là 12 tháng. Nếu NLĐ có từ 5 năm

đến dưới 10 năm đóng BHTN: thời gian chi trả trợ cấp BHTN tối đa là 18 tháng.

Nếu NLĐ có từ 10 năm đóng BHTN trở lên: thời gian chi trả trợ cấp BHTN tối đa

là 24 tháng.

- Về điều kiện hưởng BHTN: Năm 1986, những người được hưởng trợ cấp

BHTN khi họ là NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước bị tuyên bố phá

sản hoặc trên bờ vực phá sản; NLĐ bị sa thải hoặc những người mà HĐLĐ của họ

đã chấm dứt. Từ năm 1999 đến nay: Để được hưởng BHTN, NLĐ phải đáp ứng các

yêu cầu sau: có đăng ký thất nghiệp và đang tìm việc làm; có thời gian đóng BHTN

tối thiểu 12 tháng và là thất nghiệp không tự nguyện.

- Tổ chức bộ máy quản lý BHTN: Bộ máy QLNN về BHTN ở Trung Quốc

được giao cho cơ quan QLNN về lao động thực hiện thông qua đại lý của các công

ty dịch vụ lao động ở địa phương.

b. Thái Lan

Chế độ BHTN được thực hiện tại Thái Lan từ ngày 01/01/2004 theo quy định

của Luật An sinh xã hội sửa đổi được Quốc hội thông qua ngày 26/8/2003 [154].

Với nỗ lực này, Thái Lan là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á thực hiện chế độ

BHTN cho NLĐ với mục đích là để hỗ trợ cho người tham gia BHTN trong tình

trạng thất nghiệp một khoản tài chính bằng tiền mặt, DVVL và dịch vụ phát triển kỹ

năng để tìm kiếm việc làm càng sớm càng tốt. Ngoài ra, trong khủng hoảng kinh tế,

BHTN tại Thái Lan còn đóng vai trò như một công cụ để xóa đói giảm nghèo.

Các quy định cơ bản cụ thể như sau:

67

- Về đối tượng tham gia: Tất cả NLĐ làm việc thường xuyên ở khu vực tư

nhân được tham gia bảo hiểm và lao động nhập cư có giấy phép lưu trú để làm việc

tại Thái Lan. Không áp dụng BHTN đối với nông dân, NLĐ trong khu vực công và

các công ty có trước năm 2004 với “kế hoạch phúc lợi nhân viên cao cấp" (thông

qua miễn trừ đặc biệt). Công chức và NLĐ của doanh nghiệp nhà nước được bảo

hiểm theo một chương trình lợi ích riêng biệt.

- Về hình thức tham gia: bắt buộc.

- Về các bên đóng góp vào quỹ BHTN: Quỹ BHTN có sự tham gia của NLĐ,

NSDLĐ và Chính phủ.

- Về mức đóng BHTN: NSDLĐ và NLĐ mỗi bên đóng góp 0,5 % thu nhập

của NLĐ và Chính phủ đóng góp 0,25% thu nhập của NLĐ. Mức thu nhập hàng

tháng tối đa để tính đóng BHTN là 15.000 baht, tương ứng với mức đóng góp tối đa

hàng tháng từ mỗi NLĐ và NSDLĐ là 75 baht.

- Về mức hưởng và thời gian hưởng TCTN: NLĐ thất nghiệp, người bị sa

thải không phải do lỗi của họ sẽ nhận được 50 % thu nhập tối đa lên đến 6 tháng; tỷ

lệ này dựa trên bình quân thu nhập cao nhất của NLĐ trong vòng ba tháng của chín

tháng cuối cùng trước khi mất việc làm. NLĐ thất nghiệp tự nguyện chỉ nhận được

30% thu nhập trong thời gian 3 tháng. Đối với cả hai nhóm, mức hưởng tối đa là

250 baht/ngày. Trong 7 ngày thất nghiệp đầu tiên, NLĐ không được chi trả TCTN.

- Về điều kiện hưởng BHTN: Để hội đủ điều kiện để TCTN, việc chấm dứt

việc làm của NLĐ không phải là kết quả của một sự vi phạm công việc, vi phạm

hình sự nghiêm trọng chống lại NSDLĐ hoặc pháp luật gây thiệt hại nghiêm trọng

đến NSDLĐ hoặc bị phạt tù. NLĐ phải có ít nhất 6 tháng đóng góp trong vòng 15

tháng trước khi chấm dứt công việc và phải đăng ký với Văn phòng DVVL công

cộng. Để tiếp tục nhận trợ cấp BHTN trong thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp

phải sẵn sàng làm việc và không được từ chối tham gia bất cứ chương trình phát

triển nghề nghiệp hoặc công việc nào.

- Tổ chức bộ máy quản lý BHTN: Chịu trách nhiệm chính là Bộ Lao động

Thái Lan, thông qua hệ các cơ quan giúp việc: Cục Việc làm (DOE) xây dựng và

ban hành chính sách, quy trình liên quan đến việc thực hiện BHTN; Văn phòng

ASXH (SSO) với trách nhiệm thu các khoản đóng góp, tổ chức tiếp nhận, chi trả

BHTN, phỏng vấn người thất nghiệp và cung cấp tư vấn và GTVL theo năng lực

68

của họ, phối hợp với Cục Phát triển Kỹ năng (DSD) để thực hiện đào tạo kỹ năng

cho người thất nghiệp có nhu cầu; phối hợp với Cục Bảo vệ lao động và phúc lợi

(DLPW) thu thập thông tin về tình hình lao động thất nghiệp của NSDLĐ.

2.6.2 Những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam

Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Canada là những quốc gia có nền kinh tế phát

triển, có lịch sử hình thành và phát triển hệ thống chính sách BHTN từ rất sớm đồng

thời là các quốc gia khá thành công với hệ thống ASXH phát triển, chăm lo tốt cho

đời sống của người dân. Trải qua thời gian, hệ thống BHTN của họ ngày càng được

hoàn thiện và ổn định, mang đến nhiều lợi ích và sự hỗ trợ cần thiết cho người thất

nghiệp. Bên cạnh đó, Trung Quốc, Thái Lan là những quốc gia láng giềng, có nhiều

đặc điểm tương đồng, đã có bước đi trước trong quá trình thực hiện BHTN và cũng

đã có nhiều thành công nhất định trong thực hiện BHTN.

Là nước đi sau trong thực hiện chính sách BHTN, việc xem xét và học hỏi

kinh nghiệm về tổ chức thực hiện, quản lý BHTN ở các nước này là vấn đề hết sức

cần thiết đối với Việt Nam.

Nghiên cứu về BHTN và QLNN về BHTN của 6 quốc gia ở trên, có thể thấy

rằng, tùy vào đặc điểm, tình hình của từng nước mà BHTN có những nét đặc thù

riêng. Nhưng các quốc gia này đều có những thành công nhất định trong quá trình

quản lý, thực hiện BHTN, hỗ trợ đắc lực cho NLĐ, người thất nghiệp trong tình

trạng thất nghiệp, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục rủi ro do tình trạng thất nghiệp

gây nên, góp phần đảm bảo đời sống cho người thất nghiệp, đảm bảo ASXH, ổn

định vĩ mô nền kinh tế; đồng thời, họ vẫn đang tích cực, nỗ lực tìm kiếm có các biện

pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý trong tương lai.

Ở Thụy Sĩ: Hệ thống BHTN được tổ chức linh hoạt ở cấp tiểu bang trên cơ sở

quy định khung của cấp liên bang giúp phát huy tính đặc thù, phù hợp với điều kiện

của mỗi địa phương mà vẫn đảm bảo được sự nhất quán của toàn hệ thống. Hình

thức tham gia vừa bắt buộc vừa tự nguyện, phát huy được quyền và sự chủ động của

người dân đối với việc phòng ngừa rủi ro về việc làm. Mức hưởng cao. Có những

chính sách linh hoạt và giải pháp quản lý thắt chặt khi có nguy cơ mất an toàn quỹ,

tỷ lệ nợ đọng cao, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Ngoài ra, có tính toán đến các chương

trình trợ cấp xã hội khác ngoài BHTN cho một số đối tượng người thất nghiệp đặc

thù.

69

Ở Đan Mạch: Điểm mạnh của mô hình BHTN ở Đan Mạch là việc quy định

hình thức tham gia BHTN là tự nguyện, mọi NLĐ đều có quyền tham gia BHTN

nếu có nhu cầu. Các quỹ BHTN tự thực hiện việc kiểm soát thu chi quỹ, tự xét

duyệt và thanh toán tiền TCTN, đó là một cơ chế hiệu quả và tập trung. Liên đoàn

lao động chịu trách nhiệm chính, NLĐ có quyền lựa chọn tham gia các chương trình

BHTN khác nhau.

Ở Hoa Kỳ: Hệ thống BHTN ở Hoa Kỳ được tổ chức linh hoạt ở cấp tiểu bang

(giống Thụy Sĩ) trên cơ sở quy định khung của cấp liên bang giúp phát huy tính đặc

thù, phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương mà vẫn đảm bảo được sự nhất quán

của toàn hệ thống. Ngoài ra, Hoa Kỳ có chương trình TCTN mở rộng ngoài TCTN

cho một số đối tượng người thất nghiệp đặc thù, đảm bảo nhiều quyền lợi hơn cho

người thất nghiệp.

Ở Canada: Canada quy định mức đóng góp của NSDLĐ cao hơn NLĐ (giống

Trung Quốc), cho thấy trách nhiệm của NSDLĐ trong đảm bảo việc làm cho NLĐ là

rất lớn. Có sự quan tâm đến hai nhóm đối tượng đặc thù gặp khó khăn trong tìm việc

làm và ổn định đời sống, là người khuyết tật và người mới nhập cư. Việc tổ chức bộ

máy quản lý thông qua Hội đồng BHTN quốc gia đảm bảo tính chỉ đạo thông suốt

trong toàn hệ thống. Việc tổ chức đánh giá định kỳ (hàng năm và mỗi 10 năm) được

giao cho Phòng Phân tích thông tin thực hiện một cách khoa học, bao quát, đầy đủ, có

luận cứ, số liệu cụ thể, có sự tham gia của đại diện NSDLĐ và NLĐ, có sự phân biệt

vùng, miền, ngành nghề, chỉ ra nguyên nhân thất nghiệp trong từng thời kỳ ... tạo một

cơ sở dữ liệu khoa học, đáng tin cậy làm cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách, điều

chỉnh mức đóng góp phù hợp trong từng thời kỳ. Tên gọi "Bảo hiểm việc làm" phản

ánh đúng bản chất của chính sách hơn tên gọi "Bảo hiểm thất nghiệp".

Ở Trung Quốc: Trung Quốc có các nguồn quỹ điều tiết lại để hỗ trợ cho quỹ

BHTN nhằm giảm nguy cơ mất an toàn quỹ BHTN. Quyền lợi NLĐ được quan tâm,

đặc biệt là nông dân làm việc theo hợp đồng trong các doanh nghiệp và cơ quan,

thông qua việc quy định mức đóng góp khác nhau ít hơn (hoặc không đóng góp) so

với mức đóng góp của NSDLĐ, điều đó cho thấy nhận thức cao của Chính phủ và xã

hội Trung Quốc về trách nhiệm của NSDLĐ trong đảm bảo việc làm cho NLĐ. NLĐ

đang hưởng BHTN bị chết, họ sẽ được hưởng trợ cấp y tế và trợ cấp tuất một lần

cũng là vấn đề hết sức quan tâm của Chính phủ đến quyền lợi của người tham gia

70

BHTN.

Ở Thái Lan: Tính an toàn quỹ được ưu tiên hàng đầu, có sự linh hoạt về chính

sách để ứng phó với các giai đoạn khủng hoảng, bất ổn chính trị, thiên tai ... làm

tăng đáng kể số lượng người thất nghiệp. Khả năng tự lực của NLĐ được thúc đẩy

bằng cách mở rộng quyền truy cập vào các hệ thống ASXH thông qua các khoản

đóng góp tự nguyện. Có sự xem xét, cân nhắc đặc biệt tới sự khác biệt giữa lao

động nữ và nam giới và sự cân nhắc đối với lao động là người khuyết tật.

Qua nghiên cứu, có thể rút ra một số kinh nghiệm có thể vận dụng vào điều

kiện của Việt Nam để hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN trong thời gian đến. Cụ

thể:

Thứ nhất, đối tượng tham gia BHTN có xu hướng mở rộng đến càng nhiều

NLĐ càng tốt, Chính phủ các nước khuyến khích và tạo cơ hội cho những NLĐ tự

do, người thất nghiệp được tham gia BHTN theo nhu cầu.

Ở Việt Nam hiện nay, chỉ có NLĐ làm công ăn lương ký HĐLĐ từ đủ 3 tháng

trở lên mới thuộc diện tham gia BHTN. Nếu vận dụng kinh nghiệm này vào điều

kiện của Việt Nam, nhiều NLĐ sẽ được tiếp cận với chính sách hơn, từ đó mở rộng

độ bao phủ của BHTN, giúp lan tỏa mức độ chia sẻ rủi ro của BHTN đến nhiều đối

tượng NLĐ.

Thứ hai, hình thức tham gia BHTN là bắt buộc, tự nguyện, hoặc cả bắt buộc

và tự nguyện. Với mô hình vừa bắt buộc vừa tự nguyện như ở Thụy Sĩ cho phép

người dân có quyền được tiếp cận với BHTN một cách chủ động.

Việt Nam chỉ áp dụng hình thức tham gia BHTN bắt buộc. Trên thực tế, nhiều

trường hợp NLĐ thuộc diện lao động tự do, lao động khu vực phi chính thức ở Việt

Nam lại có nhu cầu và mong muốn được tham gia BHTN. Nếu ứng dụng các hình

thức thực hiện BHTN linh hoạt ở Việt Nam, sẽ đáp ứng được nhu cầu tham gia

BHTN của NLĐ, giúp nâng cao năng lực tự an sinh của những NLĐ có điều kiện và

nhu cầu.

Thứ ba, quy định về mô hình tổ chức bộ máy quản lý BHTN là linh hoạt

nhưng chặt chẽ. Mỗi nước có mỗi cách thức tổ chức khác nhau, mô hình khác nhau,

nhưng điểm chung là các quốc gia đều có sự phân cấp mạnh mẽ cho địa phương

trong tổ chức thực thi BHTN, nhờ đó, phát huy được tính chủ động, linh hoạt, năng

động của mỗi địa phương. Ở cấp TW, chỉ quy định các điều kiện khung, mang tính

71

giới hạn, không tập trung vào những vấn đề cụ thể mà chủ yếu là hoạt động kiểm

tra, thanh tra, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh chính sách.

Ở Việt Nam, quy định về mô hình QLNN về BHTN hiện nay tập trung đầu

mối ở trung ương (Bộ LĐ-TB&XH) với sự phối hợp chặt chẽ từ các địa phương.

Tuy nhiên, các địa phương đều được áp dụng cơ chế như nhau, chưa tính đến đặc

thù của mỗi địa phương về lao động, việc làm, thất nghiệp, ngân sách, … Nếu áp

dụng kinh nghiệm ở các nước vào Việt Nam, sẽ tạo điều kiện cho các địa phương

được chủ động hơn, được phân cấp nhiều hơn trong quản lý, thực hiện BHTN; đồng

thời, các cơ quan QLNN về BHTN ở Trung ương sẽ tập trung nhiều hơn vào quá

trình kiểm soát quá trình quản lý, thực hiện BHTN ở các địa phương.

Thứ tư, nội dung chính sách BHTN có xem xét đến các nhóm đặc thù (người

khuyết tật, người mới nhập cư, người mới ra trường, NLĐ lớn tuổi, ...) và bình đẳng

giới, từ đó có các biện pháp hỗ trợ đặc biệt cho các đối tượng này.

Ở Việt Nam, nội dung chính sách BHTN chưa xem xét đến các nhóm NLĐ

đặc thù này. Áp dụng kinh nghiệm này vào QLNN về BHTN sẽ giúp nâng cao tính

công bằng xã hội, tính nhân văn của chế độ BHTN, đồng thời đảm bảo tính phù

hợp, đồng bộ với thể chế QLNN ở các ngành, lĩnh vực khác.

Thứ năm, các quốc gia đều có những điều chỉnh về chính sách một cách linh

hoạt như là các biện pháp can thiệp để đảm bảo cơ cấu thu- chi, an toàn quỹ kịp thời

trong từng thời kỳ khác nhau, thể hiện sự linh hoạt của chính sách, đảm bảo tính bền

vững của chế độ BHTN.

Ở Việt Nam từ khi triển khai đến nay, quy định thu- chi BHTN là ổn định,

không có sự xáo trộn, thay đổi; quỹ BHTN luôn ở trạng thái an toàn. Học hỏi kinh

nghiệm này, là sự chuẩn bị cho những tình huống khác nhau của quỹ BHTN ở Việt

Nam trong tương lai, để chủ động có sự điều chỉnh linh hoạt ứng với tình trạng quỹ

BHTN, cũng là để có sự chủ động trong ứng phó với những tác động tiêu cực của

bối cảnh trong nước và quốc tế, nhất là tác động của cuộc cách mạng công nghiệp

lần thứ tư, đến mọi mặt đời sống xã hội nói chung, lĩnh vực lao động, việc làm, thất

nghiệp nói riêng, trong đó có bảo hiểm thất nghiệp.

Cuối cùng, BHTN ở các nước đều có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách

BHTN với chính sách việc làm, đào tạo nghề, thông tin TTLĐ, nhờ đó hỗ trợ tốt

cho người thất nghiệp trong việc tìm kiếm việc làm để nhanh chóng gia nhập, tái gia

72

nhập TTLĐ- mục tiêu quan trọng và lâu dài nhất của BHTN.

Ở Việt Nam, BHTN cũng có sự kết hợp rất chặt chẽ giữa chính sách việc làm,

đào tạo nghề, thông tin TTLĐ nhưng hiệu quả của chế độ đào tạo nghề chưa cao,

chưa thu hút sự quan tâm của NLĐ. Học hỏi kinh nghiệm của các nước trong quản

lý, thực hiện các chế độ BHTN sẽ giúp NLĐ có sự hỗ trợ tốt hơn, lâu dài hơn, cũng

là cách để giúp nâng cao hiệu quả quản lý chính sách BHTN.

Kết luận chương 2

Dựa trên nền tảng khoa học quản lý công, đồng thời kế thừa và phát triển cơ

sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp đã có, thực tiễn

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước, ở chương 2, tác giả đã

nghiên cứu, hệ thống cơ sở khoa học về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp với các vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở khoa học tổ chức nghiên cứu

để tài luận án "Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam",

gồm:

1. Nghiên cứu, hệ thống cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước về bảo

hiểm thất nghiệp với 4 nội dung: một số khái niệm cơ bản, nội dung cơ bản, vai trò

của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh

hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, ba nội

dung quan trọng nhất là: Thứ nhất, đưa ra quan niệm về bảo hiểm thất nghiệp, quản

lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp theo hướng tiếp cận của khoa học quản lý công. Thứ hai, xây dựng 7 nội

dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp làm cơ sở để

nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đưa ra các quan điểm, giải pháp hoàn thiện quản

lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Các nội dung mô tả và đánh giá

đều xuyên suốt và lôgic giữa các chương dựa trên các nội dung cơ bản này. Thứ ba,

đưa ra các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp làm cơ sở để phân tích những tác động của các nhân tố này đến thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp trong tương lai ở chương 4, từ đó, đưa ra

quan điểm và đề xuất hệ thống giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp.

2. Nghiên cứu, hệ thống cơ sở thực tiễn thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp từ các quy định khung của ILO về bảo hiểm thất nghiệp làm cơ sở để

73

đánh giá sự phù hợp của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam với các quy định của luật pháp quốc tế và từ kinh nghiệm của các quốc gia có

nhiều thành công về bảo hiểm thất nghiệp (Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Canada)

và kinh nghiệm của một số quốc gia có điều kiện tương đồng với Việt Nam (Trung

Quốc, Thái Lan) làm cơ sở nghiên cứu rút ra những bài học kinh nghiệm có thể vận

dụng để hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

74

trong thời gian đến.

Chương 3

THỰC TRẠNG THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1 Thực trạng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

3.1.1 Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2003- 2017

3.1.1.1 Giai đoạn 2003-2008 (trước khi có bảo hiểm thất nghiệp)

Tỷ lệ thất nghiệp và số người thất nghiệp giai đoạn 2003-2008 được miêu tả ở

bảng 3.1 sau đây.

Bảng 3.1 Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động và số người thất nghiệp

ở Việt Nam giai đoạn 2003-2008

Năm Số người thất nghiệp (người)

2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tỷ lệ thất nghiệp (%) Thành thị 5,78 5,60 5,31 4,82 4,64 4,65 Nông thôn 1,20 1,10 1,10 1,30 1,65 1,53 Chung 2,25 2,14 2,14 2,19 2,52 2,38 941.551 920.390 960.956 1.012.628 1.188.440 1.147.388 (Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Trong 6 năm (2003-2008), tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam có sự biến động

không lớn, dao động từ 2,14% đến 2,52%. Bình quân cả giai đoạn 2003-2008, mỗi

năm, tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 2,27%, trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực

thành thị khoảng 5,13% và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn khoảng 1,31%.

Về số người thất nghiệp, bình quân cả giai đoạn 2003- 2008, mỗi năm có

khoảng 1.028.559 người thất nghiệp.

3.1.1.2 Giai đoạn 2009-2017 (sau khi có bảo hiểm thất nghiệp)

Năm 2009 và 2010, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính

toàn cầu, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam có xu hướng tăng cao hơn giai đoạn 2003-

2008, nhưng chủ yếu ở khu vực nông thôn, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị vẫn

giữ ở mức thấp hơn, năm sau thấp hơn năm trước. Số người thất nghiệp vào khoảng

hơn 1,4 triệu người mỗi năm (bảng 3.2).

Giai đoạn 2011- 2017, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (dao động từ 3,18%

đến 3,60%) thấp hơn giai đoạn 2003- 2008 (dao động từ 4,64% đến 5,78%), trong

75

khi đó, tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn (dao động từ 1,39% đến 1,86%) lại cao

hơn giai đoạn 2003- 2008 (dao động từ 1,10% đến 1,65%). Tuy nhiên, tỷ lệ thất

nghiệp chung ở Việt Nam giai đoạn 2011-2017 (dao động từ 1,96% đến 2,33%) có

xu hướng giảm, thấp hơn giai đoạn 2003- 2008 (dao động từ 2,14% đến 2,52%). Số

người thất nghiệp bình quân khoảng 1.170.589 người mỗi năm (bảng 3.2).

Bảng 3.2 Tỷ lệ thất nghiệp và số người thất nghiệp ở Việt Nam

giai đoạn 2009-2017

Năm

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tỷ lệ thất nghiệp (%) Thành thị 4,60 4,29 3,60 3,21 3,59 3,40 3,37 3,23 3,18 Nông thôn 2,25 2,30 1,60 1,39 1,54 1,49 1,82 1,84 1,78 Chung 2,90 2,88 2,22 1,96 2,18 2,10 2,33 2,30 2,24 Số người thất nghiệp (người) 1.430.338 1.451.316 1.141.044 1.026.021 1.160.754 1.128.708 1.257.832 1.252.242 1.227.520 (Nguồn: Tổng cục Thống kê)

Tính chung cả giai đoạn 2009- 2017, bình quân mỗi năm tỷ lệ thất nghiệp

khoảng 2,35%, trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 3,61% và tỷ

lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn khoảng 1,78% mỗi năm. Số người thất nghiệp

bình quân khoảng 1.230.642 người mỗi năm.

Đáng chú ý trong giai đoạn này, tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên và tỷ lệ thất

nghiệp có trình độ cao tăng cao. Năm 2016, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24

tuổi) là 7,34%, gấp hơn 3 lần tỷ lệ thất nghiệp chung (2,30%), trong đó khu vực

thành thị là 11,30%; khu vực nông thôn là 5,74%; trong số những người thất nghiệp,

có 471.000 người có chuyên môn kỹ thuật (chiếm 42,43%), nhiều nhất ở nhóm

trình độ “đại học trở lên” (218.800 người), tiếp theo là nhóm “cao đẳng”

(124.800 nghìn người) và “trung cấp” (70.200 người). Năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp

của thanh niên (từ 15-24 tuổi) là 7,51%, gấp hơn 3,3 lần tỷ lệ thất nghiệp chung

(2,24%), trong đó khu vực thành thị là 11,75%; khu vực nông thôn là 5,87%.

Đánh giá chung về tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam sau khi có chính

sách BHTN: Có thể nhận thấy rằng, ở Việt Nam, sau khi thực thi BHTN, số người

thất nghiệp vẫn tăng, tỷ lệ thất nghiệp chung không giảm, trong đó, tỷ lệ thất nghiệp

76

khu vực nông thôn có xu hướng tăng, riêng tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm,

năm sau luôn thấp hơn năm trước với mức giảm bình quân giai đoạn 2009-2017 là

0,16%/năm. Tỷ lệ thất nghiệp chung không giảm là do ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu trong khi đó số người gia nhập LLLĐ hàng năm

đều tăng, năm sau cao hơn năm trước.

3.1.2 Thực trạng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

BHTN được triển khai thực hiện ở Việt Nam từ ngày 01/01/2009. Việc tổ

chức tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN bắt đầu được thực hiện từ ngày

04/01/2010. Đến nay, sau hơn 10 năm tổ chức thực hiện, 9 năm tiếp nhận, giải

quyết chế độ cho NLĐ thuộc đối tượng thụ hưởng, BHTN ở Việt Nam đã đạt được

những kết quả sau đây:

3.1.2.1 Về tham gia Bảo hiểm thất nghiệp

Theo số liệu của Bộ LĐ-TB&XH, tính đến 31/12/2017, tổng số lao động tham

gia BHTN là 11.954.740 người (bảng 3.3), chiếm 21,82 % LLLĐ cả nước.

Bảng 3.3 Số người tham gia BHTN trong tương quan với

Năm

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

5.993.300

7.206.163

7.968.231

8.269.552

8.676.081

9.213.302 10.308.180 11.061.562 11.954.740

49.322.000 50.392.900 51.398.400 52.348.000 53.245.600 53.748.000 53.984.200 54.445.300 54.800.000

12,15

14,3

15,5

15,8

16,29

17,14

19,09

20,32

21,82

Số người tham gia BHTN (người) LLLĐ (người) Số người tham gia BHTN/LLLĐ (%)

lực lượng lao động cả nước giai đoạn 2009-2017

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Thống kê) Nhìn vào bảng 3.3 có thể thấy rằng số lao động tham gia BHTN hàng năm đều

tăng lên, bình quân mỗi năm có hơn 662.382 người tham gia mới. Tính cả giai đoạn

2009-2017, số lao động tham gia BHTN tăng 5.961.440 người. Số tham gia BHTN

hiện nay tăng gần gấp hai lần so với năm 2009, năm đầu tiên thực hiện BHTN.

Số lượng tham gia BHTN tăng mạnh hơn kể từ ngày 01/01/2015 do đối tượng

tham gia BHTN được mở rộng theo quy định của Luật Việc làm, năm 2015 đã tăng

11,8% so với năm 2014; năm 2016 tăng 7,3% so với năm 2015; năm 2017 tăng

8,07% so với năm 2016 và vẫn có xu hướng tăng ở những năm tiếp theo.

3.1.2.2 Về thu- chi Bảo hiểm thất nghiệp

77

a. Thu Bảo hiểm thất nghiệp

Tổng thu BHTN giai đoạn 2009-2017 là 81.488,902 tỷ đồng. Số liệu thu

BHTN mỗi năm được mô tả ở bảng 3.4. Giai đoạn 2009-2014, tổng thu BHTN gồm

3 nguồn: NLĐ, NSDLĐ và hỗ trợ của NSNN, số thu năm sau cao hơn năm trước.

Giai đoạn 2015- 2017, tổng thu BHTN gồm 2 nguồn: NLĐ, NSDLĐ, không có sự

hỗ trợ của NSNN do kết dư quỹ BHTN lớn.

Bảng 3.4. Kết quả thu bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2009-2017

Đơn vị tính: tỷ đồng Số tiền

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng cộng

3.510,651 5.400,307 6.747,116 8.664,818 10.094,742 11.812.738 9.939,530 11.728,000 13.591,000 81.488,902

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH)

b. Chi các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Tổng số tiền chi trả các chế độ BHTN giai đoạn 2010-2017 gần 30.157 tỷ

đồng, chiếm 37,01% tổng thu BHTN của cả giai đoạn. Số liệu chi BHTN mỗi năm

theo từng nội dung chi được mô tả ở bảng 3.5.

Bảng 3.5 Chi trả các chế độ BHTN giai đoạn 2010-2017 Đơn vị tính: tỷ đồng

Nội dung chi bảo hiểm thất nghiệp

Năm

Tổng cộng

TCTN

Hỗ trợ học nghề

Đóng BHYT

Tư vấn, GTVL

Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề

543,130 1.075,000 2.314,000 3.549,000

0,26354 0,629 2,100 4,400

2,46068 44,800 111,400 148,000

546,470 1.120,429 2.427,500 3.701,400

2010 2011 2012 2013 2014

0,61578 - - - -

- - - - -

4.317,000

11,500

198,700

4.527,200

2015 2016 2017 Tổng cộng

4.588,000 4.814,000 7.416,000 28.616,130

31,400 43,000 64,000 157,2925

213,600 314,000 350,000 1.382,961

- - - 0,61578

- - - 0

4.833,000 5.171,000 7.830,000 30.156,999

78

(Nguồn: BHXH Việt Nam)

Trong các nội dung chi BHTN, chi TCTN vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ

cấu chi hàng năm và của cả giai đoạn (giai đoạn 2010-2017, chi TCTN chiếm đến

94,89% tổng chi).

Chi hỗ trợ học nghề đứng thứ ba sau chi đóng BHYT cho NLĐ tham gia

BHTN hiện đang hưởng TCTN, chiếm tỷ trọng 0,52% tổng chi giai đoạn 2010-

2017. Tuy nhiên, công tác hỗ trợ học nghề đã có những chuyển biến tích cực sau khi

Quyết định số 77/2014/QĐ-TTg được ban hành, số người được hỗ trợ học nghề

tăng nhanh tại một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội trong những

năm gần đây, điều này giúp cho mức chi hỗ trợ học nghề năm 2017 đạt 64 tỷ đồng,

cao nhất cả giai đoạn 2010-2017, gấp 1,49 lần năm 2016, gấp 2,04 lần năm 2015 và

gấp 243 lần năm 2010- năm đầu tiên thực hiện việc đào tạo nghề cho NLĐ hưởng

TCTN.

c. Cân đối thu- chi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp

Giai đoạn 2009-2017, Quỹ BHTN luôn đảm bảo cân đối số thu lớn hơn số chi

(bảng 3.6).

2014

2015

2016

2017

2010

2011

2012

2013

5.400,307 6.747,116 8.664,818 10.094,742 11.812,738 9.939,530 11.728,000 13.591,000 8.040,000

5.762,980

549,331 1.126,152 2.645,245

4.528,081 4.882,990

3.911,098

4.940,976 5.620,964 6.019,573

6.183,644

7.284,657 5.056,540

5.965,020

5.551,000

10,17%

16,69%

30,53%

38,74%

38,33%

49,13%

49,14%

59,16%

Chỉ tiêu Số thu Số chi Chênh lệch thu-chi Tỷ lệ số chi/số thu

Bảng 3.6 Cân đối thu- chi quỹ BHTN giai đoạn 2010- 2017 Đơn vị: Tỷ đồng

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài chính, BHXH Việt Nam)

d. Kết dư quỹ Bảo hiểm thất nghiệp

Quỹ BHTN được hạch toán độc lập, quản lý và đầu tư tăng trưởng theo đúng

quy định của pháp luật. Theo số liệu của BHXH Việt Nam, tổng thu hàng năm đều

cao hơn tổng chi (biểu đồ 3.1).

Kết dư quỹ BHTN năm 2010 là trên 8.000 tỷ đồng, kết dư quỹ BHTN năm

2013 là 31.869,9 tỷ đồng, năm 2014 là 41.558 tỷ đồng. Năm 2016 kết dư quỹ

79

BHTN là 56.486 tỷ đồng, gấp 9,79 lần tổng chi BHTN của năm 2016.

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài chính, BHXH Việt Nam)

Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ chi BHTN so với tổng thu BHTN giai đoạn 2010-2017

3.1.2.3 Về giải quyết các chế độ Bảo hiểm thất nghiệp

Việc chi trả các chế độ BHTN hiện nay ở Việt Nam được thực hiện theo

phương châm 3 đúng “đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn” với kết quả cụ

thể của giai đoạn 2010-2017 như bảng 3.7 sau đây:

Bảng 3.7 Tình hình giải quyết các chế độ BHTN giai đoạn 2010-2017

2017

NỘI DUNG

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

Tổng

162.711 295.416 432.356 464.573 516.483 527.332 592.440

680.310

3.671.621

Số người nộp hồ sơ hưởng TCTN

156.765 289.181 421.048 454.839 514.853 526.309 586.254

671.789

3.621.038

Số người có quyết định hưởng TCTN

125.562 215.498 342.145 397.338 457.273 463.859 910.448 1.113.934 4.026.057

270

1.036

4.763

10.610

19.796

24.363

28.537

34.723

124.098

-

-

-

-

-

-

-

-

-

156.765 289.181 421.048 454.839 514.853 526.309 586.254

671.789

3.621.038

Số người được tư vấn, GTVL Số người được hỗ trợ học nghề Số NSDLĐ được hỗ tạo, bồi trợ đào dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề cho NLĐ Số người được cấp thẻ BHYT

Đơn vị: người

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH)

a. Chế độ trợ cấp thất nghiệp

- Về tiếp nhận hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp

Giai đoạn 2010-2017, tổng số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN là

3.671.621 người, chiếm tỷ lệ 30,71% tổng số người tham gia BHTN và chiếm tỷ lệ

38,68% tổng số người thất nghiệp.

80

Theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH (bảng 3.8), số người đề nghị hưởng TCTN

cao nhất là vào năm 2017: 680.310 người, chiếm tỷ lệ 5,69% tổng số người tham

gia BHTN và 55,42 % tổng số người thất nghiệp, nguyên nhân là do số người tham

gia BHTN ngày càng tăng dẫn tới số người nộp hồ sơ hưởng TCTN tăng, đồng thời,

tại các doanh nghiệp, tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn, thu hẹp quy mô sản

xuất vẫn tiếp diễn mặc dù tình hình kinh tế có phần ổn định, kéo theo việc cắt giảm

lao động, do đó số người thất nghiệp cũng tăng theo.

Bảng 3.8: Tương quan giữa số người nộp hồ sơ hưởng TCTN với số

người tham gia BHTN và số người thất nghiệp giai đoạn 2010-2017

ĐVT: người

NỘI DUNG Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017

7.206.163 7.968.231 8.269.552 8.676.081 9.213.302 10.308.180

11.061.562 11.954.740

1.451.316 1.141.044 1.026.021 1.160.754 1.128.708 1.247.035

1.110.000

1.227.520

162.711

295.416

432.356

464.573

516.483

527.332

592.440

680.310

2,26

3,71

5,23

5,35

5,61

5,12

5,36

5,69

11,21

25,89

42,14

40,02

45,76

42,29

53,37

55,42

Tổng số người tham gia BHTN Tổng số người thất nghiệp Số người nộp hồ sơ hưởng TCTN Tỷ lệ người nộp hồ trong tổng số người tham gia BHTN (%) Tỷ lệ người nộp hồ trong tổng số người thất nghiệp (%)

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH)

- Về giải quyết hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp:

Tổng số người có quyết định hưởng TCTN giai đoạn 2010- 2017 là 3.621.038

người, chiếm 98,62% số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN của cả giai đoạn,

chiếm tỷ lệ 30,29% tổng số người tham gia BHTN và chiếm tỷ lệ 38,15% tổng số

người thất nghiệp. Trong đó, tỷ lệ người hưởng TCTN trong tổng số người tham gia

BHTN và tỷ lệ người hưởng TCTN trong tổng số người thất nghiệp có xu hướng tăng

lên hàng năm (biểu đồ 3.2).

Cũng theo số liệu thống kê Bộ LĐ-TB&XH, NLĐ hưởng TCTN chiếm tỷ lệ

cao nhất ở độ tuổi 24-40 vì đây là nhóm lao động đã có kinh nghiệm làm việc, có

sức khỏe, năng động, có xu hướng chuyển đổi công việc cao hơn các nhóm tuổi

khác và lao động nữ mất việc làm nhiều hơn lao động nam, chủ yếu ở nhóm tuổi 24-

81

40 tuổi do phải đối mặt với nhiều rào cản trên TTLĐ- việc làm như: tồn tại sự phân

biệt đối xử giữa lao động nữ và nam; hạn chế trong lựa chọn công việc (một số lĩnh

60.00

52.82

54.73

45.61

50.00

42.20

41.04

39.18

40.00

30.00

25.34

20.00

10.80

10.00

5.30

5.11

5.09

5.59

5.24

3.63

5.62

2.18

0.00

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Tỷ lệ người hưởng TCTN trong tổng số người tham gia BHTN (%) Tỷ lệ người hưởng TCTN trong tổng số người thất nghiệp (%)

vực lao động nữ không thể tham gia).

Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ lao động mất việc làm được hưởng TCTN trong tổng số người thất nghiệp và người tham gia BHTN giai đoạn 2010-2017 (Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Thống kê)

- Về tình hình chuyển hưởng và nhận chuyển hưởng:

Giai đoạn 2010-2017, có tổng cộng 213.871 lượt người đề nghị chuyển hưởng

(cao nhất vào năm 2012 với 91.066 trường hợp) và 189.017 lượt người nhận chuyển

hưởng (cao nhất cũng vào năm 2012 với 79.666 trường hợp). Nhìn chung, số lượt

người đề nghị chuyển hưởng và nhận chuyển hưởng tập trung chủ yếu ở khu vực Đông

Nam Bộ vì đây là vùng kinh tế trọng điểm, nơi tập trung nhiều lao động đến từ nhiều

vùng trên cả nước. Trong hai năm 2016, 2017, khi Luật Việc làm có hiệu lực, số

lượng người chuyển hưởng và nhận chuyển hưởng BHTN là rất ít, do quy định mới

cho phép NLĐ được nộp hồ sơ đề nghị hưởng BHTN ở bất cứ Trung tâm DVVL

tỉnh, thành phố trực thuộc TW nào theo nguyện vọng của NLĐ.

b. Chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm

Theo báo cáo của 63 Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW được

Bộ LĐ-TB&XH tổng hợp, số lượng người thất nghiệp hiện đang tham gia BHTN

được tư vấn, GTVL đều tăng qua các năm (biểu đồ 3.3). Giai đoạn 2010-2017, có

82

tổng cộng 4.026.057 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm.

2017

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ lao động mất việc làm được tư vấn, GTVL trong tổng số người thất nghiệp giai đoạn 2010-2017 (Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Thống kê)

Biểu đồ 3.3 cho thấy, hai năm 2016 và 2017, số lượt người được tư vấn,

GTVL tăng đáng kể so với các năm trước (năm 2016: số lượt người được tư vấn,

GTVL gấp hơn 1,53 lần so với số người nộp hồ sơ hưởng BHTN và gấp hơn 1,55

lần tổng số người được hưởng TCTN; năm 2017: số lượt người được tư vấn, GTVL

gấp hơn 1,64 lần so với số người nộp hồ sơ hưởng BHTN và gấp hơn 1,66 lần tổng

số người được hưởng TCTN). Nguyên nhân là do quy định mới của Luật Việc làm

cho phép bất kỳ NLĐ đang tham gia BHTN nào cũng được tư vấn, GTVL trong mọi

trường hợp bị chấm dứt HĐLĐ/ HĐLV và có nhu cầu tìm kiếm việc làm, thay cho

quy định cũ chỉ áp dụng đối với những NLĐ đủ điều kiện hưởng TCTN.

Hiện nay, các Trung tâm DVVL, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí

Minh đã sử dụng nhiều hình thức tư vấn phù hợp với NLĐ: tư vấn trực tiếp, tư vấn

trực tuyến qua mạng Internet, thư điện tử, các công cụ giao tiếp trên mạng máy tính

(Yahoo, Skype,…), tổng đài tư vấn... Nguồn dữ liệu việc làm được Trung tâm

DVVL lấy từ các doanh nghiệp, NSDLĐ đến đăng ký tuyển dụng tại trung tâm, sàn

giao dịch việc làm, đăng ký trực tuyến trên website, sau đó thống kê và lập bảng

danh sách việc làm trống để giới thiệu đến NLĐ.

c. Chế độ hỗ trợ học nghề

Giai đoạn 2010-2017 có tổng số 124.098 lượt người được hỗ trợ học nghề

trong tổng số 11.954.740 người tham gia BHTN (chiếm tỷ lệ 1,04 %) và trong tổng

83

số 9.645.437 người thất nghiệp (chiếm tỷ lệ 1,29 %). Riêng hai năm 2016 và 2017,

số người có quyết định hỗ trợ học nghề là cao nhất của cả giai đoạn (năm 2016:

28.537 lượt người được hỗ trợ học nghề, chiếm 0,26 % tổng số người tham gia

BHTN và 2,57 % tổng số người thất nghiệp; năm 2017: 34.723 lượt người được hỗ

trợ học nghề, chiếm 0,29 % tổng số người tham gia BHTN và 2,83 % tổng số người

2017

thất nghiệp) (biểu đồ 3.4).

Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ lao động mất việc làm được hỗ trợ học nghề trong tổng số

người thất nghiệp và người tham gia BHTN giai đoạn 2010-2017

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Thống kê)

Công tác hỗ trợ học nghề đã có những chuyển biến tích cực sau khi Quyết định

77/2014/QĐ-TTg được ban hành, đặc biệt số người được hỗ trợ học nghề tăng nhanh

tại một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tuy nhiên, tại nhiều vùng, số

người được hỗ trợ học nghề chưa nhiều (Tây Bắc, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ).

Theo thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, những ngành nghề NLĐ đăng ký học

nhiều là tin học văn phòng, ẩm thực và thẩm mỹ, sửa chữa máy vi tính, điện dân

dụng, điện công nghiệp, thiết kế quảng cáo, lái xe,... Số người được hỗ trợ học nghề

tăng nhưng vẫn còn thấp do các nguyên nhân như: (1) Đa số lao động thất nghiệp là

lao động phổ thông, đời sống khó khăn không có nguồn dự trữ hoặc hỗ trợ khác nên

khi bị mất việc NLĐ chỉ quan tâm đến việc hưởng TCTN, họ dành thời gian tìm các

công việc khác để duy trì cuộc sống rồi mới tính đến việc học nghề. Một số công ty

ở các khu công nghiệp khi tuyển dụng chủ yếu là tuyển lao động phổ thông nên

NLĐ có thể kiếm được việc làm mới ngay sau khi mất việc mà không cần học nghề

khác; (2) NLĐ nghỉ việc có xu hướng chuyển về địa phương mình để tìm việc làm

mới nhằm giảm chi phí sinh hoạt, hợp lý hóa gia đình nên không có nhu cầu học

84

nghề; (3) Xu hướng nghỉ việc về làm nông nghiệp hoặc tự tạo việc làm (mở tạp hóa,

buôn bán nhỏ,...); (4) Một bộ phận lao động lớn tuổi, vì lý do sức khỏe hay trở về

quê làm nông nghiệp hoặc nội trợ nên không có nhu cầu học nghề; (5) NLĐ ít có cơ

hội lựa chọn nghề vì các danh mục nghề đào tạo của cơ sở dạy nghề chưa phong

phú, nghề đào tạo lạc hậu, mức phí đào tạo cao. Cơ sở dạy nghề không tiếp nhận do

chiêu sinh không đủ, NLĐ đăng ký học nghề nhưng không đi học.

d. Chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy

trì việc làm cho người lao động

Chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì

việc làm cho NLĐ là một chế độ mới được bổ sung có hiệu lực từ ngày 01/01/2015

của chính sách BHTN theo Điều 42 Luật Việc làm. Đây là một chế độ hỗ trợ NLĐ

thông qua NSDLĐ để phòng ngừa nguy cơ thất nghiệp cho NLĐ tham gia BHTN

trong trường hợp NSDLĐ gặp khó khăn có nguy cơ cắt giảm lao động. Theo báo

cáo của các địa phương, trong ba năm quy định này được thực thi (2015-2017),

không có NSDLĐ hưởng chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ

năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ (bảng 3.5).

e. Chế độ bảo hiểm y tế trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp

Ngoài 4 chế độ trên, NLĐ đang hưởng TCTN được hưởng chế độ BHYT. Giai

đoạn 2010-2017, 100% NLĐ đang hưởng TCTN đều được cơ quan BHXH cấp thẻ

BHYT theo đúng quy định hiện hành (bảng 3.7), tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ

có thẻ khám chữa bệnh và sớm trở lại TTLĐ.

Có thể khái quát kết quả thực hiện BHTN giai đoạn 2009-2017 như bảng 3.9.

Năm

Số người thất nghiệp

Số người tham gia BHTN

Số lượt người được hưởng TCTN, BHYT

Bảng 3.9: Kết quả bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009-2017

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017

5.993.300 1.430.338 7.206.163 1.451.316 7.968.231 1.141.044 8.269.552 1.026.021 8.676.081 1.160.754 1.128.708 9.213.302 1.257.832 10.308.180 1.252.242 11.061.562 1.227.520 11.954.740

Đơn vị tính: người, lượt người Số lượt Số lượt người được người được hỗ trợ học tư vấn, nghề GTVL Chưa có NLĐ đủ điều kiện hưởng

Tổng cộng

156.765 289.181 421.048 454.839 514.853 526.309 586.254 671.789 3.621.038

125.562 215.498 342.145 397.338 457.273 463.859 910.448 1.113.934 4.026.057

270 1.036 4.763 10.610 19.796 24.363 28.537 34.723 124.098

Số lượt người được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề Chưa thực hiện Chưa thực hiện Chưa thực hiện Chưa thực hiện Chưa thực hiện Chưa thực hiện 0 0 0 0

85

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Thống kê)

Đánh giá chung về hiệu quả bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam:

Có thể thấy rằng, từ khi có BHTN, một bộ phận NLĐ mất việc làm đã có được

sự hỗ trợ cần thiết trong quá trình tìm kiếm việc làm mới của họ: được hỗ trợ một

phần thu nhập từ số tiền TCTN (3.621.038 lượt người, chiếm 37,54% số người thất

nghiệp), được hỗ trợ tư vấn, GTVL (4.026.057 lượt người, chiếm 41,74% số người

thất nghiệp) và được hỗ trợ học nghề (124.098 lượt người, chiếm 1,29% số người

thất nghiệp). Tuy BHTN chỉ mới giúp khắc phục, hạn chế hậu quả của thất nghiệp,

không có bằng chứng cho thấy BHTN giúp làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nhưng thông

qua các hoạt động hỗ trợ tư vấn, GTVL, BHTN góp phần làm tăng tỷ lệ giải quyết

việc làm. Thông qua các hoạt động đào tạo nghề cho NLĐ tham gia BHTN bị mất

việc làm, BHTN góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực.

3.2 Phân tích thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam giai đoạn 2009-2017

3.2.1 Quá trình xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về

bảo hiểm thất nghiệp

3.2.1.1 Ở Trung ương

Ngày 29/6/2006, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XI đã nhất trí thông qua Luật BHXH, trong đó có một chương riêng

về BHTN. Sự kiện này đánh dấu thời điểm chính sách BHTN lần đầu tiên được áp

dụng ở Việt Nam, chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.

Để hướng dẫn thực thi chính sách BHTN theo quy định của Luật BHXH, ngày

12/12/2008, Chính phủ ban hành Nghị định 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật BHXH về BHTN.

Trên cơ sở đó, Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành các văn bản: Thông tư

04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22/01/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của

Nghị định số 127/2008/NĐ-CP về BHTN; Quyết định số 1199/QĐ-LĐTBXH ngày

22/9/2009 về việc thành lập BHTN- đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục Việc

làm; Công văn số 4002/LĐTBXH-VL ngày 22/10/2009 về việc triển khai thực hiện

chính sách BHTN đến các địa phương.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các Bộ ngành liên

quan cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến việc thực thi chính sách

86

BHTN: Bộ Tài chính ban hành Thông tư 96/2009/TT-BTC ngày 20/5/2009 hướng

dẫn chế độ tài chính đối với quỹ BHTN; Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư số

113/2009/TT-BQP ngày 7/12/2009 hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định

127/2008/NĐ-CP của Chính phủ về BHTN trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn triển khai chính sách BHTN trên thực

tế, đã có một số vấn đề bất cập nảy sinh. Để phù hợp hơn với tình hình thực tế, một

số quy định đã được điều chỉnh. Cụ thể là:

- Ngày 16/10/2009, Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành Thông tư 34/2009/TT-

BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung Thông tư 04/2009/TTBLĐTBXH mới được ban hành

ngày 22/01/2009. Điểm mới của Thông tư này là chuyển toàn bộ trách nhiệm tổ

chức tiếp nhận hồ sơ đăng ký hưởng BHTN, xem xét và thực hiện các thủ tục giải

quyết chế độ BHTN từ Phòng LĐ-TB&XH cấp huyện sang Trung tâm DVVL thuộc

Sở LĐ-TB&XH.

- Ngày 25/10/2010, Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành Thông tư 32/2010/TT-

BLĐTBXH thay thế Thông tư 04/2009/TT-BLĐTBXH và Thông tư 34/2009/TT-

BLĐTBXH. Thông từ này có một số quy định mới thuận lợi hơn cho NLĐ: (1)

Được tính tròn tháng đóng BHTN khi NLĐ đã thực hiện HĐLĐ hoặc HĐLV ít nhất

01 ngày trong tháng đó, đồng thời NSDLĐ và NLĐ đã thực hiện trách nhiệm đóng

BHTN; (2) Trường hợp tạm dừng hưởng TCTN hàng tháng do NLĐ không trực

tiếp thông báo về việc tìm kiếm việc làm hoặc bị tạm giam theo quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền thì NLĐ vẫn được hưởng TCTN của cả tháng đó; (3)

Quy định rõ hơn về cách xác định NLĐ có việc làm, bị chấm dứt hưởng TCTN; về

các lý do NLĐ được coi là không chính đáng để từ chối nhận việc làm do Trung

tâm DVVL giới thiệu; quy định rõ về trường hợp NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN

khi được hưởng lương hưu; về các trường hợp có nhu cầu chuyển nơi nhận TCTN;

(4) Quy định các trường hợp đặc biệt được kéo dài thời hạn đăng ký thất nghiệp sau

ngày hết hạn đăng ký thất nghiệp; (5) Thay đổi mức hỗ trợ học nghề cho NLĐ đang

hưởng TCTN bằng mức chi phí học nghề trình độ sơ cấp thay cho mức chi phí học

nghề ngắn hạn được quy định trước đây.

Sau khi những quy định mới được thực thi, một số vấn đề thực tế lại tiếp tục

nảy sinh liên quan đến thời hạn đăng ký thất nghiệp, mức hỗ trợ học nghề, trách

nhiệm của các bên liên quan. Do đó, quy định về BHTN lại có sự điều chỉnh lần thứ

87

hai. Cụ thể:

- Ngày 21/11/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2012/NĐ-CP về

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12-12-2008

của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH

về BHTN. Theo Nghị định này, để đảm bảo thời gian hợp lý cho NLĐ thực hiện

quyền lợi BHTN của mình, Chính phủ đã tăng thêm thời hạn đăng ký thất nghiệp

cho họ từ 7 ngày làm việc trước đây lên 03 tháng kể từ ngày bị mất việc làm hoặc

chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV nếu NLĐ chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng

TCTN thì NLĐ thực hiện đăng ký thất nghiệp với cơ quan lao động. Nghị định cũng

đã sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của NLĐ và NSDLĐ về BHTN; điều chỉnh mức hỗ

trợ học nghề tùy theo mức chi phí học nghề của từng nghề thay vì chỉ bằng mức chi

phí học nghề ngắn hạn như trước đây và thời gian hỗ trợ cũng được quy định tùy

theo từng nghề nhưng tối đa không quá sáu tháng.

Bên cạnh đó, Chính phủ quy định khi nộp hồ sơ hưởng BHTN, ngoài đơn đề

nghị hưởng BHTN, bản sao HĐLĐ, HĐLV đã hết hạn... như quy định cũ, NLĐ phải

xuất trình Sổ BHXH hoặc bản xác nhận của cơ quan BHXH về việc đóng BHTN.

Trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc

trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương, tiền công tháng tại đơn vị mà hưởng

trợ cấp BHXH hoặc tạm hoãn thực hiện giao kết HĐLĐ hoặc HĐLV, NLĐ không

thuộc đối tượng tham gia BHTN.

Ngoài ra, Nghị định này còn quy định chặt chẽ hơn về thời hạn giải quyết thủ

tục đối với cơ quan lao động và cơ quan bảo hiểm, từ đăng ký thất nghiệp, tiếp

nhận, xem xét, giải quyết chế độ trợ cấp, chi trả trợ cấp, hỗ trợ học nghề.

- Ngày 01/03/2013, Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành Thông tư số 04/2013/TT-

BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư 32/2010/TT-BLĐTBXH để

phù hợp với quy định mới của Chính phủ về chính sách BHTN tại Nghị định

100/2012/NĐ-CP. Thông tư đã sửa đổi hệ thống mẫu bảng và hướng dẫn cụ thể các

điểm mới theo Thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH.

Sau hơn 4 năm đi vào cuộc sống, xét thấy BHTN còn hạn chế trong việc thực

hiện đúng chức năng và vai trò là chính sách bảo đảm về việc làm toàn diện cho

NLĐ, ngày 16/4/2013, Chính phủ đã có Tờ trình số 153/TTr-CP về Dự án Luật việc

làm gửi Quốc hội, trong đó nêu lên sự cần thiết phải ban hành Luật Việc làm, trong

88

đó có quy định một chương riêng về BHTN. Tờ trình nêu rõ: “Các quy định hiện

hành về BHTN mới chỉ dừng ở việc hỗ trợ NLĐ sau khi họ bị mất việc làm mà chưa

có chính sách duy trì việc làm, ngăn ngừa, hạn chế thất nghiệp. Việc thực hiện

chính sách BHTN hiện hành cũng đang bộc lộ một số hạn chế về đối tượng, điều

kiện, tổ chức thực hiện,… cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, mở rộng đối tượng để

chính sách BHTN thật sự phát huy được vai trò đảm bảo việc làm bền vững, hạn

chế thất nghiệp cũng như giúp người thất nghiệp sớm tìm được việc làm”.

Ngày 16/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XIII đã chính thức thông qua Luật Việc làm số 38/2013/QH13,

trong đó quy định một chương riêng về BHTN (chương VI). Các nội dung về

BHTN quy định tại Luật BHXH số 71/2006/QH11 sẽ hết hiệu lực kể từ ngày Luật

Việc làm có hiệu lực thi hành (01/01/2015). Đây là lần thứ ba quy định về BHTN ở

Việt Nam tiếp tục có sự điều chỉnh.

Nhìn chung, những quy định hiện hành về BHTN trong Luật Việc làm và các

văn bản hướng dẫn thi hành đã có những điểm mới và cơ bản khắc phục một số

điểm bất hợp lý quy định tại Luật BHXH trước đây như: mở rộng cho nhiều đối

tượng NLĐ hơn; có bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình

độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ thông qua NSDLĐ; quy trình, thủ tục

đơn giản hơn; bỏ chế độ hưởng trợ cấp một lần để bảo lưu thời gian đóng BHTN

cho những lần hưởng tiếp theo; giảm thủ tục hành chính như: bỏ đăng ký thất

nghiệp và NLĐ có thể nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN ở tất cả Trung tâm DVVL

tỉnh, thành phố trực thuộc TW nơi NLĐ muốn nhận TCTN, bổ sung các trường hợp

được miễn không phải thông báo tìm kiếm việc làm hằng tháng.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong một thời gian ngắn (2009 đến nay), các quy

định về BHTN đã có nhiều thay đổi, mà thay đổi quan trọng nhất được đánh dấu

bằng sự ra đời của Luật Việc làm năm 2013, trong đó BHTN được quy định một

chương riêng, thay thế quy định về BHTN trước đó tại Luật BHXH. Sự điều chỉnh

các quy định về BHTN từ Luật BHXH sang Luật Việc làm, đánh dấu sự thay đổi cơ

bản về nhận thức của Việt Nam về chính sách BHTN: BHTN không đơn thuần chỉ

là chính sách bảo hiểm, mà còn là một trong những chính sách cấu thành chính sách

việc làm, đồng thời, việc thực hiện chính sách BHTN phải gắn kết chặt chẽ với các

89

chính sách việc làm khác.

3.2.1.2 Ở địa phương

Việc ban hành hướng dẫn văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện BHTN trên

địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc TW đều được tiến hành kịp thời: Trên cơ sở

các văn bản hướng dẫn của TW, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW ban

hành các chỉ thị, kế hoạch, công văn chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ngành liên quan tổ

chức thực thi chính sách BHTN tại địa phương. Trên cơ sở đó, các sở, ngành liên

quan, trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành văn bản

hướng dẫn, thống nhất quy trình thực hiện và xây dựng quy chế phối hợp để tổ chức

thực thi BHTN. Các quy trình, quy chế này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung ở

địa phương cho phù hợp với sự thay đổi chính sách của TW cũng như hơn với đòi

hỏi của thực tiễn triển khai chính sách.

Chẳng hạn tại Thành phố Hồ Chí Minh, một trong số ít các địa phương có

TTLĐ sôi động và số người thất nghiệp đề nghị hưởng BHTN nhiều nhất cả nước,

việc hướng dẫn văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện BHTN trên địa bàn hết sức

quyết liệt ngay từ những năm đầu triển khai BHTN: UBND TP. Hồ Chí Minh ban

hành các văn bản: Kế hoạch số 2046/KH-UBND ngày 11/5/2009 triển khai Luật

BHXH về BHTN tại TP. Hồ Chí Minh; Công văn số 85/UBND-VX ngày

11/01/2010 chỉ đạo các sở, ngành có liên quan như Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở

Thông tin và Truyền thông, Sở Tư pháp, Liên đoàn Lao động TP. Hồ Chí Minh,

UBND quận, huyện, BHXH TP. Hồ Chí Minh cùng phối hợp triển khai thực hiện

chính sách BHTN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 25/2011/CT-UBND

ngày 01/08/2011 của UBND TP. Hồ Chí Minh về tăng cường thực hiện Luật BHXH

và Luật BHYT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh; Sở LĐ-TB&XH ban hành các văn

bản: công văn số 8921/SLĐTBXH-LĐ ngày 16/11/2009 hướng dẫn quy trình thực

hiện các chế độ BHTN đối với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và NLĐ thuộc

đối tượng thực hiện BHTN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh; công văn số

6503/SLĐTBXH-LĐ ngày 30/5/2013 về việc thông báo tình hình sử dụng lao động

trên địa bàn thành phố; đồng thời phối hợp với BHXH TP. Hồ Chí Minh xây dựng

và ban hàng Quy chế phối hợp liên ngành LĐTBXH- BHXH TP về việc triển khai

chính sách BHTN; Sở Nội vụ ban hành công văn số 1424/SNV-CCVC ngày

90

11/11/2009 hướng dẫn về đối tượng tham gia BHTN.

Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của UBND và Sở LĐ-TB&XH, Trung tâm

DVVL TP. Hồ Chí Minh xây dựng quy trình tiếp nhận đăng ký và giải quyết chế độ

BHTN; BHXH TP. Hồ Chí Minh ban hành Hướng dẫn số 1643/HD-BHXH ngày

15/6/2009 về thực hiện thu BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

xây dựng quy trình thu- chi quỹ BHTN; Trung tâm DVVL TP. Hồ Chí Minh và

BHXH TP. Hồ Chí Minh phối hợp xây dựng quy trình phối hợp chi trả các chế độ

BHTN cho NLĐ.

3.2.2 Hệ thống văn bản pháp luật cấu thành thể chế quản lý nhà nước về Bảo

hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Hệ thống văn bản pháp luật cấu thành nên thể chế QLNN về BHTN ở Việt

Nam hiện nay bao gồm:

Một là, hệ thống văn bản mang tính định hướng, chiến lược liên quan đến an

sinh xã hội nói chung và Bảo hiểm thất nghiệp nói riêng:

- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (bổ sung, phát triển năm 2011) [187].

- Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 [187].

- Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII [187].

- Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành TW Đảng

Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020 [156].

- Nghị quyết 70/NQ-CP ngày 01/11/2012 của Chính phủ về Chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW về chính sách xã hội

giai đoạn 2012- 2020 [184].

- Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012- 2020 [158].

- Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày 20/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về

phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm

nhìn 2030 [202].

ban hành kế hoạch quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển

bền vững [204].

- Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về

- Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban

91

chấp hành Trung ương về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội [157].

- Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ về ban hành

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày

23 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương về cải

cách chính sách bảo hiểm xã hội [185].

Hai là, Hệ thống các văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm

quyền của các cơ quan thuộc bộ máy Quản lý nhà nước về Bảo hiểm thất nghiệp:

- Luật Việc làm số 38/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XIII chính thức thông qua tại kỳ họp thứ 6, ngày 16/11/2013

[197].

- Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa NLĐ Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được sửa đổi, bổ sung một số Điều tại Nghị

định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 [177].

- Quyết định số 77/2014/QĐ-TTg ngày 24/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ

quy định mức hỗ trợ học nghề đối với NLĐ tham gia BHTN [200].

- Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg ngày 27/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ

về cơ chế quản lý tài chính về BHXH, BHYT, BHTN và chi phí quản lý BHXH,

BHYT, BHTN [201].

- Quyết định số 15/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/4/2016

về mức chi phí quản lý BHXH, BHTN, BHYT giai đoạn 2016- 2018 [203].

- Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/03/2015 của Chính phủ quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN [179].

- Nghị định số 21/2016/NĐ- CP ngày 31/3/2016 quy định việc thực hiện chức

năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT của cơ quan BHXH

[181].

- Nghị định số 30/2016/NĐ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ quy định chi

tiết hoạt động đầu tư từ Quỹ BHXH, BHYT, BHTN [182].

- Thông tư số 28/2015/TT-BLĐTBXH ngày 31/7/2015 của Bộ LĐ-TB&XH

hướng dẫn thực hiện Điều 52 Luật Việc làm và một số điều Nghị định số

28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Việc làm về BHTN [165].

92

- Thông tư số 139/2015/TT-BQP ngày 16/12/2015 của Bộ Quốc phòng hướng

dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN trong

Bộ Quốc phòng [167].

- Thông tư số 20/2016/TT-BTC ngày 03/02/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn

thực hiện cơ chế quản lý tài chính về BHXH, BHYT, BHTN và chi phí quản lý

BHXH, BHYT, BHTN [169].

- Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-BLĐTBXH-BQP-BCA ngày 25/3/2016

của liên Bộ LĐ-TB&XH- Quốc phòng- Công an hướng dẫn thực hiện Khoản 6 Điều

32 của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi

tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về BHTN về việc thông báo biến động

lao động làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an [166].

Ba là, Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ, công chức:

- Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 [190].

- Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 [194].

- Luật Thi đua- Khen thưởng số 15/2003/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một

số điều theo Luật số 47/2005/QH11, Luật số 32/2009/QH12 và Luật số

39/2013/QH13.

Bốn là, Hệ thống các văn bản quy định về tài phán hành chính nhằm giải

quyết tranh chấp, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp đối với công dân, người lao động, người sử dụng

lao động:

- Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13.

- Luật Tố cáo số 03/2011/QH13.

- Luật Tiếp công dân số 42/2013/QH13.

- Luật Thanh tra số 56/2010/QH12.

- Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều tại

Luật số 12/2017/QH14 về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự số

100/2015/QH12.

- Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13.

Năm là, Hệ thống các thủ tục hành chính về Bảo hiểm thất nghiệp: gồm 11

TTHC do Bộ LĐ-TB&XH xây dựng, ban hành và công khai trên Cổng thông tin cơ

93

sở dữ liệu Quốc gia về Thủ tục hành chính (http://csdl.thutuchanhchinh.vn), từ mã

số B-BLD-286073-TT đến mã số B-BLD-286083-TT.

3.2.3 Nội dung chủ yếu của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam hiện nay

Thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam hiện nay bao gồm rất nhiều nội dung,

trong đó có 7 nội dung chủ yếu, gồm:

3.2.3.1 Quy định về hình thức tham gia, đối tượng áp dụng bảo hiểm thất

nghiệp

- Hình thức tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Chỉ có một hình thức tham gia BHTN duy nhất là bắt buộc.

- Về đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp

Đối tượng áp dụng BHTN là NLĐ làm việc theo HĐLĐ hoặc HĐLV không xác

định thời hạn; HĐLĐ hoặc HĐLV xác định thời hạn; HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo

một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng (trừ người

đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, người giúp việc gia

đình) trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân;

tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ

chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc

tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh

doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo

HĐLV hoặc HĐLĐ.

3.2.3.2 Quy định về các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Có 4 chế độ mà NLĐ tham gia BHTN được hưởng khi đủ điều kiện, gồm:

Trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ tư vấn, GTVL; hỗ trợ học nghề và hỗ trợ đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề cho NLĐ. Nội dung các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

như phụ lục 2.

Ngoài bốn chế độ trên, người đang hưởng TCTN được hưởng chế độ BHYT

theo quy định của pháp luật về BHYT do tổ chức BHXH đóng BHYT cho người

đang hưởng TCTN từ Quỹ BHTN.

3.2.3.3 Quy định về tổ chức bộ máy, nhân sự quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp

a. Quy định về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

94

Từ ngày 01/01/2009, chính sách BHTN chính thức được thực thi ở Việt

Nam. Thời gian này, bộ máy tổ chức tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN được thực

hiện thông qua Phòng LĐ-TB&XH cấp huyện theo quy định tại Thông tư số

04/2009/TTBLĐTBXH của Bộ LĐ-TB&XH ban hành ngày 22/01/2009.

Đến tháng 10/2009, toàn bộ trách nhiệm tổ chức tiếp nhận hồ sơ đăng ký

hưởng BHTN, xem xét và thực hiện các thủ tục giải quyết chế độ BHTN được

chuyển từ Phòng LĐ-TB&XH cấp huyện sang Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh,

thành phố trực thuộc TW (nay là Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh, thành phố trực

thuộc TW) thuộc Sở LĐ-TB&XH theo quy định tại Thông tư 34/2009/TT-

BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung Thông tư 04/2009/TTBLĐTBXH. Và hiện nay, trách

nhiệm tổ chức tiếp nhận hồ sơ, xem xét và thực hiện các thủ tục giải quyết chế độ

BHTN thuộc về Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW).

Hiện nay, theo quy định của Luật Việc làm, Chính phủ thống nhất QLNN về

BHTN; Bộ LĐ-TB&XH chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về

BHTN; Bộ Tài chính phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH trong quản lý thu- chi, bảo toàn,

phát triển và cân đối quỹ BHTN; BHXH Việt Nam được giao chức năng thực hiện

quản lý sự nghiệp thu, chi, quản lý và sử dụng quỹ BHTN; Trung tâm DVVL các

tỉnh, thành phố trực thuộc TW được giao chức năng tiếp nhận, giải quyết các chế độ

BHTN cho người thất nghiệp.

Tổ chức bộ máy QLNN về BHTN được tổ chức như phụ lục 3. Trong đó,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan QLNN về BHTN được quy định

như phụ lục 4.

b. Quy định về tổ chức nhân sự quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Nhân sự QLNN về BHTN ở Việt Nam là cán bộ, công chức hiện đang công

tác tại các cơ quan, đơn vị được giao chức năng QLNN về BHTN, họ được bố trí

ngay trong chính các cơ quan QLNN về BHTN, trong đó, mỗi người được phân

công một phần nhiệm vụ QLNN về BHTN mà cơ quan đó được giao. Việc tuyển

dụng, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ chính

sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về BHTN được thực hiện theo quy

định hiện hành của nhà nước tại Luật cán bộ, công chức và các văn bản hướng dẫn

thi hành; Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Thi đua- Khen

thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về chế độ tiền lương: Đội ngũ cán bộ,

95

công chức QLNN về BHTN được hưởng mức tiền lương hiện hành theo chế độ tiền

lương theo ngạch bậc đối với cán bộ, công chức do Nhà nước quy định, được tính

bằng hệ số lương theo bảng lương nhà nước (cộng phụ cấp chức vụ, nếu có) nhân

với mức lương cơ sở do nhà nước quy định trong từng thời kỳ.

3.2.3.4 Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ

của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực

hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

- Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam: là cơ quan giúp Chính phủ, Thủ tướng

Chính phủ chỉ đạo, giám sát hoạt động của BHXH Việt Nam về BHTN và tư vấn về

chính sách BHTN, gồm đại diện lãnh đạo Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Y tế, Bộ Tài chính,

Bộ Nội vụ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp

Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Giám đốc

BHXH Việt Nam và thành viên khác do Chính phủ quy định. Hội đồng có Chủ tịch,

các Phó chủ tịch và các Ủy viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng

quản lý là 05 năm. Hội đồng có các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại mục 5, Điều 3,

Nghị định số 01/2016/NĐ-CP ngày 05/01/2016 của Chính phủ quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam [178].

- BHXH Việt Nam: là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, chịu sự QLNN

của Bộ LĐ-TB&XH về BHTN; của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với quỹ

BHTN; được giao chức năng tổ chức thu, chi BHTN; quản lý và sử dụng quỹ

BHTN; thanh tra chuyên ngành việc đóng BHTN; Trình Thủ tướng Chính phủ đề án

bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHTN sau khi được Hội đồng quản lý BHXH Việt

Nam thông qua; tổ chức thực hiện chiến lược, các kế hoạch, đề án sau khi được phê

duyệt [178]. BHXH Việt Nam gồm: BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc TW,

BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Bộ Công an và BHXH Ban Cơ yếu chính phủ.

- Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW: là đơn vị sự nghiệp

công lập trực thuộc Sở LĐ-TB&XH tỉnh, thành phố trực thuộc TW, có chức năng:

tổ chức tiếp nhận hồ sơ hưởng BHTN, xem xét và thực hiện thủ tục giải quyết chế

độ BHTN; tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHTN;

tổ chức tư vấn, GTVL, tổ chức dạy nghề phù hợp cho người đủ điều kiện hỗ trợ từ

quỹ BHTN; lưu trữ hồ sơ của NLĐ hưởng BHTN; thực hiện chế độ báo cáo về

96

BHTN.

- Các cơ sở dạy nghề: có trách nhiệm tổ chức thực hiện dạy nghề cho người

thất nghiệp theo yêu cầu của Sở LĐ-TB&XH.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên: trong phạm vi

chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động cơ quan,

doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức và cá nhân thực hiện BHTN; tham gia với cơ quan

nhà nước trong việc xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về

BHTN theo quy định của pháp luật.

- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): là tổ chức quốc

gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, NSDLĐ và các hiệp hội doanh

nghiệp ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ các doanh nghiệp,

góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh

tế, thương mại và khoa học - công nghệ giữa Việt Nam với các nước trên cơ sở bình

đẳng và cùng có lợi. VCCI là tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận, có tư

cách pháp nhân và tự chủ về tài chính. Liên quan đến thực hiện BHTN, VCCI có

chức năng đại diện để thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cộng

đồng doanh nghiệp và NSDLĐ ở Việt Nam với các nhiệm vụ: Tổ chức lấy ý kiến,

tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các doanh nghiệp để phản ánh, kiến nghị và tham

mưu cho Nhà nước các vấn đề về pháp luật BHTN; tổ chức các hoạt động tuyên

truyền, vận động các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật BHTN.

- Người lao động: khi thuộc diện tham gia BHTN bắt buộc, NLĐ là đối tượng

QLNN về BHTN. NLĐ có các quyền: Nhận sổ bảo hiểm xã hội có xác nhận đầy đủ

về việc đóng BHTN khi chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV; được hưởng các chế độ

BHTN theo quy định khi đủ điều kiện; được ủy quyền cho người khác nộp hồ sơ

hưởng TCTN, nhận quyết định hưởng TCTN theo quy định ; được yêu cầu NSDLĐ

cung cấp thông tin về việc đóng BHTN; yêu cầu Trung tâm DVVL, tổ chức BHXH

cung cấp thông tin liên quan đến BHTN ; được khiếu nại, tố cáo về BHTN theo quy

định của pháp luật. NLĐ có các nghĩa vụ: đóng BHTN đủ và đúng theo quy định;

thực hiện đúng quy định về việc tham gia BHTN, bảo quản, sử dụng sổ BHXH, thẻ

BHYT theo quy định; trong trường hợp đang đóng BHTN, nghỉ việc rồi có việc làm

mới, phải thông báo với NSDLĐ kế tiếp để tiếp tục tham gia BHTN theo quy định;

nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN, hỗ trợ học nghề theo quy định tại Trung tâm

97

DVVL khi có nhu cầu ; thực hiện các giao dịch với Trung tâm DVVL theo đúng

quy định trong thời gian hưởng BHTN: nhận việc làm hoặc tham gia khóa học nghề

phù hợp; thông báo về việc tìm kiếm việc làm trong thời gian đang hưởng TCTN;

thông báo ngay tình trạng việc làm khi có việc làm mới; nộp lại thẻ BHYT khi

chấm dứt hưởng TCTN…

- Người sử dụng lao động: khi thuộc diện tham gia BHTN bắt buộc, NSDLĐ

là đối tượng QLNN về BHTN. NSDLĐ có các quyền: được hỗ trợ kinh phí đào tạo,

bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ khi đủ điều

kiện; được từ chối thực hiện các yêu cầu không đúng quy định của pháp luật về

BHTN; được khiếu nại, tố cáo liên quan về BHTN theo quy định của pháp luật.

NSDLĐ có các trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với tổ chức công đoàn cơ sở để thông

tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHTN; Xác định đối tượng

tham gia BHTN, thực hiện đúng trình tự, thủ tục tham gia BHTN, đóng BHTN

đúng, đủ và kịp thời theo quy định của pháp luật; Bảo quản hồ sơ tham gia BHTN

của NLĐ trong thời gian NLĐ làm việc tại đơn vị ; Xuất trình các tài liệu, hồ sơ và

cung cấp thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi

có kiểm tra, thanh tra về BHTN; Cung cấp thông tin về việc đóng BHTN cho NLĐ

khi có yêu cầu của NLĐ; Cung cấp bản sao HĐLĐ hoặc HĐLV hoặc xác nhận về

việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV cho NLĐ; Thực hiện thủ tục xác

nhận về việc đóng BHTN cho NLĐ để NLĐ hoàn thiện hồ sơ hưởng BHTN theo

quy định; Thông báo biến động lao động làm việc tại đơn vị với Trung tâm DVVL

nơi đặt trụ sở ; Báo cáo tình hình tham gia BHTN hàng năm cho Sở LĐ-TB&XH;

Khi được cấp kinh phí hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để

duy trì việc làm cho NLĐ, phải triển khai thực hiện đúng phương án được cơ quan

có thẩm quyền phê duyệt đồng thời sử dụng NLĐ đã được đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao trình độ kỹ năng nghề theo phương án đã được phê duyệt và báo cáo kết quả

thực hiện về Sở LĐ-TB&XH.

3.2.3.5 Quy định về quỹ bảo hiểm thất nghiệp

- Các bên đóng góp vào quỹ: NSDLĐ, NLĐ và hỗ trợ từ NSNN (nếu có).

- Mức đóng góp: NLĐ đóng bằng 1% tiền lương tháng;NSDLĐ đóng bằng 1%

quỹ tiền lương tháng của những NLĐ đang tham gia BHTN; Nhà nước hỗ trợ tối đa

1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN và do

98

ngân sách TW bảo đảm.

- Tiền lương tháng làm căn cứ đóng góp: Đối với NLĐ thuộc đối tượng thực

hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định: là tiền lương tháng là tiền lương theo

ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên

vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Trường hợp cao hơn 20 lần mức

lương cơ sở thì mức tiền lương tháng đóng BHTN bằng 20 tháng lương cơ sở. Đối

với NLĐ đóng BHTN theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định: là tiền lương

tháng ghi trong HĐLĐ. Trường hợp cao hơn 20 lần mức lương tối thiểu vùng thì

mức tiền lương tháng đóng BHTN bằng 20 tháng lương tối thiểu vùng.

- Phương thức đóng: Có hai phương thức dành cho hai đối tượng NSDLĐ: (1)

Đóng 3 tháng hoặc 6 tháng một lần (dành cho NSDLĐ là doanh nghiệp, hợp tác xã,

hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,

ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo sản phẩm hoặc theo khoán) và (2) Đóng

hàng tháng (dành cho NSDLĐ còn lại).

- Nguồn hình thành quỹ: Quỹ BHTN được hình thành từ các nguồn thu: Các

khoản đóng góp của NSDLĐ, NLĐ; Khoản hỗ trợ của nhà nước; Tiền sinh lời của

hoạt động đầu tư từ quỹ; Tiền lãi chậm đóng BHTN và các nguồn thu hợp pháp

khác.

- Sử dụng quỹ BHTN: Quỹ BHTN được sử dụng để chi cho các khoản: Chi trả

TCTN; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc

làm cho NLĐ; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ tư vấn, GTVL; Đóng BHYT cho người

hưởng TCTN; Chi trả chi phí quản lý BHTN và Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng

Quỹ.

- Quản lý quỹ BHTN: Quỹ BHTN được hạch toán độc lập và tổ chức BHXH

thực hiện việc thu, chi, quản lý và sử dụng Quỹ BHTN. Các quy định về quản lý

quỹ BHTN xem phụ lục 5.

3.2.3.6 Quy định về xử lý vi phạm, thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải

quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm thất nghiệp

a. Quy đinh về xử lý vi phạm về bảo hiểm thất nghiệp

- Về xử phạt vi phạm hành chính: có 3 hành vi vi phạm về BHTN được quy

định gồm: vi phạm về đóng BHTN, về lập hồ sơ hưởng và các vi phạm khác. Cụ thể

về các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu

99

quả đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHTN được quy định như sau:

+ Vi phạm về đóng BHTN: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng

đến 1.000.000 đồng đối với NLĐ có hành vi thỏa thuận với NSDLĐ không tham gia

BHTN; Phạt tiền với mức từ 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng BHTN tại thời

điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối

với NSDLĐ có một trong các hành vi: chậm đóng, đóng không đúng mức quy định,

đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHTN theo quy định; Phạt tiền với

mức từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng BHTN tại thời điểm lập biên bản vi

phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với NSLĐ không

đóng BHTN cho toàn bộ NLĐ thuộc diện tham gia BHTN. Biện pháp khắc phục

hậu quả: Buộc truy nộp số tiền BHTN chưa đóng, chậm đóng; buộc đóng số tiền lãi

của số tiền BHTN chưa đóng, chậm đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ

quỹ BHTN trong năm.

+ Vi phạm về lập hồ sơ hưởng BHTN: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến

1.000.000 đồng đối với NLĐ có hành vi kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa,

tẩy xóa những nội dung có liên quan đến việc hưởng BHTN; Phạt tiền từ 1.000.000

đồng đến 2.000.000 đồng đối với NLĐ có một trong các hành vi: thỏa thuận với cơ

sở đào tạo nghề làm giả hồ sơ để trục lợi số tiền hỗ trợ học nghề mà chưa đến mức

truy cứu trách nhiệm hình sự; không thông báo với Trung tâm DVVL theo quy định

khi NLĐ có việc làm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng

TCTN; NLĐ đang hưởng TCTN không thông báo theo quy định với Trung tâm

DVVL khi tìm được việc làm hoặc thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an

hoặc hưởng lương hưu hằng tháng hoặc ra nước ngoài để định cư hoặc đi lao động ở

nước ngoài theo hợp đồng hoặc đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên hoặc

chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục

bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000

đồng đối với NSDLĐ có hành vi không thông báo với Trung tâm DVVL nơi đặt trụ

sở làm việc của NSDLĐ khi có biến động lao động việc làm tại đơn vị theo quy

định của pháp luật; Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với

NSDLĐ có hành vi giả mạo hồ sơ BHTN để trục lợi chế độ BHTN mà chưa đến

mức truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mỗi hồ sơ hưởng BHTN giả mạo; Phạt

tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với NSDLĐ có hành vi tổ chức

100

triển khai đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ không theo

đúng phương án được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Biện pháp khắc phục hậu

quả: Buộc NLĐ nộp lại cho tổ chức bảo hiểm xã hội số tiền TCTN đã nhận do vi

phạm; buộc NSDLĐ tổ chức triển khai đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ

năng nghề cho NLĐ đúng theo phương án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phê duyệt

+ Vi phạm các quy định khác về BHTN: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến

1.000.000 đồng đối với NSLĐ: không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ tài

liệu, thông tin về BHTN theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi có

yêu cầu của NLĐ hoặc tổ chức công đoàn; không làm văn bản đề nghị cơ quan

BHTN xác nhận việc đóng BHTN cho NLĐ để họ hoàn thiện hồ sơ hưởng BHTN

theo quy định; Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng khi vi phạm với mỗi

NĐ đối với NSDLĐ khi NSLĐ không lập hồ sơ tham gia BHTN cho NLĐ trong

thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết HĐLĐ, HĐLV hoặc tuyển dụng; Phạt tiền từ

1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với cơ sở đào tạo nghề tổ chức dạy nghề

không đủ thời gian khóa học mà NLĐ tham gia BHTN đăng ký đối với mỗi NLĐ vi

phạm; thỏa thuận với cá nhân, tổ chức có liên quan để trục lợi số tiền hỗ trợ học

nghề đối với mỗi trường hợp vi phạm. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc các cơ

sở dạy nghề thực hiện dạy nghề đủ thời gian khóa học mà NLĐ tham gia BHTN

đăng ký và nộp lại số tiền đã trục lợi vào NSNN.

- Về xử lý hình sự: Các hành vi vi phạm về BHTN cấu thành tội phạm gồm

hai tội: tội gian lận BHTN và tội trốn đóng BHTN. Cụ thể về các hành vi phạm tội,

hình thức xử lý đối với hành vi phạm tội trong lĩnh vực BHTN được quy định như

sau:

+ Tội gian lận bảo hiểm thất nghiệp: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng

đến 02 năm đối với người nào lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ BHTN

lừa dối cơ quan BHXH; dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa

dối cơ quan BHXH để hưởng các chế độ BHTN để chiếm đoạt tiền BHTN từ

10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 20.000.000 đồng

đến dưới 200.000.000; Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc

phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nếu phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp,

101

chiếm đoạt tiền BHTN từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây

thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, dùng thủ đoạn tinh vi,

xảo quyệt, tái phạm nguy hiểm; Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi chiếm đoạt tiền

BHTN từ 500.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

+ Tội trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động: Phạt tiền từ

50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm

hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm đối với người nào có nghĩa vụ đóng BHTN cho

NLĐ mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ

theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp: trốn đóng

BHTN từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; trốn đóng BHTN cho từ 10

đến dưới 50 NLĐ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi

phạm; Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06

tháng năm đến 03 năm khi phạm tội 2 lần trở lên hoặc trốn đóng số tiền từ

300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc trốn đóng bảo hiểm cho từ 50

người đến dưới 200 người hoặc không đóng số tiền BHTN đã thu hoặc đã khấu trừ

của NLĐ; Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ

02 năm đến 07 năm khi trốn đóng với số tiền từ 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc

trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên; không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc

đã khấu trừ của NLĐ. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ

20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Nếu là pháp nhân thương mại

phạm tội thì có thể bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng.

b. Quy đinh về thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm thất nghiệp

- Về hoạt động thanh tra: Đối tượng thanh tra về BHTN gồm: (1) các cơ

quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ LĐ-TB&XH, Sở LĐ-TB&XH

về BHTN và (2) các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ chấp hành quy định pháp

luật về BHTN thuộc phạm vi QLNN về BHTN. Cơ quan có chức năng thanh tra

về BHTN: Thanh tra Bộ LĐ-TB&XH và Thanh tra Sở LĐ-TB&XH. Nội dung

thanh tra về BHTN: Đối với thanh tra hành chính về BHTN, nội dung thanh tra là

102

việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan, tổ

chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ LĐ-TB&XH, Sở LĐ-TB&XH về

BHTN. Đối với thanh tra chuyên ngành về BHTN, nội dung thanh tra là việc chấp

hành pháp luật về BHTN của NLĐ, NSDLĐ, các cơ sở dạy nghề và tổ chức BHXH.

Trình tự, thủ tục thanh tra về BHTN: Đối với thanh tra hành chính về BHTN, thực

hiện theo quy định tại Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Thanh tra. Đối với

thanh tra chuyên ngành về BHTN, thực hiện theo quy định tại Nghị định số

07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực

hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành. Về

xây dựng và phê duyệt kế hoạch thanh tra về BHTN hàng năm: Đối với kế hoạch

thanh tra của Thanh tra Bộ LĐ-TB&XH về BHTN: Hàng năm, vào trước ngày 15

tháng 11, căn cứ vào định hướng chương trình thanh tra, hướng dẫn của Tổng

Thanh tra Chính phủ và yêu cầu công tác của ngành LĐ-TB&XH, Thanh tra Bộ

LĐ-TB&XH có trách nhiệm xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH kế hoạch

thanh tra hàng năm của ngành, trong đó có lĩnh vực BHTN. Trên cơ sở đó, Bộ

trưởng xem xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 25 tháng 11 hàng

năm. Đối với Kế hoạch thanh tra của Thanh tra Sở LĐ-TB&XH: Hằng năm, trước

ngày 05 tháng 12, căn cứ kế hoạch thanh tra của Thanh tra Bộ LĐ-TB&XH, Thanh

tra tỉnh, thành phố trực thuộc TW và yêu cầu công tác quản lý ngành LĐ-TB&XH,

Thanh tra Sở LĐ-TB&XH xây dựng và trình Giám đốc Sở LĐ-TB&XH kế hoạch

thanh tra hàng năm, trong đó có lĩnh vực BHTN. Trên cơ sở đó, Giám đốc Sở xem

xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 15 tháng 12 hàng năm.

- Về hoạt động kiểm tra: Trong QLNN về BHTN, kiểm tra chức năng và

kiểm tra nội bộ của ngành LĐ-TB&XH về BHTN không được quy định riêng, mà

quy định chung với các vấn đề khác của ngành. Các quy định này được quy định cụ

thể trong Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ

LĐ-TB&XH, Sở LĐ-TB&XH.

c. Quy đinh về tiếp công dân, giải quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về

bảo hiểm thất nghiệp

Thông tư 53/2015/TT-BLĐTBXH ngày 11/12/2015 hướng dẫn về quy trình

tiếp công dân và xử lý đơn thuộc lĩnh vực QLNN của ngành LĐ-TB&XH quy định

103

chi tiết và hướng dẫn cụ thể Luật tiếp công dân năm 2013, Luật Khiếu nại năm

2011, Luật Tố cáo năm 2011 trong QLNN về lao động- thương binh và xã hội,

trong đó có quy trình tiếp công dân, xử lý đơn phản ánh, kiến nghị, thư hỏi, đơn

khiếu nại, tố cáo về BHTN. Một số quy định chủ yếu gồm: Các cơ quan QLNN về

BHTN và các đơn vị sự nghiệp thực hiện công tác thu, tiếp nhận, xử lý giải quyết

chế độ BHTN đều phải bố trí địa điểm tiếp công dân tại trụ sở và đảm bảo các điều

kiện để hoạt động tiếp công dân được diễn ra thuận lợi. Việc tiếp công dân, xử lý

đơn phải thực hiện đúng quy trình và thẩm quyền: (1) Xác định nhân thân; (2)

Nghe, ghi chép đầy đủ nội dung trình bày của công dân; (3) Xác định nội dung vụ

việc của công dân về BHTN; (4) Tiến hành phân loại (khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,

phản ánh hay hỏi chính sách); (5) Xác định thẩm quyền giải quyết; (6) Xử lý đơn

nếu thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc giải thích/hướng dẫn/chuyển đơn nếu không

thuộc thẩm quyền giải quyết; (7) Quản lý và lưu trữ hồ sơ.

3.2.3.7 Quy định về thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp

Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành 11 TTHC về BHTN gồm các TTHC mã số từ: B-

BLD-286073-TT đến B-BLD-286083-TT như bảng 3.10 (chi tiết xem phụ lục 1).

Bảng 3.10: Danh mục thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp

Mã số Tên TTHC

B-BLD-286073-TT Tham gia BHTN B-BLD-286074-TT Giải quyết hưởng TCTN B-BLD-286075-TT Tạm dừng hưởng TCTN B-BLD-286076-TT Tiếp tục hưởng TCTN B-BLD-286077-TT Chấm dứt hưởng TCTN B-BLD-286078-TT Chuyển nơi hưởng TCTN (chuyển đi) B-BLD-286079-TT Chuyển nơi hưởng TCTN (chuyển đến) B-BLD-286080-TT Giải quyết hỗ trợ học nghề B-BLD-286081-TT Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm B-BLD-286082-TT Thông báo về việc tìm việc làm hằng tháng Cơ quan thực hiện BHXH cấp tỉnh Trung tâm DVVL Trung tâm DVVL Trung tâm DVVL Trung tâm DVVL Trung tâm DVVL Trung tâm DVVL Sở LĐ-TB&XH Sở LĐ-TB&XH Sở LĐ-TB&XH

B-BLD-286083-TT Sở LĐ-TB&XH Giải quyết hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ

(Nguồn: Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại trang thông tin điện tử: http://csdl.thutuchanhchinh.vn) 3.3 Đánh giá thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam

104

3.3.1 Những mặt được

Một là, Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ngày

càng phù hợp hơn với thực tiễn

Trong một thời gian ngắn đi vào thực tiễn, các cơ quan QLNN về BHTN các

cấp đã hoàn thành việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

nhằm chỉ đạo, hướng dẫn triển khai BHTN. Bộ LĐ-TB&XH cũng thường xuyên

tiến hành và chỉ đạo các địa phương tiến hành các hoạt động sơ kết, tổng kết (6

tháng, 1 năm, 18 tháng, 3 năm và 5 năm) để đánh giá kịp thời những mặt được,

chưa được, những vấn đề phát sinh và kịp thời điều chỉnh nội dung thể chế QLNN

về BHTN, nhờ đó thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam ngày càng phù hợp hơn

với thực tiễn. Cụ thể:

- Đối tượng tham gia BHTN được mở rộng hơn: Khi mới bắt đầu triển khai

BHTN, đối tượng tham gia của BHTN chỉ bao gồm những NLĐ công dân Việt Nam

làm việc theo HĐLĐ hoặc HĐLV mà các hợp đồng này không xác định thời hạn

hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng với NSDLĐ có

sử dụng từ mười lao động trở lên. Hiện nay, đối tượng tham gia BHTN đã được mở

rộng đến tất cả NSDLĐ có sử dụng từ 1 lao động trở lên, trong đó bổ sung thêm đối

với những NLĐ có ký HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có

thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng (trừ người đang hưởng lương hưu, trợ

cấp mất sức lao động hàng tháng, người giúp việc gia đình).

- Trách nhiệm của NSDLĐ được quy định ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và cụ

thể: Năm 2008, Nghị định 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm

của NSDLĐ là: đóng BHTN đủ và đúng theo quy định; bảo quản hồ sơ tham gia

BHTN của NLĐ trong thời gian NLĐ làm việc tại đơn vị; thực hiện đúng quy định

về việc lập hồ sơ để NLĐ đóng và hưởng chế độ BHTN; xuất trình các tài liệu, hồ

sơ và cung cấp thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền khi có kiểm tra, thanh tra về BHTN và cung cấp các văn bản theo quy định

tại cho NLĐ để hoàn thiện hồ sơ hưởng BHTN (Điều 10). Năm 2012, Nghị định

100/2012/NĐ-CP của Chính phủ bổ sung thêm 3 nội dung quan trọng về trách

nhiệm của NSDLĐ là: xác định đối tượng tham gia BHTN của đơn vị; cung cấp

thông tin cho NLĐ về việc đóng BHTN của NLĐ đó trong thời hạn hai ngày (tính

theo ngày làm việc), kể từ ngày NLĐ yêu cầu và thông báo với cơ quan lao động khi

105

có biến động lao động làm việc tại đơn vị (khoản 4, Điều 1). Năm 2015, Nghị định

28/2015/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi quy định NSDLĐ thông báo với cơ quan

lao động nơi đặt trụ sở làm việc của NSDLĐ khi có biến động lao động làm việc tại

đơn vị thành thông báo với trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW, đồng

thời bổ sung thêm 4 nhiệm vụ quan trọng khác của NSDLĐ: Chủ trì, phối hợp với

tổ chức công đoàn cơ sở để thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật

về BHTN; trước ngày 15 tháng 01 hằng năm báo cáo Sở LĐ-TB&XH về tình hình

tham gia BHTN của năm trước; Tổ chức triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ theo đúng phương án được

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW phê duyệt và sử dụng NLĐ đã được đào tạo,

bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề theo phương án đã được phê duyệt và

báo cáo kết quả thực hiện về Sở LĐ-TB&XH trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết

thúc khóa đào tạo (Điều 32). Thêm vào đó, Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành Thông tư

28/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn cụ thể về mẫu biểu để NSDLĐ thông báo biến

động lao động với Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW (gồm thông báo

ban đầu về số lao động đang làm việc, thực hiện sau khi thành lập 30 ngày, và thông

báo biến động lao động định kỳ trước ngày 03 hàng tháng) và báo cáo tình hình

tham gia BHTN cho Sở LĐ-TB&XH (báo cáo định kỳ trước ngày 15/01 hàng năm).

- Mức hỗ trợ học nghề tốt hơn: Nếu như trước đây, người đang hưởng TCTN

được hỗ trợ học nghề với thời gian không quá sáu tháng và mức hỗ trợ chỉ bằng

mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề (Quyết

định số 55/2013/QĐ-TTg ngày 03/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức

hỗ trợ học nghề đối với NLĐ đang hưởng TCTN) thì nay mức hỗ trợ học nghề đã

tăng lên với mức hỗ trợ tối đa là 01 triệu đồng/người/tháng nhưng không quá 6

tháng, trong đó, mức hỗ trợ cụ thể được tính theo tháng, tùy theo từng nghề, mức

thu học phí và thời gian học nghề thực tế theo quy định của cơ sở dạy nghề. Nếu

tham gia khóa học nghề có mức chi phí học nghề cao hơn mức hỗ trợ học nghề,

phần vượt quá mức hỗ trợ học nghề do NLĐ tự chi trả (Quyết định số 77/2014/QĐ-

TTg ngày 24/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức hỗ trợ học nghề đối

với NLĐ tham gia BHTN).

- Các chế độ BHTN đa dạng hơn và được mở rộng hơn: Nếu như trước đây

chỉ có 3 chế độ BHTN là TCTN, tư vấn, GTVL và hỗ trợ học nghề thì nay có thêm

106

chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc

làm cho NLĐ. Bên cạnh đó, chế độ tư vấn, GTVL và hỗ trợ học nghề được mở rộng

hơn, không chỉ cho người đang hưởng TCTN mà còn cho NLĐ đã đóng BHTN từ

đủ 09 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV

(đối với chế độ hỗ trợ học nghề) và NLĐ đang tham gia BHTN bị mất việc làm

không đủ điều kiện hưởng TCTN (đối với chế độ tư vấn, GTVL).

- Chế tài xử lý vi phạm ngày một nghiêm khắc hơn. Về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực BHTN: Nếu như trước đây mức xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực BHTN tối đa chỉ đến 30 triệu đồng (Nghị định 86/2010/NĐ-CP ngày

13/8/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

BHXH) thì hiện nay mức xử phạt vi phạm hành chính tăng lên tối đa là 75 triệu

đồng (Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa NLĐ Việt Nam

đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng), đồng thời sửa đổi, bổ sung thêm các hành

vi vi phạm và tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHTN

(Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH và đưa NLĐ Việt

Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng). Về về xử lý hình sự: Nếu như trước

đây các hành vi vi phạm pháp luật về BHTN chưa được xem là cấu thành tội phạm,

do đó, chưa có quy định xử lý hình sự đối với các tội danh thì đến nay theo quy định

của Bộ luật hình sự năm 2015, tội trốn đóng BHTN cho NLĐ (điều 216) và tội gian

lận BHTN, gồm các hành vi lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ BHTN

lừa dối cơ quan BHXH; dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa

dối cơ quan BHXH hưởng chế độ BHTN để chiếm đoạt tiền BHTN (điều 214) thì

tùy theo mức độ phạm tội mà có thể bị phạt tiền lên đến 500 triệu đồng, phạt tù lên

đến 10 năm, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

từ 01 năm đến 05 năm (đối với cá nhân) hoặc phạt tiền lên đến 3 tỷ đồng (đối với

pháp nhân thương mại).

- Thủ tục, hồ sơ, quy trình thực hiện ngày càng được tinh gọn, theo hướng tạo

thuận lợi cho NLĐ: quy định mới về BHTN đã bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp,

cho phép nộp hồ sơ hưởng BHTN ở bất kỳ Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực

107

thuộc TW nào nơi NLĐ có nhu cầu; cho phép bảo lưu thời gian đóng BHTN trong

các trường hợp: đã nộp hồ sơ hưởng TCTN mà ko có nhu cầu hưởng, đang hưởng

TCTN mà tìm được việc làm, thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, đi học

tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên, chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa

vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, bị tòa án

tuyên bố mất tích hoặc bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù.

Hai là, nội dung cơ bản của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế và các

nước trên thế giới, một số quy định về bảo hiểm thất nghiệp thể hiện tính nhân

văn sâu sắc. Cụ thể:

- Về mức đóng góp: Các công ước của ILO quy định chung về mức đóng góp,

có thể chọn một trong hai phương thức: NLĐ và NSDLĐ cùng chia sẻ theo phương

thức đóng góp đồng đều hoặc NSDLĐ quan tâm nhiều hơn đến NLĐ theo phương

thức đóng góp NSDLĐ đóng nhiều hơn một tỷ lệ nhất định so với đóng góp của

NLĐ, nhà nước có thể hỗ trợ hoặc không.

Ở Việt Nam, mức đóng góp của NLĐ và NSDLĐ là như nhau, mức hỗ trợ của

NSNN cho quỹ BHTN tương đối cao so với các nước trong khu vực (bảng 3.11).

Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHTN (%)

Nước

Hồ trợ từ nhà nước

Argentina Bahrain Canada Đức Nhật Bản Hoa Kỳ Hàn Quốc Thái Lan Mông Cổ Việt Nam

NLĐ - 1,00 1,83 1,50 0,60 - 0,55 0,50 0,50 1,00

- 1,00 - - 0,25 - - 0,25 - 0,00- 1,00

NSDLĐ 0,89-1,50 1,00 2,56 1,50 0,95 3,20 0,80-1,20 0,50 0,50 1,00

Bảng 3.11: Tỷ lệ đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở một số quốc gia

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Luật Việc làm, Đạo luật An sinh xã hội các nước và báo cáo của ILO năm 2015 về Đánh giá so sánh kinh nghiệm về việc làm và bảo hiểm thất nghiệp ở Châu Á và trên toàn thế giới)

- Về mức hưởng: Theo Công ước C102 của ILO, mức hưởng được quy định từ

45% thu nhập trước đó. Theo Công ước C168 của ILO, mức hưởng không nên ít

108

hơn 50% trăm thu nhập trước đó.

Bảng 3.12. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp ở một số quốc gia

Nước Canada

Hoa Kỳ Hàn Quốc

Thái Lan

Đài Loan Việt Nam Mức hưởng 55% thu nhập bình quân hằng tuần tính theo mức thu nhập của tuần làm việc cuối cùng. Mức tối đa là 457$/tuần. 25% đến 55% thu nhập của NLĐ trước khi mất việc 50% thu nhập bình quân tháng đóng BHTN, mức hưởng hàng ngày tối thiểu là 22.320 won, tối đa là 40.000 won. 50% thu nhập bình quân tháng đóng BHTN. Mức hưởng hàng ngày tối đa là 250 baht. 60% thu nhập bình quân tháng đóng BHTN 60% thu nhập bình quân tháng đóng BHTN

Ngoài ra, trừ một số ít các nước có mức hưởng cao hơn như Đức (67%), Pháp

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Luật Việc làm, Đạo luật An sinh xã hội các nước và báo cáo của ILO năm 2015 về Đánh giá so sánh kinh nghiệm về việc làm và bảo hiểm thất nghiệp ở Châu Á và trên toàn thế giới)

(75%), Nhật Bản (50%-80%), Thụy Sĩ (80%), Đan Mạch (90%), ở hầu hết các nước

còn lại, mức hưởng thường gặp nhất là khoảng 50-60% thu nhập đóng góp trước đó

(bảng 3.12). Ở Việt Nam, tỷ lệ này là 60%, thể hiện được sự phù hợp với luật pháp

quốc tế và quy định của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

- Về thời gian hưởng: Công ước C102 của ILO giới hạn thời gian hưởng là 13

tuần trong thời kỳ 12 tháng, nếu người được bảo vệ là người làm công ăn lương và

26 tuần trong thời kỳ 12 tháng nếu người được bảo vệ là người thường trú mà các

phương tiện sinh sống trong trường hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy

định. Công ước C168 của ILO giới hạn đến 26 tuần cho mỗi kỳ thất nghiệp hoặc

đến 39 tuần trong mỗi giai đoạn thất nghiệp 24 tháng. Ở Hoa Kỳ, hầu hết các bang

phải trả lên đến 26 tuần lợi ích, lợi ích được trả mỗi hai tuần. Trong thời kỳ suy

thoái, khi tất cả bang có tỷ lệ thất nghiệp cao, các chương trình liên bang tài trợ các

lợi ích bổ sung thường được áp dụng với mức chi trả thêm 13 tuần hoặc 20 tuần. Ở

Trung Quốc, thời gian hưởng phụ thuộc vào thời gian đóng góp: Ít hơn 5 năm được

nhận 12 tháng, 5 đến 10 năm được nhận 18 tháng, hơn 10 năm được nhận 24 tháng.

Ở Thái Lan, NLĐ thất nghiệp, người bị sa thải có được lên đến 180 ngày trong vòng

1 năm; NLĐ thất nghiệp tự nguyện từ chức chỉ nhận được tối đa 90 ngày trong 1

năm. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, BHTN bồi thường đã được mở rộng

đến 240 ngày đối với NLĐ thất nghiệp trong năm 2009. Thời gian hưởng BHTN ở

109

Việt Nam hiện nay được căn cứ vào mức đóng góp vào quỹ BHTN trước khi thất

nghiệp, cụ thể là: cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng

TCTN, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng TCTN

nhưng tối đa không quá 12 tháng trợ cấp.

- Về điều kiện hưởng: Các Công ước ILO và quy định ở các nước đều quy

định sự khác nhau trong chi trả BHTN cho các đối tượng thất nghiệp tự nguyện và

không tự nguyện theo hai hướng: hoặc là chỉ chi trả đối với người thất nghiệp

không tự nguyện, còn đối tượng người thất nghiệp tự nguyện không được hưởng

hoặc là cả hai đối tượng đều được chi trả nhưng mức của người thất nghiệp tự

nguyện thấp hơn người thất nghiệp không tự nguyện. Riêng ở Việt Nam, cả thất

nghiệp tự nguyện và không tự nguyện đều được hưởng như nhau về mức hưởng và

thời gian hưởng mà không có sự phân biệt đối xử (trừ các trường hợp chấm dứt

HĐLĐ/HĐLV trái pháp luật). Quy định này xuất phát từ nhận thức của nhà nước về

quyền được hưởng BHTN là quyền của mọi người tham gia BHTN: có tham gia thì

có hưởng khi thất nghiệp xảy ra, bất kể là tự nguyện hay không tự nguyện. Điều này

thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chính sách BHTN ở Việt Nam, nhờ đó, số người

thất nghiệp được hưởng lợi từ chính sách BHTN chiếm tỷ lệ cao so với các nước

khác, ở mức 50,05%, trong khi đó các nước khác tỷ lệ này không cao (Nhật Bản:

22,9%, Đài Loan: 23,7%, Thái Lan: 6,7% -17,7%, Trung Quốc (11,7%-74,2%)

[155, tr.165].

- Về các chế độ BHTN: Các chế độ BHTN ở Việt Nam rất đa dạng, không

những hỗ trợ để khắc phục rủi ro do tình trạng thất nghiệp mang lại mà còn thể hiện

được vai trò phòng ngừa rủi ro thông qua chế độ hỗ trợ NSDLĐ đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao kỹ năng nghề cho NLĐ để duy trì việc làm cho NLĐ. Ngoài ra, việc tư

vấn, GTVL, hỗ trợ học nghề còn được thực hiện cho cả đối tượng không đủ điều

kiện hưởng TCTN, đóng BHTN một khoảng thời gian nhất định và có nhu cầu được

tư vấn, hỗ trợ học nghề. Quy định này thể hiện sự tiến bộ vượt bậc so với một số

nước trên thế giới khi họ chỉ quan tâm để các chế độ hạn chế rủi ro do tình trạng

thất nghiệp và các chế độ cho người đủ điều kiện hưởng BHTN.

Ba là, việc điều chỉnh quy định về chức năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy tiếp

nhận, giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp từ Phòng Lao động- Thương binh

và Xã hội sang Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

110

ương tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp

đến với người lao động, cũng phù hợp với mô hình tổ chức thực hiện của các

nước trên thế giới.

BHTN có mục đích thay thế, bù đắp một phần thu nhập của NLĐ bị mất việc

làm và quan trọng hơn đây là một chính sách TTLĐ gắn liền với các chính sách hỗ

trợ việc làm, DVVL, thông tin TTLĐ, đào tạo và phát triển kỹ năng nghề,... Do đó,

việc tổ chức triển khai thực hiện BHTN gắn liền với Trung tâm DVVL thuộc Sở

LĐ-TB&XH đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác quản lý và thực hiện chính

sách, cũng là tạo điều kiện hơn cho NLĐ.

Bên cạnh đó, mô hình này cũng phù hợp với mô hình ở các nước đã thực hiện

thành công chính sách BHTN (Hàn Quốc, Nhật Bản, Canada, Đức, Ác-hen-ti-na,

Mông Cổ,....): việc tổ chức thực thi BHTN đều gắn với các chính sách việc làm chủ

động và do hệ thống DVVL triển khai thực hiện.

Bốn là, Các quy định về thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết kiến

nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm thất nghiệp là chi tiết, cụ thể.

Bộ LĐ- TB&XH đã cụ thể hóa các quy định của Luật Thanh tra, Luật Khiếu

nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân bằng các văn bản hướng dẫn trong phạm vi

ngành: Trình tự, thủ tục thanh tra; Quy trình tiếp công dân và xử lý đơn thuộc lĩnh

vực quản lý nhà nước của ngành LĐ-TB&XH; ... .Các quy định này là rõ ràng, chi

tiết, cụ thể giúp các địa phương thuận lợi trong quá trình triển khai, thực hiện.

Những thành công về thể chế QLNN về BHTN được ghi nhận ở mục 3.3.1

trên đây xuất phát từ những nguyên nhân chính sau đây:

Thứ nhất, sự quyết tâm của Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam trong

thực hiện bảo hiểm thất nghiệp

Việc Việt Nam áp dụng chính sách BHTN, trở thành nước thứ 79 trên thế giới

và nước thứ hai ở khu vực Đông Nam Á thực hiện BHTN là sự quan tâm rất lớn của

Đảng và Nhà nước trong vấn đề đảm bảo việc làm, hạn chế thất nghiệp, đảm bảo an

sinh xã hội cho người lao động.

Sự quan tâm đối với chính sách BHTN còn thể hiện rõ khi mục tiêu phát triển

bảo hiểm thất nghiệp được trở thành một mục tiêu trong các văn bản chỉ đạo, điều

hành của Đảng và Chính phủ, trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội Việt Nam

trong từng thời kỳ, trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm [156], [158],

111

[183], [184], [186], [202].

Thứ hai, sự quyết tâm cao của Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng

Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ, tạo tiền đề nâng cao hiệu

quả QLNN ở tất cả các ngành, lĩnh vực, trong đó có BHTN.

Thời gian qua, Chính phủ luôn nhất quán trong chỉ đạo, điều hành nhằm tạo ra

thể chế quản trị hiệu quả, một Chính phủ mạnh, một nền công vụ chuyên nghiệp,

gọn nhẹ, minh bạch, thân thiện.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về BHTN, Chính phủ không ngừng chỉ

đạo các Bộ, ngành liên quan và các địa phương trong triển khai, tổ chức thực hiện,

kiểm tra, rà soát, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình thực thi chính

sách BHTN, từ đó, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh, tham mưu điều chỉnh chính sách

BHTN cho phù hợp với tình hình thực tế.

Nhờ đó, nội dung của thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam ngày càng phù

hợp hơn với thực tiễn.

Thứ ba, sự quyết tâm cao của Chính phủ Việt Nam trong hội nhập quốc tế về

lao động- việc làm, trong đó có BHTN.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày

20/01/2016, về phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến

năm 2020, tầm nhìn 2030 [202]. Một trong những mục tiêu tổng quát và cụ thể của

Chiến lược là “Phấn đấu phát triển lĩnh vực lao động- xã hội đạt trình độ các nước

ASEAM-6 vào năm 2020 và kịp các nước ASEAN-4 vào năm 2025” và “Hoàn

thiện thể chế về lao động- xã hội theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, trong đó có

các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)”.

Nhờ sự quan tâm này, đến nay, nội dung cơ bản của thể chế QLNN về BHTN

ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy định của ILO, một số quy định về bảo hiểm

thất nghiệp thể hiện tính nhân văn sâu sắc.

Thứ tư, sự thống nhất cao của các cơ quan QLNN về BHTN ở Trung ương và

địa phương trong chỉ đạo, điều hành, quản lý BHTN nhằm thực hiện chủ trương,

đường lối của Đảng về BHTN và xu hướng phát triển BHTN của thế giới.

Các mục tiêu về phát triển BHTN đều được các cơ quan QLNN về BHTN ở

Trung ương và địa phương cụ thể hóa và tổ chức thực hiện xuyên suốt, nhất quán.

Từ đó, đã ban hành đầy đủ, đồng bộ, kịp thời hệ thống các văn bản QLNN về

112

BHTN ở trung ương và địa phương.

3.3.2 Những bất cập

3.3.2.1 Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp tuy đã được ban

hành đầy đủ, đồng bộ và kịp thời có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình

thực tế nhưng tính hiệu lực chưa cao

- Mức độ chấp hành thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp của

người lao động chưa cao: Việc NLĐ cố tình nghỉ việc, nhảy việc để được hưởng

chính sách BHTN là có xảy ra, gây ra sự xáo trộn nhất định đối với TTLĐ. Một số

NLĐ tìm cách thỏa thuận với NSDLĐ để được hưởng TCTN, không trung thực khi

khai báo tình trạng việc làm gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của cơ

quan lao động. Một số NLĐ còn chưa thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong

việc khai báo tình trạng việc làm trong quá trình thẩm định giải quyết hưởng TCTN,

khi các cơ quan chức năng phát hiện NLĐ có việc làm phải tiến hành các thủ tục

chấm dứt và thu hồi nên phát sinh thêm khối lượng công việc và thủ tục thu hồi.

- Mức độ chấp hành thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp của

người sử dụng lao động cũng chưa cao: phần lớn NSDLĐ chưa thực hiện trách

nhiệm thông báo định kỳ về tình hình biến động lao động cho các cơ quan quản lý

theo quy định; tình trạng chậm đóng và nợ đọng BHTN vẫn còn xảy ra thường

xuyên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ khi họ không được chốt sổ BHXH để

hoàn tất thủ tục hưởng BHTN, gây khó khăn cho cơ quản quản lý trong quản lý, sử

dụng quỹ BHTN. Một số NSDLĐ không nhiệt tình tham gia tập huấn chính sách

BHTN do chưa nhận thức được tầm quan trọng của chính sách BHTN cũng như

trách nhiệm của đơn vị với quyền lợi của NLĐ. Một số NSDLĐ cố tình chây ì,

không tiến hành làm các thủ tục chốt sổ cho NLĐ.

- Mức độ chấp hành nghĩa vụ báo cáo thông tin của các địa phương chưa cao.

Một số chỉ tiêu báo cáo số liệu thống kê được Bộ LĐ-TB&XH yêu cầu báo cáo

(trình độ nhân sự thực hiện BHTN, tổng số doanh nghiệp trên địa bản, số doanh

nghiệp thuộc diện tham gia BHTN, số doanh nghiệp tham gia, số người giao kết

HĐLĐ/HĐLV của doanh nghiệp, số người giao kết thuộc đối tượng tham gia, ...)

nhưng một số địa phương vẫn không cung cấp số liệu, làm cho thông tin quản lý

trên phạm vi cả nước không tổng hợp được.

- Tình trạng nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp là rất lớn và mang tính thường

113

xuyên. Nợ đọng BHTN là tình trạng xảy ra trong nhiều năm, ở hầu hết các địa

phương. Số nợ đọng BHTN của cả nước luôn ở mức cao, có năm lên đến hơn 545 tỷ

đồng (năm 2012), bình quân giai đoạn 2010- 2017, mỗi năm nợ BHTN là hơn 300

tỷ đồng (xem bảng 3.13).

Bảng 3.13 Nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017.

ĐVT: triệu đồng

2009

Năm

2017

2010

2014

2011

2016

2015

2013

2012 Nợ đọng BHTN 43,198 308.476 374.735 545.943 301.877 336.354 311.034 323.160 236.000 1,74 6,30

0,001

2,99

2,85

2,75

5,55

5,71

3,13

Tỷ lệ nợ trên tổng số phải thu BHTN (%)

(Nguồn: BHXH Việt Nam) Mặc dù Bộ LĐ-TB&XH, BHXH Việt Nam và các địa phương có nhiều biện

pháp hạn chế tình trạng này (áp dụng lãi phạt chậm nộp, công khai danh sách đơn vị

nợ BHTN, đẩy mạnh tuyên truyền, ...) nhưng tình trạng này vẫn xảy ra thường

xuyên ở các địa phương, làm quyền lợi của NLĐ có nhiều ảnh hưởng.

3.3.2.2 Tên gọi ”Bảo hiểm thất nghiệp” chưa phản ánh đúng nội dung của

chính sách Bảo hiểm thất nghiệp.

Như phân tích ở phần khái niệm bảo hiểm thất nghiệp (mục 2.1.1 trên đây),

đối tượng của chính sách BHTN là NLĐ chứ không phải người thất nghiệp. Ở Việt

Nam, theo quy định hiện hành tại Luật Việc làm, BHTN cũng chỉ áp dụng đối với

NLĐ, nhưng giới hạn ở đối tượng NLĐ có hợp đồng từ đủ 03 tháng trở lên với các

cơ quan, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động từ 01 người trở lên. Có thể so sánh

đối tượng áp dụng BHTN ở Việt Nam trong đối tượng người thất nghiệp như sơ đồ

3.1 dưới đây:

Người thất nghiệp

Người trong độ tuổi lao động, chưa từng có việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm

Người trong độ tuổi lao động, đã có việc làm, bị mất việc làm và hiện đang tích cực tìm kiếm việc làm

Giải thích:

Thuộc đối tượng áp dụng

Có một phần thuộc đối tượng áp dụng

Việc làm bị mất là loại việc làm có HĐLĐ, HĐLV dưới 3 tháng

Việc làm bị mất là loại việc làm không có giao kết HĐLĐ, HĐLV

Việc làm bị mất là loại việc làm có HĐLĐ, HĐLV từ 3 tháng trở lên

Không thuộc đối tượng áp dụng

114

Sơ đồ 3.1: Mô tả đối tượng NLĐ thuộc diện tham gia BHTN

Từ mô tả ở sơ đồ 3.1 có thể thấy rằng: đối tượng BHTN ở Việt Nam chỉ là

một phần của đối tượng “người thất nghiệp”, hay nói cách khác, đối tượng áp dụng

của chính sách BHTN không phải là tất cả những người thất nghiệp như tên gọi của

nó mà chỉ là một phần NLĐ đang làm việc bị mất việc làm.

Với tên gọi "Bảo hiểm thất nghiệp", một cách tự nhiên, chúng ta sẽ hiểu rằng

đối tượng mà BHTN hướng đến là tất cả những người thất nghiệp. Trong khi đó, về

bản chất, bảo hiểm thất nghiệp không bảo hiểm cho “thất nghiệp” mà chỉ bảo hiểm

về “việc làm” cho người lao động trong trường hợp người lao động bị mất việc làm.

Điều này cho thấy, tên gọi của chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa phản

ánh đúng nội dung của chính sách này.

3.3.2.3 Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp chưa linh

hoạt, chưa đảm bảo tính công bằng, tính hiện đại

- Chưa linh hoạt, chưa phát huy sự chủ động của địa phương: Từ Đại hội

VII của Đảng, chủ trương phân cấp, phân quyền, tăng quyền chủ động của chính

quyền địa phương nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được đề

cập. Và từ đó đến nay, chủ trương này được thể hiện xuyên suốt trong chỉ đạo, điều

hành của Đảng và Nhà nước: Nghị quyết TW 8 (Khóa VII) của Đảng yêu cầu: "tăng

quyền chủ động của Hội đồng nhân dân trong việc quyết định những vấn đề mang

tính địa phương trong việc quyết định ngân sách được phân cấp và tổ chức bộ máy

hành chính thành phố, thị xã"; Nghị quyết TW 3 (Khóa VIII) nêu rõ: "phân định

trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp rõ hơn

cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ". Đại hội lần

thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ

động của chính quyền địa phương". Văn kiện Đại hội X tiếp tục xác định: "phân

cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong

việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ

tài chính với trung ương". Văn kiện Đại hội XI nêu rõ: "tiếp tục đổi mới tổ chức

hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội

đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách

nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi

được phân cấp". Hiến pháp 2013 khẳng định: chính quyền địa phương quyết định

các vấn đề của địa phương (quyền tự quyết); được thực hiện các quyền của cấp trên

(quyền của TW đối với cấp tỉnh và của cấp trên với cấp huyện, xã) nếu có đủ điều

115

kiện bảo đảm thực hiện.

Chủ trương đã có, vấn đề là mức độ phân cấp, phân quyền trong quá trình triển

khai thực hiện chính sách BHTN vẫn còn rất hạn chế, do đó tính tự chủ, tự chịu

trách nhiệm của các địa phương chưa cao.

Hiện nay, các nội dung cơ bản của thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam được

đặt ra rất cụ thể và chi tiết được áp dụng chung trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên,

đặc điểm của TTLĐ mỗi nơi một khác, các yếu tố về dân số, LLLĐ, việc làm, thất

nghiệp, tài chính, ngân sách... đều không giống nhau, nên việc áp dụng các quy định

như nhau cho các địa phương có điều kiện khác nhau chưa tạo điều kiện cho các địa

phương phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong thực hiện BHTN. Nếu có

quy định mở, có thể nhiều địa phương có nguồn NSNN dồi dào sẽ có thể hỗ trợ

nhiều hơn cho quỹ BHTN, có thể hỗ trợ tốt hơn cho NSDLĐ trong các trường hợp

khó khăn, cũng như có thể chủ động trong việc đưa ra các giải pháp phát triển

TTLĐ.

Sự chưa linh hoạt trong thể chế QLNN về BHTN cũng được Ông Trần Dũng

Hà, Trưởng phòng Chế độ chính sách, BHXH Thành phố Hồ Chí Minh đề cập:

“Hiện nay, các quy định về bảo hiểm thất nghiệp đều áp dụng chung cho tất cả các

địa phương, chưa có cơ chế mở cho các địa phương. Theo tôi, nếu phải điều chỉnh

chính sách trong thời gian đến thì nên tăng tính chủ động cho địa phương để họ có

thể phát huy thế mạnh về ngân sách, nguồn lực, tự chủ trong bố trí địa điểm, cơ sở

vật chất, có thể có sự hỗ trợ nhiều hơn cho người lao động mất việc làm ngoài các

chế độ bảo hiểm thất nghiệp hiện có“ (phụ lục 7).

- Chưa đảm bảo tính công bằng giữa các đối tượng người lao động, người

sử dụng lao động về giới tính, độ tuổi, khu vực, quy mô trong thực hiện các thủ tục

hành chính về bảo hiểm thất nghiệp. Hiện nay, các quy định về BHTN được áp

dụng chung cho tất cả các đối tượng thuộc diện tham gia BHTN mà không có sự

bảo vệ cho các đối tượng yếu thế hơn trong số họ (lao động là người khuyết tật,

người hết tuổi lao động, lao động nữ, lao động khu vực phi chính thức).

Thể chế QLNN về BHTN là như nhau đối với NLĐ khuyết tật, NLĐ hết tuổi

lao động, NLĐ nữ. NLĐ hết tuổi lao động vẫn phải thực hiện việc thông báo việc

làm hàng tháng khi mà cơ hội tìm kiếm việc làm mới của họ là rất thấp. NLĐ hết

tuổi lao động theo Bộ luật lao động, đã có thời gian đóng BHTN cho đến đủ tuổi

hưu, được kéo dài thời gian làm việc vẫn phải đóng BHTN hàng tháng...

So với những người mất việc làm ở những độ tuổi trẻ hơn hoặc NLĐ có sức

116

khỏe bình thường, những đối tượng này sẽ khó tiếp cận các cơ hội việc làm, họ cũng

khó khăn hơn trong quá trình thực hiện các thủ tục BHTN so với các đối tượng khác.

Bên cạnh đó, BHTN chưa thể hiện được sự chia sẻ để giúp NLĐ tham gia

BHTN bớt khó khăn hơn khi bị mất việc làm như hỗ trợ NLĐ trong quá trình học

nghề (hỗ trợ một phần chi phí ăn ở, sinh hoạt phí trong thời gian học nghề) hoặc các

hình thức hỗ trợ (mai táng phí, tiền tuất, trợ cấp đột xuất) trong trường hợp rủi ro (bị

chết, tai nạn, suy giảm khả năng lao động) không đủ sức khỏe để tái tham gia

TTLĐ.

- Chưa đảm bảo tính hiện đại về phương thức quản lý trong quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến cơ

hội nhưng cũng nhiều thách thức, đòi hỏi quá trình QLNN về BHTN cũng phải thay

đổi để phù hợp với đòi hỏi của giai đoạn mới. Luật Việc làm đã có bước đi trước,

đón đầu khi bổ sung thêm chế độ hỗ trợ đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề cho người

lao động để phòng ngừa nguy cơ thất nghiệp từ ảnh hưởng của cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, về phương thức QLNN về BHTN thì chưa có các quy

định cụ thể để đi trước, đón đầu, phù hợp với các đòi hỏi ngày càng tăng của thực tế

QLNN về BHTN.

3.3.2.4 Một số nội dung thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp còn

chưa hợp lý, chưa đảm bảo tính minh bạch

a. Quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp

- Những người có nguy cơ thất nghiệp cao, rủi ro việc làm cao chưa được

NLĐ có việc làm

Lao động làm công ăn lương

Lao động tự do/tự tạo việc làm/lao động ngành nông lâm thủy sản

Người giúp việc gia đình, có hoặc không có giao kết HĐLĐ

HĐLĐ, HĐLV không xác định thời hạn/ xác định thời hạn/ HĐLĐ theo mùa vụ từ 3 tháng đến 12 tháng

tham gia bảo hiểm thất nghiệp:

Không giáo kết HĐLĐ/HĐLĐ thời vụ dưới 3 tháng

Giải thích:

Thuộc đối tượng áp dụng

Có một phần thuộc đối tượng áp dụng

Không thuộc đối tượng áp dụng

117

Sơ đồ 3.2: Mô tả đối tượng áp dụng BHTN ở Việt Nam

BHTN ở Việt Nam chưa hướng đến số đông lao động (xem sơ đồ 3.2), nhất là

đối tượng NLĐ tự do, lao động tự tạo việc làm, lao động ngành nông lâm thủy sản,

người làm công ăn lương không giao kết HĐLĐ hoặc HĐLĐ thời vụ dưới 3 tháng

(lao động khu vực phi chính thức). Đây là những đối tượng có rủi ro việc làm cao,

rất cần sự hỗ trợ từ chính sách BHTN của nhà nước, cũng là đối tượng chiếm tỷ lệ

rất lớn trong LLLĐ ở Việt Nam.

Kết quả khảo sát ý kiến NLĐ cũng cho thấy, trong 400 người được hỏi, có 303

NLĐ (chiếm tỷ lệ 75,8%) cho rằng phạm vi đối tượng tham gia BHTN hiện nay là

hạn chế, nên mở rộng đối tượng tham gia (mục 3, phụ lục 11), trong đó: 151 NLĐ

đang tham gia BHTN và 152 NLĐ hiện không tham gia BHTN; 95 NLĐ (chiếm tỷ

lệ 23,75%) cho rằng phạm vi đối tượng tham gia BHTN hiện nay là phù hợp, nên

giữ nguyên (trong đó có 64 NLĐ đang tham gia BHTN và 31 NLĐ hiện không

tham gia BHTN) và 2 NLĐ (chiếm tỷ lệ 0,5%) cho rằng phạm vi đối tượng tham gia

BHTN hiện nay là rộng, nên thu hẹp (trong đó có 2 NLĐ đang tham gia BHTN và 0

NLĐ hiện không tham gia BHTN) (kết quả các câu hỏi 8, 8.1, 8.2, 17,17,1 và 17.2,

phụ lục 10).

Đối tượng tham gia BHTN hiện nay là hạn chế, nên mở rộng đối tượng tham gia

cũng là quan điểm nhận được sự đồng tình của chuyên gia Trần Dũng Hà (phụ lục 7).

- Người lao động có nhu cầu, nguyện vọng tham gia chưa có cơ hội tiếp cận

với chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Thực tế ở Việt Nam, khi hỏi 183 NLĐ hiện

không tham gia BHTN trong tổng số 400 NLĐ rằng: “Ông/Bà có mong muốn được

tham gia/tiếp tục tham gia BHTN không?”, có 148 người trả lời “CÓ” (chiếm tỷ lệ

80,9%). Trong số 35 người trả lời “KHÔNG” (chiếm tỷ lệ 19,1%) thì có đến 3

người không có việc làm, không có nhu cầu về việc làm; 7 người hiện nghỉ hưu, 7

người là nội trợ và 2 người là giúp việc gia đình.

Cũng theo kết quả khảo sát NLĐ, khi được hỏi: “Nếu không thuộc diện tham

gia BHTN bắt buộc, Ông/Bà có mong muốn được tham gia BHTN tự nguyện

không?”, trong số 183 NLĐ hiện không tham gia BHTN trong tổng số 400 NLĐ

được hỏi, có 151 NLĐ trả lời là “CÓ”, chỉ có 32 NLĐ trả lời là “KHÔNG” (mục 5,

phụ lục 11).

118

Như vậy, nhu cầu tham gia BHTN của một bộ phận NLĐ là có thật, ngay cả khi

họ không thuộc diện tham gia BHTN bắt buộc. Tuy nhiên, những đối tượng này hiện

chưa được tiếp cận với chính sách do không thuộc đối tượng tham gia BHTN theo quy

định của Luật Việc làm.

- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách chưa cao: độ bao phủ BHTN còn thấp, tỷ

lệ người thất nghiệp được hỗ trợ từ các chế độ BHTN chưa nhiều.

Độ bao phủ BHTN trong LLLĐ rất thấp. Tính đến năm 2017, chỉ có 21,82%

LLLĐ tham gia BHTN (biểu đồ 3.5), trong khi tỷ lệ này ở các nước đều đã rất cao từ

nhiều năm trước đó [155, tr165]. Tỷ lệ NLĐ tham gia BHTN trong LLLĐ tăng chậm,

2017

tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2009-2017 là 1,07% mỗi năm.

Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp

trong lực lượng lao động Việt Nam giai đoạn 2009-2017

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Thống kê)

Thêm vào đó, tỷ lệ người thất nghiệp được hỗ trợ từ các chế độ BHTN chưa

nhiều: giai đoạn 2010-2017, chỉ có 37,54% số người thất nghiệp được TCTN, 41,74%

số người thất nghiệp được tư vấn, GTVL, 1,29% số người thất nghiệp được hỗ trợ học

nghề (tính toán từ số liệu bảng 3.7).

b. Quy định về các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

- NLĐ quan tâm nhiều nhất đến TCTN- giải pháp tạm thời, trước mắt- thay vì

các chế độ hỗ trợ lâu dài khác của BHTN. Trong các chế độ BHTN, chế độ TCTN

là giải pháp tạm thời, nhằm mục đích bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ bị mất

119

việc làm để họ ổn định cuộc sống; chế độ hỗ trợ học nghề mới là cái gốc của chính

sách BHTN, nhằm hỗ trợ lâu dài cho NLĐ, giúp họ giảm thiểu rủi ro bị tái thất

nghiệp trong tương lai. Thế nhưng trong thực tế, NLĐ lại quan tâm nhiều hơn đến

TCTN. Qua thăm dò ý kiến NLĐ về mức độ quan tâm đến các chế độ BHTN (mục

2, phụ lục 11), trong số 217 người hiện đang tham gia BHTN được hỏi “Ông/Bà

quan tâm đến chế độ BHTN nào nhất trong các chế độ BHTN hiện nay?” , chỉ có 9

người quan tâm nhất đến chế độ hỗ trợ học nghề (chiếm 4,1%), trong khi đó có 185

quan tâm nhất đến chế độ TCTN (chiếm 85,3%) (kết quả câu 7, phụ lục 10).

- Chế độ học nghề- giải pháp lâu dài, căn bản của bảo hiểm thất nghiệp chưa

phát huy vai trò chủ đạo của nó trong các chế độ BHTN.

Bảng 3.14 Cơ cấu chi bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2010-2017

Cơ cấu chi BHTN giai đoạn 2010-2017 (%)

2010 0,05 99,39 0,45 0,11

2011 0,06 95,94 4,00 0,00

2012 0,09 95,32 4,59 0,00

2013 0,12 95,88 4,00 0,00

2014 0,25 5,36 4,39 0,00

2015 0,65 94,93 4,42 0,00

2016 0,83 93,10 6,07 0,00

2017 0,82 94,71 4,47 0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

Nội dung chi BHTN Hỗ trợ học nghề TCTN Đóng BHYT Tư vấn, GTVL Chi hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề Tổng cộng

100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00

(Nguồn: Phân tích của tác giả từ số liệu của BHXH Việt Nam)

Nhìn vào bảng 3.14 có thể thấy, giai đoạn 2010-2017, chế độ hỗ trợ học nghề

chiếm tỷ lệ rất thấp trong cơ cấu chi BHTN, đặc biệt là so với chế độ TCTN. Số

NLĐ mất việc làm tham gia BHTN được hỗ trợ học nghề cũng chiếm tỷ lệ rất thấp

so với số người được tư vấn, GTVL và số người hưởng TCTN. Theo số liệu của

BHXH Việt Nam, cơ cấu chi cho chế độ hỗ trợ học nghề trong các chế độ BHTN

0.82

4.47

Hỗ trợ học nghề

Trợ cấp thất nghiệp

Đóng bảo hiểm y tế

Tư vấn, giới thiệu việc làm

94.71

Chi hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề

Biểu đồ 3.6: Cơ cấu chi BHTN năm 2017 (%)

cao nhất vào năm 2016 với 0,83%. Năm 2017, cơ cấu chi BHTN như biểu đồ 3.6.

120

(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)

Giai đoạn 2010-2017, chỉ có 124.098 người được hỗ trợ học nghề trong tổng

số 4.026.057 người được tư vấn, GTVL (chiếm tỷ lệ 3,08%) và 3.621.038 người có

quyết định hưởng trợ cấp BHTN hàng tháng (chiếm tỷ lệ 3,43%). Số người được hỗ

trợ học nghề này được thống kê trên cơ sở quyết định của Giám đốc Sở LĐ-

TB&XH, còn trên thực tế, con số này còn ít hơn do không phải tất cả các trường

hợp có quyết định đều tham gia học.

Tìm hiểu về công tác đào tạo nghề cho NLĐ mất việc làm từ quỹ BHTN, trong

số 63 người đã từng đến làm thủ tục hưởng chế độ BHTN tại các điểm tiếp nhận, có

40 người cho rằng không đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng (chiếm tỷ lệ

63,49%), có 46 người cho rằng không đa dạng trong lựa chọn các khóa học nghề

(chiếm tỷ lệ 73,02%), có 47 người cho rằng không hỗ trợ tốt cho NLĐ trong thời

gian học nghề (chiếm tỷ lệ 74,60 %) (kết quả phân tích câu hỏi 10.2, phụ lục 10).

- Các hỗ trợ cho NLĐ mất việc làm còn ít.

Ngoài trợ cấp thất nghiệp, NLĐ mất việc làm còn được hỗ trợ đào tạo nghề,

được hỗ trợ, tư vấn, GTVL. Tuy nhiên, nếu đăng ký và tham gia học nghề, họ chỉ

được hỗ trợ về kinh phí học nghề ở một mức nhất định, nếu vượt phần quy định

phải chịu nộp phần kinh phí chênh lệch cho việc học nghề đó, trong khi đó, NLĐ

mất việc đã không có thu nhập, lại phải dành thời gian học nghề, chi trả nhiều

khoản kinh phí phát sinh trong thời gian học nghề (ăn, ở, đi lại, …), gây khó khăn

cho họ khi quyết định tham gia học nghề để nâng cao trình độ hoặc chuyển đổi nghề

nghiệp. Nhiều người học nghề mới để chuyển đổi sang kinh doanh, buôn bán, tự tạo

việc làm thì gặp khó khăn về vốn trong quá trình khởi nghiệp … cũng chưa có sự hỗ

trợ cần thiết.

c. Quy định về chế độ thông tin quản lý, quan hệ phối hợp của các cơ quan,

đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực hiện chính sách bảo

hiểm thất nghiệp

- Chưa có sự liên thông số liệu quản lý giữa cơ quan thu bảo hiểm thất nghiệp

(tổ chức Bảo hiểm xã hội) và cơ quan chi bảo hiểm thất nghiệp (Trung tâm Dịch vụ

việc làm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương): Cơ sở dữ liệu về NLĐ thuộc diện

tham gia BHTN, NLĐ nghỉ hưu, thai sản... do tổ chức BHXH (cấp tỉnh, cấp huyện)

lưu giữ, trong khi Trung tâm DVVL lại là cơ quan trực tiếp thực hiện việc tiếp

121

nhận, tham mưu Sở LĐ-TB&XH chi trả các chế độ BHTN lại không được tiếp cận

các cơ sở dữ liệu này. Thực tế này làm xảy ra sai sót trong quá trình giải quyết chế

độ BHTN (một minh chứng từ trường hợp của TP. Hồ Chí Minh, phụ lục 7 và phụ

lục 8), làm phát sinh thêm kinh phí và nhân sự để xử lý, thu hồi do chi trả không chế

độ quy định cho NLĐ.

- Chưa có sự liên thông số liệu quản lý lao động, việc làm trên phạm vi cả nước:

Số liệu lao động, việc làm của NLĐ chưa có sự liên thông giữa các địa phương. Hiện

Trung tâm DVVL không thể quản lý được thông tin việc làm của NLĐ trong trường

hợp họ có việc làm ở các tỉnh, thành phố khác mà vẫn đến nộp hồ sơ hưởng BHTN.

- Chưa xây dựng được hệ thống thu thập thông tin quản lý về tình trạng việc làm

một cách chủ động: Quy định về thu thập số liệu quản lý về tình trạng việc làm của

NLĐ đang tham gia BHTN rất bị động, chỉ trông chờ vào ý thức, trách nhiệm của

NSDLĐ trong thực hiện thông báo biến động lao động định kỳ. Việc NSDLĐ kê

khai không đầy đủ hoặc không đúng quy định thì không có cơ sở xác minh một cách

khoa học để làm căn cứ xử phạt. Cụ thể: Đối với người đang hưởng TCTN, điều

kiện để được hưởng TCTN tháng tiếp theo là: hàng tháng người thất nghiệp phải

đến thông báo với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm. Trên thực tế, để có

cơ sở đối chiếu thông tin tình trạng việc làm của các đối tượng này, các Trung tâm

DVVL chỉ có thể dựa trên thông tin lao động do NSDLĐ cung cấp vào trước ngày

03 hàng tháng. Thông tin này là do NLĐ và NSDLĐ cung cấp, do đó, không thể

đảm bảo hoàn toàn về độ chính xác và đầy đủ của thông tin.

- Quy định về chế độ thông tin, báo cáo giữa các cơ quan, đơn vị chưa đầy đủ,

rõ ràng: Một số thông tin thống kê quan trọng không được tổ chức thu thập: tỷ lệ

người đang hưởng BHTN tái gia nhập TTLĐ, chất lượng nguồn nhân lực QLNN về

BHTN. Một số thông tin có tổ chức thu thập nhưng không quy định phải hạch toán

rõ ràng: nguồn thu từ hoạt động đầu tư quỹ BHTN (hiện được báo cáo chung với

tổng nguồn thu từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH, BHYT, BHTN, không có chi tiết

riêng cho quỹ BHTN), chi phí quản lý BHTN và chi phí đầu tư bảo toàn và tăng

trưởng quỹ (hiện được thống kê chung với chi phí quản lý BHXH, BHYT, BHTN),

nguồn thu từ tiền lãi chậm đóng của NSDLĐ, các nguồn thu hợp pháp khác, ...

Ngoài ra, Bộ LĐ-TB&XH quy định chưa đầy đủ các biểu mẫu báo cáo cho quá

trình thực hiện báo cáo giữa các cơ quan: chưa quy định và chuẩn hóa các mẫu văn

122

bản do Trung tâm DVVL thực hiện gửi Sở LĐ-TB&XH (các Tờ trình về việc: NLĐ

không đến nhận QĐ hỗ trợ học nghề; NLĐ không đến nhận quyết định hưởng

TCTN; NLĐ tạm dừng hưởng TCTN; NLĐ tiếp tục hưởng BHTN; NLĐ hưởng

TCTN; NLĐ bảo lưu thời gian đóng BHTN; hỗ trợ hoc nghề cho NLĐ; NLĐ chấm

dứt hưởng TCTN; Tờ trình xin phê duyệt phương án hỗ trợ học nghề cho NSDLĐ;

Tờ trình về việc thu hồi tiền TCTN đối với NLĐ; Tờ trình về việc thu hồi tiền hỗ

trợ học nghề) và văn bản do Sở LĐ-TB&XH thực hiện gửi UBND tỉnh, thành phố

(Tờ trình xin phê duyệt hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề

cho NSDLĐ).

d. Quy định về quỹ bảo hiểm thất nghiệp

- Về quy định các khoản thu BHTN: NLĐ đã hết tuổi lao động theo Bộ luật

Lao động tiếp tục làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động vẫn phải tiếp tục đóng

BHTN, trong khi đó đối tượng này đã có quá trình đóng góp nhất định vào quỹ

BHTN, đồng thời, nếu có mất việc làm đối tượng này không thuộc đối tượng người

thất nghiệp.

- Về quy định các khoản chi BHTN:

+ Chi đầu tư cho các địa điểm tiếp nhận, ủy thác để tiếp nhận, giải quyết chế

độ cho BHTN còn chưa nhiều, nhiều điểm ủy thác là thuê, diện tích nhỏ, khó khăn

trong bố trí cơ sở vật chất.

Theo báo cáo của Cục Việc làm, Bộ LĐ-TB&XH tại Hội thảo Kinh nghiệm tổ

chức thực thi BHTN tổ chức tháng 7/2012, tính đến hết tháng 5/2012, cả nước có

275 điểm đăng ký và giải quyết chế độ BHTN, trung bình một điểm tiếp nhận phải phụ trách địa bản tương đối rộng khoảng 1.203 km2. Từ năm 2013 đến nay, do bỏ

bớt thủ tục đăng ký thất nghiệp, số lượng điểm tiếp nhận đã giảm xuống. Theo số

liệu của Bộ LĐ-TB&XH, thời điểm tháng 12/2017, cả nước có 238 điểm giải quyết

BHTN với 205 điểm tiếp nhận và 33 điểm ủy thác (phụ lục 6), trung bình một điểm tiếp nhận phải phụ trách địa bàn lên đến hơn 1.391 km2. Điều này cũng là một vấn

đề khó khăn cho NLĐ trong việc đi lại để được giải quyết chế độ BHTN.

Ở các tỉnh, thành phố có số lượng làm thủ tục hưởng BHTN nhiều nhất nước,

số lượng địa điểm tiếp nhận có nhiều hơn nhưng bình quân mỗi điểm tiếp nhận/ủy

thác vẫn phụ trách địa bàn tương đối rộng (bảng 3.15). Để giải quyết nhu cầu tiếp

nhận giải quyết chế độ BHTN lớn, một số địa phương đã bố trí thêm các điểm tiếp

123

nhận ngoài địa điểm tiếp nhận chính tại trụ sở Trung tâm DVVL nhưng kinh phí để

đầu tư cho các địa điểm này chưa nhiều, đa số là các địa điểm thuê, diện tích nhỏ,

không ổn định, khó khăn trong bố trí phương tiện, điều kiện làm việc cho nhân viên.

Bảng 3.15 Các địa phương có số điểm giải quyết BHTN nhiều nhất nước

STT

Địa phương

Diện tích tự nhiên (km2)

Diện tích bình quân mà mỗi địa điểm phải phụ trách (km2/điểm)

An Giang

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

TP. Hồ Chí Minh Hà Nội Thanh Hóa Bà Rịa-Vũng Tàu Hải Dương Phú Thọ Khánh Hòa Đồng Nai Quảng Ninh

3.406 2.096 3.329 11.116 1.987 1.648 3.528 5.214 5.907 6.102

Số địa điểm giải quyết BHTN (điểm) 11 8 7 7 6 6 6 6 6 6

310 262 476 1.588 331 275 588 869 985 1.017

(Tính đến 31/12/2017)

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH và Tổng cục Thống kê) + Nhiều khoản chi cần thiết khác chưa được quan tâm đúng mức: Chi TCTN

chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu chi (giai đoạn 2009 đến nay, bình quân mỗi năm, chi

BHTN chỉ chiếm khoảng 36,49 % nguồn thu), trong khi đó, nhiều khoản chi cần

thiết khác lại chưa được quan tâm, cụ thể là: chi cho chế độ đào tạo nghề còn ít,

chưa có sự hỗ trợ cho NLĐ mất việc trong quá trình học nghề và các trường hợp rủi

ro, không may trong thời gian đang hưởng TCTN; chi cho đầu tư ứng dụng công

nghệ thông tin và hoạt động thông tin quản lý chưa nhiều, trong khi tính chính xác,

chặt chẽ và chủ động trong xét duyệt các khoản chi trả chế độ BHTN còn chưa tốt,

làm dẫn đến vấn đề trục lợi BHTN…Khi những NLĐ đã được hưởng BHTN được

hỏi về chế độ hỗ trợ học nghề, có 74,6% NLĐ trong số họ cho rằng chưa có sự hỗ

trợ tốt cho NLĐ trong thời gian học nghề và 63,8% cho rằng chế độ hỗ trợ học nghề

chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng.

e. Quy định về xử lý vi phạm

Chế tài xử lý vi phạm có nghiêm khắc hơn nhưng chưa đầy đủ. Những sửa đổi

về chế tài liên quan đến thực hiện BHTN về mức xử phạt vi phạm hành chính (quy

định tại Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài theo hợp đồng, được sửa đổi, bổ sung một số Điều tại Nghị định số

124

88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015) và xử lý hình sự (quy định tại Bộ luật hình sự số

100/2015/QH13) đã tăng mức phạt và quy định thêm các hành vi cấu thành tội

phạm hình sự trong lĩnh vực BHTN, thể hiện sự nghiêm khắc hơn so với các quy

định trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn chưa đầy đủ, cụ thể: Các hành vi vi phạm pháp

luật BHTN của NSDLĐ như: không tham gia tập huấn, không thực hiện trách

nhiệm khai báo thông tin, khai báo thông tin chậm so với quy định hoặc sai sự thật

với cơ quan Trung tâm DVVL, Sở LĐ-TB&XH theo quy định... chưa được quy

định cụ thể trong các văn bản hiện hành. Các hành vi vi phạm chế độ báo cáo của

công chức, các cơ quan liên quan cũng chưa được quy định cụ thể. Do đó, tình trạng

các địa phương không báo cáo kịp thời số liệu, hoặc báo cáo không đúng số liệu...

cũng không có chế tài để xử lý.

f. Quy định về thủ tục hành chính về bảo hiểm thất nghiệp

Trước đây, cơ quan BHXH cấp huyện thực hiện việc chi trả TCTN cho NLĐ

tại trụ sở hoặc đại lý chi trả tại xã vào một ngày nhất định trong tháng (áp dụng

như chi trả chế độ hưu trí, mất sức lao động). Tuy nhiên, chế độ TCTN chi theo

ngày, chế độ hưu trí chi theo tháng. Do vậy, NLĐ thường nhận được TCTN chậm

hơn nhiều so với thời gian nhận được Quyết định hưởng TCTN, nên không đảm

bảo việc kịp thời hỗ trợ NLĐ một khoản kinh phí để ổn định cuộc sống trong thời

gian tìm việc làm mới. Việc thực hiện này cũng dẫn đến khó khăn trong quá trình

xử lý đối với các trường hợp phát hiện vi phạm quy định về BHTN hoặc các

trường hợp tạm dừng, chấm dứt hưởng BHTN.

Hiện nay, quy định này đã được điều chỉnh nhưng vẫn còn rất phức tạp,

rườm rà, qua nhiều đầu mối: Về phía hai cơ quan Trung tâm DVVL và tổ chức

BHXH, để chi trả chế độ TCTN, phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với nhau:

Trung tâm DVVL phải thường xuyên theo dõi, thông báo cho cơ quan BHXH

danh sách những người không đến nhận quyết định, dừng hưởng, tiếp tục hưởng

để cơ quan BHXH thực hiện chi trả. Tổ chức BHXH phải mất nhiều thời gian để

liên hệ tổ chức bưu điện, ngân hàng để mở tài khoản cá nhân cho NLĐ, đồng thời

thông báo với các cơ quan này về danh sách NLĐ được chi trả TCTN hàng tháng.

Về phía NLĐ, ngày hưởng TCTN là khác nhau giữa tháng thứ nhất và các tháng

tiếp theo, hình thức nhận trợ cấp là tiền mặt hoặc tài khoản cá nhân, nếu nhận

bằng tài khoản cá nhân thì phải làm thủ tục với ngân hàng hoặc bưu điện tỉnh, nếu

125

nhận tiền mặt thì phải đến Trung tâm bưu điện huyện; để được nhận tiền TCTN,

NLĐ mất việc phải mất rất nhiều thời gian làm thủ tục và chờ đợi ở các khâu khác

NLĐ chờ đợi Bưu điện tỉnh chuyển tiền qua tài khoản cá nhân hoặc đến Trung tâm Bưu điện huyện để nhận tiền trực tiếp

NLĐ đến các điểm tiếp nhận/ điểm ủy thác của Trung tâm DVVL

Nộp hồ sơ

Nhận quyết định

Nhận tiền

nhau (sơ đồ 3.3):

3 tháng

20 ngày làm việc

5 ngày làm việc

Ngày thất nghiệp

Sơ đồ 3.3: Quy trình giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp

Thăm dò ý kiến NLĐ về chế độ TCTN tại cuộc khảo sát (kết quả phân tích

câu hỏi 10.1, phụ lục 10), có 84,13% NLĐ đã từng đến làm thủ tục hưởng BHTN

được hỏi cho rằng quy trình chi trả không hợp lý, 90,48% cho rằng thủ tục không

tinh gọn, 85,71% cho rằng thời gian chờ đợi không phù hợp, chỉ có 19,05% cho

rằng mức hưởng, điều kiện hưởng không phù hợp.

Những bất cập về thể chế QLNN về BHTN đã được chỉ ra ở mục 3.3.2.2

xuất phát từ những nguyên nhân chính sau đây:

Thứ nhất, BHTN là chính sách mới, khả năng lường trước những vấn đề bất

cập trong quá trình triển khai chính sách trên thực tế của các cơ quan QLNN về

BHTN là chưa tốt.

Điều này thể hiện ở sự lúng túng khi Luật hóa chính sách BHTN thành một

nội dung của Luật Bảo hiểm xã hội (hiệu lực từ 01/01/2009) và sau đó chuyển thành

một nội dung của Luật Việc làm (hiệu lực từ 01/01/2015). Đồng thời, trong một thời

gian ngắn, đã có nhiều lần thay đổi Nghị định, Thông tư hướng dẫn liên quan đến

BHTN.

Thứ hai, có sự chưa nhất quán trong quá trình hoạch định chính sách BHTN

với các chính sách khác

Lao động nữ, lao động là người khuyết tật là những đối tượng đặc thù đã được

quy định rõ trong Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên,

trong hoạch định chính sách BHTN lại chưa có sự quan tâm đối với những đối

126

tượng này.

Vấn đề tự chủ của địa phương cũng đã được quan tâm trong Luật Tổ chức

chính quyền địa phương và đang được đẩy mạnh, nhưng quá trình hoạch định chính

sách BHTN chưa tạo điều kiện cho địa phương phát huy khả năng tự chủ.

Thứ ba, sự không đồng bộ trong quy định tổ chức triển khai QLNN về BHTN

với QLNN các lĩnh vực khác

BHTN, một mặt, là một chính sách có quan hệ mật thiết với các chính sách lao

động, việc làm, mặt khác, là một chính sách có quan hệ mật thiết với chính sách bảo

hiểm xã hội. Điều này đòi hỏi sự đồng bộ trong tổ chức triển khai QLNN về BHTN

với QLNN về lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội. Cũng đồng nghĩa với việc, các

lĩnh vực QLNN về BHTN, về bảo hiểm xã hội, về lao động- xã hội khác phải có sự

thống nhất cao với nhau trong ban hành các quy định triển khai thực hiện: cơ chế

quản lý, cơ chế kiểm soát thông tin, cơ chế phối hợp, ... Tuy nhiên thực tế, các cơ

chế này còn thiếu sự đồng bộ và gắn kết: chưa kết nối cơ sở dữ liệu thông tin lao

động- việc làm ở các địa phương thành một hệ thống thống nhất trên phạm vi quốc

gia; chưa phát huy tốt chức năng phối hợp của các cơ quan, đơn vị...

Thứ tư, gần đây, Đảng và Nhà nước Việt Nam mới bắt đầu có sự quan tâm

NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương về

cải cách chính sách bảo hiểm xã hội []. Tuy nhiên, lao động khu vực phi chính

thức hiện vẫn là những đối tượng chưa được Luật hóa theo quy định của Bộ luật

đến vấn đề lao động khu vực phi chính thức, thể hiện trong Nghị quyết số 28-

Lao động, vẫn là những đối tượng nằm ngoài phạm vi bảo hiểm thất nghiệp hiện

nay. Và vì vậy, mặc dù chiếm phần lớn lực lượng lao động việc làm, đóng góp một

phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng đối tượng này hiện

vẫn chưa có sự hỗ trợ cần thiết trong các trường hợp rủi ro về việc làm.

Kết luận chương 3

Chương 3 mô tả và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp ở Việt Nam từ khi triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp đến nay. Cụ

thể là:

1. Mô tả thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam trước và sau khi áp dụng bảo hiểm

thất nghiệp, từ đó, có sự so sánh và đánh giá về tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam

sau khi thực thi chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

127

2. Mô tả toàn diện thực trạng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, từ đó đưa ra

đánh giá chung về hiệu quả của chính sách bảo hiểm thất nghiệp từ khi triển khai

đến nay.

3. Mô tả, phân tích thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp ở Việt Nam từ khi triển khai đến nay (2009-2017), từ đó đánh giá những

thành công và bất cập về thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam thời gian qua và phân tích nguyên nhân.

Những đánh giá và nhận định ở chương 3 sẽ là cơ sở quan trọng cho việc đề ra

quan điểm và hệ thống giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm

128

thất nghiệp ở Việt Nam ở chương 4.

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

4.1 Dự báo xu hướng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030

4.1.1 Bối cảnh Việt Nam hiện nay, tầm nhìn đến năm 2030 và dự báo những tác

động đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

4.1.1.1 Môi trường chính trị

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương,

chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm lợi ích,

quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền

tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự

lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt

động được nâng lên. Trên trường quốc tế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng

cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc.

Trong vòng hơn 10 năm tới, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục tăng cường

xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã

hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc

Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn bình; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản

trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại [184].

Dự báo đến năm 2030, môi trường chính trị ở Việt Nam sẽ tiếp tục giữ vững

sự ổn định.

4.1.1.2 Môi trường kinh tế

Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam từng bước ra khỏi tình trạng suy

giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ

mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn

ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp. Bốn nguy

129

cơ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa

hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, khoảng cách giàu -

nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng.

Trong vòng hơn 10 năm tới, Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết tâm phát

triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế trên cơ sở giữ vững ổn định

kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình

độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng,

hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham

gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; tiếp tục hoàn thiện thể

chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu

quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản

lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp [184].

Dự báo đến năm 2030, môi trường kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn

cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước,

góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

định, lực lượng doanh nghiệp trong nước sẽ có nhiều thương hiệu mạnh, có sức

4.1.1.3. Môi trường quốc tế

Trong 10 năm Việt Nam thực hiện BHTN, tình hình thế giới có những diễn

biến phức tạp, khó lường. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,

nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội,

tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều nơi, diễn biến phức tạp. Thiên

tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở

thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài

chính từ Mỹ lan rộng, trở thành cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

toàn cầu.

Trong vòng hơn 10 năm tới, tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp,

nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh

tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn

ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông

130

tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực,

tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Tình hình chính trị- an ninh thế

giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm

chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo,

can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra

gay gắt ở nhiều khu vực. Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra

nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh

tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu

vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp

đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các thể chế đa

phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là những

nước vừa và nhỏ đang đứng trước những cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên

con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh,

đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp

tục diễn ra rất phức tạp. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng

lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch

bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết

liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an

ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.

Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có

nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản

xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính,

tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế

thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều

thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền

kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để phát

triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường,

công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện

nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các

hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới.

Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung

tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan

131

trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một

số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo

trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở

thành Cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn

định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều

khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài [184].

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng và

phức tạp, việc Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do FTA như Hiệp

định thương mại tự do Việt Nam- Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định thương mại Việt

Nam- EU ((EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương (CPTPP), … tạo ra cơ hội giúp nước ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài để

phát triển nhanh và bền vững; giúp GDP, xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài

của Việt Nam tăng đáng kể; tạo thêm cơ hội để nước ta tham gia các chuỗi sản xuất,

tiêu thụ quốc tế và khu vực, góp phần tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, giảm

nghèo và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, ngoài những vấn đề liên quan trực tiếp

đến thương mại như: cắt giảm thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ,

hàng rào kỹ thuật liên quan thương mại, các cam kết giữa các bên còn liên quan đến

những vấn đề mới, phi truyền thống, không trực tiếp gắn với thương mại như lao

động, môi trường, mua sắm công, chống tham nhũng ... Riêng về các cam kết về lao

động mà Việt Nam ký kết, nếu không cải thiện các vấn đề lao động được nêu trong

Hiệp định thì cơ hội xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước sẽ rất khó

khăn. Các Hiệp định này không tạo ra bất kỳ tiêu chuẩn lao động quốc tế mới nào

nhưng đòi hỏi Việt Nam sửa đổi, bổ sung thể chế về lao động- việc làm cho phù hợp

với những quy định về các quyền được nêu trong Tuyên bố 1998 của Tổ chức Lao

động quốc tế (ILO) về Các Nguyên tắc và Quyền cơ bản trong Lao động, bao gồm

tự do liên kết, quyền tổ chức và thương lượng tập thể, xóa bỏ lao động cưỡng bức,

lao động trẻ em và phân biệt đối xử tại nơi làm việc… và thực hành chúng trên thực

tế để đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế.

Bên cạnh đó, các cam kết trong khuôn khổ Cộng động kinh tế ASEAN (ACE)

cũng tạo không ít thách thức cho Việt Nam trong thực hiện các cam kết về vấn đề

về lao động- việc làm- thất nghiệp. AEC được thành lập nhằm mục tiêu tạo ra một

thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển

132

tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao

tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn

với đầu tư- kinh doanh từ bên ngoài. Các nước ASEAN đã ký kết nhiều hiệp định,

thỏa thuận, tuyên bố bước đầu tạo nên khung pháp lý cho tự do hóa lao động trong

khu vực. Những quy định tự do hóa lao động của ASEAN được hiện diện dưới dạng

các cam kết về phương thức 4 trong 4 phương thức cung cấp dịch vụ, đó là di

chuyển thể nhân (là sự di chuyển của cá nhân- những người lao động có tay nghề-

từ nước này qua nước). Các cam kết này chủ yếu liên quan đến hoạt động đầu tư,

thương mại và chỉ tạo điều kiện tự do lao động cho nhóm lao động có tay nghề cao

như quản lý, điều hành, chuyên gia. Nhóm khách kinh doanh được phép lưu trú

nhưng trong thời hạn ngắn. Riêng Việt Nam có những cam kết sâu hơn các quốc gia

khác đối với các nhóm có tay nghề thấp hơn như người cung cấp dịch vụ theo hợp

đồng, người bán hàng dịch vụ, người chịu trách nhiệm thiết lập hiện diện thương

mại. Tuy nhiên, những cam kết này chỉ nhằm thu hút đầu tư và kinh doanh, chưa

mở rộng ra các nhóm ngành nghề khác.

Đối với các nước thành viên, AEC tạo thuận lợi cho việc di chuyển lao động

có tay nghề, công nhận văn bằng, thực hiện thúc đẩy các thỏa thuận thừa nhận lẫn

nhau, nâng cao năng lực trong các ngành dịch vụ ưu tiên, quan tâm phát triển nguồn

nhân lực, thúc đẩy việc làm bền vững, bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư.

Đối với Việt Nam, bên cạnh những thuận lợi, việc thực hiện các cam kết về lao

động gặp không ít thách thức do các quy định về lao động chưa đầy đủ và việc thực

thi chưa có hiệu quả trên thực tế (thương lượng tập thể, mức lương tối thiểu vùng,

hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp, lao động lành nghề, …), đòi hỏi Việt

Nam cần chuẩn bị tốt hơn cho việc di chuyển lao động lành nghề trong ASEAN

thông qua việc xây dựng và hoàn thiện các quy định, tiêu chuẩn để được công nhận

là lao động lành nghề ASEAN trong các lĩnh vực ASEAN đã ký Thỏa thuận thừa

nhận lẫn nhau đồng thời phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, hiệu quả thực thi

các quy định về lao động- việc làm- thất nghiệp trong nước.

Dự báo đến năm 2030, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế

thế giới và sẽ có những điều chỉnh quan trọng về thể chế, trong đó có vấn đề lao

động- việc làm- thất nghiệp để phù hợp hơn với các cam kết quốc tế đã ký kết.

133

4.1.1.4 Trình độ phát triển khoa học công nghệ

Nhân loại đang ở trong thập niên đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần

thứ tư (hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0). Cuộc cách mạng này đang

làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo của tất cả các ngành, lĩnh vực. Trong các

“nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua

một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định sẽ

thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của hàng tỷ

người trên trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với

cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột

phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy,

Internet kết nối vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ

sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử [108, tr 3-4].

Dự báo đến năm 2030, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có ảnh hưởng lớn

đến mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội, trong đó có vấn đề lao động, việc làm,

thất nghiệp, ảnh hưởng lớn đến phương thức QLNN, nội dung thể chế QLNN ở tất

cả các ngành, lĩnh vực, tron đó có QLNN về BHTN.

4.1.1.5 Trình độ phát triển thị trường lao động

Trong những năm qua, TTLĐ ở Việt Nam mới được hình thành và đang trong

giai đoạn đầu tư phát triển. Hoạt động dự báo cung- cầu lao động, kết nối cung- cầu

lao động, thông tin thị trường lao động, xây dựng chính sách quản lý và điều tiết thị

trường lao động, … đang dần hoàn thiện, phát triển có định hướng hơn. Tuy nhiên,

các quy định làm hành lang pháp lý chưa đầy đủ, việc kết nối cung cầu lao động

hiệu quả chưa cao, hệ thống thông tin, thống kê về TTLĐ không đồng bộ, thiếu độ

tin cậy.

Trong vòng hơn 10 năm tới, định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp

tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường trình độ phát triển thị

trường lao động, tạo điều kiện kết nối cung cầu lao động, khuyến khích các hình

thức giao dịch việc làm, thực hiện tốt hơn công tác dự báo cung- cầu lao động [184,

tr. 8].

Dự báo đến năm 2030, TTLĐ ở Việt Nam sẽ tiếp tục được đầu tư phát triển.

Như vậy, nhìn chung, ở Việt Nam, trong vòng hơn 10 năm tới, dự báo tình

hình chính trị sẽ tiếp tục ổn định, tình hình kinh tế sẽ tiếp tục đà tăng trưởng ổn

134

định, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, TTLĐ tiếp tục

được đầu tư phát triển, đồng thời, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng

lớn đến đời sống kinh tế- xã hội. Điều này mang lại những cơ hội nhưng cũng

không ít thách thức đối với thể chế QLNN các ngành, lĩnh vực, trong đó có thể chế

QLNN về BHTN. Cụ thể là:

Với quy mô và tốc độ phát triển chưa từng có trong lịch sử nhân loại, cuộc

cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ và toàn diện lên mọi mặt

đời sống con người, trong đó có vấn đề về việc làm và thất nghiệp [134, tr 24]. Với

tốc độ tự động hóa và ứng dụng công nghệ trong mọi mặt của đời sống xã hội, nhu

cầu về việc làm, đặc biệt là nhu cầu đối với lao động ít kỹ năng, lao động phổ thông

sẽ giảm, trong khi cung lao động không giảm, sẽ đặt ra nhiều vấn đề trong giải

quyết tình trạng thất nghiệp, đòi hỏi các quốc gia phải tìm kiếm cho mình các biện

pháp hữu hiệu hơn để khắc phục, giải quyết tình trạng thất nghiệp, trong đó có nội

dung của chính sách BHTN (đối tượng cần hỗ trợ sẽ nhiều hơn, các chế độ phải đa

dạng hơn, ...)

Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những nước có lợi thế về

giá nhân công rẻ trước đây như Việt Nam sẽ không còn lợi thế, cầu lao động phổ

thông sẽ giảm đáng kể, do đó, chính sách của nhà nước về ngăn ngừa, khắc phục

tình trạng thất nghiệp, trong đó có BHTN, cũng phải được xem xét lại.

Bên cạnh đó, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ làm thay

đổi phương thức QLNN ở tất cả các ngành, lĩnh vực, trong đó có BHTN: cơ quan

QLNN về BHTN phải ứng dụng công nghệ nhiều hơn trong quản lý, điều hành, thu

thập, phân tích, xử lý thông tin quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý, đồng thời

công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng đòi hỏi phải đổi mới để nâng cao trình độ của đội

ngũ công chức trong QLNN về BHTN để kịp thích nghi với những thay đổi đó.

4.1.2 Dự báo lực lượng lao động, số người thất nghiệp, số người tham gia bảo

hiểm thất nghiệp và số người được hưởng trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam đến

năm 2030

Dựa vào số liệu thu thập được về LLLĐ, số người thất nghiệp, số người tham

gia BHTN và số người được hưởng TCTN ở Việt Nam giai đoạn 2003-2017 (bảng

4.1), có thể thấy rằng các chỉ tiêu thống kê đều có xu hướng biến động tương đối

135

đều và ổn định qua các năm.

Bảng 4.1: LLLĐ, số người thất nghiệp, số người tham gia BHTN và số người được

hưởng TCTN ở Việt Nam giai đoạn 2003-2017

Năm LLLĐ (người) Số người thất nghiệp (người) Số người tham gia BHTN (người) Số người được hưởng TCTN (người)

Chưa thực hiện Chưa thực hiện

941.551 920.390 960.956 1.012.628 1.188.440 1.147.388 1.430.338 1.451.316 1.141.044 1.026.021 1.160.754 1.128.708 1.257.832 1.252.242 1.227.520 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tỷ lệ thất nghiệp chung (%) 2,25 2,14 2,14 2,19 2,52 2,38 2,90 2,88 2,22 1,96 2,18 2,10 2,33 2,30 2,24 41.846.700 43.008.900 44.904.500 46.238.700 47.160.300 48.209.600 49.322.000 50.392.900 51.398.400 52.348.000 53.245.600 53.748.000 53.984.200 54.445.300 54.800.000 5.993.300 7.206.163 7.968.231 8.269.552 8.676.081 9.213.302 10.308.180 11.061.562 11.954.740 156.765 289.181 421.048 454.839 514.853 526.309 586.254 671.789

(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ LĐ-TB&XH)

Do số liệu thu thập được trong quá khứ là ổn định, thời gian dự báo dài nên sử

dụng phương pháp dự báo hồi quy tuyến tính (dự báo dựa vào xu thế) theo mô hình

hồi quy theo thời gian.

Gọi Y là biến cần dự báo đối với LLLĐ, số người thất nghiệp, số người tham

at

b

 Y

gia BHTN và số người được hưởng TCTN, ta có: Mô hình dự báo các biến theo

 Y : biến phụ thuộc cần dự báo

phương trình: , Trong đó:

a, b là hai tham số quy định vị trí của đường hồi quy.

a là độ dốc của đường xu hướng; b là tung độ gốc.

2

n

Yt

Bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất, a, b được tính theo công thức sau:

a

b

2

Y 2

Y 2

2

t

 Yt  n

  t  t ( ) 

 t  n t

  t  t ( )

; (n: số năm quan sát)

t: thời gian, tương ứng với số năm có giá trị thực. Để đơn giản trong tính toán

136

các tham số a và b, trong quá trình dự báo, chúng ta thường đặt điều kiện  t =0.

b 

a

Yt 2t

Y n

Khi đó, ;

 

Áp dụng vào quá trình tính toán, ta có các số liệu dự báo về LLLĐ, số người

thất nghiệp, số người tham gia BHTN và số người được hưởng TCTN ở Việt Nam

đến năm 2030 xem bảng 4.2 (tính toán chi tiết xem phụ lục 12, 13, 14 và 15).

Bảng 4.2: Dự báo LLLĐ, số người thất nghiệp, số người tham gia BHTN và số

người được hưởng TCTN ở Việt Nam giai đoạn 2018-2030

Năm LLLĐ Số liệu dự báo (người) Số người tham gia BHTN Số người hưởng TCTN

2018 57.194.101 2019 58.134.588 2020 59.075.075 2021 60.015.561 2022 60.956.048 2023 61.896.535 2024 62.837.022 2025 63.777.508 2026 64.717.995 2027 65.658.482 2028 66.598.969 2029 67.539.456 2030 68.479.942 Số người thất nghiệp 1.301.995 1.321.018 1.340.041 1.359.064 1.378.087 1.397.111 1.416.134 1.435.157 1.454.180 1.473.204 1.492.227 1.511.250 1.530.273 13.624.371 14.556.999 15.489.626 16.422.254 17.354.881 18.287.508 19.220.136 20.152.763 21.085.391 22.018.018 22.950.645 23.883.273 24.815.900 745.469 810.544 875.620 940.695 1.005.770 1.070.846 1.135.921 1.200.996 1.266.072 1.331.147 1.396.222 1.461.298 1.526.373

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ số liệu dự báo của phụ lục 11,12,13,14)

Với số liệu dự báo ở bảng 4.2, có thể thấy, vào năm 2020, số người tham gia

BHTN khoảng 15.489.626 người, trong tổng số 59.075.075 người trong LLLĐ

(chiếm tỷ lệ 26,2%), trong khi đó, mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra là 35%

156],[157].

4.1.3 Dự báo xu hướng phát triển thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất

nghiệp đến năm 2030

Căn cứ vào các thông tin, số liệu dự báo ở mục 4.1.1 và 4.1.2 ở trên, dự báo xu

hướng phát triển thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn

2030 như sau:

- Thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển theo hướng ngày

càng đáp ứng tiêu chuẩn sàn của ILO về BHTN.

137

- Thể chế QLNN về BHTN ở Việt Nam trong tương lai ngày càng đảm bảo

tính hiệu lực, công bằng, phù hợp, công khai, minh bạch và bền vững làm nền tảng

và căn cứ để tổ chức QLNN về BHTN, đảm bảo hiệu quả của chính sách BHTN.

- Thể chế QLNN về BHTN sẽ thay đổi theo chiều hướng đẩy mạnh ứng dụng

thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quản lý, điều hành, thu

thập, phân tích, xử lý số liệu, thông tin quản lý; đẩy mạnh việc sử dụng, tuyển dụng,

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức QLNN về BHTN theo hướng xem trọng kỹ

năng mềm, đặc biệt là kỹ năng thích ứng với sự thay đổi.

- Thể chế QLNN về BHTN sẽ thay đổi để ngày càng mở rộng đối tượng tham

gia, đảm bảo khả năng của quỹ BHTN để giải quyết cho một khối lượng NLĐ có

nguy cơ mất việc làm, học nghề, chuyển đổi việc làm do ảnh hưởng của cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ tư.

4.2 Quan điểm hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến phát triển chính sách ASXH nói

chung và BHTN nói riêng. Trong Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội

đến năm 2020, tầm nhìn 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày

20/01/2016 [199], Thủ tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu: "Phát triển hệ thống an

sinh xã hội quốc gia hiệu quả, tăng cường bảo vệ các nhóm yếu thế phù hợp với các

tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đến năm 2020, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập,

giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin cho người dân; tiếp cận các tiêu chí sàn

an sinh xã hội của quốc tế".

Trong Kế hoạch quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển

bền vững ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017, Thủ tướng

Chính phủ đã đặt ra mục tiêu 1.2: “Triển khai trên toàn quốc các hệ thống và các

biện pháp an sinh xã hội thích hợp cho mọi người, bao gồm cả các chính sách sàn

an sinh xã hội và đến năm 2030 đạt được diện bao phủ đáng kể cho người nghèo và

những người dễ bị tổn thương (Mục tiêu 1.3 toàn cầu)” [] và giao Bộ LĐ-TB&XH

chủ trì thực hiện theo Kế hoạch hành động thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì

sự phát triển bền vững ngành Lao động- Thương binh và Xã hội ban hành kèm theo

Quyết định số 935/QĐ-LĐTBXH ngày 19/7/2018 của Bộ trưởng Bộ Lao động-

Thương binh và Xã hội [].

138

Với BHTN, mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra là: Phấn đấu đạt khoảng

28% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp vào năm 2021, 35% lực

lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp vào năm 2025 và 45% lực lượng lao

động tham gia bảo hiểm thất nghiệp vào năm 2030” [Nghị quyết 28].

Dựa vào dự báo xu hướng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030 đã

trình bày ở mục 4.1, tác giả đưa ra quan điểm hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN ở

Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là: “Phải tăng cường hơn nữa tính hiệu

lực, công bằng, phù hợp, công khai, minh bạch và hiện đại”. Cụ thể là:

Thứ nhất, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo quyền cơ bản của mọi NLĐ

về BHTN, tạo cơ hội tiếp cận, tham gia BHTN của mọi NLĐ, nhất là NLĐ khu vực

phi chính thức, nông lâm thủy sản- có nguy cơ thất nghiệp cao, rủi ro việc làm cao.

Thứ hai, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo nâng cao năng lực tự an sinh

của NLĐ, tạo điều kiện cho mọi đối tượng có nhu cầu, có điều kiện được tiếp cận

với BHTN, được đảm bảo một phần cuộc sống cho họ trong trường hợp rủi ro về

việc làm.

Thứ ba, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo tính công bằng ngay trong

các nhóm đối tượng tham gia và được hưởng lợi của chính sách BHTN thông qua

các quy định khác biệt dành cho các đối tượng đặc thù (lao động là người khuyết

tật, lao động lớn tuổi, hết tuổi lao động, lao động khu vực nông thôn, khu vực kinh

tế phi chính thức, NSDLĐ có quy mô vừa và nhỏ...).

Thứ tư, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo tính công khai, minh bạch,

phát huy dân chủ, có sự tham gia của NLĐ, NSDLĐ đồng thời tăng cường trách

nhiệm giải trình và phản hồi của các cơ quan QLNN về BHTN.

Thứ năm, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo tính hiện đại, đáp ứng yêu

cầu của sự thay đổi do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ sáu, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo quyền tự chủ của địa

phương thông qua việc đẩy mạnh phân cấp nhằm phát huy hết tiềm năng, thế mạnh

của họ trong quản lý, tổ chức triển khai thực hiện BHTN.

Thứ bảy, Thể chế QLNN về BHTN phải đảm bảo kết hợp chặt chẽ với thể chế

QLNN đối với các chính sách việc làm khác (DVVL, thông tin TTLĐ, đào tạo

nghề, tư vấn, GTVL) từ TW đến địa phương.

4.3 Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

139

Việt Nam đến năm 2030

4.3.1 Giải pháp 1: Đẩy mạnh phân cấp cho địa phương, đảm bảo công bằng

cho các đối tượng đặc thù về bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp này nhằm hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN theo

hướng tăng tính tự chủ của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong QLNN về

BHTN, đảm bảo tính công bằng thông qua việc giúp các đối tượng NLĐ, NSDLĐ

yếu thế hơn được ưu tiên hơn trong tiếp cận, giải quyết chế độ BHTN, cũng để phù

hợp với các quy định khác của nhà nước về lao động nữ, lao động người khuyết tật,

...

Nội dung của giải pháp, gồm:

- Đẩy mạnh quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các địa phương trong

quản lý, tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp: cần phải tiến hành sửa đổi thể

chế QLNN về BHTN theo hướng sau đây:

+ Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu địa phương trong đảm bảo

ASXH, đảm bảo việc làm, trong đó có BHTN.

+ Các quy định về mức hưởng, thời gian hưởng của các chế độ BHTN chỉ

nên khống chế ở mức sàn đồng thời cho phép các địa phương, tùy vào điều kiện

ngân sách, có thể hỗ trợ thêm cho quỹ BHTN và cho NLĐ thất nghiệp.

+ Các cơ quan QLNN về BHTN ở trung ương nên tập trung đẩy mạnh các

hoạt động thanh tra, kiểm tra; phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật

về BHTN; phát hiện và kịp thời có các biện pháp tháo gỡ, hỗ trợ các địa phương

những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện; phát hiện

và nhân rộng các mô hình làm tốt, các bài học kinh nghiệm đến các địa phương

khác trong cả nước.

Đối tượng đẩy mạnh thanh, kiểm tra là các đơn vị sử dụng lao động chậm

đóng, nợ đọng BHTN đã được đôn đốc, nhắc nhở nhiều lần nhưng không thực hiện

đúng, đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước về BHTN. Đây là cách đảm bảo quyền lợi

hợp pháp, chính đáng của NLĐ làm việc cho các đơn vị này, cũng đồng thời phù

hợp với chủ trương của Chính phủ về hạn chế tối đa việc thanh tra, kiểm tra không

cần thiết trong tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.

Một đối tượng khác không kém phần quan trọng mà ngành LĐ-TB&XH cũng

cần phải đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra là các đơn vị được trao quyền quản lý, tổ

140

chức thực hiện BHTN: các Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW và các

cơ quan BHXH các cấp. Việc thanh tra, kiểm tra nhằm ngăn ngừa, phát hiện, hạn

chế các sai sót trong nghiệp vụ quản lý, sử dụng quỹ BHTN, trong giải quyết chế độ

BHTN, trong xử lý các trường hợp chi không đúng đối tượng phải thu hồi.

- Ban hành các quy định đặc thù đối với các đối tượng đặc thù: cần có quy

định ưu tiên hơn đối với một số đối tượng quản lý đặc thù:

+ NLĐ mất việc làm hết tuổi lao động: nên bỏ quy định thông báo tìm kiếm

việc làm đối với đối tượng này vì họ rất khó khăn trong tìm việc mới. Trường hợp,

họ đã có khoảng thời gian đóng góp vào quỹ BHTN trong thời gian đủ dài (ví dụ từ

10 năm trở lên): nên được xem xét để không phải đóng góp vào quỹ BHTN.

+ NLĐ mất việc làm là người khuyết tật: nên ưu tiên trước nhất trong khâu tổ

chức tiếp nhận; trong cùng điều kiện như nhau, ưu tiên GTVL cho NLĐ khuyết tật

trước; nên bỏ quy định thông báo việc làm đối với đối tượng này.

+ NLĐ là nữ: trong cùng điều kiện như nhau, ưu tiên GTVL cho NLĐ là nữ

trước, NLĐ là nam sau.

Để thực hiện giải pháp này, Chính phủ cần nghiên cứu trình Quốc hội xem

xét, sửa đổi Luật Việc làm theo hướng giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các địa

phương, sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến điều kiện, thủ tục hưởng các

chế độ BHTN tại Nghị định 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Việc làm về BHTN.

4.3.2 Giải pháp 2: Sửa đổi, bổ sung một số quy định để đảm bảo tính hiện đại

của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp này là nhằm hoàn thiện thể chế QLNN về BHTN đáp

ứng yêu cầu của công tác QLNN về BHTN trong thời đại cách mạng công nghiệp

lần thứ tư: tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao năng lực hệ thống

đào tạo nghề ở địa phương, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức QLNN

về BHTN.

Nội dung giải pháp gồm:

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong QLNN về BHTN: Tiếp

tục hoàn thiện và khai thác có hiệu quả các phần mềm quản lý, thực hiện BHTN

hiện có, đặc biệt là phần mềm quản lý lao động của Cục Việc làm để kiểm soát tình

hình lao động ở các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động. Hỗ trợ

141

kinh phí cho các địa phương để xây dựng phần mềm quản lý giữa Sở LĐ-TB&XH,

Trung tâm DVVL và cơ quan BHXH để hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý về

lao động việc làm cấp tỉnh. Đầu tư phát triển và hoàn thiện về kỹ thuật cho website

Trung tâm Quốc gia DVVL để nâng cao hiệu quả hoạt động, phục vụ tốt công tác

tuyên truyền, cung cấp thông tin và tương tác trực tuyến về chính sách BHTN. Đầu tư

xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động- việc làm. Đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ thông tin trong công tác đảm bảo an toàn thông tin, tăng cường an ninh mạng,

bảo mật dữ liệu, thông tin QLNN về BHTN.

- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức QLNN về BHTN: Chú

trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN tại các

Trung tâm DVVL từ phẩm chất, đạo đức, năng lực, trình độ, thái độ, tác phong,

trong đó, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tăng cường kỹ năng thích

ứng với sự thay đổi, khả năng làm chủ công nghệ để phù hợp hơn yêu cầu của công

tác cán bộ trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

- Tăng cường hoạt động kết nối cung- cầu lao động, nắm bắt nhu cầu xã

hội và NLĐ thất nghiệp để nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, GTVL: Tiếp

tục phát huy hiệu quả của các sàn giao dịch việc làm cố định và lưu động; tăng

cường mối quan hệ gắn kết với NSDLĐ trong việc cung cấp thông tin tuyển dụng

cho Trung tâm DVVL; Phát huy hiệu quả của website Trung tâm DVVL theo

hướng ngày càng tăng tính tương tác giữa NLĐ, NSDLĐ và lãnh đạo, các đơn vị

thuộc Trung tâm, sử dụng đa dạng các hình thức tư vấn, kể cả tư vấn trực tuyến;

tiếp tục phát huy tính chủ động của NLĐ thất nghiệp thông qua việc cung cấp rộng

rãi thông tin việc làm của NSDLĐ; Có sự linh hoạt về hướng tư vấn nghề nghiệp

sao cho vừa phù hợp với khả năng, nhu cầu của NLĐ vừa đảm bảo nhu cầu của

TTLĐ.

- Nâng cao năng lực hệ thống đào tạo nghề ở địa phương

Để đáp ứng được nhu cầu học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp trong tương lai

do ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đồng thời để các ngành

nghề đào tạo thực sự phù hợp với nhu cầu của NLĐ thất nghiệp, cần có các quy

định để quy hoạch, hướng các cơ sở đào tạo nghề đến mục tiêu đáp ứng nhu cầu

thực sự của NLĐ thất nghiệp nhằm cung cấp các khóa đào tạo nghề phù hợp, chứ

không phải chỉ đào tạo những gì là thế mạnh của các cơ sở đào tạo nghề; đồng thời

142

phải nắm bắt nhu cầu của xã hội thông qua các đơn vị sử dụng lao động để đi tắt,

đón đầu, hướng NLĐ thất nghiệp vào các ngành nghề mà xã hội cần. Điều này có

nghĩa, hoạt động đào tạo nghề cho NLĐ thất nghiệp không những phải đáp ứng tốt

nhu cầu của NLĐ thất nghiệp mà còn phải đóng vai trò định hướng, hướng NLĐ

thất nghiệp đến các ngành nghề mà xã hội thực sự cần.

Để làm được việc này, cần hướng các cơ sở đào tạo nghề làm tốt hai hoạt động

chính: nắm bắt nhu cầu và tổ chức các hoạt động phù hợp với nhu cầu. Hay nói cách

khác, các cơ sở đào tạo nghề ở địa phương phải nâng cao năng lực nắm bắt nhu cầu,

tổ chức đa dạng các ngành nghề đào tạo, đi tắt đón đầu xu hướng của xã hội để thiết

kế các khóa đào tạo nghề phù hợp.

Để làm được những việc này, UBND địa phương cấp tỉnh cần tiến hành rà

soát, sắp xếp mạng lưới dạy nghề trên địa bàn các tỉnh, thành phố theo các tiêu chí:

kết quả tuyển sinh, thực trạng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề, hiệu

quả đào tạo, hiệu suất sử dụng cơ sở vật chất thiết bị đã được đầu tư. Đối với các cơ

sở dạy nghề công lập, cần xây dựng phương án chuyển giao, sáp nhập, giải thể các

cơ sở công lập hoạt động không hiệu quả, đồng thời, tập trung chỉ đạo các cơ sở dạy

nghề đang hoạt động tốt đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động dạy nghề gắn với tích cực triển khai thực hiện cơ chế

tự chủ theo Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ. Việc xác

định chỉ tiêu tuyển sinh, phê duyệt chương trình đào tạo, mở mã ngành đào tạo cho

các trường trung cấp, cao đẳng nghề và các cơ sở có đào tạo nghề bậc trung cấp, cao

đẳng hằng năm phải xem nhu cầu của xã hội, của NLĐ thất nghiệp đối với từng

nghề đào tạo làm cơ sở quan trọng để xem xét, bên cạnh các điều kiện về cơ sở vật

chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên, điều kiện đảm bảo chất lượng theo quy định. Đối

với cơ sở ngoài công lập: cần có cơ chế khuyến khích để mở các ngành nghề đào

tạo mới, đa dạng, có chính sách, giải pháp thu hút khu vực tư tham gia vào hoạt

động đào tạo nghề, đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác đào tạo nghề.

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực các cơ sở đào tạo nghề hiện có bằng các

biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề (thông

qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý dạy nghề, bồi dưỡng kỹ năng dạy học, bồi

dưỡng nghiệp vụ sư phạm dạy nghề, các lớp bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, quan tâm

đến việc mời các chuyên gia, các giảng viên của các trường đại học cao đẳng, các

143

nghệ nhân, kỹ sư, thợ bậc cao trong các doanh nghiệp tham gia giảng dạy các lớp

đào tạo nghề; quan tâm tới công tác tổ chức Hội giảng giáo viên dạy nghề từ cấp

khoa, tổ bộ môn tới cấp trường và Hội giảng giáo viên dạy nghề cấp tỉnh, tuyển

chọn và bồi dưỡng giáo viên dạy nghề của tỉnh để tham gia Hội giảng giáo viên dạy

nghề toàn quốc...); chỉ đạo các cơ sở dạy nghề xây dựng, đổi mới nội dung, chương

trình và phương pháp dạy học theo hướng đa dạng hóa các chương trình đào tạo

nghề; đổi mới các chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận với nhu cầu của

TTLĐ, trong đó đặc biệt chú ý tới việc giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong

công nghiệp và rèn tay nghề cho người học; cần kết hợp với các doanh nghiệp để

xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp; chú trọng

đổi mới phương pháp dạy nghề, gắn kết giữa dạy lý thuyết với hướng dẫn thực

hành, phát huy tính chủ động và tích cực của người học nghề; tăng cường đầu tư

xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy nghề theo hướng chuẩn hoá;

triển khai thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hoá đào tạo nghề.

Vấn đề quan trọng khác là cần chỉ đạo tổ chức nghiên cứu nhu cầu của TTLĐ

ở địa phương để có cơ sở xây dựng danh mục ngành nghề đào tạo phù hợp, từ đó

mạnh dạn bổ sung, thay thế các ngành nghề đào tạo trong danh mục ngành nghề

hiện có sao cho vừa đáp ứng nhu cầu của TTLĐ, vừa đáp ứng khả năng của NLĐ

thất nghiệp thay vì chỉ cung cấp cho NLĐ các danh mục sẵn có của các cơ sở đào

tạo nghề. Đồng thời chú trọng việc xây dựng danh mục đào tạo nghề đa dạng để

NLĐ có thêm nhiều lựa chọn cho việc học nghề. Cần thực hiện tốt việc điều tra,

khảo sát thông tin TTLĐ hàng quý, hàng năm (nhu cầu học nghề của học sinh trung

học phổ thông, nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, nguồn cung lao động

qua đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo nghề); đầu tư nâng cấp và duy trì hoạt động

thường xuyên hoạt động của sàn giao dịch việc làm- nơi cung cấp thông tin TTLĐ,

là cầu nối giữa doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề và NLĐ; định kỳ tổ chức điều tra

cung- cầu lao động trên địa bàn để làm cơ sở xây dựng các kế hoạch đào tạo nghề.

Ngoài ra, cần quan tâm tháo gỡ những khó khăn cho các cơ sở đào tạo nghề trong

quá trình tổ chức hoạt động đào tạo nghề cho lao động thất nghiệp (về thủ tục chi

trả kinh phí, đơn giản hóa các quy trình thủ tục, …).

Để thực hiện giải pháp, Bộ LĐ-TB&XH cần ban hành Quy định tăng cường

ứng dụng công nghệ thông tin trong QLNN ngành LĐ-TB&XH, trong đó có lĩnh vực

144

BHTN, đồng thời tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 18/2010/NĐ-

CP của Chính phủ ngày 05/03/2010 về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Sở LĐ-

TB&XH tham mưu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành

Quyết định quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề tại địa phương.

4.3.3 Giải pháp 3: Tăng tính hiệu lực, hợp lý, minh bạch trong các quy định

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp

4.3.3.1 Mở rộng đối tượng, hình thức tham gia Bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp này nhằm giúp hoàn thiện quy định về đối tượng, hình

thức tham gia BHTN theo hướng nâng cao năng lực tự an sinh của người dân, giúp

cho chính sách BHTN đến với NLĐ thực sự có nhu cầu, những người có nguy cơ

thất nghiệp cao, rủi ro việc làm cao, đồng thời giúp cho đối tượng NLĐ ở khu vực

phi chính thức được bảo vệ tốt hơn trong trường hợp rủi ro về việc làm, từ đó, tăng

độ bao phủ BHTN trên phạm vi cả nước, giúp chính sách BHTN ở Việt Nam ngày

càng phù hợp hơn với điều kiện thực tế đồng thời cũng phù hợp với các khuyến

nghị chính sách của ILO.

Nội dung của giải pháp:

Thứ nhất, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Việt Nam là nước đang phát triển, lao động khu vực phi chính thức (tự tạo

việc làm, lao động hành nghề tự do và lao động làm công ăn lương nhưng chưa

được điều chỉnh bởi Bộ luật lao động) và lao động trong các lĩnh vực nông, lâm,

thủy sản chiếm tỷ trọng rất cao trong cơ cấu LLLĐ của cả nước (khoảng

70%). Trong cấu trúc TTLĐ tại Việt Nam năm 2014, nhóm hộ gia đình kinh doanh

phi nông nghiệp đang tạo ra 11 triệu việc làm (trong tổng số 52,6 triệu lao động của

Việt Nam), gấp 5 và 7 lần số chỗ việc làm do nhóm doanh nghiệp FDI và nhóm

doanh nghiệp nhà nước tạo ra- hai nhóm chính của nền kinh tế Việt Nam- nơi các

chính sách ASXH cho NLĐ, trong đó có chính sách BHTN được triển khai tương

đối ổn định.

Thực tế thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ Việt Nam chịu ảnh hưởng của

cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, những đóng góp quan trọng cho nền

kinh tế lại được tạo ra từ khu vực phi chính thức và khu vực nông lâm thủy sản:

đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển sản xuất các sản phẩm hàng hóa

phục vụ dân sinh và cho xuất khẩu, tạo nhiều việc làm cho NLĐ..., từ đó đảm bảo

145

việc làm, giúp duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp, cải thiện về điều kiện lao động,

tăng thu nhập cho NLĐ. Tuy có những đóng góp quan trọng như vậy, nhưng chỉ đến

những năm gần đây, vấn đề lao động khu vực phi chính thức và khu vực nông lâm

thủy sản mới được quan tâm hơn ở Việt Nam.

Do đó, về phía nhà nước, cần đảm bảo tính công bằng cho mọi NLĐ, cần phải

đảm bảo quyền bình đẳng cho NLĐ ở tất cả các khu vực trong việc tiếp cận chính

sách BHTN, tức là phải đảm bảo quyền được tham gia của NLĐ ở khu vực phi

chính thức và NLĐ khu vực nông lâm thủy sản đối với chính sách BHTN. Tức là

phải mở rộng đối tượng tham gia BHTN so với quy định hiện nay. Và đối tượng

tham gia BHTN được mở rộng gồm: NLĐ tự tạo việc làm, NLĐ hành nghề tự do,

NLĐ làm công ăn lương không có giao kết HĐLĐ hoặc có HĐLĐ dưới 3 tháng,

NLĐ khu vực nông lâm thủy sản. Đối tượng này hiện chiếm khoảng 70% LLLĐ

của cả nước (ước khoảng 38,36 triệu người thời điểm 31/12/2017). Đặc điểm chung

của đối tượng này là trình độ chuyên môn thấp, thu nhập thấp, việc làm bấp bênh.

Khi lấy ý kiến 303 người lao động cho rằng phạm vi BHTN hiện nay còn hạn

chế, cần mở rộng đối tượng tham gia về các đối tượng cần được mở rộng, kết quả

cho thấy sự đồng tình rất cao của họ với các đối tượng nêu trên (mục 4, phụ lục 11),

cụ thể: có 255 người đồng ý mở rộng đối tượng NLĐ làm công ăn lương có HĐLĐ

dưới 3 tháng, có 257 người đồng ý mở rộng đối tượng NLĐ làm công ăn lương

nhưng không có giao kết HĐLĐ, có 254 người đồng ý mở rộng đối tượng NLĐ tự

tạo việc làm, tự sản xuất kinh doanh, có 240 người đồng ý mở rộng đối tượng NLĐ

hành nghề tự do và có 250 người đồng ý mở rộng đối tượng NLĐ khu vực nông,

lâm, thủy sản.

Thứ hai, quy định thêm hình thức tham gia bảo hiểm thất nghiệp tự

nguyện.

Do số lượng NLĐ chưa tiếp cận với BHTN là rất lớn nên bên cạnh sự hỗ trợ

của nhà nước thì cũng rất cần sự tham gia đóng góp của NLĐ để nâng cao năng lực

tự an sinh của NLĐ, cũng thể hiện trách nhiệm của chính NLĐ trong đảm bảo việc

làm cho bản thân họ, đồng thời cũng để thể hiện trách nhiệm của NLĐ về nhu cầu

tham gia BHTN của mình. Để giải quyết hài hòa quyền lợi của nhà nước và NLĐ,

cũng cần quy định thêm hình thức BHTN tự nguyện bên cạnh hình thức bắt buộc

như hiện nay. Tức là phải mở rộng thêm hình thức tham gia BHTN so với quy định

146

hiện nay. Điều này là phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với

quy định của một số nước trên thế giới: chỉ sử dụng hình thức BHTN tự nguyện

(như Đan Mạch) hay duy trì cả hai hình thức BHTN bắt buộc và tự nguyện (như

Thụy Sĩ). Điều này cũng đáp ứng mong muốn của NLĐ về mở rộng thêm hình thức

BHTN theo kết quả khảo sát khi có 62,7% NLĐ được hỏi cho rằng hình thức hiện

nay là chưa phù hợp, nên có thêm hình thức BHTN tự nguyện (kết quả phân tích

câu hỏi 9, phụ lục 10).

Nội hàm của hình thức BHTN tự nguyện là NLĐ có quyền quyết định tham

gia hoặc không tham gia BHTN nhưng nhà nước không có quyền từ chối nếu NLĐ

thực sự có nhu cầu tham gia. Với hình thức tự nguyện, BHTN sẽ đến với NLĐ thực

sự có nhu cầu.

Để khuyến khích NLĐ tham gia BHTN tự nguyện, vấn đề thiết kế nội dung

chính sách một cách phù hợp với nhu cầu của NLĐ, đồng thời công tác quản lý, tổ

chức triển khai một cách hợp lý là những yêu cầu hết sức quan trọng, quyết định sự

thành công của chính sách.

Nội dung của chính sách BHTN tự nguyện được đề xuất như sau:

- Đối tượng tham gia BHTN tự nguyện: Là toàn bộ đối tượng được đề xuất mở

rộng trong giải pháp này, ước khoảng 38,36 triệu người thời điểm 31/12/2017.

- Các bên tham gia đóng góp vào quỹ: NLĐ và nhà nước.

- Căn cứ để đóng góp: Trước năm 2021, dựa vào mức lương cơ sở do Chính

theo quy định của pháp luật.

phủ quy định trong từng thời kỳ. Từ năm 2021 trở đi, dựa vào mức lương tối thiểu

- Về mức đóng và phương thức đóng:

+ NLĐ đóng phí BHTN theo năm và mức đóng hàng năm là 20% mức lương

cơ sở.

+ Nhà nước hỗ trợ quỹ BHTN tự nguyện theo năm dựa vào kết dư quỹ

BHTN hàng năm, mức hỗ trợ tối đa không quá 40% mức lương cơ sở/NLĐ/năm.

Ngân sách nhà nước không hỗ trợ đối với những trường hợp NLĐ 5 năm liên tiếp

không có nhu cầu học nghề.

- Các chế độ BHTN tự nguyện:

+ Tư vấn, GTVL: NLĐ tham gia BHTN tự nguyện được tư vấn, GTVL miễn

phí bất cứ khi nào có nhu cầu, không giới hạn số lần đăng ký.

147

+ Hỗ trợ học nghề: NLĐ tham gia BHTN tự nguyện được đăng ký tham gia

một khóa đào tạo nghề mỗi năm với thời gian đào tạo và trình độ đào tạo khác nhau

tại các cơ sở đào tạo nghề, quỹ BHTN hỗ trợ cho NLĐ không quá 50% mức lương

cơ sở cho một khóa đào tạo nghề cho một NLĐ.

+ TCTN một lần: Cứ 5 năm liên tục đóng vào quỹ BHTN tự nguyện mà

NLĐ không tham gia khóa học nghề nào thì được hưởng TCTN một lần với mức

hưởng bằng 70% mức lương cơ sở.

+ Hỗ trợ vay vốn từ Quỹ BHTN: NLĐ tham gia BHTN đủ 12 tháng sẽ được

xem xét duyệt cho vay vốn với lãi suất ưu đãi từ quỹ BHTN để tự tạo việc làm.

- Các cơ quan quản lý BHTN tự nguyện:

+ Trung tâm DVVL:tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN tự nguyện cho NLĐ.

+ Cơ quan BHXH: quản lý quỹ BHTN tự nguyện.

+ UBND cấp xã: xác nhận đối tượng thuộc diện BHTN tự nguyện, tổ chức

thu phí BHTN tự nguyện, phát thẻ xác nhận tham gia BHTN cho NLĐ.

- Khả năng áp dụng BHTN tự nguyện trên thực tế:

+ Tính an toàn quỹ: Với mức đóng và mức hưởng quy định như trên, chênh

lệch thu- chi BHTN tự nguyện luôn dương (bảng 4.3 và 4.4), là cơ sở để bù đắp chi

phí quản lý quỹ và tổ chức thực hiện các chế độ BHTN. Điều này cho thấy khả năng

an toàn quỹ khi áp dụng BHTN tự nguyện là rất cao.

Thu BHTN tự nguyện

Chi BHTN tự nguyện

Chênh lệch

thu-chi

NLĐ

Nhà nước

Tư vấn,

Hỗ trợ học nghề

TCTN

GTVL

một lần

20% x1.300.000

40%x1.300.000

-

50%x1.300.000x5=

-

+ 650.000

x 5 = 1.300.000

x 5 = 2.600.000

3.250.000

Bảng 4.3: Dự kiến cân đối thu-chi BHTN trong 5 năm đối với 1 NLĐ có tham gia học nghề (mức lương cơ sở thời điểm 30/6/2018 là 1.300.000 đồng) ĐVT: đồng

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

Thu BHTN tự nguyện

Chi BHTN tự nguyện

Chênh lệch

thu-chi

NLĐ

Nhà nước

Tư vấn,

Hỗ trợ học

TCTN một lần

GTVL

nghề

20% x1.300.000

0

-

-

70%x1.300.000

+ 390.000

x 5 = 1.300.000

= 910.000 đ

Bảng 4.4: Dự kiến cân đối thu-chi BHTN trong 5 năm đối với 1 NLĐ không tham gia học nghề (mức lương cơ sở thời điểm 30/6/2018 là 1.300.000 đồng) ĐVT: đồng

148

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

+ Quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHTN tự nguyện: quyền lợi của NLĐ

tham gia BHTN tự nguyện là rất lớn. Trong 5 năm tham gia BHTN, một NLĐ chỉ

bỏ ra khoản tiền là 1.300.000 đồng. Trong khoảng thời gian này, họ được tư vấn,

GTVL miễn phí bất cứ khi nào có nhu cầu mà không bị giới hạn số lần đăng ký.

Nếu họ có nhu cầu học nghề, họ có quyền được tham gia tối đa lên đến 5 khóa đào

tạo nghề (1 khóa/năm) với mức hỗ trợ của nhà nước lên đến 3.250.000 đồng. Nếu

không có nhu cầu học nghề, họ sẽ được nhà nước chi trả lại một phần phí đã bỏ ra

(910.000 đồng, tương đương 70% phí BHTN đã bỏ ra) thông qua hình thức trợ cấp

BHTN một lần. Ngoài ra, khi tham gia BHTN tự nguyện từ 12 tháng trở lên, NLĐ

còn được hỗ trợ vay vốn từ Quỹ BHTN với lãi suất ưu đãi để tự tạo việc làm.

+ Sự đảm bảo của ngân sách nhà nước:

Với nội dung BHTN tự nguyện như trên, xét tại thời điểm 30/6/2018 với mức

lương cơ sở là 1.300.000 đồng, một năm NSNN sẽ hỗ trợ cho NLĐ tham gia BHTN

tự nguyện tối đa là 520.000 đồng/người/năm. Nếu tất cả NLĐ thuộc diện tham gia

BHTN tự nguyện đều tham gia và đều được hỗ trợ tham gia các khóa học nghề thì

nhà nước phải hỗ trợ tối đa: 38,36 triệu người x 520.000 đồng/người/năm ≈ 19.947

tỷ đồng (chiếm 1,8% tổng thu NSNN năm 2017 (1.104 nghìn tỷ đồng)). Nếu so

sánh mức hỗ trợ của nhà nước cho một NLĐ tham gia BHTN bắt buộc (bảng 4.5)

thì mức hỗ trợ cho BHTN tự nguyện có cao hơn nhưng không nhiều. Điều này cũng

là sự thể hiện mức độ quan tâm của nhà nước đối với NLĐ khu vực phi chính thức

và NLĐ khu vực nông, lâm, thủy sản phần tạo sự an tâm của NLĐ, về lâu dài, góp

phần thúc đẩy khu vực kinh tế phi chính thức và nông lâm thủy sản phát triển.

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

3.510.651 5.400.307 6.747.116 8.664.818 10.094.742 11.812.738

9.939.530 11.728.000 13.591.000

1.170.000 1.800.102 2.249.039 2.888.273

3.364.914

3.937.579

0

0

0

5.993.300 7.206.163 7.968.231 8.269.552

8.676.081

9.213.302 10.308.180 11.061.562 11.954.740

195.218

249.800

282.251

349.266

387.838

427.380

0

0

0

Chỉ tiêu Tổng thu BHTN (triệu đồng) Đóng góp từ NSNN cho quỹ BHTN (triệu đồng) Số người tham gia BHTN (người) Mức hỗ trợ của NSNN cho một người tham gia BHTN (đồng/người)

Bảng 4.5 Mức hỗ trợ từ NSNN cho một người tham gia BHTN giai đoạn 2010- 2017

149

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài chính, BHXH Việt Nam)

Từ những phân tích về tính an toàn quỹ, quyền lợi của NLĐ cũng như khả

năng hỗ trợ của NSNN, có thể thấy rằng chế độ BHTN tự nguyện hoàn toàn có thể

được thực thi trên thực tế.

Để thực hiện giải pháp này, Chính phủ cần nghiên cứu trình Quốc hội xem xét,

sửa đổi, bổ sung Luật Việc làm về đối tượng tham gia, hình thức tham gia và nội

dung chế độ BHTN tự nguyện. Bộ Tài chính cân đối ngân sách, tài chính BHTN để

tham mưu mức đóng BHTN tự nguyện, mức hỗ trợ của NSNN cho quỹ BHTN tự

nguyện.

4.3.3.2 Sửa đổi, bổ sung quy định về các chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp này là nhằm hoàn thiện quy định về các chế độ BHTN

theo hướng đảm bảo cho NLĐ tham gia BHTN bị mất việc làm được bảo vệ tốt hơn

trong thời gian tham gia học nghề, hoặc có nhu cầu tự tạo việc làm hoặc khi chẳng

may gặp rủi ro không lường trước, đồng thời, cũng khuyến khích NLĐ quan tâm

nhiều hơn đến chế độ học nghề, thay đổi mục đích chọn lựa nghề để học là nghề mà

mình thực sự mong muốn, để có thể xin việc hoặc tự tạo việc làm cho chính mình,

chứ không chỉ học những nghề cốt chỉ để dễ xin việc như hiện nay.

Nội dung giải pháp gồm:

- Bổ sung thêm chế độ hỗ trợ mới: “Cho vay ưu đãi từ quỹ bảo hiểm thất

nghiệp”: Trong 4 chế độ BHTN hiện hành, NLĐ khi mất việc đã bước đầu có sự hỗ

trợ về tài chính, một phần trong số đó được đào tạo nghề nhưng rất ít, số lao động

được hưởng BHTN tái gia nhập TTLĐ là có nhưng chưa được thống kê cụ thể.

Trong số đó, có các trường hợp không hoặc không thể tìm kiếm việc làm mới mà tự

tạo việc làm thông qua việc tự sản xuất, buôn bán, kinh doanh. Một số khác, nỗ lực

học một nghề mới, sau đó tự kinh doanh, làm ăn, trang trải cuộc sống.

Thực tế là, kết dư quỹ BHTN hiện rất lớn, chi BHTN hàng năm thấp hơn

nhiều so với thu BHTN (xem phân tích ở mục 3.1.2.2). Do đó, để tạo điều kiện hơn

nữa cho NLĐ mất việc làm, cần có sự hỗ trợ về nguồn vốn ban đầu cho những NLĐ

mất việc thực sự cần vốn để tự sản xuất, kinh doanh thông qua việc cho vay vốn từ

nguồn quỹ BHTN còn kết dư (có thể thành lập Quỹ hỗ trợ tự tạo việc làm trích từ

Quỹ BHTN)- đó cũng là cách hỗ trợ họ hạn chế, khắc phục hậu quả của thất nghiệp.

Vì vậy, bên cạnh 4 chế độ BHTN hiện hành, cần nghiên cứu áp dụng thêm chế

150

độ cho vay ưu đãi từ quỹ BHTN.

- Tăng mức hỗ trợ đối với chế độ hỗ trợ học nghề: Cần có hỗ trợ nhiều hơn

cho NLĐ đang hưởng BHTN tham gia học nghề như hỗ trợ một phần chi phí ăn ở,

sinh hoạt phí ... để họ yên tâm tham gia khóa học.

- Có hỗ trợ đột xuất trong các trường hợp gặp rủi ro: Cần có hỗ trợ đột

xuất cho NLĐ đang hưởng BHTN trong các trường hợp: bị tai nạn, bị suy giảm khả

năng lao động trong quá trình hưởng BHTN, không thể tái tham gia TTLĐ.

Để thực hiện giải pháp này, Bộ LĐ-TB&XH cần tổ chức nghiên mong muốn,

nhu cầu của NLĐ, phối hợp cùng Bộ Tài chính tính toán mức hỗ trợ hợp lý, mức

cho vay hợp lý, đồng thời tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ

sung Luật Việc làm về các chế độ BHTN.

4.3.3.3 Sửa đổi, bổ sung quy định về thông tin quản lý, quan hệ phối hợp giữa

các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan trong triển khai thực hiện

chính sách bảo hiểm thất nghiệp

a. Đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động-việc làm

Mục tiêu của giải pháp là hoàn thiện quy định trong quản lý thông tin phục vụ

QLNN về BHTN thông qua việc xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu QLNN về

BHTN nói riêng và QLNN về lao động- việc làm nói chung chính xác, khoa học.

Có được cơ sở dữ liệu này, việc kiểm soát thông tin NLĐ bị mất việc làm hoặc đang

hưởng trợ cấp BHTN sẽ được tiến hành một cách chủ động, từ đó, kiểm soát chặt

tình trạng việc làm của NLĐ- cơ sở để đảm bảo việc giải quyết chế độ BHTN đúng

người, đúng đối tượng, tránh tình trạng trục lợi BHTN; cũng giúp cơ quan BHXH

các cấp kiểm soát số lượng NLĐ thuộc diện tham gia BHTN bắt buộc, tránh tình

trạng NSDLĐ “lách luật”, cố tình không tham gia BHTN cho NLĐ.

Nội dung giải pháp: Để xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động việc làm,

vấn đề là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý liên quan trong cập

nhật biến động thường xuyên về tình trạng việc làm của NLĐ trong các đơn vị sử

dụng lao động, từ đó sẽ hình thành một cơ sở dữ liệu chính xác, khoa học, sử dụng

hiệu quả cho hoạt động xét duyệt đối tượng hưởng BHTN.

Việc quản lý thông tin NLĐ sẽ dựa vào mã số định danh cá nhân được các cơ

quan có thẩm quyền cung cấp (từ năm 2019). Theo đó, khi tra cứu tình trạng việc

làm của 1 NLĐ bất kỳ, chỉ cần nhập mã số định danh cá nhân của người đó và hệ

151

thống sẽ cho kết quả.

Mô hình cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động việc làm là mô hình tập trung, có

thể mô tả như sơ đồ 4.1. Trong đó:

- Trung tâm Quốc gia DVVL: quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia; báo cáo Bộ LĐ-

TB&XH tình hình sử dụng, cập nhật biến động, khai thác, quản lý cơ sở dữ liệu

quốc gia về lao động- việc làm.

- Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố: quản lý cơ sở dữ liệu cấp tỉnh trước khi

tích hợp đồng bộ vào cơ sở dữ liệu quốc gia; báo cáo Sở LĐ-TB&XH tình hình sử

dụng, cập nhật biến động, khai thác, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động-

việc làm.

- Các cơ quan liên quan (lao động, thuế, kế hoạch và đầu tư, BHXH, ...),

TW

Cấp tỉnh

cơ quan lao động

cơ sở dữ liệu quốc gia

cơ sở dữ liệu cấp tỉnh

NSDLĐ, NLĐ được quyền truy cập, sử dụng, khai thác dữ liệu cấp tỉnh.

cơ quan kế hoạch và đầu tư

cơ quan BHXH

NLĐ

NSDLĐ

Trung tâm DVVL

Trung tâm Quốc gia DVVL

cơ quan thuế

Sơ đồ 4.1: Mô hình cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động- việc làm

Để xây dựng cơ sở dữ liệu theo mô hình này, cần tiến hành các bước sau:

Bước 1: Xây dựng cơ sở dữ liệu cấp tỉnh:

+ Thu thập thông tin: Yêu cầu NSDLĐ cung cấp toàn bộ thông tin NLĐ hiện

đang làm việc tại đơn vị: Họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán, giới tính, nơi

152

thường trú/tạm trú, mã số định danh cá nhân, loại HĐLĐ/HĐLV đang ký kết, ngày

ký HĐLĐ/HĐLV, số sổ BHXH, mã số thuế cá nhân, trình độ chuyên môn, vị trí

công việc đang đảm nhiệm, lương hiện hưởng, tên, địa chỉ, mã số thuế của NSDLĐ.

+ Kiểm tra, đối chiếu dữ liệu với cơ quan thuế thông qua danh sách trả lương

hàng tháng của đơn vị, yêu cầu NSDLĐ điều chỉnh (nếu có).

+ Nhập dữ liệu vào hệ thống.

Bước 2: Tích hợp cơ sở dữ liệu quốc gia

Thực hiện việc đồng bộ dữ liệu lao động của các địa phương theo đơn vị hành

chính và tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia.

Bước 3: Sử dụng dữ liệu

+ Dữ liệu quốc gia được đặt tại Trung tâm Quốc gia DVVL thuộc Bộ LĐ-

TB&XH. Dữ liệu của các địa phương được lưu trữ tại hệ thống Trung tâm DVVL

các tỉnh, thành phố trực thuộc TW.

+ Giao quyền khai thác dữ liệu quốc gia cho Trung tâm DVVL các tỉnh thành phố.

+ Cho phép các cơ quan liên quan (cơ quan thuế, kế hoạch đầu tư, ...) được sử

dụng, khai thác dữ liệu lao động- việc làm cấp tỉnh để phục vụ hoạt động quản lý.

+ Cho phép NSDLĐ, NLĐ truy cập để khai thác một số thông tin trong giới

hạn cho phép.

Bước 4: Cập nhật biến động lao động- việc làm hàng tháng

+ Trước ngày 03 hàng tháng, NSDLĐ cung cấp danh sách biến động lao

động cho Trung tâm DVVL.

+ Từ ngày 03 đến ngày 09 hàng tháng, Trung tâm DVVL chủ trì, phối hợp

với cơ quan BHXH và cơ quan thuế kiểm tra tính chính xác từ thông tin báo cáo của

NSDLĐ. Các trường hợp sai sót trong khai báo thông tin phải báo cáo thanh tra lao

động cấp tỉnh để làm rõ và có biện pháp xử lý.

+ Trước ngày 10 hàng tháng, Trung tâm DVVL tiến hành cập nhật thông tin

biến động tăng giảm lao động hàng tháng; cơ quan BHXH cấp huyện và cấp tỉnh cập

nhật thông tin NLĐ ốm đau, thai sản, thôi việc, hưu trí, ... vào cơ sở dữ liệu cấp tỉnh.

Để thực hiện giải pháp, Chính phủ cần giao Bộ LĐ-TB&XH chủ trì, phối hợp

với các Bộ ngành liên quan (Kế hoạch và Đầu tư, Thuế, Bảo hiểm xã hội) xây dựng

và ban hành Quy định về xây dựng, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao

động- việc làm.

b. Đổi mới công tác tổ chức thông tin, thống kê về bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp này là nhằm sửa đổi quy định về công tác tổ chức

153

thông tin, thống kê về BHTN đảm bảo tính toàn diện, đầy đủ và khoa học.

Nội dung của giải pháp:

- Cần phải xem công tác thông tin, thống kê BHTN là công cụ quan trọng

phục vụ cho hoạt động QLNN về BHTN, từ đó, mới chú trọng đẩy mạnh các biện

pháp thúc đẩy hoạt động tổ chức thông tin, thống kê về BHTN.

- Chú trọng đào tạo nghiệp vụ thống kê, nghiệp vụ thu thập, xử lý dữ liệu đối

với cán bộ làm công tác thống kê BHTN các cấp.

- Quy định rõ chế độ, nghĩa vụ báo cáo một cách cụ thể gắn với chế tài xử lý

nghiêm.

- Tổ chức công bố rộng rãi thông tin thống kê, báo cáo về BHTN định kỳ

hàng tháng, hàng quý, hàng năm ... phục vụ cho các cơ quan QLNN về BHTN, các

nhà nghiên cứu về BHTN và các cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm.

- Tổ chức lưu trữ thông tin thống kê về BHTN một cách khoa học, an toàn,

tập trung một đầu mối chịu trách nhiệm chính.

- Xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê khoa học, đầy đủ về BHTN. Cụ

thể: hệ thống các chỉ tiêu thống kê trong QLNN về BHTN phải bao gồm các nhóm

chỉ tiêu với cách hiểu và cách tính như phụ lục 16. Trong đó, có thể phác họa các bộ

Người đang có việc làm

Người thất nghiệp

LLLĐ (Dân số hoạt động kinh tế)

Dân số trong độ tuổi lao động

Người đang đi học

phận hợp thành tổng dân số, nguồn lao động qua sơ đồ 4.2 sau đây:

Nguồn lao động

Người không làm việc và không có nhu cầu làm việc

Dân số không hoạt động kinh tế

Tổng dân số

Người làm nội trợ cho chính gia đình mình

Khác

Dân số ngoài độ tuổi lao động

Người trong độ tuổi lao động mất khả năng lao động

Sơ đồ 4.2: Các bộ phận hợp thành tổng dân số, nguồn lao động, dân số trong độ tuổi lao động, ngoài độ tuổi lao động, dân số hoạt động kinh tế, không hoạt động kinh tế

154

Để thực hiện giải pháp, Bộ LĐ-TB&XH cần sửa đổi Thông tư 11/2015/TT-

BLĐTBXH ngày 11/3/2015 về chế độ báo cáo thống kê tổng hợp về LĐ-TB&XH

[163], ban hành mới Thông tư Quy định về cung cấp, sử dụng, khai thác thông tin

thống kê quản lý nhà nước ngành LĐ-TB&XH, trong đó có lĩnh vực BHTN.

c. Xây dựng Quy chế phối hợp rõ ràng giữa các cơ quan có liên quan trong

quản lý, triển khai thực hiện bảo hiểm thất nghiệp.

Trong cuộc khảo sát NLĐ mà tác giả đã tiến hành trực tuyến (bảng hỏi trình

bày ở phụ lục 9), trong số 196 người hiện đang tham gia BHTN cho rằng cần phải

đổi mới, hoàn thiện QLNN về BHTN trong thời gian đến, 62,8% cho rằng công tác

phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận, phòng, ban cần được xem xét, điều chỉnh.

Mục tiêu của giải pháp này nhằm quy định chặt chẽ hơn công tác phối hợp

trong quản lý, tổ chức triển khai BHTN ở địa phương.

Nội dung của giải pháp là tất cả các địa phương đều phải xây dựng cơ chế phối

hợp chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ gồm:

+ Sự phối hợp trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHTN giữa

các cơ quan liên quan: Sở LĐ-TB&XH, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Tài

chính, Liên đoàn Lao động, Đài Phát thanh Truyền hình, Báo địa phương.

+ Sự phối hợp trong công tác tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN giữa Sở LĐ-

TB&XH, Trung tâm DVVL và BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc TW.

+ Sự phối hợp trong kiểm tra, thanh tra tình hình thi hành pháp luật BHTN.

+ Sự phối hợp trong xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật BHTN.

+ Cơ chế hội họp, trao đổi, cung cấp thông tin, trao đổi văn bản, tài liệu, thống

kê, báo cáo về BHTN.

Yêu cầu của Quy chế phối hợp là phải làm rõ các nội dung:

+ Xác định rõ vai trò của các cơ quan liên quan: cơ quan chủ trì, cơ quan phối

hợp, trách nhiệm của từng cơ quan.

+ Xác định rõ phạm vi điều chỉnh của Quy chế phối hợp: là các hoạt động tổ

chức, thực thi BHTN trên địa bàn cấp tỉnh, gồm: ban hành văn bản hướng dẫn, triển

khai, công tác tuyên truyền, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, công tác giải quyết chế độ BHTN, chế độ thông tin, báo cáo, liên

thông số liệu quản lý, hội họp giữa đại diện lãnh đạo các cơ quan.

155

+ Xác định rõ đối tượng điều chỉnh của Quy chế phối hợp là: công chức, viên

chức, NLĐ làm việc tại các cơ quan quản lý, thực hiện BHTN trên địa bàn cấp tỉnh.

+ Xác định rõ thời gian, địa điểm, quy trình của tất cả các nhiệm vụ liên quan

đến thực hiện BHTN.

Để thực hiện giải pháp này, Chính phủ cần bổ sung trách nhiệm của Sở LĐ-

TB&XH trong tổ chức triển khai thực hiện BHTN (Điều 38, Nghị định

28/2015/NĐ-CP ngày 12/03/2015): Chủ trì xây dựng Quy chế phối hợp trong quản

lý, triển khai thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ở từng địa phương cấp tỉnh.

4.3.3.4 Sửa đổi, bổ sung quy định quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp

a. Hoàn thiện quy định về thu- chi bảo hiểm thất nghiệp.

Mục tiêu của giải pháp này là nhằm hoàn thiện quy định về quỹ BHTN cho

phù hợp hơn với thực tế Việt Nam. Các quy định về thu- chi BHTN được hoàn thiện

sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ BHTN, tăng hiệu quả QLNN về chế độ tài

chính đối với quỹ BHTN.

Nội dung giải pháp gồm:

- Hoàn thiện quy định về nguồn thu bảo hiểm thất nghiệp: Cần quy định

hợp lý hơn mức đóng góp, đối tượng đóng góp vào quỹ BHTN, cụ thể: Không thu

BHTN đối với NLĐ đã hết tuổi lao động theo quy định của Bộ luật Lao động mà

chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu.

Ở Việt Nam, nhiều NLĐ hết tuổi lao động theo quy định hiện hành vẫn tiếp

tục làm việc trong các đơn vị sử dụng lao động. Họ làm việc chủ yếu là vì hai

nguyên nhân: (1) vì nhu cầu cuộc sống, vì áp lực tìm kiếm thu nhập cho gia đình họ

hoặc (2) đơn vị sử dụng lao động rất cần đến trình độ, năng lực, kinh nghiệm của họ

và bản thân họ còn khao khát cống hiến, đóng góp cho sự phát triển của đơn vị sử

dụng lao động, cho xã hội. Những đối tượng này mặc dù không đủ điều kiện hưởng

lương hưu những họ thường có một khoảng thời gian đóng góp dài cho quỹ BHTN

trước khi hết tuổi lao động. Do đó, cần nghiên cứu bỏ quy định thu BHTN đối với

đối tượng này.

- Hoàn thiện quy định về các khoản chi bảo hiểm thất nghiệp

Như đã phân tích ở mục 3.1.2.2, kết dư quỹ BHTN hiện nay lớn trong khi

thông tin quản lý, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quản lý BHTN còn chưa đầy

đủ, đồng bộ, mức chi cho các chế độ hỗ trợ NLĐ (tư vấn, GTVL, đào tạo nghề)

156

chưa nhiều, chưa thu hút sự quan tâm của NLĐ, chưa phát huy tác dụng trên thực

tế. Do đó, cần quy định hạn mức sử dụng các khoản chi BHTN để hiệu quả sử dụng

quỹ được nâng cao theo hướng:

+ Tăng đầu tư để đảm bảo tính ổn định cho các điểm tiếp nhận, điểm ủy thác

được bố trí thêm tại các tỉnh, thành phố có lượng người thất nghiệp đến làm thủ tục

đông. Các địa phương có số lượng địa điểm tiếp nhận nhiều đều là các địa phương

có mật độ lao động lớn phân bố đều ở các quận, huyện, thị xã. Vì vậy, để nâng cao

chất lượng giải quyết BHTN tại các điểm tiếp nhận, điểm ủy thác được bố trí thêm

cần tăng tính ổn định của các địa điểm tiếp nhận này, cụ thể: tăng đầu tư cơ sở vật

chất, phương tiện làm việc, các thiết bị truyền thông tin để đảm bảo sự liên lạc

thông suốt giữa các địa điểm này với phòng BHTN.

+ Bố trí kinh phí cho chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm.

Hiện nay, trong hạch toán chi BHTN đối với chế độ tư vấn, GTVL, không có

nguồn kinh phí trích từ quỹ BHTN. Nguồn kinh phí dành cho hoạt động này chỉ

được bố trí một phần nhỏ trong chi phí quản lý BHTN.

Để tăng hiệu quả tư vấn, GTVL, cần thiết phải bố trí nguồn kinh phí chi cho

chế độ tư vấn, GTVL để Trung tâm DVVL đầu tư vào các hoạt động nắm bắt thông

tin TTLĐ, nhất là thông tin về cầu lao động từ NSDLĐ để thực hiện tốt hơn việc tư

vấn ngành nghề, việc làm cho NLĐ, cũng là cách để hướng dẫn NLĐ nắm bắt thông

tin về ngành nghề, lĩnh vực mà xã hội đang thực sự có nhu cầu.

+ Bố trí thêm kinh phí cho hoạt động tuyên truyền. Hoạt động tuyên truyền là

vô cùng quan trọng để nâng cao nhận thức của NLĐ, NSDLĐ đối với chính sách

BHTN, làm tiền đề để đạt được mục tiêu tăng nhanh diện bao phủ BHTN nhưng

hiện nay hoạt động tuyên truyền ít mang tính thường xuyên và hiệu quả chưa cao.

Nguồn kinh phí tăng thêm này sẽ chỉ dành để chi cho các hoạt động tuyên truyền

mang tính thường xuyên (như: chuyên mục Hỏi đáp, tư vấn trên các phương tiện

thông tin đại chúng; …).

+ Tăng mức đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động QLNN về

BHTN như phân tích ở mục 4.3.2 trên đây.

+ Tăng kinh phí đào tạo bồi dưỡng công chức QLNN về BHTN như phân tích

ở mục 4.3.2 trên đây.

+ Tăng mức hỗ trợ người lao động tham gia BHTN bị mất việc làm có nhu

157

cầu tham gia các khóa học nghề; hỗ trợ cho NLĐ gặp rủi ro như phân tích ở 4.3.3.3

trên đây.

+ Trích quỹ bảo hiểm thất nghiệp để hình thành nguồn quỹ cho vay hỗ trợ

người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp bị mất việc làm như phân tích ở

4.3.3.3 trên đây.

Để thực hiện giải pháp, Bộ Tài chính cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung chi phí

quản lý đối với tổ chức BHTN tại Thông tư 20/2016/TT-BTC ngày 03/02/2016 của

Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện cơ chế quản lý tài chính về BHXH, BHYT,

BHTN và chi phí quản lý BHXH, BHYT, BHTN. Bộ LĐ-TB&XH cần phối hợp với

Bộ Tài chính thực hiện việc phân tích, dự báo thu- chi, kết dư quỹ BHTN; tham

mưu Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi mức chi tại Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg

ngày 27/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý tài chính về bảo hiểm

xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung quy định của

Luật Việc làm về thu BHTN.

b. Bổ sung quy định về hạch toán và công khai quỹ bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp nhằm tăng cường tính minh bạch về tài chính BHTN.

Nội dung giải pháp là cần quy định việc hạch toán độc lập các khoản thu- chi

BHTN và công khai số liệu kết dư quỹ BHTN hàng năm. Theo đó, các thông tin cần

được hạch toán độc lập và công khai gồm:

+ Thu BHTN: phải chi tiết cụ thể các khoản: Đóng góp của NSDLĐ; Đóng

góp của NLĐ; Hỗ trợ của NSNN; Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ

BHTN;Tiền lãi chậm đóng BHTN và Các nguồn thu hợp pháp khác.

+ Chi BHTN: phải chi tiết cụ thể các khoản: Chi TCTN; Chi hỗ trợ đào tạo,

bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ; Chi hỗ trợ

học nghề; Chi hỗ trợ tư vấn, GTVL; Chi đóng BHYT cho người hưởng TCTN; Chi

trả chi phí quản lý BHTN và Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ.

+ Kết dư quỹ BHTN.

Để thực hiện giải pháp, Bộ Tài chính cần bổ sung quy định về nội dung hạch

toán độc lập và công khai thu- chi BHTN vào khoản 4, Điều 10, Thông tư

20/2016/TT-BTC ngày 03/02/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện cơ chế

quản lý tài chính về BHXH, BHYT, BHTN và chi phí quản lý BHXH, BHYT,

158

BHTN.

c. Có các quy định giải quyết tình trạng nợ đọng bảo hiểm thất nghiệp

Mục tiêu của giải pháp này là nhằm tăng hiệu lực của thể chế QLNN về

BHTN, giúp NSDLĐ có ý thức hơn trong thực hiện nghĩa vụ tham gia BHTN cho

NLĐ, nhờ đó, quyền lợi của NLĐ được đảm bảo.

Nội dung giải pháp:

Để giảm tình trạng nợ đọng BHTN, cần thực hiện tốt các biện pháp ngăn

ngừa như: Từng bước thực hiện, tiến tới ủy thác hoàn toàn cho cơ quan thuế thực

hiện việc thu BHTN; Tăng cường công tác tuyên truyền, tăng mức phạt chậm đóng

BHTN, phối hợp với cơ quan Báo, Đài nêu đích danh tên các đơn vị sử dụng lao

động có nợ đọng kéo dài hoặc số tiền nợ lớn.

Bên cạnh đó, cần tiến hành xử lý đối với các khoản nợ BHTN hiện tại: Đối

với các khoản nợ BHTN trong thời gian hai tháng, cơ quan BHXH cấp huyện cần

cử cán bộ theo dõi, trực tiếp đôn đốc và gửi văn bản đôn đốc; Đối với các khoản nợ

BHTN trong thời gian ba tháng, cơ quan BHXH cấp huyện có văn bản báo cáo với

Phòng LĐ-TB&XH và UBND cùng cấp; Đối với các khoản nợ BHTN trong thời

gian từ 4 đến 6 tháng, UBND cấp huyện chỉ đạo Phòng LĐ-TB&XH và cơ quan

BHXH cùng cấp tiến hành thanh tra, xử lý vi phạm; Đối với các khoản nợ BHTN

kéo dài từ 6 tháng trở lên tiến hành lập danh sách, hồ sơ chuyển Liên đoàn lao động

cùng cấp tiến hành khởi kiện ra toà án nhân dân.

Để thực hiện giải pháp, Bộ LĐ-TB&XH chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã

hội Việt Nam ban hành Quy định hướng dẫn chi tiết quy trình xử lý nợ đọng BHXH,

BHYT, BHTN ở địa phương, trong đó có BHTN, trong đó, phát huy vai trò của

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan,

ngành chức năng (LĐ-TB&XH, Thông tin- Truyền thông, Liên đoàn Lao động, Báo,

đài) ở địa phương.

4.3.3.5 Bổ sung chế tài xử lý vi phạm pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp một

cách đầy đủ, nghiêm khắc

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày

01/7/2013 và Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/6/2017, được sửa

đổi, bổ sung một số điều vào năm 2017 đã quy định chi tiết và cụ thể chế tài xử lý

vi phạm pháp luật về BHTN theo hướng đầy đủ và nghiêm khắc. Theo đó, đã tăng

159

mức phạt đối với các hành vi gian lận, không trung thực trong khai báo tình trạng

việc làm, cung cấp hồ sơ giả để hưởng các chế độ BHTN; bổ sung hành vi vi phạm

và chế tài xử lý khi NSDLĐ không thực hiện trách nhiệm khai báo thông tin, khai

báo thông tin chậm so với quy định hoặc cung cấp thông tin sai sự thật với cơ quan

Trung tâm DVVL, Sở LĐ-TB&XH theo quy định; tăng mức phạt đối với tội: trốn

đóng, chậm đóng BHTN cho NLĐ; trong đó áp dụng cả các biện pháp xử lý hình sự

với mức phạt cao nhất lên đến 10 năm tù. Với quy định được sửa đổi, bổ sung, chế

tài xử lý vi phạm trong QLNN về BHTN đã dần hoàn thiện và đồng bộ từ quy định

lãi phạt, khởi kiện, xử lý vi phạm hành chính và xử lý hình sự. Tuy vậy, tình trạng

trục lợi BHTN vẫn còn xảy ra, tình trạng nợ đọng BHTN vẫn còn tồn tại, NLĐ vẫn

quan tâm nhiều hơn đến chế độ trợ cấp thất nghiệp… làm cho hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước về BHTN chưa cao.

Trong số 196 người đang tham gia BHTN cho rằng cần thiết phải hoàn thiện

QLNN về BHTN, có 71,4% cho rằng cần phải xem xét, điều chỉnh về chế tài xử lý

vi phạm (kết quả phân tích câu hỏi 11.1, phụ lục 10). Đây cũng là nhận định phù

hợp với những đánh giá thực trạng về chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm

pháp luật về BHTN đã được trình bày ở chương 3 cũng như nhận định của Ông

Trần Dũng Hà (phụ lục 7).

Mục tiêu của giải pháp này là giúp hoàn thiện quy định về xử lý vi phạm trong

QLNN về BHTN, từ đó, sẽ giúp NLĐ, NSDLĐ, đặc biệt là các cơ quan thực thi bảo

hiểm thất nghiệp (Bảo hiểm xã hội, Trung tâm Dịch vụ việc làm), đội ngũ công

chức trong các cơ quan QLNN về BHTN, viên chức, NLĐ trong các đơn vị thực thi

BHTN có ý thức hơn trong tuân thủ, tổ chức thực hiện pháp luật BHTN, góp phần

tăng tính hiệu lực của thể chế QLNN về BHTN.

Nội dung giải pháp là cần sửa đổi, bổ sung các quy định xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật về BHTN theo hướng nghiêm khắc, đầy đủ hơn. Cụ thể:

- Đối với NLĐ: Cần tăng mức phạt đối với các hành vi gian lận, không trung

thực trong khai báo tình trạng việc làm, cung cấp hồ sơ giả để hưởng các chế độ

BHTN.

- Đối với NSDLĐ: Bổ sung hành vi vi phạm và chế tài xử lý khi NSDLĐ

không thực hiện trách nhiệm khai báo thông tin, khai báo thông tin chậm so với quy

định hoặc cung cấp thông tin sai sự thật với cơ quan Trung tâm DVVL, Sở LĐ-

160

TB&XH theo quy định.

- Đối với cơ quan, tổ chức thực thi BHTN: bổ sung hành vi vi phạm và chế tài

xử phạt đối với hành vi không cung cấp thông tin báo cáo cho Bộ LĐ-TB&XH, quy

định rõ trách nhiệm của người đứng đầu nếu không thực hiện nghĩa vụ báo cáo theo

quy định; bổ sung thêm chế tài đối với cơ quan bảo hiểm xã hội nếu để xảy ra tình

trạng nợ đọng kéo dài do thực hiện không nghiêm các quy định về thanh tra, xử lý

nợ đọng hiện hành.

- Đối với công chức trong các cơ quan QLNN về BHTN và viên chức, NLĐ

trong các cơ quan, đơn vị thực thi BHTN: cần xử lý nghiêm đối với các hành vi

nhũng nhiễu, hách dịch, cửa quyền trong tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN cho

NLĐ; các hành vi tiếp tay cho NLĐ để trục lợi BHTN, sai sót trong tham mưu giải

quyết chế độ BHTN, trong cung cấp thông tin, báo cáo... cũng cần được xem xét, xử

lý nghiêm với các mức độ khác nhau gắn với các hình thức kỷ luật khác nhau, kể cả

trách nhiệm đền bù chi phí nếu gây thiệt hại cho NLĐ hoặc cho quỹ BHTN.

Để thực hiện giải pháp, Chính phủ cần nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi, bổ

sung các nội dung trên trong Luật Việc làm, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Bộ

luật hình sự.

4.3.3.6 Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm thất

nghiệp

Mục đích của giải pháp này là nhằm hoàn thiện TTHC về BHTN theo hướng

vừa đảm bảo tính khoa học, đúng nguyên tắc, chi trả đúng người, đúng chế độ, vừa

đơn giản, thuận tiện giúp NLĐ thuận lợi hơn trong quá trình làm thủ tục hưởng các

chế độ BHTN.

Nội dung của giải pháp:

- Giao cho Trung tâm Dịch vụ việc làm chức năng tổ chức chi trả trợ cấp

thất nghiệp cho người lao động

Hiện chức năng tổ chức chi trả TCTN được giao cho cơ quan BHXH thực hiện

trên cơ sở quyết định chi trả của Giám đốc Sở LĐ-TB&XH do Trung tâm DVVL

tỉnh, thành phố tham mưu Giám đốc Sở ban hành. Điều này làm thời gian chờ đợi

của NLĐ kéo dài hơn và khối lượng công việc của đội ngũ nhân viên hai cơ quan

(BHXH và Trung tâm DVVL) nhiều hơn do phải theo dõi và thông tin thường

xuyên với nhau về tình hình NLĐ đến nhận quyết định, tiếp tục hưởng, dừng

161

hưởng, chấm dứt hưởng.

Do đó, rất cần thiết phải điều chỉnh nhiệm vụ giữa hai ngành cho hợp lý để

giảm khối lượng công việc cho các cơ quan và giảm thời gian chờ đợi của NLĐ.

Theo đó, cần chuyển chức năng tổ chức chi trả trợ cấp BHTN của cơ quan BHXH

cấp tỉnh cho Trung tâm DVVL, thay vào đó, cơ quan BHXH cấp tỉnh sẽ chỉ tập

trung vào công tác quản lý thu, chi quỹ. Điều này có nghĩa, thay vì BHXH thực hiện

chi trả theo quyết định cho từng NLĐ như hiện nay, tổ chức BHXH cấp tỉnh chỉ cần

thực hiện việc ủy thác chi TCTN cho Trung tâm DVVL bằng cách chuyển khoản

số tiền chi trợ cấp BHTN cho Trung tâm DVVL theo dự toán hàng tháng của Trung

tâm được Giám đốc Sở LĐ-TB&XH duyệt. Cuối tháng, hai cơ quan sẽ thực hiện

việc quyết toán trên số liệu chi thực tế và tiếp tục như vậy cho các tháng tiếp theo.

Làm được như vậy, quy trình chi trả TCTN sẽ được rút ngắn do không còn chờ sự

phối hợp giữa hai cơ quan trong việc xác minh NLĐ có đến nhận kết quả hay

không. Việc chi trả TCTN sẽ tập trung vào một đầu mối là Trung tâm DVVL, có thể

được tiến hành ngay khi NLĐ đến nhận quyết định, tạo điều kiện thuận lợi cho

NLĐ từ khâu nộp hồ sơ, nhận quyết định TCTN, nhận BHYT, nhận tiền trợ cấp

(qua ATM hoặc tiền mặt), thông báo việc làm, tránh phải đi nhiều cơ quan.

Ngoài ra, để tập trung vào hoạt động quản lý quỹ, giảm tải các công việc sự

vụ cho ngành BHXH, cần đẩy mạnh các hoạt động ủy thác thu hoặc thu hộ BHTN

cho các cơ quan, tổ chức có nhu cầu.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình tiếp nhận, chi

trả chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Từng bước mã hóa, số hóa quy trình giải quyết chế độ BHTN, đồng bộ với

quá trình cải cách hành chính theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20/6/2006 về quy

định áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000

vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước được sửa đổi, bổ sung tại

Quyết định số 118/2009/QĐ-TTg ngày 30/9/2009.

Bên cạnh đó, cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện

các nghiệp vụ quản lý liên quan đến BHTN, tiến hành thực hiện các giao dịch thông

qua hình thức trực tuyến (sử dụng sổ BHXH điện tử, chốt sổ trực tuyến bằng chữ ký

số chuyên dùng …) để rút ngắn thời gian chốt số cho NLĐ; tăng cường các hoạt

162

động giao dịch gián tiếp (trực tuyến hoặc qua bưu điện) trong các khâu của quy

trình: nộp hồ sơ, cung cấp thông tin hưởng TCTN, cung cấp thông tin tìm kiếm việc

làm, ... để thuận tiện hơn cho NLĐ thất nghiệp.

Để thực hiện giải pháp này, Bộ LĐ-TB&XH cần chủ động tham mưu Chính

phủ sửa đổi quy định của Nghị định 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 về chức năng

của tổ chức BHXH, Trung tâm DVVL; tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định

quy định về hoạt động giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN, từ

đó, triển khai và đẩy mạnh các hoạt động giao dịch điện tử trong thẩm định, duyệt

hồ sơ, tiếp nhận, xử lý, giải quyết hồ sơ; đồng thời, tiến hành rà soát các TTHC hiện

hành được công bố trên trang cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và chỉ đạo các địa

phương đẩy mạnh cải cách TTHC trong lĩnh vực BHTN.

4.3.4 Giải pháp 4: Đổi tên gọi “Bảo hiểm thất nghiệp” thành "Bảo hiểm việc

làm"

Mục tiêu của giải pháp này là nhằm hoàn thiện tên gọi của chính sách, để phản

ánh đúng bản chất của chính sách BHTN.

Đối tượng thực sự của chính sách BHTN là NLĐ và mục đích cuối cùng của

chính sách là tạo điều kiện để NLĐ được đảm bảo việc làm. Do đó, tên gọi "bảo

hiểm việc làm" phản ánh đúng bản chất của chính sách BHTN mà Việt Nam đang

thực hiện hiện nay, cũng phù hợp với các khuyến nghị của ILO về đối tượng hưởng

lợi của BHTN trong các Công ước C044, C102 và C168.

Việc đổi tên này trên thế giới đã từng có tiền lệ. Đó là trường hợp của Canada

vào năm 1996 như trình bày ở mục 2.6.1.1 trên đây.

Để thực hiện giải pháp này, Chính phủ cần nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi

tên gọi của chính sách trong Luật Việc làm.

Kết luận chương 4

Ở chương 4, để có cơ sở xây dựng quan điểm hoàn thiện thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030-

thời điểm cả nước thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 55 năm ngày thống

nhất đất nước và 45 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, tác giả đã tiến hành

phác họa bối cảnh Việt Nam và dự báo những tác động đến thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp đến năm 2030, tìm hiểu quan điểm phát triển bảo

hiểm thất nghiệp của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tiến hành dự báo lực lượng lao

163

động, số người thất nghiệp, số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp và số người

được hưởng trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2030, từ đó, dự báo xu hướng

phát triển thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp đến năm 2030.

Trên cơ sở các quan điểm này, tác giả đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm

hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam theo

hướng “tăng cường hơn nữa tính hiệu lực, công bằng, phù hợp, công khai, minh

bạch và hiện đại”. Mỗi giải pháp đều được gắn với mục tiêu, nội dung, cách thức

164

thực hiện cụ thể, giải quyết tất cả các vấn đề bất cập được nêu ra ở chương 3.

PHẦN KẾT LUẬN

Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách góp phần đảm bảo an

sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Tuy mới đi vào cuộc sống hơn 10 năm nhưng

nó đã có tác động trực tiếp, thiết thực tới người lao động, người sử dụng lao động,

được người lao động, người sử dụng lao động đón nhận một cách tích cực. Tuy

nhiên, thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn một số bất cập

trên thực tế.

Với 4 chương, luận án “Thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

Việt Nam” đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về cơ sở lý luận và

thực tiễn thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam từ khi triển

khai đến nay, từ đó đưa ra hệ thống quan điểm, giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý

nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Các

kết quả đã đạt được gồm:

Về mặt lý luận, luận án đã nghiên cứu, hệ thống cơ sở khoa học về thể chế

quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, trong đó kế thừa, bổ sung, phát triển

quan niệm về bảo hiểm thất nghiệp, quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, thể

chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp; các nội dung cơ bản, vai trò của

thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh

hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp.

Về mặt thực tiễn, luận án đạt được những kết quả sau đây:

- Luận án góp phần làm sâu sắc thêm kinh nghiệm của các nước về bảo hiểm

thất nghiệp và rút ra những giá trị có thể vận dụng để hoàn thiện thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

- Luận án đã đưa ra những nhận xét quan trọng về những đóng góp của chính

sách bảo hiểm thất nghiệptrong việc ngăn ngừa, khắc phục, hạn chế tình trạng thất

nghiệp ở Việt Nam.

- Luận án đã đưa ra những đánh giá có cơ sở về những thành công, bất cập của

thực trạng thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam từ khi

triển khai chính sách đến nay.

- Luận án đã mô tả tương lai trong hơn 10 năm đến về thể chế quản lý nhà

nước về bảo hiểm thất nghiệp, có tính đến các tác động có thể có từ bối cảnh hiện

165

tại, nhất là từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

- Luận án đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về

bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, góp

phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong tương lai,

đưa chính sách bảo hiểm thất nghiệp ngày càng đến được với người lao động thực

sự có nhu cầu, nguyện vọng, giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng của

những người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, từ đó, góp phần ổn định xã hội và phát

triển đất nước.

Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận án góp phần hệ thống cơ sở

khoa học của thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp một cách đầy đủ và

toàn diện theo cách tiếp cận của khoa học quản lý công, đồng thời cũng góp phần

hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam thông

qua hệ thống các giải pháp đồng bộ, khả thi, giải quyết tất cả các bất cập đã nêu ở

chương 3, trong đó, từng giải pháp được phân tích một cách logic, chặt chẽ và trình

bày theo 3 nội dung: mục tiêu của giải pháp, nội dung của giải pháp, cách thức

thực hiện giải pháp nhằm tăng cường tính hiệu lực, công bằng, phù hợp, công khai,

minh bạch và hiện đại đáp ứng yêu cầu, hạn chế sự tác động tiêu cực của các nhân

tố ảnh hưởng đến thể chế quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp, nhất là yêu cầu

và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Trong quá trình nghiên cứu, luận án đã nhận được nhiều ý kiến góp ý có giá trị

của các nhà khoa học, đặc biệt là những đánh giá của các nhà khoa học trong Hội

đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Học viện. Với tinh thần hết sức cầu thị, tác giả đã

nghiên cứu, tiếp thu và chỉnh sửa để luận án được hoàn thiện hơn.

Tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến cơ sở đào tạo, cơ quan công

tác, tập thể nhà khoa học hướng dẫn, các Hội đồng bảo vệ đề cương chi tiết, Hội

đồng bảo vệ tổng quan nghiên cứu, Hội đồng bảo vệ các chuyên đề tiến sĩ, Hội đồng

bảo vệ luận án cấp cơ sở, Hội đồng bảo vệ luận án cấp Học viện, các cơ quan liên

quan (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam), các

chuyên gia (bà Phạm Thị Hồng Huệ, ông Trần Dũng Hà), người lao động tham gia

khảo sát trực tuyến, bạn bè và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả trong suốt

thời gian học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận án.

166

Trân trọng./.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Lương Minh Việt- Trương Thị Thu Hiền (2013), “Chính sách bảo hiểm thất

nghiệp ở Việt Nam - những vấn đề đặt ra và giải pháp”, Tạp chí Quản lý Nhà nước,

số 214, tr. 36-40.

2. Lương Minh Việt- Trương Thị Thu Hiền (2014), "Công tác tiếp nhận, giải

quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Quản lý

Nhà nước, số 219, tr. 92-94,113

3. Trương Thị Thu Hiền (2016), "Đánh giá kết quả 7 năm thực hiện bảo hiểm

thất nghiệp", Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 245, tr 71-73.

4. Trương Thị Thu Hiền (2016), “Tổ chức bộ máy thực hiện BHTN ở Việt

Nam”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 251, tr 44-47.

5. Trương Thị Thu Hiền (2017), “Xây dựng, quản lý, lưu trữ và tổ chức thu

thập hệ thống chỉ tiêu thống kê trong quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp”,

Tạp chí Lao động và Xã hội, số 546, tr 22-24,46.

6. Trương Thị Thu Hiền (2017), “Hướng mở rộng đối tượng tham gia chính

sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 558, tr 12-

13, 63.

7. Trương Thị Thu Hiền (2017), “Đảm bảo nguồn lực vật chất và tài chính

trong Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

Khoa học và Công nghệ, số 8 (117), tr 53-57.

8. Trương Thị Thu Hiền (2017), “Những hạn chế và kiến nghị hoàn thiện

chính sách bảo hiểm thất nghiệp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21 (349), kỳ 1-

Tháng 11/2017, tr 35-41.

9. Trương Thị Thu Hiền (2018), “Hoàn thiện quy định thu, chi bảo hiểm thất

nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 264 (1/2018), tr 81-84.

10. Trương Thị Thu Hiền (2018), “Mở rộng độ bao phủ bảo hiểm thất nghiệp

ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 2 (123), tr 32-35.

11. Trương Thị Thu Hiền (2018), “Hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm

thất nghiệp ở Việt Nam: Vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số

4 (125), tr 1-5.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Huy Ban (2004), Nghiên cứu những nội dung cơ bản của bảo hiểm thất

nghiệp hiện đại- vấn đề lựa chọn hình thức trợ cấp thất nghiệp ở Việt Nam,

chuyên đề nghiên cứu khoa học, BHXH Việt Nam, Hà Nội.

2. Hoàng Cảnh (2010), “Bước đầu triển khai bảo hiểm thất nghiệp ở Thành phố Hồ

Chí Minh”, Lao động và Xã hội, (389), tr. 24-25.

3. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2012), Giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực,

NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

4. Nguyễn Cảnh Chất biên dịch (2005): Hành chính công và Quản lý hiệu quả chính

phủ, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội.

5. Phùng Thị Cẩm Châu (2013), Hoàn thiện quá trình thực hiện chính sách bảo

hiểm thất nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ Quản trị kinh doanh,

Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

6. Lê Chí (2012), “Sau 3 năm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Bình

Thuận”, Lao động và Xã hội, (437), tr. 20-21.

7. Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Thị Thu Huyền, Mireille Razafindrakoto, François

Roubaud (2010), TTLĐ và kinh tế phi chính thức ở Việt Nam trong thời gian

khủng hoảng và phục hồi 2007-2009- Một số nét chủ yếu từ cuộc Điều tra

Lao động và Việc làm, Dự án TCTK/IRD-DIAL phối hợp giữa Tổng cục

Thống kê và Viện Nghiên cứu Phát triển Pháp.

8. Nguyễn Văn Chiều (2013), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước

trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ,

Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

9. Phạm Đức Chính (2005), "Vấn đề thất nghiệp và sự cần thiết phải ban hành chính

sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam", Nghiên cứu Kinh tế, (325), tr 3-31.

10. Đặng Anh Duệ (2003), “Để xây dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp

ở Việt Nam”, Hội thảo khoa học Hoàn thiện chính sách tài chính đảm bảo an

sinh xã hội, Bộ Tài chính.

11. Đỗ Thị Dung (2012), “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp sau 3 năm thực hiện ở

Việt Nam”, Luật học, (9), tr. 3-10.

12. Phạm Đỗ Dũng (2009), “Bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam và vai trò trong

việc góp phần đảm bảo an sinh xã hội”, Thông tin và Dự báo Kinh tế -Xã hội,

(47), tr.25-28.

13. Phạm Đỗ Dũng (2010), “Bảo hiểm thất nghiệp sau gần hai năm thực hiện - Thực

trạng và giải pháp”, Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội, (59), tr. 27-30.

14. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận Nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học

Kỹ thuật (xuất bản lần thứ 11), Hà Nội.

15. Đặng Quang Điều (2009), “Tham gia bảo hiểm thất nghiệp có lợi cho cả người

lao động và người sử dụng lao động”, Lao động và xã hội, (355), tr. 11-12.

16. Phạm Thị Định, Nguyễn Văn Định (2012), Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm, NXB

Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Định (2000), Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong điều

kiện kinh tế thị trường, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Định (2008), Tổ chức bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, chuyên đề

nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Định (2008), “Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động”,

Lao động và xã hội, (343), tr. 58-60.

20. Nguyễn Quang Đồng (2016), Khu vực phi chính thức- Nhìn từ góc độ lao động,

Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số ra ngày 26/3/2016

21. Điều Bá Được, “Xung quanh vấn đề thu, chi bảo hiểm thất nghiệp”, Lao động

và xã hội, (406), tr. 23-24, 56.

22. Nguyễn Thị Hải Đường (2009), “Nhu cầu tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam”, Lao động và xã hội, (355), tr. 8-10.

23. Bùi Thị Thanh Hà (2006), “Về chính sách trợ cấp thất nghiệp”, Xã hội học, (4),

tr. 73-82.

24. Nguyễn Hữu Hải, Nguyễn Thị Huệ, Hoàng Nguyệt Ánh (2014), Giáo trình Đại

cương Quản lý nhà nước, NXB Tài Nguyên và Môi trường, Hà Nội.

25. Nguyễn Hữu Hải (2015), Cơ sở lý luận và thực tiễn về Hành chính nhà nước,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. (sách chuyên khảo)

26. Nguyễn Minh Hải (2009), "Một số nội dung cơ bản của chính sách bảo hiểm

thất nghiệp ", Lao động và Xã hội, (365), tr 9-10, 30.

27. Nguyễn Thu Hạnh (2013), “Bảo hiểm thất nghiệp: Những vướng mắc cần tháo

gỡ”, Kinh tế và Dự báo, (24), tr. 58-60.

28. Đào Ngọc Hoàng (2011), “Qua 2 năm triển khai bảo hiểm thất nghiệp ở Đồng

Nai”, Lao động và xã hội, (405), tr. 19, 21.

29. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Hành chính đại cương (dùng cho sau

đại học), NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

30. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Hành chính công (Dành cho đào tạo

Đại học hành chính), NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

31. Học viện Hành chính Quốc gia (2010), Giáo trình Hoạch định và Phân tích

chính sách công, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

32. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Quản lý nhà nước về văn hóa- xã hội,

giáo dục, y tế, an ninh- quốc phòng, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

33. Học viện Hành chính (2013), Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà

nước chương trình chuyên viên chính, Phần III. Quản lý nhà nước đối với

ngành, lĩnh vực, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

34. Học viện Hành chính Quốc gia (2017), Kỷ yếu hội thảo quốc tế về “Cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ tư với Quản trị nhà nước”, Hà Nội.

35. Lê Bạch Hồng (2006), "Thất nghiệp và xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp

cho người lao động", Lao động và Xã hội, (279+280), tr 7, 12-13.

36. Lê Bạch Hồng (2007), "Định hướng và giải pháp triển khai thực hiện chế độ bảo

hiểm thất nghiệp", Lao động và Xã hội, (312), tr 2-3,11.

37. Lê Bạch Hồng (2009), "Bảo hiểm xã hội tự nguyện và Bảo hiểm thất nghiệp là

các chính sách lớn nhằm đảm bảo an sinh xã hội", Lao động và Xã hội,

(355), tr 11-12.

38. Lê Bạch Hồng (2010), "Đầu năm 2010, người lao động đủ điều kiện sẽ được thụ

hưởng chính sách bảo hiểm thất nghiệp", Lao động và Xã hội, (365), tr 4-6.

39. Nguyễn Thị Diệu Hồng (2007), “Một số ý kiến về tổ chức bộ máy thực hiện bảo

hiểm thất nghiệp”, Lao động và xã hội, (311), tr. 31-32,35.

40. Nguyễn Thị Diệu Hồng (2007), “Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Thái Lan”,

Lao động và xã hội, (318), tr. 51-52.

41. Trần Thị Diệu Hồng (2005), "Những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chính

sách bảo hiểm thất nghiệp", Lao động và Xã hội, (260), tr. 22-24.

42. Bùi Văn Huyền (2013), "Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam- 4 năm

nhìn lại", Kinh tế và Dự báo, (547), tr 42-44.

43. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Văn Huân, Vũ Xuân Nam (2009), Giáo

trình Phân tích và Dự báo kinh tế, Trường Đại học Thái Nguyên, 2009.

44. Nguyễn Thị Lan Hương, Đỗ Thị Thanh Huyền (2013), Định hướng mở rộng độ

bao phủ an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020 (MS: CT2011-02-01)- Đề

tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Kỷ yếu đề tài cấp Bộ 2012-2013, Bộ Lao

động- Thương binh và Xã hội, tr.285.

45. Nguyễn Thị Lan Hương (2015), “Vấn đề thất nghiệp và việc làm, hiện trạng và

các triển vọng”, Doanh nghiệp và Đầu tư.

46. Tạ Thị Hương (2013), "Chính sách bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam- những

bất cập và khuyến nghị", Quản lý nhà nước, (209), tr 65-67, 72.

47. Mai Hữu Khuê (2003), Giáo trình Lý luận Quản lý nhà nước, Hà Nội.

48. Mai Hữu Khuê (2003), Lý luận Quản lý nhà nước, Vụ công tác chính trị- Bộ

Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.

49. Trần Thúy Lâm (2004), "Một số vấn đề về bảo hiểm thất nghiệp", Luật học,

(3/2004), tr 35-38.

50. Trần Thúy Lâm (2005), "Mấy ý kiến về bảo hiểm thất nghiệp trong Dự thảo

Luật Bảo hiểm xã hội", Lao động và Xã hội, (270), tr 34-35.

51. Quang Lê (2011), “Những sửa đổi, bổ sung cần thiết về bảo hiểm thất nghiệp”,

Lao động và xã hội, (405), tr. 22-23.

52. Quang Lê (2014), “Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp: Nhu cầu

tất yếu”, Lao động và Xã hội, (481), tr. 12-14.

53. Quang Lễ (2014), “Mô hình tổ chức, hoạt động của Trung tâm Dịch vụ việc làm

gắn với tiếp nhận, giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp”, Lao động và Xã

hội, (479), tr. 11-13.

54. Nguyễn Hoài Liên (2010), "BHTN tại Trung Quốc", Bảo hiểm xã hội, (155), tr

37-38.

55. Anh Linh (2003), "Bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước", Lao động và Xã hội,

(206+207+208), tr 61-62.

56. Vương Hà Ngọc Linh (2011), “Thành công bước đầu sau một năm triển khai

BHTN trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Lao động và xã hội, (402), tr.

34-35.

57. Đặng Ngọc Lợi (2011), “Chính sách công ở Việt Nam- L ý luận và thực tiễn”,

Tạp chí Kinh tế và Dự báo.

58. Nguyễn Đức Lợi (2008), Giáo trình Khoa học quản lý, NXB Tài chính, Hà Nội.

59. Đinh Thị Mai (2010), “Một số nội dung về kế toán trích lập Quỹ bảo hiểm thất

nghiệp trong các doanh nghiệp hiện nay”, Kinh tế và phát triển, (153), tr. 49-

53.

60. Mai Văn Nam, Giáo trình Nguyên lý Thống kê kinh tế, NXB Văn hóa thông tin,

Hà Nội, 2008.

61. Phạm Xuân Nam (2012), “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”,

Xã hội học, số 2 (118).

62. Nguyễn Xuân Nga (2009), “Bảo hiểm thất nghiệp cần làm rõ để có nhận thức

đúng”, Bảo hộ lao động, (2), tr. 36, 48.

63. Trịnh Trọng Nghĩa (2010), “Bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ”, Nghiên cứu kinh tế,

(9), tr. 74-77.

64. Nguyễn Bá Ngọc (1999), "Cần sớm có chính sách bảo hiểm thất nghiệp", Lao

động và Xã hội, (149, tháng 4/1999), tr 24-25.

65. Trần Minh Nguyệt (2011), Giáo trình Kinh tế Lao động, Trường Đại học Tài

nguyên và Môi trường Hà Nội, Hà Nội.

66. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2014), Báo cáo Thường niên

doanh nghiệp Việt Nam 2013, NXB Thông tin Truyền thông, Hà Nội.

67. Nguyễn Mai Phương (2015), Chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Trung Quốc (1986-

2010), Luận án tiến sĩ chuyên ngành Trung Quốc học, Trường Đại học Khoa

học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

68. Nguyễn Nam Phương; Ngô Quỳnh An (2008), “Đặc điểm tình hình thất nghiệp

và khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam”, Lao động và xã

hội, (347, tr. 15-16), (348, tr. 30-32), (349 tr. 28-30).

69. Trần Phương (2008), “Vai trò Trung tâm Dịch vụ việc làm đối với chính sách

bảo hiểm thất nghiệp”, Lao động và xã hội, (338), tr. 22-24.

70. Hồng Phượng (2012), “Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm thất

nghiệp ở Hà Nội”, Lao động và Xã hội, (434), tr. 33-34.

71. Vũ Trọng Quân (2010), “Đề xuất thay đổi cách thức chi trả trợ cấp bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm thất nghiệp từ trực tiếp sang qua thẻ ATM”, Lao động và xã

hội, (385), tr. 50, 55.

72. Lan Sơn (2004), "Chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Hoa Kỳ", Lao động và Xã hội,

(250), tr 39-40.

73. Hà Văn Sơn (2004), Giáo trình Lý thuyết thống kê ứng dụng trong quản trị và

Kinh tế, NXB Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.

74. Chí Tâm (2012), “Trung tâm Dịch vụ việc làm Nghệ An thực hiện tốt chính

sách bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ”, Lao động vã Xã hội, (433), tr. 28-29.

75. Bùi Ngọc Thanh (2012), “Một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế độ bảo

hiểm thất nghiệp”, Lao động và xã hội, (427), tr. 6-8.

76. Lê Thị Thanh; Đỗ Quốc Quyền (2009), “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam hiện nay”, Nghiên cứu Tài chính Kế toán, (5), tr. 32-34.

77. Phạm Đình Thành (2008), “Phác họa mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo

hiểm thất nghiệp ở Việt Nam”, BHXH, (11/2008).

78. Nguyễn Trọng Thản (2002), “Mô hình nào cho bảo hiểm thất nghiệp ở Việt

Nam”, BHXH, số 6 (2002), tr 14-16.

79. Nguyễn Trọng Thản (2013), “Chính sách bảo hiểm thất nghiệp góp phần đảm

bảo an sinh xã hội ở Việt Nam”, Nghiên cứu Tài chính Kế toán, (12), tr.9-13.

80. Therese L.Baker (1998), Thực hành nghiên cứu xã hội (sách tham khảo), NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

81. Nguyễn Ngọc Thịnh (2013), “Bảo hiểm thất nghiệp - Một chính sách cần được

tiếp tục hoàn chỉnh”, Thanh tra Tài chính, (6), tr. 27-28.

82. Nguyễn Đình Thơ (2010), “Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp: Cần sự

chung tay của nhà nước và doanh nghiệp”, Doanh nhân và Pháp luật, (41).

83. Trần Thị Thơ (2010), “Một số vấn đề về thực thi chính sách công”, Tổ chức nhà

nước, số 9/2010, tr. 44-45.

84. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2014), Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa thu 2014.

85. Lê Thị Hoài Thu (2005), Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

86. Ninh Thị Thu Thủy, Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế- xã hội, NXB Thống

kê, 2011.

87. Hoài Thương, Phương Thảo (2013), “Các giải pháp thực hiện hiệu quả chính

sách bảo hiểm thất nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh”, Lao động và Xã hội,

(447-448), tr. 82-83.

88. Hoài Thương (2014), “Trung tâm Dịch vụ việc làm Bà Rịa - Vũng Tàu: Thực

hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động”, Lao động và Xã

hội, (470+471), tr. 77, 90.

89. Hoàng Thương (2015), "Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu:

Giải quyết nhanh, kịp thời chế độ chính sách bảo hiểm thất nghiệp ", Lao

động và Xã hội, (503), tr 43-44.

90. Mạc Văn Tiến (2005), An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, NXB Lao

động Xã hội, Hà Nội.

91. Mạc Văn Tiến (2006),“Nhận thức chung về thất nghiệp và bảo hiểm thất

nghiệp”, BHXH Bộ Quốc phòng, Hà Nội.

92. Nguyễn Tiệp (2009), Giáo trình Bảo hiểm thất nghiệp, Nhà xuất bản Lao động-

Xã hội, Hà Nội.

93. Trần Thị Cẩm Trang (2009), “Bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay,

(11), tr. 14-17.

94. Dương Xuân Triệu, Nguyễn Văn Gia (2009), Quản trị Bảo hiểm xã hội, NXB

Lao động- Xã hội, Hà Nội.

95. Cao Trí (2005), “Sẽ có bảo hiểm thất nghiệp”, Thương nghiệp-Thị trường Việt

Nam, (5), tr. 37.

96. Trung tâm Thông tin khoa học, Viện nghiên cứu lập pháp Ủy ban thường vụ

Quốc hội (2013), Thông tin chuyên đề chính sách việc làm- thực trạng và

giải pháp, Hà Nội, tháng 5/2013, 27 tr.

97. Lê Quang Trung (2007), "Vai trò của Trung tâm Dịch vụ việc làm với chế độ

bảo hiểm thất nghiệp", Lao động và Xã hội, (313), tr 35-37.

98. Lê Quang Trung (2010), “Chính sách bảo hiểm thất nghiệp và vai trò của Trung

tâm Dịch vụ việc làm”, Lao động và xã hội, (385), tr. 5-7.

99. Lê Quang Trung (2010), “Bảo hiểm thất nghiệp kết quả bước đầu và những

vướng mắc cần tháo gỡ”, Lao động và Xã hội, (392), tr. 11-13.

100. Lê Quang Trung (2013), Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính sách bảo hiểm

thất nghiệp nhằm tăng cường tính bền vững, Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp

Bộ, Mã đề tài CB2013-05-01.

101. Nguyễn Quang Trường (2016), Quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở

nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Quản lý Kinh tế Trung ương.

102. Đinh Công Tuấn (2010), “Năm trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội của nước

Anh hiện nay”, Nghiên cứu Châu Âu, (8), tr. 3-11.

103. Quang Tuấn (2010), “Ghi nhận về công tác triển khai thực hiện chính sách bảo

hiểm thất nghiệp”, Lao động và xã hội, (388), tr. 23-25.

104. Đinh Thị Minh Tuyết (2013), Tập bài giảng Quản lý nhà nước về xã hội.

105. Hải Uyên (2012), “Nhìn lại hai năm thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp

ở Thủ đô”, Lao động và xã hội, (427), tr. 33-34

106. Hải Uyên (2013), “Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Hà Nội: Kết

quả và vướng mắc”, Lao động và Xã hội, (446), tr. 32-33.

107. Phạm Thị Kim Vân, Giáo trình Phân tích và Dự báo, NXB Tài chính, 2013

108. Nguyễn Thị Thúy Vân, “Vấn đề lao động mất việc làm và chính sách bảo hiểm

thất nghiệp ở nước ta hiện nay”, Quản lý nhà nước, (174), tr. 39-42.

109. Viện Chính sách công và Pháp luật, Sự tham gia của nhân dân vào quy trình

lập hiến, lý luận, thực tiễn trên thế giới và Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội, 2013.

110. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2016), Báo cáo tổng hợp Cuộc cách

mạng công nghiệp lần thứ tư: Một số đặc trưng, tác động và hàm ý chính sách

đối với Việt Nam, Hà Nội.

111. Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Báo cáo xu hướng lao động và xã hội thời

kỳ 2000-2010, Hà Nội, tháng 3/2011.

112. Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bản tin khoa học lao động và xã hội hàng

quý.

113. Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học về Lao động

và Xã hội 2013- 2014, Hà Nội.

114. Viện Nhà nước và Pháp luật, Kỷ yếu Hội thảo “Chính sách, pháp luật về an

sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay” do Viện Nhà nước và Pháp luật phối hợp

với Viện KAS - Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức tại Hà Nội ngày 19,

20/4/2010

115. Phạm Viết Vượng (2010), Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước và quản lý

ngành giáo dục và đào tạo, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.

Tiếng Anh

116. Anca Stefania Sava (2010), “The role of unemployment insurance during the

economic and financial crisis”, Economics and Applied Informatics Journal,

Vol.1, 29-36.

117. Blundun P.Y. (1927), Administrative Aspects of Social Insurance:

Unemployment Insurance, Public Administration, Volume 5 (4), p. 358-372.

118. Fares, Jean; Vodopivec, Milan. 2008. Unemployment Insurance Simulation

Model (UISIM). World Bank Employment Policy Primer ; no. 11.

Washington, DC: World Bank.

http://documents.worldbank.org/curated/en/2008/12/10223251/unemployme

nt-insurance-simulation-model-uisim

119. Ferrer, Ana M.; Riddell, W. Craig. 2009. Unemployment insurance savings

accounts in Latin America: overview and assessment. Social Protection

discussion paper ; no. SP 0910. Washington, DC: World Bank.

http://documents.worldbank.org/curated/en/2009/06/10761833/unemployme

nt-insurance-savings-accounts-latin-america-overview-assessment

120. Hamermesh, Daniel S.. 1992. Unemployment insurance for developing

countries. Policy Research working paper ; no. WPS 897. Education and

employment. Washington, DC: World Bank.

http://documents.worldbank.org/curated/en/1992/05/699689/unemployment-

insurance-developing-countries

121. Haroon Bhorat, Sumayya Goga và David Tseng (2013), “Unemployment

insurance in South Africa: A descriptive overview of claimants and claims”,

Africa Growth Initiative Working Paper 8, April 2013, p1-p43.

122. Hazans, Mihails. 2005. Unemployment and the earnings structure in Latvia.

Policy Research working paper series; no. WPS 3504. Washington, DC:

World Bank.

http://documents.worldbank.org/curated/en/2005/02/5624986/unemployment

-earnings-structure-latvia

123. Hiến pháp Liên bang của Thụy Sĩ (Federal Constitution of the Swiss

Confederation) năm 2004.

124. Human Resources and Skills Development Canada (2013), "EI Monitoring and

Assessment Report"

125. ILO (1919), Công ước thất nghiệp C2.

126. ILO (1934), Công ước phòng chống thất nghiệp C44.

127. ILO (1952), Công ước ASXH C102.

128. ILO (1988), Công ước về xúc tiến việc làm và hỗ trợ chống thất nghiệp C168.

129. ILO (2009), Key Indicators of the Labour Market. For Vietnam, ILO, Vietnam

Employment Trends 2009.

130. ILO (2015), ASEAN Community 2015: Managing integration for better jobs

and shared prosperity.

131. Jean-Pierre Tabin, Raluca Enescu (2012), The Normative Impact of

Unemployment Insurance: A European Perspective, Journal of Comparative

Social Work, Vol 7, No 2.

http://journal.uia.no/index.php/JCSW/article/view/249

132. John Carter, Michel Bédard and Céline Peyron Bista (2013), Comparative

review of unemployment and employment insurance experiences in Asia and

worldwide/; Promoting and Building Unemployment Insurance and

Employment Services in ASEAN, ILO Regional Office for Asia and the

Pacific. - Bangkok: ILO, 2013, xi, 94 p.

133. Julie M. Whittaker, Katelin P. Isaacs (2015), Unemployment Insurance:

Programs and Benefits, Congressional Research Service, CRS Report for

Congress, RL33362.

134. Klaus Schwab (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

135. Kuddo, Arvo; Robalino, David A.; Weber, Michael. 2015 Balancing

regulations to promote jobs: from employment contracts to unemployment

benefits. Washington, D.C.: World Bank Group.

http://documents.worldbank.org/curated/en/2015/12/25518330/balancing-

regulations-promote-jobs-employment-contracts-unemployment-benefits

136. Luật liên bang về bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc và khoản phụ cấp trong

trường hợp phá sản của Thụy Sĩ (LACI) năm 1982.

137. Luật liên bang về quy định chung liên quan đến Pháp luật về BHXH của Thụy

Sĩ (LPGA) năm 2000.

138. Marc Chan, Marios Michaelides, Sisi Zhang (2014), Research in Applied

Economics, Vol. 6, No. 3

139. Mazza, Jacqueline (2000), “Unemployment Insurance: Case Studies and

Lessons for Latin America and the Caribbean”, Working Paper, Inter-

merican Development Bank, Research Department, No. 411.

140. National Bureau of Economic Research (1923), Business Cylces and

Unemployment, NBER, Washington D.C.

141. Quốc vụ viện Trung Quốc (1999), Điều lệ Bảo hiểm thất nghiệp.

142. SSO data in C. Worawan: Case study of the unemployment insurance in

Thailand (Bangkok, ILO, 2012).

143. Tatsiramos, K., (2006), “Unemployment insurance in Europe: Unemployment

duration and subsequent employment stability”, Journal of the European

Economic Association, vol. 7, p. 1225-1260.

144. Tatsiramos, K., van Ours, J. C. (2014), "Labor market effects of

unemployment insurance design", Journal of Economic Surveys, (28), p.

284–311.

145. Till Von Wachter (2016), Unemployment insurance reform: A Primer, p41-50.

146. Tomi Kyyrä, Hanna Pesola, Aarne Rissanen (2017), “Unemployment

Insurance in Finland: A Review of Recent Changes and Empirical Evidence

on Behavioral Responses”

147. The Social Security Act of 1935, United States of America

148. The Unemployment Insurance Act of June 27, 1971, Canada

149. UNDP (2015), Human Development Report 2015: Work for Human

Development OECD.

150. Unemployment Insurance Commission, Canada. 1953. An Explanation of the

Principles and Main Provisions of the Unemployment Insurance Act

(Ottawa).

151. Vroman, Wayne (1999) Unemployment and unemployment protection in three

groups of countries. Social Protection Discussion Paper series; no. SP 9911.

Washington, D.C.: The World Bank.

http://documents.worldbank.org/curated/en/1999/05/438346/unemployment-

unemployment-protection-three-groups-countries

152. Wroman Wayne (2009), Unemployment Insurance: Current Situation and

Potential Reforms, Urban Institution, Washington D.C.

153. Yasuhito Asami (2010), Unemployment Insurance in Thailand: Rationales for

the Early Introduction in a Second-Tier Newly Industrializing Economy, the

Seventh East Asian Social Policy (EASP) Conference at Sogang University

(Seoul) on August 21, 2010, p171- 195.

154. Yasuhito Asami, Unemployment Insurance in Thailand: Rationales for the

Early Introduction in a Second-Tier Newly Industrializing Economy, the

Seventh East Asian Social Policy (EASP) Conference at Sogang University

(Seoul) on August 21, 2010, p171- 195.

155. Yasuhiro Kamimura, Employment Structure and Unemployment Insurance in

East Asia: Establishing Social Protection for Inclusive and Sustainable

Growth, the Seventh East Asian Social Policy (EASP) Conference at Sogang

University (Seoul) on August 21, 2010, p153-170.

Các văn bản quy phạm pháp luật

156. Ban chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012,

về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020.

về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

157. Ban chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018,

158. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012, về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

giai đoạn 2012- 2020.

159. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2009), Công văn số 4002/LĐTBXH-

VL ngày 22/10/2009 về việc triển khai chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

160. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2009), Thông tư 04/2009/TT-

BLĐTBXH ngày 22/01/2009, hướng dẫn thực hiện một số Điều của nghị

định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm

thất nghiệp.

161. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2009), Thông tư 34/2009/TT-

BLĐTBXH ngày 16/10/2009, sửa đổi, bổ sung Thông tư số 04/2009/TT-

BLĐTBXH ngày 22 tháng 01 năm 2009 của Bộ Lao động- Thương binh và

Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP

ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.

162. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2010), Thông tư 32/2010/TT-

BLĐTBXH ngày 25/10/2010, hướng dẫn thực hiện một số Điều của nghị

định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Bảo hiểm xã hội về

bảo hiểm thất nghiệp.

163. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2013), Thông tư 04/2013/TT-

BLĐTBXH ngày 01/3/2013, sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số

32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25 tháng 10 năm 2010 của Bộ LĐ-TB&XH

hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12

tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.

164. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư 11/2015/TT-

BLĐTBXH ngày 11/3/2015, Quy định chế độ báo cáo thống kê tổng hợp về

Lao động- Thương binh và Xã hội.

165. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư 28/2015/TT-

BLĐTBXH ngày 31/7/2015, hướng dẫn thực hiện Điều 52 của Luật Việc làm

và một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015

của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về

bảo hiểm thất nghiệp.

166. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội- Bộ Quốc phòng- Bộ Công an (2016),

Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-BLĐTBXH-BQP-BCA ngày

25/3/2016, hướng dẫn thực hiện Khoản 6 Điều 32 của Nghị định số

28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp về việc thông báo

biến động lao động làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công

an.

167. Bộ Quốc phòng (2015), Thông tư số 139/2015/TT-BQP ngày 16/12/2015,

hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày

12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp trong Bộ Quốc phòng.

168. Bộ Tài chính (2009), Thông tư 96/2009/TT-BTC ngày 20/5/2009, hướng dẫn

chế độ tài chính đối với quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

169. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 20/2016/TT-BTC ngày 03/02/2016, hướng

dẫn thực hiện cơ chế quản lý tài chính về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp và chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm

thất nghiệp.

170. Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2009), Quyết định 1199/QĐ-

LĐTBXH ngày 22/9/2009, thành lập bảo hiểm thất nghiệp.

171. Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (2018), Quyết định số

935/QĐ-LĐTBXH ngày 19/7/2018 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động

thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ngành Lao

động- Thương binh và Xã hội.

172. Chính phủ (2008), Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008, hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.

173. Chính phủ (2010), Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010, về kiểm soát

thủ tục hành chính

174. Chính phủ (2010), Nghị định 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010, quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.

175. Chính phủ (2012), Nghị định 100/2012/NĐ-CP ngày 21/11/2012, sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm

2008 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm

xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.

176. Chính phủ (2012), Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20/12/2012, quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động-

Thương binh và Xã hội.

177. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013, quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa

người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được sửa

đổi, bổ sung một số Điều tại Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015.

178. Chính phủ (2013), Nghị định 196/2013/NĐ-CP, quy định thành lập và hoạt

động của Trung tâm Dịch vụ việc làm.

179. Chính phủ (2015), Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/03/2015, quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp.

180. Chính phủ (2016), Nghị định số 01/2016/NĐ-CP ngày 05/01/2016, quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt

Nam.

181. Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ- CP ngày 31/3/2016, quy định

việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của cơ quan bảo hiểm xã hội.

182. Chính phủ (2016), Nghị định số 30/2016/NĐ-CP ngày 28/4/2016 của Chính

phủ quy định chi tiết hoạt động đầu tư từ Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y

tế, bảo hiểm thất nghiệp.

183. Chính phủ (2012), Nghị quyết 10/NQ-CP ngày 24/4/2012, ban hành Chương

trình hành động triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội

2011- 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-

2015.

184. Chính phủ (2012), Nghị quyết 70/NQ-CP ngày 01/11/2012, về Chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW về chính sách xã

hội giai đoạn 2012- 2020.

185. Chính phủ (2018), Nghị quyết 125/NQ-CP ngày 08/10/2018, về Chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng

5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương về cải

cách chính sách bảo hiểm xã hội.

186. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

XI.

187. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

XII.

188. Quốc hội (1998), Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998, sửa đổi bổ sung năm 2004

và 2005.

189. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới số 73/2006/QH 11

190. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12

191. Quốc hội (2010), Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12

192. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra số 56/2010/QH12

193. Quốc hội (2010), Luật Viên chức số 58/2010/QH12

194. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động 10/2012/QH13

195. Quốc hội (2012), Luật Công đoàn số12/2012/QH13

196. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13

197. Quốc hội (2013), Luật Việc làm số 38/2013/QH13

198. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13

199. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13

200. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 77/2014/QĐ-TTg ngày

24/12/2014, quy định mức hỗ trợ học nghề đối với người lao động tham gia

bảo hiểm thất nghiệp.

201. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg ngày

27/11/2015, về cơ chế quản lý tài chính về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp và chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp.

202. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 145/QĐ-TTg ngày 20/01/2016, về

phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020,

tầm nhìn 2030.

203. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 15/2016/QĐ-TTg ngày 05/4/2016,

về mức chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp

giai đoạn 2016 - 2018.

204. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017, về

ban hành kế hoạch quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát

triển bền vững.

Tài liệu từ các website

http://www.congdoanvn.org.vn/

https://www.gso.gov.vn/

http://www.ilo.org

http://www.ilssa.org.vn/

http://www.laodong.com.vn/

http://www.ldld.hochiminhcity.gov.vn/

http://www.molisa.gov.vn/

http://www.nfsc.gov.vn

http://www.nld.com.vn/

http://www.thesaigontimes.vn

http://www.vieclamdaklak.net/

http://www.vieclamhcm.net

http://www.vnclp.gov.vn

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP (Nguồn: Cổng thông tin cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính quốc gia)

Cơ quan công khai

Bộ LĐ-TB&XH

Mã thủ tục

B-BLD-286073-TT

Cấp thực hiện

Cấp tỉnh

Lĩnh vực

Việc làm

- Bước 1: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có hiệu lực, NSDLĐ lập và nộp hồ sơ tham gia BHTN của NLĐ cho tổ chức bảo hiểm xã hội.

Trình tự thực hiện

- Bước 2: Hằng tháng, NSDLĐ đóng BHTN theo mức quy định tại điểm b khoản 1 Điều 57 của Luật việc làm và trích tiền lương của từng NLĐ theo mức quy định tại điểm a khoản 1 Điều 57 của Luật việc làm để đóng cùng một lúc vào Quỹ BHTN.

Cách thức thực hiện

NSDLĐ lập và nộp hồ sơ tham gia BHTN, đóng BHTN theo mức quy định của NLĐ cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

Thành phần hồ sơ

Theo quy định của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Số bộ hồ sơ

Theo quy định của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Mẫu đơn, tờ khai

Phí

Không có phí

Lệ phí

Không có phí, lệ phí

Thời hạn giảiquyết

Theo quy định của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Đối tượng thực hiện

NSDLĐ.

Không có thông tin

Bảo hiểm xã hội tỉnh

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Không có thông tin

Cơ quan được ủy quyền Không có thông tin

Cơ quan phối hợp

Không có thông tin

Kết quả thực hiện

NLĐ tham gia đóng BHTN

Luật 38/2013/QH13

Nghị định 28/2015/NĐ-CP

Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH NSDLĐ tham gia BHTN bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật Việc làm.

1. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: THAM GIA BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

Cơ quan công khai

Bộ LĐ-TB&XH

Mã thủ tục

B-BLD-286074-TT

Cấp thực hiện

Cấp tỉnh

Lĩnh vực

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

Việc làm - Bước 1: Trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, NLĐ chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng TCTN nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN cho Trung tâm DVVL tại địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. - Bước 2: Trung tâm DVVL có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, ghi phiếu hẹn trả kết quả và trao phiếu cho người nộp hồ sơ; trường hợp hồ sơ không đủ theo quy định thì trả lại cho người nộp và nêu rõ lý do. - Bước 3: Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở LĐ- TB&XH quyết định về việc hưởng TCTN của NLĐ; trường hợp không đủ điều kiện để hưởng TCTN thì phải trả lời bằng văn bản cho NLĐ. - Bước 4: Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày ghi trong phiếu hẹn trả kết quả NLĐ phải đến nhận quyết định về việc hưởng TCTN. - NLĐ phải trực tiếp nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị hưởng TCTN cho Trung tâm DVVL tại địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. - NLĐ được ủy quyền cho người khác nộp hồ sơ hoặc gửi hồ sơ theo đường bưu điện nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều 17 Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN. 1. Đề nghị hưởng TCTN. 2. Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ sau đây xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc: - Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; - Quyết định thôi việc;

- Quyết định sa thải;

Thành phần hồ sơ

- Quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

- Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV. Trường hợp NLĐ tham gia BHTN theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm thì giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng là bản chính hoặc bản sao có chứng thực của hợp đồng đó. 3. Sổ bảo hiểm xã hội.

Số bộ hồ sơ

01 bộ Hồ sơ

Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

Mẫu số 3 - TT 28.docx

Không có phí

Phí

Không có phí, lệ phí

Lệ phí

Thời hạn giải quyết

Thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định.

Đối tượng thực hiện

Người thất nghiệp có nhu cầu hưởng TCTN.

Cơ quan thực hiện

Không có thông tin

2. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: GIẢI QUYẾT HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP

Sở LĐ-TB&XH

Không có thông tin

Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Trung tâm DVVL tại địa phương nơi NLĐ muốn nhận TCTN. Cơ quan được ủy quyền Cơ quan phối hợp

Không có thông tin

Kết quả thực hiện

Căn cứ pháp lý

Quyết định về việc hưởng TCTN. Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH

- NLĐ quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật việc làm đang đóng BHTN. - Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 49 Luật việc làm.

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

- Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm; đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm;

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

Thành phần hồ sơ

Số bộ hồ sơ Mẫu đơn, mẫu tờ khai Phí Lệ phí

Thời hạn giải quyết

3. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: TẠM DỪNG HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286075-TT Cấp tỉnh Việc làm - Bước 1: Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ không đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định, Trung tâm DVVL nơi NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở LĐ-TB&XH quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN của NLĐ. - Bước 2: Giám đốc Sở LĐ-TB&XH ban hành Quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN. - Bước 3: Quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN được Trung tâm DVVL gửi: 01 bản đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực hiện tạm dừng chi trả TCTN đối với NLĐ; 01 đến gửi NLĐ để biết và thực hiện. Khi NLĐ không đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định, Trung tâm DVVL nơi NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở LĐ- TB&XH quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN của NLĐ. Giấy tờ chứng minh về việc không thông báo tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định của NLĐ đang hưởng TCTN. 01 bộ Hồ sơ Không có Không có phí Không có phí, lệ phí Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ không đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định NLĐ đang hưởng TCTN. Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Căn cứ pháp lý

Đối tượng thực hiện Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Không có thông tin Cơ quan được ủy quyền Không có thông tin Không có thông tin Cơ quan phối hợp Quyết định về việc tạm dừng hưởng TCTN. Kết quả thực hiện Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH

Yêu cầu hoặc điều kiện

NLĐ đang hưởng trợ cấp thất nghiệp không đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định.

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286076-TT Cấp tỉnh Việc làm

4. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: TIẾP TỤC HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP

- Bước 1: Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ tiếp tục thực hiện thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định đối với NLĐ bị tạm dừng hưởng TCTN nếu vẫn còn thời gian hưởng TCTN theo quyết định của Giám đốc Sở LĐ-TB&XH thì Trung tâm DVVL trình Giám đốc Sở Lao động -Thương binh và Xã hội quyết định về việc tiếp tục hưởng TCTN cho NLĐ.

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

- Bước 2: Giám đốc Sở LĐ-TB&XH ban hành Quyết định về việc tiếp tục hưởng TCTN. - Bước 3: Quyết định về việc tiếp tục hưởng TCTN được Trung tâm DVVL gửi: 01 bản đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực hiện tiếp tục chi trả TCTN cho NLĐ; 01 bản đến NLĐ để biết và thực hiện. NLĐ phải trực tiếp đến thông báo về việc tìm kiếm việc làm với Trung tâm DVVL.

Thành phần hồ sơ

Văn bản Thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng của NLĐ

Số bộ hồ sơ

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

Phí Lệ phí Thời hạn giải quyết

Đối tượng thực hiện

01 bộ Hồ sơ Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai Mẫu số 16 - TT 28.docx Không có phí Không có phí, lệ phí Không quy định NLĐ đang hưởng TCTN bị tạm dừng hưởng TCTN nếu vẫn còn thời gian hưởng TCTN theo quyết định của Giám đốc Sở LĐ-TB&XH. Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ

Trung tâm DVVL

Cơ quan được ủy quyền Không có thông tin Không có thông tin Cơ quan phối hợp

Kết quả thực hiện

Quyết định về việc tiếp tục hưởng TCTN.

Căn cứ pháp lý

Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

NLĐ tiếp tục thực hiện thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định khi bị tạm dừng hưởng TCTN nếu vẫn còn thời gian hưởng TCTN theo quyết định của Giám đốc Sở LĐ-TB&XH.

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286077-TT Cấp tỉnh Việc làm

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

- Bước 1: + Đối với NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN trong các trường hợp: Có việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hưởng lương hưu hằng tháng; ra nước ngoài để định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày bị chấm dứt hưởng TCTN NLĐ phải thông báo với Trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN theo quy định và kèm theo giấy tờ có liên quan đến việc chấm dứt hưởng TCTN (bản chụp). Trung tâm DVVL nơi NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở LĐ-TB&XH quyết định về việc chấm dứt hưởng TCTN của NLĐ. + Đối với NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN trong các trưởng hợp: Sau 2 lần từ chối nhận việc làm do Trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN giới thiệu mà không có lý do chính đáng; trong thời gian hưởng TCTN, 03 tháng liên tục không thực hiện thông báo hàng tháng về việc tìm kiếm việc làm với trung tâm dịch việc làm theo quy định; bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN; chết; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tòa án tuyên bố mất tích; bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì Trung tâm DVVL nơi NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở LĐ-TB&XH quyết định về việc chấm dứt hưởng TCTN của NLĐ. - Bước 2: Giám đốc Sở LĐ-TB&XH ban hành quyết định về việc chấm dứt hưởng TCTN. - Bước 3: Quyết định chấm dứt hưởng TCTN được Trung tâm DVVL gửi: 01 bản đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực hiện việc chấm dứt hưởng TCTN đối với NLĐ; 01 bản đến NLĐ. Đối với NLĐ chấm dứt hưởng TCTN thuộc các trường hợp: tìm được việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hưởng lương hưu hằng tháng; ra nước ngoài để định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên thì NLĐ trực tiếp thông báo hoặc gửi thông báo theo đường bưu điện kèm theo các giấy tờ có liên quan đến việc chấm dứt hưởng TCTN (bản chụp). Đối với trường hợp NLĐ phải thông báo với với Trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN theo quy định:

* Văn bản Thông báo của NLĐ về việc chấm dứt hưởng TCTN.

Thành phần hồ sơ

* Các giấy tờ chứng minh NLĐ thuộc đối tượng chấm dứt hưởng TCTN. Bao gồm một trong các giấy tờ sau: - Quyết định hưởng TCTN (để tính thời gian chấm dứt hưởng). - Quyết định tuyển dụng hoặc hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp chưa hết thời hạn hưởng nhưng đã tìm được việc làm. - Giấy triệu tập thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an đối với người thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an.

- Quyết định hưởng lương hưu.

5. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: CHẤM DỨT HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP

Số bộ hồ sơ

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

- Giấy tờ chứng minh về việc 02 lần từ chối nhận việc làm do Trung tâm DVVL giới thiệu mà không có lý do chính đáng. - Giấy tờ chứng minh về việc không thông báo về việc tìm kiếm việc làm trong 03 tháng liên tục. - Giấy tờ chứng minh NLĐ định cư ở nước ngoài (xác minh của Xã, phường, thị trấn...). - Giấy báo nhập học đối với học tập trong nước. Trường hợp học tập ở nước ngoài thì phải có giấy tờ chứng minh về việc xuất cảnh. - Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN của cơ quan có thẩm quyền. - Giấy chứng minh NLĐ đang hưởng TCTN bị chết (Giấy chứng tử, xác minh của Xã, phường, thị trấn....). - Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở cai nghiện bắt buộc của cơ quan có thẩm quyền. - Quyết định của tòa án tuyên bố mất tích. - Quyết định tạm giam, chấp hành hình phạt tù của cơ quan có thẩm quyền. 01 bộ Hồ sơ Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai Mẫu số 23 - TT 28.docx Không có phí

Phí

Không có phí, lệ phí Không quy định

Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Lệ phí Thời hạn giải quyết Đối tượng thực hiện NLĐ đang hưởng TCTN. Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN

Không có thông tin

Cơ quan được ủy quyền

Cơ quan phối hợp Kết quả thực hiện

Căn cứ pháp lý

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

Không có thông tin Quyết định về việc chấm dứt hưởng TCTN. Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN trong các trường hợp sau: hết thời hạn hưởng TCTN theo quyết định hưởng TCTN; có việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; hưởng lương hưu hằng tháng; sau 2 lần từ chối nhận việc làm do Trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN giới thiệu mà không có lý do chính đáng; trong thời gian hưởng TCTN, 03 tháng liên tục không thực hiện thông báo hàng tháng về việc tìm kiếm việc làm với trung tâm dịch việc làm theo quy định; ra nước ngoài để định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN; chết; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tòa án tuyên bố mất tích; bị tạm giam, chấp nhận hình phạt tù.

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286078-TT Cấp tỉnh Việc làm - Bước 1: NLĐ đã hưởng ít nhất 01 tháng TCTN theo quy định mà có nhu cầu chuyển nơi hưởng TCTN đến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung - ương khác thì phải làm đề nghị chuyển nơi hưởng TCTN. - Bước 2: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của NLĐ, Trung tâm DVVL có trách nhiệm cung cấp hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN cho NLĐ và gửi giấy giới thiệu chuyển nơi hưởng TCTN cho Trung tâm DVVL nơi NLĐ chuyển đến.

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

Thành phần hồ sơ Số bộ hồ sơ

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

Phí Lệ phí

Thời hạn giải quyết

Đối tượng thực hiện

Khi nhận được hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN, NLĐ trả lại thẻ bảo hiểm y tế cho tổ chức bảo hiểm xã hội nơi đang chi trả TCTN cho NLĐ. - Bước 3: Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày cung cấp hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN cho NLĐ, Trung tâm DVVL nơi NLĐ chuyển đi gửi thông báo về việc chuyển nơi hưởng TCTN cho Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để dừng việc chi trả TCTN theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định. NLĐ phải trực tiếp đến Trung tâm DVVL để đề nghị chuyển nơi hưởng TCTN. Đề nghị chuyển nơi hưởng TCTN của NLĐ. 01 bộ Hồ sơ Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai Mẫu số 10 - TTLT 28.docx Không có phí Không có phí, lệ phí Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị chuyển nơi hưởng TCTN của NLĐ. NLĐ đang hưởng TCTN có nhu cầu chuyển nơi hưởng TCTN đến tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác. Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Trung tâm DVVL

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Cơ quan được ủy quyền Không có thông tin Không có thông tin Cơ quan phối hợp

Kết quả thực hiện

Giấy giới thiệu chuyển nơi hưởng TCTN và văn bản thông báo Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh nơi NLĐ chuyển đi dừng việc chi trả TCTN.

Căn cứ pháp lý

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH NLĐ đã hưởng ít nhất 01 tháng TCTN theo quy định và có nhu cầu chuyển hưởng trợ cấp nơi hưởng TCTN đến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác

6. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: CHUYỂN NƠI HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP (CHUYỂN ĐI)

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286079-TT Cấp tỉnh Việc làm - Bước 1: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ nhận được hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN, NLĐ phải nộp hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN cho Trung tâm DVVL nơi chuyển đến trừ trường hợp theo quy định tại Khoản 6 Điều 22 Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật việc làm về BHTN. - Bước 2: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN do NLĐ chuyển đến, Trung tâm DVVL gửi văn bản đề nghị Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh nơi chuyển đến để tiếp tục thực hiện việc chi trả TCTN và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho NLĐ kèm theo bản chụp quyết định hưởng TCTN của NLĐ. NLĐ phải trực tiếp đến Trung tâm DVVL nơi chuyển đến để nộp hồ sơ chuyển nơi hưởng TCTN - Đề nghị chuyển nơi hưởng TCTN của NLĐ; - Giấy giới thiệu chuyển nơi hưởng TCTN; - Bản chụp quyết định hưởng TCTN;

Thành phần hồ sơ

- Bản chụp các quyết định hỗ trợ học nghề, quyết định tạm dừng hưởng TCTN, quyết định tiếp tục hưởng TCTN (nếu có);

- Bản chụp thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng (nếu có), các giấy tờ khác có trong hồ sơ hưởng TCTN.

Số bộ hồ sơ Mẫu đơn, mẫu tờ khai Phí Lệ phí

Thời hạn giải quyết

01 bộ Hồ sơ Không có phí Không có phí, lệ phí Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị chuyển nơi hưởng TCTN của NLĐ. NLĐ đang hưởng TCTN. Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Đối tượng thực hiện Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Cơ quan được ủy quyền Cơ quan phối hợp

Kết quả thực hiện

Căn cứ pháp lý

Trung tâm DVVL Không có thông tin Không có thông tin Văn bản đề nghị Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh nơi chuyển đến để tiếp tục thực hiện việc chi trả TCTN cho NLĐ. Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH

NLĐ có nhu cầu hưởng TCTN nơi chuyển đến.

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

7. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: CHUYỂN NƠI HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP (CHUYỂN ĐẾN)

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286080-TT Cấp tỉnh Việc làm * Đối với NLĐ đang hưởng TCTN:

- Bước 1: NLĐ đang hưởng TCTN có nhu cầu học nghề thì nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề gửi cho Trung tâm DVVL nơi NLĐ đang hưởng TCTN.

- Bước 2: Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề và trao cho NLĐ phiếu hẹn trả kết quả theo mẫu quy định.

- Bước 3: Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề, Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội quyết định về việc hỗ trợ học nghề cho NLĐ.

- Bước 4: Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày ghi trong phiếu hẹn trả kết quả NLĐ phải đến nhận quyết định về việc hỗ trợ học nghề trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 12 Thông tư số 28/2015/TT- BLĐTBXH.

Trình tự thực hiện

Cách thức thực hiện

Thành phần hồ sơ

8. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: GIẢI QUYẾT HỖ TRỢ HỌC NGHỀ

* Đối với người thất nghiệp có thời gian đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc nhưng không thuộc diện hưởng BHTN: - Bước 1: NLĐ có nhu cầu học nghề nộp hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề cùng với hồ sơ đề nghị hưởng TCTN tại Trung tâm DVVL nơi NLĐ có nhu cầu học nghề. - Bước 2: Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề và trao cho NLĐ phiếu hẹn trả kết quả theo mẫu quy định. - Bước 3: Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề, Trung tâm DVVL có trách nhiệm xem xét, trình Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội quyết định về việc hỗ trợ học nghề cho NLĐ. Trường hợp NLĐ không được hỗ trợ học nghề thì Trung tâm DVVL phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. - Bước 4: Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày ghi trong phiếu hẹn trả kết quả NLĐ phải đến nhận quyết định về việc hỗ trợ học nghề trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 12 Thông tư số 28/2015/TT- BLĐTBXH. NLĐ phải nộp đơn đề nghị hỗ trợ học nghề trực tiếp tại Trung tâm DVVL. - Hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề đối với người đang đóng BHTN: Đề nghị hỗ trợ học nghề theo mẫu quy định. - Hồ sơ đối với người thất nghiệp có thời gian đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên nhưng không thuộc diện hưởng TCTN: + Đề nghị hỗ trợ học nghề; + Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ sau đây: Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; Quyết định thôi việc; Quyết định sa thải; Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

Số bộ hồ sơ

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

Trường hợp NLĐ tham gia BHTN theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 43 Luật Việc làm thì giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đông lao động theo mùa vụ hoặc theo một việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng là bản chính hoặc bản sao có chứng thực của hợp đồng đó. + Sổ bảo hiểm xã hội. 01 bộ Hồ sơ Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai Mẫu số 18 - TTLT 28.docx

Phí Lệ phí

Thời hạn giải quyết

Không có phí Không có phí, lệ phí Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hỗ trợ học nghề.

Đối tượng thực hiện

NLĐ đang hưởng TCTN và người thất nghiệp có thời gian đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên nhưng không thuộc diện hưởng TCTN.

Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Trung tâm DVVL

Kết quả thực hiện

Căn cứ pháp lý

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Cơ quan được ủy quyền Không có thông tin Không có thông tin Cơ quan phối hợp Quyết định về việc hỗ trợ học nghề hoặc văn bản trả lời NLĐ đối với trường hợp NLĐ không đủ điều kiện để được hỗ trợ học nghề theo quy định. Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH - NLĐ theo quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật việc làm đang đóng BHTN. - Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc trừ các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 49 Luật việc làm.

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

- Đã đóng BHTN từ đủ 9 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286081-TT Cấp tỉnh Việc làm

- Bước 1: NLĐ quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm đang đóng BHTN bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà có nhu cầu tìm kiếm việc làm được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí thông qua Trung tâm DVVL.

- Bước 2: NLĐ ghi đầy đủ các thông tin cá nhân, nhu cầu tư vấn, nhu cầu giới thiệu việc làm vào phiếu tư vấn, giới thiệu việc làm theo mẫu quy định và nộp trực tiếp cho Trung tâm DVVL.

Trình tự thực hiện

- Bước 3: Trung tâm DVVL có trách nhiệm tiếp nhận phiếu tư vấn, giới thiệu việc làm và căn cứ vào nhu cầu, khả năng của NLĐ, nhu cầu tuyển lao động của NSDLĐ để kết nối việc làm phù hợp với NLĐ. - Bước 4: Trung tâm DVVL gửi cho NLĐ Phiếu giới thiệu việc làm theo mẫu quy định. - Bước 5: Trung tâm DVVL có trách nhiệm theo dõi kết quả dự tuyển lao động để kịp thời hỗ trợ NLĐ.

Cách thức thực hiện

NLĐ phải trực tiếp nộp phiếu tư vấn, giới thiệu việc làm tại Trung tâm DVVL và được tư vấn, giới thiệu việc làm trực tiếp.

Thành phần hồ sơ Số bộ hồ sơ

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

Phiếu tư vấn, giới thiệu việc làm. 01 bộ Hồ sơ Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai Mẫu số 16 - TT 28.docx Không có phí Không có phí, lệ phí

Phí Lệ phí

Thời hạn giải quyết

Đối tượng thực hiện

không quy định NLĐ quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm đang đóng BHTN bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Cơ quan được ủy quyền Cơ quan phối hợp Kết quả thực hiện

Căn cứ pháp lý

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

Trung tâm DVVL Không có thông tin Không có thông tin NLĐ được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH NLĐ quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm đang đóng BHTN bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có nhu cầu tìm kiếm việc làm.

9. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: HỖ TRỢ TƯ VẤN, GIỚI THIỆU VIỆC LÀM

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286082-TT Cấp tỉnh Việc làm

- Bước 1: Trong thời gian hưởng TCTN, hằng tháng NLĐ phải trực tiếp thông báo về việc tìm kiếm việc làm với Trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN theo quy định trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 10 Thông tư số 28/2015/TT-BLĐTBXH ngày 31/7/2015.

Trình tự thực hiện

- Bước 2: Ngày NLĐ thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm được ghi cụ thể trong phụ lục quyết định hưởng TCTN của NLĐ.

- Bước 3: Trường hợp ngày thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm của NLĐ nằm trong khoảng thời gian làm thủ tục chuyển nơi hưởng TCTN theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP thì NLĐ không phải thực hiện việc thông báo về việc tìm kiếm việc làm với Trung tâm DVVL.

Cách thức thực hiện

NLĐ phải trực tiếp đến Trung tâm DVVL để thực hiện việc thông báo tìm kiếm việc làm.

Thành phần hồ sơ

Văn bản Thông báo về việc tìm kiếm việc làm.

Số bộ hồ sơ

Mẫu đơn, mẫu tờ khai

Phí Lệ phí Thời hạn giải quyết

01 bộ Hồ sơ Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai Mẫu số 16 - TT 28.docx Không có phí Không có phí, lệ phí Không quy định

Đối tượng thực hiện

NLĐ đang hưởng TCTN.

Không có thông tin

Sở LĐ-TB&XH

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Cơ quan được ủy quyền Cơ quan phối hợp Kết quả thực hiện

Căn cứ pháp lý

Trung tâm DVVL Không có thông tin Không có thông tin NLĐ tiếp tục được hưởng TCTN. Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH

NLĐ đang hưởng TCTN.

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

10. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: THÔNG BÁO VỀ VIỆC TÌM VIỆC LÀM HÀNG THÁNG

Cơ quan công khai Mã thủ tục Cấp thực hiện Lĩnh vực

Bộ LĐ-TB&XH B-BLD-286083-TT Cấp tỉnh Việc làm

- Bước 1: NSDLĐ có nhu cầu hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ phải nộp hồ sơ theo quy định cho Sở LĐ-TB&XH nơi đóng trụ sở chính của đơn vị để thẩm định.

Trình tự thực hiện

- Bước 2: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của NSDLĐ theo quy định, Sở LĐ-TB&XH thẩm định và phê duyệt phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm; chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính và các cơ quan, đơn vị có liên quan thẩm định hồ sơ đề nghị hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP và trình Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét, quyết định việc hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ. Trường hợp không hỗ trợ thì Sở LĐ-TB&XH phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho NSDLĐ. - Bước 3: Quyết định về việc hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ được Sở LĐ-TB&XH gửi: 01 bản đến Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh để thực hiện chi trả kinh phí hỗ trợ; 01 bản đến Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội để báo cáo; 01 bản đến Trung tâm DVVL; 01 bản đến NSDLĐ để thực hiện và 01 bản đến cơ sở dạy nghề cho NLĐ trong trường hợp việc đào tạo không do NSDLĐ thực hiện. Nộp hồ sơ trực tiếp tại Sở LĐ-TB&XH.

Cách thức thực hiện

- Văn bản đề nghị hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ.

- Phương án thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ hoặc sản xuất, kinh doanh được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP.

Thành phần hồ sơ

- Giấy tờ chứng minh không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP.

- Văn bản xác nhận của tổ chức bảo hiểm xã hội nơi NSDLĐ đóng BHTN cho NLĐ theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP.

Số bộ hồ sơ Mẫu đơn, mẫu tờ khai Phí Lệ phí

01 bộ Hồ sơ Không có phí Không có phí, lệ phí

11. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH: GIẢI QUYẾT HỖ TRỢ KINH PHÍ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ, KỸ NĂNG NGHỀ ĐỂ DUY TRÌ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

Thời hạn giải quyết

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của NSDLĐ theo quy định.

Đối tượng thực hiện

NSDLĐ có nhu cầu hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ

Không có thông tin

Chủ tịch UBND cấp tỉnh

Cơ quan thực hiện Cơ quan có thẩm quyền quyết định Địa chỉ tiếp nhận hồ sơ Cơ quan được ủy quyền Cơ quan phối hợp

Sở LĐ-TB&XH Không có thông tin Không có thông tin

Kết quả thực hiện

Quyết định về việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ.

Căn cứ pháp lý

Luật 38/2013/QH13 Nghị định 28/2015/NĐ-CP Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH

- NSDLĐ theo quy định tại khoản 3 Điều 43 Luật việc làm có sử dụng NLĐ quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật việc làm đang đóng BHTN.

- Đóng đủ BHTN cho NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN liên tục từ đủ 12 tháng trở lên tính đến thời điểm đề nghị hỗ trợ;

Yêu cầu hoặc điều kiện để thực hiện

- Gặp khó khăn do suy giảm kinh tế hoặc vì lý do bất khả kháng khác buộc phải thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh;

- Không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ;

- Có phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Phụ lục 2: CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM (theo quy định của Luật Việc làm 2013)

Nội dung

+ Đối tượng hưởng: NLĐ đang đóng BHTN.

Tên chế độ bảo hiểm thất nghiệp

+ Điều kiện hưởng: Bị chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV (trừ trường hợp NLĐ

1. Chế độ Trợ cấp

hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng, đơn phương chấm

thất nghiệp

dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật); Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên

trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV không xác

định thời hạn hoặc xác định thời hạn hoặc trong thời gian 36 tháng trước

khi chấm dứt HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có

thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng; Đã nộp hồ sơ hưởng TCTN tại

trung tâm DVVL trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ hoặc

HĐLV; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng

BHTN (trừ các trường hợp thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; chấp hành quyết định áp dụng

biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai

nghiện bắt buộc; bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; ra nước ngoài định

cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng hoặc chết).

+ Mức hưởng: Mức hưởng TCTN hằng tháng bằng 60% mức bình quân

tiền lương tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp

nhưng tối đa không quá 05 lần mức lương cơ sở đối với NLĐ thuộc đối

tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá

05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật lao động đối với

NLĐ đóng BHTN theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định tại thời

điểm chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV.

+ Thời gian hưởng: Được tính theo số tháng đóng BHTN, cứ đóng đủ 12

tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng TCTN, sau đó, cứ đóng đủ

thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng TCTN nhưng tối đa không

quá 12 tháng.

+ Thời điểm hưởng: Được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ

hưởng TCTN theo quy định.

+ Tạm dừng hưởng: Người đang hưởng TCTN bị tạm dừng hưởng TCTN

khi không thông báo về việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định.

+ Tiếp tục hưởng: Sau khi bị tạm dừng hưởng, NLĐ thực hiện thông báo về

việc tìm kiếm việc làm hằng tháng, nếu vẫn còn thời gian được hưởng theo

quyết định thì sẽ tiếp tục hưởng TCTN.

+ Chấm dứt hưởng: Người đang hưởng TCTN bị chấm dứt hưởng TCTN

khi tìm được việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đến

thời điểm hưởng lương hưu hằng tháng; sau 02 lần từ chối nhận việc làm

do trung tâm DVVL nơi đang hưởng TCTN giới thiệu mà không có lý do

chính đáng; không thực hiện thông báo tìm kiếm việc làm hằng tháng trong

03 tháng liên tục; ra nước ngoài để định cư, đi lao động ở nước ngoài theo

hợp đồng; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; bị xử phạt vi phạm

hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN; chết; chấp hành quyết

định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt

buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tòa án tuyên bố mất tích; bị tạm giam;

chấp hành hình phạt tù.

+ Bảo lưu thời gian đóng BHTN: NLĐ bị chấm dứt hưởng TCTN khi tìm

được việc làm, thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, đi học tập có

thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên, chấp hành quyết định áp dụng biện pháp

đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt

buộc, bị tòa án tuyên bố mất tích hoặc bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù

được bảo lưu thời gian đóng BHTN làm căn cứ để tính thời gian hưởng

TCTN cho lần tiếp theo khi đủ điều kiện. Thời gian bảo lưu được tính bằng

tổng thời gian đóng BHTN trừ đi thời gian đóng đã hưởng TCTN, theo

nguyên tắc mỗi tháng đã hưởng TCTN tương ứng 12 tháng đã đóng BHTN.

2. Chế độ Hỗ trợ tư

+ Đối tượng hưởng: NLĐ đang đóng BHTN, thuộc diện hoặc không thuộc

vấn, giới thiệu việc

diện hưởng TCTN.

làm

+ Điều kiện hưởng: Bị chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV và có nhu cầu tìm

kiếm việc làm.

3. Chế độ Hỗ trợ

+ Đối tượng hưởng: người có thời gian đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên,

học nghề

thuộc diện và không thuộc diện hưởng TCTN.

+ Điều kiện hưởng: Đã đóng BHTN từ đủ 09 tháng trở lên trong thời gian

24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV theo quy định của pháp

luật; Bị chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV (trừ trường hợp NLĐ đơn phương

chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức

lao động hằng tháng); chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp

hồ sơ đề nghị hưởng BHTN cho Trung tâm DVVL.

+ Mức hưởng: Được hỗ trợ 01 lần thông qua cơ sở dạy nghề với mức hỗ trợ

tối đa là 01 triệu đồng/người/tháng. Mức hỗ trợ cụ thể được tính theo tháng,

tùy theo từng nghề, mức thu học phí và thời gian học nghề thực tế theo quy

định của cơ sở dạy nghề. Nếu tham gia khóa học nghề có mức chi phí học

nghề cao hơn mức hỗ trợ học nghề, phần vượt quá mức hỗ trợ học nghề do

NLĐ tự chi trả.

+ Thời gian hưởng: theo thời gian học nghề thực tế nhưng không quá 06

tháng.

4. Chế độ Hỗ trợ

+ Đối tượng hưởng: NSDLĐ đang tham gia BHTN cho NLĐ.

đào tạo, bồi dưỡng,

+ Điều kiện hưởng: Đóng đủ BHTN theo quy định liên tục từ đủ 12 tháng

nâng cao trình độ

trở lên tính đến tháng liền trước của tháng đề nghị hỗ trợ; Gặp khó khăn do

kỹ năng nghề cho

suy giảm kinh tế hoặc vì lý do bất khả kháng buộc phải thay đổi cơ cấu

NLĐ

hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh và dẫn đến nguy cơ phải cắt giảm số

lao động hiện có từ 30% hoặc từ 50 lao động trở lên đối với NSDLĐ có sử

dụng từ 300 lao động trở xuống và từ 100 lao động trở lên đối với NSDLĐ

có sử dụng trên 300 lao động, không kể lao động giao kết HĐLĐ với thời

hạn dưới 03 tháng; Không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao trình độ kỹ năng nghề cho NLĐ; Có phương án đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao trình độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền phê duyệt.

+ Mức hưởng: Mức hỗ trợ tối đa là 01 triệu đồng/tháng cho một NLĐ có

nguy cơ bị cắt giảm lao động phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ

nghề.

+ Thời gian hưởng: căn cứ vào thời gian học thực tế của từng nghề hoặc

từng khóa học nhưng không quá 06 tháng. Nếu khóa học nghề có những

ngày lẻ không đủ tháng thì được tính theo nguyên tắc: Dưới 15 ngày tính:

1/2 tháng, từ đủ 15 ngày trở lên tính: 01 tháng. Đối với khóa đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề có mức chi phí cao hơn mức hỗ trợ

thì phần vượt quá mức hỗ trợ do NSDLĐ tự chi trả.

CHÍNH PHỦ

BỘ

LĐ-TB&XH

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW

- Bộ Tài chính - Bộ Quốc phòng - Bộ Công an - Bộ Nội vụ - Bộ Thông tin và Truyền thông - Bộ Tư pháp

Sở LĐ-TB&XH

- Sở Tài chính - Sở Nội vụ - Sở Thông tin và Truyền thông - Sở Tư pháp

Phụ lục 3: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Quan hệ chỉ đạo Giải thích

Quan hệ phối hợp

Bộ máy quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Phụ lục 4:

CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP CỦA CÁC CƠ QUAN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

STT

1

Tên cơ quan Chính phủ

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp Thống nhất QLNN về BHTN, chỉ đạo xây dựng, ban hành và

thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách về

BHTN.

2

Bộ LĐ-TB&XH Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về BHTN:

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức nghiên

cứu, xây dựng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành

hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật

về BHTN; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tuyên

truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về BHTN; thực

hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo; nghiên cứu khoa học

về BHTN; Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của

pháp luật về BHTN; Kiểm tra việc thực hiện các quy định của

pháp luật về BHTN; giải quyết khiếu nại, tố cáo về BHTN; Thực

hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về BHTN; Thực hiện hợp

tác quốc tế trong lĩnh vực BHTN theo quy định của pháp luật.

Bộ Tài chính

QLNN về chế độ tài chính đối với quỹ BHTN

3

Bộ Quốc phòng QLNN về BHTN trong Bộ Quốc phòng

4

Bộ Công an

QLNN về BHTN trong Bộ Công an

5

6

Các Bộ liên quan

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm

(Bộ Thông tin và

phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH thực hiện QLNN về BHTN: xây

Truyền thông, Bộ

dựng, tuyên truyền pháp luật, chính sách liên quan đến BHTN;

Tư pháp)

theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về

BHTN thuộc thẩm quyền; thực hiện báo cáo với cơ quan có thẩm

quyền trong phạm vi, quyền hạn QLNN về BHTN.

7

UBND tỉnh, thành

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện QLNN

phố trực thuộc TW

về BHTN tại địa phương. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW

có thẩm quyền ban hành Quyết định về việc hỗ trợ đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho

NLĐ trên cơ sở đề nghị của Sở LĐ-TB&XH.

8

Sở LĐ-TB&XH

Là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc

TW, chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế, hoạt động

của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW đồng thời chịu sự chỉ

đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ

của Bộ LĐ-TB&XH. Sở LĐ-TB&XH có chức năng tham mưu,

giúp UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW thực hiện chức năng

QLNN về BHTN trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc TW:

Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tuyên truyền, phổ

biến chế độ, chính sách, pháp luật về BHTN; Chỉ đạo các đơn vị

trực thuộc, Trung tâm DVVL, các cơ sở dạy nghề tổ chức thực

hiện chính sách BHTN trên địa bàn; Quyết định hưởng TCTN,

quyết định hỗ trợ học nghề, quyết định tạm dừng hưởng TCTN,

quyết định tiếp tục hưởng TCTN, quyết định chấm dứt hưởng

TCTN, quyết định tạm dừng hưởng TCTN, quyết định bảo lưu

thời gian đóng BHTN, quyết định thu hồi tiền TCTN, quyết định

thu hồi tiền hỗ trợ học nghề; quyết định thu hồi kinh phí hỗ trợ

đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghề để duy trì việc làm

cho NLĐ; quyết định hủy Quyết định hưởng TCTN, quyết định

hủy Quyết định hỗ trợ học nghề; Theo dõi, thanh tra, kiểm tra

thực hiện pháp luật về BHTN; Thực hiện chế độ báo cáo về

BHTN.

Sở LĐ-TB&XH có thẩm quyền ban hành các quyết định:

hưởng TCTN, tạm dừng hưởng TCTN, tiếp tục hưởng TCTN, hủy

Quyết định hưởng TCTN, bảo lưu thời gian đóng BHTN, hỗ trợ

học nghề, hủy Quyết định hỗ trợ học nghề, chấm dứt hưởng

TCTN, phê duyệt Phương án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình

độ kỹ năng nghề và duy trì việc làm cho NLĐ, thu hồi tiền TCTN,

thu hồi tiền hỗ trợ học nghề, thu hồi kinh phí hỗ trợ đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho

NLĐ trên cơ sở đề nghị của Trung tâm DVVL; Trình UBND tỉnh,

thành phố trực thuộc TW phê duyệt hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng

nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho NSDLĐ đủ điều kiện trên cơ

sở đề nghị của Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc TW;

Báo cáo tình hình thực hiện BHTN 6 tháng đầu năm (trước 31/7)

và cả năm (trước 15/1) cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc

TW và Cục Việc làm, Bộ LĐ-TB&XH.

9

Các Sở liên quan

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm

(Sở Tài chính, Sở

phối hợp với Sở LĐ-TB&XH thực hiện QLNN về BHTN: xây

Nội vụ, Sở Thông

dựng, tuyên truyền pháp luật, chính sách liên quan đến BHTN;

tin và Truyền

theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về

thông, Sở Tư pháp)

BHTN thuộc thẩm quyền; thực hiện báo cáo với cơ quan có thẩm

quyền trong phạm vi, quyền hạn QLNN về BHTN.

Phụ lục 5: QUY ĐỊNH QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nội dung

Quy định hiện hành của Chính phủ và Bộ Tài chính

Phải bảo đảm an toàn, minh bạch, hiệu quả và thu hồi được theo các

Về hoạt động

nguyên tắc, hình thức, phương án đầu tư, phương án sử dụng tiền sinh lời

đầu tư từ quỹ

và phương án xử lý rủi ro theo quy định của Chính phủ tại Nghị định

BHTN

30/2016/NĐ-CP

Từ năm ngân sách 2009 đến 2015: được thực hiện theo quy định tại Thông

Về chế độ tài

tư số 96/2009/ TT-BTC ngày 20/5/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực

chính đối với

hiện Quyết định số 04/2011/QĐ-TTg ngày 20/01/2011 của Thủ tướng

quỹ BHTN

Chính phủ về quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam được sửa đổi, bổ

sung một số điều tại Quyết định số 51/2013/QĐ-TTg ngày 16 tháng 8 năm

2013 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, chi phí quản lý BHTN hằng năm

của BHXH Việt Nam và cơ quan LĐ-TB&XH các cấp được trích từ quỹ

BHTN và bằng mức chi phí quản lý của cơ quan hành chính nhà nước;

được bố trí trong dự toán chi phí quản lý bộ máy của BHXH Việt Nam theo

quy định của Thủ tướng Chính phủ. Việc quản lý và sử dụng kinh phí chi

quản lý BHTN của BHXH Việt Nam thực hiện theo quy định hiện hành của

Thủ tướng Chính phủ về quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam và các

văn bản hướng dẫn thi hành. Từ năm ngân sách 2016 đến nay: được thực

hiện theo quy định tại Thông tư số 20/2016/TT-BTC ngày 03/2/2016 của

Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg ngày

27 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý tài

chính về BHXH, BHYT, BHTN và chi phí quản lý BHXH, BHYT, BHTN.

Căn cứ dự toán được giao, các đơn vị quản lý và sử dụng kinh phí để thực

Về Quản lý và

hiện các nhiệm vụ theo phân công của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH và nội

sử dụng kinh

dung chi theo quy định; Khi nhận được kinh phí do Bộ LĐ-TB&XH cấp,

phí

kể cả phần kinh phí chi tiền lương đối với NLĐ thực hiện chính sách

BHTN bằng 1,8 lần so với chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,

viên chức do Nhà nước quy định (nếu có), hạch toán vào nguồn thu sự

nghiệp của đơn vị và tự chủ sử dụng theo quy định của pháp luật về cơ chế

tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị;

Kết thúc năm ngân sách, các đơn vị có trách nhiệm lập và gửi báo cáo

quyết toán năm theo quy định của Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp,

gửi Bộ LĐ-TB&XH trước ngày 31 tháng 3 hằng năm để xét duyệt, tổng

hợp quyết toán với BHXH Việt Nam.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản giao dự toán chi phí

Về phân bổ dự

quản lý BHTN của BHXH Việt Nam, Bộ LĐ-TB&XH thực hiện xong việc

toán

phân bổ, giao dự toán và công khai định mức phân bổ dự toán cho các đơn

vị theo quy định hiện hành.

Căn cứ số tiền do BHXH Việt Nam cấp để chuyển vào tài khoản tiền gửi

Về chuyển

của các đơn vị theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định số 28/2015/NĐ-

kinh phí

CP ngày 12 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật việc làm về BHTN.

Bộ LĐ-TB&XH có trách nhiệm xét duyệt quyết toán năm về chi phí quản

Về tổng hợp

lý BHTN của các đơn vị và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho các

quyết toán

đơn vị; tổng hợp và lập báo cáo quyết toán năm theo quy định của Chế độ

kế toán hành chính sự nghiệp hiện hành, gửi BHXH Việt Nam trước ngày

31 tháng 5 hằng năm.

Phụ lục 6: BỐ TRÍ CÁC ĐIỂM GIẢI QUYẾT CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM (tính đến 31/12/2017)

Số lượng điểm giải quyết chế độ BHTN

STT

TTGTVL

Chia ra

Tổng số

Điểm tiếp nhận

Điểm ủy thác

I Vùng Đồng bằng Sông Hồng 1 Hà Nội 2 Hải Phòng 3 Vĩnh Phúc 4 Bắc Ninh 5 Hải Dương 6 Hưng Yên 7 Hà Nam 8 Nam Định Thái Bình 9 10 Ninh Bình

Tổng

7 4 3 2 6 2 1 5 4 3 37

7 4 3 2 2 2 1 3 4 1 29

0 0 0 0 4 0 0 2 0 2 8

Thái Nguyên Phú Thọ

II Vùng Đông Bắc 11 Hà Giang 12 Cao Bằng 13 Lào Cai 14 Bắc Kạn Lạng Sơn 15 16 Tuyên Quang 17 Yên Bái 18 19 20 Bắc Giang 21 Quảng Ninh Tổng

4 3 3 3 5 5 4 1 6 2 6 42

4 3 3 3 2 3 3 1 6 2 4 34

0 0 0 0 3 2 1 0 0 0 2 8

III Tây Bắc 22 Điện Biên Lai Châu 23 24 Sơn La 25 Hòa Bình

Tổng

4 3 4 4 15

4 3 4 4 15

0 0 0 0 0

Thanh Hóa

IV Bắc Trung Bộ 26 27 Nghệ An 28 Hà Tĩnh 29 Quảng Bình 30 Quảng Trị 31

Thừa-Thiên Huế Tổng

7 4 3 1 3 3 21

7 4 3 1 3 3 21

0 0 0 0 0 0 0

3 3

3 3

0 0

V Nam Trung Bộ 32 Đà Nẵng 33 Quảng Nam

Phú Yên

3 5 3 4 3 24

0 0 0 2 0 2

3 5 3 6 3 26

1 3 3 1 4 12

0 0 0 0 0 0

34 Quảng Ngãi 35 Bình Định 36 37 Khánh Hòa 38 Ninh Thuận Tổng VI Tây Nguyên 39 Kon Tum 40 Gia Lai 41 Đak Lak 42 Đak Nông Lâm Đồng 43 Tổng

1 3 3 1 4 12

TP. Hồ Chí Minh

VII Đông Nam Bộ 44 45 Bình Thuận 46 Bình Phước 47 Bình Dương 48 Đồng Nai 49 Bà Rịa-Vũng Tàu Tây Ninh 50

8 4 3 4 6 6 3 34

0 0 0 0 0 0 0 0

Tổng

8 4 3 4 6 6 3 34

Long An

4 4 2 4 3 5 2 4 3 1 1 1 2

0 0 9 0 0 0 3 0 0 0 3 0 0

VIII Đồng bằng Sông Cửu Long 51 52 Đồng Tháp 53 An Giang 54 Tiền Giang 55 Vĩnh Long 56 Bến Tre 57 Kiên Giang 58 Cần Thơ 59 Hậu Giang 60 Trà Vinh 61 Sóc Trăng 62 Bạc Liêu 63 Cà Mau

4 4 11 4 3 5 5 4 3 1 4 1 2

Tổng

51

36

15

Tổng cộng cả nước

238

205

33

(Nguồn: Bộ LĐ-TB&XH)

Phụ lục 7:

PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA

Họ và tên chuyên gia: Trần Dũng Hà. Chức vụ: Trưởng phòng Chế độ chính sách, BHXH Thành phố Hồ Chí Minh Ngày phỏng vấn: 22/9/2016. Địa điểm phỏng vấn: Phòng Chế độ chính sách, BHXH TP. Hồ Chí Minh

Tác giả: Thưa Ông, theo quy định hiện hành, đối tượng tham gia BHTN gồm

những người có HĐLĐ hoặc HĐLV không xác định thời hạn, xác định thời hạn,

theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới

12 tháng. Ông đánh giá như thế nào về phạm vi đối tượng BHTN hiện nay?

Ông Trần Dũng Hà: So với thời gian đầu mới triển khai BHTN, phạm vi đối

tượng BHTN hiện nay đã được mở rộng hơn. Tuy nhiên, theo tôi, phạm vi hiện nay

vẫn còn hẹp, BHTN vẫn chưa thực sự hướng đến những người có rủi ro việc làm

cao như lao động mùa vụ, lao động tự do...

Tác giả: Có ý kiến cho rằng nếu mở rộng cho những đối tượng này sẽ rất khó quản

lý do họ không có phát sinh quan hệ lao động trên thực tế?

Ông Trần Dũng Hà: Đúng là như vậy, nhưng không có nghĩa là không làm được.

Trong tương lai, tôi cho rằng việc mở rộng diện bao phủ BHTN là điều tất yếu,

cũng là phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới cũng như định hướng đảm

bảo an sinh xã hội của Việt Nam.

Tác giả: TP.Hồ Chí Minh là địa phương có thị trường lao động sôi động nhất

nước, cũng là địa phương có khối lượng công việc tiếp nhận, giải quyết chế độ

BHTN hàng tháng rất nhiều (khoảng hơn 60.000 lượt người mỗi tháng), Ông có

cho rằng những quy định hiện hành của nhà nước về BHTN là phù hợp với đặc thù

của TP.HCM?

Ông Trần Dũng Hà: Hiện nay, các quy định về BHTN đều áp dụng chung cho tất

cả các địa phương, chưa có cơ chế mở cho các địa phương. Theo tôi, nếu phải điều

chỉnh chính sách trong thời gian đến thì nên tăng tính chủ động cho địa phương để

họ có thể phát huy thế mạnh về ngân sách, nguồn lực, tự chủ trong bố trí địa điểm,

cơ sở vật chất, có thể có sự hỗ trợ nhiều hơn cho NLĐ mất việc làm ngoài các chế

độ BHTN hiện có.

Tác giả: Ông đánh giá như thế nào về sự phối hợp giữa Sở LĐ-TB&XH, BHXH

thành phố, Trung tâm DVVL thành phố và các cơ quan liên quan trong quản lý nhà

nước, tổ chức thực thi chính sách BHTN trên địa bàn?

Ông Trần Dũng Hà: Ngay từ khi chính sách đi vào cuộc sống, Thành phố Hồ Chí

Minh là địa phương rất chủ động và có nhiều sáng tạo trong thực hiện BHTN, đặc

biệt là sự chủ động ngồi lại với nhau giữa các cơ quan có liên quan, cùng bàn bạc

để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn như vấn đề chốt sổ cho NLĐ mất việc được kịp

thời, liên kết với ngân hàng để thanh toán trợ cấp thất nghiệp cho NLĐ qua thẻ

ATM... Tuy vậy, vấn đề quản lý dữ liệu tham gia BHTN, kiểm soát tình trạng việc

làm của NLĐ đang hưởng BHTN ... vẫn còn rất bị động, không thể kiểm soát được

nếu tách BHTN với thông tin lao động- việc làm của toàn thành phố.

Tác giả: Vậy thì theo Ông, có cần thiết phải có một cơ quan thường trực thống

nhất chỉ đạo, quản lý toàn diện chính sách việc làm, trong đó bao gồm cả BHTN

để có sự toàn diện trong quản lý chính sách việc làm của địa phương, trong đó có

thông tin lao động- việc làm- thất nghiệp?

Ông Trần Dũng Hà: Điều này theo tôi là cần thiết, bởi BHTN không chỉ là sự hỗ

trợ bằng tiền cho NLĐ mất việc làm thông qua trợ cấp thất nghiệp mà điều quan

trọng hơn, là sự cung cấp dịch vụ cho người bị mất việc làm (hỗ trợ tìm việc làm,

đào tạo nghề) tạo điều kiện để họ sớm quay trở lại thị trường lao động. Do đó, quản

lý BHTN nhất thiết phải gắn với quản lý các chính sách việc làm khác như chính

sách hỗ trợ tạo việc làm; thông tin thị trường lao động; dịch vụ việc làm và hỗ trợ

nâng cao kỹ năng nghề cho NLĐ...

Tác giả: Theo Ông, cần có những giải pháp gì trong thời gian đến để hoạt động

quản lý nhà nước về BHTN được hoàn thiện hơn?

Ông Trần Dũng Hà: Theo tôi, các nội dung chính sách BHTN cần được tiếp tục

hoàn thiện, về đối tượng, mức hưởng, quy trình, thủ tục, giao quyền tự chủ nhiều

hơn cho địa phương, có cơ quan thường trực chỉ đạo ở địa phương, làm thường

xuyên hơn công tác tuyên truyền, tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, xử lý sau

thanh tra, kiểm tra, bổ sung nội dung vi phạm, chế tài xử phạt, nhất là đối với

NSDLĐ trong việc khai báo thông tin, đóng BHTN.

Tác giả: Xin cảm ơn câu trả lời của Ông!

Phụ lục 8:

PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA

Họ và tên chuyên gia: Phạm Thị Hồng Huệ.

Chức vụ: Trưởng phòng BHTN, Trung tâm DVVL TP. Hồ Chí Minh.

Ngày phỏng vấn: 03/6/2017

Địa điểm phỏng vấn: Phòng BHTN, Trung tâm DVVL TP. Hồ Chí Minh

Tác giả: Với số lượng người đến làm thủ tục BHTN hơn 60.000 lượt người mỗi

tháng, Trung tâm DVVL TP. Hồ Chí Minh có những khó khăn gì trong công tác

tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN cho NLĐ bị mất việc làm, thưa Bà?

Bà Phạm Thị Hồng Huệ: Là một trong những địa phương có số lượng người đến

làm thủ tục BHTN hàng tháng lớn nhất cả nước, công tác tiếp nhận, giải quyết

BHTN cho NLĐ bị mất việc làm gặp phải hai khó khăn sau:

Thứ nhất, về nhân sự: Do số lượng người đến liên hệ đông trong khi số

lượng CBCNV có hạn (chỉ có 84 lao động định biên), nên chỉ giải quyết được một

lượng hồ sơ có hạn trong ngày. Điều này làm kéo dài thời gian chờ đợi của người

làm thủ tục, một số trong số này phải mất 2-3 lần đến liên hệ mới được tiếp nhận.

Bên cạnh đó, khối lượng công việc nhiều gây áp lực lớn cho đội ngũ CBCNV. Để

giải quyết chế độ BHTN cho NLĐ theo đúng thời gian quy định, chúng tôi phải

thường xuyên bố trí nhân viên làm thêm giờ đồng thời thuê nhân viên của các

Trung tâm dạy nghề để bố trí cho các chi nhánh.

Thứ hai, về cơ sở vật chất: Hiện nay, các điểm tiếp nhận giải quyết chế độ

BHTN là các địa điểm thuê, diện tích nhỏ, không ổn định nên chưa đáp ứng được

nhu cầu công việc đồng thời cũng gây khó khăn trong việc bố trí thêm nhân sự và

phương tiện làm việc. Điều này cũng dẫn đến thực tế là các hoạt động tiếp nhận hồ

sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, giải quyết các thủ tục liên quan đến trợ cấp

thất nghiệp và tư vấn tìm việc làm, tư vấn hỗ trợ học nghề không thể thực hiện

trong một lần NLĐ đến liên hệ tại các chi nhánh.

Tác giả: Bà đánh giá như thế nào về sự cần thiết phải phân bổ định suất lao động

cho Phòng BHTN dựa trên khối lượng hồ sơ tiếp nhận?

Bà Phạm Thị Hồng Huệ: Tôi cho rằng việc phân bổ định suất lao động cho Phòng

BHTN dựa trên khối lượng hồ sơ tiếp nhận là hoàn toàn hợp lý. Nó sẽ giúp giảm

tải khối lượng công việc cho CBCNV ở những Trung tâm DVVL có số lượng

người đến làm thủ tục hưởng BHTN đông, từ đó, các Trung tâm DVVL sẽ có điều

kiện nâng cao chất lượng đối với công tác tiếp nhận, giải quyết chế độ BHTN cho

NLĐ bị mất việc làm.

Tác giả: Thưa bà, gần đây, một số địa phương trên cả nước xảy ra tình trạng trục

lợi BHTN như: NLĐ không trung thực trong khai báo đúng tình trạng việc làm,

NLĐ gần đến tuổi nghỉ hưu nhưng xin nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp… Ở

Thành phố Hồ Chí Minh có xảy ra tình trạng này không?

Bà Phạm Thị Hồng Huệ: Ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng có xảy ra một vài

trường hợp như vậy.

Tác giả: Vậy Phòng Bảo hiểm thất nghiệp đã làm gì để hạn chế tình trạng này?

Bà Phạm Thị Hồng Huệ: Chúng tôi đã triển khai thực hiện các giải pháp như sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh thực hiện tư vấn tập thể, tư vấn cá nhân tại các khâu: Tiếp

nhận hồ sơ, trả quyết định, thông báo việc làm; Rà soát, kiểm tra người lao động có

việc làm thông qua phần mềm kết nối dữ liệu với BHXH và phần mềm các doanh

nghiệp báo cáo tình hình biến động lao động trước khi tiếp nhận hồ sơ, trả quyết

định và thông báo về việc tìm kiếm việc làm. Thứ hai, phối hợp với Bảo hiểm xã

hội Thành phố kiểm tra điều kiện hưởng trước khi trình lãnh đạo Sở Lao động-

Thương binh và Xã hội ký Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp và trước khi chi

trả trợ cấp thất nghiệp từ tháng thứ hai trở đi. Thứ ba, phát tờ thông tin về những

nội dung người lao động cần lưu ý khi đến nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp và

khi trả quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp bấm tờ thông tin này vào sau tờ phụ

lục ngày thông báo hằng tháng về việc tìm kiếm việc làm. Thứ tư, đưa những nội

dung người lao động cần lưu ý trong quá trình hưởng trợ cấp thất nghiệp lên màn

hình LCD tại Trung tâm và các chi nhánh bảo hiểm thất nghiệp. Thứ năm, dán

thông tin những người lao động vi phạm điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp tại

Trung tâm và các chi nhánh bảo hiểm thất nghiệp. Thứ sáu, chuyển hồ sơ những

người lao động không đồng ý nộp lại tiền trợ cấp thất nghiệp đã nhận đến Thanh

tra Sở Lao động -Thương binh và Xã hội đề nghị xử phạt theo quy định. Thứ bảy,

đưa nội dung xử phạt vi phạm hành chính vào mẫu thông báo về việc tìm kiếm việc

làm hằng tháng.

Tác giả: Đối với một số người lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp sai quy định thì

làm thế nào để thu hồi lại tiền trợ cấp thất nghiệp mà người lao động đã nhận, thưa

Bà?

Bà Phạm Thị Hồng Huệ: Chúng tôi đã có các giải pháp đã thực hiện để thu hồi

tiền trợ cấp thất nghiệp sai quy định. Một là, phối hợp với cơ quan Bảo hiểm xã hội

TP. Hồ Chí Minh thu hồi khi người lao động đến làm thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã

hội hoặc giải quyết chế độ trợ cấp một lần tại cơ quan Bảo hiểm xã hội. Phối hợp

với cơ quan BHXH các quận, huyện trên địa bàn chi nhánh bảo hiểm thất nghiệp

trú đóng để xác định nơi người lao động đang làm việc và phối hợp thực hiện thu

hồi. Hai là, liên hệ trực tiếp đề nghị người lao động nộp lại tiền trợ cấp đã nhận sai

quy định bằng các hình thức: Gọi điện thoại, gửi công văn đến nhà người lao động,

cử nhân viên đến nhà người lao động và đến công ty nơi người lao động đang làm

việc nhờ họ hỗ trợ yêu cầu người lao động nộp tiền trợ cấp thất nghiệp. Ba là, đối

với những trường hợp không liên lạc được với người lao động do thay đổi số điện

thoại, nơi ở, hộ khẩu ngoài TP. Hồ Chí Minh thì gửi công văn cho các Trung tâm

Dịch vụ việc làm trong cùng hệ thống đề nghị hỗ trợ thu hồi. Chuyển danh sách

người lao động chưa nộp lại tiền bị thu hồi lên website của Trung tâm và dán danh

sách người lao động bị thu hồi trợ cấp thất nghiệp tại các chi nhánh bảo hiểm thất

nghiệp.

Tác giả: Xin cảm ơn câu trả lời của Bà.

Phụ lục 9:

PHIẾU KHẢO SÁT (Dành cho người lao động)

Để giúp cho công tác nghiên cứu đối với hoạt động quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), Ông/Bà vui lòng dành thời gian điền thông tin vào Phiếu khảo sát này bằng cách đánh dấu, ghi số, khoanh tròn hoặc ghi câu trả lời vào những chỗ chừa sẵn. Xin chân thành cảm ơn Ông/Bà.

Nam (1) Nữ (2)

PHẦN 1: THÔNG TIN CÁ NHÂN C.1 Giới tính: C.2 Độ tuổi (Tính đến năm 2016) Dưới 25 tuổi (1) Từ 25 đến 40 tuổi (2) Từ 41 đến 55 (3) Từ 56 đến 60 (4) Từ 61 trở lên (5)

Thành thị (1) Nông thôn (2)

C.3 Khu vực Ông/Bà hiện đang sinh sống C.4 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ hiện nay

Chưa qua đào tạo (1) Sơ cấp, sơ cấp nghề (2) Trung cấp, Trung cấp nghề (3) Cao đẳng, Cao đẳng nghề (4) Đại học (5) Thạc sĩ (6) Tiến sĩ (7)

Có (1) Không (2)

C.5 Hiện nay Ông/Bà có đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) không? Nếu câu trả lời là (1) vui lòng tiếp tục trả lời các câu hỏi ở PHẦN 2. Nếu câu trả lời là (2), vui lòng bỏ qua các câu hỏi ở PHẦN 2, chuyển đến các câu hỏi ở PHẦN 3.

PHẦN 2. DÀNH CHO NGƯỜI ĐANG THAM GIA BHTN C.6 Loại hợp đồng lao động (HĐLĐ), hợp đồng làm việc (HĐLV) hiện nay của Ông/Bà

HĐLĐ/HĐLV không xác định thời hạn (1) HĐLĐ/HĐLV xác định thời hạn (2) HĐLĐ thời vụ từ đủ 3 tháng trở lên (3)

C.7 Ông/Bà quan tâm đến chế độ BHTN nào nhất trong các chế độ BHTN hiện nay (đánh dấu x vào ô Ông/Bà chọn)

Trợ cấp thất nghiệp (1)

Tư vấn, GTVL (2)

Hỗ trợ đào tạo nghề (3)

Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề (4)

Bảo hiểm y tế (5)

C.8 Phạm vi đối tượng tham gia BHTN hiện nay gồm: Người có HĐLĐ hoặc HĐLV không xác định thời hạn, xác định thời hạn, theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Ông/Bà đánh giá như thế nào về phạm vi đối tượng BHTN hiện nay?

Phạm vi hiện nay là phù hợp, nên giữ nguyên (1)

Phạm vi hiện nay là hạn chế, nên mở rộng đối tượng tham gia (2)

Phạm vi hiện nay là rộng, nên thu hẹp đối tượng tham gia (3)

Nếu câu trả lời là (1), vui lòng bỏ qua câu C8.1 và C8.2, chuyển đến câu C9;

Nếu câu trả lời là (2), sau khi trả lời câu C8.1, xin bỏ qua câu C8.2 và tiếp tục câu C9; Nếu câu trả lời là (3), xin bỏ qua câu C8.1, chuyển đến câu C8.2.

C.8.1 Nếu phạm vi là hạn chế, theo Ông/Bà cần mở rộng BHTN đối với những đối tượng nào sau đây:

(5) Người lao động (NLĐ) làm công ăn lương có HĐLĐ dưới 3 tháng (1) NLĐ làm công ăn lương không có giao kết HĐLĐ (2) NLĐ tự tạo việc làm (3) NLĐ hành nghề tự do (4) NLĐ khu vực nông, lâm, thủy sản Khác (6) (xin ghi rõ):……………………………………..................

C.8.2 Nếu phạm vi là rộng, theo Ông/Bà cần thu hẹp BHTN đối với những đối tượng nào sau đây:

NLĐ ký HĐLĐ/HĐLV không xác định thời hạn (1)

NLĐ ký HĐLĐ/HĐLV xác định thời hạn (2)

NLĐ ký HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định

có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng (3)

C.9 Hiện nay, hình thức tham gia BHTN là bắt buộc. Ông/Bà đánh giá như thế nào về quy định hình thức tham gia BHTN này?

Hình thức hiện nay là phù hợp

và nên giữ nguyên hình thức thực hiện này (1)

Hình thức hiện nay là chưa phù hợp, nên có thêm

hình thức BHTN tự nguyện (2)

Hình thức hiện nay là chưa phù hợp, chỉ nên

thực hiện hình thức BHTN tự nguyện (3)

C.10 Từ khi có chính sách BHTN đến nay, Ông/Bà có đến làm thủ tục đề nghị hưởng BHTN tại các điểm tiếp nhận thuộc Trung tâm DVVL tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lần nào không?

Có (1)

Không (2)

Nếu câu trả lời là (1), vui lòng tiếp tục các câu hỏi tiếp theo. Nếu câu trả lời là (2) vui lòng bỏ qua các câu hỏi C.10.1 đến C.10.5, tiếp tục với câu hỏi C.11

C.10.1 Ông/Bà đánh giá như thế nào về chế độ trợ cấp BHTN

Đồng ý (1) Không đồng ý (2)

Quy trình hợp lý (1)

Thủ tục tinh gọn (2)

Thời gian chờ đợi phù hợp (3)

Mức hưởng là phù hợp (4)

Điều kiện hưởng là phù hợp (5)

C.10.2 Ông/Bà đánh giá như thế nào về chế độ hỗ trợ học nghề

Đồng Không ý đồng ý (1) (2)

Đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng (1)

Đa dạng trong lựa chọn các khóa học nghề (2)

Có sự hỗ trợ tốt cho NLĐ trong thời gian học nghề (3)

C.10.3 Ông/Bà đánh giá như thế nào về chế độ tư vấn, giới thiệu việc làm

Đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng (1) Đồng ý (1) Khôngđồng ý (2)

Có nhiều lựa chọn phù hợp với bản thân (2)

C.10.4 Trong quá trình làm thủ tục hưởng chế độ BHTN tại các điểm tiếp nhận, Ông/Bà có gặp vấn đề nào sau đây không?

- Nhân viên quá cứng nhắc trong xử lý công việc (1) - Nhân viên không trả lời thỏa đáng các thắc mắc (2) - Nhân viên có thái độ hách dịch, không cầu thị (3) - Bị kéo dài thời gian làm thủ tục do lỗi của nhân viên (4) - Bị từ chối tiếp nhận do lượng người đến liên hệ quá đông (5) - Khác (6) (xin nêu rõ) ........................................................ Có (1) Không(2)

C.10.5 Xin vui lòng cho biết mức độ hài lòng của Ông/Bà trong quá trình làm thủ tục tại điểm tiếp nhận/điểm ủy thác (đánh dấu x vào ô chọn):

Rất hài lòng (1)

Hài lòng (2)

Bình thường (3)

Không hài lòng (4)

Rất không hài lòng (5)

C.11 Theo Ông/Bà, hoạt động quản lý nhà nước về BHTN hiện nay có cần phải đổi mới, hoàn thiện hay không?

Không cần phái đổi mới, hoàn thiện (1) Cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện (2)

Nếu câu trả lời là (1), vui lòng kết thúc Phiếu khảo sát ở đây. Nếu câu trả lời là (2) vui lòng tiếp tục với các câu hỏi từ C.11.1 đến C.11.5

C.11.1 Để hoạt động quản lý nhà nước về BHTN được hoàn thiện hơn trong thời gian đến, theo Ông/Bà, những vấn đề nào sau đây về thể chế chính sách BHTN cần được xem xét, điều chỉnh

Đối tượng tham gia BHTN (1) Hình thức tham gia BHTN (2) Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp (3) Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp (4) Thời gian hỗ trợ học nghề (5) Mức hỗ trợ học nghề (6) Chế tài xử lý vi phạm (7) Không cần xem xét, điều chỉnh (8)

C.11.2 Để hoạt động quản lý nhà nước về BHTN được hoàn thiện hơn trong thời gian đến, theo Ông/Bà, những vấn đề nào sau đây về tổ chức bộ máy cần được xem xét, điều chỉnh

Phân công trách nhiệm giữa các cơ quan, bộ phận, phòng, ban (1)

Công tác phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận, phòng, ban (2)

Quy trình, thủ tục chi trả (3)

Cơ chế kiểm soát thông tin quản lý (4)

Tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền (5)

Tổ chức thực hiện công tác thông tin, báo cáo (6)

Tổ chức thực hiện công tác đào tạo nghề (7)

Tổ chức thực hiện công tác tư vấn, giới thiệu việc làm (8)

Tổ chức thực hiện công tác tiếp nhận (9)

Tổ chức thực hiện công tác hợp tác quốc tế (10)

Không cần xem xét, điều chỉnh (11)

C.11.3 Để hoạt động quản lý nhà nước về BHTN được hoàn thiện hơn trong thời gian đến, theo Ông/Bà, những vấn đề nào sau đây về đội ngũ nhân sự thực hiện chính sách BHTN cần được xem xét, điều chỉnh

Tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ (1)

Năng lực, trình độ thực hiện công việc (2)

Số lượng đội ngũ nhân sự tiếp nhận (3)

Không cần xem xét, điều chỉnh (4)

C.11.4 Để hoạt động quản lý nhà nước về BHTN được hoàn thiện hơn trong thời gian đến, theo Ông/Bà, những vấn đề nào sau đây về cơ sở vật chất, tài chính công thực hiện chính sách BHTN cần được xem xét, điều chỉnh

Ứng dụng công nghệ thông tin (1)

Số lượng điểm tiếp nhận/ủy thác (2)

Địa điểm bố trí các điểm tiếp nhận/ủy thác (3)

Bố trí, sắp xếp tại các điểm tiếp nhận (4)

Không cần xem xét, điều chỉnh (5)

C.11.5 Để hoạt động quản lý nhà nước về BHTN được hoàn thiện hơn trong thời gian đến, theo Ông/Bà, những vấn đề nào sau đây về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm liên quan đến chính sách BHTN cần được xem xét, điều chỉnh

Số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra (1)

Mức độ thường xuyên trong thanh tra, kiểm tra (2)

Các cơ quan tham gia trong thanh tra, kiểm tra (3)

Xử lý sau thanh tra, kiểm tra (4)

Không cần xem xét, điều chỉnh (5)

PHẦN 3. DÀNH CHO NGƯỜI HIỆN KHÔNG THAM GIA BHTN

C. 12 Vui lòng cho biết công việc hiện nay của Ông/Bà

Nội trợ (1)

Sinh viên/đang đi học tập, học nghề (2)

Người giúp việc gia đình (3)

Lao động khu vực nông lâm thủy sản (4)

Lao động hành nghề tự do (5)

Tự tạo việc làm, tự sản xuất, kinh doanh (6)

Lao động làm công ăn lương nhưng không ký HĐLĐ (7)

Lao động làm công ăn lương có HĐLĐ dưới 3 tháng (8)

Nghỉ hưu (9)

Mất sức lao động (10)

Thất nghiệp, không có việc làm, đang tìm kiếm việc làm (11)

Không có việc làm, không có nhu cầu về việc làm (12)

C.13 Ông/Bà biết đến chính sách BHTN từ nguồn thông tin nào?

- Các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, truyền hình, internet) (1)

- Người thân, bạn bè (2)

- Các phương tiện cổ động trực quan (panô, áp phích, băng rôn, tờ rơi...) (3)

- Nguồn khác (4) (xin ghi rõ).............................................................................

C.14 Mức độ quan tâm của Ông/Bà đến chính sách BHTN

Rất quan tâm (1) Quan tâm (2) Bình thường (3) Không quan tâm (4) Rất không quan tâm (5)

C15. Ông/Bà đã từng tham gia BHTN trước đây chưa?

Đã từng tham gia (1)

Chưa từng tham gia (2)

C16 Ông/Bà có mong muốn được tham gia/tiếp tục tham gia BHTN không?

Có (1) Không (2)

C.17 Phạm vi đối tượng tham gia BHTN hiện nay gồm: Người có HĐLĐ hoặc HĐLV không xác định thời hạn, xác định thời hạn, theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Ông/Bà đánh giá như thế nào về phạm vi đối tượng BHTN hiện nay?

Phạm vi hiện nay là phù hợp, nên giữ nguyên (1)

Phạm vi hiện nay là hạn chế, nên mở rộng đối tượng tham gia (2)

Phạm vi hiện nay là rộng, nên thu hẹp đối tượng tham gia (3)

Nếu câu trả lời là (1), vui lòng bỏ qua câu C17.1 và C17.2, chuyển đến câu C18; Nếu câu trả lời là (2), sau khi trả lời câu C17.1, xin bỏ qua câu C17.2 và tiếp tục câu C18; Nếu câu trả lời là (3), xin bỏ qua câu C17.1, chuyển đến câu C17.2.

C.17.1 Nếu phạm vi là hạn chế, theo Ông/Bà cần mở rộng BHTN đối với những đối tượng nào sau đây:

Người lao động (NLĐ) làm công ăn lương có HĐLĐ dưới 3 tháng (1) NLĐ làm công ăn lương không có giao kết HĐLĐ (2) NLĐ tự tạo việc làm, tự sản xuất kinh doanh (3) NLĐ hành nghề tự do (4) NLĐ khu vực nông, lâm, thủy sản (5) Khác (6) (xin ghi rõ):……………………………………..............

C.17.2 Nếu phạm vi là rộng, theo Ông/Bà cần thu hẹp BHTN đối với những đối tượng nào sau đây:

NLĐ ký HĐLĐ/HĐLV không xác định thời hạn (1)

NLĐ ký HĐLĐ/HĐLV xác định thời hạn (2)

NLĐ ký HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc

nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng (3

C18. Nếu không thuộc diện tham gia BHTN bắt buộc, Ông/Bà có mong muốn được tham gia BHTN tự nguyện không?

Có (1)

Không (2)

------------------------------------------------HẾT-----------------------------------------------

Trân trọng cảm ơn Ông/Bà đã giúp chúng tôi hoàn thành Phiếu khảo sát. Kính chúc Ông/Bà luôn sức khỏe, hạnh phúc và thành công!

Thông tin tác giả Trương Thị Thu Hiền, Điện thoại: 0935 635 005 E-mail: hienttt@upes.edu.vn

Phụ lục 10: PHÂN TÍCH SƠ BỘ KẾT QUẢ KHẢO SÁT NGƯỜI LAO ĐỘNG

Trực tuyến Từ ngày 20/9/2016 đến ngày 20/3/2017

2

)

1/(

53.984.200

53.984.200

x0,05

/(1

)

Hình thức khảo sát: Thời gian: Phương pháp chọn mẫu: Ngẫu nhiên phi xác suất. Kích thước mẫu: Được tính toán theo công thức Slovin:

Nn 400  (Trong đó: N: lực lượng lao động tại thời điểm khảo sát, : sai số cho phép (5%))

2 N .

Link Phiếu khảo sát online tại địa chỉ:

https://docs.google.com/a/due.edu.vn/forms/d/e/1FAIpQLScW9wX_O_1SzBd2jM Z8Kedq4PArduh7LjqB2i7FFviNeKi3Ag/viewform?c=0&w=1 Kết quả khảo sát tổng hợp online tại địa chỉ:

https://docs.google.com/spreadsheets/d/1H-3ovsuBaRg5w0_wudNp2ENKLFgS- WAbVM69RMZywlw/edit#gid=36559004 Phân tích sơ bộ kết quả tổng hợp online tại địa chỉ:

https://docs.google.com/a/upes.edu.vn/forms/d/1ykYGCelbeYMP5XqzJ9z9dnGi4d 0i0YVBYKfOJ5Wo8Zk/edit#responses

Phụ lục 11:

DỮ LIỆU PHÂN TÍCH KẾT QUẢ KHẢO SÁT BẰNG PHẦN MỀM SPSS

1. Phân tích đặc điểm của 400 người lao động được khảo sát

chia theo tình trạng tham gia bảo hiểm thất nghiệp giới tính và trình độ

Trình độ hiện nay

Trung

Cao

Chua

So cap,

cap,

dang,

qua dao

so cap

trung cap

cao dang

Hiện có đang tham gia BHTN không?

tao

nghe

nghe

nghe

Dai hoc Thac si

Tien si

Total

CO

Giới tính Nam

Count

4

4

5

4

65

19

4

105

% within

3.8%

3.8%

4.8%

3.8%

61.9%

18.1%

3.8% 100.0%

Giới tính

Nu

Count

14

9

8

9

48

24

0

112

% within

12.5%

8.0%

7.1%

8.0%

42.9%

21.4%

.0% 100.0%

Giới tính

Total

Count

18

13

13

13

113

43

4

217

% within

8.3%

6.0%

6.0%

6.0%

52.1%

19.8%

1.8% 100.0%

Giới tính

KHONG

Giới tính Nam

Count

38

6

3

2

14

64

1

% within

59.4%

9.4%

4.7%

3.1%

21.9%

1.6%

100.0%

Giới tính

Nu

Count

59

3

20

10

23

119

4

% within

49.6%

2.5%

16.8%

8.4%

19.3%

3.4%

100.0%

Giới tính

Total

Count

97

9

23

12

37

183

5

% within

53.0%

4.9%

12.6%

6.6%

20.2%

2.7%

100.0%

Giới tính

Crosstabs

(Nguồn: Phân tích kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS)

2. Kết quả khảo sát về chế độ bảo hiểm thất nghiệp được quan tâm nhất

Statistics

Quan tâm đến chế độ BHTN nào nhất

N

Valid

217

Missing

183

Quan tâm đến chế độ BHTN nào nhất

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Tro cap that nghiep

46.2

85.3

185

85.3

Tu van, gioi thieu viec lam

12

3.0

90.8

5.5

Ho tro dao tao nghe

9

2.2

94.9

4.1

Ho tro dao tao, boi duong, nang cao

2

.5

95.9

.9

trinh do, ky nang nghe

Bao hiem y te

9

2.2

100.0

Total

217

4.1 100.0

Missing System

183

Total

400

54.2 45.8 100.0

(Nguồn: Phân tích kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS)

3. Kết quả khảo sát ý kiến 400 người lao động về phạm vi bảo hiểm thất nghiệp hiện nay

Frequencies

Ý kiến của người đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Pham vi hien nay la phu hop,

64

16.0%

29.5%

29.5%

nen giu nguyen

Pham vi hien nay la han che,

151

nen mo rong doi tuong tham

37.8%

69.6%

99.1%

gia

Pham vi hien nay la rong,

nen thu hep doi tuong tham

2

.5%

.9%

100.0%

gia

Total

217

100.0%

Missing

System

183

Total

400

54.2% 45.8% 100.0%

Ý kiến của người hiện không tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

Pham vi hien nay la phu hop,

31

7.8%

16.9%

16.9%

nen giu nguyen

Pham vi hien nay la han che,

152

nen mo rong doi tuong tham

38.0%

83.1%

100.0%

gia

Pham vi hien nay la rong,

nen thu hep doi tuong tham

0%

0%

100.0%

0

gia

Total

183

100.0%

217

Missing

System

400

45.8% 54.2% 100.0%

Total

(Nguồn: Phân tích kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS)

4. Kết quả khảo sát ý kiến người lao động cho rằng phạm vi bảo hiểm thất nghiệp là hạn chế về đối tượng cần được mở rộng

Multiple Response

Case Summary

Cases

Missing

Valid

Total

N

Percent

N

Percent

N

Percent

$MRa

303 75.8%

97

24.2%

400 100.0%

$MR Frequencies

Percent

N

Percent

of all respones

Responses

of Cases

Doi tuong can

NLD lam cong an luong co

255

84.2%

63.8%

duoc mo rong

HDLD duoi 3 thang

NLD lam cong an luong

257

84.8%

64,3%

khong co giao ket HDLD

NLD tu tao viec lam, tu san

254

83.8%

63,5%

xuat kinh doanh

NLD hanh nghe tu do

240

79.2%

60,0%

NLD khu vuc nong, lam, thuy

250

82.5%

62,5%

san

Total (valid)

303

100%

Total (responses)

400

100%

(Nguồn: Phân tích kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS)

5. Kết quả khảo sát nhu cầu tham gia bảo hiểm thất nghiệp tự nguyện của người lao động hiện không tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Crosstabs

Case Processing Summary

Cases

Missing

Valid

Total

N

Percent

N

Percent

N

Percent

NLĐ hiện không tham gia BHTN có mong muốn tham

183

45.8%

217

54.2%

400

100.0%

gia BHTN tự nguyện không?

Crosstabulation

Giới tính

NLĐ hiện không tham gia BHTN có mong muốn tham gia BHTN tự nguyện không?

Nam

Nu

Total

Co

Công việc

Noi tro

0

4

4

hiện nay

Sinh vien/dang di hoc tap, hoc nghe

22

23

45

Nguoi giup viec gia dinh

0

3

3

Lao dong khu vuc nong, lam, thuy san

9

11

20

Lao dong hanh nghe tu do

6

4

10

Tu tao viec lam, tu san xuat kinh doanh

9

23

32

Lao dong lam cong an luong nhung khong ky HDLD

5

13

18

Lao dong lam cong an luong co HDLD duoi 3 thang

3

1

4

Nghi huu

1

0

1

That nghiep, khong co viec lam, dang tim kiem viec lam

5

9

14

Total

60

91

151

Khong

Công việc

Noi tro

0

7

7

hiện nay

Sinh vien/dang di hoc tap, hoc nghe

0

1

1

Nguoi giup viec gia dinh

0

2

2

Lao dong khu vuc nong, lam, thuy san

0

1

1

Lao dong hanh nghe tu do

0

1

1

Tu tao viec lam, tu san xuat kinh doanh

1

7

8

Nghi huu

2

4

6

Mat suc lao dong

1

1

2

That nghiep, khong co viec lam, dang tim kiem viec lam

0

1

1

That nghiep, khong co viec lam, khong co nhu cau ve viec lam

0

3

3

28

32

4

Total

(Nguồn: Phân tích kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS)

Phụ lục 12: DỰ BÁO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2018-2030

Yt Năm (n) Yt

263

.

.

300

a

940

.

487

;

yt 2

t

336 280

y

745

.

.

100

b

49.670.207

    n

053 15

Hàm xu thế có dạng: Y= 940.487t + 49.670.207

Điều kiện: Đặtt =0 t 41.846.700 2003 -7 43.008.900 -6 2004 44.904.500 -5 2005 46.238.700 2006 -4 47.160.300 -3 2007 48.209.600 -2 2008 49.322.000 2009 -1 50.392.900 2010 0 51.398.400 2011 1 52.348.000 2012 2 53.245.600 2013 3 53.748.000 2014 4 53.984.200 2015 5 54.445.300 2016 6 54.800.000 2017 7 0 N=15 745.053.100 t2 49 -292.926.900 36 -258.053.400 25 -224.522.500 16 -184.954.800 9 -141.480.900 -96.419.200 4 -49.322.000 1 0 0 51.398.400 1 4 104.696.000 9 159.736.800 16 214.992.000 25 269.921.000 36 326.671.800 49 383.600.000 280 263.336.300

Dự báo Lực lượng lao động giai đoạn 2018- 2030 là:

 Y 57.194.101 58.134.588 59.075.075 60.015.561 60.956.048 61.896.535 62.837.022 63.777.508 64.717.995 65.658.482 66.598.969 67.539.456 68.479.942

Năm 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 2026 2027 2028 2029 2030

t 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

Phụ lục 13: DỰ BÁO SỐ NGƯỜI THẤT NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2018-2030

Yt Năm (n) Yt

509

.5

326

a

.19

023

;

yt 2

t

. 280

y

.

128

.17

b

.1

149

.

809

    n

247 15

Hàm xu thế có dạng: Y= 19.023t + 1.149.809

941.551 2003 920.390 2004 960.956 2005 1.012.628 2006 1.188.440 2007 1.147.388 2008 1.430.338 2009 1.451.316 2010 1.141.044 2011 1.026.021 2012 1.160.754 2013 1.128.708 2014 1.257.832 2015 1.252.242 2016 1.227.520 2017 N=15 17.247.128 Điều kiện: Đặtt =0 T -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 0 1 2 3 4 5 6 7 0 -6.590.857 -5.522.340 -4.804.780 -4.050.512 -3.565.320 -2.294.776 -1.430.338 0 1.141.044 2.052.042 3.482.262 4.514.832 6.289.160 7.513.452 8.592.640 5.326.509 t2 49 36 25 16 9 4 1 0 1 4 9 16 25 36 49 280

Dự báo Số người thất nghiệp Việt Nam giai đoạn 2018- 2030 là:

 Y 1.301.995 1.321.018 1.340.041 1.359.064 1.378.087 1.397.111 1.416.134 1.435.157 1.454.180 1.473.204 1.492.227 1.511.250 1.530.273

Năm 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 2026 2027 2028 2029 2030 T 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

Yt Phụ lục 14: DỰ BÁO SỐ NGƯỜI THAM GIA BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2018-2030 Điều kiện: Đặtt =0 Năm (n)

.41

.

605

a

932

.

627

;

yt 2

t

035 44

y

.80

.

111

b

8.961.235

5.993.300 2009 7.206.163 2010 7.968.231 2011 8.269.552 2012 8.676.081 2013 9.213.302 2014 2015 10.308.180 2016 11.061.562 2017 11.954.740 80.651.111 N=9 t -4 -3 -2 -1 0 1 2 3 4 0 t2 16 9 4 1 0 1 4 9 16 44 Yt -23.973.200 -21.618.489 -15.936.462 -8.269.552 0 9.213.302 20.616.360 33.184.686 47.818.960 41.035.605

    n

651 9

Hàm xu thế có dạng: Y= 932.627t + 8.961.235

 Y 13.624.371 14.556.999 15.489.626 16.422.254 17.354.881 18.287.508 19.220.136 20.152.763 21.085.391 22.018.018 22.950.645 23.883.273 24.815.900

Dự báo Số người tham gia BHTN giai đoạn 2018- 2030 là:

Năm 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 2026 2027 2028 2029 2030 t 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17

Yt Phụ lục 15: DỰ BÁO SỐ NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2018-2030 Điều kiện: Đặtt =0 Năm (n) yt

330

.5

466

a

.32

538

;

yt 2

t

. 168

y

.

038

.3

b

452

.

630

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 N=8 156.765 289.181 421.048 454.839 514.853 526.309 586.254 671.789 3.621.038 t -7 -5 -3 -1 1 3 5 7 0 t2 49 25 9 1 1 9 25 49 168 -1.097.355 -1.445.905 -1.263.144 -454.839 514.853 1.578.927 2.931.270 4.702.523 5.466.330

    n

621 8

Hàm xu thế có dạng: Y= 32.538t + 452.630

 Y

Dự báo Số người hưởng BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2018- 2030 là:

745.469 810.544 875.620 940.695 1.005.770 1.070.846 1.135.921 1.200.996 1.266.072 1.331.147 1.396.222 1.461.298 1.526.373 Năm 2018 2019 2020 2021 2022 2023 2024 2025 2026 2027 2028 2029 2030 t 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33

Phụ lục 16: ĐỀ XUẤT HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

NHÓM 1: Nhóm chỉ tiêu về dân số, lao động, gồm:

- Tổng dân số: được hiểu là tổng số người sinh sống trong một lãnh thổ nhất

định, trong một thời gian nhất định.

- Cơ cấu dân số: là sự phân chia các dân số thành các nhóm theo các tiêu chí

khác nhau: tuổi, giới tính, khu vực, gồm các tiêu chí cơ bản:

+ Cơ cấu dân số theo độ tuổi: là việc phân chia tổng dân số của một lãnh thổ

thành những nhóm dân số có tuổi hoặc khoảng tuổi khác nhau tại một thời điểm nào

đó: dân số trong độ tuổi lao động, dân số ngoài độ tuổi lao động; dân số 15 tuổi trở

lên, ...

+ Cơ cấu dân số theo giới tính: là việc phân chia tổng dân số theo giới tính:

dân số nam và dân số nữ.

+ Cơ cấu dân số theo khu vực: là việc chia tổng dân số của một lãnh thổ

thành dân số cư trú ở thành thị và dân số cư trú ở nông thôn.

- Nguồn lao động (nguồn nhân lực): là tổng dân số trong độ tuổi lao động, có

khả năng lao động. "Tuổi lao động" theo quy định hiện hành của Việt Nam là từ 15

đến hết 59 tuổi đối với nam và từ 15 đến hết 54 tuổi đối với nữ. Số còn lại là "ngoài

tuổi lao động".

- LLLĐ (còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) bao gồm những người trong độ

tuổi lao động có việc làm và những người thất nghiệp trong thời gian 7 ngày trước

thời điểm điều tra.

- Tỷ lệ tham gia LLLĐ thô: là chỉ tiêu tương đối, biểu hiện bằng số phần trăm

những người hoạt động kinh tế (LLLĐ) chiếm trong tổng dân số, tỷ lệ này bị ảnh

(Số người làm việc + thất nghiệp) trong 7 ngày qua

=

x

100

Tổng dân số

hưởng mạnh bởi cấu trúc tuổi của dân số.

Tỷ lệ tham gia LLLĐ thô (%)

- Tỷ lệ tham gia LLLĐ chung: là những người trong độ tuổi lao động có khả

Dân số 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế (LLLĐ)

x

100

=

Tỷ lệ tham gia LLLĐ chung (%)

Dân số 15 tuổi trở lên

năng lao động so với dân số 15 tuổi trở lên.

- Tỷ lệ tham gia LLLĐ trong độ tuổi lao động: là tỷ lệ phần trăm những

người trong độ tuổi lao động tham gia lao động chiếm trong tổng dân số trong độ

Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động

100

=

x

tuổi lao động.

Dân số trong tuổi lao động

Tỷ lệ tham gia LLLĐ trong độ tuổi lao động (%)

- Số người có việc làm: bao gồm những người trong độ tuổi lao động có việc

làm trong thời gian 7 ngày trước thời điểm điều tra (được trả lương, trả công bằng

tiền hoặc hiện vật, tự làm hoặc làm chủ hoặc người có cơ sở sản xuất kinh doanh

nhưng đang nghỉ việc tạm thời có lý do).

- Số người đang làm việc: gồm những người có việc làm đang làm việc

trong tuần trước thời điểm quan sát; nghỉ việc nhưng vẫn đang hưởng tiền lương,

tiền công, bảo hiểm hoặc trước đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ không hưởng

lương, không được nhận tiền công vì các lý do khác nhau nhưng chắc chắn sẽ quay

trở lại làm việc trong một khoảng thời gian tối đa là 1 tháng.

- Tỷ lệ có việc làm trên LLLĐ: là tỷ lệ phần trăm số người có việc làm trong

Số người có việc làm

x

100

=

Tỷ lệ có việc làm trên LLLĐ (%)

LLLĐ

LLLĐ.

- Tỷ lệ người làm việc trên dân số trong độ tuổi lao động: là tỷ lệ phần trăm

Số người có việc làm

100

x

=

Tổng dân số trong độ tuổi lao động

số người có việc làm trong tổng dân số trong độ tuổi lao động.

Tỷ lệ có việc làm trên dân số trong độ tuổi lao động (%)

- Tỷ lệ lao động đang làm việc trên tổng dân số: là tỷ lệ phần trăm tổng số

Số người đang làm việc

=

x

100

Tổng dân số

Tỷ lệ lao động đang làm việc trên tổng dân số (%)

người đang làm việc chiếm trong tổng dân số.

- Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo: là tỷ lệ số lao

động đang làm việc đã được đào tạo ở một trường hay một sơ sở đào tạo chuyên

môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và đã tốt nghiệp, đã được cấp bằng, chứng chỉ, chứng

nhận đã đạt trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhất định từ sơ cấp nghề trở

Số người đang làm việc đã qua đào tạo

x

100

=

Số người đang làm việc

Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nên kinh tế đã qua đào tạo (%)

lên chiếm trong tổng số lao động đang làm việc tại một thời điểm nhất định.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề: là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề trong

tổng LLLĐ tại một thời điểm nhất định. Lao động đã qua đào tạo nghề bao gồm lao

động đã qua đào tạo ở một trường hay một sơ sở đào tạo chuyên môn, kỹ thuật,

nghiệp vụ và đã tốt nghiệp, đã được cấp bằng, chứng chỉ, chứng nhận đã đạt trình

độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhất định từ sơ cấp nghề trở lên và lao động

chưa qua một trường lớp đào tạo nào nhưng do tự học, do được truyền nghề hoặc

vừa làm vừa học nên họ đã có được kỹ năng, tay nghề tương đương với bậc 1 của

công nhân kỹ thuật có bằng cùng nghề và thực tế đã làm công việc này từ 3 năm trở

Số lao động đã qua đào tạo nghề

lên (gọi là “Công nhân kỹ thuật không bằng").

x

100

=

LLLĐ

Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề (%)

- Số người thất nghiệp: là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao

động, trong tuần lễ điều tra không làm việc (tính đến thời điểm điều tra có đi tìm

việc trong 4 tuần lễ qua hoặc không đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua vì lý do chờ việc,

nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở đâu, hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số

giờ làm việc dưới 8 giờ/ tuần, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc) nhưng

mong muốn có việc làm, đang tích cực tìm kiếm việc làm có thu nhập và sẵn sàng

làm việc.

Số người thất nghiệp

x

100

=

Tỷ lệ thất nghiệp (%)

LLLĐ

- Tỷ lệ thất nghiệp: là tỷ lệ phần trăm số người thất nghiệp trong LLLĐ.

- Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị: Do đặc trưng của nền kinh tế, tỷ lệ thất

Số người thất nghiệp khu vực thành thị

100

=

x

LLLĐ khu vực thành thị

nghiệp của Việt Nam thường được tính cho khu vực thành thị.

Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị (%)

- Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên: là tỷ lệ phần trăm của số người thất nghiệp

Số người thất nghiệp 15-24 tuổi

=

x

100

từ 15 đến 24 tuổi trong LLLĐ.

LLLĐ

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (%)

- Số người thiếu việc làm: là những người trong độ tuổi lao động, có khả

năng lao động, trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ,

mong muốn làm việc thêm giờ, sẵn sàng làm việc thêm giờ.

- Tỷ lệ thiếu việc làm so với LLLĐ: là tỷ lệ phần trăm thiếu việc làm so với

Số người thiếu việc làm

=

x

100

Tỷ lệ thiếu việc làm so với LLLĐ (%)

LLLĐ

LLLĐ

- Tỷ lệ thiếu việc làm so với số người đang làm việc: là tỷ lệ phần trăm thiếu

Số người thiếu việc làm

=

x

100

Tỷ lệ thiếu việc làm so với số người đang làm việc (%)

Số người đang làm việc

- Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn: Do đặc trưng của nền kinh tế, tỷ lệ thiếu

việc làm so với số người đang làm việc.

Số người thiếu việc làm khu vực nông thôn

=

x

100

việc làm của Việt Nam thường được tính cho khu vực nông thôn.

LLLĐ khu vực nông thôn

Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn (%)

NHÓM 2: Nhóm chỉ tiêu về tình hình tham gia, giải quyết BHTN, gồm:

- Tổng số NSDLĐ, trong đó chia ra: Khu vực Doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở

sản xuất kinh doanh cá thể (chia theo loại hình doanh nghiệp) và Khu vực hành

chính sự nghiệp.

- Tổng số người làm việc cho NSDLĐ, trong đó chia ra: Khu vực Doanh

nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể (chia theo loại hình doanh

nghiệp) và Khu vực hành chính sự nghiệp.

- Tổng số người tham gia BHXH bắt buộc

- Tổng số người có nhu cầu tham gia BHTN

- Tổng số người thuộc diện tham gia BHTN theo quy định

- Tổng số người tham gia BHTN thực tế

- Số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng TCTN

- Số người có quyết định hưởng TCTN

- Số tiền chi trả TCTN

- Số người được tư vấn, GTVL

- Số người được hỗ trợ học nghề.

- Số người đang hưởng TCTN được hỗ trợ học nghề.

- Số người đang hưởng BHTN có việc làm mới.

- Số tiền chi trả hỗ trợ học nghề.

- Số tiền chi trả hỗ trợ học nghề đối với người đang hưởng TCTN.

- Số NSDLĐ được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề

để duy trì việc làm cho NLĐ.

- Số tiền chi trả hỗ trợ NSDLĐ để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ

năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ.

- Độ bao phủ BHTN: là mức độ mà chính sách BHTN được cung cấp đến đối

tượng hưởng lợi.

+ So với tổng số lao động làm công ăn lương cho NSDLĐ: là tỷ lệ phần

trăm số người được thụ hưởng chính sách BHTN (số người tham gia BHTN thực tế)

so với tổng số người làm công ăn lương trong các loại hình doanh nghiệp và đơn vị

hành chính sự nghiệp.

Số người được thụ hưởng chính sách BHTN

=

x

100

Tổng số lao động làm công ăn lương

Độ bao phủ BHTN so với số người làm công ăn lương (%)

+ So với LLLĐ: là tỷ lệ phần trăm số người được thụ hưởng chính sách

Số người được thụ hưởng chính sách BHTN

=

x

100

Độ bao phủ BHTN so với LLLĐ (%)

LLLĐ

BHTN (số người tham gia BHTN thực tế) so với LLLĐ.

+ So với tổng dân số: là tỷ lệ phần trăm số người được thụ hưởng chính sách

Số người được thụ hưởng chính sách BHTN

=

x

100

Độ bao phủ BHTN so với tổng dân số (%)

Tổng dân số

BHTN (số người tham gia BHTN thực tế) so với tổng dân số.

+ So với số lao động mất việc làm: là tỷ lệ phần trăm số người được giải

Số người được giải quyết chính sách BHTN

=

x

100

Độ bao phủ BHTN so với số người bị mất việc làm (%)

Tổng số người bị mất việc làm

quyết chính sách BHTN thực tế so với tổng số người mất việc làm thực tế

+ So với số người thất nghiệp: là tỷ lệ phần trăm số người được giải quyết

Số người được giải quyết chính sách BHTN

=

x

100

Số người thất nghiệp

chính sách BHTN thực tế so với tổng số người thất nghiệp thực tế.

Độ bao phủ BHTN so với số người thất nghiệp (%)

- Độ bao phủ tiềm năng của chính sách BHTN: tỷ lệ phần trăm của tổng số

Tổng số người thuộc diện điều chỉnh của BHTN

=

x

100

Tổng dân số

Độ bao phủ tiềm năng của chính sách BHTN (%)

người thuộc diện điều chỉnh của BHTN so với tổng dân số.

- Độ bao phủ theo luật định của chính sách BHTN: tỷ lệ phần trăm của tổng

số người thuộc diện điều chỉnh của chính sách BHTN so với tổng số người có nhu

Tổng số người thuộc diện điều chỉnh của BHTN

=

x

100

Tổng người có nhu cầu tham gia BHTN

cầu tham gia BHTN.

Độ bao phủ theo luật định của chính sách BHTN (%)

- Độ bao phủ thực tế của chính sách BHTN: tổng số người tham gia BHTN

Tổng số người tham gia BHTN thực tế

x

100

thực tế so với tổng số người thuộc diện điều chỉnh của chính sách BHTN.

= Tổng số người thuộc diện điều chỉnh của BHTN

Độ bao phủ thực tế của chính sách BHTN (%)

NHÓM 3: Nhóm chỉ tiêu về thu, chi, cân đối quỹ BHTN, gồm:

- Tổng thu BHTN hàng năm, chia ra:

+ Thu từ đóng góp của NLĐ

+ Thu từ đóng góp của NSDLĐ

+ Hỗ trợ từ NSNN

+ Thu từ hoạt động đầu tư quỹ

+ Thu từ các nguồn khác

- Tổng chi BHTN hàng năm, chia ra:

+ Chi trả TCTN;

+ Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc

làm cho NLĐ;

+ Hỗ trợ học nghề;

+ Hỗ trợ tư vấn, GTVL;

+ Đóng BHYT cho người hưởng TCTN;

+ Chi trả chi phí quản lý BHTN

+ Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ.

- Cân đối thu- chi quỹ BHTN hàng năm.

- Kết dư quỹ BHTN hàng năm.