VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ______________
HÀ XUÂN HƢƠNG
SO SÁNH DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI Ở VIỆT NAM Ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN
Mã số: 9 22 01 25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
và người Thái ở Việt Nam là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, kết luận khoa học trong đề tài là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố
trong các công trình khác. Nội dung đề tài có tham khảo và sử dụng các thông
tin đƣợc đăng tải trên các sách, tạp chí theo danh mục tài liệu tham khảo của đề
tài. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
HÀ XUÂN HƢƠNG
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới GS. TS Nguyễn Xuân Kính –
ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Học viên Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện để
tôi hoàn thành khóa học và luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tƣ
liệu và kinh nghiệm quý liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN CỦA LUẬN ÁN ............................................................................................... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................. 11
1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển............................................................................ 25
1.3. Cơ sở lí luận ............................................................................................................ 29
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, THÁI Ở VIỆT NAM VÀ DÂN
CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA HỌ .................................................................... 45
2.1. Khái quát về ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam ............................................... 45
2.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt của ngƣời Tày và ngƣời Thái – nhận diện và phân loại ........... 65
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH
SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI .............................................. 73
3.1. Sự tƣơng đồng trong việc phản ánh đời sống hiện thực ở nông thôn miền núi
và tình cảm con ngƣời ................................................................................................... 73
3.2. Sự tƣơng đồng về cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình .................... 85
3.3. Sự tƣơng đồng trong việc sử dụng biểu tƣợng hoa ................................................ 93
3.4. Sự tƣơng đồng về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc
vào diễn xƣớng .............................................................................................................. 97
3.5. Iếu và cắm nôm – sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái .............. 103
CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH
HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI ...................................................... 109
4.1. Sự khác biệt về nhân vật trữ tình .......................................................................... 109
4.2. Sự khác biệt về thi pháp lời thơ nghệ thuật .......................................................... 117
4.3. Sự khác biệt về đặc điểm diễn xƣớng ................................................................... 138
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ........................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 152
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nghĩa của chữ viết tắt
DCTTSH Dân ca trữ tình sinh hoạt 1
2 DTTS Dân tộc thiểu số
3 Nxb Nhà xuất bản
4 PL Phụ lục
5 tr Trang
6 VHDG Văn học dân gian
7 VHSS Văn học so sánh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tài liệu khảo sát .................................................................................................5
Bảng 2: Thông tin điền dã ...............................................................................................7
Bảng 2.1: Phân loại dân ca của ngƣời Tày và ngƣời Thái ............................................70
Bảng 3.1. Sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến ..........................................90
Bảng 4.1: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và các hình ảnh,
biểu tƣợng nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Tày, Thái......................... 121
Bảng 4.2: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các hình ảnh, biểu tƣợng
có nguồn gốc nhân tạo trong DCTTSH Tày, Thái .......................................... 125
Bảng 4.3: Khảo sát việc sử dụng điển tích trong DCTTSH Tày, Thái ...................... 131
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập nên dân tộc.
Nó có quan hệ mật thiết với tinh thần, tâm hồn của cả chủng tộc, giúp tạo nên dấu ấn
riêng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn học, với tƣ cách là một thành tố của
văn hóa, cũng giữ vai trò ấy. Trong văn học, văn học dân gian (VHDG) giữ vị trí đáng
kể và có nhiều ƣu thế trong việc phản ánh tƣ duy, tình cảm của dân tộc. Nghiên cứu
VHDG là cần thiết và quan trọng đối với việc góp phần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là đối với việc xây dựng khối thịnh vƣợng chung của cộng
đồng quốc gia dân tộc trong bối cảnh giao lƣu thời toàn cầu hóa hiện nay.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Bức tranh văn hóa Việt Nam đa diện, đa sắc
màu, đƣợc tạo nên bởi quá trình tích hợp các giá trị văn hóa tộc ngƣời vào văn hóa Việt
Nam – một phức thể văn hóa đa dạng mà thống nhất. Qua VHDG, chúng ta có thể nhận
diện đƣợc sự hòa hợp trong đa dạng của mối quan hệ văn hóa giữa các tộc ngƣời. Vì thế,
con đƣờng nghiên cứu so sánh VHDG của các tộc ngƣời sẽ đem tới nhiều khả năng cho
việc phát hiện ra những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính đặc trƣng tộc ngƣời cũng
nhƣ những nét chung, mang tính phổ biến.
1.2. Tày và Thái là hai dân tộc có số dân đông thứ hai và thứ ba trong 54 dân tộc
Việt Nam, sinh sống rải rác trong cả nƣớc song tập trung nhiều nhất ở khu vực miền núi
phía Bắc. Ngƣời Tày giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc, ngƣời Thái giữ vai trò
chủ thể văn hóa vùng Tây Bắc. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, hai dân tộc giữ vị
trí quan trọng trong tổng thể văn hóa dân gian Việt Nam. Trong đó, phải kể đến vai trò
của kho tàng VHDG thấm đẫm hồn cốt dân tộc.
1.3. Trong kho tàng VHDG của ngƣời Tày và ngƣời Thái, truyện cổ và dân ca là
hai bộ phận phong phú và tiêu biểu nhất. Dân ca Tày, Thái – với tƣ cách là những bộ
phận của văn hóa và VHDG, đã thể hiện khá sinh động và rõ nét đời sống văn hóa và
tâm hồn dân tộc bởi nó ra đời từ đời sống của nhân dân, rồi lại quay trở lại phục vụ
chính đời sống ấy trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng, hội hè… của tộc ngƣời. Do đó, có thể nói, dân ca Tày, Thái thể hiện một cách
tập trung nhất và rõ ràng nhất bản sắc văn hóa của hai dân tộc.
1
1.4. Dân ca có ở hầu hết các dân tộc và là nghệ thuật mang tính chất tổng hợp,
gồm ngôn từ, diễn xƣớng, âm nhạc, vũ đạo, đạo cụ. Ở ngƣời Kinh, do điều kiện riêng
nên bộ phận ngôn từ trong dân ca dần tách thành một thể loại độc lập là ca dao. Trái lại,
ở các dân tộc thiểu số (DTTS), bộ phận ngôn từ chƣa phân thành một thể loại độc lập.
Vì thế, các nhà nghiên cứu thƣờng nhắc đến dân ca các DTTS mà không nhắc đến ca
dao của họ nhƣ với ngƣời Kinh. Đây cũng là lí do để dân ca đƣợc coi là đối tƣợng
nghiên cứu của VHDG, dù nó là nghệ thuật biểu diễn.
1.5. Xét riêng về DCTTSH, nếu nhƣ ngƣời Tày có lượn cọi (hát gọi bạn yêu),
lượn slương (hát thƣơng yêu), lượn nàng ới (hát gọi ngƣời con gái), lượn then (hát
then), phong slư (thƣ tình con trai gửi cho con gái và ngƣợc lại)… thì ngƣời Thái có
khắp báo xao (hát trai gái), khắp xai peng (hát dây tình), khắp hạn khuống (hát nơi sàn
chơi), khắp loong tôông (hát nơi cánh đồng), khắp xư (hát thơ)… Sự phong phú, đa
dạng, sự đặc sắc cả về nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng của
DCTTSH và mức độ gắn bó của chúng với mọi mặt đời sống nhân dân khiến chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến loại dân ca này. DCTTSH của mỗi dân tộc vừa mang những điểm
tƣơng đồng, vừa mang những điểm dị biệt.
Một sự so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái sẽ góp phần khám phá tính
chung, tính phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này, đồng thời làm phát lộ tính riêng
đặc thù của mỗi dân tộc trong bức tranh văn hóa Việt Nam, góp phần khẳng định bản
sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề này lại chƣa nhận đƣợc sự quan tâm thỏa đáng từ
các nhà nghiên cứu VHDG.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh
hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu với mong muốn chỉ
ra và lí giải đƣợc những điểm giống và khác nhau của hai bộ phận dân ca, trên cơ sở đó
thấy đƣợc cái chung của văn hóa các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam, đồng thời thấy
đƣợc nét đặc thù dân tộc của văn hóa ngƣời Tày và ngƣời Thái.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu là qua so sánh
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, thấy rõ tính thống nhất và đa dạng của dân ca các
dân tộc Việt Nam nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, lí giải nguyên nhân của sự
thống nhất, đa dạng đó.
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp, hệ thống theo lựa chọn có chủ ý các tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái dựa
trên các nguồn tƣ liệu sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca dƣới hình thức song ngữ.
- Điền dã, khảo sát diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái (còn quan sát đƣợc), phỏng
vấn hồi cố các nghệ nhân ngƣời Tày, Thái ở khu vực miền núi phía Bắc; khảo sát các tƣ
liệu phục dựng diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái; quan sát mối quan hệ giữa văn bản và
diễn xƣớng trong thực tế đời sống của hai dân tộc Tày, Thái.
- Tìm hiểu các vấn đề về lí luận văn học so sánh (VHSS) nói chung và VHSS
trong nghiên cứu văn hóa, VHDG nói riêng; hệ thống hóa lí luận về bản sắc văn hóa dân
tộc, dân ca và diễn xƣớng.
- Khái quát về tộc ngƣời và diện mạo DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái.
- Khảo sát các khía cạnh của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái (qua văn bản là
chính, kết hợp với sự quan sát diễn xƣớng dân ca), lấy đó làm cơ sở cho sự so sánh.
- Phân tích các điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH Tày, Thái.
- Lí giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt đó, chỉ ra nội hàm văn hóa
ẩn chứa trong đó để dẫn tới nhận thức rằng sự tƣơng đồng chính là tính thống nhất, sự
khác biệt chính là bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái, tạo nên tính đa dạng của văn
hóa các dân tộc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài so sánh DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam,
chúng tôi chỉ nghiên cứu loại dân ca này của ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc và ngƣời Thái
ở vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai và một phần của tỉnh Yên Bái. Vùng Tây
Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình và một phần tỉnh Yên Bái.
Về nguồn tƣ liệu, các kết quả so sánh của chúng tôi trong luận án là dựa trên cơ
sở khảo sát kĩ càng các nguồn tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Song,
chúng tôi nhận thấy kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có số lƣợng tƣơng đối
lớn và phong phú về thể loại. Hơn nữa, việc đƣa toàn bộ các tài liệu vào trong công trình
3
là không thật cần thiết. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng vai trò đại diện của tài liệu
VHDG trong công việc nghiên cứu. Lí do của sự không cần thiết nói trên nằm ở tính lặp
lại của VHDG nói chung, dân ca nói riêng. Nếu nhƣ ở văn học viết, nhà nghiên cứu cần
đọc hết các tác phẩm của một tác giả nào đó thì mới có thể đƣa ra những nhận định,
đánh giá khoa học về tác giả đó. Nhƣng, ở VHDG, nhà nghiên cứu chỉ cần biết một số
lƣợng tác phẩm vừa đủ, có tính chất đại diện. VHDG là mảnh đất của những yếu tố lặp
đi lặp lại, của những điểm chung mang tính cộng đồng, thời đại. Riêng ở dân ca, tính lặp
lại của các yếu tố trong dân ca là rất cao và phổ biến. Chỉ bằng quan sát, bạn đọc cũng dễ
dàng nhận ra những sự giống nhau giữa các văn bản dân ca. Do vậy, quan điểm của chúng
tôi là chỉ cần khảo sát giới hạn ở một số lƣợng tác phẩm mà ngoài số lƣợng đó chúng ta
không phát hiện thêm điều gì mới. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu của chúng tôi là giống nhƣ
việc làm của tác giả V.IA. Propp trong công trình Hình thái học truyện cổ tích [165].
Khi thống kê, chúng tôi sử dụng các tƣ liệu dân ca dẫn từ các tài liệu đã đƣợc
xuất bản và dƣới hình thức song ngữ Tày – Kinh đối với DCTTSH Tày và Thái – Kinh
đối với DCTTSH Thái. Các tài liệu đƣợc lựa chọn phải có sự ăn khớp nhau về số dòng
thơ trong bản phiên âm và bản dịch sang tiếng Việt, đồng thời bản dịch phải sát nghĩa.
Trong đó, chúng tôi ƣu tiên những công trình mà tác giả là những ngƣời con của dân tộc
Tày, Thái hoặc từng có thời gian sinh sống cùng ngƣời bản tộc, có lợi thế trong việc am
hiểu văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Họ dành rất nhiều công sức, tâm huyết, trung thực và
trách nhiệm trong việc sƣu tầm, biên soạn. Vì thế, việc biên dịch của các tác giả đó khá
sát với cách cảm, cách nghĩ và đặc trƣng thi pháp thể loại của DCTTSH Tày, Thái.
Những tiêu chí nhƣ vậy sẽ đem đến tính tin cậy cho tài liệu đƣợc lựa chọn để khảo sát,
nghiên cứu của luận án.
Vì những lí do này, đối với DCTTSH Tày, trong rất nhiều mảng, chúng tôi lựa
chọn iếu, lượn slương, lượn cọi, phong slư, rọi. Ở từng mảng, chúng tôi chỉ lựa chọn
những bản tiêu biểu, có chất lƣợng để khảo sát. Cụ thể, chúng tôi lựa chọn dẫn 500 bài
dân ca với 4216 câu. Đối với DCTTSH Thái, chúng tôi dẫn 286 bài DCTTSH Thái với
6068 câu. Sự lựa chọn dẫn này là có chủ ý khi chúng tôi nhận thấy các hiện tƣợng đã
đƣợc hàm chứa khá đầy đủ trong 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái đƣợc
dẫn. Số lƣợng bài cụ thể trong các tài liệu dân ca đƣợc lựa chọn nhƣ sau:
4
Bảng 1: Tài liệu khảo sát
STT Tài liệu Mã tài liệu Số bài đƣợc lựa chọn
Tày
Phƣơng Bằng (sƣu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch) 1 [6] 5
(2012), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
2 [22] 50
Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng (sƣu tầm, biên dịch) (2012), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội
Nhiều tác giả (1970), Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – 3 [99] 50
Nùng), Nxb Dân tộc Việt Bắc
Nhiều tác giả (2012), Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, 4 [108] 200
lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
Lục Văn Pảo (sƣu tầm, phiên âm, dịch) (1994), Lượn 5 [117] 150
cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[128] 45 6
Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào (sƣu tầm) (2016), Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
Tổng 500
Thái
[50] 49 7
Nguyễn Văn Hòa (sƣu tầm, biên dịch) (2001), Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
[121] 190 8
Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm, biên dịch) (2012), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà Nội
Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch) (2012), Dân ca Thái Lai 9 [134] 47
Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
286 Tổng
5
Số lời còn lại của các công trình kể trên và các tài liệu DCTTSH khác của ngƣời
Tày, Thái, chúng tôi sử dụng làm cơ sở tham khảo, đối chiếu, kiểm tra. Chẳng hạn, ở
DCTTSH Tày có các công trình nhƣ Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Sli lượn
hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], Chồm bjoóc mạ [14], Lượn then ở
miền đông Cao Bằng [78], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) [70], Thành ngữ
- tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng [5], Tục
ngữ, ca dao Tày vùng hồ Ba Bể [192], tƣ liệu điền dã của tác giả luận án; ở ngƣời Thái
có công trình: Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên [49].
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Theo Hà Văn Tấn, “phƣơng pháp luận khoa học là hệ thống lí thuyết lí giải đối
tƣợng nghiên cứu cũng nhƣ lí giải các phƣơng pháp tiếp cận đối tƣợng đó” [55; tr. 10].
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu ngôn ngữ [40] cũng nói tƣơng tự nhƣ vậy. Vậy, phƣơng pháp luận định hƣớng cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án này là: Trong khi sử dụng các quy phạm của
nghiên cứu văn học, không quên tính đặc thù của VHDG; khi so sánh DCTTSH của hai
dân tộc Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái
chung ở đây là tính toàn nhân loại của VHDG, tính tƣơng đồng cao của dân ca các dân
tộc ở Việt Nam. Cái riêng ở đây là tính đặc thù của DCTTSH mỗi dân tộc. Theo ý nghĩa
triết học, cái chung đƣợc lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tƣợng hay quá trình riêng lẻ
khác; cái riêng là một sự vật, một hiện tƣợng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Phƣơng pháp luận cũng chỉ ra rằng, để thực hiện bản luận án này, chúng tôi cần
áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp liên ngành.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp điền dã
Luận án thực hiện trên cơ sở tƣ liệu là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái.
Đây là đề tài nghiên cứu dân ca nên cần đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể để
thấy đƣợc hết tính sinh động của diễn xƣớng và thấy đƣợc mối liên hệ giữa dân ca với
phong tục, tập quán, tín ngƣỡng... của dân tộc. Vì thế, chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp
điền dã. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điền dã tại một số vùng
cƣ trú của đồng bào Tày, Thái ở vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Tại đó, chúng tôi quan sát
6
đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày, Thái, phỏng vấn ngƣời dân, tiếp cận với các diễn
xƣớng DCTTSH Tày, Thái. Chúng tôi đƣợc chứng kiến các diễn xƣớng có tính ngẫu
hứng khi làm ngô, làm lúa, các điệu hát rong chơi… của ngƣời Thái ở Yên Bái, diễn
xƣớng lượn slương của ngƣời Tày ở Bắc Kạn và đƣợc chứng kiến các nghệ nhân phục
hồi các diễn xƣớng lượn của ngƣời Tày ở Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn và khắp của
ngƣời Thái ở Yên Bái. Chúng tôi lựa chọn các địa bàn điền dã nhƣ thế bởi đó là nơi tập
trung đông đồng bào Tày/ Thái sinh sống, còn lƣu giữ đƣợc nhiều đặc điểm văn hóa
truyền thống của dân tộc. Các thông tin đƣợc cụ thể hóa trong bảng dƣới đây:
Bảng 2: Thông tin điền dã
STT Địa điểm Thời gian Thông tin viên
Tày
Xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn, 15/2 – 5/3/ 2017 Dƣơng Công Thông 1
tỉnh Lạng Sơn Dƣơng Công Nam
Thị trấn Yên Minh, huyện Yên 24/4 - 28/4/2018 Nguyễn Thị Hà 2
Minh, tỉnh Hà Giang Hoàng Thị Đại
Xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn 7/2 - 12/2/2014 Hà Đình Tỵ 3
Chấn, tỉnh Yên Bái
Xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh 12/2 – 19/2/2016 Nông Minh Cƣơng 4
Bắc Kạn
Thái
Xã Sơn A, huyện Văn Chấn, tỉnh 7/2 – 21/2/2016 Lò Thị Sa 4
Yên Bái Sầm Văn Tuấn
Xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, 11/7 - 18/7/2018 Lƣờng Thủy Chung 5
tỉnh Yên Bái Vì Thị Pọm
Lò Thị Sáng
Lò Thị Tía
Qua điền dã, chúng tôi thu thập các thông tin hữu ích cho quá trình so sánh và lí giải.
Việc thu thập các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội tộc ngƣời sẽ cho kết quả là những
7
thông tin định tính góp phần chứng minh và lí giải cho những đặc điểm tƣơng đồng và
khác biệt của DCTTSH của hai dân tộc.
4.2.2. Phương pháp thống kê
Về phƣơng pháp thống kê, trong công trình Văn hóa dân gian – Những phương
pháp nghiên cứu [101; tr. 127 – 141], Nguyễn Xuân Kính đã khẳng định đây là một
trong số các phƣơng pháp nghiên cứu chính xác bởi mục đích của việc nghiên cứu là tìm
ra giá trị và giải thích, làm sáng tỏ các quy luật, tức những sự lặp lại của các hiện tƣợng
cùng loại ở một mức độ nhất định nào đó. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi thống kê
thông tin về các tài liệu công bố dân ca theo năm và theo dân tộc phục vụ cho việc lƣợc
thuật tình hình sƣu tầm, nghiên cứu, thống kê các bài DCTTSH Tày, Thái đƣợc lựa chọn
làm đối tƣợng khảo sát. Đặc biệt, chúng tôi thống kê các số liệu cụ thể liên quan đến nội
dung, thi pháp của DCTTSH Tày, Thái nhƣ tần suất xuất hiện của các điển tích, biểu
tƣợng, thể thơ. Các kết quả thống kê mang tính định lƣợng nhƣ thế sẽ là căn cứ để
chúng tôi đƣa ra các suy luận, nhận định khoa học. Đồng thời, việc sử dụng các phƣơng
pháp này cũng giúp tăng thêm sức thuyết phục, độ chính xác, tin cậy cho những nhận
định khoa học của chúng tôi.
4.2.3. Phương pháp so sánh
Ở góc độ là một phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, so sánh là phƣơng pháp
quen thuộc, đƣợc sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau để định tính, định
lƣợng hoặc xác định ngôi thứ của các sự vật, hiện tƣợng. Trong nghiên cứu văn hóa dân
gian, VHDG, phƣơng pháp so sánh đƣợc dùng để xác định, đánh giá các hiện tƣợng
trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp so sánh vì
mục đích chính của đề tài là làm folklore so sánh. Chỉ có qua so sánh mới chỉ ra đƣợc
những tƣơng đồng, khác biệt của hai bộ phận dân ca này ở hai tộc ngƣời Tày, Thái.
Dạng thức chính của phƣơng pháp so sánh mà chúng tôi sử dụng là so sánh loại hình
lịch sử. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi nhằm nhận thức DCTTSH Tày, Thái thông
qua việc tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt giữa các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp lời thơ
nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Chúng tôi
tìm ra kết cấu bên trong, sự liên hệ giữa DCTTSH Tày, Thái với các yếu tố lịch sử, xã hội
để giải thích nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng, dị biệt đó.
4.2.4. Phương pháp liên ngành
Phƣơng pháp liên ngành là phƣơng pháp nghiên cứu có sự kết hợp giữa nhiều
ngành khoa học, trong đó có một ngành đóng vai trò trung tâm, nhƣ tác giả Đinh Gia
8
Khánh đã phân tích trong cuốn sách Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên
cứu [101; tr. 113]. Ở đây, khoa nghiên cứu văn học chú ý đến tính đặc thù của sáng tác
dân gian đóng vai trò trung tâm, các ngành khoa học khác nhƣ dân tộc học, lịch sử, văn
hóa học… đóng vai trò bổ trợ.
Chúng tôi sử dụng các kiến thức về dân tộc học, lịch sử, địa lí… trong một đề tài
folklore so sánh để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về nguyên nhân và ý nghĩa những đặc
điểm tƣơng đồng, khác biệt trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Cụ thể, thông
qua nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu các dữ liệu thu thập đƣợc từ việc quan sát văn
hóa, lịch sử, xã hội… của tộc ngƣời Tày, Thái, chúng tôi nhằm phát hiện ra sự chuyển
hóa các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội… thành các dữ liệu văn học, lấy đó làm cơ sở
cho những lí giải về sự giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái; nhận định về mối
liên hệ cũng nhƣ vai trò của của DCTTSH đối với văn hóa tộc ngƣời nói riêng và văn
hóa Việt Nam nói chung.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên đặt DCTTSH – một bộ phận quan trọng
của VHDG nói riêng, văn hóa nói chung của ngƣời Tày và ngƣời Thái - dƣới góc nhìn
so sánh. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc, luận án đã kế
thừa, bổ sung và phát triển sâu hơn các luận điểm đó, đặt chúng trong một hệ quy chiếu
mới là sự so sánh, đối chiếu. Công trình đã chỉ ra và lí giải nguyên nhân, ý nghĩa của
những điểm tƣơng đồng và khác biệt trên nhiều phƣơng diện nhƣ: nội dung, thi pháp,
đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái.
Luận án hƣớng tới việc từ các đặc điểm của dân ca để góp thêm tiếng nói khẳng
định tính chung của văn hóa các dân tộc Việt Nam, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa
Việt Nam thống nhất; đồng thời, khẳng định tính đặc thù dân tộc về văn hóa của hai dân
tộc Tày, Thái, giúp khu biệt hai dân tộc vốn gần gũi với nhau về nhiều mặt.
Luận án đƣợc thực hiện trong sự quan sát, liên tƣởng với văn học, văn hóa của
ngƣời Kinh nhằm cung cấp một góc độ nhìn nhận toàn diện hơn, rõ ràng và khách quan
hơn về tính chung và tính riêng của DCTTSH Tày, Thái.
Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định hƣớng nghiên cứu so sánh DCTTSH
nói riêng, VHDG nói chung là hƣớng nghiên cứu có tính khả thi, mang lại kết quả là sự
nhận thức sâu sắc hơn về mối liên hệ giữa văn học với môi trƣờng tự nhiên, văn hóa,
lịch sử… của dân tộc, và quan trọng nhất, là làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc trong sự hài
hòa với văn hóa cộng đồng mang tính khu vực, cao hơn là quốc gia, nhân loại.
9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lí luận
Vận dụng kết hợp các dạng thức khác nhau của phƣơng pháp so sánh: so sánh
loại hình lịch sử, so sánh từ cách tiếp cận dân tộc học, luận án bƣớc đầu làm rõ và đánh
giá các điểm tƣơng đồng, khác biệt về mặt nội dung, thi pháp và đặc điểm diễn xƣớng
của DCTTSH Tày, Thái trong mối liên hệ với các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội,
lịch sử tộc ngƣời.
Việc so sánh dân ca để làm rõ bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái giúp hai dân
tộc tự khẳng định chính mình. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án có thể
đóng góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận trong việc tìm hiểu cái chung – cái riêng, hay
chính là cái phổ biến và cái đặc thù của dân ca các dân tộc, quan hệ giữa văn hóa dân
tộc, vùng miền với văn hóa quốc gia thống nhất.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thực tiễn. Với mục đích hƣớng tới việc
tìm hiểu sâu sắc về những đặc điểm giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái, vai trò
của những đặc điểm đó trong việc thể hiện bản sắc văn hóa tộc ngƣời, hi vọng các kết
quả của luận án có thể là cơ sở cho việc thực thi bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
đặc sắc của hai DTTS hiện đang giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng ở khu vực miền núi
phía Bắc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo đƣờng lối, chính sách chung của
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án còn có giá trị đối với việc nghiên
cứu, giảng dạy DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nói riêng, VHDG nói chung.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung
của luận án đƣợc triển khai với bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án
Chƣơng 2: Khái quát về người Tày, Thái ở Việt Nam và dân ca trữ tình sinh hoạt của họ
Chƣơng 3: Những điểm tương đồng của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và
người Thái
Chƣơng 4: Những điểm khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
10
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
1.1.1.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
Trong kho tàng dân ca các DTTS, dân ca dân tộc Tày đƣợc sƣu tầm nhiều và
sớm hơn cả. Trong đó, dân ca nghi lễ nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà sƣu tầm sớm
hơn so với DCTTSH. Nếu nhƣ dân ca nghi lễ, mà cụ thể là dân ca đám cƣới Tày đƣợc
Nguyễn Văn Huyên sƣu tầm, công bố cả bản chữ Nôm Tày, bản phiên âm và bản dịch
bằng tiếng Pháp, đƣợc nhà in Viễn Đông Bác Cổ xuất bản từ năm 1941 với công trình
Những khúc ca đám cưới Tày ở Lạng Sơn và Cao Bằng (bản dịch tiếng Việt trong
cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam [55; tr. 497 – 482]), thì phải đến năm
1970, DCTTSH của ngƣời Tày mới đƣợc công bố lần đầu tiên qua cuốn Rọi – Vốn cổ
văn học dân tộc Tày Nùng [99] do nhóm các tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình
Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang Nhơn sƣu tầm và dịch. Rọi (phuối rọi, phuối pác, lượn
tói) là một hình thức hát đối đáp theo kiểu ứng khẩu tự nhiên, không cầu kì. Trong
công trình, nhóm tác giả đã giới thiệu 231 bài, chủ yếu là về dân ca tình yêu. Điều
đáng quý là ngay từ công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, các tác giả đã
có ý thức công bố dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt.
Năm 1987, các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân công bố tƣ liệu dân ca về
lượn cọi thông qua cuốn Lượn cọi Tày Nùng [76]. Hai tác giả đã căn cứ vào 10 bản
chữ Nôm Tày ghi chép về lượn cọi sƣu tầm đƣợc ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng để lọc lựa ra một số bài hay và giới thiệu tới độc giả. Đáng
tiếc, các tác giả chỉ giới thiệu bản dịch thơ ra tiếng Việt.
Những năm 90 của thế kỉ XX, giới trí thức dân tộc Tày đã rất nỗ lực trong việc
giới thiệu di sản DCTTSH của dân tộc. Sự ra đời của các cuốn sách Phong slư năm
1991 [115], Lượn slương năm 1992 [7], Lượn cọi năm 1994 [117] của tác giả Lục
Văn Pảo (còn gọi là Phƣơng Bằng) là kết quả của sự nỗ lực ấy. Trong đó, đáng chú ý
là lượn slương và lượn cọi có số lƣợng đƣợc công bố hết sức dồi dào (lượn slương
đƣợc công bố 2924 câu, lượn cọi đƣợc công bố 7465 câu). Trừ cuốn Phong slư cung
cấp tƣ liệu về các bức thƣ tình của nam nữ thanh niên Tày thời xƣa dƣới hình thức là
những tác phẩm độc lập riêng rẽ, không liên quan gì đến nhau, các cuốn sách Lượn
11
slương, Lượn cọi sắp xếp các bài dân ca theo trình tự của diễn xƣớng trong thực tế,
khiến qua đó ngƣời đọc hình dung đƣợc đáng kể về cuộc hát. Cả ba nhóm bài hát của
DCTTSH Tày đều đƣợc giới thiệu dƣới hình thức song ngữ, tức bao gồm phần phiên
âm tiếng Tày và phần dịch nghĩa sang tiếng Việt.
Một tác giả đƣợc gọi là “ông tiên núi” vì những đóng góp trong việc sƣu tầm,
nghiên cứu dân ca H’Mông là Doãn Thanh cũng để tâm sƣu tầm DCTTSH của ngƣời
Tày. Trong công trình Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Doãn Thanh đã công bố
các bài DCTTSH mà ông sƣu tầm đƣợc và có phân ra các bài lượn có lề lối và lượn tự
do, theo hình thức song ngữ.
Sang đầu thế kỉ XXI, tình hình công bố tƣ liệu DCTTSH ngày càng sôi động.
Có thể kể đến các công trình: Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng của
Hoàng Thị Quỳnh Nha năm 2003 [92], Chồm bjoóc mạ của Hoàng Thị Cấp năm 2005
[14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng của Triệu Thị Mai năm 2010 [78], Thơ ca
dân gian Tày Nùng xứ Lạng của Nguyễn Duy Bắc năm 2012 [5], Iếu – dân ca dân
tộc Tày của nhóm tác giả Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng năm 2012
[22], Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương do Hoàng Văn Páo chủ biên năm
2012 [108], Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày của các tác giả Hoàng Triều
Ân, Hoàng Quyết năm 2014 [127], Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể do Nguyễn
Thị Yên chủ biên năm 2014 [192], Lượn rọi – hát đối đáp của của người Tày của các
tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016 [128], Tàng pây kết chụ (Đường
đi kết bạn tình) của Hoàng Tƣơng Lai năm 2016 [70]. Ở những công trình này, bên
cạnh việc giới thiệu một vài làn điệu mới của DCTTSH Tày nhƣ lượn then, iếu, các
nhà sƣu tầm tiếp tục công bố tƣ liệu DCTTSH thuộc các làn điệu nhƣ lượn cọi, lượn
rọi, lượn slương… đã từng đƣợc giới thiệu từ cuối thế kỉ XX, cho thấy trữ lƣợng
phong phú của các nhóm bài hát này.
Trong một chuyến điền dã tại thôn Thiên Tuế, xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2014, chúng tôi đã đƣợc nghệ nhân Hà Đình Tỵ cung cấp tƣ
liệu DCTTSH Tày bao gồm 64 bài cắm nôm dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt.
Qua điểm lại tình hình sƣu tầm nhƣ trên, có thể thấy kho tàng DCTTSH phong
phú, dồi dào và đã đƣợc sƣu tầm, công bố với số lƣợng khá lớn.
12
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
Trong tƣơng quan so sánh với lịch sử nghiên cứu dân ca của các DTTS khác,
DCTTSH Tày đƣợc nghiên cứu từ khá sớm. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy có thể phân
loại tài liệu nghiên cứu về DCTTSH Tày thành hai dạng. Dạng thứ nhất là các công
trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, trong đó nội dung nghiên cứu thƣờng nằm ở các
bài giới thiệu ở đầu sách. Dạng công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về một
thể loại của DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc về một khía cạnh của dân ca
Tày. Ở các công trình thuộc hai dạng tài liệu này, các vấn đề của DCTTSH Tày ít
nhiều đƣợc nghiên cứu ở các phƣơng diện khác nhau. Chúng tôi lƣợc thuật kết quả
nghiên cứu ở hai dạng công trình đó nhƣ sau:
Thứ nhất, nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở các sách
công bố tư liệu DCTTSH Tày: Trong các bộ sƣu tập tài liệu dân ca, trƣớc khi công bố
với độc giả kết quả sƣu tầm, biên dịch của mình về DCTTSH, các soạn giả thƣờng có
một bài giới thiệu mang tính chỉ dẫn về đặc điểm của các bài hát đƣợc công bố. Nội
dung chính của hệ thống bài giới thiệu này là cái nhìn tổng thể về các bài hát đó nhƣ
tên gọi, sự phân loại và sơ bộ đặc điểm nội dung, nghệ thuật lời ca, phƣơng thức diễn
xƣớng của từng nhóm bài hát.
Về tên gọi, các nhà nghiên cứu trong các bài giới thiệu đầu bộ sách sƣu tập dân
ca có xu hƣớng coi lượn là dân ca giao duyên – một hình thức của DCTTSH Tày. Đây
là cách hiểu lượn theo nghĩa hẹp. Đại diện cho quan điểm này là Cung văn Lƣợc, Lê
Bích Ngân với công trình Lượn cọi Tày – Nùng xuất bản năm 1987 [76], Phƣơng
Bằng (hay chính là Lục Văn Pảo) và Lã Văn Lô với công trình Lượn slương xuất bản
năm 1992 [7], Lục Văn Pảo với công trình Lượn cọi xuất bản năm 1994 [117], Triệu
Thị Mai với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng xuất bản năm 2010 [78],
Hoàng Văn Páo và nhóm tác giả với công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn
slương xuất bản năm 2012 [108], Nguyễn Duy Bắc với công trình Thơ ca dân gian
Tày – Nùng xứ Lạng xuất bản năm 2012 [5], Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân với công
trình Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày xuất bản năm 2014 [127], Dƣơng
Văn Sách, Dƣơng Thị Đào với công trình Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày
xuất bản năm 2016 [128].
Ở sách Lượn cọi Tày – Nùng [76], các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân
nhấn mạnh ngƣời Tày - Nùng gọi các lời ca tiếng hát trữ tình là sli – lượn, nhƣng chỉ
13
những bài dùng để hát đối đáp nam nữ và theo làn điệu nhất định mới đƣợc gọi là
lượn, tức không bao gồm hát đám cƣới và hát then nghi lễ. Các tác giả tập trung giới
thiệu về lượn cọi. Lượn cọi có nhiều cung, mỗi cung lại gồm nhiều bài. Tuy nhiên,
những nhận định, phân tích về mảng dân ca này chƣa đƣợc các tác giả đi sâu.
Về phân loại, các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn
trong công trình Văn hóa dân gian Tày đã có sự phân chia các thể tài thơ ca sinh hoạt
của ngƣời Tày khá rõ ràng và hợp lí thành ba nhóm: Những bài hát giao duyên nhƣ
lượn, phong slư; những bài hát vui chơi của trẻ em nhƣ đồng dao và hát ru em; các thể
loại trung gian bao gồm “một bộ phận cấu tố phức tạp (chữ dùng của Lục Văn Pảo)
đƣợc diễn xƣớng theo lối hát” [69; tr. 213]. Ở nhóm này, các tác giả đã đƣa ra những
nét phác thảo chung nhất về nội dung và đặc điểm diễn xƣớng. Tuy thế, có một điều
bất hợp lí nhỏ là các tác giả đã xếp cả tục ngữ, câu đố vào nhóm loại hình trung gian.
Tục ngữ Tày có phƣơng thức diễn xƣớng là nói, không hề có sự gắn kết với yếu tố âm
nhạc. Trong khi đó, một bộ phận câu đố Tày lại có cấu tạo dài thành bài, đƣợc hát
thành các bài hát đối đáp trong một cuộc hát hai vế nhƣ trong diễn xƣớng iếu. Vì thế,
sẽ là ổn thỏa hơn và phù hợp với thực tế kho tàng DCTTSH Tày hơn nếu nhƣ các tác
giả chỉ xếp phuối pác, phuối rọi và các câu đố dài vào nhóm các thể tài trung gian.
Năm 2012, trong công trình Thơ ca dân gian Tày - Nùng xứ Lạng [5], PGS.
TS Nguyễn Duy Bắc đã giới thiệu về thơ ca dân gian của ngƣời Tày, Nùng ở Lạng
Sơn theo hƣớng phân định rõ ràng Tày – Nùng, trong đó có phân loại DCTTSH của
ngƣời Tày. Theo đó, ngƣời Tày có lượn và phong slư. Lượn có lượn slương và lượn
cọi. Ở mỗi loại lượn này lại có những thành phần nhỏ hơn. Khi trình bày về lượn và
phong slư, tác giả đã chỉ rõ đặc điểm nội dung phản ánh hình thức. Bên cạnh đó, tác
giả còn giới thiệu dân ca nghi lễ Tày là quan lang, pả mẻ và then.
Về đặc điểm của từng nhóm bài hát: Các tác giả đã nêu ra những nét chung nhất
về nội dung phản ánh, nghệ thuật lời ca… trong các bài giới thiệu về nhóm bài hát
đƣợc công bố ở phần sau đó. Sớm nhất, có thể kể đến cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân
tộc Tày - Nùng của nhóm tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Võ Quang
Nhơn. Ở đây, các tác giả giới thiệu địa bàn lƣu truyền, nội dung, nghệ thuật và sự diễn
xƣớng của các bài rọi đƣợc công bố trong sách này. Theo đó, rọi rất phổ biến ở khu ta
và ngoài khu (khu với ý nghĩa chỉ khu tự trị Việt Bắc cũ). Nội dung của rọi chủ yếu là
phản ánh tình yêu nam nữ. Về diễn xƣớng, rọi thuộc kiểu hát đối đáp ứng khẩu song
14
có điểm nổi bật là “nói nhƣ hát, hát nhƣ nói một cách tự nhiên, không cầu kì, gò bó
thanh điệu, cấu trúc” [99; tr. 7]. Về nghệ thuật, rọi có những điểm nổi bật nhƣ lối tƣ
duy hình tƣợng, dùng cảnh để tả tình, dùng phụ nổi chính, dùng cách so sánh, tƣơng
phản, cƣờng điệu, dùng cách dẫn dắt cung bậc, cấu trúc đoạn ngắn dài tùy nội dung…
Tuy thế, các đặc điểm của rọi chỉ đƣợc các tác giả phác họa sơ bộ, chƣa đi sâu phân
tích. Đồng thời, do chỉ giới hạn địa bàn sƣu tầm ở khu tự trị Việt Bắc, trong khi rọi
còn lƣu truyền ở nhiều địa bàn khác nữa nên các tác giả chƣa bao quát hết đƣợc các
đặc điểm của rọi nói chung của ngƣời Tày.
Rọi còn đƣợc giới thiệu trở lại trong cuốn Lượn rọi – Hát đối đáp của người
Tày của các tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016. Với công trình này,
các tác giả đề cập đến đặc điểm của lượn rọi ở Cao Bằng. Lượn rọi, cùng với phuối
rọi, phuối pác (với nghĩa nói rọi) đều thuộc rọi nói chung. Trong đó, “lượn rọi là câu
rọi khi trao đổi có giai điệu” [128; tr. 13]. Về cơ bản, các đặc điểm của lượn rọi đƣợc
chỉ ra ở đây là giống với các đặc điểm mà tác giả công trình Rọi – Vốn cổ văn học dân
tộc Tày Nùng đã chỉ ra, bổ sung thêm đặc điểm về giai điệu và lề lối diễn xƣớng. Đây
là điều đáng quý, giúp ngƣời đọc hình dung dễ hơn về hình thức hát đối đáp của mảng
dân ca này trong khi ngày nay khó đƣợc chứng kiến trong thực tế.
Lượn cọi đƣợc tác giả Lục Văn Pảo giới thiệu trong công trình Lượn cọi năm
1994. Tác giả Lục Văn Pảo đã căn cứ vào các bản cọi Nôm truyền thống của các vùng
Tày Việt Bắc để giới thiệu. Tác giả khẳng định: “…lượn cọi làm nổi lên thế giới quan
và nhân sinh quan của cả một tộc ngƣời… Về nghệ thuật, thì lượn là một thể loại văn
hóa tổng hợp liên quan đến nhiều lĩnh vực mà trƣớc hết là ngôn ngữ, thứ đến là văn tự
và thứ nữa là hình thức ngâm vịnh gồm nhiều làn điệu bằng lời” [117; tr. 13]. Từ đó,
tác giả đánh giá cao lượn cọi trong đời sống văn hóa của ngƣời Tày.
Năm 2010, với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng, tác giả Triệu Thị
Mai đã giới thiệu đến đông đảo công chúng lượn then – một hình thức hát giao duyên
của ngƣời Tày ở các huyện Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang thuộc miền
đông Cao Bằng. Theo tác giả, “lượn then nghĩa là hát những bài hát theo ý của trời,
cao siêu và đẹp đẽ, linh thiêng” [78; tr. 15]. Cách thức hát và nội dung các cuộc hát có
đƣợc tác giả nhắc đến một cách ngắn gọn nhằm minh họa cho phần tƣ liệu dân ca đƣợc
tác giả sƣu tầm, biên soạn ở phía sau. Điểm đặc biệt ở đây là tác giả đã nhìn ra sự ảnh
hƣởng của văn hóa Kinh đối với sinh hoạt văn hóa dân tộc Tày khi nhận thấy lượn
15
then có sự pha lẫn nhiều từ tiếng Việt và có những lời ca đƣợc sáng tác bằng tiếng Việt
hoặc tiếng Tày theo thể thơ lục bát của ngƣời Kinh. Đây là gợi ý quan trọng đối với
chúng tôi trong việc lí giải các đặc điểm của DCTTSH Tày.
Năm 2012 đánh dấu sự xuất hiện của các công trình công bố tƣ liệu dân ca
thuộc các mảng lượn slương, lượn cọi, lượn nàng ới, iếu. Trong đó, các tác giả luôn
dành vài trang để giới thiệu đôi nét về những nhóm bài hát đƣợc công bố.
Công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108] đƣợc tạo thành
bởi sự hợp sức của nhiều tác giả. Về lượn ở Lạng Sơn, các tác giả đã có giới thiệu khá
chi tiết về quy trình và nội dung lượn, các giá trị văn hóa và vấn đề bảo tồn, phát huy
hát lƣợn Tày ở Lạng Sơn. Về lượn slương, tác giả Phƣơng Bằng đã khái quát vài nét
về lượn slương ở các khía cạnh: hình thức, sự phân bố, đặc trƣng hát xƣớng, đối tƣợng
tham gia, trình tự cuộc hát, nội dung. Với tính chất một công trình công bố các văn bản
dân ca Tày là chủ yếu, phần giới thuyết về lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương của các
tác giả mang tính chất tả hơn là khảo song lại cung cấp những chỉ dẫn quý báu với
chúng tôi khi tìm hiểu về DCTTSH Tày.
Nhà nghiên cứu Phƣơng Bằng trong cuốn Phong Slư đã giới thiệu 40 bài phong
slư – những bức thƣ tình yêu của trai gái Tày. Tác giả nhận thấy điểm đặc biệt của thƣ
tình yêu Tày là “đƣợc nâng lên thành một thể loại, có kết cấu và có quy cách biểu đạt
riêng,… có cách ngâm vịnh riêng biệt” [6; tr. 11] và có đặc điểm nội dung nổi bật là
yếu tố bi và yếu tố hƣ mang theo tính tao nhã, thanh cao.
Mở đầu cuốn Iếu – dân ca dân tộc Tày [22], các tác giả đã giới thiệu về một
hình thức hát đối đáp giao duyên của ngƣời Tày là iếu. Làn điệu này chƣa đƣợc quan
tâm sƣu tầm và đang có nguy cơ mất mát vĩnh viễn. Iếu lƣu truyền chủ yếu ở phía tây
tỉnh Hà Giang và phía đông tỉnh Yên Bái. Đặc biệt, các tác giả nhận thấy iếu có một số
điểm gần gũi với khắp của ngƣời Thái ở Tây Bắc và có những đặc điểm riêng so với
các nhóm bài hát khác của ngƣời Tày nhƣ về nội dung, trình tự cuộc hát, cách thức tổ
chức, luật tục liên quan đến iếu. Những phát hiện này là rất quan trọng với chúng tôi
trong việc tìm hiểu những điểm tƣơng đồng trong DCTTSH Tày, Thái.
Về đặc điểm chung cho toàn bộ DCTTSH Tày hoặc vốn DCTTTSH Tày ở một
địa phương: Công trình Văn hóa dân gian Cao Bằng xuất bản năm 1993 [102] có
nhiều bài viết về DCTTSH của ngƣời Tày ở Cao Bằng. Tác giả Vƣơng Hùng có bài
viết Sli lượn Tày Nùng ở Cao Bằng đã chỉ ra đặc điểm phân bố, giai điệu, cấu trúc,
16
môi trƣờng diễn xƣớng và tình hình diễn xƣớng sli lượn Tày Nùng trong cuộc sống
hiện tại ở Cao Bằng. Trong bài viết Vài nét về ca nhạc dân gian Tày Cao Bằng, nhạc
sĩ Vĩnh Long quan tâm nhiều đến những nét chung về sinh hoạt âm nhạc qua khảo sát
các mảng dân ca Tày nhƣ lượn, phong slư, thơ lẩu, ứ noọng, hát then, phường ca… Từ
đó, nhạc sĩ đi đến khẳng định về sự phong phú và độc đáo, mang màu sắc địa phƣơng
của dân ca Tày xét về mặt âm nhạc.
Với công trình Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], tác giả
Hoàng Thị Quỳnh Nha có nhắc tới bốn điệu dân ca của ngƣời Tày, Nùng: lượn Ngạn,
lượn phủ, sli giang, hêu phượn. Trong đó, chúng tôi chú ý tới lượn Ngạn là dân ca của
một nhóm Tày địa phƣơng. Lượn Ngạn đƣợc tác giả giới thiệu vắn tắt ở các khía cạnh:
thể thơ, nội dung phản ánh và đặc điểm âm nhạc.
Trong cuốn Văn hóa dân gian Tày - Nùng ở Việt Nam, tác giả Hà Đình Thành
có dành ra một phần nhỏ để giới thiệu khái quát về nội dung và nghệ thuật của ca dao
Tày Nùng. Ca dao bao gồm các nội dung về thiên nhiên hùng vĩ, về tình yêu nam nữ,
với các cách biểu hiện thú vị nhƣ cấu tứ theo lối phú, tỉ, hứng, nghệ thuật sử dụng các
biện pháp tu từ. Bên cạnh đó, tác giả điểm qua những hạn chế của ca dao Tày Nùng
nhƣ “mang tƣ tƣởng của giai cấp thống trị, hoặc mang tƣ tƣởng mê tín dị đoan về số
phận” [140; tr. 154]. Với tính chất là một phần giới thiệu để minh họa cho văn hóa dân
gian Tày Nùng ở Việt Nam, những luận điểm tác giả đƣa ra còn khá mờ nhạt, chƣa
khảo tả hết đƣợc sự phong phú, giàu có của ca dao Tày Nùng.
Trong cuốn Thành ngữ - tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], tác giả Hoàng
Triều Ân đã giới thuyết về phuối rọi và lượn. Nhắc đến lượn có thể kể lượn nàng ới ở
Cao Bằng, lượn cọi ở Bắc Kạn, Tuyên Quang, lượn slương ở Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn với các cách gieo vần khác nhau. Hoàng Triều Ân đặc biệt đi sâu vào tìm
hiểu nội dung phản ánh của ca dao Tày nhƣ: tâm tƣ, nguyện vọng, tình cảm một thời
của dân tộc; hiện thực xã hội bất công và ý thức dân chủ của ngƣời Tày; phản ánh nỗi
niềm trăn trở với đời; tình yêu con ngƣời.
Nhƣ thế, sự nghiên cứu ở các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu
khái quát về DCTTSH Tày theo mục đích sƣu tầm, biên soạn và phổ biến văn hóa, văn
nghệ dân gian. DCTTSH Tày đƣợc giới thiệu ở các phƣơng diện: tên gọi, sự phong
phú của các nhóm bài hát và đi vào giới thiệu khái quát về các đặc điểm của một nhóm
bài hát nào đấy, hoặc ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc chung cho cả kho tàng DCTTSH
17
Tày. Bởi thế, những sự nghiên cứu ở các công trình này chỉ gói gọn trong vài trang mở
đầu, dẫn luận, còn phần sau là kết quả sƣu tầm, biên dịch dân ca nhằm chứng minh
cho những nhận định chung nhất của phần dẫn luận. Sự nghiên cứu chuyên sâu dù là
về một bộ phận của DCTTSH Tày là chƣa có ở những công trình này.
Thứ hai là nhóm các nghiên cứu sâu hơn về một vấn đề hoặc một bộ phận cụ
thể của DCTTSH Tày trong các chuyên khảo, luận văn. Trong đó, công trình đầu tiên
phải kể đến là Sli, lượn dân ca trữ tình Tày Nùng của Vi Hồng xuất bản năm 1979
[52]. Ở đây, tác giả coi lượn là toàn bộ các hình thức dân ca của ngƣời Tày, phân biệt
lượn với sli của ngƣời Nùng. Đây là cách hiểu theo nghĩa rộng, với cách dịch lượn
nghĩa là hát. Theo đó, dân ca Tày sẽ có lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới,
lượn phong slư, lượn quan lang… Tuy nhiên, ông chỉ tập trung nghiên cứu lượn giao
duyên với nhiều khía cạnh nhƣ: đề tài, nội dung phản ánh, ý nghĩa của lượn, mối quan
hệ giữa lượn với thơ Tày hiện đại. Hoàn cảnh diễn xƣớng của lượn ngày hội, lượn
trong nhà có đƣợc tác giả nhắc đến song chƣa đƣợc phân tích kĩ càng. Vi Hồng cũng
giới thiệu qua về lượn quan lang nhƣng để ở mục phụ lục tƣ liệu. Sự khảo sát nhƣ vậy
chƣa củng cố đƣợc sự vững chắc cho quan điểm coi lượn là toàn bộ dân ca Tày của Vi
Hồng. Tuy thế, đây vẫn là công trình nghiên cứu công phu, dày dặn nhất về DCTTSH
của ngƣời Tày. Những nhận định của nhà nghiên cứu Vi Hồng đem tới cho chúng tôi
những gợi ý hữu ích cho việc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của DCTTSH Tày.
Cũng là chuyên khảo nghiên cứu về dân ca, nhƣng tác giả Nông Thị Nhình của
chuyên luận Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng – Dao Lạng Sơn [97] lại
hƣớng sự quan tâm tới khía cạnh âm nhạc. Bên cạnh âm nhạc của các dân tộc Nùng,
Dao, tác giả Nông Thị Nhình đã nghiên cứu về dân ca Tày ở Lạng Sơn trên những
phƣơng diện nhƣ: các hình thức sinh hoạt âm nhạc dân gian, các làn điệu, giai điệu,
quan hệ giữa giai điệu và thơ ca, các nhạc cụ dân gian và dàn nhạc.
Bên cạnh các công trình chuyên khảo nhƣ trên là sự xuất hiện của hàng loạt các
luận văn. Chẳng hạn, trong luận văn Yếu tố tự sự trong dân ca Tày [164], tác giả Vũ
Ánh Tuyết đã chỉ ra các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự là những bài ca có cốt
truyện và những bài ca không có cốt truyện. Từ đó, tác giả nêu lên vai trò phản ánh
hiện thực và kể sự tả tình của yếu tố tự sự trong DCTTSH Tày. Với luận văn Khảo sát
ý nghĩa hình ảnh trong ca dao – dân ca Tày Nùng [84], Đỗ Vân Nga đã phân tích
các hình ảnh nổi bật của ca dao – dân ca Tày Nùng nhƣ các hình ảnh thiên nhiên, vũ
18
trụ, các hình ảnh về vật dụng sinh hoạt, các hình ảnh liên quan đến con ngƣời. Tác giả
cũng phần nào làm rõ đƣợc mối liên quan giữa các hình ảnh đó của ca dao – dân ca với
đời sống sinh hoạt, phong tục, tín ngƣỡng của cƣ dân Tày – Nùng. Năm 2016, với
việc công bố kết quả nghiên cứu của luận văn Nhân vật trữ tình trong cắm nôm – dân
ca dân gian Tày huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái [85], Nguyễn Thị Bích Ngọc đã phân
tích các hệ thống nhân vật nữ, nhân vật nam, nhân vật biểu tƣợng, đồng thời làm rõ
nghệ thuật xây dựng nhân vật trữ tình trong cắm nôm.
Tìm hiểu về một thể loại DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, năm 2009,
Hoàng Minh Nguyệt giới thiệu và nghiên cứu về một làn điệu độc đáo của DCTTSH
Tày là iếu – một hình thức mang tính địa phƣơng của lượn cọi – thông qua luận văn
Hát iếu của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang – Những đặc điểm nội dung và
nghệ thuật [91]; năm 2011, Lê Thị Phƣơng Thảo thực hiện luận văn với đề tài Hát
lượn slương của người Tày (Qua khảo sát ở xã Yên Cư, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc
Kạn) [141]. Đóng góp của hai công trình là ở chỗ chỉ ra đƣợc những đặc điểm nội
dung, thi pháp của hai mảng dân ca này, nhƣng lại hạn chế ở chỗ chƣa chỉ ra đƣợc cái
hay và tính đặc thù dân tộc của âm nhạc và diễn xƣớng.
Nhƣ vậy, dù đã nghiên cứu sâu hơn nhƣng do tính chất cụ thể, nhỏ lẻ của đối
tƣợng nghiên cứu, các luận văn kể trên vẫn chƣa thể nhận thức đƣợc DCTTSH Tày
trong tính chỉnh thể, tính hệ thống của nó, do đó, chƣa làm rõ đƣợc đầy đủ các đặc
điểm của mảng dân ca này. Tuy thế, đây lại là những chỉ dẫn quý báu đối với chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận án này.
Qua điểm lại tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chƣa có một công trình
nào đi sâu tìm hiểu DCTTSH Tày một cách có hệ thống. Do tính chất là những công
trình công bố tƣ liệu dân ca nên hầu hết sự nghiên cứu ở các bài giới thiệu mới dừng
lại ở mức độ chỉ dẫn sơ bộ, chung chung trong một vài trang. Các luận văn tuy nghiên
cứu công phu hơn song cũng mới dừng sự quan tâm ở một vài mảng DCTTSH Tày
nhƣ lượn slương, iếu, cắm nôm với địa bàn nghiên cứu cụ thể là một địa phƣơng nào
đấy, hoặc nghiên cứu về một khía cạnh cụ thể của DCTTSH Tày nhƣ hình ảnh, yếu tố
tự sự… Công trình khảo tả dân ca để nghiên cứu âm nhạc tuy nghiên cứu về âm nhạc
dân gian Tày khá chuyên sâu song vẫn chỉ là một công trình phục vụ cho một chuyên
ngành khác, nên các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp, đặc điểm diễn xƣớng bị bỏ qua.
19
Công trình nghiên cứu chuyên sâu nhất là của tác giả Vi Hồng lại chủ yếu tập trung
vào lượn giao duyên và chƣa làm rõ đƣợc sự đặc sắc về phƣơng diện diễn xƣớng.
1.1.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái
1.1.2.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái
Trong lịch sử sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca các DTTS, dân ca của ngƣời Thái
đƣợc sƣu tầm sớm thứ tƣ, sau dân ca của các dân tộc Tày, H’Mông và Mƣờng. Ngƣời
Thái cƣ trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc và vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An. Trong phạm vi
nghiên cứu của luận án, chúng tôi chỉ quan tâm đến lịch sử sƣu tầm DCTTSH của
ngƣời Thái ở Tây Bắc và phân các công trình này sƣu tầm này ra làm hai nhóm.
Thứ nhất là nhóm các công trình công bố tư liệu DCTTSH Thái dưới hình thức
tiếng Việt. Công trình đầu tiên phải kể đến là cuốn Ẳm ệt luông, trường ca dân ca tục
ngữ dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình của Khà Văn Tiến năm 1972
[135]. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu đến bạn đọc nhiều bài hát giao duyên,
hát chơi và hát phong tục ở hình thức đã dịch ra tiếng Việt. Năm 1979, cuốn Dân ca
Thái (Hai trăm lẻ sáu bài dân ca Thái về tình yêu) [119] của Mạc Phi đƣợc xuất bản.
Tác giả giới thiệu các bài dân ca theo trình tự của một cuộc hát đối đáp. Theo đó, cuốn
sách có các phần là: gặp gỡ, ƣớm hỏi, yêu, thƣơng dặn. 206 bài dân ca đƣợc giới thiệu
dƣới hình thức tiếng Việt, không có phần phiên âm tiếng Thái. Năm 1991, cuốn Dân
ca Thái Mai Châu [150] do Nguyễn Hữu Thức chủ biên đƣợc xuất bản đã giới thiệu
các bộ phận của dân ca Thái ở Mai châu, bao gồm mo (các bài hát dùng trong cúng
bái), khắp (các bài hát giao duyên), pháng (các bài hát ngẫu hứng), sằng (các bài hát
dặn), xềnh (các bài hát ngợi ca), sườn (các bài hát kể). Tƣơng tự nhƣ ở các công trình
sƣu tầm dân ca Thái xuất bản trƣớc, các bài dân ca Thái đƣợc giới thiệu ở đây chỉ có
bản đƣợc dịch ra tiếng Việt, không có bản phiên âm tiếng Thái.
Thứ hai là nhóm các công trình công bố tư liệu DCTTSH Thái dưới hình thức
song ngữ Thái – Việt. Công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Thái dƣới dạng
song ngữ Thái – Việt là Dân ca Thái vùng Tây Bắc – Việt Nam [50] của Nguyễn Văn
Hòa, xuất bản năm 2001, muộn hơn khá nhiều so với công trình công bố tƣ liệu
DCTTSH Tày dƣới dạng song ngữ Tày – Việt (năm 1970). Trong công trình này, tác
giả Nguyễn Văn Hòa đã giới thiệu 52 bài hát trong các trƣờng hợp diễn xƣớng khác
nhau nhƣ: Khắp mú lẳu pan khẳu (Hát ở mâm cơm, mâm rƣợu), khắp báo xao (hát
thƣơng yêu), khắp xư (hát thơ), khắp khơ nay chơi (hát rong chơi), khắp tặc tuộng (hát
20
chào hỏi), khắp xe (hát múa xòe), khắp xáng buôn (hát giải sầu), khắp cóm lụk (hát ru
con), khắp khí chọn cha (hát đánh đu), khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi).
Năm 2012, cuốn sách Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống,
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên [49] của Tòng Văn Hân đƣợc xuất bản. Tuy đây là
cuốn sách có tính chất giới thiệu các bài khắp sứ lam – mảng dân ca đƣợc dùng để hát
trong đám cƣới của ngƣời Thái ở Điện Biên, song tác giả cũng giới thiệu bốn bài hát
đối đáp giao duyên giữa nam và nữ dƣới hình thức song ngữ.
Hai tác giả Đỗ Thị Tấc, Hà Mạnh Phong là những ngƣời dày công sƣu tầm và
đã giới thiệu tới bạn đọc một số lƣợng lớn các tác phẩm DCTTSH Thái. Năm 2012,
Đỗ Thị Tấc công bố tƣ liệu DCTTSH Thái bao gồm 47 bài trong cuốn Dân ca Thái
Lai Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa) [134]. Hai năm
tiếp theo, DCTTSH Thái Đỗ Thị Tấc lại cùng Hà Mạnh Phong tiếp tục công bố 190
bài DCTTSH Thái trong công trình Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 - Thơ và dân ca
tình yêu của người Thái Mường So [121]. Các bài dân ca đƣợc giới thiệu dƣới cả ba
hình thức: chữ Thái cổ, bản phiên âm tiếng Thái và bản dịch nghĩa ra tiếng Việt. Đây
là điều hết sức đáng quý. Tuy nhiên, các tác giả lại không ghi rõ nguồn gốc của tƣ liệu
đƣợc công bố, bao gồm tên sách hoặc tên nghệ nhân, địa chỉ.
Tƣ liệu DCTTSH Thái đã đƣợc quan tâm sƣu tầm, giới thiệu dƣới dạng song
ngữ. Tuy thế, thực tế số lƣợng văn bản đƣợc công bố dƣới dạng song ngữ chƣa thực sự
tƣơng xứng với sự phong phú của kho tàng dân ca này. Bên cạnh đó, trừ các bài khắp
hạn khuống trong công trình của tác giả Nguyễn Văn Hòa, sự sắp xếp các bài dân ca
còn chƣa theo một trật tự nào, gây khó khăn cho ngƣời đọc khi hình dung về một trình
tự diễn xƣớng hoặc về các nhóm bài hát của DCTTSH của ngƣời Thái ở Tây Bắc.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái
Năm 1992, trong bài viết Quan điểm về phương pháp khái quát diện mạo và
tiến trình văn học Thái, Phan Đăng Nhật đã nhận xét: “Từ trƣớc đến nay, chƣa có một
công trình khái quát về diện mạo và tiến trình văn học Thái, bao gồm cả VHDG và văn
học thành văn” [94; tr 28]. Sau bài viết của Phan Đăng Nhật đến nay vẫn chƣa có một
công trình chuyên biệt nào về văn học Thái nói chung, DCTTSH Thái nói riêng. Qua
xem xét các công trình nghiên cứu về DCTTSH Thái, chúng tôi thấy có thể phân kết
quả nghiên cứu làm hai dạng, tƣơng tự nhƣ thành tựu nghiên cứu về DCTTSH Tày.
21
Thứ nhất là nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở đầu
sác sách công bố tư liệu DCTTSH Thái và các bài viết trên tạp chí.
Về đặc điểm của lời ca trong DCTTSH Thái, cuốn Dân ca Thái (Hai trăm lẻ
sáu bài dân ca Thái về tình yêu) của Mạc Phi xuất bản năm 1979 [119] có lẽ là công
trình thuộc loại sớm nhất đề cập đến. Trong đó, tác giả Mạc Phi đã dành vài trang đầu
sách để giới thiệu về bộ phận dân ca này. Về nội dung, Mạc Phi nhận thấy dân ca Thái
về tình yêu có nhiều đắm say, lại cũng nhiều cƣời cợt, khinh ghét những bất công, và
sâu sắc nhất là những lời khuyên nhủ hữu ích. Đáng tiếc, những nội dung đặc sắc đó
của Tản chụ xiết xương, Tản chụ xống xương, Tản chụ xắng xương (trò chuyện với
ngƣời bạn tình theo cách bóng gió/ thƣơng yêu/ thƣơng xót) mới chỉ đƣợc tác giả giới
thiệu sơ qua, chƣa nói gì đến những giá trị nghệ thuật của loại dân ca đặc sắc này.
Về đặc điểm của diễn xƣớng DCTTSH Thái, bài viết Hạn Khuống, một hình
thức hội diễn ca nhạc cổ truyền của đông bào Thái Tây Bắc của Trần Lê Văn [172]
đã giới thiệu về lễ hội Hạn khuống của ngƣời Thái, qua đó cung cấp cho ngƣời đọc cái
nhìn rõ nét hơn về môi trƣờng diễn xƣớng của một điệu hát cụ thể của DCTTSH Thái
là khắp hạn khuống.
Nghiên cứu về dân ca Thái ở một địa phƣơng cụ thể, các tác giả Hà Mạnh
Phong, Đỗ Thị Tấc giới hạn địa bàn nghiên cứu ở Lai Châu. Công trình Dân ca Thái
Lai Châu gồm có hai quyển: Quyển 1 - Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa)
[134], Quyển 2 - Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So [121]. Ở quyển
2, các tác giả có bài giới thiệu về khắp hặc xơng – một làn điệu dân ca tình yêu của
ngƣời Thái ở Lai Châu trên các khía cạnh: làn điệu, nội dung, nhạc cụ, môi trƣờng
diễn xƣớng. Đáng tiếc, những gợi ý ấy quá ngắn gọn, rất khó để ngƣời đọc có thể hình
dung đƣợc hết những cái độc đáo của bộ phận dân ca này.
Các công trình trên đã bƣớc đầu đề cập đến những đặc điểm nội dung, thi pháp,
sự diễn xƣớng của DCTTSH Thái. Tuy thế, do chỉ giới hạn trong khuôn khổ ngắn gọn
của một bài báo, hoặc một bài giới thiệu, bài dẫn luận ở đầu cuốn sách sƣu tầm, biên
dịch, công bố tƣ liệu dân ca nên những nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở sự trình bày, mô
tả mang tính ấn tƣợng ban đầu về mảng DCTTSH đang đƣợc giới thiệu. Sự thiếu sâu
sắc, toàn diện vì thế là không tránh khỏi.
Thứ hai, nhóm các nghiên cứu sâu hơn về một vấn đề của DCTTSH Thái trong
chuyên khảo, luận văn, luận án gồm có:
22
Công trình Ngôn ngữ với việc hình thành âm điệu đặc trưng trong dân ca
Thái của tác giả Dƣơng Đình Minh Sơn [130] đã nghiên cứu về dân ca Thái Tây Bắc ở
các nội dung: hát thơ và các dạng hát thơ, âm điệu c a x làm nét dạo đầy láy đuôi trong
các làn điệu dân ca, những làn điệu “lòng bản” trong dân ca, nhận xét tính chất của các
làn điệu, sự ra đời của tên gọi làn điệu khắp xai peng, điệu nhạc múa cúng mƣờng.
Đây là một trong những cơ sở quan trọng để tác giả đi đến kết luận về mối liên hệ giữa
ngôn ngữ với việc hình thành những âm điệu đặc trƣng trong âm nhạc dân gian Thái ở
Tây Bắc Việt Nam. Nhìn chung, trong chuyên khảo công phu này, nhạc sĩ Dƣơng
Đình Minh Sơn chủ yếu quan tâm đến khía cạnh âm nhạc chứ chƣa chú ý đến các yếu
tố văn bản và phƣơng thức diễn xƣớng của dân ca Thái.
Luận văn Giải mã một số biểu tượng trong ca dao – dân ca dân tộc Thái [122]
của tác giả Cầm Bá Phƣợng đã phân loại biểu tƣợng, đồng thời giải mã ý nghĩa các
biểu tƣợng của dân ca Thái nhƣ: hạn khuống, sợi chỉ, chim cu gáy, còn, Khun Lú –
Nàng Ủa, rƣợu cần, khăn piêu. Cũng về vấn đề biểu tƣợng, năm 2012, tác giả Đặng
Thị Oanh công bố kết quả luận án Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian
của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [113]. Ở luận án này, tác giả đã tìm hiểu về
VHDG Thái, trong đó có DCTTSH từ việc tiếp cận biểu tƣợng nƣớc. Với việc khẳng
định nguồn gốc và quá trình chuyển nghĩa của biểu tƣợng nƣớc từ trong văn hóa vào
VHDG, tác giả cho thấy nƣớc trong DCTTSH mang sức mạnh của sự hủy diệt, sự thử
thách, là chất kết nối tình cảm, thiết lập và cố kết cộng đồng Thái. Nhƣ thế, cả hai
công trình này đều chỉ nghiên cứu về một vấn đề thuộc thi pháp của dân ca Thái.
Từ việc tìm hiểu các công trình nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy DCTTSH Thái đã
đƣợc quan tâm nghiên cứu chuyên sâu ở một vài vấn đề cụ thể nhƣ biểu tƣợng, âm
nhạc. Sự nghiên cứu để chỉ ra đƣợc diện mạo, đặc điểm của bộ phận dân ca này là có
song mới dừng ở mức độ khái quát, mang tính giới thiệu. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu về DCTTSH Thái còn khá thƣa thớt, thiếu vắng những công trình chuyên
sâu, nghiên cứu một cách có hệ thống.
1.1.2.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và
người Thái theo hướng so sánh
Chúng tôi chƣa thấy một công trình nào so sánh công phu về sự giống và khác
nhau giữa DCTTSH của dân tộc Tày và dân tộc Thái. Sự so sánh mới chỉ đƣợc điểm
đến trong những nhận định khá chung chung mà chƣa đi sâu vào phân tích thỏa đáng.
23
Đầu tiên, phải kể đến nhận định của Lê Chí Quế trong bài viết Việc phân loại
dân ca các dân tộc ở miền Bắc nước ta in trong tạp chí Văn học, số 6, năm 1975, in
lại trong Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt nam, tập 23. Trên cơ
sở đƣa ra bảng hệ thống dân ca các DTTS, nhìn vào sự phân bố không đồng đều giữa
các ô của từng bộ phận, ông cho rằng dân ca lao động và dân ca nghi lễ của ngƣời Việt
và các DTTS có nhiều điểm khác hơn là giống. Ngƣợc lại, ở DCTTSH, đặc biệt là dân
ca đối đáp giao duyên nam nữ của các dân tộc này sự tƣơng đồng nhiều hơn dị biệt bởi
nó “là tiếng lòng của con ngƣời trƣớc những mối quan hệ tác động trực tiếp đến đời
sống tình cảm của chính họ… Những con ngƣời tuy ở các dân tộc khác nhau mà lại
trong cùng một quốc gia thì chắc chắn là dễ tìm gặp nhau hơn” [178; tr. 850]. Nhận
định này của ông bao hàm sự tƣơng đồng của DCTTSH Tày, Thái.
Trong chuyên khảo Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, với
gần 150 trang nghiên cứu về dân ca các DTTS, Võ Quang Nhơn đã dành một phần nhỏ
cho sự quan tâm đến sắc thái dân ca của các dân tộc. Tác giả viết: “Trong sự thống
nhất của các truyền thống nghệ thuật, dân ca mang tính cộng đồng khá sâu bền, nảy nở
nhiều phong cách sáng tạo thông minh, mang nhiều âm điệu phong phú ở các dân tộc,
ở các miền của đất nƣớc: sắc thái hồn nhiên, vui tƣơi của các dân tộc Tây Nguyên, âm
điệu trữ tình sâu lắng của các dân tộc ở Tây Bắc, cấu tứ ít nhiều thiên về chất trí tuệ
của các dân tộc ở Việt Bắc, phong cách trữ tình thâm trầm ít nhiều pha màu sắc đạo
đức, tôn giáo của các dân tộc Chăm và Khơ Me ở miền Nam” [109; tr. 343]. Với nhận
xét này, tác giả đề cập đến sự khác nhau về phong cách dân ca Việt Bắc và Tây Bắc,
trong đó có dân tộc Tày và Thái. Tuy nhiên, nhận định so sánh này mới ở mức độ
điểm qua và mang màu sắc vùng miền nói chung mà thôi.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế trong công trình Những xu hướng biến đổi
văn hóa các dân tộc miền núi phía bắc Việt Nam, khi phân tích một số hình thức sinh
hoạt dân ca đã đi đến nhận định về sự khác nhau của dân ca Tày, Thái. Theo đó, dân
ca Thái đậm chất trữ tình, dân ca Tày có chút thiên về lý trí, thể hiện ở loạt các bài hát
có tính chất đua tài, thử trí khá phổ biến. Đồng thời, ở tầm chung cho dân ca các DTTS
miền núi phía bắc, tác giả cũng cho rằng dân ca giao duyên có tổ chức tƣơng đồng ở
sự chặt chẽ của lề lối, quy củ và khác nhau ở địa điểm diễn xƣớng, tổ chức lực lƣợng
(hát thành đoàn hoặc không), trình tự hát và cấu tạo thành phần bài ca trong trình tự ấy
[53; tr. 265 – 290]. Sự phân tích của tác giả chủ yếu ở sự diễn xƣớng chứ chƣa đi sâu
24
vào nội dung phản ánh và thi pháp lời ca. Song, chỉ xét riêng ở góc độ so sánh diễn
xƣớng thôi thì đây đã là những gợi ý quan trọng định hƣớng cho chúng tôi trong khi so
sánh DCTTSH Tày, Thái.
Trong công trình về âm nhạc dân gian của các DTTS Đặc điểm dân ca Mông
Tày Nùng Thái [37], Tuấn Giang đã nghiên cứu dân ca Mông Tày, Nùng, Thái trên
các phƣơng diện: khái niệm phong cách dân ca các dân tộc, không gian xã hội các loại
dân ca, sự ra đời dân ca các dân tộc, hệ thống làn điệu dân ca, quy luật phát triển giai
điệu loại thể dân ca, quan hệ nhạc và lời dân ca, cấu trúc giai điệu các tiểu loại dân ca,
nhận diện hình tƣợng, giai điệu âm nhạc, đặc điểm của dân ca các dân tộc. Với công
trình này, tác giả đã có đóng góp nhằm phân loại dân ca, cấu trúc thang âm giai điệu
hệ hình dân ca, nhận diện phong cách, đặc điểm dân ca từng dân tộc. Ở góc độ tìm
hiểu về DCTTSH Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến chƣơng 3 của công trình với nội
dung về sự ra đời dân ca các dân tộc. Ở đây, tác giả có giới thiệu về nội dung, giá trị
nghệ thuật và đặc điểm lời ca của hát ru, đồng dao, tiếng hát giao duyên, tiếng hát lao
động. Tác giả chỉ ra sự tƣơng đồng về mặt nội dung của dân ca các dân tộc là phản ánh
hiện thực đời sống xã hội. Tuy nhiên, ông không chỉ rõ sự khác nhau về nội dung,
nghệ thuật lời ca, sự diễn xƣớng của dân ca các dân tộc. Nhìn chung, vì đây là một
chuyên luận về so sánh âm nhạc dân gian nên các đặc điểm của dân ca Tày, Thái
không đƣợc ông đi sâu tìm hiểu và chƣa có sự so sánh rõ ràng.
Trên cơ sở điểm lại tình hình nghiên cứu nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy, cho đến
thời điểm này, chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, một chuyên luận nào
xem xét, nghiên cứu về DCTTSH của các dân tộc Tày, Thái dƣới góc độ so sánh một
cách toàn diện. Đây vẫn còn là một khoảng trống để ngỏ. Trong khi, trên thực tế, vấn
đề này lại rất có ý nghĩa đối với việc làm rõ những đặc sắc văn hóa của dân tộc.
1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển
Ngƣời Tày và ngƣời Thái có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử và văn hóa
Việt Nam. Hai tộc ngƣời đều nắm giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng và có đời sống văn
hóa vô cùng đặc sắc, đóng góp những mảng màu không thể thiếu trong bức tranh văn
hóa Việt Nam. Bởi thế, đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu về DCTTSH
của hai dân tộc này trên nhiều phƣơng diện, với nhiều hƣớng tiếp cận khác nhau: thi
pháp học, văn hóa học, âm nhạc… Tuy thế, đến nay vẫn chƣa có một tiếng nói cuối
cùng nào về tính riêng, đặc thù của hai dân tộc đƣợc thể hiện qua DCTTSH.
25
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng và cần thiết của việc so sánh DCTTSH Tày,
Thái, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người
Thái ở Việt Nam làm đề tài cho luận án của mình. Luận án của chúng tôi đặt vấn đề so
sánh những điểm giống và khác nhau giữa DCTTSH của dân tộc Tày và Thái ở Việt
Nam, với sự kết hợp các phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so
sánh, phƣơng pháp liên ngành. Đây là nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên theo hƣớng so
sánh DCTTSH của hai DTTS ở Việt Nam là dân tộc Tày và dân tộc Thái.
Nghiên cứu về DCTTSH, rộng hơn là văn hóa của DTTS, là công việc vô cùng
khó khăn, vừa đòi hỏi phƣơng pháp và tri thức nền tảng, vừa đòi hỏi sự am hiểu văn
hóa dân tộc, lại phải căn cứ trên nguồn tƣ liệu dân ca mang tính tin cậy. Từ việc điểm
lại tình hình nghiên cứu nhƣ trên, chúng ta thấy tham gia vào công việc đó có các đại
diện của giới trí thức Tày, Thái và các đại diện của ngƣời Kinh ở miền xuôi. Nếu nhƣ
các đại diện Tày, Thái có điều kiện trƣởng thành trong suối nguồn văn hóa dân tộc,
cắm rễ sâu ở địa bàn thì các đại diện ngƣời Kinh lại có điều kiện về nghiệp vụ và
phƣơng pháp. Các kết quả nghiên cứu về dân ca Tày, Thái là sự tổng hợp công sức của
nhiều ngƣời, nhiều thế hệ, nhiều thành phần dân tộc trong khoảng thời gian nửa thế kỉ.
Những thành tựu đó là những chỉ dẫn hết sức quý báu đối với chúng tôi trong quá trình
thực hiện luận án. Song, để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rất cần đến sự thống nhất
của nguồn tƣ liệu làm đối tƣợng cho sự khảo sát.
Từ việc điểm lại tình hình sƣu tầm DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nhƣ
ở phần trƣớc, chúng tôi nhận thấy có những điểm đáng lƣu ý nhƣ sau:
Thứ nhất, xét về mặt thời gian: Theo lí thuyết, dân ca của hai tộc ngƣời vừa nêu
ra đời rất sớm. Song, việc ghi chép lại dân ca Tày mới chỉ diễn ra sớm nhất vào những
năm ba mƣơi của thế kỉ XX với Nguyễn Văn Huyên. Trong công trình nổi tiếng của
mình, Nguyễn Văn Huyên lại dịch thơ ca dân gian Tày ra tiếng Pháp chứ không dịch
ra tiếng Việt. Những bản dịch dân ca Tày ra tiếng Việt sớm nhất ở miền Bắc là vào
những năm sáu mƣơi. Công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày theo hình thức song
ngữ Tày – Việt sớm nhất là Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày - Nùng của nhóm tác
giả sƣu tầm, biên dịch Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang
Nhơn vào năm 1970. Công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Thái sớm nhất theo hình
thức song ngữ Thái – Việt là Truyện cổ, dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam của
Nguyễn Văn Hòa vào năm 2001. Ngôn ngữ và văn hóa luôn biến đổi. Những văn bản
26
dân ca hiện chúng ta đang quan sát có lịch sử vài trăm năm trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Cho nên, chúng tôi không đặt nhiệm vụ so sánh về nguồn gốc và quá
trình phát triển của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, ảnh hƣởng của DCTTSH Tày
lên DCTTSH Thái hay ngƣợc lại. Chúng tôi chỉ xin khảo sát, tìm hiểu về nội dung, thi
pháp, đặc điểm diễn xƣớng, lấy đó làm cơ sở cho sự phân tích các điểm tƣơng đồng và
khác biệt giữa hai bộ phận dân ca của hai dân tộc, chỉ ra nội hàm văn hóa, lịch sử, địa
lí… đƣợc bao chứa trong các đặc điểm đó. Từ đó, chúng tôi cung cấp cho mọi ngƣời
cái nhìn rõ hơn về cái phổ biến và cái đặc thù trong văn hóa các dân tộc.
Thứ hai, xét về mặt phân loại: Trong các cuốn sách công bố tƣ liệu DCTTSH
Tày, Thái, các tác giả phân loại dân ca theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, ở
DCTTSH của ngƣời Tày, nhiều công trình đã giới thiệu về từng mảng dân ca đƣợc sƣu
tầm và ghi rõ tên gọi nhƣ lượn cọi, lượn slương, lượn nàng ới, lượn rọi, iếu…, hoặc
phân loại dựa vào nội dung của bài hát xét trong toàn bộ quá trình diễn xƣớng nhƣ
cách làm của PGS. TS Trần Thị An trong cuốn Tổng tập văn học dân gian các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tập 17 [177], tập 18 [175], tập 19 [176]. Song, bên cạnh đó, có
những công trình lại không hề ghi rõ những bài hát đƣợc giới thiệu đó thuộc mảng
nào, theo quan điểm phân loại nào. Có thể kể đến nhƣ: Thơ ca dân gian Tày – Nùng
xứ Lạng [5], Chồm bjoóc mạ [14], phần lƣợn Tày Lạng Sơn trong công trình Lượn
Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108], Thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân tộc
Tày [127], Tàng pây kết chụ - Đường đi kết bạn tình [128], Tục ngữ, ca dao Tày
vùng hồ Ba Bể [192]. Tình trạng ấy tƣơng tự ở các cuốn sách công bố tƣ liệu
DCTTSH của ngƣời Thái. Chỉ duy nhất trong công trình Truyện cổ và dân ca Thái
vùng Tây Bắc Việt Nam [50], tác giả Nguyễn Văn Hòa có ghi rõ các bài hát thuộc các
mảng có tên gọi khắp hạn khuống, khắp khí chọn cha, khắp khơ nay chơi...
Thứ ba, về nguồn gốc dân tộc của tác phẩm: Khi tập hợp các bài hát dân gian
vào các tập sách giới thiệu tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày, có trƣờng hợp những bài
hát không phải chỉ của riêng ngƣời Tày mà còn đƣợc sử dụng trong cộng đồng ngƣời
Nùng. Vì thế mới có tên gọi của các cuốn sách: Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày –
Nùng, Lượn cọi Tày – Nùng, Thơ ca dân gian Tày – Nùng xứ Lạng, Sli lượn hát
đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng. Thực tế sự hỗn hợp về mặt nhân chủng giữa
ngƣời Tày và ngƣời Nùng, dẫn đến hiện tƣợng Nùng hóa Tày và điều kiện xen cƣ trên
cùng một vùng lãnh thổ của hai tộc ngƣời này khiến cho họ có sự giao lƣu văn hóa khá
27
mạnh mẽ mà hệ quả của nó là làm cho kho tàng VHDG của ngƣời Tày phong phú hơn,
song cũng vì thế mà khó khăn hơn trong việc phân định nguồn gốc, lai lịch, tính chất
dân tộc của tác phẩm.
Thứ tƣ, về vấn đề hình thức song ngữ: Trong khi sƣu tầm VHDG các DTTS, có
một nguyên tắc là cần ghi chép nguyên bản bằng tiếng DTTS, sau đó dịch ra tiếng
Việt. Cả hai tài liệu (bằng tiếng dân tộc và tiếng Việt) mới đƣợc coi là văn bản hoàn
chỉnh của tác phẩm. Việc sƣu tầm DCTTSH Tày, Thái không nằm ngoài quy luật ấy.
Nhƣng, trên thực tế, không phải công trình nào cũng làm đƣợc điều đó. Vẫn có nhiều
công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái chỉ có bản dịch tiếng Việt. Hơn thế, ở
DCTTSH Tày, có trƣờng hợp các tác giả còn dịch sang tiếng Việt dƣới hình thức thơ
lục bát chứ không phải dịch nguyên nghĩa và giữ nguyên đặc điểm thể loại thất ngôn
của ngƣời Tày. Do vậy, chúng chƣa thật đảm bảo tính chính xác, khoa học của tác
phẩm sƣu tầm và mất đi cái mĩ cảm của dân tộc. Ngay ở những công trình giới thiệu
DCTTSH dƣới hình thức song ngữ, các bản phiên âm và bản dịch cũng chƣa hẳn là
khớp nhau về số câu và về nghĩa.
Thứ năm, về mặt số lƣợng: Trong tƣơng quan so sánh với DCTTSH của các
DTTS khác, DCTTSH của ngƣời Tày đƣợc quan tâm sƣu tầm và công bố từ khá sớm
và đạt đƣợc nhiều thành tựu. Cho đến nay, hầu hết các mảng của DCTTSH Tày đều đã
đƣợc công bố, bao gồm: lượn cọi, lượn slương, lượn then, iếu, rọi, phong slư… Không
nói đến những tài liệu sƣu tầm dân ca dƣới hình thức tiếng Việt, chỉ tính thành tựu sƣu
tầm, giới thiệu DCTTSH Tày dƣới dạng song ngữ, chúng tôi đã thống kê đƣợc số
lƣợng bài ca lên tới con số 1572 lời. So với kết quả công bố tƣ liệu DCTTSH Tày,
nguồn tƣ liệu về DCTTSH Thái không phong phú bằng. Theo thống kê của chúng tôi,
đến nay, mới có 4 công trình giới thiệu DCTTSH Thái dƣới dạng song ngữ với số
lƣợng bài ca là 292. Con số này khá khiêm tốn so với DCTTSH Tày. Nó có thể đƣợc lí
giải bằng sự quan tâm sƣu tầm của những ngƣời làm công tác công bố và phổ biến văn
hóa, văn nghệ dân gian. Thứ nữa, điều này xuất phát từ thực tế dung lƣợng lời ca của
DCTTSH Thái. Mỗi lời DCTTSH Thái đều khá dài. Trong khi đó, đa phần lời
DCTTSH Tày khá ngắn, thƣờng dƣới mƣời dòng thơ. Do vậy, dễ hiểu là DCTTSH
Tày chiếm số lƣợng lời nhiều hơn so với DCTTSH Thái.
Trên cơ cở thực trạng kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái với những
đặc điểm kể trên, ở luận án này, chúng tôi lựa chọn nguồn tƣ liệu với tiêu chí là chỉ
28
chọn những lời dân ca dƣới hình thức song ngữ, có nguồn gốc dân tộc rõ ràng và bản
dịch sát nghĩa. Chúng tôi lựa chọn 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái
làm đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu nhƣ vậy là có chủ ý và
đã đƣợc chúng tôi trình bày trong phần phạm vi nghiên cứu.
Kế thừa thành quả của các công trình sƣu tầm và nghiên cứu của các tác giả đi
trƣớc, chúng tôi tiến hành so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái. Các công trình
công bố tƣ liệu dân ca đã cung cấp tƣ liệu đáng tin cậy để chúng tôi lựa chọn cho sự
nghiên cứu, khảo sát. Các công trình nghiên cứu về DCTTSH Tày, Thái đã cung cấp
cho chúng tôi những gợi ý, những ý tƣởng khoa học quý báu, dù nhiều khi mới ở dạng
phác thảo. Đóng góp của chúng tôi chủ yếu là ở chỗ chúng tôi đã cố gắng làm sáng rõ
những gợi ý đó và hệ thống hóa chúng, soi chiếu chúng dƣới một góc nhìn mới là so
sánh để làm bật lên đƣợc cái phổ biến và cái đặc thù của DCTTSH Tày, Thái. Chúng
tôi hi vọng qua luận án này sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với việc
so sánh dân ca Tày, Thái nói riêng, VHDG Tày, Thái nói chung nhằm tƣơng xứng với
thực tế kho tàng phong phú và giá trị của VHDG hai dân tộc.
1.3. Cơ sở lí luận
Chúng tôi xác định các câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài là:
- DCTTSH Tày, Thái có những điểm tƣơng đồng và khác biệt nào?
- Nguyên nhân gì dẫn đến những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó?
- Ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó trong DCTTSH của hai
dân tộc Tày, Thái?
Từ các câu hỏi nghiên cứu nhƣ trên, chúng tôi xác định cơ sở lí luận liên quan
đến đề tài gồm các nội dung chính là: lí luận về VHSS, về bản sắc văn hóa dân tộc, về
dân ca và diễn xƣớng.
1.3.1. Lí luận về văn học so sánh
Chúng tôi thực hiện đề tài này trên cơ sở lí luận về VHSS. VHSS không phải là
một phƣơng pháp mà là một bộ môn khoa học ra đời vào cuối thế kỉ XIX. Cho đến
1974, ở nƣớc ta, giới nghiên cứu vẫn cho rằng VHSS mang tính chất suy đồi, là một
trƣờng hợp của tƣ sản. Dần dần, các nhà nghiên cứu đã cho rằng đây là một bộ phận
của khoa nghiên cứu văn học. Nói tới VHSS là nói tới việc đối chiếu nhiều nền văn
học với nhau, tức đối chiều nền văn học này với nền văn học kia hoặc nền văn học này
với nhiều nền văn học khác. Trong công trình Lí luận về văn học so sánh, tác giả
29
Nguyễn Văn Dân định nghĩa về VHSS nhƣ sau: “VHSS là một bộ môn khoa học có
chức năng so sánh một nền văn học này với một hay nhiều nền văn học khác, hoặc so
sánh các hiện tƣợng của các nền văn học khác nhau” [24; tr. 18]. VHSS có hai mục
đích cơ bản: Một là, xác định tính khái quát của văn học nhân loại; Hai là, chứng minh
tính đặc thù của các nền văn học dân tộc [24; tr. 55]. Nó có ba đối tƣợng nghiên cứu
chính: Một là, những mối quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học dân tộc (những sự
ảnh hƣởng và vay mƣợn lẫn nhau giữa các nền văn học). Hai là, những điểm tƣơng
đồng (những điểm giống nhau giữa các nền văn học sinh ra không phải do ảnh hƣởng
giữa chúng mà là do điều kiện lịch sử, xã hội giống nhau). Ba là, những điểm khác biệt
độc lập, biểu hiện bản sắc của các hiện tƣợng văn học dân tộc hay của các nền văn học
dân tộc, đƣợc chứng minh bằng phƣơng pháp so sánh.
Trong nghiên cứu VHSS, điều tối kị là so sánh nhằm mục đích chỉ ra sự hơn
kém. Ở Việt Nam, đã có sai lầm nhƣ thế trong lĩnh vực văn học viết. Đó là trƣờng hợp
nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ và học giả Phan Ngọc khi so sánh Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc với Truyện Kiều của Nguyễn Du [24; tr.
151 - 155]. Năm 1968, Đinh Gia Khánh đã cho rằng, việc so sánh hơn thua giữa hai
tác phẩm của hai dân tộc “là cái việc rất không khoa học” [24; tr. 152]. Việc suy diễn
võ đoán là nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa sô vanh, kì thị dân tộc. Đúng nhƣ Trần Nho
Thìn đã chỉ ra khi so sánh văn học Việt Nam với văn học Trung Quốc, sau khi phân
tích những chỗ giống và khác nhau, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao cùng ở khu vực
đồng văn với văn hóa Trung Quốc, ngƣời Việt Nam lại tiếp nhận văn học Trung Quốc
khác với ngƣời Nhật Bản, Triều Tiên tiếp thu văn học Trung Quốc [133; tr. 44 – 54].
Đáng lƣu ý là trong nghiên cứu VHSS, có thể có hai loại là nghiên cứu ảnh
hƣởng và nghiên cứu song song nhƣ tác giả Hồ Á Mẫn – một học giả ngƣời Trung
Quốc đã chỉ ra trong công trình Giáo trình văn học so sánh. Trong đó, nghiên cứu ảnh
hƣởng là nghiên cứu hai nền văn học mà giữa chúng không cùng nguồn gốc nhƣng có
quan hệ ảnh hƣởng. Nghiên cứu ảnh hƣởng cần chú trọng đến điều kiện sản sinh ra
ảnh hƣởng, loại hình ảnh hƣởng, phạm vi nghiên cứu ảnh hƣởng. Nghiên cứu song
song là nghiên cứu hai nền văn học mà giữa chúng không có quan hệ trực tiếp. Nó có
cơ sở từ tính phổ quát và tính khác biệt của văn hóa, văn học, với hai loại phƣơng pháp
là loại tỷ và đối tỷ. Việc xác định tính chất của công trình là nghiên cứu ảnh hƣởng
hay nghiên cứu song song có ý nghĩa phƣơng pháp luận [79; tr. 70 – 93].
30
Đã nói tới VHSS là nói tới phƣơng pháp so sánh nằm trong lí thuyết về VHSS.
Trong một nền văn học hay một trào lƣu văn học, chúng ta cũng sử dụng phƣơng pháp
so sánh nhƣng lúc này chúng ta không gọi đấy là VHSS bởi nhắc đến VHSS là nhắc
đến các nền văn học của các dân tộc khác nhau. Ở cấp độ là một bộ môn, VHSS có thể
sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm của đối
tƣợng và mục đích nghiên cứu.
Từ trƣớc đến nay, lí luận VHSS chủ yếu đƣợc áp dụng ở lĩnh vực văn học viết.
Tuy nhiên, do tính khả thi và những hiệu quả to lớn mà VHSS mang lại, lí luận VHSS
đã đƣợc áp dụng ở lĩnh vực nghiên cứu văn hóa dân gian, VHDG. Trong nghiên cứu
văn hóa dân gian, VHDG, phƣơng pháp so sánh đƣợc dùng để xác định, đánh giá các
hiện tƣợng trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Sự phát triển sôi động của các
phƣơng pháp nghiên cứu so sánh dẫn tới sự ra đời của các trƣờng phái. Lí luận và
thành quả nghiên cứu của các trƣờng phái đó trong lĩnh vực văn hóa dân gian ở thế kỉ
XIX đánh dấu sự phát triển của folklore so sánh – một nhánh nhỏ của VHSS.
Ở Việt Nam, với bài viết Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa
dân gian in trong tập san Khoa học số 1 – 1994 của Trƣờng Đại học Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh, in lại trong cuốn Nghiên cứu văn hóa dân gian, phương pháp,
lịch sử, thể loại [29; tr. 83 - 96], nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên đã tổng kết và thấy
rằng VHSS có vai trò quan trọng đối với folklore học. Tiêu đề bài viết tuy nói đến
phƣơng pháp so sánh nhƣng kì thực, tác giả đã tiếp cận lí luận về VHSS trong nghiên
cứu văn hóa dân gian và VHDG. Ông cho rằng các thao tác nghiên cứu và hệ vấn đề
nghiên cứu của nó đã đƣợc hình thành từ khá lâu. Cụ thể, tác giả giới thiệu sự xuất
hiện của 4 dạng thức của phƣơng pháp so sánh trên thế giới: Trƣờng phái địa lí – lịch
sử (trƣờng phái Phần Lan), sự kết hợp phƣơng pháp so sánh và phƣơng pháp cấu trúc
của Orik và Propp, phƣơng pháp so sánh trong folklore từ cách tiếp cận dân tộc học
của các nhà khoa học phƣơng Tây, phƣơng pháp nghiên cứu so sánh loại hình lịch sử
của các nhà khoa học Nga [29; tr. 83 – 96]. Ở từng dạng thức này, Chu Xuân Diên
cũng điểm qua tình hình ứng dụng nghiên cứu trong văn hóa dân gian ở Việt Nam.
Trên thực tế, 4 dạng thức của phƣơng pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa
dân gian mà Chu Xuân Diên giới thiệu đều có những ƣu thế riêng.
Phƣơng pháp địa lí – lịch sử là điểm cốt yếu dẫn tới sự hình thành của trƣờng
phái VHDG Phần Lan. Phƣơng pháp này đòi hỏi các nhà khoa học phải so sánh các dị
31
bản với nhau. Quá trình so sánh phải tuân theo những nguyên tắc lịch sử và địa lí. Nhờ
đó, các nhà khoa học sẽ xác định dạng thức khởi thủy và quê hƣơng ban đầu của tác
phẩm VHDG. Đây là cơ sở để nhà nghiên cứu tiến hành phân loại tác phẩm theo các
type hoặc motif nhằm tiến tới tổ chức các bộ sƣu tập truyện kể, xây dựng các bộ mục
lục tra cứu. Tính đến hiện tại, những nguyên tắc lí luận của trƣờng phái Phần Lan vẫn
còn khả năng ứng dụng vào nghiên cứu và xử lí tác phẩm VHDG. Các nhà nghiên cứu
Việt Nam đã có sự tiếp xúc, kế thừa và vận dụng phƣơng pháp này trong nghiên cứu
của mình, chẳng hạn nhƣ Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Thị Huế…
Nếu nhƣ các nhà khoa học thuộc trƣờng phái Phần Lan so sánh các dị bản khác
nhau của từng cốt truyện riêng rẽ thì các nhà khoa học với cách kết hợp phƣơng pháp
so sánh với phƣơng pháp cấu trúc lại có cách làm khác hẳn. Sự lồng ghép phƣơng
pháp cấu trúc vào quá trình nghiên cứu đã khiến các nhà khoa học quan tâm tới các bộ
phận cấu thành cái toàn thể, tức coi các thể loại tự sự là một hệ thống, một chỉnh thể,
mỗi cốt truyện là một yếu tố trong chỉnh thể ấy. Sự so sánh ở đây là so sánh liên cốt
truyện nhằm tìm ra các dạng thức và quy luật kết cấu của các thể loại tự sự dân gian.
Cách làm này tuy có đóng góp ít nhiều trong việc tìm hiểu quy luật sáng tạo của
VHDG, song có hạn chế là đã tách văn bản tác phẩm ra khỏi môi trƣờng diễn xƣớng
của nó. Do đó, phƣơng pháp nghiên cứu so sánh này có hạn chế là chƣa phản ánh đúng
đƣợc đời sống của tác phẩm VHDG.
Sự ra đời của phƣơng pháp so sánh trong folklore từ cách tiếp cận dân tộc học
đã khắc phục hạn chế trên của phƣơng pháp so sánh cấu trúc. Theo dạng thức này, các
nhà khoa học đặc biệt quan tâm tới đời sống thực của tác phẩm VHDG, nghiên cứu so
sánh VHDG trong mối liên hệ với môi trƣờng sinh thành, tồn tại và biến đổi của nó.
Hƣớng đi này là đúng đắn và cần thiết bởi nó nói lên đặc trƣng của VHDG. Tuy nhiên,
ở giai đoạn đầu, do là con đẻ của thuyết tiến hóa đơn tuyến nên trong khi đối chiếu các
yếu tố của văn hóa dân gian nhƣ phong tục, tập quán giữa các dân tộc, địa phƣơng
khác nhau để tái hiện lịch sử nguồn gốc các xã hội, phƣơng pháp này đã bàn đến sự
hơn kém, đánh giá xã hội có học, văn minh hay dã man, nguyên thủy… Đây là hạn chế
lớn nhất của thuyết tiến hóa đơn tuyến. Về sau, khi thuyết tiến hóa bị đánh đổ, thuyết
tƣơng đối về sự phát triển văn hóa trở thành lí thuyết thống trị trong khoa dân tộc học,
phƣơng pháp so sánh dần bị rời bỏ. Tuy thế, folklore học vẫn rất cần đến phƣơng pháp
so sánh. Các nhà khoa học đã tìm cách khắc phục những hạn chế và phiến diện của
32
dạng thức so sánh này mà một trong những con đƣờng hiệu quả chính là quan niệm về
kiểu sinh thái nhƣ A. Dundes đã chỉ ra. Theo đó, nghiên cứu so sánh về một thành tố
văn hóa dân gian có thể đƣa đến kết quả là rút ra đƣợc một kiểu sinh thái nhất định,
gắn với bối cảnh văn hóa riêng biệt. Đây là cơ sở để nhà nghiên cứu nhận diện đặc tính
của nền văn hóa. “Phƣơng pháp nghiên cứu so sánh nhƣ thế không những có khả năng
phân biệt, nhận thức rõ đƣợc những mô hình của tính cách địa phƣơng hoặc tính cách
dân tộc, mà còn giúp ta hiểu rõ đƣợc cái cách thức folklore đã biến đổi nhƣ thế nào để
thích ứng với môi trƣờng” [29; tr. 94].
Phƣơng pháp so sánh loại hình lịch sử xuất hiện khá muộn và đƣợc xây dựng
bởi các nhà khoa học Nga. Khi thuật ngữ “văn học thế giới” ngày càng đƣợc sử dụng
nhiều, các nhà khoa học càng chú ý đến việc so sánh những hiện tƣợng văn học tƣơng
đồng. Các nhà khoa học Nga đã nghiên cứu văn hóa dân gian theo phƣơng pháp kết
hợp phƣơng pháp loại hình và phƣơng pháp so sánh, trên cơ sở học thuyết Mác về lịch
sử - văn hóa. Chu Xuân Diên đã dẫn ý kiến của viện sĩ V.M. Zhirmunski về ba nội
dung đƣợc nghiên cứu trong phƣơng pháp so sánh loại hình lịch sử nhƣ sau:
“1. Nghiên cứu so sánh lịch sử - cội nguồn nhằm khám phá sự giống nhau giữa các
hiện tƣợng nhƣ là kết quả của sự phát sinh từ một chủng hệ và sau đó phân hóa theo
những điều kiện lịch sử khác nhau.
2. Nghiên cứu so sánh loại hình lịch sử nhằm giải thích sự giống nhau của các hiện
tƣợng có cội nguồn từ những điều kiện giống nhau của sự phát triển lịch sử.
3. Nghiên cứu so sánh nhằm xác lập những mối tác động ảnh hƣởng hoặc di chuyển
vùng văn hóa trên thế giới giữa những dân tộc có sự gần gũi về mặt lịch sử và những
tiền đề phát triển xã hội” [29; tr 95].
Sự phát triển của phƣơng pháp so sánh loại hình lịch sử trong nghiên cứu văn
học dẫn tới sự hình thành của trƣờng phái Nga – Xô Viết, đánh dấu một giai đoạn phát
triển của VHSS khi nó đã trở thành một bộ môn khoa học. Một trong những đặc điểm
nổi bật của trƣờng phái này là tập trung vào nghiên cứu các mối quan hệ giữa hiện
tƣợng văn học và sự phát triển lịch sử, xã hội. Các nhà khoa học đã làm VHSS dƣới sự
chi phối của quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, cho rằng sự giống nhau về
thể loại của loại hình học hay những mối liên hệ, ảnh hƣởng của văn hóa dân gian đều
do những nhân tố lịch sử, xã hội quyết định.
33
Nhƣ thế, nói về phƣơng pháp so sánh, hay thực chất là tổng kết lí luận của
folklore so sánh, PGS. Chu Xuân Diên hƣớng tới việc chỉ ra rằng, trong nghiên cứu
văn hóa dân gian, VHDG có thể lựa chọn sử dụng nhiều dạng thức khác nhau của
phƣơng pháp so sánh. Mỗi dạng thức khác nhau lại có những hƣớng nghiên cứu so
sánh và xử lí kết quả so sánh riêng. Việc lựa chọn dạng thức nào hay kết hợp các dạng
thức ấy ra sao phụ thuộc vào tính chất của những hiện tƣợng đƣợc dùng làm đơn vị so
sánh; cấp độ, quy mô so sánh; mục đích của việc so sánh; cách tiếp cận.
Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh trong khi bàn về phƣơng pháp luận folklore
cũng có nói tới phƣơng pháp so sánh [62; tr. 970 – 973]. Ông gọi đó là phƣơng pháp
so sánh song thực chất đó không đơn giản là một phƣơng pháp cơ bản để nghiên cứu
các hiện tƣợng của một nền folklore, mà nó thuộc về lí luận folkore so sánh khi ông
chủ yếu nói tới sự so sánh các hiện tƣợng văn hóa dân gian ở những vùng, những nƣớc
khác nhau. GS. Đinh Gia Khánh nhấn mạnh mục đích của việc so sánh là tìm hiểu và
phân tích nguyên nhân, ý nghĩa những mặt tƣơng đồng và đa dạng của các hiện tƣợng
theo một nhãn quan đồng đại sẽ giúp ngƣời ta tìm hiểu một cách sâu sắc hơn bản chất
của các hện tƣợng folklore. Khi so sánh, cần chú chọn lựa các đối tƣợng đồng đại,
đồng loại, đồng dạng và tiêu biểu cho những vùng văn hóa tiêu biểu.
Đinh Gia Khánh đã trình bày sự phát triển từ phƣơng pháp so sánh loại hình
đến phƣơng pháp loại hình lịch sử. Theo đó, phƣơng pháp này chọn những loại hình
tiêu biểu nhất để so sánh nhằm tìm hiểu bản chất chung nhất, cơ bản nhất của mỗi nền
văn hóa. Nhƣng, việc sử dụng phƣơng pháp này rất dễ sa vào chủ nghĩa hình thức nếu
nhƣ quá coi trọng cấu trúc, xem nhẹ hoặc bỏ qua nội dung trong khi thông qua so sánh
loại hình để xây dựng hình thái học của các hiện tƣợng. Sự ra đời của phƣơng pháp
loại hình lịch sử đã ra đời trên cơ sở nhận thức rằng sự giống nhau về cấu trúc của các
hiện tƣợng folklore có những nguyên nhân lịch sử của nó. Phƣơng pháp này “một mặt
có thể xác định đƣợc bản chất các hiện tƣợng qua cấu trúc của chúng, không tách rời
hoàn cảnh lịch sử đã quy định cấu trúc ấy cũng nhƣ những sự biến dịch của cấu trúc ấy
qua lịch sử, mặt khác lại có thể chú trọng đến nội dung của hiện tƣợng, của sự vật, tức
là của các yếu tố nằm trong cấu trúc, mà nội dung này thì lại tùy thuộc hiện thực khách
quan và đƣợc quy định bởi tiến trình lịch sử” [62; tr. 973].
Những lí luận của folklore so sánh nhƣ trên đã đƣợc vận dụng vào nghiên cứu
văn hóa, VHDG ở nƣớc ta và đạt đƣợc ít nhiều thành tựu. Chẳng hạn, Đƣờng Tiểu Thi
34
xuất bản công trình So sánh kiểu truyện cô Lọ Lem của một số dân tộc miền nam
Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam [143]. Tác giả Lại Phi Hùng
đóng góp vào thực tiễn folklore so sánh bằng luận án với đề tài So sánh một số kiểu
truyện cổ dân gian Lào và Việt Nam [54]. Tác giả Lƣu Thị Hồng Việt có hàng loạt
bài nghiên cứu về so sánh dân ca, thần thoại, truyện cổ tích của hai nƣớc Việt – Hàn
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành nhƣ So sánh dân ca của người Việt và
người Hàn [179], Thần thoại Việt – Hàn, sự tương đồng và khác biệt [180], So
sánh truyện cổ tích Hàn – Nhật [181], Một số tương đồng về các kiểu nhân vật
trong “Kim ngao tân thoại” (Kim thời tập) và “Truyền kì mạn lục” (Nguyễn Dữ)
[182]. Năm 2015, Lƣu Thị Hồng Việt bảo vệ thành công luận án về VHSS: Không
gian trong truyện cổ tích Việt Nam – Hàn Quốc: một cái nhìn so sánh [183]. Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Lan lại hƣớng tới việc so sánh kiểu truyện với hai công trình nghiên
cứu nổi bật là So sánh kiểu truyện người em của Việt Nam với truyện cùng kiểu ở
một số quốc gia Châu Âu [72] và So sánh kiểu truyện người em của Việt Nam với
truyện cùng kiểu ở một số quốc gia châu Á [73]. Nhƣ thế, lí luận VHSS đƣợc áp
dụng trong nghiên cứu VHDG chủ yếu ở loại hình tự sự với sự so sánh trong phạm vi
giữa các nƣớc với nhau.
Luận án của chúng tôi là một sự tiếp nối dòng nghiên cứu VHSS trong lĩnh vực
VHDG. Cụ thể, vận dụng những nguyên tắc và khả năng ứng dụng của VHSS vào
nghiên cứu đề tài So sánh DCTTSH của người Tày và người Thái ở Việt Nam, chúng
tôi xác định đối tƣợng chính cần so sánh là DCTTSH, tức thuộc loại hình trữ tình dân
gian. Đồng thời, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu ở DCTTSH của hai DTTS là
ngƣời Tày ở Đông Bắc và ngƣời Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Là hai bộ phận dân ca tiêu
biểu, phong phú và đặc sắc về nhiều mặt, đại diện cho VHDG của hai dân tộc ở Việt
Nam, DCTTSH Tày, Thái đủ điều kiện là đối tƣợng nghiên cứu khả thi cho một đề tài
VHSS. Thực hiện luận án với mục đích chính là từ việc chỉ ra những đặc điểm giống
và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái để thấy đƣợc sự thống nhất và đa dạng của dân
ca các dân tộc Việt Nam nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, nên chúng tôi chọn
vận dụng phƣơng pháp so sánh loại hình lịch sử vào trong nghiên cứu. Khi so sánh
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, chúng tôi sẽ phân tích sự tƣơng đồng và sự khác
biệt mà không bàn đến sự hơn kém hay xuất phát từ một định kiến hơn kém nào.
Chúng tôi cố gắng giải thích tại sao có sự tƣơng đồng và khác biệt ấy. Trong những
35
trƣờng hợp cho phép, là một ngƣời Kinh, chúng tôi sẽ liên hệ với dân ca nói riêng và
VHDG nói chung của ngƣời Kinh.
Sự so sánh của chúng tôi trong luận án này chủ yếu là so sánh song song. Việc
ít sử dụng loại so sánh ảnh hƣởng xuất phát từ hai lí do. Thứ nhất, sự ảnh hƣởng lẫn
nhau về văn hóa giữa hai dân tộc dù có nhƣng không nhiều. Thứ hai, đối tƣợng so sánh
của chúng tôi thuộc lĩnh vực VHDG, cụ thể là dân ca – thứ mà ngay từ khi ra đời đã
không đƣợc cố định hóa bằng văn bản nên rất khó xác định chính xác thời điểm ra đời.
Việc chỉ rõ cái nào ra đời trƣớc, cái nào ra đời sau, cái nào chịu ảnh hƣởng của cái nào
là rất khó. Bởi thế, chúng tôi không đặt mục đích tìm hiểu các mối quan hệ trực tiếp
giữa DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, mà đi sâu vào tìm hiểu những điểm
tƣơng đồng và khác biệt. Chúng tôi chỉ ra những điểm tƣơng đồng giữa các loại
DCTTSH Tày, Thái để chứng minh cho cái chung, phổ biến của nhiều dân tộc Việt
Nam, đồng thời chỉ ra những điểm khác biệt để chứng minh cho cái đặc thù dân tộc.
So sánh là để hiểu biết đầy đủ hơn đặc điểm của dân ca mỗi dân tộc, hƣớng tới nhận
thức về văn hóa dân tộc ở tầm khái quát hơn.
1.3.2. Bản sắc văn hóa dân tộc
Từ “bản sắc” đƣợc đề xuất lần đầu tiên bởi tác giả Erik Erikson trên diễn đàn
khoa học châu Âu vào năm 1951. Đến những năm 80 của thế kỉ XX, quá trình quốc tế
hóa ngày càng mạnh mẽ đã dẫn đến mối lo ngại về nguy cơ phá vỡ các biên giới văn
hóa, bản sắc dân tộc trở thành vấn đề nóng trong nghiên cứu văn hóa. Ở Mĩ, mấy chục
năm qua đã diễn ra một cuộc thảo luận kéo dài chƣa có hồi kết, giữa một bên cho rằng
không có cái gọi là bản sắc văn hóa dân tộc, đó chỉ là những ý định chủ quan của nhà
chính trị, nhà tƣ tƣởng, của giới truyền thông tạo dựng nên, với một bên cho rằng dân
tộc nào cũng có bản sắc văn hóa và đây chính là căn cƣớc, đặc điểm để nhận dạng,
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác [151; tr. 24 – 27], [163].
Nhƣ vậy là, bản sắc dân tộc là cái khách quan hay là cái chủ quan? Chúng tôi
cho rằng, bản sắc dân tộc hay bản sắc văn hóa của dân tộc, là sự kết hợp giữa cái
khách quan và cái chủ quan. Về cơ bản, đó là cái khách quan. Ví dụ, lòng yêu nƣớc
của ngƣời Việt là khách quan, song nó cũng đƣợc bồi đắp, củng cố bởi nhà nƣớc
phong kiến dân tộc thông qua giáo dục, khen thƣởng, luật pháp. Dƣới chế độ ta, điều
này lại càng rõ. Ở một dân tộc khác, lúc đầu họ không có tính kỉ luật cao, nhƣng do
hoàn cảnh khách quan đem đến và sự tuyên truyền cùng với các biện pháp mạnh của
36
giới cầm quyền, dân tộc đó càng ngày càng có tính kỉ luật và đặc tính này trở thành
một nét trong nhiều nét bản sắc của họ. Trong công trình Con người, môi trường và
văn hóa, khi trình bày về vai trò của văn hóa dân gian đối với việc thể hiện bản sắc
văn hóa dân tộc, Nguyễn Xuân Kính cũng từng cho rằng, bản sắc không phải chỉ có ở
một dân tộc, các dân tộc khác không có, mà dƣới sự tác động của các yếu tố nhƣ điều
kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử xã hội, dân tộc đó có đậm hơn. “Bản sắc có khi là
cách riêng của mỗi dân tộc thể hiện tính chung nhân loại. Bản sắc dân tộc cũng không
phải là một cái gì nhất thành bất biến” [67; tr. 435]. Hiểu nhƣ thế về bản sắc văn hóa
dân tộc, chúng tôi thấy rằng ngƣời Tày và ngƣời Thái trên đất nƣớc ta, vừa mang cái
chung của tộc ngƣời (xuyên qua biên giới) vừa có cái riêng sau một quá trình tụ cƣ lâu
dài với các điều kiện thiên nhiên, xã hội mới trên lãnh thổ Việt Nam. Các thành tố văn
hóa sẽ tạo thành bản sắc văn hóa của hai dân tộc này, đồng thời bản sắc chung của mỗi
dân tộc lại tác động đến những thành tố cụ thể. Nhƣ vậy, khi so sánh DCTTSH của hai
dân tộc này, chúng ta sẽ thấy sự tƣơng đồng và sự khác biệt trên nhiều phƣơng diện.
Những khác biệt đó là cái riêng, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Điều cần lƣu ý là khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc đƣợc sử dụng ở cả hai
phạm vi là tộc ngƣời và quốc gia. Trong luận án này, chúng tôi chỉ bàn đến phạm vi
tộc ngƣời, cụ thể là ngƣời Tày và ngƣời Thái.
1.3.3. Dân ca và diễn xướng
1.3.3.1. Khái niệm dân ca và vấn đề phân loại dân ca
Để chỉ lĩnh vực ca hát dân gian rộng lớn, các nhà nghiên cứu thƣờng dùng hai
thuật ngữ là ca dao và dân ca. So với thuật ngữ ca dao, thuật ngữ dân ca xuất hiện
muộn hơn. Công trình đánh dấu sự xuất hiện của thuật ngữ dân ca trong khoa nghiên
cứu VHDG ở Việt Nam là Tục ngữ và dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan biên soạn, in
lần đầu năm 1956, đến 1978 in lại và đổi tên là Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam
[118]). Nếu nhƣ thuật ngữ ca dao dùng để chỉ bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của
thơ dân gian, là loại thơ dân gian truyền thống có phong cách riêng, đƣợc hình thành
và phát triển trên cơ sở phần lời trong các loại dân ca ngắn và tƣơng đối ngắn; thì dân
ca là toàn bộ các hình thức ca hát trữ tình dân gian, “bao gồm phần lời (câu hoặc bài),
phần giai điệu (giọng hoặc làn điệu), phƣơng thức diễn xƣớng và cả môi trƣờng,
khung cảnh ca hát” [65; tr. 78]. Nhƣ vậy, thuật ngữ dân ca có sức bao quát lĩnh vực ca
hát dân gian rộng lớn hơn thuật ngữ ca dao.
37
Về phân loại, nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên có đƣa ra quan điểm phân loại
dân ca dựa trên mức độ gắn bó của chúng với các lĩnh vực sinh hoạt chính của đời
sống nhân dân là sinh hoạt lao động, sinh hoạt nghi lễ, sinh hoạt gia đình và xã hội
[29; tr. 324 – 356]. Các bộ phận nhỏ nhƣ hát ru, hát vui chơi, hát đối đáp, bài hát khẩn
nguyện, dân ca tế thần, hò lao động… sẽ đƣợc sắp xếp vào các tiểu loại kia. Theo đó,
dân ca có thể phân ra làm ba tiểu loại: dân ca lao động, dân ca nghi lễ, dân ca sinh
hoạt. Sự phân chia này là chung cho dân ca của ngƣời Kinh và cả dân ca của các
DTTS Việt Nam. Các nhà nghiên cứu gọi dân ca sinh hoạt bằng nhiều tên gọi khác
nhau: Chu Xuân Diên gọi là dân ca trữ tình [29; tr. 367], Lê Chí Quế gọi là dân ca trữ
tình sinh hoạt [125; tr. 217], dân ca trữ tình, sinh hoạt [125; tr. 231], dân ca trữ tình
[125; tr. 234], dân ca trữ tình – sinh hoạt [178; tr. 836], Võ Quang Nhơn [109; tr. 212]
và Trần Thị An [177; tr. 20] gọi là dân ca sinh hoạt. Các tên gọi tuy có khác nhau đôi
chút song về cơ bản, nội hàm các khái niệm này là tƣơng đối trùng nhau, đều chỉ tiểu
loại dân ca gắn với lao động, tình yêu, đời sống gia đình và xã hội, có nội dung “thể
hiện quan hệ giao lƣu tình cảm giữa các thành viên trong cộng đồng (cộng đồng gia
đình và cộng đồng xã hội) [125; tr. 217]. Chúng tôi đồng tình với cách gọi của các nhà
nghiên cứu Võ Quang Nhơn và Trần Thị An, tức gọi tiểu loại ấy là dân ca sinh hoạt.
Ở ngƣời Kinh, hai tiểu loại dân ca lao động và dân ca sinh hoạt rất phát triển.
Dân ca nghi lễ chủ yếu còn tồn tại ở các hình thức hát hội đầu xuân, trong các sinh
hoạt tế thần. Điều đó có liên quan tới chính sách phát huy ảnh hƣởng của thần quyền
của các triều đình phong kiến Việt Nam. Các tài liệu sƣu tầm cho thấy hệ thống các
bài hát khẩn nguyện, hát cầu chúc dịp đầu xuân và những bài hát nghi lễ dùng trong
sinh hoạt gia đình nhƣ hát mừng nhà mới, hát trong các nghi lễ vòng đời của con
ngƣời đều khá nghèo nàn so với dân ca các DTTS.
Trong khi đó, ở các DTTS, dân ca nghi lễ và dân ca sinh hoạt lại trội hơn dân ca
lao động. Riêng về dân ca nghi lễ, dân ca các DTTS có sự phát triển phong phú cả hai
hệ thống bài ca là những bài hát hội và các bài hát đám (chữ dùng của Lê Chí Quế
[126; tr. 14] đối với bộ phận hát trong nghi lễ vòng đời). Do đặc điểm cuộc sống gần
gũi với thiên nhiên và quan niệm vạn vật hữu linh, các DTTS có khá nhiều lễ hội mang
tính chất tín ngƣỡng, tâm linh gắn với việc cầu xin các vị thần thiên nhiên che chở, ban
phúc cho con ngƣời hơn là sự tồn tại của những lễ hội về các anh hùng lịch sử nhƣ
ngƣời Kinh. Điều đó khiến cho dân ca nghi lễ các DTTS nổi bật bởi hệ thống các bài
38
hát chức năng khẩn nguyện nhƣ bài hát trong các lễ hội: Pồn pôông của ngƣời Mƣờng,
Lồng tồng của ngƣời Tày, Xên bản xên mường, Xến xó phốn, Lúng ta của ngƣời Thái,
Sải sán (Gầu tào) của ngƣời H’Mông, … Đặc biệt, trong số các bài hát dùng trong
sinh hoạt gia đình, dân ca nghi lễ xoay quanh chu trình vòng đời của các DTTS rất đa
dạng. Ở từng dân tộc, chúng tôi đều thấy nổi lên những nhóm bài hát nghi lễ tiêu biểu
nhƣ quan lang (hát đám cƣới), then, pựt, mo (hát cúng), tào (hát tang lễ) của ngƣời
Tày; cỏ lảu (hát đám cƣới), then, pựt, sliên (hát cúng), tào (hát tang lễ) của ngƣời
Nùng; khắp sứ lam (hát đám cƣới), hảy hán xống (khóc tiễn hồn), then, khắp một (hát
cúng) của ngƣời Thái, gầu tuớ (hát cúng ma) của ngƣời H’Mông… Trong đó, chỉ tính
riêng các hình thức hát then của ngƣời Tày liên quan tới vòng đời một con ngƣời bình
thƣờng đã thấy có nhiều nhóm khác nhau: then kì yên giải hạn, then nối số, then chữa
bệnh… Bên cạnh đó, còn có các bài hát then liên quan đến nghề nghiệp của các thầy
Then nhƣ: then cấp sắc, then tăng sắc, then cúng tổ nghề, then khao tổ nghề…
Về dân ca lao động, khi khảo sát dân ca các DTTS ở miền Bắc, Lê Chí Quế đã
thấy sự khiếm khuyết của bộ phận này. Phân tích các trƣờng hợp cụ thể là khắp loong
tôông (hát trên cánh đồng) và khắp nhúm hưa (hát chèo thuyền) của ngƣời Thái, hát
xuống đồng của ngƣời Mƣờng, ông cho rằng đây là những loại hát khi lao động nhƣng
không có sự gắn bó giữa phƣơng thức diễn xƣớng, nội dung lời ca với nhịp điệu, động
tác lao động, chỉ thấy nổi bật yếu tố cảm xúc của con ngƣời trong lao động hoặc cảm
xúc của con ngƣời trƣớc thần linh. Vì vậy, tác giả coi đó là những loại hát tâm tình
trong lao động hoặc dân ca nghi lễ về lao động [126; tr. 7 - 23].
Nhƣ thế, sự phân bố của các tiểu loại dân ca ở các dân tộc là không đồng đều.
1.3.3.2. Khái niệm diễn xướng và diễn xướng dân ca
Các tài liệu nghiên cứu đều đã khẳng định VHDG là những sáng tác ngôn từ,
càng ở giai đoạn sau, tính nghệ thuật của nó càng thể hiện rõ. Khi viết về VHDG,
nhiều tác giả đã đề cập đến tính diễn xƣớng. “Diễn xƣớng” là thuật ngữ đƣợc dùng
phổ biến trong nghiên cứu folklore nói chung, nghiên cứu VHDG nói riêng. Các nhà
nghiên cứu đều rất quan tâm đến việc làm rõ nội hàm của khái niệm diễn xƣớng với
mong muốn giúp cho việc nghiên cứu các hiện tƣợng nghệ thuật diễn xƣớng dân gian
có hƣớng tiếp cận hợp lí hơn. Tuy thế, việc nhận diện rõ nội hàm của khái niệm này
còn chƣa thực sự thống nhất.
39
Thuật ngữ diễn xƣớng xuất hiện ở nƣớc ta từ năm 1978 với hội thảo khoa học
Diễn xướng dân gian với nghệ thuật sân khấu do Viện Nghệ thuật – Bộ sân khấu tổ
chức. Thế nhƣng, phải đến năm 1986, với bài viết Về vấn đề khái niệm trong nghiên
cứu nghệ thuật biểu diễn dân gian: Diễn xướng và trò diễn của Nguyễn Khắc
Xƣơng, khái niệm diễn xƣớng mới đƣợc nhận thức rõ. Đây là bài viết có tính chất
nhận thức, mang ý nghĩa lí luận. Nguyễn Khắc Xƣơng cho rằng “diễn xƣớng là khái
niệm sinh ra từ nhận thức khoa học về nguồn gốc và phƣơng thức biểu đạt của văn học
và nghệ thuật dân gian” [186; tr. 35]. Về nội hàm khái niệm, ông đã phân tích dƣới góc
độ ngôn ngữ học, cho rằng diễn xƣớng nghĩa là diễn + xướng. Trong đó, diễn bao gồm
cả phƣơng thức diễn chỉ có động tác và phƣơng thức diễn có cả động tác, âm thanh;
xƣớng là thanh nhạc, tiếng nói có nhịp điệu, tiết tấu của con ngƣời, không bao gồm
thanh âm nhạc khí. Do đó, theo cách hiểu của Nguyễn Khắc Xƣơng, diễn xướng = có
và không có âm thanh. Cách hiểu này đã có ảnh hƣởng tới giới nghiên cứu folklore
trong một thời gian dài và đƣợc áp dụng để dịch performance thành diễn xƣớng.
Chẳng hạn, tác giả Vũ Ngọc Khánh trong công trình Dẫn luận nghiên cứu
folklore Việt Nam viết rằng: “Diễn xƣớng là có diễn có xƣớng” [63; tr. 74]. Có chỗ,
tác giả còn hiểu diễn xƣớng gần nhƣ tƣơng đƣơng với với nghệ thuật dân gian: “Nói
đến diễn xƣớng phải kể đến nhiều hình thức: hát, hò, trò, họa, ca, múa, lễ, nhạc” [63;
tr. 6]. Thậm chí, tác giả còn cho rằng diễn xƣớng có tính bao trùm: “Hội sử dụng diễn
xƣớng và bản thân nó cũng là một diễn xƣớng tổng hợp, có lúc rất quy mô” [63; tr.
192]. Đồng quan điểm đó, trong bài viết Từ diễn xướng truyền thống đến nghệ thuật
sân khấu, Lê Trung Vũ cũng khẳng định: “Diễn xƣớng vừa là hình thức sinh hoạt văn
hóa xã hội định kì (nhƣ hội Gióng, hội Xoan, hội chùa Keo…) quy mô làng xã; lại vừa
là hình thức sinh hoạt văn hóa xã hội không định kì, nhƣng định lệ (làm đám cƣới, nhà
mới, đám tang, lễ thành niên, lễ thƣợng thọ…) quy mô một gia đình hoặc việc của một
ngƣời; lại cũng vừa là lối trình diễn rất tự nhiên không định kì cũng không định lệ mà
do nhu cầu sinh hoạt, lao động” [184; tr. 77].
Theo Chu Xuân Diên, nhiều tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tính diễn xƣớng
của VHDG, với những khái niệm nhƣ phƣơng thức diễn xƣớng, khâu diễn xƣớng, các
diễn xƣớng folklore, các kiểu trình diễn nghệ thuật dân gian. Tác giả Nguyễn Hữu Thu
cho rằng tính diễn xƣớng là chủ yếu và bao trùm lên tính tập thể, tính truyền miệng,
tính dị bản và tính truyền miệng của một tác phẩm văn nghệ dân gian thực ra cũng là
40
tính diễn xƣớng. Do đó, có diễn xƣớng, tác phẩm mới đƣợc lƣu truyền, cái duyên, cái
phong cách của nó mới đƣợc bộc lộ ra. Loại trừ khâu diễn xƣớng, tác phẩm VHDG chỉ
còn là cái xác không hồn [28; tr. 98]. Nhà nghiên cứu Tô Ngọc Thanh cũng từng có
quan điểm tƣơng tự khi ví quan hệ giữa tác phẩm VHDG và môi trƣờng diễn xƣớng
nhƣ cá với nƣớc. Thiếu nƣớc, cá sẽ chết [29; tr. 98]. Trong khi tán thành việc các nhà
nghiên cứu chú ý đến mối liên hệ giữa sáng tác VHDG với sinh hoạt thực tiễn và trình
diễn nghệ thuật, nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên vẫn cho rằng, trongVHDG, thành
phần ngôn từ là chủ thể. “Sự tham gia của các thành phần khác phải đƣợc nghiên cứu
theo hƣớng xem chúng có tác động nhƣ thế nào đến sự hình thành của những đặc điểm
bên trong, đến cấu trúc nghệ thuật nội tại của thành phần chủ thể” [28; tr. 99 – 100].
Richard Bauman là nhà nghiên cứu nƣớc ngoài có nhiều bài viết nghiên cứu về
diễn xƣớng dân gian gian. Cùng nói về sự mở rộng của nội hàm khái niệm diễn xƣớng,
trong bài viết Nghệ thuật ngôn từ truyền miệng như một hình thức diễn xướng,
Richard Bauman quan tâm tới sự diễn xƣớng nhƣ một phƣơng thức nói, với mục đích
nỗ lực nhằm mở rộng nội hàm khái niệm có sự diễn xƣớng mang tính folklore nhƣ một
hiện tƣợng thông tin. Khái niệm diễn xƣớng đƣợc Richard Bauman phát triển dựa trên
bản chất, nhận dạng khóa, sự rập khuôn và đặc trƣng nổi bật của sự diễn xƣớng. Theo
đó, về bản chất, diễn xƣớng là một phƣơng thức thông tin bằng miệng. Về việc nhận
dạng khóa cho diễn xƣớng, cần có các yếu tố nhƣ: các luật lệ đặc biệt, ngôn ngữ bóng
bẩy, lối hành văn song song, các đặc điểm cận ngôn ngữ đặc biệt, các công thức đặc
biệt, sức hấp dẫn của truyền thống, từ chối diễn xƣớng. Tiếp đó, tác giả liệt kê các yếu
tố rập khuôn cho diễn xƣớng nhƣ thể loại, sự kiện với cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố
(hoàn cảnh, thứ tự hành động, những quy tắc nền tảng cho diễn xƣớng, ngƣời tham
gia, ngƣời biểu diễn, cử tọa). Về đặc trƣng nổi bật của diễn xƣớng, ông cho rằng nó
“nằm ở tác động qua lại giữa các nguồn có tính chất thông tin, năng lực cá nhân và
mục đích của những ngƣời tham gia, trong khuôn khổ bối cảnh của những tình huống
nhất định” [146; tr. 774]. Đặc trƣng này mở ra sức mạnh vốn có của diễn xƣớng trong
việc biến đổi cấu trúc xã hội. Chỉ ra những điều này, Richard Bauman hƣớng tới mở
rộng nội hàm khái niệm diễn xƣớng rằng diễn xƣớng là “mối liên hệ của truyền thống,
hiện thực và sự nổi trội trong nghệ thuật truyền miêng. Nhƣ vậy sự diễn xƣớng có thể
là nền tảng cho một nền folklore mới, thoát khỏi viễn cảnh phải đối mặt với quá khứ
và có khả năng hiểu thêm rất nhiều về kinh nghiệm của con ngƣời” [146; tr. 783].
41
Đến năm 2012, với bài viết Nhìn lại khái niệm diễn xướng, tác giả Kiều Trung
Sơn đã chỉ ra những điểm bất hợp lí của khái niệm diễn xƣớng theo cách hiểu của
Nguyễn Khắc Xƣơng. Cụ thể, ông cho rằng, với cách hiểu của Nguyễn Khắc Xƣơng
thì diễn xƣớng = diễn, tức có xƣớng cũng đƣợc mà không có cũng đƣợc. Diễn xƣớng
sẽ dung nạp cả các trò câm và những hiện tƣợng nghệ thuật có yếu tố diễn hoặc yếu tố
xƣớng, tức đồng nghĩa với nghệ thuật biểu diễn. Nó sẽ bao hàm cả trò diễn chứ không
phải là một hình thức của nghệ thuật biểu diễn, ngang hàng với trò diễn. Từ việc chỉ ra
điểm bất hợp lí đó, cùng với việc phân tích từ performance, Kiều Trung Sơn đi tìm nội
hàm của diễn xƣớng. Ông cho rằng, để hiểu đƣợc khái niệm diễn xƣớng, cần hiểu đặc
trƣng của diễn xƣớng. Ông chỉ ra ba đặc trƣng là: tính dân gian, ứng diễn và truyền
khẩu; tính diễn ngôn chủ đạo; tính mục đích tự thân. Trên cơ sở các dấu hiệu bản chất
nhƣ vậy, nhà nghiên cứu định nghĩa diễn xƣớng nhƣ sau: “Diễn xƣớng là một loại hình
nghệ thuật dân gian, ứng diễn, truyền khẩu, sử dụng tổng hợp nhiều yếu tố nghệ thuật,
trong đó diễn ngôn là yếu tố chủ đạo, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa của con ngƣời
trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên, siêu nhiên và xã
hội (trong giao tiếp, giao duyên, thực hiện các nghi lễ phong tục, tín ngƣỡng tôn giáo)”
[132; tr. 10]. Với cách hiểu này, Kiều Trung Sơn đã thu hẹp nội hàm của khái niệm
diễn xƣớng so với khái niệm diễn xƣớng mà giới nghiên cứu quen dùng trƣớc đó.
Từ việc điểm lại các quan niệm nhƣ trên, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên
cứu có các cách hiểu rộng, hẹp khác nhau về khái niệm diễn xƣớng. Chúng tôi nghiêng
về cách hiểu rộng nhƣ của Nguyễn Khắc Xƣơng và Richard Bauman, song không nhất
trí với quan điểm đồng nhất diễn xƣớng với các hiện tƣợng không có âm thanh nhƣ
kịch câm, múa... của Nguyễn Khắc Xƣơng. Cụ thể, chúng tôi cho rằng diễn xƣớng là
chỉ việc thể hiện, trình bày các sáng tác văn nghệ, do con ngƣời đảm nhiệm. Liên quan
đến diễn xƣớng bao gồm các yếu tố: tác phẩm, thời gian, địa điểm, âm thanh… Trong
đó, yếu tố con ngƣời là quan trọng nhất.
Vận dụng vào nghiên cứu dân ca, chúng tôi xác định diễn xƣớng dân ca là một
bộ phận của diễn xƣớng dân gian, bao gồm các hình thức thể hiện, trình bày lời thơ
nghệ thuật trong các hoàn cảnh cụ thể của đời sống. Dân gian gọi các hình thức thể
hiện đó bằng nhiều từ ngữ khác nhau nhƣ: ngâm, lí, ca, hát, hò, ví, kể… Các nhà
nghiên cứu đều thống nhất gọi chung hình thức diễn xƣớng đó là hát. Trong diễn
42
xƣớng dân ca, cần chú ý tới mối quan hệ tổng hòa giữa các yếu tố: ngôn từ nghệ thuật,
giai điệu, lề lối diễn xƣớng.
1.3.3.3. Mối quan hệ giữa diễn xướng và thi pháp lời thơ nghệ thuật
Trong bài viết Ngôn từ nghệ thuật như một hình thức diễn xướng, Richard
Bauman có nói đến sự rập khuôn cho diễn xƣớng. Theo đó, các công cụ thông tin báo
hiệu một hành động đang đƣợc thực hiện phải đƣợc xếp vào những thể loại nhất định
thì chúng mới đƣợc coi là sự diễn xƣớng. “Việc liên hệ sự diễn xƣớng với những thể
loại nhất định nào đó là một khía cạnh có ý nghĩa của việc rập khuôn cho sự diễn
xƣớng trong các cộng đồng” [146; tr. 764]. Nhƣ thế, Richard Bauman đã đƣa ra nhận
thức về sự liên hệ giữa những thể loại nhất định với kiểu diễn xƣớng đặc trƣng, tức
bao hàm việc thừa nhận có mối quan hệ nhất định giữa việc diễn xƣớng với thi pháp
lời ca của DCTTSH.
Về vấn đề này, ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên cũng đƣa ra những
kiến giải khá xác đáng. Ông cũng nhấn mạnh rằng trong số các sáng tác nghệ thuật dân
gian có chứa thành phần nghệ thuật ngôn từ thì thành phần này chiếm những tỉ lệ khác
nhau ở những thể loại khác nhau và có thể coi tỉ lệ đó là căn cứ phân chia thành các
lĩnh vực nhƣ VHDG, văn nghệ dân gian, âm nhạc dân gian… Theo đó, ông khẳng định
thành phần ngôn từ là đối tƣợng nghiên cứu chính của VHDG. Ông cũng cho rằng,
trong dân ca, đặc biệt là trong dân ca đối đáp, nhân dân ta đặt trọng tâm sự sáng tạo
của mình vào phần lời là chính. Đối với VHDG thì không thể nói dứt khoát đƣợc rằng,
ngoại trừ khâu diễn xƣớng, tác phẩm văn nghệ dân gian chỉ còn là cái xác không hồn
nhƣ quan điểm của tác giả Hữu Thu. Bởi lẽ, trong VHDG, xét về bản chất, cái hồn lại
chính là ngôn từ dù nó đƣợc bộc lộ ra bằng ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết. Việc
nghiên cứu tác phẩm VHDG trên sự kiện văn bản không phải là nghiên cứu cái xác
không hồn mà chính là nghiên cứu cái hồn tồn tại trong thể xác của nó.
Cũng theo Chu Xuân Diên, ngƣời nghiên cứu cần khảo sát, tìm hiểu các hình
thức sinh hoạt thực tiễn, các kiểu trình diễn nghệ thuật, vì việc dựng nên đƣợc một bức
tranh miêu tả sinh hoạt dân gian trong đó diễn ra các kiểu trình diễn nghệ thuật giúp ta
hình dung đƣợc các mối quan hệ giữa các thành phần khác nhau trong một tổng thể. Lí
tƣởng nhất là nhà nghiên cứu đƣợc chứng kiến trực tiếp cuộc diễn xƣớng. Song, hiện
nay chúng ta ít có khả năng đƣợc tham gia vào những sinh hoạt thực tiễn và trực tiếp
thƣởng thức các kiểu trình diễn nghệ thuật của vốn VHDG cổ truyền [29; tr.100].
43
Nhƣng, đóng vai trò là thành phần chủ yếu trong tổng thể sinh hoạt văn hóa nghệ thuật
dân gian, văn bản tác phẩm in đậm dấu ấn của những thành phần không phải văn học
của tổng thể đó. Ví dụ nhƣ, kiểu cấu tứ đối đáp hai vế của lời thơ nghệ thuật trong
DCTTSH phản ánh hình thức diễn xƣớng hát đối đáp trong thực tế. Vì lí do này, trong
khi không đƣợc tiếp xúc hoặc ít đƣợc tiếp xúc trực tiếp với các hình thức sinh hoạt dân
ca, thì qua thành phần ngôn từ trong các cuốn sách sƣu tầm, ngƣời nghiên cứu vẫn có
thể nói đến lối đối đáp trong ca dao trữ tình nhƣ Cao Huy Đỉnh đã phân tích, vẫn có
thể viết về những yếu tố có tính chất kịch trong dân ca nhƣ ông Hoàng Tiến Tựu, tức
vẫn “có thể khám phá vẻ đẹp, nét riêng độc đáo của ca dao dƣới cái nhìn của khoa học
về thi pháp” [65; tr. 119]. Tất nhiên, bên cạnh thành phần lời thơ nghệ thuật, việc
nghiên cứu diễn xƣớng dân ca cần dựa trên cả các yếu tố nhƣ địa điểm, thời gian, hình
thức ca hát… bởi diễn xƣớng dân ca là sự tổng hòa của tất cả những yếu tố này.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chƣơng này, chúng tôi đã điểm lại tình hình nghiên cứu về vấn đề so
sánh DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận ra các vấn
đề của DCTTSH Tày, Thái ít nhiều đã đƣợc các học giả, các nhà nghiên cứu quan tâm
bàn đến. Luận án của chúng tôi kế thừa các luận điểm đã đƣợc đƣa ra và hệ thống hóa,
phân tích, soi chiếu chúng dƣới quan điểm so sánh để tìm ra những sự tƣơng đồng và
riêng biệt của hai hệ thống dân ca này và nội hàm văn hóa ẩn chứa trong đó.
Bên cạnh đó, chúng tôi đã giải quyết những vấn đề lí luận cơ bản của việc
nghiên cứu so sánh DCTTSH. Chúng tôi tìm hiểu cơ sở lí luận về VHSS và phƣơng
pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa, VHDG để làm nền tảng, định hƣớng cho việc
nghiên cứu DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu
lí luận về bản sắc văn hóa dân tộc, về diễn xƣớng, diễn xƣớng dân ca, mối quan hệ
giữa diễn xƣớng dân ca với thi pháp lời thơ nghệ thuật. Điều này là cần thiết và quan
trọng đối với việc nghiên cứu một bộ phận dân ca tiêu biểu, phong phú của hai dân tộc
thiểu số Tày, Thái mà sự tồn tại của chúng là gắn bó mật thiết với đời sống đồng bào
hai dân tộc ở dạng những diễn xƣớng đa dạng, còn đƣợc bảo lƣu ít nhiều cho đến ngày
nay. Có thể nói, những lí luận đó là cơ sở để chúng tôi ứng dụng vào việc so sánh
DCTTSH Tày, Thái ở những chƣơng sau.
44
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, THÁI Ở VIỆT NAM VÀ DÂN CA
TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA HỌ
2.1. Khái quát về ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam
2.1.1. Người Tày
2.1.1.1. Tộc danh và nguồn gốc lịch sử
Về tên gọi, tộc danh Tày đã xuất hiện từ lâu đời. Theo tác giả Hà Đình Thành
trong công trình Văn hóa dân gian Tày – Nùng ở Việt Nam, Tày là tên gọi “có nguồn
gốc chung của nhiều dân tộc thuộc nhóm Thái – Choang ở Nam Trung Quốc và Đông
Nam Á, nhƣ: Tai, Tay, Táy, Thai…, đều có nghĩa là ngƣời” [140; tr 26]. Ngƣời Thái ở
Việt Nam tự xƣng là Tày, sau kèm một phụ tố cũng xuất phát từ ý nghĩa này. Bên cạnh
đó, có ý kiến khác cho rằng tộc danh Tày liên quan đến nền nông nghiệp lúa nƣớc của
cƣ dân Tày – Thái với nông cụ tiêu biểu là cái cày. Trong tiếng Tày – Thái, “cái cày
đƣợc viết là Mạc Thay hay Thây, khi đọc thì biến âm thành Tày hay Thái” [172; tr 48].
Dùng chữ Tày làm tên gọi, ngƣời Tày muốn giới thiệu mình là ngƣời cày ruộng (thây
nà). Từ sau 1945, Tày đƣợc dùng làm tên gọi chính thức cho dân tộc Tày ở Việt Nam.
Tộc ngƣời này còn có tên gọi khác là Thổ với nghĩa là “ngƣời vốn ở đất này từ lâu.
Tuy nhiên, tộc danh này không chỉ có ở ngƣời Tày mà còn là tên gọi của một số cƣ
dân bản địa khác” [140; tr 26]. Ngƣời Tày bao gồm 4 nhóm địa phƣơng là Ngạn, Phén,
Thu Lao và Pa Dí. Hai nhóm Pa Dí và Thu Lao phân cƣ tại các tỉnh Lào Cai, Hà
Giang, Tuyên Quang. Nhóm Ngạn chủ yếu cƣ trú tại xã Đào Ngạn, Sĩ Hai, Mã Ba của
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhóm Phén, hay còn gọi là Tày áo nâu do họ thƣờng
mặc y phục nhuộm màu nâu, tập trung nhiều ở vùng Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
Dân tộc Tày là một cộng đồng tộc ngƣời thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái.
Theo các tác giả của công trình Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái
ở Việt Nam, “thời Chu Tần, các dân tộc thuộc ngôn ngữ Tày – Thái và nhiều dân tộc
khác nữa cƣ trú ở miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam đƣợc gọi chung là
Bách Việt; thời Tần có tên gọi là Tây Âu – Lạc Việt; thời Lƣỡng Hán có tên gọi là Ô
Hử; thời Nam Bắc triều có tên gọi là Lý, Lạo, Lang; thời Tống xuất hiện các tên gọi
Thổ, Cháng và thời Minh, tên Cháng trở nên phổ biến” [75; tr 22]. Nhƣ thế, ngƣời Tây
Âu – Lạc Việt chính là tổ tiên của ngƣời Thái ở Vân Nam, ngƣời Choang ở Quảng
Tây, ngƣời Lê ở đảo Hải Nam, ngƣời Chủng Chá, Bố Y ở Quý Châu, ngƣời Tày,
Nùng, Kinh ở Việt Nam.
45
Tác giả Nguyễn Thị Yên trong công trình Then Tày [189] cũng cho rằng Bách
Việt là tổ tiên của các tộc ngƣời thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau thuộc cả hai
nhóm văn hóa ngôn ngữ là Nam Á và Nam Đảo. Cƣ dân Bách Việt đƣợc hình thành từ
thời Hạ Thƣơng, cƣ trú chủ yếu ở phía nam sông Trƣờng Giang. Thời Xuân Thu chiến
quốc, các cƣ dân Việt đã lập nên hai nƣớc Việt, Ngô. Năm 473 trƣớc công nguyên,
nƣớcViệt tiêu diệt nƣớc Ngô. Năm 323 trƣớc công nguyên, nƣớc Sở tiêu diệt
nƣớcViệt. Dƣới thời Tần Hán, Việt tộc từng phân hóa rồi hợp lại, gọi là Bách Việt,
gồm các nhóm nhƣ: Đông Việt ở Chiết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Việt ở
Quảng Đông, Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc Việt Nam, Điền Việt ở Vân Nam, Quỳ
Việt ở Tứ Xuyên… Khoảng năm 221 trƣớc công nguyên, hầu hết đất đai của ngƣời
Việt đều bị nhà Tần chinh phục. Đông Âu, Mân Việt dần dần bị Hán hóa. Ngƣời Tây
Âu, Lạc Việt đã chống lại quân Tần, chiến thắng quân Tần và thành lập đƣợc những
vƣơng quốc độc lập.
Lịch sử hình thành của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái đánh dấu
hai lần thiên di lớn theo hƣớng Tây Nam và Nam. Lần thiên di thứ nhất vào nửa cuối
thiên kỉ thứ I trƣớc công nguyên, lần thiên di thứ hai vào những thế kỉ cuối của thiên kỉ
thứ I và đầu thiên kỉ thứ II sau công nguyên. Hai cuộc thiên di lớn đó cùng với những
cuộc thiên di nhỏ lẻ, mang tính chất địa phƣơng khác đã dẫn tới sự giao lƣu, tiếp biến
và hỗn hợp về nhân chủng, văn hóa giữa các dân tộc với nhau. Kết quả của những biến
động trên là khối Tày – Thái phân tách làm hai vào khoảng đầu công nguyên: nhóm
Tày – Thái ngành phía đông và nhóm Tày – Thái ngành phía tây. Điểm cực nam của
địa vực cƣ trú của ngành Tày – Thái phía đông là vùng núi rừng Việt Bắc.
Dân tộc Tày thuộc nhóm Tày – Thái ngành phía đông. Ở vùng thƣợng du Đông
Bắc Bắc Bộ Việt Nam và các vùng Lƣỡng Quảng (Trung Quốc), xuất hiện các nhóm
tộc danh mới nhƣ Di, Lí, Lão, Lang, Ô Hử và các nhóm Man là di duệ của ngƣời Tây
Âu – Lạc Việt. Lịch sử diễn biến và phân hóa của các nhóm tộc ngƣời này đã cấu
thành tổ tiên của nhóm tộc ngƣời ngôn ngữ Tày – Thái ngành phía Đông [105; tr. 89 –
92]. Nhƣ thế, ngƣời Tày cổ vốn là cƣ dân bản địa lâu đời, xuất hiện ở vùng Đông Bắc
Việt Nam từ rất sớm, có thể từ cuối thiên niên kỉ I trƣớc Công nguyên. Các truyền
thuyết Pú Lương Quân, Cẩu chủa cheng vua nói về sự có mặt của họ từ những thời kì
xa xƣa ở Việt Nam và những công tích của họ trong xây dựng đất nƣớc. Ngƣời Tày cổ
là một nhánh của cộng đồng ngƣời Việt cổ. Vào thời dựng nƣớc, cƣ dân của nƣớc Văn
46
Lang, Âu Lạc là ngƣời Việt cổ gồm hai thành phần chính là ngƣời Việt trồng lúa ở
đồng bằng gọi là Lạc Việt, ngƣời Việt ở miền núi gọi là Âu Việt. Âu Việt là tổ tiên của
dân tộc Tày, mà một số nhà khoa học vẫn quen gọi là ngƣời Tày cổ. Khi Thục Phán –
vua của nƣớc Nam Cƣơng đánh chiếm nƣớc Văn Lang đã hợp nhất Lạc Việt và Âu
Việt, lập nên nƣớc Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội ngày nay), có thể
những bộ phận ngƣời Tày cổ ở vùng thƣợng du Bắc Bộ đã hòa hợp vào ngƣời Việt -
Mƣờng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để hình thành dân tộc Việt hiện đại. Bộ phận
ngƣời Tày cổ ở lại miền núi chính là tổ tiên ngƣời Tày hiện nay.
Thời Đƣờng – Tống (thế kỉ VI - XII), ở ngƣời Tày cổ có sự hình thành nên các
bộ lạc và liên minh bộ lạc do một dòng họ lớn đứng đầu, tiêu biểu nhƣ: họ Ninh ở
vùng động Nhƣ Tích (Quảng Ninh) và châu Vĩnh An (Quảng Đông), họ Vi ở Tú Lăng,
Lộc Châu, Tƣ Bình (Quảng Tây), Tô Mậu (Đình Lập – Lạng Sơn)... Từ khoảng thế kỉ
VII trở đi, thủ lĩnh của các dòng họ nói trên liên tiếp nổi dậy chống lại triều đình
Đƣờng – Tống, tiêu biểu là cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao.
Sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao, giữa nhà Lý và nhà Tống xảy ra chiến
tranh và đi đến một cuộc điều đình. Từ đó, biên giới Việt Trung đƣợc phân định rõ
ràng hơn. Các triều đình phong kiến Việt Nam và Trung Quốc tổ chức cai trị nhân dân
ở các vùng biên giới một cách chặt chẽ hơn. Từ đó, dân tộc Choang ở Trung Quốc và
Tày ở Đông Bắc Việt Nam hình thành và phát triển trong những điều kiện khác nhau.
Khối Tày – Choang phân tách và hình thành ngƣời Tày hiện đại ở Việt Nam ngày nay.
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm, do hiện tƣợng hòa hợp dân tộc diễn ra trên
những sự kiện có thuộc tính xã hội và hiện tƣợng sinh học trên con ngƣời cụ thể, dân
tộc Tày dần dần có sự thay đổi về thành phần. Về cơ bản, dân tộc Tày ở Việt Nam hiện
nay là sự hợp thành của các thành phần chính là: bộ phận ngƣời Tày bản địa (ngƣời
Tày cổ), bộ phận ngƣời Tày gốc Kinh, bộ phận ngƣời Nùng hóa Tày và bộ phận ngƣời
Tày thuộc các nhóm đồng tộc đến từ Trung Quốc. Ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc Việt
Nam hiện nay chủ yếu là sự kết hợp của ba nhóm Tày bản địa, Tày gốc Kinh và Tày
gốc Nùng. Ở mỗi tỉnh trong vùng, sự kết hợp giữa các thành phần trên lại có mức độ
đậm nhạt khác nhau.
Về bộ phận ngƣời Tày bản địa: Vùng Đông Bắc, hay hẹp hơn là Việt Bắc là địa
vực cƣ trú của ngƣời Tày cổ, hay chính là Tày bản địa. Các cứ liệu lịch sử, khảo cổ
học, dân tộc học, truyền thuyết dân gian đã chứng minh điều đó. Ở Lạng Sơn, Cao
47
Bằng, các nhà khoa học đã phát hiện các di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Bắc Sơn. Ở
Bắc Kạn, nhân dân địa phƣơng cũng tìm ra nhiều công cụ lao động của ngƣời nguyên
thủy nhƣ rìu, bôn có vai có nấc ở xã Đông Phúc, Hoàng Trĩ (Ba Bể), Bằng Thành (Pác
Nặm)… Một số cứ liệu lịch sử và truyền thuyết Cẩu chủa cheng vua còn cho phép ta
đoán định rằng: cuối thế kỉ III trƣớc Công nguyên, thủ lĩnh của ngƣời Tày cổ là Thục
Phán đã làm vua nƣớc Nam Cƣơng, gồm miền tây tỉnh Quảng Tây và Cao Bằng ngày
nay, với kinh đô là Nam Bình, tức Cao Bình (Hòa An – Cao Bằng). Thục Phán đánh
chiếm nƣớc Văn Lang, là nƣớc láng giềng bị suy yếu, hợp nhất hai bộ phận Âu và Lạc,
thành lập nƣớc Âu Lạc, lấy hiệu là An Dƣơng Vƣơng, đóng đô tại Cổ Loa (Đông Anh
– Hà Nội ngày nay)… Những cứ liệu này cho thấy sự có mặt từ rất sớm của ngƣời Tày
cổ ở khu vực Đông Bắc. Họ có mặt ở đây trƣớc ngƣời Nùng, nên thƣờng chiếm những
vùng đồng ruộng thấp.
Về bộ phận ngƣời Tày gốc Kinh: Ngƣời Kinh lên sinh sống ở vùng ngƣời Tày,
lâu dần bị đồng hóa thành ngƣời Tày theo cách “Kinh già hóa thổ” (Keo ké piến Tày).
Họ bị đồng hóa thành ngƣời Tày vì những lí do cụ thể sau:
Đông Bắc là vùng có vị trí chiến lƣợc quan trọng trong việc củng cố an ninh
quốc phòng của Việt Nam. Vì thế, các triều đình phong kiến buộc phải chú ý áp đặt sự
thống trị của mình lên vùng này. Sau cuộc khởi nghĩa của Nùng Trí Cao, nhà Lý và
các nhà nƣớc phong kiến kế tiếp đã tổ chức cai trị dân chúng vùng biên giới chặt chẽ
hơn bằng cách thực hiện chế độ lƣu quan. Các vị quan khi lên cai trị vùng Tày thƣờng
đem theo gia quyến, binh lính, phu phen tạp dịch… chiêu dân lập ấp và trở thành quý
tộc địa phƣơng, cha truyền con nối cai trị từng vùng. Trong quá trình cƣ trú lâu đời tại
địa phƣơng, những ngƣời Kinh này dần bị Tày hóa.
Bộ phận ngƣời Tày gốc Kinh còn xuất phát từ nguồn binh lính đi dẹp loạn ở
miền núi, sau đó ở lại địa phƣơng kết hôn với ngƣời miền núi, sinh cơ lập nghiệp tại
đây, con cháu nhiều đời bị Tày hóa.
Các cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến trong nƣớc nhằm tranh chấp
quyền lực cũng có ảnh hƣởng nhất đinh tới lịch sử hình thành của dân tộc Tày hiện
đại, điển hình là cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn Lê – Trịnh và Mạc kéo dài gần
suốt thế kỉ XVII. Khi thất thế ở miền xuôi, nhà Mạc phải chạy lên chiếm đóng Cao
Bằng (1595 – 1667). Năm 1667, nhà Mạc diệt vong. Con cháu và dƣ đảng nhà Mạc
48
phải sống mai danh ẩn tích, đồng hóa với ngƣời Tày, góp phần tạo nên một bộ phận
lớn ngƣời Tày gốc Kinh ở Cao Bằng, Lạng Sơn.
Ngoài ra, bộ phận ngƣời Kinh hóa Tày còn bao gồm các thầy đồ miền xuôi lên
miền núi dạy học và dân chúng miền xuôi bị nạn đói kém, loạn lạc, phải chạy lên miền
núi, ở lại địa phƣơng, làm ăn lâu đời rồi bị đồng hóa thành ngƣời Tày.
Nhƣ thế, từ thế kỉ XI trở đi, cùng với sự phân định biên giới Việt Trung và việc
củng cố quyền lực ngày càng rõ hơn của các nhà nƣớc phong kiến tập quyền Việt
Nam, dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc đƣợc hình thành, trong đó, có sự gia nhập của bộ
phận ngƣời Kinh hóa Tày.
Về bộ phận ngƣời Nùng hóa Tày và bộ phận những ngƣời đồng tộc đến từ bên
kia biên giới: Đây là những ngƣời có cùng nguồn gốc với ngƣời Tày Việt Nam, di cƣ
từ vùng nam Choang Quảng Tây (Trung Quốc) đến vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong
quá trình cộng cƣ giữa họ và ngƣời Tày đã xảy ra hiện tƣợng hóa Tày, phổ biến ở các
địa phƣơng nhƣ Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn. Trong lịch sử, triều Nguyễn từng có
chủ trƣơng đổi ngƣời Nùng ở Cao Bằng thành ngƣời Thổ, tức Tày bản địa (năm Minh
Mệnh thứ 13). Theo đó, những ngƣời Choang từ Trung Quốc sang Việt Nam đƣợc trên
200 năm, không sống tụ cƣ, không giữ đƣợc bản sắc dân tộc thì gọi là Tày [190; tr.
36]. Khi vào Việt Nam, ngƣời Nùng mang theo những yếu tố văn hóa Hán mà họ tiếp
thu rất sâu đậm khi còn ở Trung Quốc. Điều đó khiến cho văn hóa Hán ảnh hƣởng đến
văn hóa Tày trực tiếp qua văn hóa của bộ phận ngƣời đến từ Trung Quốc.
Sự kết hợp của các nhóm Tày nhƣ trên dẫn đến quá trình giao lƣu mạnh mẽ của văn
hóa Kinh, Hán, Tày. Từ đó, dễ nhận thấy đặc điểm nổi bật trong văn hóa của ngƣời Tày ở
vùng Đông Bắc là sự giao thoa của các yếu tố văn hóa Kinh, Hán, Tày [56].
2.1.1.2. Đặc điểm cư trú và hoạt động kinh tế
Ngƣời Tày cƣ trú ở hầu khắp các địa phƣơng trong cả nƣớc nhƣng tập trung chủ
yếu ở các tỉnh vùng Đông Bắc Việt Nam, đông nhất ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng,
Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên. Về địa hình, vùng Đông Bắc bao
gồm cả miền núi và trung du, song nhìn chung địa hình khá bằng phẳng. Điều đáng
lƣu ý là vùng Đông Bắc có tính chất tiếp giáp giữa miền núi và miền xuôi, Trung Quốc
và Việt Nam, miền núi và biển Đông - vùng đất bắc Hán, xuôi Kinh. Ngƣời Tày có
câu: Đoi Keo piạc, đoi Hác mà (Mƣa ngâu từ miền Kinh hết, mƣa ngâu từ miền Hán
về) [105; tr. 251]. Vùng Đông Bắc gồm nhiều dãy núi hình vòng cung mở ra ở phía
49
Bắc, quay đầu về dãy núi Tam Đảo. Vùng này có nhiều con sông chảy qua nhƣ hệ
thống sông Hồng, hệ thống sông Thái Bình, sông Bắc Giang, sông Kì Cùng… và đều
chảy ra biển. Điều đó tạo nên tính chất mở của vùng Đông Bắc, tạo điều kiện cho việc
thông thƣơng, giao lƣu văn hóa với miền xuôi. Hơn thế, vùng Đông Bắc có vị trí chiến
lƣợc vô cùng quan trọng trong an ninh quốc phòng. Bao thế kỉ, các vƣơng triều phong
kiến Việt Nam và Trung Quốc đều muốn xác lập ảnh hƣởng cả về chính trị lẫn văn hóa
lên vùng đất này. Cƣ trú ở vùng đất giáp ranh Hán – Kinh ấy, ngƣời Tày chịu ảnh
hƣởng của cả văn hóa Hán và văn hóa Kinh. Điều đó đã để lại ảnh hƣởng nhất định tới
việc sáng tác DCTTSH của tác giả dân gian Tày. Bên cạnh đó, tính chất khá bằng
phẳng của địa hình khiến cho không gian của ngƣời Tày gần giống với không gian
sống của ngƣời Kinh. Sự tƣơng đồng về đặc điểm môi trƣờng tự nhiên nhƣ thế là một
nguyên nhân dẫn tới sự tƣơng đồng nhất định về lối sống, phong tục, tập quán… của
ngƣời Kinh và ngƣời Tày.
Ở Đông Bắc, ngƣời Tày thƣờng sống thành bản ở ven suối hay ven các thung
lũng và chân núi ở vùng trung du. Cảnh quan thƣờng thấy của bản Tày là dựa lƣng vào
sƣờn núi hoặc đƣợc dựng trên những đồi thấp dọc khe suối, có khi đƣợc dựng ở giữa
đồng. Điều đó khiến cho làng bản của ngƣời Tày thƣờng êm ả với tiếng suối chảy róc
rách. Tên làng bản của ngƣời Tày khá phong phú. Tên bản có khi gắn với một câu
chuyện cổ nhất định. Chẳng hạn, ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng có các làng Dộc
Săm, Nà Mỏ (xã Nam Tuấn), Nà Mò, Chông Mu, Bản Sẩy (xã Bế Triều)… là các địa
danh gắn liền với truyền thuyết Pú Lương Quân… Có khi, tên bản đƣợc đặt theo nghề
nghiệp của cƣ dân trong bản. Ở huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) có bản Ngõa (ngói
nung), Lũng Oài (nuôi trâu đàn)… Bên cạnh đó, tên bản làng của ngƣời Tày thƣờng
có ý nghĩa phản ánh đặc điểm tự nhiên của vùng đất đó. Tên bản đƣợc gọi theo tên đồi
núi, đồng ruộng, khúc sông. Tên các bản có chữ Nà ở đầu thƣờng là bản có nhiều
ruộng, có chữ Vò ở đầu thƣờng là bản đặt trên gò đồi, có chữ Phja ở đầu thƣờng là bản
ở vùng núi đá, có chữ Khau ở đầu thƣờng là bản ở vùng núi đất. Chẳng hạn, tại tỉnh
Bắc Kạn, xã Dƣơng Quang, thành phố Bắc Kạn có bản Nặm Cắt (nƣớc lạnh); ở xã Hà
Hiệu, huyện Ba Bể có bản Nà Dài (ruộng cát), bản Đông Băm (rừng tối)…
Đặc điểm chọn đất cƣ trú của ngƣời Tày nhƣ trên ngoài ý nghĩa giúp ổn định
cuộc sống của cƣ dân còn thuận tiện cho việc phát triển các hoạt động kinh tế. Về hoạt
động sản xuất, trong quá trình khai thác thiên nhiên ở vùng chân núi thấp của vùng
50
Đông Bắc, ngƣời Tày phát triển đa dạng các hình thức ruộng – vƣờn – ao – chuồng –
rừng. Họ sống chủ yếu dựa vào nghề nông nghiệp lúa, thƣờng chỉ trồng một vụ lúa,
trồng cả lúa nếp và lúa chiêm, trong đó cây lúa nếp đƣợc coi trọng bởi nó là lƣơng
thực chính trong ẩm thực truyền thống của ngƣời Tày. Về trồng cấy lúa nƣớc, họ có
các loại hình ruộng: nà nặm (ruộng nƣớc); nà lẹng, nà pàn (ruộng cạn chờ mƣa); nà
lum, nà pùng (ruộng lầy thụt, bùn sâu). Ngƣời Tày sớm biết thâm canh cây lúa và làm
thủy lợi giỏi. Ngoài lúa nƣớc, ngƣời Tày còn khai thác đất dốc làm nƣơng rẫy trồng
cấy lúa khô và một số cây hoa màu, rau xanh, cây bông dệt vải và cây chàm để nhuộm.
Kinh tế vƣờn cũng đƣợc ngƣời Tày chú trọng. Hầu nhƣ gia đình nào cũng có vƣờn
theo lối vƣờn tạp, trồng các loại rau xanh, dây lang, cây mía, mơ mận… theo lối đa
canh. Cùng với trồng trọt, ngƣời Tày còn phát triển các nghề chăn nuôi, hái lƣợm, săn
bắt và thủ công. Trong đó, nghề chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà khá phát triển với hình thức
làm chuồng dƣới gầm sàn nhà và tính chất nửa chăm sóc, nửa thả rông. Việc nuôi, vịt,
cá cũng rất phổ biến do ngƣời Tày đã biết cách làm ao, hồ cạnh nhà và khai thác các
nguồn lợi do sông suối mang lại. Các nghề thủ công nhƣ dệt nhuộm, đan lát thƣờng
đƣợc mặc định là công việc của phụ nữ và kém phát triển trong tƣơng quan so với một
số dân tộc nhƣ Thái, Lào, Lự… và chỉ đƣợc coi là nghề phụ của gia đình. Bên cạnh
việc tổ chức các hoạt động sản xuất nhƣ trên, ngƣời Tày còn khai thác các nguồn tài
nguyên sẵn có trong tự nhiên thông qua việc săn bắt và hái lƣợm để phục vụ đời sống.
Họ săn bắt chim, thú rừng, đánh bắt thủy sản và hái lƣợm rau, củ, quả để bù đắp cho
phần thiếu hụt của kinh tế chăn nuôi và kinh tế vƣờn. Một hoạt động kinh tế đáng chú
ý nữa của ngƣời Tày là trao đổi, mua bán. So với các DTTS ở vùng Đông Bắc, việc
mua bán, trao đổi hàng hóa của ngƣời Tày phát triển hơn, nhất là ở những địa phƣơng
giáp với vùng cƣ trú của ngƣời Kinh miền xuôi. Nhìn chung, các hoạt động kinh tế của
ngƣời Tày tuy vẫn mang tính chất của một nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp song
đã có sự phát triển nhất định.
2.1.1.3. Đặc điểm văn hóa
Về nhà ở, ngƣời Tày ở nhà sàn giống nhƣ tập tục sinh hoạt của cƣ dân Bách
Việt thời cổ đại [105; tr. 67]. Ngôi nhà truyền thống của ngƣời Tày có cấu trúc theo
khối gần nhƣ hình vuông, là nhà sàn có bộ sƣờn làm theo kiểu vì kèo bốn, năm, sáu
hoặc bảy hàng cột. Nhà có hai hoặc bốn mái. Từ cửa chính của ngôi nhà, tùy từng tập
quán của từng địa phƣơng mà chia ngôi nhà thành hai phần theo chiều ngang hoặc
51
chiều dọc. Hai phần đó là nả nưa (nửa trên)– chỗ sinh hoạt của nam giới và nả tẩư
(nửa dƣới) – chỗ sinh hoạt của nữ giới. Bếp chính đặt tại chính giữa của nửa dƣới.
Không gian ngủ đƣợc phân tách thành các buồng riêng. Sống ở vùng núi rừng Đông
Bắc, ngƣời Tày thƣờng tranh thủ nguồn lâm sản có sẵn để dựng nhà. Vật liệu làm nhà
sàn của ngƣời Tày chủ yếu là tranh, tre, nứa, lá và gỗ. Nhà dựng bằng nhiều gỗ. Nhà
của ngƣời Tày có ít cửa và cửa sổ. Xung quanh nhà thƣng ván gỗ hoặc che liếp nứa.
Trƣớc đây, nhà của ngƣời Tày nặng về tính chất phòng thủ. Đặc điểm này không chỉ
do sự phù hợp với thị hiếu dân tộc mà còn thể hiện tính thích nghi của tộc ngƣời với
điều kiện sinh hoạt ở vùng rừng núi nhiệt đới, khí hậu ẩm ƣớt, nắng lắm mƣa nhiều, có
nhiều sâu bọ, ác thú và đề phòng trộm cƣớp.
Về trang phục, ngƣời Tày có lối ăn mặc không cầu kì, có thể nói là khá đơn
giản khi chỉ thuần nhất một màu chàm trên quần áo của cả nam và nữ, không thêu thùa
thêm họa tiết, hoa văn trang trí cho trang phục. Điều này tạo nên sự khác biệt so với
các DTTS khác khi phần đông các DTTS có màu sắc trang phục khá rực rỡ, bắt mắt;
một số dân tộc có trang phục cũng dùng màu chàm nhƣ ngƣời Tày nhƣng có trang trí
thêm các màu sắc khác.
Màu chàm dùng để nhuộm cho sợi bông là của cây chàm, gắn với một truyện cổ
của dân tộc về mối tình chung thủy của đôi trai gái: Thuở xƣa có cô gái nhà nghèo mồ
côi, từng cắt tóc đi bán để đổi lấy đồ ăn cho một kẻ ăn mày. Về sau, kẻ ăn mày đó đến
hỏi nàng làm vợ vì cảm động trƣớc lòng tốt của nàng. Khi giặc Hung nô sang xâm
lƣợc, chàng trai ra đi đánh giặc, cô gái ở nhà ngóng trông mãi không thấy chồng trở
về. Cô đã theo hƣớng chiến trận để đi tìm chồng và chết vì nhớ nhung, mệt mỏi. Nơi
dân làng chôn cất nàng đã mọc lên cái cây tỏa ra mùi thơm kì lạ nhƣ hiện thân của tình
yêu và tấm lòng thủy chung của nàng. Cây đó chính là cây chàm mà sau đó đồng bào
Tày đã dùng để nhuộm màu cho trang phục.
Bộ trang phục cổ truyền của ngƣời Tày thống nhất mặc quần áo màu chàm bên
ngoài, mặc áo lót trắng bên trong. Phụ nữ mặc váy hoặc quần chân què, có áo cánh
ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút. Về
khăn, phụ nữ thƣờng chít khăn mỏ quạ nhƣ phụ nữ Kinh. Cá biệt có nhóm Thu Lao
quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà. Y phục
của nam giới Tày có áo cánh 4 thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần chân
què và giày vải. Áo dài 5 thân thƣờng đƣợc nam giới sử dụng trong các dịp lễ, tết.
52
Khăn đội đầu đƣợc nam giới cuốn trên đầu nhƣ chữ nhân. Quần chân què là quần đƣợc
cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp
rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Bên cạnh đó, đồng bào thƣờng đeo
thắt lƣng đƣợc dệt bằng vải thủ công, rộng khoảng 40cm gấp làm tƣ, chiều dài đủ quấn
quanh thân ngƣời hai vòng, buộc lại ở phía sau, để buông dải đuôi xuống sau lƣng.
Nhƣ thế, sự độc đáo trong trang phục của ngƣời Tày không nằm ở lối tạo dáng
cầu kì với màu sắc rực rỡ mà nằm ở sự đơn giản và ở lối sử dụng màu chàm thuần nhất
cho tổng thể trang phục. Đó là “cách ăn mặc gợi tính thanh bình, phẳng lặng, cân đối”
[69; tr. 152], phù hợp với tính cách con ngƣời Tày bình dị và đôn hậu, đồng thời thể
hiện sự tƣơng đối thuần nhất của một tộc ngƣời có lƣợng dân cƣ đông nhất trong số
các DTTS ở nƣớc ta.
Về hôn nhân, hôn nhân của ngƣời Tày tuân theo nguyên tắc phụ hệ nhƣ phong
tục của phần đông các dân tộc Việt Nam. Trong đó, nổi lên những đặc điểm cơ bản là:
Cha mẹ có quyền quyết định chuyện hôn nhân của con cái, hôn nhân mua bán, hôn
nhân môn đăng hộ đối, chế độ ngoại hôn, hôn nhân một vợ một chồng song vẫn chấp
nhận hiện tƣợng đa thê, cƣ trú bên nhà chồng. Phong tục của ngƣời Tày xƣa quy định
việc cƣới xin phải trải qua các bƣớc chính là: Xam lùa (lễ dạm hỏi); mai, kin hap hay
khat cằm (lễ ăn hỏi); kin lẩu (lễ cƣới); tỏ nả hay tẻo slam mự (lễ lại mặt). Nhìn chung,
phong tục hôn nhân của ngƣời Tày đơn giản hơn so với của ngƣời Thái.
Về tổ chức gia đình, ngƣời Tày phổ biến hình thức tiểu gia đình với hai thế hệ:
bố mẹ và những đứa con chƣa lấy vợ, lấy chồng. Song, ở ngƣời Tày cũng có những
gia đình gồm ba thế hệ. Tác giả La Công Ý khi dựa theo kết quả điều tra xã hội học do
Viện Dân tộc học tiến hành năm 1979 đã kết luận rằng: “Gia đình của ngƣời Tày có
quy mô tƣơng đối nhỏ hơn so với một số dân tộc khác ví nhƣ ngƣời H’Mông hay
ngƣời Thái” [187; tr. 239]. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình Tày có sự tuân
theo tuyệt đối tôn ti trật tự, đề cao chữ lễ và các quy tắc ứng xử của chế độ phụ quyền,
phụ hệ. Điều đó thể hiện ra là: 1/ Trong quan hệ vợ chồng, ngƣời Tày đề cao không
khí hòa thuận, yêu thƣơng nhau trong gia đình nhƣ ngƣời Thái, song với ngƣời Tày, đó
là sự hòa thuận đƣợc tạo nên từ thái độ nhẫn nhịn, cam chịu và phục tùng của ngƣời vợ
đối với chồng. Ngƣời chồng, ngƣời cha có quyền quyết định mọi công việc của gia
đình. Ngƣời phụ nữ phải tuần theo nhiều quy định ứng xử mang tính bất bình đẳng
giới nhƣ: muốn thƣa gửi điều gì phải đứng, quỳ hoặc ngồi xổm để nói, phải ăn khác
53
mâm với bố chồng, anh chồng; khi muốn đƣa vật gì cho nam giới trong nhà phải đặt
xuống hoặc nhờ ngƣời thứ ba chuyển giúp; không đƣợc đi ngang hoặc ngồi quay lƣng
vào bàn thờ tổ tiên; không đƣợc chia tài sản. 2/ Trong quan hệ cha mẹ - con cái, ngƣời
Tày đề cao tính khuyên răn nhẹ nhàng của cha mẹ trong việc dạy bảo con cái và thái
độ ngoan ngoãn, vâng theo lời cha mẹ của những đứa con. Những điều trên thể hiện sự
ảnh hƣởng của tƣ tƣởng nam tôn nữ ti và trật tự, lễ giáo phong kiến lên quan hệ gia
đình ngƣời Tày là khá nặng nề.
Về lễ tết, cũng nhƣ nhiều dân tộc khác, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng của
ngƣời Tày chủ yếu thể hiện qua các hình thức lễ tết cổ truyền. Hằng năm, ngƣời Tày
có nhiều dịp lễ tết với những ý nghĩa khác nhau.
Nói riêng về tết, đầu tháng giêng, ngƣời Tày có tết Nguyên đán với ý nghĩa
mừng thu hoạch mùa, mở đầu năm mới; tháng bảy có tết Rằm tháng bảy để cúng các
vong hồn. Đây là hai tết lớn nhất trong năm đối với ngƣời Tày. Tháng ba, họ ăn tết
Thanh minh . Tháng năm, đồng bào ăn tết Đoan ngọ. Tháng sáu, đồng bào tổ chức tết
Gọi hồn trâu bò, cúng thần ruộng, thần trâu để bảo vệ mùa màng và gia súc. Tháng
tám, họ tổ chức tết Trung thu. Tháng chín, họ ăn tết Cốm mừng trăng và tết Cơm mới
mừng mùa lúa chín. Tháng chạp, đồng bào tổ chức tết Đông chí và tết ông Táo.
Các dịp tết của ngƣời Tày cơ bản trùng với các dịp tết của ngƣời Kinh. Sự khác
nhau về tết của hai dân tộc này chủ yếu ở quy mô và cách thức tổ chức, chẳng hạn nhƣ
tết Thanh minh, tết Rằm tháng bảy. Đối với ngƣời Tày, đây là hai dịp tết lớn, có ý
nghĩa quan trọng đối với họ. Đây là dịp để ngƣời Tày bày tỏ lòng thành kính với tổ
tiên (tết Thanh minh) và với các vong hồn (tết Rằm tháng bảy). Do đó, vào những dịp
này, đồng bào thƣờng chuẩn bị lễ vật thờ cúng rất chu đáo: tết Thanh minh có thịt lợn
quay, bánh dầy lá ngải, xôi nhuộm màu tím lá cẩm; tết rằm tháng bảy có bánh đƣờng,
bún, bánh dợm, thịt lợn quay, thịt vịt… Ngoài ra, các dịp tết nhƣ tết Gọi hồn trâu bò,
tết Cơm mới, tết Cốm, tết Đông chí mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Tày ở
vùng núi rừng Đông Bắc. Đây là các dịp tết gắn liền với ƣớc mong mùa màng bội thu,
của cải dồi dào, đời sống yên vui của ngƣời nông dân lao động miền núi, đồng thời nó
nhằm cải thiện phần nào đời sống của con ngƣời sau những ngày lao động miệt mài
trên ruộng nƣơng.
Ngoài các dịp tết, đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Tày phong phú với
những lễ hội cổ truyền và những trò chơi dân gian, những điệu hát then, lượn độc đáo
54
thể hiện trong các lễ hội ấy. Lễ hội của ngƣời Tày thƣờng là những lễ hội gắn với tín
ngƣỡng. Trong đó, đặc sắc nhất phải kể đến lễ hội Lồng tồng (xuống đồng), lễ hội
Nàng Hai (nàng Trăng), các lễ hội về ngƣời anh hùng lịch sử…
Vùng văn hóa Đông Bắc trƣớc hết là quê hƣơng của hội Lồng tồng. Hội này là
sản phẩm văn hóa của cƣ dân nông nghiệp Tày, tối thiểu diễn ra trong phạm vi một
bản (làng). Thông thƣờng, một số bản gần gũi nhau liên kết cùng tổ chức, có khi mở
rộng ra một vùng vài chục bản. Dự hội đông đảo nhất là ngƣời Tày và luôn luôn có
nhiều dân tộc láng giềng tham gia, trong đó có những ngƣời đồng tộc ở bên kia biên
giới Việt Trung và ngƣời Kinh ở miền xuôi lên. Có thể nói đó là những ngày hội mùa
của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc, gắn chặt với mùa vụ và mang đậm màu sắc tín
ngƣỡng dân gian.
Ngoài hội Lồng tồng, vùng văn hóa Đông Bắc còn có lễ hội lớn khác là hội
Nàng Hai đƣợc tổ chức ở một số địa phƣơng thuộc tỉnh Cao Bằng để bày tỏ sự sùng
bái nữ thần Trăng. Đó cũng là lễ hội cầu mùa, một hình thức văn hóa tín ngƣỡng đặc
trƣng của đồng bào Tày ở Đông Bắc. Hội thƣờng đƣợc tổ chức trong những đêm trăng
đẹp. Thời gian và hình thức tổ chức hội không cố định. Có khi hội diễn ra vào mùa
xuân, vào trung tuần các tháng giêng, hai, ba, gắn với các nghi lễ cầu mùa và các nghi
lễ múa quạt, hát đối đáp chúc phúc… Có khi hội diễn ra vào mùa thu, gắn với các lễ
Then nhƣ: Lẩu Then, Cống Sử, Kỳ Em… và các trò chơi phong phú nhƣ bói việc sản
xuất, bói tình duyên… Nàng Trăng là một hình thức nữ tính của thần Nông đƣợc ca
ngợi qua các điệu lượn Hai là hàng trăm bài ca cầu nguyện và bài ca tình yêu mà các
đôi trai gái Tày say sƣa hát đối đáp trong hơn một chục đêm hội Nàng Hai.
Lễ hội của ngƣời Tày bao giờ cũng gồm hai phần rõ ràng: phần lễ và phần hội.
Phần lễ là không gian để đồng bào biểu hiện lòng tôn kính đối với thần linh. Phần hội
là mảnh đất của các làn điệu dân ca hát lƣợn và các trò chơi dân gian: ném còn, cuớp
còn, kéo co, đánh quay, đánh yến, đánh đu, múa võ, múa giáo... Các trò chơi này thể
hiện rất rõ tín ngƣỡng phồn thực của dân tộc Tày, gắn chặt với tính chất cầu mùa của
các lễ hội nông nghiệp. Sự trƣờng tồn âm thầm mà mãnh liệt của các lễ hội dân gian
Tày từ quá khứ tới hiện tại là minh chứng rõ nhất cho sự bền vững của bản sắc dân tộc.
Các lễ hội có sức sống nhƣ thế là vì nó phù hợp với tinh thần dân tộc, phù hợp với
phong tục tập quán, với cuộc sống sinh hoạt bình dị ở miền núi.
55
2.1.2. Người Thái
2.1.2.1. Tộc danh và nguồn gốc lịch sử
Về tộc danh, Thái là tên gọi chính thức trong Danh mục các thành phần dân
tộc Việt Nam [137]. Song, ngƣời Thái còn tự xƣng mình là Tay hay Thay, gọi là côn
Tay hay phủ Tay [129; tr. 10], tức Tay (ngƣời) sau kèm một phụ tố nào đó. Chẳng hạn,
ngƣời Thái ở Tây Bắc xƣng Tay Đăm (Thái đen), Tay Đón, Tay Khao (Thái trắng); ở
xứ Thanh - Nghệ, họ lại xƣng Tay Mƣờng, Tay Dọ, Tay Mƣời, Tay Thanh, Tay Nhại,
Tay Khăng... Ngƣời Thái có sự phân chia thành hai ngành: ngành Thái đen và ngành
Thái trắng.
Theo các tác giả của công trình Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới
phía Bắc Việt Nam, ngƣời Thái thuộc ngành Tày – Thái phía Tây, xuất xứ từ phía
nam Trung Quốc và có quan hệ nguồn gốc với khối siêu tộc Bách Việt. Căn cứ theo
phƣơng vị địa lí và sự biến thiên của cƣ dân trên địa bàn cƣ trú xƣa đƣợc sử sách ghi
lại, các tác giả đã thấy đƣợc sự liên quan giữa ngƣời Thái vùng Tây Nam Trung Quốc
với ngƣời Điền Việt. Từ thời Tần Hán, ngƣời Điền Việt giết Hán sứ, từ đó không đi lại
với ngƣời Hán nữa [105; tr. 107]. Tác giả Nguyễn Thị Yên trong công trình Tín
ngưỡng dân gian Tày Nùng cũng ghi nhận rằng dƣới sự thống nhất thể chế chính trị
Tần Hán, các tộc Bách Việt đều chịu sự thống trị của vƣơng triều trung nguyên và ảnh
hƣởng của văn hóa Hán, trừ Điền Việt, [190; tr. 25]. Nhƣ thế, ngay từ lịch sử hình
thành, ngƣời Điền Việt, tức bộ phận ngƣời Thái đen di cƣ từ Vân Nam vào Tây Bắc
Việt Nam đã không chịu ảnh hƣởng của văn hóa Hán nhƣ ngƣời Tày.
Từ miền nam Trung Quốc, ngƣời Thái đã thiên di vào Tây Bắc Việt Nam trong
thời gian từ thế kỉ VII đến thế kỉ XIII [166; tr. 23]. Truyền thuyết và thƣ tịch Thái cổ
cho thấy địa bàn cƣ trú của tổ tiên ngƣời Thái là miền chín con sông gặp nhau, là địa
bàn xuất phát cho quá trình thiên di xuống phía Nam, chiếm lĩnh cửa ngõ các dòng
sông lớn, mở rộng lãnh thổ và tộc ngƣời vào sau thế kỉ X. Lịch sử thiên di của ngƣời
Thái vào Tây Bắc Việt Nam có thể kể đến ba lần lớn: 1/ Lần thứ nhất là vào khoảng
thế kỉ XI, trƣớc sự lớn mạnh của một số tộc ngƣời thuộc ngữ hệ Tạng Miến ở Vân
Nam (Trung Quốc), anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần thuộc dòng dõi tạo đất Tung Hoàng
đã lãnh đạo ngƣời Thái đen thiên di về phía nam, đi tìm đất mới. Họ khuất phục các
nhóm Xá, lập nên bản làng và xác lập sức ảnh hƣởng của mình ở Mƣờng Lò và vùng
hữu ngạn sông Thao. Lần thiên di này đƣợc ghi lại trong Táy pú xấc và Quắm tố
56
mướng rằng Mƣờng Ôm, Mƣờng Ai là mƣờng quê tổ của ngƣời Thái đen. Thuở ấy,
quê tổ đang yên vui thì giặc tràn tới, họ phải bỏ quê đi tìm đất mới. 2/ Lần thứ hai là
vào khoảng thế kỉ XI – XII, dƣới thời thủ lĩnh Lạng Chƣơng. Lạng Chƣơng đã lãnh
đạo ngƣời Thái đen tiến sâu vào chinh phục đất Tây Bắc. Họ tràn từ hữu ngạn sông
Hồng, vào sông Đà và miền sông Mã đánh thắng các nhóm Xá bản địa, làm chủ các
vùng đất Mƣờng Chiến, Mƣờng Trại, Mƣờng Bú, Mƣờng La, Mƣờng Muổi (Sơn La),
Mƣờng É, Mƣờng Quài, Mƣờng Thanh (Điện Biên), từ đó xác lập địa bàn cƣ trú của
ngƣời Thái đen ở vùng giữa Tây Bắc. 3/ Lần thứ ba là sự thiên di của nhiều nhóm Thái
từ Lào vào vùng Tây Bắc, diễn ra ở nhiều thời điểm khác nhau, tập trung vào thế kỉ
XIII – XIV, gắn liền với thủ lĩnh Nhọt – chon – cằm, ngƣời sau này trở thành ông tổ
họ Xa. Những ngƣời Thái di cƣ từ Lào qua này chính là tổ tiên của Thái trắng ở Mộc
Châu và Sơn La. Các thế hệ ngƣời Thái đó đã kiến tạo vùng Thái phía nam của khu
vực Tây Bắc [136; tr. 263]. Có thể nói, tính đến đầu thiên niên kỉ thứ hai, ngƣời Thái
đã di cƣ đến Tây Bắc, cùng với đó là quá trình đấu tranh với ngƣời bản địa để giành
địa bàn sinh tụ. Cộng đồng các tộc ngƣời thuộc ngữ hệ Môn – Khơ Me ở Tây Bắc bấy
giờ vốn có ít cƣ dân, phân cƣ thƣa thớt nên thất bại, phải rời bỏ vùng chân núi để cƣ
trú ở núi cao, rừng sâu. Từ đó, ngƣời Thái xác lập ảnh hƣởng của mình ở Tây Bắc cả
về dân cƣ cũng nhƣ văn hóa, trở thành một tộc ngƣời đông đảo, có thế lực mạnh ở Tây
Bắc. Cùng với sự lớn mạnh của quyền lực Thái, “không gian lãnh thổ Tây Bắc từng
bƣớc bị phân biệt thành các tiểu bang cát cứ (các mƣờng) của các tù trƣởng dòng họ
quý tộc Thái” [69; tr. 14].
Bên cạnh việc ghi nhận sự xâm nhập của các nhóm Thái vào Tây Bắc nhƣ trên,
các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, trƣớc khi quá trình xâm nhập đó diễn ra đã có một
bộ phận ngƣời Thái trắng với tộc danh Bạch y man cƣ trú ở đấy rồi [69; tr. 13]. Các
tác giả của công trình Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt
Nam cũng khẳng định nhóm Thái trắng “là cƣ dân Thái bản địa lâu đời từ những thời
kì tồn tại của khối tộc ngƣời ngôn ngữ nguyên Tày – Thái, đã từng góp phần tạo nên
văn hóa Đông Sơn rực rỡ” [105; tr. 117]. Nhƣ thế, ngƣời Thái đã có một thời kì lịch
sử lâu dài tồn tại và phát triển tại Việt Nam, tham gia vào quá trình dựng nƣớc, giữ
nƣớc từ thời Hùng Vƣơng, An Dƣơng Vƣơng.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử phong kiến, vùng Tây Bắc - địa bàn cƣ trú của
ngƣời Thái luôn đƣợc các vƣơng triều phong kiến miền xuôi đánh giá cao về mặt vị trí
57
chiến lƣợc và luôn muốn vƣơn tầm ảnh hƣởng chính trị đến đó. Song, trên thực tế,
triều đình ngƣời Việt vẫn không thể thiết lập đƣợc một sức ảnh hƣởng triệt để. Lịch sử
ghi nhận mối quan hệ khi thì quy thuận, triều cống của ngƣời Thái đối với triều đình
đồng bằng, khi thì nổi loạn khiến triều đình đồng bằng phải đƣa quân lên đánh dẹp và
thu phục. Có lúc, sử liệu của ngƣời Việt còn ghi nhận xứ Thái nhƣ một nƣớc độc lập:
nƣớc Ngƣu Hống [136; tr. 264]. Tóm lại, dù trong mối quan hệ nào, các xứ Thái vẫn
duy trì đƣợc quyền tự trị đáng kể nhƣ kiểu tiểu quốc cát cứ. Sự giao lƣu văn hóa giữa
ngƣời Kinh ở đồng bằng và ngƣời Thái ở Tây Bắc vì thế là rất ít.
2.1.2.2. Đặc điểm cư trú và hoạt động kinh tế
Vùng Tây Bắc là địa bàn cƣ trú chủ yếu của ngƣời Thái. Trong đó, cần nhấn
mạnh rằng sự phân bố và phạm vi ảnh hƣởng của ngƣời Thái chủ yếu ở vùng thƣợng
Tây Bắc (trong sự phân biệt với vùng hạ Tây Bắc do ngƣời Mƣờng làm chủ, lấy Sơn
La – phần tiếp giáp với tỉnh Hòa Bình làm ranh giới phân chia). Đây là vùng có địa
hình hiểm trở, đƣợc giới hạn bởi hai dãy núi cao là dãy núi Hoàng Liên Sơn và dãy núi
Sông Mã. Các núi thuộc hai hệ thống này chạy theo hƣớng Tây Bắc – Đông Nam, chia
cắt theo chiều thẳng đứng. Giữa hai dãy núi là những đồi núi thấp lƣu vực sông Đà và
các lòng chảo, cao nguyên thuộc địa máng sông Đà. Vùng chỉ có sông Đà là sông lớn,
còn lại là sông nhỏ và các con suối chằng chịt, có độ dốc nên nhiều ghềnh thác, nƣớc
chảy xiết. Khí hậu trong vùng mang tính chất cực đoan. Có thể nói, đây là vùng có địa
hình, khí hậu phức tạp và đa dạng nhất nƣớc ta.
Cƣ trú lâu đời trên vùng đất ấy, ngƣời Thái đã tìm đƣợc cách thích nghi với
điều kiện, hoàn cảnh mà đặc điểm nổi bật là hệ sinh thái văn hóa thung lũng, lấy nƣớc
làm yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc cƣ trú và hoạt động sản xuất. Họ lập bản ở
các cánh đồng thung lũng lòng chảo của vùng núi cao miền nhiệt đới gió mùa ẩm ƣớt
phía tây và tây bắc Bắc Bộ, dọc theo các triền sông, suối – nơi có nguồn nƣớc tự nhiên
cung ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của cƣ dân. Bản Thái có cảnh quan
thƣờng gặp là: Bản nằm ở chân núi, thuận tiện cho việc phát triển kinh tế nƣơng vƣờn.
Trƣớc mặt bản là cánh đồng với sông suối chảy qua thuận lợi cho đời sống sinh hoạt
và phát triển trồng trọt và đánh bắt thủy sản.
Về cơ bản, các hoạt động kinh tế của ngƣời Thái cũng phần nhiều mang tính tự
cung tự cấp và có cơ cấu giống nhƣ của ngƣời Tày, tức có nghề chính là làm ruộng và
làm nƣơng. Ngoài ra, họ còn có các nghề khác nhƣ chăn nuôi gia súc, gia cầm và các
58
nghề phụ nhƣ dệt vải, đan lát, mộc, rèn, chạm bạc… Bên cạnh đó, ngƣời Thái cũng
khai thác các nguồn lợi kinh tế trong tự nhiên nhƣ săn bắt, đánh cá, hái lƣợm. Điều
đáng kể là trên các bình địa phân bố dân cƣ, ngƣời Thái đã khai phá đƣợc những cánh
đồng lớn tƣơng đối bằng phẳng và màu mỡ, cung cấp lƣợng lƣơng thực lớn cho cƣ dân
trong vùng nhƣ cánh đồng Mƣờng Thanh (Điện Biên), Mƣờng Lò (Yên Bái)… Với sự
phát triển của nghề trồng lúa nƣớc, ngƣời Thái đã tạo ra đƣợc hệ thống thủy lợi điển
hình và nổi tiếng, bao gồm các công trình "mƣơng, phai, lái, lịn" (khơi mƣơng, đắp
đập, dẫn nƣớc qua vật chƣớng ngại, đặt máng trên các cánh đồng thung lũng). Ở ngƣời
Thái, nghề dệt, nghề gốm, nghề đan lát đồ tre, mây rất phát triển, thể hiện sự khéo léo,
tài hoa và cần cù của con ngƣời. Trong đó, nghề dệt là của phụ nữ, không chỉ thể hiện
phẩm chất chăm chỉ, khéo léo của ngƣời phụ nữ mà còn thể hiện sự giàu có của gia
đình. Nghề đan lát là của đàn ông. Cho nên, trong thời kì ở rể, các chàng trai thƣờng
thể hiện phẩm chất của mình qua công việc đan lát. DCTTSH Thái phản ánh rõ điều
này. Nghề đánh cá của ngƣời Thái cũng khá phổ biến do điều kiện địa hình có nhiều
sông, suối. Cá đƣợc coi là món ăn truyền thống của ngƣời Thái, không chỉ góp mặt
trong bữa cơm hằng ngày mà còn trong nhiều nghi thức thờ cúng. Ngoài ra, ngƣời
Thái còn có hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa. DCTTSH có nhắc đến sự giao lƣu
hàng hóa của ngƣời Thái với ngƣời Kinh ở miền xuôi theo đƣờng nƣớc, ngƣời Xá ở
miền ngƣợc theo đƣờng rừng. Nhƣ thế, các hoạt động kinh tế thể hiện sự thích nghi
của ngƣời Thái với các đặc điểm của tiểu môi trƣờng tự nhiên vùng Tây Bắc, đồng
thời thể hiện trình độ khá phát triển của tộc ngƣời.
2.1.2.3. Đặc điểm văn hóa
Về nhà ở, ngƣời Thái cũng ở nhà sàn nhƣ nhiều dân tộc cùng chung cơ tầng văn
hóa nguyên thủy của khối Bách Việt xa xƣa, song cũng có những điểm khác biệt nhất
định. Nhà sàn Thái thƣờng có hai cầu thang: tang quản (câu thang dành cho con trai)
và tang chan (cầu thang dành cho con gái). Tang quản nằm ở vị trí đầu nhà bên phải,
có 7 bậc tƣơng ứng với 7 vía của con trai; tang chan ở cuối nhà bên trái, có 9 bậc
tƣơng ứng với 9 vía của con gái. Chan là phần sàn đƣợc nối dài ra ngoài trời, là nơi
các mẹ, các chị, các em... thƣờng ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa. Ngƣời Thái giỏi
nghề mộc. Vì thế, trong việc cố định các chỗ nối, ghép, họ không cần dùng đến một
cái đinh hay mẩu sắt nào, chỉ dùng đòn dầm xuyên qua các lỗ đục của cột và hệ thống
các dây chằng với những nút buộc, thắt công phu bằng các nguyên liệu có sẵn trong tự
59
nhiên nhƣ tre, giang, mây và cỏ cây rừng chuyên dụng. Sự khác biệt trong cấu trúc nhà
sàn của ngƣời Thái còn nằm ở mái nhà. Họ thiết kế mái nhà rất độc đáo. Ngƣời Thái
đen làm mái nhà khum hình mai rùa. Trên hai đầu đốc mái có vật trang trí bằng gỗ
hình cong, tiếng Thái gọi là khau cút. Về khau cút, có nhiều ý kiến giải thích khác
nhau: có ngƣời giải thích khau cút giống hình đôi sừng trâu, biểu tƣợng của một nền
văn minh lúa nƣớc, có ngƣời lại cho rằng khau cút giống hình mặt trăng khuyết – biểu
tƣợng cho việc họ rời miền đất tổ ra đi vào đêm trăng khuyết để đi tìm vùng đất mới,
nay đƣợc cách điệu đặt trên mái nhà để những ngƣời đồng tộc nhận ra nhau [130; tr.
22]. Nhà của ngƣời Thái trắng gồm 2 mái phẳng hình chữ nhật, 2 mái cong hình cánh
quạt che 2 phía đầu hồi, nhìn từ trên cao xuống thì mái nhà cũng có hình dáng giống
mai con rùa. Nhà của ngƣời Thái có nhiều chi tiết hoa văn trang trí. Có thể nói, từ kiến
trúc xây dựng đến nghệ thuật trang trí nhà sàn Thái đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống
khách quan và đƣợc cách điệu hoá đạt tới trình độ thẩm mỹ cao.
Trong nhà sàn Thái, có cột chủ áo với ý nghĩa là cột chủ linh hồn, trên đó treo
thanh gƣơm thiêng của tông tộc, súng kíp, áo của chủ nhà. Điều đó biểu thị ý nghĩa
linh hồn chủ nhà. Ngoài ra, ngƣời Thái còn dựng gian hóng làm nơi cúng tổ tiên, chứa
đựng cộng đồng những ngƣời thuộc dòng máu cha.
Từ kiến trúc của nhà sàn Thái, có thể thấy, với ngƣời Thái, nhà sàn không chỉ là
nơi để ở mà còn là không gian văn hóa tâm linh. Ngôi nhà sàn vừa chắc chắn vừa
mang vẻ đẹp của sự trang nhã và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Về trang phục, ngƣời Thái có sự phân chia rõ ràng: nam phục và nữ phục,
thƣờng phục và lễ phục, trang phục khi lao động ở ruộng nƣơng, trong rừng và trang
phục ở nhà, trang phục mặc khi chết và trang phục lúc để tang, trang phục mùa nóng
và trang phục mùa lạnh, trang phục tuổi chƣa thành niên và trang phục khi đã trƣởng
thành… Vì thế, “ngƣời dân tộc khác đã có nhận xét rất đúng rằng, Thái là một cộng
đồng tộc ngƣời biết mặc và mặc đủ” [129; tr. 72]. Trong trang phục của ngƣời Thái,
đáng chú ý và đặc sắc nhất là trang phục của phụ nữ - yếu tố quan trọng trong việc
phân chia ngành Thái đen và Thái trắng.
Phụ nữ Thái trƣởng thành mặc chân váy dài. Ở Tây Bắc, phổ biến chân váy
màu đen tuyền và kiểu mặc váy hặng pau (thắt cộm), tức đầu mép váy hai bên đều gấp
cộm vào một điểm cố định ở phần cạp giữa bụng, tạo ra đƣờng xếp nếp ở giữa đôi
60
chân. Kiểu thắt cộm này khiến cho phần thân váy phía sau ôm sát vào thân, tôn lên
những đƣờng cong của phần thân dƣới ngƣời phụ nữ.
Áo của ngƣời phụ nữ gọi là xửa cóm với nghĩa là áo ngắn, cộc, cụt, chỉ độ dài
ngắn của phần thân áo. Thân áo cóm dài chấm thắt lƣng và ôm sát lấy thân hình ngƣời
phụ nữ. Khi mặc, áo đƣợc cho vào trong váy. Nữ giới Thái trắng mặc áo màu sáng,
trắng, cài cúc bạc tạo hình bƣớm, ve, ong... Áo có kiểu cổ tim, hai vạt áo cài cúc liền
dải vải với cổ áo. Họ cuốn khăn vuông len hoặc khăn bông trắng. Nữ giới Thái đen
thƣờng mặc áo màu tối (chàm hoặc đen), cổ áo khác Thái trắng là loại kiểu cổ trụ, hai
vạt áo cài cúc không liền dải vải với cổ áo. Đầu đội khăn piêu thêu hoa văn với nhiều
cách trang trí mang phong cách của từng mƣờng.
Chính màu sắc của áo cóm thƣờng phục là yếu tố đầu tiên dễ nhận thấy nhất để
phân biệt ngƣời Thái đen và Thái trắng. Trong đó, ngƣời Thái trắng thƣờng chỉ mặc áo
có màu trắng sáng – tức mang thuộc tính dƣơng, ngƣời Thái đen mặc áo có màu đen
và các màu đậm – tức mang thuộc tính âm. Từ những nghiên cứu dân tộc ọc của mình,
tác giả Dƣơng Đình Minh Sơn trong công trình Ngôn ngữ với việc hình thành âm
điệu đặc trưng trong dân ca Thái Tây Bắc Việt Nam đã khẳng định rằng, từ thuở ban
sơ, ngƣời Thái đã băn khoăn về nguồn gốc của mình. “Qua trực quan, họ thấy: Ngƣời
Thái sinh ra từ hai chất tinh khí của Po – Me - chất của Po màu có trắng, chất của Me
có màu đỏ (màu đỏ để lâu sẽ thành thành đen)” [130; tr. 18]. Từ đó, tác giả thấy rằng
ngƣời phụ nữ thuộc ngành mẹ thƣờng diện màu đỏ và các màu đậm, sặc sỡ. Ngƣời phụ
nữ thuộc ngành cha thƣờng diện các màu trắng sáng. Sự phân định màu sắc tinh khí đó
phù hợp với quan niệm của ngƣời phƣơng Đông về ngũ sắc. Khi đối chiếu với màu sắc
trên trang phục của ngƣời phụ nữ sẽ cho ra kết quả phân định ngành Thái đen với ý
nghĩa mặc trang phục màu đen, ngƣời Thái trắng mặc trang phục màu trắng; ngƣời
Thái đen thuộc ngành mẹ, ngƣời Thái trắng thuộc ngành cha.
Ngoài ý nghĩa phân định ngành nhƣ trên, y phục của phụ nữ Thái đƣợc đánh giá
là đẹp vì đã khéo léo tôn đƣợc vẻ đẹp duyên dáng trời ban. Cả áo cóm và thân váy đều
đƣợc may ôm sát, tạo dáng đi đứng uyển chuyển, thanh thoát cho ngƣời phụ nữ. Bởi
thế, vẻ đẹp của y phục có vai trò rất lớn trong việc tạo ra ý nghĩa cho cụm từ “cô gái
Thái” trong ngôn ngữ biểu tƣợng của folklore Việt Nam.
Về hôn nhân: Nam nữ thanh niên Thái đƣợc tự do vui chơi, tìm hiểu, hò hẹn
yêu đƣơng nơi hạn khuống, nơi sân tình… Điều đó đƣợc ghi rõ trong điều 49 của luật
61
Mƣờng: “Lệ từ thời xửa thời xƣa, ngƣời Thái đen vẫn nói: Có trăng thì có sao, có gái
thì có trai. Nữ giới lớn thành gái, nam giới lớn thành trai thì không ai có thể cấm đoán
đƣợc việc chúng yêu đƣơng nhau trƣớc mặt trăng sao, ở bên khuống nơi bếp lửa, ở
những lúc đi nƣơng, đi ruộng” [148; tr. 651]. Thế nhƣng, việc hôn nhân của họ lại
thuộc quyền quyết định của cha mẹ và các bậc bề trên. Hôn nhân phải cùng đẳng cấp
và hợp lá số.
Hôn nhân của ngƣời Thái phải trải qua các bƣớc: Hịt ổ bay khay hó (mở gói ăn
hỏi), hịt pôm khát ca va khát quam (hỏi dứt lời, dạm dứt giá), khươi quản (dẫn con trai
lên làm rể quản), xú phả (nhập phòng), téng đong khửn (cƣới lên), xú khoăn (cúng
hồn, cúng tổ tiên và nộp sính lễ), uống rƣợu cần và ăn tiệc, chàng rể và phù rể phục lễ
họ nhà gái, mừng đám cƣới, ngai hua và nhăm tát hươn (ăn bữa đầu và nàng dâu về
thăm nhà chồng), khươi mia (ở rể), đong lông (cƣới xuống). Ở nghi thức mừng đám
cƣới, sau những tiếng hát về bản tình ca Xống chụ xon xao, về những khúc ca khắp
xưng pạư xưng khươi (khen ngợi nàng dâu, chàng rể) là những cuộc diễn xƣớng
DCTTSH nhƣ hát đối đáp nam nữ bên mâm cơm, mâm rƣợu, hát múa xòe vòng.
Đáng lƣu ý là hôn nhân của ngƣời Thái duy trì tục ở rể. Khi làm rể quản, chàng
trai phải chăm chỉ, siêng năng lao động để chứng tỏ phẩm chất với nhà gái, đặng tiếp
tục đƣợc tiến tới bƣớc tiếp theo trong phong tục hôn nhân hay không. Lúc này, chàng
trai chỉ đƣợc nằm một mình và ở không gian riêng phía quản. Khi tiến tới bƣớc khươi
mia, chàng trai phải ở rể 8 – 12 năm tùy vào việc lấy vợ thuộc giai cấp bình dân hay
quý tộc. Chàng trai phải dốc sức lao động, tạo ra của cải để nuôi cha mẹ và gia đình
bên vợ. Đây không còn là thời gian thử thách chàng trai nữa mà thực sự là thời gian
nhọc nhằn, khổ cực nhất đối với chàng trai. Tuy thế, chàng trai không nhất thiết phải ở
rể hết thời gian quy định. Trên 3 năm, gia đình chàng trai có thể nhờ mối mai sang đặt
tiệc xin làm lễ đón dâu lại nhà. Thời gian ở rể còn lại của chàng trai đƣợc quy định là
chàng trai vẫn mang nợ và phải trả nợ cho nhà gái hằng năm.
Ở rể là phong tục tiền hôn nhân hiếm gặp ở các xã hội theo chế độ phụ hệ. Nó
đóng vai trò là một yếu tố trong giai đoạn quá độ, chuyển giao sang chế độ phụ hệ. Về
phong tục này, nhà nghiên cứu Cầm Trọng từng nhận định: “Có thể coi sự xuất hiện
thể thức hôn nhân cƣ trú phía vợ là bƣớc quá độ chuyển từ giai đoạn quần hôn ngoại
tộc sang hôn nhân một vợ một chồng… Nói cách khác, việc những ngƣời đàn ông
62
chuyển tới cƣ trú bên nhà vợ vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù của giai đoạn lịch sử
thị tộc mẫu hệ” [153; tr. 192 - 194].
Về tổ chức gia đình, gia đình ngƣời Thái có hai kiểu là tiểu gia đình phụ hệ
hoặc đại gia đình phụ hệ, gọi là chua hươn hay chua đẳm. Gia đình truyền thống Thái
nổi bật ở đặc điểm coi trọng sự yêu thƣơng và thuận hòa với các mối quan hệ đƣợc
quy định rõ ràng.
Trong quan hệ vợ - chồng, ngƣời Thái nhận thức rất rõ về thế mạnh của gia
đình một vợ một chồng đối với việc xây dựng gia đình hạnh phúc – tế bào của xã hội.
Bởi thế, trong gia đình, tuy rằng ngƣời đàn ông có vai trò quyết định mọi công việc
nhƣng đồng thời khá coi trọng sự bình đẳng, tƣơng trợ vợ chồng trong việc xây dựng
tổ ấm riêng tƣ. Phong tục ở rể, lễ cƣới, văn học dân gian, truyền thống ứng xử… là
những minh chứng cho cách nghĩ đó của cộng đồng ngƣời này. Chẳng hạn, phong tục
ở rể ngoài ý nghĩa chàng trai phải lao động vất vả, làm ra của cải để trả ơn nghĩa sinh
thành cho cha mẹ cô gái còn có ý nghĩa góp phần hạn chế tính gia trƣởng, phụ quyền
của ngƣời chồng, hƣớng anh ta đến sự bình đẳng, sống có trách nhiệm với vợ và gia
đình vợ. Đặc biệt, trong lễ cƣới của ngƣời Thái đen ở Yên Châu - Sơn La, chỉ phụ nữ
mới đƣợc làm lễ, đàn ông làm bếp hoặc giúp các việc phụ. Bên cạnh đó, tình yêu
thƣơng và tƣơng trợ giữa vợ chồng trong việc phấn đấu để gia đình giàu có còn đƣợc
ghi nhận trong nhiều câu tục ngữ: Phua min men căn phăn pu khau cọ cạn, báu men
căn phăn chưa khau báu khát (Vợ chồng tâm đầu ý hợp, chém núi cũng lở, ngƣợc ý
trái tâm, chém dây leo chẳng đứt); Po tay au ma, me pa dệt ók (Đàn ông đem đến, đàn
bà làm ra). Truyền thống cƣ xử lịch lãm, khiêm nhƣờng của tộc ngƣời là cơ sở cho
việc sống hòa thuận, chân tình, không mâu thuẫn gay gắt giữa vợ - chồng, ngƣời con
dâu với gia đình nhà chồng. Không khí chan hòa yêu thƣơng trong gia đình Thái là
điều mọi ngƣời dễ cảm nhận trong sự so sánh với các dân tộc khác. Vì thế, trong
VHDG của ngƣời Thái, vắng bóng những truyện kể về hiện tƣợng vũ phu và mâu
thuẫn giữa mẹ chồng – nàng dâu. Luật Mƣờng của ngƣời Thái cũng có quy định thể
hiện sự nhân văn đối với ngƣời phụ nữ. Chẳng hạn, luật Mƣờng điều XIV quy định lúc
đau ốm, vợ chồng phải chăm sóc nhau chu đáo, nếu không sẽ bị phạt bạc, trâu, rƣợu.
Quy định về trách nhiệm của cả đôi bên khi đau ốm này ghi dấu một sự bình đẳng
dành cho ngƣời phụ nữ. Về tín ngƣỡng, ngƣời Thái có tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên nhƣ
nhiều dân tộc khác. Nhƣng, điều đặc biệt là ngƣời Thái không chỉ thờ tổ tiên đằng nội
63
mà còn thờ bố mẹ vợ. Bố mẹ vợ đƣợc thờ tại khỏ xờ (bàn thờ nhỏ ở trong nhà) hoặc tại
hướn nghé (ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên nhà). Phong tục thờ cúng này thể hiện lòng
biết ơn sâu sắc đối với bậc sinh thành ra ngƣời phụ nữ.
Trong quan hệ giữa các thành viên của đại gia đình, ngƣời Thái cho rằng, mỗi
ngƣời có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu: Ải noọng (họ của các thành viên nam sinh ra từ
một ông tổ bốn đời), lung ta (họ của các ông cậu – họ ngoại), nhinh xao (họ của những
ngƣời làm rể). Quan hệ giữa những ngƣời thân thích trong cộng đồng Thái đƣợc vận
hành qua sự tƣơng tác của ba nhóm xã hội nói trên. Cầm Trọng khi nghiên cứu các
thuật ngữ chỉ hệ thống thân tộc của ngƣời Thái đã thấy rằng chúng biểu thị sự xuất
hiện đẳm - là một cơ cấu của cộng đồng huyết thống mang nội dung tổ chức thị tộc
mẫu hệ sơ khai. Trong đó, ông rất chú trọng đến vai trò của dòng họ ông cậu (lung ta).
[153; tr. 149]. Ngƣời Thái rất coi trọng vai trò của dòng họ ông cậu. Điều đó đƣợc thể
hiện rõ trong câu tục ngữ: Phép phay lưn phép phạ, phép nọng nạ lưn phép pi khươi
(Phép lửa hơn phép trời, phép em trai vợ hơn phép anh rể).
Nghiên cứu về các ứng xử gia đình của ngƣời Thái, các tác giả công trình
Người Thái cho rằng các đặc điểm nhƣ trên dễ dẫn đến nhận định thống nhất là “dân
tộc Thái còn bảo lƣu nhiều truyền thống là tàn dƣ mẫu hệ” [129; tr. 89]. Rõ ràng, gia
đình hạt nhân Thái truyền thống ngay khi vận hành theo chế độ nam quyền thì nó vẫn
luôn tồn tại ít nhiều sự bình đẳng giữa nam và nữ. Đây đƣợc coi nhƣ một đặc điểm
thuần phong mỹ tục có tính đặc thù của ngƣời Thái.
Về lễ hội, ngƣời Thái ở Tây Bắc có nhiều lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc nhƣ: lễ
hội Xến xó phốn (cầu mƣa), lễ hội Lúng ta (gội đầu), lễ hội Hạn khuống, hội Hoa ban
(hay còn gọi là lễ hội Xên bản xên mường), lễ hội Kin pang then, lễ hội Xăng khan, lễ
hội Xíp xí, lễ hội Xòe chiêng... Trong đó, đa phần các lễ hội đều thể hiện tín ngƣỡng
dân gian, đáp ứng nhu cầu tâm linh của ngƣời Thái. Chẳng hạn, lễ hội Xăng khan là
ngày các ông mo tạ ơn tổ tiên và những ngƣời thầy đã dạy mình cách bốc thuốc chữa
bệnh; lễ hội cầu mƣa là ngày dân bản làm lễ cầu mƣa, cúng lễ các vị chủ nƣớc để mời
các thần linh về nghe nguyện vọng của con ngƣời và trách phạt những ngƣời phụ nữ
không biết giữ mình, đẻ con hoang khiến thần mƣa phải làm trời hạn hán để những
đứa trẻ không nhà khỏi bị ƣớt.
Ở phần hội của một số lễ hội mang tính chất tâm linh đó nhƣ lễ hội Kin pang
then, lễ hội Xíp xí, lễ hội Hoa ban… đã tạo ra những không gian thuận lợi cho lời ca,
64
tiếng hát trữ tình giao duyên của con ngƣời đƣợc bay cao. Chẳng hạn, lễ hội Hoa ban
là ngày hội lớn nhất của xứ Thái xƣa kia, thƣờng đƣợc tổ chức vào mùa xuân, khoảng
tháng 2 âm lịch, khi hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Hội Hoa ban đƣợc xem nhƣ
ngày hội tình yêu và hạnh phúc của trai gái Thái. Đây là dịp để trai gái Thái gặp gỡ,
tìm hiểu nhau qua tiếng hát, điệu xòe. Giữa khung cảnh thơ mộng của núi rừng, vòng
ngƣời múa xòe cứ mở rộng ra mãi. Các cuộc thi hát giao duyên hoà cùng tiếng khèn,
tiếng sáo kéo dài cho đến tận khuya. Hội hoa ban tƣng bừng nhất vào đêm cuối cùng.
Nhiều mối tình trai gái đã nảy nở từ đấy. Hoa ban đƣợc đồng bào Thái coi là biểu
tƣợng của tình yêu đôi lứa, là hoa của ƣớc mơ, trƣờng thọ, của những con ngƣời trẻ
mãi không già. Mặt khác, đây còn là hội cầu mƣa, cầu phúc cho bản mƣờng của ngƣời
Thái. Họ thỉnh bái nàng Ban – nhân vật trong một câu chuyện cổ, biểu tƣợng cho sự
trinh trắng và tình yêu của ngƣời thiếu nữ Thái; thỉnh bái ma mƣờng, ma núi sông…
phù hộ cho những ƣớc vọng về cuộc sống thanh bình, no ấm của họ.
Trong số các lễ hội của ngƣời Thái Tây Bắc, lễ hội Hạn khuống và lễ hội Xòe
chiêng chỉ thuần tính chất vui chơi, tính chất hội trội hơn là lễ. Lễ hội Hạn khuống
diễn ra vào khoảng tháng 11 âm lịch, sau vụ thu hoạch hằng năm, là dịp để nam nữ
thanh niên tìm hiểu, yêu đƣơng. Lễ hội diễn ra tại không gian Hạn khuống (sàn chơi)
dựng ở bãi đất rộng trong bản, do nhà các cô gái tổ chức. Đây là dịp để nam nữ hát đối
đáp với nhau đến sáng mới chia tay nhau. Lễ hội Xòe chiêng tổ chức vào ngày 11
tháng giêng. Nếu nhƣ ngƣời tham gia lễ hội Hạn khuống là trai gái đến tuổi trƣởng
thành thì lễ hội Xòe chiêng có phổ đối tƣợng tham gia rộng hơn. Lễ hội Xòe chiêng là
dịp để các điệu khắp xe vang lên rộn ràng, gắn kết con ngƣời gần nhau hơn.
Có thể nói, lễ hội xứ Thái Tây Bắc đa dạng và sinh động, không chỉ bao gồm
các lễ hội liên quan đến tín ngƣỡng mà còn có loại lễ hội mang tính chất vui chơi
thuần túy nhƣ lễ hội Hạn khuống. Tuy thế, ngƣời Thái ít lễ hội về ngƣời anh hùng lịch
sử hơn ngƣời Tày.
2.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái – nhận diện và phân loại
2.2.1. Dân ca sinh hoạt và dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Ở các DTTS Việt Nam, do những đặc điểm riêng về lịch sử, xã hội, văn hóa và
ngôn ngữ, mối liên hệ giữa các hình thức ca hát dân gian với các hình thức sinh hoạt
của đời sống con ngƣời còn khá đậm nét. Theo đó, lĩnh vực ca hát dân gian tồn tại
dƣới hình thức dân ca điển hình hơn là ca dao, đồng nghĩa tồn tại ở dạng diễn xƣớng
65
trội hơn là đƣợc cố định hóa bằng văn bản. Tác giả Trần Thị An trong khi tập hợp tƣ
liệu dân ca các DTTS trong bộ công trình công phu nhất tính đến thời điểm năm 2007
về VHDG các DTTS ở Việt Nam: Bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu
số Việt Nam, trong đó phần dân ca nằm ở các tập 17, 18, 19, đã phân loại và trình bày
cách hiểu về các tiểu loại của dân ca các DTTS nhƣ sau: Dân ca các DTTS “có các bộ
phận là dân ca lao động, dân ca nghi lễ và dân ca sinh hoạt, trong đó, dân ca lao động
là các lời hát nhằm bày tỏ tình cảm của ngƣời hát trong môi trƣờng lao động (khi săn
bắn, khi trồng cấy…) và các bài ca nông lịch; dân ca sinh hoạt là các lời nhằm thực
hiện các chức năng trong cuộc sống hàng ngày nhƣ ru con, vui chơi hay bày tỏ tình
cảm đối với quê hƣơng đất nƣớc hoặc tình yêu lứa đôi; dân ca nghi lễ là lời hát của
ngƣời thực hiện các hành vi nghi lễ trong các hoạt động nghi lễ nhƣ đám cƣới, đám
tang, đám cầu cúng, chúc tụng – những lời hát này đã trở thành một bộ phận hữu cơ
của các nghi lễ đó” [177; tr. 20]. Nhƣ thế, dân ca sinh hoạt bao gồm cả các bài hát ru,
đồng dao, các bài hát về tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, về tình cảm gia đình và họ
hàng, về khuyên răn, về tình yêu nam nữ. Quan điểm này về cơ bản là giống với quan
điểm của các nhà nghiên cứu trƣớc đó nhƣ Phan Đăng Nhật, Võ Quang Nhơn. Chẳng
hạn, Võ Quang Nhơn cho rằng dân ca sinh hoạt gồm hát ru, hát vui chơi, giao duyên
[109; tr. 212].
Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là DCTTSH Tày, Thái.
Tên gọi này liên quan đến sự giới hạn phạm vi nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi
chỉ nghiên cứu bộ phận dân ca sinh hoạt liên quan đến ngƣời lớn. Chúng tôi loại trừ
hát ru và đồng dao ra khỏi phạm vi quan tâm của luận án bởi đây là những bộ phận
dân ca sinh hoạt liên quan tới trẻ em và có tính tƣơng đối thuần nhất ở dân ca các dân
tộc. Hát ru, đồng dao đều in đậm dấu ấn chức năng sinh hoạt – thực hành. Trong đó,
hát ru gắn với chức năng ru con, ru em; đồng dao gắn với trò chơi dân gian của trẻ em.
Hát ru và đồng dao chủ yếu chú trọng tới nhịp điệu và những nội dung phù hợp với tƣ
duy của con trẻ. Trong khi đó, bộ phận các bài hát liên quan tới ngƣời lớn lại có các
đặc điểm nội dung, thi pháp lời ca, diễn xƣớng phong phú và phức tạp hơn thế nhiều,
và đƣơng nhiên, hàm chứa mối liên hệ sâu xa, nhiều tầng bậc với lịch sử, văn hóa, xã
hội tộc ngƣời mà nếu so sánh DCTTSH sẽ thấy đƣợc rõ ràng hơn sự tƣơng đồng, dị
biệt trong văn hóa các tộc ngƣời.
66
Nhƣ thế, DCTTSH là một bộ phận nằm trong dân ca sinh hoạt. Gọi bộ phận
này là DCTTSH, chúng tôi tập trung nhấn mạnh tính chất trữ tình của đối tƣợng
nghiên cứu. Trên thực tế, không phải chỉ có những bài hát thuộc bộ phận này mới
mang tính chất trữ tình. Ca dao, dân ca nói chung đều mang tính chất trữ tình bởi
chúng đều thuộc loại hình trữ tình dân gian, đều là tiếng nói tâm tình, là tấm gƣơng
phản chiếu tâm hồn nhân dân các thời đại. Đặc điểm này làm nên sự phân biệt của ca
dao, dân ca với các thể loại VHDG khác. Tuy nhiên, trong dân ca sinh hoạt, tính chất
trữ tình bộc lộ ở bộ phận những bài hát dành cho ngƣời lớn đậm nét, rõ ràng hơn so
với bộ phận bài hát dành cho trẻ em nhƣ hát ru, đồng dao.
DCTTSH của ngƣời Tày, Thái mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu chủ yếu là
dân ca giao duyên. Song, bộ phận này không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi trao đổi
tâm tƣ, tình cảm cá nhân giữa nam và nữ mà còn mở rộng ra nhiều nội dung khác nữa
nhƣ tình yêu quê hƣơng, làng bản, quan hệ gia đình, xã hội. Điều đáng nói là những
nội dung đó đều đƣợc đặt xung quanh nội dung giao duyên. Chẳng hạn, trong các diễn
xƣớng hát cuộc của ngƣời Tày, bên cạnh các diễn xƣớng đối đáp giao duyên còn có
các diễn xƣớng nhằm mục đích thi tài. Các chƣơng hát thuộc loại diễn xƣớng này bao
gồm nhiều bài hát không thực sự liên quan đến mục đích thăm dò, tìm hiểu hay bộc lộ
tâm tình cá nhân của con ngƣời. Chẳng hạn, khi diễn xƣớng đua tài hát, lượn slương
phải sử dụng đến các bài vịnh bốn mùa, vịnh mƣời hai tháng, kể về sự tích các đời
vua…, lượn rọi phải có các bài hát về vịnh con vật, vịnh cây cỏ, vịnh hoa, vịnh thời
tiết…, iếu phải có các nội dung iếu sỏi (nói kháy) và iếu tạ (hát đố). Các nội dung đó
đều nhằm thử thách trí tuệ, sự hiểu biết của đối phƣơng. Ngoài ra, do truyền thống lịch
sự, các diễn xƣớng thƣờng có thêm nội dung hát mừng: mừng mƣờng, mừng nhà,
mừng nguồn nƣớc… thể hiện tình cảm đối với quê hƣơng. Vì thế, có thể nói, nội dung
phản ánh của DCTTSH rất rộng, bao gồm cả chủ đề giao duyên, và quan hệ gia đình,
xã hội, tình yêu làng bản. Với DCTTSH, bức tranh đời sống hiện thực và tâm hồn của
con ngƣời Tày, Thái với môi trƣờng, hoàn cảnh sống, đặc điểm lao động, sản xuất, các
đặc điểm văn hóa, xã hội… đƣợc tái hiện khá đầy đủ và chân thực.
Trong khi khẳng định sự đa dạng của các nội dung phản ánh trong DCTTSH
nhƣ trên, chúng tôi thấy vẫn cần nhấn mạnh rằng sắc thái giao duyên, trao gửi tình
cảm riêng tƣ giữa đôi bạn tình là chủ yếu và là sợi dây xâu chuỗi các bài hát có nội
dung khác kia trong một trật tự sinh động của cuộc diễn xƣớng.
67
Xét về diễn xƣớng, nếu nhƣ ngƣời Kinh gọi phƣơng thức diễn xƣớng của
DCTTSH bằng nhiều từ ngữ khác nhau nhƣ: ngâm, lí, ca, hát, hò, ví, kể… thì ngƣời
Tày gọi là lượn, ngƣời Thái gọi là khắp, đều với nghĩa là hát. Giới nghiên cứu VHDG
thống nhất cho rằng, VHDG cổ truyền là những sáng tác lƣu hành từ Cách mạng tháng
Tám năm 1945 trở về trƣớc [67; tr. 84 – 85]. Nếu nhƣ ở VHDG của ngƣời Kinh, cho
đến gần đây, các diễn xƣớng dân ca chỉ còn có thể quan sát đƣợc qua việc phục dựng
hát quan họ, dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh…, thì ở VHDG Tày, Thái, chúng tôi vẫn có
thể quan sát đƣợc các diễn xƣớng DCTTSH ở dạng nguyên bản trong quá trình đi điền
dã, dù rằng mức độ không nhiều. Ví dụ, ở huyện Văn Chấn (Yên Bái), chúng tôi đƣợc
chứng kiến các chàng trai khắp khơ nay mỗi buổi chiều đi chơi ngoài đƣờng, chứng
kiến cô gái khắp xáng buôn khi đi lấy củi trong rừng, chứng kiến đông đảo ngƣời dân
thôn bản khắp xe trong lễ hội đầu xuân, khắp báo xao trong đám cƣới. Ở huyện Na Rì
và huyện Ba Bể (Bắc Kạn), chúng tôi tham dự lễ hội Lồng tồng và đƣợc nghe làn điệu
lượn slương của thanh niên trong thôn. Ngoài ra, qua sự ghi chép và những tƣ liệu
video của các nhà nghiên cứu đi trƣớc, qua sự hồi cố của các nghệ nhân, chúng tôi vẫn
có thể phục dựng môi trƣờng diễn xƣớng của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái.
DCTTSH Tày, Thái có sự gắn bó với đời sống sinh hoạt của con ngƣời ở hai
mức độ. Trƣớc hết, đó là mức độ liên quan trực tiếp, thể hiện sự chƣa tách rời giữa
sinh hoạt văn nghệ dân gian với sinh hoạt thực tiễn. Ở ngƣời Tày, mức độ này biểu
hiện ở việc con ngƣời trao đổi tình cảm với nhau ở ngoài đƣờng, ngoài chợ, trong lúc
lên nƣơng, đi ruộng bằng lối nói có vần điệu nhƣ phuối pác, phuối rọi. Ở ngƣời Thái,
đó là các hình thức hát trong khi lao động nhƣ khắp loong tôông, khắp loong te… Đây
là những hình thức sinh hoạt dân ca thuộc vào dạng cổ xƣa nhất. Thứ nữa là mức độ
liên quan không trực tiếp của dân ca với đời sống ở tƣ cách là một nhân tố cấu thành
tổng thể, biểu hiện ở việc các cuộc hát đƣợc tổ chức theo một sự sắp đặt, bố trí và có
những quy định nhất định. Đó là các hình thức diễn xƣớng lượn cọi, iếu, lượn nàng ới,
lượn then… của ngƣời Tày, khắp hạn khuống của ngƣời Thái. Hơn thế, đời sống ngày
càng phát triển của hai dân tộc Tày, Thái dần dẫn đến sự tách rời của một bộ phận diễn
xƣớng dân ca giao duyên khỏi sinh hoạt xã hội, trở thành một hình thức đua. Chẳng
hạn, lượn cọi là làn điệu dân ca Tày đòi hỏi ngƣời hát phát hát theo sách, không thể tự
do ứng tác nên không đƣợc diễn xƣớng dƣới hình thức thi tài. Song, lượn slương của
ngƣời Tày là những bài hát tự do nên ngày nay thƣờng đƣợc sử dụng để diễn xƣớng
trong ngày hội với mục đích thi tài. Tính chất giao duyên của lượn slương dần đƣợc
68
thay thế bằng tính chất giao lƣu tình cảm. Nhƣ thế, với hình thức đua tài, DCTTSH
tham gia đóng góp sự vui vẻ, giải trí, thu hút mối cộng cảm của cộng đồng trong các lễ
hội. Sự tồn tại của các hình thức sinh hoạt dân ca nhƣ thế đã tạo nên diện mạo đa dạng
và đặc sắc cho DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái.
2.2.2. Phân loại dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái vô cùng phong phú. Về tên gọi địa
phƣơng của các nhóm bài hát, ngƣời Tày đã có rất nhiều tên gọi: iếu, cằm khắp, cắm
nôm... Xét về giai điệu, ngƣời Tày có lượn slương, lượn cọi, lượn then, lượn nàng ới,
rọi... Xét về hình thức lượn, ngƣời Tày có lượn trong nhà, lượn ngoài đƣờng, lượn lễ
hội. Ở ngƣời Thái, sự phong phú cũng không kém cạnh. Ngƣời Thái gọi hát là khắp.
Họ có nhiều làn điệu khắp khác nhau. Chẳng hạn, ngƣời Thái có các làn điệu hát phù
hợp với tâm trạng con ngƣời. Những lúc vui, họ khắp loong tông, loong bạn (gọi
chung là khắp báo xao); khi buồn, họ lại khắp xáng buôn, khắp năn xên, khắp xiết
xương... Cùng một đơn vị tác phẩm, ngƣời Thái có thể có hai cách hát. Chẳng hạn, khi
nằm ngâm nga một mình, không đệm nhạc ồn ào, ngƣời ta hát theo làn điệu khắp xư,
khi hát ở đám cƣới, ngƣời ta lại hát theo làn điệu khắp báo xao. Chỉ riêng khắp báo
xao cũng đã gồm nhiều loại nhƣ khắp xai peng, khắp xai xơng, khắp hặc xơng... Bên
cạnh những điệu hát hẳn nhiên là DCTTSH nhƣ thế, ngƣời Thái còn có các loại hát mà
chỉ nghe tên thì tƣởng nhƣ thuộc dân ca lao động nhƣ khắp loong tôông, khắp nhúm
hưa nhƣng xét về nội dung trao đổi tâm tình trong bài hát thì chúng lại thuộc
DCTTSH. Vì sự đa dạng của các điệu hát nhƣ vậy nên công việc phân loại DCTTSH
Tày, Thái là rất cần thiết để hình dung đƣợc diện mạo hai bộ phận dân ca này.
Trong công trình Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam,
tập 17, nhà nghiên cứu Trần Thị An có nói rõ cách thức phân loại tƣ liệu ở phần phàm
lệ biên soạn. Theo đó, khi tập hợp các bài hát vào trong một hệ thống, các tác giả đã
sắp xếp tƣ liệu DCTTSH các DTTS theo các ba chủ đề là nghi lễ, lao động và sinh
hoạt, tƣơng ứng với cấp độ tiểu loại. Ở từng tiểu loại, cách thức sắp xếp lại có khác
nhau. Riêng đối với tiểu loại dân ca sinh hoạt, các tác giả phân chia theo ba tiểu chủ đề
nhƣ sau: 1/ Tình yêu quê hương đất nước; 2/ Quan hệ gia đình - xã hội (bao gồm hai
nhóm là quan hệ gia đình và họ hàng, quan hệ xã hội. Trong nhóm bài ca về quan hệ
gia đình và họ hàng có ba nhóm là: tình cảm gia đình và họ hàng, hát ru, khuyên răn).
3/ Tình yêu lứa đôi (bao gồm sáu nhóm bài hát là: chào mời; tỏ lòng; nỗi nhớ; thở
than, trách móc; ao ƣớc, thề thốt; li biệt) [177; tr. 130 – 131].
69
Cách phân loại này là khá hợp lí đối với việc áp dụng sắp xếp tƣ liệu DCTTSH
Thái bởi các bài hát Thái thƣờng ít có sự liên kết chặt chẽ với nhau cả về nội dung và đặc
điểm nghệ thuật của lời ca. Sự liên kết về nội dung thƣờng chỉ thể hiện trong các bài khắp
hạn khuống. Song, sẽ là chƣa thực sự thỏa đáng khi áp dụng cách phân loại đó đối với
DCTTSH Tày bởi các bài hát giao duyên của DCTTSH Tày có sự phân tách thành những
làn điệu riêng biệt mà nếu bóc tách các bài hát ra khỏi mảng của nó, rồi trộn lẫn với những
bài hát của mảng khác và xếp đặt trong một trật tự mới sẽ làm mất đi cái hay, cái riêng
biệt của từng chƣơng, từng cung, từng đƣờng lượn mang tính đặc trƣng của từng làn điệu,
đồng thời khiến ngƣời đọc khó hình dung về một cuộc lượn trong thực tế.
Cũng về sự phân loại dân ca các DTTS, nhà nghiên cứu Lê Chí Quế lại quan
tâm đến các loại dân ca của các dân tộc ở miền Bắc nƣớc ta. Căn cứ vào những tƣ liệu
đã đƣợc công bố và sự quan sát của tác giả trong quá trình khảo sát tại chỗ, trong bài
viết Việc phân loại dân ca các dân tộc ở miền Bắc nước ta [178; tr. 833 – 855], ông
đã sơ bộ dựng lên bảng hệ thống các loại dân ca tƣơng ứng với các hoạt động của đời
sống con ngƣời.
Bảng 2.1: Phân loại dân ca của ngƣời Tày và ngƣời Thái
Trữ tình – sinh hoạt (Gắn với lao động, sinh hoạt và vui chơi)
Nghi lễ - phong tục (Về lao động, hiếu, hỉ, vui chơi va sinh hoạt) Đám Đối đáp Đơn Hội mùa xuân
Dân ca lao động (Gắn phƣơng thức diễn xƣớng, nội dung lời ca với nhịp điệu, động tác lao động) Loại dân ca tƣơng ứng với hoạt động đời sống
Tày
Lồng tồng Hát ru, đồng dao
Bụt, Tào, Then, Quan lang, Mừng nhà mới Phuối pác (rọi), Lƣợn (Cọi, Nàng ới)
Thái
Mo xên, Kin lẩu
Hạn khuống (dú chan) Khắp báo xao, khắp nhúm hƣa, khắp xƣ
Khắp chƣơng, khắp loong tôông, khắp ú lục nòn, đồng dao
Trong bảng phân loại của Lê Chí Quế, chúng tôi quan tâm đến cách phân loại
và ví dụ ở dân ca hai dân tộc chúng tôi đang tìm hiểu là ngƣời Tày và ngƣời Thái nên
chỉ trích phần phân loại DCTTSH liên quan đến hai dân tộc này nhƣ trên. Nhìn vào 70
bảng phân loại, chúng tôi nhận thấy tác giả chia dân ca các DTTS thành ba tiểu loại:
dân ca lao động, dân ca nghi lễ - phong tục, dân ca trữ tình – sinh hoạt. Riêng dân ca
trữ tình – sinh hoạt, tác giả phân thành hai nhóm là hát đối đáp và hát đơn rồi trên cơ
sở đó, sắp xếp các loại bài hát vào các ô tƣơng ứng. Tất nhiên, sự sắp xếp này chƣa
phản ánh hết đƣợc thực trạng phong phú của lĩnh vực ca hát dân gian rộng lớn của các
DTTS đúng nhƣ tác giả đã tự nhận thức. Bởi lẽ, sự dồi dào, đa dạng của dân ca các
DTTS đã đƣợc giới nghiên cứu văn hóa, VHDG nƣớc ta quan tâm sƣu tầm, công bố
song đến nay vẫn chƣa có hồi kết. Dù thế, việc áp dụng phƣơng pháp loại hình lịch sử
trong phân loại ở cấp tiểu loại và căn cứ vào hình thức diễn xƣớng của các bài hát
trong thực tế đời sống để phân chia ở cấp độ nhỏ hơn của nhà nghiên cứu Lê Chí Quế
là khá hợp lí và tỏ rõ ƣu thế trong việc giúp công chúng hình dung, tiếp cận gần hơn
với cách thức tồn tại của các thể loại DCTTSH trong thực tế đời sống.
Chúng tôi nhận thấy việc áp dụng cách phân chia dân ca thành ba tiểu loại của
Chu Xuân Diên đối với dân ca các DTTS nhƣ việc làm của các tác giả Lê Chí Quế và
Trần Thị An là hoàn toàn đúng đắn. Song, ở sự phân cấp nhỏ hơn, nếu nhƣ cách phân
loại của Trần Thị An thuận tiện cho việc sắp xếp tƣ liệu DCTTSH Thái và tiếp cận văn
bản DCTTSH nói chung ở góc độ nội dung và thi pháp lời ca; thì cách phân loại của
Lê Chí Quế lại phản ánh đƣợc hình thức diễn xƣớng của các thể loại DCTTSH – điều
rất quan trọng khi tiếp cận bộ phận trữ tình dân gian với tƣ cách thể loại dân ca chứ
không phải thể loại ca dao.
Tiếp thu các quan điểm phân loại kể trên, đặc biệt là cách phân loại của Lê Chí
Quế đối với DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, chúng tôi chia DCTTSH của ngƣời
Tày và ngƣời Thái thành hai nhóm hát đơn và hát đối đáp; đồng thời, sắp xếp các loại
bài hát vào từng nhóm nhƣ sau:
Ở DCTTSH Tày, hát đối đáp bao gồm lượn cọi (hát gọi bạn yêu), lượn slương
(hát thƣơng yêu), lượn nàng ới (hát gọi ngƣời con gái), lượn then (hát then), lượn iếu
(hát iếu), hát ví, rọi (bao gồm: phuối pác – nói miệng bằng câu có vần, phuối rọi - câu
nói gồm cả một chuỗi vần nhƣ hát, lượn rọi – hát rọi), cắm nôm (lời nôm); hát đơn bao
gồm phong slư (thƣ tình con trai gửi cho con gái và ngƣợc lại).
Ở DCTTSH Thái, hát đối đáp bao gồm Khắp báo xao (hát trai gái), khắp xai
peng (hát dây tình), khắp tua (hát đối đáp), khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi), khắp
hặc xơng, khắp xai xơng (hát thƣơng yêu), khắp xe (hát múa xòe), khắp tặc luông (hát
chào hỏi)…; hát đơn bao gồm Khắp loong tôông (hát trên cánh đồng), khắp loong te
(hát bè trên sông), khắp khơ nay chơi (hát rong chơi), khắp xáng buôn (hát giải buồn).
71
Tiểu kết chƣơng 2
Ở chƣơng viết này, chúng tôi khái quát chung về ngƣời Tày, Thái ở Việt Nam
nhằm chỉ ra bối cảnh lịch sử, văn hóa cho sự hình thành, phát triển và tồn tại của
DCTTSH Tày, Thái. Từ bối cảnh đó, chúng tôi phác họa diện mạo của DCTTSH Tày,
Thái trên những nét lớn nhằm chuẩn bị cho sự so sánh bộ phận dân ca này của hai dân
tộc ở những chƣơng sau.
Là hai dân tộc có có cùng nguồn gốc, cùng ngữ hệ và có lịch sử cƣ trú lâu đời ở
khu vực miền núi phía Bắc nƣớc ta, ngƣời Tày, Thái đã đoàn kết cùng dân tộc Kinh và
các dân tộc anh em khác trong công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc. Trải qua nhiều biến
thiên trong lịch sử, dần dần họ đã xác lập đƣợc sự ổn định của mình xét về bình diện
phân bố dân cƣ và văn hóa. Trong đó, ngƣời Tày xác lập ảnh hƣởng của mình ở vùng
Đông Bắc, ngƣời Thái xác lập ảnh hƣởng ở cùng Tây Bắc, lấy dãy Hoàng Liên Sơn
với đỉnh Khau Phạ (sừng trời) làm ranh giới cho vành đai quyền lực. Gắn bó với
những địa bàn sinh tụ ấy, từ rất sớm, ngƣời Tày, Thái đã chiếm lĩnh đƣợc các thung
lũng chân núi, tạo lập hệ sinh thái văn hóa thung lũng và khẳng định đƣợc bản sắc văn
hóa của dân tộc mình. Đặc điểm cơ bản của nền văn hóa Tày là sự giao thoa của các
yếu tố văn hóa Tày, Kinh, Hán; trong khi đó, ngƣời Thái ít chịu ảnh hƣởng của văn
hóa Kinh và là một khối không thuần nhất: văn hóa ngƣời Thái đen gần gũi với văn
hóa các tộc ngƣời thuộc ngữ hệ Môn – Khơ Me ở Tây Bắc, văn hóa ngƣời Thái trắng
có nhiều nét gần gũi với văn hóa ngƣời Tày – những ngƣời cùng thuộc dòng dõi cha,
thuộc ngành trắng. Những đặc điểm này sẽ có ảnh hƣởng lớn tới sự tƣơng đồng và
khác biệt trong DCTTSH Tày, Thái.
Cũng trong chƣơng này, chúng tôi đã làm công việc nhận diện và phân loại
DCTTSH. Điều này là cần thiết để nhận thức đƣợc sự khu biệt của bộ phận dân ca này
trong mối liên quan với các tiểu loại khác của dân ca sinh hoạt nhƣ hát ru, đồng dao.
Đồng thời, chúng tôi đã phân loại DCTTSH dựa trên hình thức diễn xƣớng. Việc làm
nhƣ vậy sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn tổng thể rõ ràng hơn về kho tàng DCTTSH vốn
rất phong phú và đa dạng, từ đó phân định và chọn đƣợc các tƣ liệu cần thiết cho quá
trình nghiên cứu của mình.
72
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH
SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI
3.1. Sự tƣơng đồng trong việc phản ánh đời sống hiện thực ở nông thôn miền núi
và tình cảm con ngƣời
3.1.1. Dân ca trữ tình sinh hoạt phản ánh đời sống hiện thực của con người ở nông
thôn miền núi
Trong các thể loại VHDG của các DTTS, dân ca là thể loại có sự gắn bó chặt chẽ
nhất với các sinh hoạt lớn nhỏ của con ngƣời. Theo vòng đời của mỗi con ngƣời, dân ca là
nguồn sữa mẹ ngọt ngào nuôi dƣỡng tâm hồn từ khi còn nằm trong nôi cho đến khi xuôi
tay trở về cõi chết. Ngƣời ta hát dân ca khi đi xa, khi về nhà, khi đến bản mƣờng khác.
Ngƣời ta hát dân ca khi lên nƣơng, khi ngoài đồng, khi bên bếp lửa, khi bên mâm cỗ.
Ngƣời ta hát trong sinh hoạt thƣờng ngày, trong lễ hội, trong các nghi lễ vòng đời… Dân
ca gắn bó với mọi mặt của đời sống sinh hoạt của con ngƣời nên một trong những nội
dung chính của nó là sự hắt bóng của đời sống hiện thực phong phú, sinh động của con
ngƣời. Bằng tình yêu, lòng tự hào và sự gắn bó sâu đậm với quê hƣơng, làng bản, tác giả
dân gian đã phản ánh đời sống hiện thực mang đậm tính chất nông thôn miền núi của hai
tộc ngƣời sinh sống ở khu vực miền núi phía Bắc với những đặc điểm văn hóa hết sức đa
dạng và đặc sắc trong DCTTSH.
Ngƣời Tày và ngƣời Thái đều là những tộc ngƣời theo dạng sinh thái văn hóa
thung lũng nên cảnh quan bản làng của họ có nhiều điểm giống nhau. Làng Thái dựa lƣng
vào sƣờn núi, mặt nhìn ra thung lũng đẹp và màu mỡ nhƣ cánh đồng Mƣờng Lò, Mƣờng
Thang, sông Nậm Rốn…. Làng Tày cũng dựa lƣng vào sƣờn núi hoặc dựng trên những
đồi thấp dọc khe suối, có khi đƣợc dựng ở giữa đồng. Điều kiện đó khiến cho làng bản
Tày, Thái đều rất thoáng mát, thơ mộng và êm ả với tiếng suối chảy róc rách. Định cƣ ở
vùng thấp, tổ chức bản làng của ngƣời Tày, Thái thƣờng lớn hơn các DTTS ở vùng giữa
và vùng cao. Tổ chức gia đình và xã hội của ngƣời Tày, Thái theo nguyên tắc phụ hệ nên
đời sống hiện thực của họ về cơ bản là giống nhau. Ấy là cuộc sống sinh hoạt bình dị nơi
nếp nhà sàn, với những gƣơng mặt thân quen, từ những em bé còn nằm trong nôi, những
đứa trẻ đánh đu, gọi trăng, những cô gái dệt sợi đêm trăng, những chàng trai thay nhau
thổi sáo pí pặp đến những em cô, bà bá, những nàng dâu... Ấy là cuộc sống lao động đầy
ắp tiếng cƣời lạc quan và những lời hò hẹn của bao đôi trai gái. Những con ngƣời ấy, với
những tình cảm mà họ dành cho nhau, cùng với những thành quả lao động đã kiến tạo nên
cuộc sống hiện thực đậm chất nông thôn miền núi. Đời sống hiện thực của đồng bào Tày,
73
Thái đã đƣợc phản ánh trong dân ca với những nét vẽ sinh động, đậm đà bản sắc dân tộc
mà qua đó, thái độ, tình cảm của đồng bào đối với cuộc sống nơi bản làng đƣợc hiện lên
rõ nét.
DCTTSH Thái đã cho chúng ta biết khá nhiều về các lĩnh vực sinh hoạt vật chất
của tộc ngƣời. Đó là một tộc ngƣời mà nƣớc có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống,
cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Cƣ trú ở vùng Tây Bắc - miền đất ba dải, chín
con sông, sông Đà gặp sông Hồng (Hin xam xẩu, nặm cẩu que, Pá té Tao); nơi có hệ
thống sông suối dày đặc, nƣớc có vai trò hàng đầu trong việc chọn đất, dựng bản, lập
mƣờng của ngƣời Thái. Từ sớm, họ đã nổi tiếng với hệ thống thủy lợi mƣơng, phai, lái,
lịn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nƣớc để lại dấu ấn trong mọi phƣơng diện của đời
sống con ngƣời, từ những thứ có thể nhìn thấy đƣợc cho đến cả tƣ duy, suy nghĩ.
Đó cũng chính là một tộc ngƣời cƣ trú theo bản mƣờng, lập bản làng ở những cánh
đồng thung lũng lớn, khai thác cả kinh tế ruộng vƣờn và kinh tế nƣơng rẫy. Những địa
danh cùng phƣơng thức canh tác và sản phẩm nông nghiệp tƣơng ứng đã vang lên trong
dân ca với biết bao tự hào:
- Dú Mượng Lay kin khảu pớ lại/ Dú Mượng Khoại kin khảu pớ long đeng/ Dú
Mượng Theng kin khảu đeng đẻ nế (Mƣờng Lay ăn gạo nƣơng/ Mƣờng Khoại ăn gạo
ruộng/ Mƣờng Thanh ăn gạo tẻ cứng) [121; tr. 401, 620].
- Đảy pặư mắư cháng hô đỏi đom ởi/ Pặư cháng nhoỏng pay háy đom a/ Pặư cháng
xơng pay nạ tang noọng/ Pặư cháng nhoỏng pô vẹ tang phô/ Khék Mợng Lay chí mạ/ Khék
Mợng Lạ chí tảu/ Pặư cháng pản lảu hôông chôống lai a/ Hộ khại mạ pin pứng xen xíng
(Đƣợc dâu mới khéo ăn khéo ở/ Giỏi lên nƣơng cùng cô/ Giỏi làm ruộng cùng em/ Khéo sắp
đặt công việc thay chồng/ Đón khách Mƣờng Lay tới/ Tiếng Mƣờng Là đến/ Khéo ủ rƣợu
biếu cô/ Nuôi trâu bò ngựa sinh sôi hàng đàn) [121; tr. 342 – 343, 558 – 559].
Nơi mƣờng Thái, dƣới những nếp nhà sàn quen thuộc, cuộc sống dân dã của đồng
bào Thái đã diễn ra bình yên hàng mấy trăm năm mà không kém phần sôi động. Dƣới sàn
nhà, những cô gái say sƣa dệt sợi đêm trăng. Những cô gái Thái thƣờng lấy chồng khá
sớm, nên họ rất bận rộn với việc dệt vải, làm chăn, đệm chuẩn bị lấy chồng. Phẩm chất
của họ ít nhiều đƣợc đánh giá qua số chăn đệm ấy bởi lẽ, trồng bông, dệt vải là một trong
những nghề truyền thống của ngƣời Thái, không chỉ thể hiện sự chăm chỉ mà còn nói lên
cái tài hoa, khéo léo của con ngƣời. Đặc biệt, trong DCTTSH, hình ảnh những cô gái dệt
vải gắn liền với ƣớc vọng về hạnh phúc cá nhân và cuộc sống đủ đầy:
74
Tói mạ tạng noọng noọng lả chắng chí céng nạy au phải/ Chắng chí céng phải đảy
lai may/ Chắng chí dom khoong vạy mợ hợn phô xeo chại (Tiếng đàn gảy về phía em, em
mới kéo búp quay xa/ Em mới kéo búp xe sợi/ Em se sợi để dành làm của về nhà theo
anh) [121; tr. 382 – 383, 599 – 601].
Nơi nếp nhà sàn đặc trƣng của dân tộc, các chàng trai đã đến ở rể. Các cô gái đã
theo chồng về nhà chồng để cùng tham gia vào cuộc sống của những đại gia đình hoặc
dựng xây nên những tiểu gia đình mới. Cuộc sống gia đình dù hạnh phúc hay khổ đau thì
cũng đều tuân theo truyền thống cƣ xử thuận hòa của tộc ngƣời và có tính tổ chức rõ ràng
nhƣ những điều đã đƣợc quy định trong luật mƣờng.
Ở DCTTSH Tày, cuộc sống hiện thực của ngƣời Tày đƣợc tái hiện khá chân thực
mà đầy đủ, sâu sắc trong các cung hát mừng vùng, mừng mƣờng, vào cánh đồng, mừng
bản, nhà, mừng gia cảnh, mừng ngƣời của lượn cọi, lượn slương, lượn rọi, iếu. Lượn cọi
miêu tả cuộc sống hiện thực dƣới con mắt của bạn phƣơng xa đến bản. Cuộc hành trình
vào bản đã khái quát toàn bộ cảnh quan làng bản Tày. Bƣớc chân đến đó, khách thấy
đƣờng rộng thênh thang, thấy cây đa, thấy đồng ruộng trù phú với cây cối quen thuộc,
vƣờn tƣợc tầng tầng lớp lớp, thấy mỏ nƣớc, rồi khách tới cổng ngõ thấy nhà sàn với
những cánh cửa khéo vẽ, thấy cuộc sống nông nghiệp với những gia cầm gia súc đầy đàn.
Sau cùng là các tổ chức làng bản ở địa phƣơng cùng những gái trai tài giỏi, đẹp xinh –
tinh hoa của làng, bản ấy. Bản làng Tày đƣợc khách ca ngợi hết lời. Vẫn là những cảnh
vật quen thuộc, giản dị nhƣ cánh đồng đất đỏ với những trâu, những cá, vẫn là bản làng
rộng rãi có rào bao quanh, vẫn là những con ngƣời thân quen từ cuộc hát trƣớc nay đã kết
tồng (một hình thức kết nghĩa của các bạn hát), nhƣng dƣới sự miêu tả sinh động của
khách, cuộc sống hiện thực nơi bản Tày hiện lên thật trù phú và bình an, đáng mơ ƣớc. Sự tái
hiện cuộc sống nơi bản Tày trong DCTTSH tuy đƣợc đặt dƣới con mắt của khách, tức chịu sự
chi phối của truyền thống lịch sự theo kiểu ta khiêm khách tôn trong một cuộc hát, song nếu
gạt đi những yếu tố cƣờng điệu, chúng ta vẫn nhận ra sự yên bình và quang cảnh đặc trƣng
của cuộc sống nông thôn miền núi trong điều kiện cƣ trú ở các thung lũng chân núi.
- Củ tin khỏi khảu mà thâng bản/ Tứ bức ngòi quảng đạng quang minh/ Sơn thủy
mì pù slung lọm bản/ Tả hựu mì ẻn nhạn fục qui/ Can chi chắng slinh mì nam nự/ Slao
báo ngòi lịch sự khôn ngoan/ Khỏi pền cần táng tàng chảm mửng (Cất chân tôi đi đến
làng này/ Rộng rãi cả đông tây nam bắc/ Núi sông rào kín khắp cả làng/ Trái phải hình én
nhạn bay về/ Đất trời mới sinh ra nam nữ/ Gái trai trông lịch sự, khôn ngoan…) [117; tr.
119, 431].
75
- Mường cần dú an nhán sổ đa/ Tả thanh long chầu mà uổn khúc/ Hựu bạch hổ
chầu chực bình an/ Nả táng phja Thái Sơn quảng hán/ Bách va nở nưa cáng vân vi/
Huyền Vụ chầu fục qui một mổng/ … Mì nặm uổn theo đài bát vận (Mƣờng ngƣời sống an
nhàn muôn dân/ Tả thanh long chầu về uốn khúc/ Hữu bạch hổ chầu chực bình yên/ Phía
trƣớc núi Thái Sơn rộng lớn/ Trăm hoa nở sán lạn trên cành/ Núi Huyền Vũ một mình quy
phục/ … Nƣớc men theo cát dài uốn khúc) [117; tr. 103, 415].
Cƣ trú chủ yếu ở vùng tiếp giáp giữa đồng bằng và miền núi, ngƣời Tày từ rất sớm
đã nhận thức rõ về sự hòa hợp, đoàn kết giữa họ với các cộng đồng tộc ngƣời khác chung
sống trên cùng hoặc gần địa bàn cƣ trú của họ. Bởi vậy, ngƣời Tày mới có bài dân ca về
cây đa ba mƣơi gậy, cây đa chín mƣơi cành lan tỏa bốn phƣơng. Ý thức về tộc ngƣời âm
thầm mà mạnh mẽ, bền bỉ của họ đƣợc đặt trong sự gắn bó với cộng đồng các dân tộc
Việt Nam: Thái Tông trị vì đảy bình an/ Vui thuổn Cao Bằng cắp Lạng Sơn/ Vui khắp
Cao Bằng thâng xứ Thái/ Tày, Keo xung túc lẹo bình an (Thái Tông trị vì đƣợc bình an/
Vui khắp Cao Bằng lẫn Lạng Sơn/ Vui khắp Cao Bằng đến xứ Thái/ Tày, Kinh sung túc
chẳng phiền buồn) [108; tr. 343, 466]
Những cảnh vật cùng cuộc sống sinh hoạt nơi mƣờng bản chính là bối cảnh cho
tiếng hát trữ tình của con ngƣời đƣợc cất lên. Nơi mƣờng bản ấy có biết bao mối tình đã
nảy nở, biết bao gia đình đƣợc dựng xây. Hạnh phúc có, khổ đau có, giận hờn có, oán
trách có, cam chịu có, đấu tranh có… Sự tổng hòa những yếu tố đó tạo nên diện mạo cuộc
sống sinh hoạt Tày, Thái trong DCTTSH. Trong dân ca, các mối quan hệ trong gia đình
nhƣ vợ - chồng, bố mẹ - con cái hoặc mối quan hệ của ngƣời con dâu với mọi ngƣời trong
phạm vi gia đình, họ hàng, làng xóm đƣợc nhắc đến nhiều song các mối quan hệ này chủ
yếu đƣợc đặt xung quanh chuyện tình yêu của lứa đôi chứ không đƣợc miêu tả riêng rẽ
nhƣ trong dân ca của ngƣời Việt.
Có thể nói, DCTTSH Tày, Thái đã phản ánh chân thực cuộc sống sinh hoạt của
đồng bào Tày, Thái. Song, đó không phải là sự phản ánh một cách khách quan. Thuộc loại
hình trữ tình dân gian, DCTTSH Tày, Thái trong khi miêu tả về đời sống hiện thực của
chính dân tộc mình đã cho thấy tình yêu, lòng tự hào về quê hƣơng, bản mƣờng, về chính
cuộc sống quen thuộc, bình dị mà thiêng liêng đối với mỗi ngƣời dân Tày, Thái. Chính
đời sống ấy sẽ là cái nôi duy trì các giá trị văn hóa, xã hội, góp phần làm cho cộng đồng
ngƣời Tày, Thái tồn tại trƣờng tồn trong lịch sử với tƣ cách các dân tộc riêng rẽ. DCTTSH
Tày, Thái đã sinh ra từ cuộc sống, rồi quay trở lại phản ánh chính cuộc sống ấy bằng tình
76
yêu. Bởi thế, đời sống hiện thực của đồng bào Tày, Thái đƣợc tái hiện với nhiều màu sắc
tƣơi vui, sinh động cả về cảnh vật, con ngƣời.
Trong khi phản ánh sinh động cuộc sống sinh hoạt của ngƣời dân Tày, Thái,
DCTTSH còn ghi lại các đặc điểm văn hóa của dân tộc thời xƣa. Trên nền của bức tranh
nông thôn miền núi, DCTTSH Tày, Thái cho chúng ta biết khá nhiều và khá chi tiết về
các đặc điểm làng bản, nhà cửa, trang phục, ẩm thực, lễ hội, tín ngƣỡng, phong tục, tập
quán,… thuộc các lĩnh vực văn hóa vật chất và tinh thần của đồng bào. Từng lời ăn ý ở
đều để lại dấu ấn trong DCTTSH thông qua các hình ảnh, biểu tƣợng hết sức sinh động và
tự nhiên.
DCTTSH của ngƣời Thái phản ánh khá sinh động những đặc điểm văn hóa của tộc
ngƣời này xung quanh những mối tình trai gái lãng mạn. Những ngày xuân, trai gái hát
làn điệu khắp xai xơng bên mâm cơm, mâm rƣợu. Những buổi tối, họ tụ tập vui chơi nơi
hạn khuống, cùng khắp hạn khuống. Những buổi đêm, họ chọc sàn rủ nhau tâm tình và
hát làn điệu khắp xai peng. Hạn khuống và xắc xan (chọc sàn) là những phong tục đặc sắc
của nam nữ thanh niên Thái thời xƣa. Thƣờng, làng nào cũng có hạn khuống. Đó là một
sàn chơi, có lan can nhƣng không có mái, do thanh niên trong làng cùng nhau dựng. Có
bản có đến vài hạn khuống. Vào những ngày đẹp trời, sau bữa cơm chiều, khi mặt trời đã
đi ngủ sau những dãy núi, nam nữ trong làng rủ nhau đến sàn vui chơi, chuyện trò, hát
giao duyên:
- Phó hên hạn khuống tẳng hưa pộn chăư kém pương cợn lê/ …Phăng nghin to
xương tính kiểu xương coọng hơn pí xi lo/ Xương hua co báo xao muôn mua cău của cợn
lê! (Thấy hạn khuống dựng lộng lẫy muốn lên cậy nhờ lắm thay!/ …Nghe tiếng đàn hòa
nhịp cồng, đàn môi, sáo nhị/ Giọng nói cƣời trai gái mừng vui luyến cuộn lắm thay!) [50;
tr. 313 – 314]
- Xo khửn thản huôm luông én dơ/ … Lay xam khẳn lôông phốc ău ái lé dơ (Xin lên
sàn cùng rồng lƣợn với nhé/ … Thang ba bậc thả xuống đƣa anh lên với nhé [50; tr. 315].
Nhiều lứa đôi Thái đã thành vợ thành chồng nhờ những buổi vui chơi ở hạn
khuống. Ở không gian đó, họ đã hát làm quen, tìm hiểu nhau. Lệ hát, một nhóm nam
thanh niên đến nổi nhạc và hát khen ngợi hạn khuống. Từ việc hát xin thang lên hạn
khuống của bên nam và sự đồng ý của bên nữ, hát mƣợn ghế ngồi, mƣợn điếu hút thuốc
lào, đôi bên đều tỏ ra hết sức lịch sự và khiêm nhƣờng. Khi hiểu nhau rồi, họ hát hò hẹn,
yêu thƣơng. Nếu thực sự yêu nhau, họ hẹn nhau về hỏi ý kiến cha mẹ.
77
DCTTSH Thái nhắc nhiều đến phong tục hôn nhân của tộc ngƣời. Họ rất coi trọng
việc hôn nhân phải cùng đẳng cấp. Quan niệm này đã gây nên nỗi niềm đau khổ, tủi nhục
của biết bao chàng trai, cô gái nghèo:
- Ún hướn á… khum hảư thiên noọng a lả báu chừ tủn mạy nọi náư pá khoong đặc
ná với/ Ói pánh a á… thiên pì báu mí ngứn tim khính cọ báu chính mả tàn đảy ná noọng
á… (Cay đắng thay, em không phải khóm rau nhỏ để tranh hái/ Anh không có tiền đầy túi
chẳng tranh đƣợc vợ với ngƣời) [134; tr. 180, 325]
- Ún hướn căn ơi… hô chaư đon lẹo thon khứn lăng báu đảy dá chụ hặc á kiểu kín
xai chaư ái á/ … Ún hướn căn ơi… mờ té chạu pò piếng mè noọng lả lé chê thiên pì cứn
tắm tán lẹo báu đáng pin khơi và lế chụ hặc ới (Cha mẹ em thƣơng chê anh ngƣời thấp
hèn không xứng làm rể/ … Cha mẹ em chê anh kim to không xứng khâu lụa em à… [134
; tr. 288 – 300, 402 – 410].
Đặc biệt, trong DCTTSH Thái, tục ở rể đƣợc nhắc đến nhƣ một niềm mộng ƣớc
của lứa đôi về tƣơng lai dựng xây hạnh phúc gia đình. Vì mộng ƣớc, bao chàng trai đã bày
tỏ ý muốn đƣợc đến làm rể quản đan chài, bao cô gái đã táo bạo bày tỏ tình yêu bằng ƣớc
muốn có đƣợc chàng trai về ở rể nhà mình. Cũng vì mộng ƣớc đẹp đẽ ấy, có chàng trai đã
phải xót xa, cảm thấy bị lừa vì sau khi vất vả làm rể quản đã không đƣợc cô gái và gia
đình ƣng thuận cho tiến tới bƣớc tiếp theo trong hôn nhân. Trong dân ca, những cảnh
chàng trai đến xin ngồi xổm làm rể, cật lực lao động để báo hiếu cha mẹ cô gái không
hiếm gặp:
- Po thẳu po bắu heng/ Me thẳu po bắu heng/ Chăư kin xạ phắc xeng/ Chăư kin
heng khươi lả/ Chăư kin xạ pa bá khươi lun (Cha già không khỏe mãi/ Mẹ già không khỏe
mãi/ Mong ăn rổ rau xanh/ Mong nhờ sức rể út/ Mong ăn nhờ giỏ cá anh vũ của rể cuối).
[50; tr. 346 - 347].
- Ún hướn căn ơi… hák và, thiên pì au hó mák khửn phái quản hướn noọng tào lai
dá noọng hặc ái á/ Ún hướn á… thiên pì au hó pú khửn hướn luông thiên noọng tào lạ dá
noọng pánh ái ới (Anh muốn đƣợc ngồi xổm làm rể nhà ngƣời/ Anh muốn đƣợc lên nhà
to ở rể nhà em) [134; tr. 182, 326]
DCTTSH Thái cũng hay nhắc đến những nghi thức trong lễ cƣới nhƣ tục đôi vợ
chồng trẻ bẻ đôi lòng đỏ trứng cùng ăn, thắt sợi chỉ vào cổ tay, tằng cẩu… với niềm yêu
thƣơng tha thiết, thể hiện ý chí quyết tâm bên nhau mãi mãi.
Ngƣời Tày, Thái đều có nhiều lễ hội với tính chất hội mùa chung cho toàn vùng.
Ấy là dịp cho đôi lứa gặp gỡ, gửi trao tình cảm thông qua những lời ca câu hát, những trò
78
chơi dân gian mang đậm màu sắc dân tộc. DCTTSH đã phản ánh hết sức sinh động những
đặc điểm ấy. Chẳng hạn, ngƣời Thái thƣờng chơi các trò đánh én, tung còn, tó má lé và
hát các điệu xai xơng trong các phần vui chơi của lễ hội. Những nét văn hóa độc đáo này
đã đi vào dân ca tự nhiên, khỏe khoắn nhƣ chính những tâm hồn núi rừng đang yêu: Bơn
chêêng chắng vá bơn đỉn/ Xoong hạu chợ căn pay đỉn én nạ long/ Xoong xơng chắng chợ
căn pay tọt cọn nạ cảng/ Cang khôống cảng xoong hạu chắng tó lẹ sài nhá sựp tin/ Chợ
kin lẹng báo xao khọp nả/ Bum lảu khảu tó khọ khắp tóp xai xơng/ Chại lum nhịnh chại
chí chọ kin lảu lọ chại ả/ Nhịnh lum chại nẻ chại tsún tỏn hệt păự côông bản chí hô
(Tháng giêng là tháng rong chơi/ Đôi ta rủ nhau đánh én nơi đồng ruộng/ Hai ta rủ nhau
tung còn ở cánh đồng to/ Giữa sân lớn đôi ta dùng chân chơi chọi lẹ/ Tới bữa ăn trai gái ta
vui họp mặt/ Bên mâm rƣợu cùng nhau hát xai xơng/ Trai hát thua sẽ phải uống rƣợu
phạt/ Gái hát thua sẽ để trai đón về bản làm dâu) [121; tr. 398, 616]
Ở DCTTSH của ngƣời Tày, các đặc điểm văn hóa thuộc lĩnh vực văn hóa vật chất
nhƣ màu áo của trang phục, hoặc kiến trúc của ngôi đình, đặc điểm của một loại nhạc khí
là đàn tính… đƣợc nhắc đến không chỉ với ý nghĩa mời chào trong cuộc hát giao duyên
mà còn mang đầy lòng tự hào của con ngƣời về quê hƣơng, làng bản. Chẳng hạn, ngƣời
Tày có trang phục truyền thống đƣợc may từ vải bông nhuộm chàm giản dị nhƣng liên
quan đến sắc màu ấy là cả một câu chuyện cảm động về lòng tốt, về tình yêu và sự thủy
chung của con ngƣời. Sắc màu ấy đƣợc nhắc đến nhiều trong DCTTSH của ngƣời Tày:
- Noọng nàng nủng sửa đăm pích niếng/ Mừa họa chai bản Viểng lẻ mừa/ Đin bản
Viểng au sơ liệng mọn/ Phải họa sơ ruổm hóm sắc vày (Áo em mặc màu đen cánh niếng/
Vô theo anh bản Viểng thì vô/ Quê anh hái lá ƣơm tơ/ Vải tơ chung xếp cho vừa hòm
rƣơng) [127; tr. 357]
- Thửa đăm la mừa tó khen khẳm/ Pi mà năng táng đảm po piềng me noọng chắng
liếc hẹt khươi/ Thửa đăm la mừa tó khen lương/ Pi mà dặng chang rườn noọng Khình
Châm chắng liếc hẹt mả (Áo đen thì khâu tay áo chàm/ Anh đứng trƣớc bàn thờ nhà em,
cha mẹ em mới gọi anh là rể/ Áo đen phải gắn tay áo vàng/ Anh đến đứng giữa nhà thì em
mới gọi anh là chồng) [22; tr. 52, 126 – 128].
Các đặc điểm văn hóa tinh thần cũng đƣợc nhắc đến nhƣ tục kết tồng hoặc một
phiên chợ miền núi Cao Bình (Cao Bằng). Đặc điểm cƣ trú của làng bản Tày ở Cao Bằng
không gần nhau. Từ bản này sang bản khác có thể mất đến cả ngày đi bộ. Khoảng cách xa
xôi và công việc lao động vất vả khiến trai gái các bản ít có điều kiện giao lƣu tình cảm.
Lúc này, phiên chợ sẽ đóng vai trò là địa điểm, là cầu nối, là cái cớ cho trai gái gặp gỡ,
79
làm quen hoặc thỏa nỗi mong nhớ: Hả hoằn pan Háng Séng/ Noọng mà téng bấu hăn
(Năm ngày phiên chợ Cao Bình/ Em mong gặp gỡ bạn tình thấy đâu…) [127; tr. 496].
Có thể nói, vẫn là những câu hát về tình yêu nam nữ, đời sống gia đình và về quê
hƣơng, làng bản… nhƣng mỗi câu chữ, mỗi hình ảnh đều là sản phẩm của cách cảm, cách
nghĩ, cách tƣ duy rất Tày, rất Thái. Qua những câu hát ấy, ngƣời ta nhận ra bức tranh đời
sống hiện thực đậm chất nông thôn miền núi với những nét vẽ chân thực và sinh động về
cảnh sắc, nếp sống của con ngƣời. Với ý nghĩa ấy, DCTTSH Tày, Thái là kho tài liệu
phong phú và sinh động về đời sống văn hóa tộc ngƣời.
3.1.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt phản ánh thế giới tâm tư, tình cảm của con người
DCTTSH Tày, Thái phản ánh đời sống hiện thực của con ngƣời với những nét
phác họa sinh động về cuộc sống sinh hoạt và các đặc điểm văn hóa. Nhƣng, trƣớc hết,
DCTTSH Tày, Thái là tiếng hát trữ tình, phản ánh tâm tƣ, tình cảm của đồng bào Tày,
Thái. Đó là một thế giới tình cảm phong phú xoay quanh các mối quan hệ, song nhìn
chung có thể xem xét dựa trên hai chủ đề lớn là: chủ đề tình yêu đôi lứa và chủ đề đời
sống gia đình.
Tƣơng tự nhƣ ở dân ca của ngƣời Việt và nhiều dân tộc khác, dân ca thuộc chủ đề
về tình yêu đôi lứa là bộ phận phong phú và tiêu biểu nhất trong toàn bộ kho tàng dân ca
của dân tộc. Điều này xuất phát từ đặc điểm của loại hình: dân ca thuộc loại hình trữ tình
dân gian, có chức năng phản ánh thế giới tình cảm của con ngƣời. Mà, những tình cảm
phong phú nhất, quen thuộc nhất đối với con ngƣời chính là thuộc về đời sống riêng tƣ,
hạnh phúc cá nhân của con ngƣời, tức có mối liên quan nhiều nhất với tình yêu lứa đôi.
Minh chứng dễ nhận thấy nhất về sự phong phú của bộ phận dân ca này thể hiện ở số
lƣợng bài hát. Ở cả DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, phần lớn các bài hát đều nói
đến tình yêu.
Bộ phận dân ca tình yêu là nơi thể hiện sinh động nhất, đa dạng nhất các cung bậc
cảm xúc trong tình yêu. Các cung bậc cảm xúc ấy tƣơng ứng với các giai đoạn của tình
yêu: từ ngấp nghé làm quen, tỏ tình, tƣơng tƣ, nhớ nhung cho đến thề thốt, giận hờn, trách
móc… Bởi phản ánh đƣợc mọi biểu hiện của tình yêu nên các bài hát của DCTTSH Tày,
Thái dễ dàng đáp ứng đƣợc tính chất hoàn chỉnh của một cuộc hát trong thực tế. Chẳng
hạn, diễn xƣớng khắp tua của ngƣời Thái trải qua nhiều bƣớc: hát đi đƣờng, hát mở cổng
vào làng, hát đố, hát ƣớm, hát thăm hỏi, hát trao duyên, hát kết đôi, hát đi chơi mƣờng
trời, hát chia tay. Các bƣớc này không có quy định cụ thể, rõ rệt về số lƣợng lời hát mà
phụ thuộc vào tài năng và sự nhiệt tình của những ngƣời tham gia diễn xƣớng. Bởi thế,
80
kho tàng DCTTSH Thái về tình yêu phải thực sự phong phú mới có thể đáp ứng đƣợc nội
dung của ngần ấy chặng diễn xƣớng.
Những tình cảm e ấp ban đầu của nam nữ thanh niên Tày, Thái thƣờng đƣợc khơi
lên từ những buổi vui chơi tập thể, những buổi hát bọn. Ở ngƣời Tày, những dịp khách lạ
tới bản, những buổi tan chợ cùng về trên đồi núi là dịp cho tiếng hát làm quen, đƣa đẩy
tình tứ đƣợc bay cao. Ở ngƣời Thái, ấy là những dịp vui chơi nơi hạn khuống, những đêm
trăng với tục chọc sàn, những đêm đốt lửa nơi sân tình, những khi lên nƣơng, đi ruộng…
Tình cảm gái trai đã nảy sinh từ đó:
Bơn háng coỏng tại lí Chiệng Xa/ Xao Lo céng xao Lạ khửn pụ pha cớn cáy/ Láy
nọi cọ hẳư pí tso ing/ Khịnh cum cọ hẳư pí tso tản (Trăng vàng chiếu lên lí ở Chiềng Xa/
Gái Xo, Là lên nƣơng trƣớc gà gáy sáng/ Gáy nhỏ của em cho anh xin dựa/ Em xinh tƣơi
cho anh đƣợc tâm tình) [121; tr. 379, 596]
Trong khung cảnh bình yên và thơ mộng của núi rừng phía Bắc, có những lứa đôi
yêu nhau thắm thiết. Trong DCTTSH của ngƣời Tày, tình cảm nhớ nhung, tƣơng tƣ đƣợc
nhắc đến nhiều hơn cả. Họ nhớ nhau vì kết duyên khác bản, vì ngày mùa bận rộn. Để rồi,
từng canh trƣờng qua, từng tháng qua, từng mùa qua, nhìn từng loại hoa, nghe từng tiếng
gà gáy, họ đều nhớ tới ngƣời yêu và tƣởng tƣợng ra đủ việc. Ở DCTTSH Thái, ƣớc muốn
của lứa đôi về một tƣơng lai cùng gây dựng nhà cửa là trội hơn cả. Về cùng nhau, cô gái
sẽ quay tơ dệt vải, sẽ luộc trứng để cùng bẻ đôi lòng đỏ trong ngày cƣới, đánh dấu việc cô
theo họ chồng. Giấc mơ chung đôi cứ trở đi trở lại trong DCTTSH Thái minh chứng cho
khát khao hạnh phúc luôn thƣờng trực trong tâm thức những con ngƣời tha thiết yêu
đƣơng nơi bản Thái:
Há ói… xa lai đảy chụ nẳm mặc má téng hướn kin ái ló noọng ới…/ Ún hướn á…
xa lai đả noọng pánh má tắm húk khẳm phiến mè a ló noọng a ná…/ Há ói… xa lai đảy
noọng pánh má tắm húk lính húk lá phiến mè ók chái ló với noọng ới/ … Ún hướn á… xa
lai đảy pánh má tủm xáy họn má ói hô chaư chái ló… (Ƣớc đƣợc em cùng nhà chung sức
làm ăn/ Ƣớc đƣợc em về dệt vải thay bà cô/ Ƣớc đƣợc em về dệt lụa thay bà bá…/ Ƣớc
đƣợc em về luộc trứng ủ ấm trái tim anh) [134; tr. 192, 334]
Cuộc sống bình yên mà đầy ắp yêu thƣơng da diết là một phƣơng diện nội dung
đƣợc nhắc đến nhiều trong DCTTSH Thái. Những con ngƣời làm nên lịch sử, xã hội Thái
vẫn luôn giữ trong mình trái tim tình tứ, rộn ràng, làm thành đặc trƣng riêng của tâm hồn
dân tộc. Chỉ cần có nhau, họ bất chấp cuộc sống khổ nghèo:
81
Há ói… xoong háu hặc căn, phân xớ tò baư khá láng mặc ló noọng ới/ Há ói…
xương căn lẹo phân phá tò baư chạy láng mặc thôi lo ún hướn chái ơi…/ Ún hướn á…
đảy căn lẹo húm khoang, nón khoang láng mặc thôi ló noọng pánh ái ới…/ Há ói… phô
chặc pay mế ók láng mặc ló noọng á…/ Ún hướn á… lụk nọi nón xoong khók xảng tai nao
láng mặc ló noọng a á… (Hai ta yêu nhau, nằm đệm cỏ gianh cũng yêu/ Thƣơng nhau
chăn đắp bằng lá sậy cũng thƣơng/ Có nhau chăn nhỏ đắp ngang, đệm nhỏ nằm ngang
cũng vừa/ Chồng kéo hở chăn vợ bị rét cũng yêu/ Không có chăn, con nhỏ nằm chết cóng
hai bên, cũng yêu) [121; tr. 194, 335 ].
Bên cạnh việc diễn tả các biểu hiện của một tình yêu hạnh phúc, DCTTSH Tày,
Thái còn diễn tả tình yêu khổ đau. Chính ở đây, trong phạm vi của những tình cảm cá
nhân, riêng tƣ, các nội dung xã hội đƣợc lồng ghép và khiến cho tiếng hát tình yêu mang
tính tƣ tƣởng cao.
Sống trong chế độ gia đình và xã hội tuân theo nguyên tắc nam quyền, phụ hệ nên
việc hôn nhân của nam nữ thanh niên Tày, Thái đều phải tuân nguyên tắc môn đăng hộ
đối, hôn nhân cùng đẳng cấp và phải do cha mẹ quyết định. Sự phân chia giai cấp là rào
cản lớn cho hôn nhân giữa quý tộc và dân thƣờng. Do đó, các lứa đôi không môn đăng hộ
đối yêu nhau thƣờng không lấy đƣợc nhau. DCTTSH Thái có một bộ phận lớn các bài ca
có nội dung nói lên nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái có thân phận hèn mọn, gia cảnh
nghèo khổ nên không thể nên duyên với ngƣời mình thƣơng. Những tiếng hát oán trách,
than thân tủi phận vì nghèo mà duyên phận không thành đã cất lên ai oán:
Ún hướn căn ơi… pò piếng mè thiên noọng nhắng chê lé phướng chê dá noọng
hặc á/ Ói pánh căn ơi… pò piếng mè thiên noọng nhắng chê mạy nửm lé báu pin tók dá lo
noọng ới/ Ún hướn căn ơi… pò piếng mè thiên noọng nhắng chê mạy lók lẹo báu pin hệt
cán và lế noọng ặc ái á/ Ói pánh căn ơi… pò piếng mè thiên noọng nhắng chê pì phủ tắm
nọi báu đáng kin khơi xín ná noọng ới (Bố mẹ em còn khinh miệt, chê bai/ Chê anh cây
cụt ngọn không làm lạt đƣợc/ Bố mẹ em chê anh cây khô không làm đƣợc đòn gánh/ Bố
mẹ em chê anh thân phận thấp hèn không xứng đáng làm con rể) [134; tr. 182, 327].
Bên cạnh đó, họ còn cất lên tiếng nói phản kháng đối với trời, với then, với bà mụ.
Theo quan điểm tín ngƣỡng của hai dân tộc Tày, Thái, đây là những thế lực siêu nhiên,
siêu hình có sức mạnh chi phối hạnh phúc, sợi dây số mệnh và duyên phận của con ngƣời.
Họ trách cha mẹ, trách bà mụ, trách then đã nhẫn tâm chia cắt tình duyên của họ, sắp nen
không chặt khiến họ phải xa nhau. Ở DCTTSH Tày, lứa đôi thƣờng không oán trách cha
mẹ mà oán trách ông trời. Ở DCTTSH Thái, sự phản ứng đối với thần quyền là rất rõ
82
ràng. Sự phản ứng nhƣ vậy một mặt thể hiện sự lệch lạc trong nhận thức của họ về vai trò
của thần quyền đối với tình yêu, mặt khác, quan trọng hơn, đáng quý hơn, là sự vùng vẫy,
đấu tranh của những con ngƣời khát khao hạnh phúc nhằm thoát ra khỏi sự kìm hãm của
những tục lệ hôn nhân cổ hủ trong chế độ phong kiến nam quyền và của những yếu tố
thần quyền đã bao đời thống trị tâm thức những con ngƣời miền núi.
DCTTSH Tày, Thái về chủ đề đời sống gia đình có nội dung phản ánh các mối
quan hệ bố mẹ - con cái, vợ - chồng, họ hàng mà trọng tâm của các mối quan hệ đó là sự
thuận hòa, tôn trọng và yêu thƣơng trong gia đình. Ở DCTTSH Tày, tình cảm gia đình chủ
yếu đƣợc nhắc đến trong sự kính trọng của các chàng trai, cô gái Tày đối với cha mẹ trong
việc hôn nhân và bảo ban, truyền đạt kinh nghiệm làm ăn. Ở DCTTSH Thái, biểu hiện dễ
nhận thấy nhất của điều đó là ở việc trai gái hỏi xin ý kiến cha mẹ về việc hôn nhân, tình
cảm vợ - chồng và không khí chan hòa, cởi mở trong đại gia đình có nàng dâu mới.
Trong DCTTSH Thái, các chàng trai cô gái thƣờng rất tôn trọng ý kiến của cha mẹ
đôi bên về việc hôn nhân. Yêu thƣơng nhau rồi, họ về thƣa cùng cha mẹ, gái xin cha mẹ
đồng ý, trai xin cha mẹ đi hỏi cƣới dâu. Với ngƣời Thái, sự thuận tình này của cha mẹ đôi
bên là cơ sở để xây dựng nên gia đình hạnh phúc, êm ấm bền vững.
- Lụk chắng tản cắp cung chẳu me liệng po ók tăn dăm/ … Noọng cọ tố xắư ải me
liệng chôm muôn quam li… (Con xin thƣa lại mẹ cha tỏ tƣờng/ …Em trình cha mẹ thuận
tình ƣng cho…) [50; tr. 343].
- Kháy nị, pi chí tản xú noọng hẳư chứ phăng ău lé dơ/ Căm ngoa chọm tô căn lai
khót/ Êm kéng ải pi noọng ưởi ý lai côn/ Phăư cọ hum hum pọm quam điêu chăư phắư
(Bây giờ, anh đáp lại nàng nghe nhớ giùm cho/ Tối qua anh vừa mới đổi trao nhiều điều/
Mẹ cha, anh chị em, cô bác đông ngƣời/ Ai ai cũng đều nhất trí một lời muốn mong) [50;
tr. 339 – 340]
Về quan hệ của gia đình chồng với nàng dâu, DCTTSH Thái phản ánh cái nhìn
khá cởi mở với ngƣời con dâu. Sự duy trì nền dân chủ tộc ngƣời ở một mức nhất định
khiến ngƣời Thái có nhiều bài hát khuyên dâu, khen dâu và mừng nàng dâu mới:
- Chọm hên chọm thưk ín ma ta/ Chọm thưk ta ma nả/ Chọm thưk nả êm da xoong
hươn/ Pặư luk lả êm chí hụ pẳn khẳu nưa xắư mư ý/ Chang chí khẳu xú mư a/ Chang hụ
bái pa xó mư êm me nủ (Vừa nhìn đã thấy ƣng mắt/ Thuận mắt ƣng cả mặt/ Vừa thuận
mặt bà nội cả hai nhà/ Con dâu quý của mẹ khéo biết nắm xôi đƣa tay chị/ Khéo nƣớng
xôi đƣa tay cô/ Khéo biết trộn cá nắm xôi đƣa tay mẹ…) [50; tr. 310 – 311].
83
- Lảy pặư lun téng phu phả/ Lảy pặư lả téng pu xứa hiêng mon/… Pay hặc pay má
dam/ Pa hụ pa xoong k exam nang khửn xú/ Hưn hựn lẹo têng bản muôn tom lẹ lỏ pặư ơi
(Đƣợc dâu út trải khăn/ Dâu cuối trải đệm đặt gối/… Bà con mến năng đến thăm/ Cá biết
ba ngả bốn khúc cá tới/ Rầm rập xóm làng xum vui, dâu ơi! [50; tr. 285 – 286]
Từ những điều trên, có thể thấy, sự thuận hòa trong gia đình Tày, Thái nhƣ DCTTSH
phản ánh một mặt xuất phát từ truyền thống coi trọng phép tắc, tôn ti trật tự của gia đình
theo chế độ phụ quyền, phụ hệ. Mặt khác, gia đình thuận hòa và tràn đầy sự cởi mở, yêu
thƣơng có thể coi là gia đình trong mơ ƣớc của biết bao thế hệ đồng bào Tày, Thái. Trong
điều kiện gia đình gia trƣởng phụ quyền, cách duy nhất và tốt nhất để cô gái – nhân vật trữ
tình đƣợc đồng bào Thái gửi gắm tình thƣơng - có thể sống thoải mái, dễ thở là làm dâu
trong một gia đình tƣơng thân tƣơng ái nhƣ vậy. Đó là lí do khiến trong DCTTSH Thái,
cô gái đƣợc cha mẹ chồng, họ hàng, làng xóm đón nhận và ghi nhận bằng thái độ tin yêu,
tự hào. Đó cũng là nguyên nhân của việc tình cảm vợ chồng trong DCTTSH Thái có lúc
đƣợc miêu tả là sự vũ phu, thái độ gia trƣởng của ngƣời chồng, nhƣng nhìn chung, tình
cảm yêu thƣơng, sẻ chia, thấu hiểu để cùng dựng xây hạnh phúc vẫn nổi trội hơn: Nhịnh
chăư tăn ăn cọ chí bók/ Nhịnh chăư hó chại cọ chí khay na/ Noọng bớ chăư cao chợ đăư
pin phô mệ cói vạu (Em ngốc ngếch anh sẽ đỡ/ Em dốt nát anh sẽ chỉ/ Em khạo khờ anh
sẽ khuyên/ Em không giỏi giang, khi thành vợ chồng ta sẽ bảo ban nhau) [121; tr. 448,
669]. Hay cá biệt, thái độ bảo vệ vợ của chàng trai Thái trƣớc các thế lực nhà chồng này
rõ ràng rất hiếm có trong xã hội Thái cổ truyền, khi con ngƣời rất đề cao các nguyên tắc
và quan hệ của đại gia đình. Đây chỉ có thể là thái độ của con ngƣời thiêng – con ngƣời
phi hiện thực, đƣợc gửi gắm khát vọng, ƣớc ao của tác giả dân gian: Pó mẹ hại xoong hạu
cói hắng hệt hợn kin/ Nhịnh ả, noọng a hại noọng a hắng hụ khá nà / Pí pả hại pí pả hắng
táng hợn kin (Cha mẹ không ƣng hai ta sẽ tự dựng nhà/ Em cô không hợp rồi em cô sẽ đi
lấy chồng/ Bác gái không hợp, bác gái cũng có riêng nhà cửa) [121; tr. 511, 736].
Nhƣ vậy, thế giới tâm tƣ, tình cảm của đồng bào Thái đã đƣợc DCTTSH Tày, Thái
phản ánh hết sức đa dạng và sinh động. Đó là một thế giới với mọi cung bậc cảm xúc của
tình yêu, là không khí chan hòa yêu thƣơng và sự tôn trọng lẫn nhau trong gia đình.
Những tiếng hát trữ tình ấy đƣợc hát lên trên cơ sở tâm lí, tình cảm chung của con ngƣời.
Song, khi đƣợc đặt trong bối cảnh cuộc sống sinh hoạt đặc trƣng của nông thôn miền núi
và những đặc điểm văn hóa dân tộc, thế giới tâm hồn của ngƣời dân Tày, Thái đã mang
dấu ấn dân tộc.
84
3.2. Sự tƣơng đồng về cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình
Tiếp cận DCTTSH Tày, Thái ở góc độ là một nghệ thuật ngôn từ, chúng tôi nhận
thấy, để xây dựng hình tƣợng nhân vật trữ tình, DCTTSH của hai dân tộc đều cần đến vai
trò của các cách thức thể hiện tình cảm, đóng vai trò nhƣ những công thức diễn đạt góp
phần tạo nên lời vàng ý ngọc cho những chàng, những nàng trong dân ca. Các cách thức
này không chỉ có hiệu quả lớn đối với nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình mà
còn đáp ứng tính đƣa đẩy của trình tự diễn xƣớng hát đối đáp. Qua khảo sát DCTTSH của
ngƣời Tày và ngƣời Thái, chúng tôi nhận thấy có sự tƣơng đồng trong cách thức thể hiện
tình cảm, thể hiện cụ thể thông qua các lối nói nghệ thuật là: bóng gió, khiêm nhƣờng,
cƣờng điệu và cầu khiến.
3.2.1. Lối nói bóng gió
DCTTSH Tày, Thái đều khá phổ biến lối nói bóng gió. Lối nói này thƣờng xuất
hiện trong hai trƣờng hợp: Trong lời mời hát đối đáp hoặc trong những bức thƣ tình, những
lời hát nhắn gửi tình yêu đến đối phƣơng. Ngƣời ta mời nhau hát. Trong lời mời ấy hàm chứa
cả sự ƣớm hỏi về tình trạng yêu đƣơng, hôn nhân của đối phƣơng. Có khi, lời mời còn nhằm
mục đích trêu ghẹo nhau về chồng em, vợ anh mặc dù ngƣời mời biết thừa đối phƣơng còn cô
đơn, lẻ bóng. Tất cả đều nhằm mục đích để cho đối phƣơng chấp nhận tham gia cuộc hát và
chứng minh sự chân thành khi đến với cuộc vui này, chuyện tình duyên này.
Trƣớc hết, lối nói bóng gió này thƣờng xuất hiện nhất trong những bài hát mời –
mở đầu của mỗi cuộc hát. Chẳng hạn, trong lượn cọi của ngƣời Tày, mở đầu cuộc hát là
những lời khuyên mời theo tập quán mến khách của tộc ngƣời để đƣợc đối phƣơng trả lời.
Những lời khuyên mời ấy là cả một cung lượn nải dài tới vài trăm câu. Cách mời lượn là
nêu những lí lẽ để đối phƣơng bất khả kháng, buộc phải lên tiếng trả lời: hay em chê anh
ngƣời xấu kém nên không đáng nói cùng, hay em sợ lời nói mất kim ngân tiền của, hát để
cầu mùa màng, hát kẻo một mai về già, kẻo bƣớm ong hội thời vận có mùa, kẻo một mai về
nhà chồng… Trong khắp hạn khuống của ngƣời Thái, trƣớc khi chính thức đi vào cuộc hát,
các cô gái Thái cũng dò hỏi chàng trai bằng lối nói bóng gió, buộc chàng phải lên tiếng hát để
chứng minh thành ý và tình trạng của mình. Cách nêu lí lẽ nghe ra đầy vẻ khích bác nhƣng lại
không đến mức quá trớn khiến ngƣời đƣợc mời phải mếch lòng, phật ý:
- Bạn hợi dượng rừ ná nhặn dăng/ Nam Tào chẩm sổ rừ tẻ nhằng/ Thai đá hạy
nhằng phân đan đuổi/ Tua cáy nuồm eng mà hết vằn (Bạn hỡi làm sao chẳng đáp lời/
Nam Tào xóa sổ đời hết thôi/ Chết rồi làm sao còn trăng trối/ Gà tơ đặt ván thế là rồi)
[108; tr. 301, 421].
85
- Pên xa păng xương mạy inh hưak chin lê/ Pên xa pưak xương mạy inh phắng/ Mia lả
xắng ma dưn á?/ É cưn chắng bắu cưn té ta vên nhăng chặu lê ha?/ É thâng nẳu ming
chụ chí khửn ma thóm ău quam xăng lê? (Sừng sững đứng nhƣ cây dựa hơi thế anh ơi/
Sừng sững nhƣ cây gỗ dựa vách đất Vợ chàng nhắn đến đứng sao?/ Muốn trở về sao
không về từ còn mặt trời?/ Thƣơng nhớ ngƣời yêu sao lại lên đây dò lời?) [50; tr. 321].
Cùng kiểu bóng gió, ám chỉ ấy, chàng trai Thái lại rủ cô gái cùng hát, cùng vui chơi
nơi sân tình cho thỏa kiếp hoa ban, trọn đời hoa sung, kẻo hoa tàn rồi chẳng bƣớm ong
nào buồn đậu nữa, kẻo ngƣời sẽ theo chồng, ngƣời sẽ già và đời sẽ dài:
Ói pánh á… é lỉn lé lỉn mờ khẻo đăm phắn nhắng thí nớ noọng lả ái á/ Ói pánh căn
ơi… khóp mừ nừng khẻo xáư chì mớ phô lé noọng hặc ái ới/ … Pánh căn ơi… khóp mờ
nừng chí mí lụk nọi chắp nả xở lé pít niêu lé noọng pánh lé/ Ún hướn á… khóp mờ nừng
lúng làng phô noọng cọ chí đá lé noọng hặc ái á (Muốn vui chơi, hãy vui chơi thời răng
trắng, hƣơng phấn còn thơm/ Bởi rồi sẽ đến ngày em nhuộm răng đen về nhà chồng em
yêu ạ/ … Rồi ngày nào đó em sẽ có con mọn bấu ngực áo khó dứt ra/ Em chỉ bƣớc xuống
sàn chồng em cũng sẽ mắng) [134; tr. 255, 379 – 380]
Có những khi, trong một cuộc hát đối, để mời chàng trai hát, cô gái khích bác rằng
chàng trai đã có vợ đẹp nhƣng chƣa chắc quyền quý nên cũng chỉ nhƣ em thôi. Chàng trai
thì tự nhận vợ mình mặt xám nhƣ lông con rái cá, chân cao ngẳng nhƣ chân cuốc, mặt dài
vênh vao nhƣ lƣỡi cày. Ở cuộc hát ấy, vợ là ngƣời có thật và đứng bên cạnh chàng trai,
nhƣng vì tính chất cuộc hát đối, vì thấu hiểu truyền thống hát bóng gió, ám chỉ của đối
phƣơng và vì tính khiêm nhƣờng của bên mình, ngƣời vợ sẽ không hề giận dỗi chàng trai.
Tất cả cùng vui và hiểu đó chỉ là một thủ tục mời nhau hát.
Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy lối nói bóng gió này còn hay gặp trong những
bài hát trao gửi tâm tình trong tình yêu đôi lứa. Ở ngƣời Tày, điều đó thể hiện rõ trong nội
dung của rọi và phong slư. Nội dung của rọi có thể là sự thăm hỏi nhau về công việc và
tình trạng hiện tại, thăm dò, thử thách nhau hoặc khơi gợi lại những kỉ niệm một thời.
Đáng chú ý là những nội dung đó thƣờng đƣợc nhân vật trữ tình nêu ra bằng cách nói
bóng gió, khích bác một cách tế nhị. Nội dung của phong slư lại thƣờng là nỗi nhớ, nỗi
buồn. Lứa đôi yêu nhau nhƣng do hoàn cảnh: nhà xa, công việc, những ràng buộc của
giáo lí phong kiến khiến cho lứa đôi phải sầu buồn vì đợi chờ, nhớ nhung. Họ gửi gắm nỗi
tƣơng tƣ ấy vào những bức thƣ tình. Bức thƣ phải thật dài, dài nhƣ thời gian họ muốn bên
nhau thông qua sự đọc, sự nâng niu bức thƣ mãi không thôi. Cho nên, để kéo dài bức thƣ
ấy, kéo dài thời gian ấy, câu chuyện họ tâm sự với nhau cứ dấm dẳng, không đầu không
cuối nhƣ những câu chuyện muôn thuở của những lứa đôi yêu nhau. Lúc này, lối nói bóng 86
gió phát huy tác dụng. Ngƣời ta tƣởng tƣợng ra những câu nói gây sự hiểu lầm, nghi ngờ
một ngƣời bạn là ngƣời yêu của đối phƣơng, hoặc nghe tin đối phƣơng đã hứa hôn, đã có
ngƣời ở rể. Để rồi, ngƣời ta rơi vào trạng thái buồn, đau khổ (giả) vì những sự tƣởng
tƣợng, hiểu lầm ấy, kích thích cho đối phƣơng phải thanh minh, giải thích cho dài mãi câu
chuyện yêu đƣơng, tâm tình. Cách nói bóng gió trong trƣờng hợp này đóng vai trò là một
phƣơng tiện biểu đạt tình yêu. Chẳng hạn, một chàng trai Tày bóng gió tƣởng tƣợng về
việc cô gái đã có chồng để bày tỏ nỗi cô đơn, đau đớn của mình nếu quả việc đó xảy ra
thật: Slưởng mà móc slảy khát như tơ/ Noọng mừa tẩư pây nưa đuổi mả/ Pỉ nhác cằm
mừa cạ chắc tan/ Tại noọng định rườn kin tốc cón/ Pỉ chắc kin nguộn ón bấu khôm (Nghĩ
tới lòng quặn đau tơ rối/ Em cùng chồng đi dƣới về trên/ Anh gửi thƣ đƣa tin em biết/ Vì
em vội đã lập gia đình/ Lá ngón non ăn thành không đắng) [6; tr. 102, 295].
Hay có khi, chàng trai Thái nói ám chỉ về việc cô gái đã có ngƣời ở rể, cô gái thì
thanh minh: Để em chỉ đƣờng cho anh đi mà rình, bắt cho đƣợc thằng bảo anh là nó đƣợc
ở rể nhà em. Nếu không tìm đƣợc, thì chính anh phải đến làm rể quản đan chài. Nhƣ thế,
từ sự bóng gió của chàng trai, cô gái đã lái nó thành câu chuyện hài hƣớc mà thông qua
đó, bật đèn xanh rằng mình vẫn cô đơn và xem phản ứng của anh chàng. Lại có khi, cô gái
Thái bóng gió về việc chàng trai có nhiều gái theo hoặc đã có vợ ở nhà đóng cửa đợi
mong, đừng nên tâm tình nơi hạn khuống. Từ đó, buộc chàng trai phải lên tiếng chứng
minh cái sự trai tân của mình, đến với sân tình này nhƣ nón lá đi tìm quai chằng. Sự ám
chỉ trong câu hát lúc này giống nhƣ một bộ trắc nghiệm khéo léo về tình yêu để thử lòng
xem đối phƣơng có chân thành, tha thiết hay không.
Lối nói bóng gió, ám chỉ, trong cả DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, nhằm
mục đích giải quyết việc thực thì ít mà mục đích đƣa đẩy, khích tƣớng để đối phƣơng
tham gia cuộc hát, hay nhằm kéo dài bức thƣ tình, hoặc bày tỏ nỗi lòng và kích thích đối
phƣơng chứng minh tình yêu thì nhiều. Nhờ lối nói này mà một bài phong slư có thể kéo
dài hàng trăm câu nhƣ các bài 8, 17, 21, 22 trong sách Phong slư [6; tr. 56 - 58, 101 - 104,
121 - 124, 124 - 127]. Câu chuyện tình yêu, vì thế, cứ nhấm nhẳng đầy thi vị, dài mãi
không thôi nhƣ câu chuyện muôn đời nói mãi không hết, kể mãi không ngừng. Lối nói
bóng gió này xuất phát từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình trong DCTTSH
Tày, Thái dựa theo đặc điểm của diễn xƣớng hát đối đáp.
3.2.2. Lối nói cường điệu
Lối nói cƣờng điệu hay còn gọi là nói quá, là sự nâng lên một mức thái quá quy
mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tƣợng đƣợc mô tả. Trong các bài DCTTSH
Thái, biện pháp này đƣợc sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ngợi ca hoặc biểu đạt tình yêu
87
nồng nhiệt của chủ thể trữ tình đối với đối tƣợng trữ tình. Sự cƣờng điệu ở đây thƣờng
theo hƣớng liên tƣởng tới các đặc điểm của tự nhiên. Chẳng hạn, giọng hát của cô gái
Thái đƣợc chàng trai ca ngợi là có sức mạnh khiến cây rừng đâm chồi mọc lá, núi đá đổ
sập thành bãi rộng cho rồng vàng đến chơi, ngƣời già tóc bạc trở lại tuổi thanh xuân, sao
bắc đẩu dịch xuống gần, thóc tách vỏ thành gạo, khiến muông thú mải nghe mà quên về
tổ, về hang: Ói pánh căn ơi… noọng còi khắp hảư mạy nẳng pá púng nhọt baư lương dớ
noọng lả ái ới/… Ún hướn căn ơi… noọng lả còi khắp hảư noong cắp ná háu làn dớ
noọng hặc ái á/ Ói pánh căn ơi… noọng lả còi khắp hảư pú đán coỏng lùm phạ đắn lúng
pin đon dớ noọng hặc ái ới/ Ói pánh căn á… pin phiêng luông hảư luống cón má hạu dớ
noọng hặc ái á (Em hãy ca hát cho cây ở rừng đâm chồi mọc lá/ … Em thƣơng hãy hát
cho ao với ruộng mình lớn phẳng em yêu nhé/ Em thƣơng hãy hát cho núi đá đổ sập
xuống thành bãi/ Thành bãi rộng cho rồng vàng đến chơi nhé em yêu) [134; tr. 286, 401].
Dƣới con mắt của chàng trai đang yêu, nhan sắc của cô gái đƣợc ví nhƣ rồng lƣợn với khả
năng mê hoặc vạn vật và con ngƣời: Ún hướn căn á… noọng pánh ái quoắc khen lé pan
luống vin ná noọng hặc ái ới…/ Ún hướn căn ới… noọng lả ái nhàng khoắc tin pan luống
xẻo dá noọng hặc ái á… / Ói pánh căn ới… noọng lả ái té cứn đaư hin cọ lướt lé tai tẳng
dá noọng pánh ái á…/ Ói pánh căn á… noọng pánh ái lé nôộc hin nôộc cọ nhắng lứm pík
dá lo noọng hặc ái ới…/ Ún hướn căn ới… noọng pánh ái lé én hin én cọ nhắng lứm vin
dá noọng lả ái á…/ Ún hướn căn á… noọng lả ái lé cứn mướng cay lé hin lẹo lứm nhại dá
lo noọng hặc á noọng pánh ái á (Cánh tay em đƣa đẹp tựa nhƣ rồng bay/ Em thƣơng cất
bƣớc chân tựa nhƣ rồng đang bay lƣợn đó/ Em thƣơng của anh liếc ai thì ngƣời đó ngất
ngây/ Em thƣơng của anh nhìn chim rừng, chim rừng quên vỗ cánh/ Em thƣơng của anh
nhìn chim én, chim én quên cả bay/ Ngƣời mƣờng xa nhìn thấy em liền quên bƣớc chân đi
em yêu của anh à) [134; tr. 231 – 234, 361 – 363].
Lối nói cƣờng điệu phát huy tác dụng cao nhất trong những lời hát ƣớc ao, thề thốt
trong tình yêu. Chia tay hạn khuống rồi, trai gái Thái dặn nhau nhớ về những kỉ niệm,
những tình cảm đã gửi trao ở sân tình. Lời dặn dò thiết tha đƣợc đảm bảo bằng việc không
thể đảo ngƣợc đƣợc sự vĩnh hằng của tự nhiên. Cho nên, lời chàng trai nói về những sự
việc nghịch lí là một cách nói hết sức thông minh và hài hƣớc:
… Thả Nặm Ma hẻng to le chắng lưm/ Nặm Te hẻng to thú chắng lưm/ Pa bú dỏn kin đao
chắng lưm/ Xai khao dỏn kin mook chắng lưm/ Nôộc chok phạ kin ỏi thong xuôn chắng lưm
nơ, peng ơi! (… Chờ sông Mã cạn bằng chiếc đĩa hẵng quên/ Sông Đà cạn bằng chiếc đũa
hẵng quên/ Cá bống bò lƣợn ăn sao hẵng quên/ Cát trắng lƣợn ăn sƣơng mù hẵng quên/ Chim
sẻ trời ăn mía nửa vƣờn hẵng quên nhé tình thƣơng ơi!) [50; tr. 353 - 354].
88
Một loạt những hình ảnh, sự việc ngƣợc đời nhƣ: sông Mã cạn, sông Đà cạn, cá
bống bò lên trời ăn sao, cát trắng lƣợn ăn sƣơng mù, chim sẻ ăn nửa vƣờn mía… đƣợc
đƣa ra nhằm khoa trƣơng, nói quá cho sự khẳng định mạnh mẽ không bao giờ quên nhau
của chàng trai với bạn tình. Cuộc vui chơi bên hạn khuống đã kết thúc, ai về nhà nấy
nhƣng tình cảm của họ thì vẫn còn quấn quýt, vấn vƣơng nơi sân tình. Lời dặn dò vì thế
có ý nghĩa nhƣ một lời thề quyết tâm nhớ nhau trọn đời. Hơn thế, cách nói quá, thậm
xƣng này giúp cho cảm xúc thực của chủ thể trữ tình đƣợc bộc lộ rõ ràng hơn, gây đƣợc
ấn tƣợng, sự hấp dẫn đối với ngƣời nghe.
Khoa trƣơng, phóng đại cũng là biện pháp phổ biến trong những bức phong slư
của nam nữ thanh niên Tày xƣa. Đây là cách nói để họ chứng minh tình yêu chân thành và
to lớn của mình dành cho đối phƣơng. Chẳng hạn, họ luôn dùng các việc làm trái logic để
cam đoan rằng vì ngƣời yêu mà mình sẽ làm đƣợc những việc không thể tồn tại trong đời
thƣờng nhƣ đắp ao trên ngọn cây để thả cá, lấy nƣớc nấu thành dầu thắp, cho nƣớc chảy
lên đỉnh núi, bắt thuyền đang xuống thác quay đầu trở lại, ngồi ăn cơm trên ngọn cây
sấu… Chàng trai trong bài ca sau đây dặn dò ngƣời yêu nếu nhất tâm yêu nhau thì việc
ngƣợc đời nhƣ đan sọt đựng nƣớc mƣa cũng có thể làm đƣợc: Sị lo bấu nhất tâm rừ
dưởng/ Nhất tâm dá pây cảng tàng đai/ Thương căn cỏi hết cuôi to nặm/ Hắp bó hẩư mền
chẳng như thôm (Một lòng chớ nói đi nói lại/ Hãy đan sọt để đựng nƣớc mƣa/ Đắp nƣớc
mạch để thành ao lớn/ Cho lý ngƣ hội rộn xuống lên) [108; tr. 196, 391].
Rõ ràng, cƣờng điệu, phóng đại là một lối nói ấn tƣợng, giúp diễn đạt một cách
mạnh mẽ cảm xúc, đồng thời thể hiện tƣ duy vừa thông minh vừa hài hƣớc của chủ thể trữ
tình trong DCTTSH Tày, Thái. Ngƣời Tày, Thái đều là cƣ dân văn hóa thung lũng. Môi
trƣờng sống của họ gần gũi với tự nhiên. Đó là điều kiện để cho lối tƣ duy cƣờng điệu,
phóng đại theo hƣớng liên tƣởng đến các hình ảnh tự nhiên của họ đƣợc nảy nở, phát triển
và phát huy hiệu quả trong việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình trong DCTTSH.
3.2.3. Lối nói cầu khiến
Trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, lời hát của nhân vật trữ tình mang
sắc thái cầu khiến rất rõ ràng, đặc biệt là lời hát thuộc các chặng hát khuyên mời, hát thề
nguyền, hát dặn của cuộc hát đối đáp. Sắc thái cầu khiến, mệnh lệnh đƣợc coi nhƣ đặc
trƣng của các bài hát đó. Chẳng hạn, ngƣời Tày lượn mời:
… Tiểng ngoàng rọng riệm sửa càng mon/ Tiểng ngoàng rọng riệm mon càng sửa/
Tiểng lượn khoan pây ná đảy nòn (… Ve sầu gọi tha thiết đừng sửa gối đầu/ Ve sầu vọng
thiết tha đừng sửa gối/ Dậy lƣợn, khan thôi đừng ngủ ngay) [108; tr. 45, 191].
89
Sắc thái cầu khiến đƣợc tạo nên bởi sự xuất hiện của các động từ cầu khiến nhƣ: hãy,
đừng, chớ, khuyên… và nhóm từ chỉ dấu hiệu nhận biết nhƣ: sẽ, nhé…
- Dá hẩư pỉ nằm nỉ rang lai/ Hại khan pjá tang nơi slắc tiểng (Đừng để anh nằn nì
thêm nữa/ Hãy lƣợn cho một tiếng thỏa lòng) [117; tr. 24, 333].
- Bạn hợi cỏi ngòi thương căn đuổi/ Một mèng than vản bạn cỏi thương (Bạn hỡi cùng
thƣơng nhau với nhé/ Bƣớm ong kêu xót bạn hãy thƣơng) [108; tr. 300].
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 500 bài DCTTSH Tày với 4216 câu đƣợc lựa chọn từ
các công trình: Phong slư [6], Iếu – dân ca dân tộc Tày [22], Rọi (Vốn cổ văn học dân
tộc Tày Nùng) [99], Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương [108], Lượn cọi
[117], Lượn rọi - hát đối đáp của người Tày [128], 286 bài DCTTSH Thái với 6068 câu
đƣợc lựa chọn từ các công trình: Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam [50],
Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (mùa xuân mùa hoa) [134],
Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So
[121]. Khi thống kê sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến, chúng tôi căn cứ trên
bản tiếng Tày, Thái, bản tiếng Việt chỉ dùng để tham khảo, đối chiếu về nghĩa. Chúng tôi
chọn đơn vị thống kê là số lần xuất hiện của từ, khi quy sang tần suất sẽ đƣợc tính theo
công thức: số lần xuất hiện/ tổng số câu đƣợc khảo sát * 100% và có kết quả nhƣ sau:
Bảng 3.1. Sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến
Tần suất STT Từ mang sắc thái cầu khiến Số câu đƣợc khảo sát Số lần xuất hiện
Tày
Hãy (hại, cỏi) 4216 1 480 11.4%
Đừng (dá) 4216 2 159 3.4%
4216 3 445 10.6% Khuyên (khuyên, khuyên mừa, cạ mừa)
Thái
6068 4 358 16.9%
Hãy (không có từ tƣơng đƣơng trong tiếng Thái, diễn tả bằng cách lặp lại động từ)
Đừng (na) 6068 5 307 5.1%
Sẽ (chi) 6068 6 128 3.9%
Nhé (nờ, lò, lộ...) 6068 7 356 5.9%
Nhìn vào bảng trên, chúng tôi thấy sự ở DCTTSH của cả ngƣời Tày và ngƣời Thái,
các từ mang sắc thái cầu khiến có sự xuất hiện khá dày đặc. Sự kết hợp giữa các từ nhƣ
90
trên với tình cảm yêu thƣơng ẩn giấu trong lời yêu cầu làm cho lời hát vừa mạnh mẽ vừa
có sức lan tỏa, lay động tâm hồn đối tƣợng trữ tình. Kết thúc cuộc vui chơi ở hạn khuống,
trai gái Thái tha thiết dặn nhau đừng quên: Hặc xơng căn/ Cảu chí lựm/ Xíp chí
lựm…[121; tr. 327] (Đã yêu nhau/ Chín đừng quên/ Mƣời đừng quên…). Lời dặn chân
thành mà tha thiết, cứ vang lên nhƣ một điệp khúc khắc sâu vào tâm khảm biết bao đôi
trai gái đã từng rong chơi một thời hoa nở trăng tròn bên sân tình năm ấy. Để rồi: Xoong
hạu tai mợ mợng bun chại cói ha lả nờ/ Xoong hạu tai mợ mợng phà chại cói ha nhịnh
nờ/ Chại ha nhịnh đởi khôống phải/ Chại thả nhịnh đởi khôống may nờ (Đôi ta chết lên
Mƣờng Bun anh hãy tìm em nhé/ Đôi ta chết lên trời thì anh hãy tìm em/ Anh hãy tìm em
nơi sân sợi/ Anh hãy đợi em chỗ sân thêu…) [121; tr. 496, 721].
Yêu nhau nhƣng chẳng lấy đƣợc nhau, cô gái dặn dò chàng trai trƣớc khi rủ nhau
cùng chết. Lời dặn dò đợi nhau nơi sân sợi, sân thêu – nơi hẹn hò, tình tự của họ khi còn
sống, kết hợp với sự lặp lại của những cụm từ: anh hãy… anh hãy… khiến cho lời dặn dò
trở nên ám ảnh đến đau lòng.
Lối nói cầu khiến trong đƣợc sử dụng trong lời hát của nhân vật trữ tình trong
DCTTSH Tày, Thái xuất phát từ ba nguyên nhân. Thứ nhất, lối nói này bắt nguồn từ trình
tự cuộc hát của hai dân tộc. Lệ hát của ngƣời Tày, Thái, bao giờ cũng có các chặng hát
khuyên mời, hát thề nguyền, hát dặn. Vào cuộc hát, họ hát mời gọi, hát tán tỉnh, hát thề
nguyền, đến khi phải chia li, giã biệt hoặc không đƣợc yêu nhau nữa, họ hát nán chân, hát
dặn, hát khuyên, hát chờ đợi… Yêu cầu nội dung của các lời hát này đã quy định lối nói
cầu khiến trong DCTTSH Tày, Thái. Thứ hai, tình yêu luôn đi kèm với các trạng thái
tƣơng tƣ, nhớ nhung, thề thốt… Vì thế, khi gặp nhau, họ luôn căn dặn ngƣời yêu giữ lòng
chung thủy và suy nghĩ đến tƣơng lai tình yêu của đôi lứa. Thứ ba, lứa đôi Tày, Thái
không tự quyết định đƣợc hạnh phúc của cuộc đời mình. Sống trong chế độ gia đình phụ
quyền, việc hôn nhân của họ phụ thuộc nhiều vào cha mẹ, họ hàng, vào quan điểm môn
đăng hộ đối. Cho nên, họ phải dặn dò nhau hãy yêu, hãy nhớ cho đến hết kiếp, thậm chí
cả sau khi chết đi rồi. Vì những nguyên nhân trên, lối nói cầu khiến là lối nói phù hợp và
hiệu quả đối với việc thể hiện các nội dung đƣa đẩy cuộc hát, khẳng định tình yêu hoặc
dặn dò bạn tình của nhân vật trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái.
3.2.4. Lối nói khiêm nhường
DCTTSH Tày, Thái đều sử dụng lối nói khiêm nhƣờng, đặc biệt rõ ở các bài hát chào
mời. Lối nói này bắt nguồn từ truyền thống chuộng lịch sự, lịch lãm trong việc cƣ xử của
ngƣời Tày, Thái và từ yêu cầu nội dung của chặng hát này trong diễn xƣớng.
91
Ở chặng hát này, ngƣời hát sẽ tự nhận mình là xấu, nghèo hèn, kém cỏi, không xứng
với đối phƣơng, đồng thời đề cao đối phƣơng bằng cách gán cho đối phƣơng thân phận
cao quý, gia cảnh giàu có. Điển hình, trong cuộc vui chơi ở hạn khuống, khi các chàng trai
hát xin thang lên sàn chơi, các cô gái sẽ hát về chiếc thang hỏng, mối mọt, không chắc
chắn. Các chàng trai xin ghế ngồi, các cô gái sẽ hát về việc không có ghế đan, ghế mây để
ngồi, đành mời các chàng ngồi ghế nệm hoặc ngồi đòn kê. Hãy nghe các cô gái Thái trong
cuộc vui chơi ở sân tình tự hạ thấp bản thân mình:
Khôống mở noọng khôống đin đăm/ Khôống mở noọng tặm mạy ở/ Khôống khỏ bớ mí
báo xao tom/ Bớ đăng đảy, bớ xun pin/ Mạy đăm họt nó ngựn bớ đáng/ Nặm pắn họt nó
khặm bớ xum/ Bók đôông hại dản bớ xơng/ Va đôông lôông dản bớ đết/ Mở noọng phặn
cáy cả/ … Mở ái nả cáy cón/ Cọn mạy ngá/ Vả lụk tạo khắm đáp kin mợng (Sân của
chúng em đất đen/ Lửa đƣợc đốt bằng cây sậy/ Sân nghèo chẳng có trai gái tới/ Củi không
thành, đốt không nên/ Gỗ đen đâu sánh đƣợc măng vàng/ Nƣớc lã sao so đƣợc măng bạc/
Bông hoa xấu e chẳng thể quyến rũ/ Đóa hoa thô ai thèm ngắt cầm tay/ Chúng em nòi gà
dân/ … Các anh nòi gà chọi/ Đậu cây ngà/ Dòng giống tạo cầm gƣơm quản đất) [121; tr.
333, 547].
Cũng cách nói ấy, trong các cung lượn nải, khi mời nhau hát, ngƣời Tày tự nhận
mình hèn kém, chẳng dám cất tiếng lượn cùng khách. Ấy không hẳn vì tự ti mà là sự
khiêm nhƣờng cần thiết theo truyền thống của tộc ngƣời khi đối diện với khách: Mạy
khoang pjúc khửn tẩư cằn nà/ Bản nọi rườn đeo cần xẩu xa/ Bản nọi rườn đeo cần xẩu
sắc/ Xẩu sắc là thôi ná khảu mà (Cây trúc trồng mọc dƣới đầu bờ/ Xóm nhỏ, nhà ít, ngƣời
xấu xa/ Nhà ít, xóm nhỏ toàn ngƣời xấu/ Ngƣời xấu thời thôi chẳng dám thƣa) [108; tr.
300, 421].
Vì sự khiêm nhƣờng ấy của bên chủ mà khách phải dùng đến sự viện trợ của lối nói
bóng gió, khích đối phƣơng cùng tham gia vào cuộc lượn. Cũng vì truyền thống khiêm
nhƣờng, lịch sự mà khách sẽ ca ngợi gia cảnh, bản làng của đối phƣơng bằng lối nói khoa
trƣơng, phóng đại: bản làng giàu nhất châu huyện, cọc bên mỏ nƣớc là cọc rồng, hòn đá
cũng phải là đá tròn đuôi bạc, sƣ tử vác côn đứng hai bên đƣờng vào làng… Sự hạ thấp
bản thân, nâng cao đối tƣợng nhƣ thế có tác dụng đƣa đẩy câu chuyện, nhiều khi trở thành
lí do để khơi mào cuộc hát.
Có khi, ngƣời Tày lại dùng cách nói khiêm nhƣờng để tôn vinh ngƣời mình yêu lên
hàng quý tộc. Họ gọi ngƣời yêu là quân tử, quan anh, là nàng đẹp, cƣời chua… với biết
bao thƣơng yêu, trìu mến. Ở trƣờng hợp này, lối nói khiêm nhƣờng không còn giữ chức
92
năng đƣa đẩy câu chuyện nữa mà có tác dụng thể hiện sự tôn trọng, yêu quý nhất mực với
đối phƣơng.
Một điều đáng lƣu ý là các lối nói nghệ thuật nhƣ bóng gió, khiêm nhƣờng, cƣờng
điệu, cầu khiến không phải chỉ có ở DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, dân ca các dân
tộc khác không có. Dân ca của ngƣời H’Mông, Dao, Sán Chí… cũng có đặc điểm này.
Điều đáng nói là, ở DCTTSH Tày, Thái, tính diễn xƣớng của dân ca với tƣ cách là một
nghệ thuật biểu diễn khá nổi bật, đặc biệt là ở hình thức hát cuộc. Các cuộc hát này ở dạng
thức phát triển, có tính tổ chức cao với lề lối rõ ràng, dần tiến tới chuyên nghiệp hóa. Các
chặng hát đƣợc tách bạch, rõ ràng. Ở từng chặng, ngƣời hát bắt buộc phải sử dụng đến các
lối nói nghệ thuật trên để đáp ứng yêu cầu nội dung của chặng hát. Trong khi đó, diễn
xƣớng dân ca của nhiều dân tộc cũng có diễn xƣớng cuộc song còn ở dạng thức chƣa phát
triển hoặc tồn tại ở dạng diễn xƣớng lẻ. Vì thế, các “quy định ngầm” phải sử dụng đến các
lối nói nghệ thuật ở từng chặng hát của diễn xƣớng chƣa phổ biến. Mặt khác, do đặc điểm
tƣ duy, truyền thống văn hóa tộc ngƣời nên ở DCTTSH Tày, Thái, các lối nói nghệ thuật
này thể hiện đậm nét hơn ở dân ca nhiều dân tộc khác.
Nhƣ vậy, sự tƣơng đồng về các cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình trong
DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái là rất rõ. Từ những đặc điểm của phần lời trong
dân ca nhƣ biện pháp cƣờng điệu, nghĩa hàm ngôn, nhóm từ mang sắc thái cầu khiến, lối
xƣng hô khiêm nhƣờng…, tác giả dân gian Tày, Thái đã nâng nó lên thành những lối nói
nghệ thuật phổ biến trong các bài hát của mình, tạo thành những công thức mang tính
truyền thống cho việc bộc lộ tâm tƣ, tình cảm của nhân vật. Điều này xuất phát từ nhu cầu
thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình và từ tính chất của các chặng trong hát đối đáp.
Việc sử dụng lối nói nghệ thuật nào hay kết hợp linh hoạt các lối nói nghệ thuật trong một
bài hát đều do hai nguyên nhân trên chi phối.
3.3. Sự tƣơng đồng trong việc sử dụng biểu tƣợng hoa
Con ngƣời nói chung, ai cũng yêu hoa. Hoa đã trở thành một biểu tƣợng trong đời
sống của con ngƣời. Ngƣời Tày, Thái không phải ngoại lệ. Điều đáng nói là, trong khi
sáng tạo DCTTSH, ngƣời Tày, Thái đều dành cho biểu tƣợng hoa vị trí xứng đáng với
mức độ sử dụng nhiều và các hƣớng nghĩa phong phú.
Khảo sát 500 bài DCTTSH Tày với 4216 câu, chúng tôi thấy biểu tƣợng hoa xuất
hiện khá dày đặc với 371 lần, tƣơng đƣơng tần suất 8,8%. Tình hình ấy tƣơng tự ở
DCTTSH Thái khi với 286 bài, 6068 câu, biểu tƣợng hoa xuất hiện 465 lần, ứng với tần
suất 7,6%
93
Trong DCTTSH Tày, Thái, hoa mang các hƣớng nghĩa sau đây: Thứ nhất, hoa là
thƣớc đo của mọi tiêu chuẩn. Đó có thể là tiêu chuẩn về vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ, tiêu
chuẩn của tình yêu, tiêu chuẩn của đạo đức, của phẩm chất, tiêu chuẩn thân phận. Thứ hai,
hoa là thời gian. Thứ ba, hoa chính là con ngƣời.
Ở hƣớng nghĩa thứ nhất, hoa đƣợc coi là chuẩn mực dùng để so sánh với vẻ đẹp bề
ngoài của con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Nhan sắc của ngƣời phụ nữ vốn đƣợc coi
là đại diện cho vẻ đẹp của con ngƣời. Vẻ đẹp ấy tỏa sáng nhất khi cô gái đang độ xuân thì.
Đó là vẻ đẹp của của sự trẻ trung, của sức sống tuổi thanh xuân. Nhan sắc của họ đƣợc ví
với hoa. Hơn thế, vẻ đẹp của cô gái đẹp nhất trong con mắt những chàng trai đang yêu.
Bên cạnh đó, hoa còn đƣợc coi là tiêu chuẩn của tình yêu. Sự trong sáng hay thắm
thiết, hoặc nhạt nhẽo, vô vị của tình yêu đều đƣợc ví với hƣơng sắc của các loài hoa.
Mặt khác, ngƣời Tày, Thái cho rằng hoa chính là tiêu chuẩn của đạo đức, của
phẩm chất, của thân phận. Ngƣời Tày coi hoa phặc phiền là hoa của lí tƣởng, tƣợng trƣng
cho vẻ cao quý của muôn hoa, cho tình yêu trẻ mãi không già và hạnh phúc muôn đời bất
diệt… Ngƣời Thái coi hoa mạ, hoa cái nhƣơng là hoa của sự chín chắn, trƣởng thành, sự
đằm thắm của ngƣời phụ nữ đã có chồng: Ói pánh căn á… hák và xao mí phô lẹo ai hom
bók mạ ná noọng á…/ Ói pánh căn ới… hák và xao mí mả lẹo hom bók cái nhương dá
noọng lả ái ới… (Nhƣng, gái có chồng rồi mùi thơm hoa mạ em à/ Gái có chồng rồi mùi
thơm hoa cái nhƣơng em ơi) [134; tr. 226 – 230, 358 – 360].
Đặc biệt, bên cạnh các loài hoa đẹp, hoa thơm biểu trƣng cho vẻ đẹp, cho phẩm
chất mang ý nghĩa tích cực của con ngƣời nhƣ hoa rồm, hoa mạ, hoa phón, hoa mẫu đơn,
hoa phặc phiền… thì có một loài hoa lại gắn với hƣớng nghĩa tiêu cực là hoa của cây
ngón. Trong DCTTSH Tày, hoa ngón biểu trƣng cho sự oan nghiệt, đắng cay, tủi nhục.
Nhà nghiên cứu Vi Hồng từng cho rằng: “Hình tƣợng hoa ngón trong sli lượn nói chung
để chỉ những số phận cay cực do xã hội tàn nhẫn bất công và bất nhẫn gây ra. Đó là hình
tƣợng hoa cất lên tiếng nói tố cáo” [162; tr. 98 – 100].
Phổ biến hơn, trong cả DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, hoa ngón biểu
trƣng cho sự bế tắc của kiếp ngƣời hoặc sự tuyệt vọng trong tình yêu:
Chí kin nguộn bók lương tai cón/ Chí kin nguộn bók lón tai xia/ … Tai khửn phạ
hẳư khói chua nhing xia cón lỏ, peng ơi! (Sẽ ăn nguộn hoa vàng chết sớm/ Sẽ ăn nguộn
hoa trắng chết đi/ … Chết đi cho thoát nỗi khổ thân em chàng ơi!) [50; tr. 275 - 276]
Xuất phát từ chu trình tàn nở của một bông hoa và vẻ đẹp, hƣơng sắc của bông hoa
ấy trong chu trình của mình, ngƣời Tày đã trao cho hoa hƣớng nghĩa biểu trƣng cho thời
94
gian. Theo đó, thời hoa nở đƣợc hiểu là thời thanh xuân, tuổi trẻ của con ngƣời. Bởi thế,
lứa đôi Thái đã khuyên nhau vui chơi để tuổi xuân trôi qua không uổng phí: Ún hướn căn
ơi… xoong háu pì cắp noọng còi lỉn au chồ bók bua cớn nớ noọng lả ái á…/ Ún hướn
căn á… xoong háu pì noọng còi lỉn au chồ bók ban cớn pánh căn á…/ Pánh căn á…
xoong háu pì noọng còi lỉn au pan bók đứa cớn pánh căn ới… (Anh và em hãy vui chơi
cho thỏa đời hoa sen em nhé/ Hai ta hãy vui chơi cho thỏa kiếp hoa ban/ Hai ta hãy vui
chơi cho trọn đời hoa sung em yêu ạ) [134; tr. 252 – 256, 377 – 380].
Thứ ba, ngƣời Tày, Thái coi hoa liên quan đến việc sinh ra con ngƣời. Tín ngƣỡng
dân gian Tày quan niệm con ngƣời vốn đƣợc sinh ra từ những bông hoa trong vƣờn của
mẹ Hoa. Mẹ Hoa sinh ra, mẹ Hoa đặt lại (Mẻ Bjoóc păn mà, Me Va păn hẩu). Mẹ Hoa
mang hoa đầu thai vào lòng ngƣời mẹ trần gian. Khi bông hoa hộ mệnh rụng là ngƣời chết
trẻ, yểu mệnh, bất hạnh. Tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Thái quan niệm con ngƣời sinh
ra phải đi qua cầu hoa.
- Tày: Slinh mà đảy kỉ khi lại tẻo/ Ỷ như nậy bjoóc hẻo tả co (Sinh xuống đƣợc
bao lăm lại về/ Giống nhƣ bông hoa héo bỏ cành) [117; tr. 182, 496].
- Thái: Ún hướn căn ơi… khum hảư thiên pì lúng táng cáu ba mướng cứn puốn
dan tính tười ná noọng pánh ái á… (Anh xuống theo đƣờng cầu hoa mà sao đời buồn tủi)
[134; tr. 324 - 326].
Trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, biểu tƣợng hoa đƣợc sử dụng với
mức độ dày đặc, cao nhất trong số các biểu tƣợng đƣợc sử dụng: 387 lần/4216 câu của
500 bài DCTTSH Tày (chiếm 9.2%), 426 lần/6068 câu của 286 bài DCTTSH Thái
(chiếm 7%). Điều đó cho thấy cả hai tộc ngƣời đều dành nhiều tình cảm cho hoa. Họ đã
chọn hoa – một đối tƣợng mang tính cao đẹp, thanh tú để tẩy rửa, thanh lọc tâm hồn của
mình, thôi thúc họ sống một cuộc sống trong sạch, đẹp đẽ và cao thƣợng.
Những sự tƣơng đồng nhƣ trên về việc sử dụng biểu tƣợng hoa trong DCTTSH
Tày, Thái thể hiện sự gần gũi trong tâm lí, tƣ duy của những cƣ dân từng cùng chung một
cơ tầng văn hóa nguyên thủy, văn hóa Bách Việt xa xƣa. Ấy là tâm lí yêu hoa, coi hoa là
chuẩn mực, là con ngƣời. Những đặc điểm này có ảnh hƣởng đến sự chuyển hóa của biểu
tƣợng hoa từ văn hóa dân gian vào trong DCTTSH. Về nguồn gốc của biểu tƣợng hoa,
chúng tôi thấy rằng, biểu tƣợng hoa xuất phát từ môi trƣờng sống, thực tại khách quan tồn
tại xung quanh con ngƣời. Thực tại đó với những sự vật, hiện tƣợng đa dạng chính là đối
tƣợng của sự nhận thức của con ngƣời. Nó có tác động trực tiếp vào cơ quan nhận thức
của con ngƣời, quy định sự hình thành biểu tƣợng. Nguồn gốc của biểu tƣợng hoa chính
95
là các mẫu gốc hoa, tức hoa trong thực tại khách quan và những ý niệm, sự nhận thức độc
đáo, khái quát về hoa của con ngƣời. Đời sống ngƣời Tày, Thái trong thực tế gắn bó nhiều
với thiên nhiên thuộc dạng sinh thái thung lũng, trong đó bao gồm các loài hoa đặc trƣng
nhƣ hoa mạ, hoa phặc phiền, hoa phón, hoa vẻ, hoa cái nhƣơng… Gắn bó với những loài
hoa ấy, ngƣời Tày, Thái yêu hoa và có nhiều liên tƣởng độc đáo với nhiều mặt của đời
sống con ngƣời. Những điều này đã làm sản sinh ra biểu tƣợng hoa trong văn hóa dân
gian Tày, Thái, bao gồm biểu tƣợng gốc và biểu tƣợng phái sinh. Cụ thể, xuất phát từ mẫu
gốc hoa trong tự nhiên, thông qua các bình diện văn hóa cộng đồng, mẫu gốc hoa chuyển
hóa thành các biểu tƣợng gốc. Biểu tƣợng gốc hoa biểu hiện sự nhận thức sáng tạo, tổng
hợp, khái quát, cảm tính của con ngƣời về hoa và các hiện tƣợng liên quan đến hoa, mối
quan hệ giữa hoa và các hiện tƣợng đó với thực tế khách quan phong phú, đa dạng. Theo
dòng thời gian, các biểu tƣợng gốc này lại tiếp tục đƣợc sáng tạo lại, tái tạo thành những
biểu tƣợng phái sinh ở từng lĩnh vực của đời sống xã hội nhƣ tôn giáo, tín ngƣỡng, phong
tục, tập quán, lịch sử, xã hội, nghệ thuật dân gian… Ở lĩnh vực nghệ thuật dân gian, biểu
tƣợng hoa lại đƣợc tổ chức lại thành những nhánh nhỏ hơn ở từng bộ phận nhƣ âm nhạc,
hội họa, điêu khắc, vũ đạo, văn học… và rồi nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa ở những cấp bậc ngày
càng cụ thể và thu hẹp hơn nhƣ DCTTSH. Nhƣ thế, biểu tƣợng hoa trong DCTTSH Tày,
Thái là một biểu tƣợng phái sinh, biểu hiện quá trình sáng tạo lại, tổ chức lại biểu tƣợng
gốc Hoa trong một bộ phận trữ tình dân gian dƣới tác động của tâm lí, tình cảm, tƣ duy,
tín ngƣỡng… tộc ngƣời.
Chẳng hạn, ngƣời Tày, Thái đều coi hoa có liên quan đến việc sinh ra con ngƣời.
Ở thực vật nói chung, hoa chính là cơ quan sinh dục có chức năng sinh sản. Từ rất sớm,
thông qua sự quan sát quá trình đơm hoa kết trái, con ngƣời đã nhận ra đƣợc vai trò của
hoa trong quá trình sinh sôi, nảy nở của thực vật. Họ thấy rằng hình dáng của hoa giống
với sinh thực khí của nữ giới. Từ hình dáng, vai trò của hoa, kết hợp với nguyện vọng sinh
sôi của ngƣời dân, hoa đã trở thành một biểu tƣợng trong tín ngƣỡng phồn thực của con
ngƣời từ thời nguyên thủy. Ngƣời Thái tin rằng con ngƣời sinh ra phải đi qua đƣờng cầu
hoa. Ngƣời Tày lại coi hoa chính là ngƣời, ngƣời chính là hoa. Tác giả Đƣờng Tiểu Thi
trong một công trình nghiên cứu có cho rằng ngƣời Choang - những ngƣời đồng tộc với
ngƣời Tày, Thái cổ - tin rằng có mẹ Hoa quản lí vƣờn hoa. Bà đƣa hoa đến nhà nào, nhà
nấy sẽ có con. Hoa đỏ, hoa vàng là con trai; hoa trắng, hoa bạc là con gái. Khi hoa hộ
mệnh bị bệnh thì con ngƣời dƣới trần cũng sẽ ốm đau. Mẹ Hoa trồng hai bông hoa hộ
mệnh ở cùng một chỗ thì dƣới trần nam nữ sẽ kết duyên vợ chồng. Con ngƣời sau khi chết
96
lại trở về làm hoa trong vƣờn hoa của mẹ Hoa. Vì thế, mẹ Hoa là vị thần tối cao cai quản
việc sinh đẻ và nhân duyên của con ngƣời. Thần thoại của ngƣời Choang cũng kể về hoa
trong mối liên quan với tín ngƣỡng phồn thực rằng tổ mẫu Lục Giáp của họ đi ra từ bông
hoa [143; tr. 179 – 181]. Tác giả Vũ Anh Tuấn cũng ghi nhận rằng: “Ngƣời Tày cổ quan
niệm có một đấng chí tôn vô thƣợng là mẹ Hoa. Mọi cuộc đời trên thế gian này đều tùy
thuộc ý chí mẹ… Quan niệm Tày còn cho hoa là biểu tƣợng sự sinh sôi. Hoa tƣợng trƣng
cho cái phần đƣợc coi là tinh túy, bền vững của một con ngƣời” [160; tr. 117]. Ý nghĩa
của biểu tƣợng hoa phái sinh ở phƣơng diện tín ngƣỡng nhƣ này sẽ đi vào DCTTSH Tày,
tạo thành một hƣớng nghĩa cho biểu tƣợng hoa trong DCTTSH. Nhƣ thế, biểu tƣợng hoa
trong DCTTSH Tày, Thái là một trong những bình diện phái sinh của biểu tƣợng gốc hoa.
Bên cạnh đó, sự chuyển hóa của biểu tƣợng hoa từ văn hóa dân gian đến DCTTSH
Tày, Thái là quá trình mã hóa các ý niệm bằng các kí hiệu ngôn ngữ. Các kí hiệu ngôn
ngữ này không đơn thuần là để gọi tên biểu tƣợng hoa mà còn là những kí hiệu ngôn ngữ
nghệ thuật đặc biệt để hƣớng tới những sự vật không phải là nó (trong thực tế khách quan)
mà là một sự vật, hiện tƣợng, ý niệm rộng lớn, khái quát hơn nhiều trong môi trƣờng văn
hóa tộc ngƣời. Sự chuyển hóa này đƣợc biểu hiện qua sự thống nhất giữa phƣơng diện miêu
tả và phƣơng diện ý nghĩa. Khi chuyển hóa từ văn hóa dân gian vào DCTTSH, biểu tƣợng
hoa sẽ chịu ảnh hƣởng của các đặc điểm ngôn ngữ, thể loại dân ca, khiến cho biểu tƣợng
hoa mang các hƣớng nghĩa phong phú và gắn liền với tƣ duy, tình cảm của tộc ngƣời.
3.4. Sự tƣơng đồng về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc
vào diễn xƣớng
3.4.1. Trình tự của diễn xướng hát đối đáp
Về cơ bản, trình tự một cuộc diễn xƣớng hát đối đáp DCTTSH trong thực tế của
ngƣời Tày và ngƣời Thái giống nhau. Có ba chặng hát chính là: Chào mời – Tỏ lòng -
Giã biệt. Đây là ba chặng không thể thiếu. Nó phù hợp với truyền thống lịch sự, khiêm
nhƣờng của đồng bào Tày, Thái, đồng thời phù hợp với nguyên tắc của một giao tiếp
mang tính đối thoại. Một cuộc giao tiếp hai bên quy định đến có chào, đi có tạm biệt. Và
tất nhiên, đã có giao tiếp là phải có trao đổi thông tin. Ba chặng hát của diễn xƣớng hát đối
đáp đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này. Tất nhiên, ba chặng hát này chỉ là ba chặng cơ
bản của một cuộc hát. Ở từng loại hình DCTTSH của mỗi dân tộc, các chặng hát trên có
thể đƣợc cụ thể hóa thành nhiều chặng hết sức sinh động và phong phú.
Ở ngƣời Tày, một cuộc lượn thƣờng gồm các bƣớc nhƣ sau: 1/ Hát chào mời (gồm
các bài khuyên mời và chúc mừng) nhằm mời nhau hát và ca ngợi bên chủ theo truyền
97
thống lịch sự của con ngƣời. 2/Hát tỏ lòng: Đây là bƣớc chính, quan trọng nhất và chiếm
nhiều thời gian nhất của cuộc lượn. Bƣớc này gồm hai phần: Phần thứ nhất bao gồm
những bài hát theo khuôn mẫu sẵn nhƣ lượn trầu, lượn đố, lượn bốn mùa, lượn 12 tháng,
lượn các đời vua với mục đích thi tài lượn giữa đôi bên (nghiêng về tài năng ghi nhớ,
thuộc lòng). Phần thứ hai bao gồm những bài ứng tác tại chỗ, nhằm trao đổi tâm tƣ, tình
cảm với nhau. 3/ Hát li biệt (lượn phít pjạc) bao gồm các bài hát nhắn nhủ, tạm biệt.
Ở đây, chúng tôi xin lấy diễn xƣớng lượn slương làm ví dụ. Tuy đây là một loại
dân ca giao duyên, nhƣng nó đã vƣợt lên trên nhu cầu làm quen, tìm hiểu, tâm sự yêu
đƣơng buổi ban đầu chớm hé nở nhƣ một số loại dân ca giao duyên khác. Nó nghiêng về
bộc bạch tâm tƣ, tình cảm của lứa đôi yêu nhau đã đậm sâu với những nỗi đau thƣơng
cách biệt, ƣớc ao về sự chung đôi. Lượn slương đã sống trong đời sống sinh hoạt của đồng
bào Tày từ bao đời nay với tƣ cách một diễn xƣớng, một sinh hoạt có tính cách hội. Lượn
slương gồm các chặng hát theo một trình tự chặt chẽ, có quy cách hẳn hoi. Cụ thể, khi có
khách đến chơi nhà, thanh niên trong bản đến xin phép chủ gia đình để tham gia lƣợn. Có
khi, chủ nhà đi mời thanh niên trong bản đến lƣợn để gia đình, làng xóm thêm vui vẻ. Một
buổi lƣợn bao giờ cũng có lề lối của nó. Cuộc hát bao gồm hai bên: chủa bản và xiên lí.
Chủa bản, tức chủ nhà, nhƣng không có nghĩa là chủ gia đình, mà nghĩa là phía nam nữ
thanh niên thuộc bản đó. Xiên lí nghĩa là khách. Mở đầu là những khúc lượn tuộng nhằm
khơi mào cuộc hát, ca ngợi thiên nhiên, bản làng yên ả, thanh bình xứ Tày, xin phép bản
làng và tạ ơn gia chủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc hát.
Nam nữ thanh niên xin phép gia chủ để đƣợc phép lượn dù đã đƣợc sự đồng ý của
gia chủ từ trƣớc. Khi đƣợc sự tán thƣởng của gia chủ và các bậc già cả trong thôn xóm thì
cuộc hát sẽ chính thức bắt đầu. Lúc này, sau các bài lượn nải (hát mời) của chủa bản, xiên
lí sẽ lượn đáp với những nội dung chúc mừng nhau, thăm quê quán, ca ngợi cảnh vật thiên
nhiên của xứ sở, mời nhau ăn trầu, hút thuốc… Dần dần, chỉ còn từng đôi trai gái lượn đối
đáp với nhau. Cuộc hát đi vào chặng chính. Ở chặng chính này, lượn slương có thể chia
thành ba phần: lượn pây tàng (lượn đi đƣờng), lượn sử và lượn chúc chồm (lượn chúc
mừng). Trong đó, phần quan trọng của lượn slương là lượn đi đƣờng và lượn sử. Lượn đi
đƣờng là phần hấp dẫn nhất, chứa đựng nhiều tình huống bất ngờ. Nội dung của lượn đi
đƣờng thƣờng nói về những kỉ niệm tuổi đi học, đi chơi, vui vầy cùng bè bạn, gia đình, về
cây trái, hoa lá, gió mây, trăng sao… Họ dùng lối so sánh, ví von, mƣợn các hình ảnh
thiên nhiên hoặc dẫn một điển tích để bộc bạch tình cảm, tâm trạng. Phần lượn này là
không thể thiếu trong một cuộc lượn slương bởi nó đóng vai trò là phút ban đầu thăm dò,
98
tìm hiểu, làm quen hoặc dỗi hờn, trách móc của lứa đôi yêu nhau. Lượn sử là các bài hát
mƣợn những cuộc tình duyên trong lịch sử hay tích truyện xƣa cũ của ngƣời Tày, ngƣời
Kinh và Trung Quốc để nhắn nhủ bạn tình noi theo. Cuộc hát có phần lượn sử tức tình
yêu của đôi bạn lượn đã đạt đến độ chín, hết sức sâu nặng. Lượn sử chiếm nhiều thời gian
của cuộc hát. Tuy thế, đây là phần không bắt buộc của cuộc hát, và phần này không thực
sự thu hút, hấp dẫn ngƣời nghe do tính chất và nội dung của nó. Phần lượn chúc mừng
không phải là hát giao duyên, chỉ là lời cảm tạ của ngƣời lượn đối với gia chủ nên nó có
tính chất gắn kết khá lỏng lẻo với cuộc lượn.
Chặng cuối cùng của cuộc lượn thƣờng gồm những bài nhắn nhủ, hò hẹn gặp lại ở
buổi hát sau. Hát lượn thâu đêm đến lúc canh tàn, chủ khách đều tình ý đang say. Đến giờ
phải chia tay, họ buồn rầu hát những bài giã biệt đầy quyến luyến, thiết tha không nỡ rời.
Họ cũng không quên dặn bạn nhớ mãi tình cảm đã gửi trao trong buổi hát hôm nay: Củ
pác slắng đuổi cấu cỏi chứ/ Sị mừa dảo này ón hâng thu/ Cấu hợi cỏi ngòi thương rà
đuổi/ Chắng chử kẻn đảy nét kin dú (Cất lời dặn lại bạn nhớ lời/ Anh về lần này năm
tháng trôi/ Bạn hỡi hãy cùng thƣơng nhau vậy/ Mới thật kén đƣợc nết bạn đời) [108; tr.
348, 471].
Trên thực tế, không phải cuộc diễn xƣớng lượn slương nào cũng thành công. Bên
chủa bản có nhã ý mời khách cùng lượn, nhƣng sau khi chủa bản cất lời lượn nải, bên
khách không đáp lời. Sự không đáp này có thể do khách không biết lượn, hoặc khách phát
hiện ra mình có họ hàng với chủa bản, không thể cùng lượn giao duyên. Cũng có khi,
trong thực tế đời sống, chủa bản và khách có những đố kị, mâu thuẫn gì đó mà phía chủa
bản không biết hoặc không quan tâm nên vẫn cất lời lượn nải.
Ở ngƣời Thái, có thể lấy diễn xƣớng khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi) để mô tả
cho các chặng của một cuộc diễn xƣớng DCTTSH này. Diễn xƣớng khắp hạn khuống bao
gồm các chặng: hát chào mời, hát thăm hỏi, hát thi tài, hát tình tự, hát dặn dò hẹn ƣớc.
Đáng lƣu ý là trong khắp hạn khuống, chặng đầu tiên không phải là những lời mời chào
trực tiếp nhƣ trong lượn slương của ngƣời Tày mà là những lời hát khen ngợi hạn khuống,
xin thang lên hạn khuống, xin mƣợn ghế ngồi, mƣợn điếu hút thuốc lào của tốp nam thanh
niên và lời đáp của của bên nữ. Vào chặng chính, các cô gái hát bóng gió về việc chàng
trai đã có vợ, đã có ngƣời thƣơng, buộc bên nam phải lên tiếng phủ nhận, chứng minh. Họ
cũng ám chỉ về việc yêu đƣơng qua lời hát là yêu thực sự hay hay hát vui. Nam nữ từng
đôi hát cặp với nhau. Thƣơng yêu nhau rồi, họ hỏi nhau thực lòng hay chƣa hay còn lƣỡng
lự. Rồi họ về hỏi ý mẹ cha. Mẹ cha đồng ý, họ thông báo cho ngƣời yêu để đôi bên chuẩn
99
bị tổ chức dạm hỏi. Chặng cuối là chặng chia tay bạn tình lúc trăng lặn sƣơng xa, họ hát
dặn dò nhau đừng quên.
Ở khắp tua, cuộc hát trải qua nhiều bƣớc: hát đi đƣờng, hát mở cổng vào làng, hát
đố, hát ƣớm, hát thăm hỏi, hát trao duyên, hát kết đôi, hát đi chơi mƣờng trời, hát chia tay.
Các bƣớc này không có quy định cụ thể, rõ rệt về số lƣợng lời hát mà phụ thuộc vào tài
năng và sự nhiệt tình của những ngƣời tham gia diễn xƣớng. Bởi thế, có những cuộc hát
kéo dài tới hai, ba đêm mới kết thúc. Tuy nhiều bƣớc nhƣ thế nhƣng về cơ bản vẫn có thể
phân làm ba chặng: Chào mời (hát đi đƣờng, hát mở cổng vào làng) – Tỏ lòng (hát đố, hát
ƣớm, hát thăm hỏi, hát trao duyên, hát kết đôi, hát đi chơi mƣờng trời) – Giã biệt (hát chia
tay). Qua từng ấy bƣớc của cuộc hát, tình cảm của đôi nam nữ có điều kiện bộc lộ và gắn
bó đậm sâu.
Nhƣ thế, về cơ bản, trình tự các diễn xƣớng lượn slương của ngƣời Tày hay khắp
hạn khuống, khắp tua của ngƣời Thái đều tuân theo ba chặng chính. Diễn xƣớng các loại
DCTTSH khác có tính chất đối đáp của hai dân tộc Tày, Thái nhƣ lượn cọi, lượn nàng ới,
khắp xai peng… cũng theo trình tự này. Đặc điểm này không phải riêng có ngƣời Tày,
Thái mà diễn xƣớng dân ca đối đáp của các dân tộc khác cũng có đặc điểm này. Sự tƣơng
đồng về trình tự của diễn xƣớng này là xuất phát từ truyền thống lịch sự của con ngƣời và
từ nguyên tắc của giao tiếp đối thoại. Điều cần nhấn mạnh là, so với các dân tộc thiểu số
khác ở khu vực miền núi phía Bắc, với một cơ cấu dân cƣ đông đúc hơn, với số lƣợng lớn
các bài dân ca, sự phong phú của các loại hình diễn xƣớng và tâm lí yêu thích các diễn
xƣớng, cần một cái gì sống động và gắn kết con ngƣời trong đời sống lặng lẽ nơi núi rừng,
ngƣời Tày và ngƣời Thái thƣờng xuyên tổ chức các cuộc hát đối đáp, trình tự của cuộc hát
vì thế khá rõ ràng.
3.4.2. Sự tham gia của âm nhạc vào diễn xướng
Nhìn chung, sự tham gia của âm nhạc vào diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái có thể
phân ra hai mức độ, tƣơng ứng với hai dạng: dạng hát đơn giản và dạng hát phát triển.
Ở dạng âm nhạc có sự gắn kết lỏng lẻo với phần lời. Âm nhạc ở đây chỉ là một hình thức
ngâm ngợi. Ở dạng hát phát triển, thành phần âm nhạc gắn bó chặt chẽ với lời ca. Mỗi lời
gắn bó với loại giọng, giai điệu riêng. Trong diễn xƣớng hát đối đáp DCTTSH Tày, Thái,
phổ biến lối hát phát triển.
Ở ngƣời Thái, trong diễn xƣớng DCTTSH, âm nhạc tham gia vào ở cả hai mức độ,
tƣơng ứng với hai dạng hát thơ đƣợc chỉ ra trong công trình Ngôn ngữ với việc hình
thành âm điệu đặc trưng trong dân ca Thái Tây Bắc Việt Nam: dạng hát thơ sơ khai và
100
dạng hát thơ phát triển, hay chính là lối hát thơ trữ tình, có nét dạo đầu và láy đuôi [130;
tr. 58 – 75]. Dạng hát sơ khai xƣa ở vùng Thái nào cũng có, chẳng hạn nhƣ các loại diễn
xƣớng hát lẻ nhƣ khắp khơ nay chơi, khắp loong tôông. Theo kết quả điền dã của chúng
tôi tại huyện Văn Chấn (Yên Bái), diễn xƣớng khắp loong tôông hiện nay vẫn còn khá
phổ biến và đƣợc hát trong khi lao động nhƣ lên nƣơng, đi ruộng, lúc trồng trọt, kiếm củi,
dệt vải. Trong khi đó, hát đối đáp DCTTSH Thái chủ yếu thuộc dạng hát thơ phát triển.
Những nét dạo đầu, láy đuôi trong dạng hát phát triển của ngƣời Thái không phải lúc nào
cũng do con ngƣời đảm nhiệm. Có khi, nhạc cụ sẽ chịu trách nhiệm phần dạo đầu, láy
đuôi. Chẳng hạn, khi đôi trai gái tình tự vào đêm khuya, bên nữ chỉ hát, không có nhạc
kèm theo. Bên nam vừa hát vừa chơi đàn nhạc là khèn bè, sáo pí pặp theo, tức đàn nhạc sẽ
đảm nhiệm phần dạo đầu, láy đuôi. Diễn xƣớng khắp xai peng – một điệu khắp vào mùa
yêu đƣơng – khoảng tháng 11 âm lịch là một minh chứng cho điều này. Khắp xai peng đi
liền với tục xắc xan (chọc sàn) của đồng bài Thái. Vào buổi chiều, các chàng trai tụ tập ở
đầu bản, thay nhau thổi sáo pí pặp và hát lời gọi bạn tình. Tiếng sáo dìu dặt, trầm bổng
hòa cùng lời ca yêu thƣơng, bay vào bản đến tai bạn tình. Đêm đến, các chàng trai vào
bản, tìm đến nhà bạn gái, cầm que chọc nhẹ lên chỗ đệm cô gái rủ cùng đi chơi. Cô gái trở
mình, xuống thang tự tình cùng chàng trai. Những đêm đầu, phần nhiều là con trai hay
nhau thổi sáo, hát ngợi ca con gái nhƣng những đêm sau, chủ thể hát có sự thay đổi. Lúc
này con trai thổi sáo pí pặp, con gái hát lời tự tình. Khung cảnh thơ mộng, trữ tình của núi
rừng Tây Bắc về đêm nhƣ thêm thẳm sâu trong tiếng sáo dặt dìu và lời ca yêu đƣơng say
đắm, tha thiết của lứa đôi.
Tuy rằng cùng thuộc dạng hát thơ phát triển, nhƣng âm điệu của diễn xƣớng
DCTTSH ở mỗi địa phƣơng của ngƣời Thái lại có sự khác nhau. Sự phân bố dân cƣ ở mỗi
địa phƣơng đã tạo nên những khác biệt về thổ ngữ, tâm lí, phong tục, từ đó kéo theo việc
mỗi địa phƣơng sử dụng một âm điệu riêng. Dân ca Thái có ba âm điệu đặc trƣng. Trong
đó, một âm điệu mang tính chất hơi buồn, đƣờng âm đi xuống; một âm điệu buồn, một âm
điệu mang tính chất vui, trong sáng, đƣờng âm đi lên. Sự khác nhau về tính chất âm nhạc
của diễn xƣớng dân ca trữ tình của cac địa phƣơng là do việc sử dụng các âm điệu này
quy định. Vì thế, theo ghi nhận của tác giả Dƣơng Đình Minh Sơn, ở Sơn La, diễn xƣớng
dân ca của ngƣời Thái đen thuộc huyện Thuận Châu âm điệu uyển chuyển, thanh thoát mà
quyến luyến, ở huyện Mai Sơn lại khoan thai, trầm lắng mà rành rọt từng câu từng chữ,
thuộc huyện Mƣờng La lại mƣợt mà, du dƣơng. Tính chất buồn khiến cho diễn xƣớng dân
ca ở Mƣờng La hơi buồn khiến cho diễn xƣớng dân ca ở đây gần với dạng hát thơ sơ khai
101
nhƣ kiểu hát nghi lễ. Ở huyện Yên Châu, việc hát lại có sự hỗ trợ của khèn bè khiến cho
tính chất âm nhạc nhộn nhịp, sôi nổi hơn. Trong khi đó, diễn xƣớng DCTTSH của ngƣời
Thái trắng sinh sống ở phía Bắc tỉnh Sơn La lại thƣờng có sự tham gia của nhạc cụ là đàn
tính khiến cho tính chất âm nhạc trở nên hết sức hài hòa [130; tr. 75 – 76].
Ở ngƣời Tày, sự tham gia của âm nhạc vào diễn xƣớng DCTTSH tƣơng tự của
ngƣời Thái, tức bao gồm cả dạng hát đơn giản và dạng hát phát triển. Dạng hát đơn giản
điển hình nhất có thể kể đến diễn xƣớng rọi. Rọi là từ chỉ chung phuối pác, phuối rọi,
lượn rọi. Trong đó, phuối pác, phuối rọi là những hình thức nói miệng bằng câu có vần
nhƣ hát, lượn rọi là hát rọi, tức có tính âm nhạc rõ hơn một chút khi có sự tham gia của
các âm phụ luyến láy song vẫn thuộc loại hát đơn giản. Nhìn chung, ở các hình thức này,
giai điệu của câu hát phụ thuộc nhiều vào cảm hứng của ngƣời hát, không bị gò bó quá
nhƣ các điệu hát đối đáp khác. Chẳng hạn, trong diễn xƣớng lượn rọi, ngƣời hát luôn
thêm các từ đó… đó… vào đầu và cuối bài hát nhằm khơi gợi sự tập trung lắng nghe hoặc
lƣu ý đối phƣơng. Ở cuối bài hát, họ có thể tùy ý thêm vào các cụm từ nhƣ nhớ lắm đó,
buồn quá đó, đó đau lòng… nhằm nhấn mạnh nội dung bài hát. Trong khi hát những từ,
cụm từ này, họ có thể ngẫu hứng hát to hơn, ngân dài, ngắn hoặc cao giọng hơn để gây sự
chú ý. Giai điệu dài ngắn, cao thấp không theo một quy định nào.
Trong khi đó, các diễn xƣớng lượn cọi, lượn slương, lượn nàng ới, lượn then lại
thuộc lối hát phát triển. Trong diễn xƣớng, mở đầu cuộc lượn cũng sử dụng hƣ từ hay
tiếng gọi, gần giống với cách thức mở đầu diễn xƣớng hát cuộc của ngƣời Thái và các loại
dân ca của ngƣời Việt nhƣ hò ca Huế, hò sông Mã. Trong diễn xƣớng lượn nàng ới ở Cao
Bằng, chàng trai hát mở đầu bằng lời Nàng à ới (nàng ơi), kết thúc bằng lời Nàng nỏ
(nàng nhỉ). Cô gái đáp, lời mở đầu là Làng à ới (chàng hỡi), kết thúc bằng lời Làng nỏ
(chàng nhỉ). Chẳng hạn nhƣ lời hát này của chàng trai: Nàng à ới… Soong rà thề tồng thú
soong kha/ Gần táng giú răng gòa đảy khẩu… Nàng nỏ… (Nàng hỡi… Hai ta thề nhƣ đũa
có đôi/ Sao ăn đƣợc nếu ngƣời khác chốn… Nàng nhỉ?) [127; tr. 358].
Trong diễn xƣớng lượn cọi, vào cuộc lượn, ngƣời hát lên giọng, mở đầu và trong
câu hát đều kéo dài các âm: Hừ - là – ơ – a – ơi – hƣ – ha – ơi… Nhờ sự kéo dài các âm
này mà cuộc hát lượn cọi cứ dài mãi, dài mãi. Nhƣ bài dân ca này vốn rất ngắn gọn, chỉ
gồm hai câu: Bắc Kạn noọng mì tiểng lượn slương/ Khuốp pi thâng mủa xuân coỏng
soóng (Bắc Kạn em có tiếng lượn slương/ Cứ đến mùa xuân cất tiếng hát vang xa bay
bổng). Nhƣng, khi hát bài này theo làn điệu lượn cọi, thời gian diễn xƣớng bị kéo dài ra
do sự đan xen và ngân dài của nhiều hƣ từ: Hờ… hơi… hà… Noọng ừ… Bắc…ư… ư
102
ha… hơi… Kạn… noọng mì tiểng ơ… lượn ơ slương… ư… hư… ư noọng… ừ/ Khuốp ư
hơ hơi pi thâng… mùa… xuân… ư coỏng ơ soóng ư… a noọng… [127; tr. 358 – 359].
Nhƣ thế, âm nhạc trong diễn xƣớng mỗi thể loại này phải tuân theo một khuôn
mẫu nhất định. Với sự khác nhau của làn điệu, diễn xƣớng DCTTSH Tày ở mỗi địa
phƣơng mang âm hƣởng một khác. Về điều này, nhà nghiên cứu La Công Ý từng nhận
định: “Tùy từng vùng, từng địa phƣơng mà chúng đƣợc thể hiện bằng những giai điệu và
âm hƣởng riêng” [187; tr. 313]. Quả thật, lắng nghe kĩ, chúng tôi nhận âm hƣởng của từng
loại diễn xƣớng nhƣ sau: lượn nàng ới ngọt ngào mà trải rộng mênh mông; lượn cọi khi
trầm khi bổng, khi bổng thì đến mức sắc nhọn, cao vút, nghe não nùng, nghẹn ngào; lượn
then tƣơi vui, rộn ràng, lượn slương ấm áp, thủ thỉ nhƣ lời tâm tình của ngƣời đang yêu.
Nhƣ thế, ở cả hai dân tộc Tày, Thái, chúng tôi đều nhận thấy sự tham gia của âm
nhạc vào quá trình diễn xƣớng DCTTSH, bao gồm dạng hát đơn giản và dạng hát phát
triển. Điều này phản ánh sự tồn tại đồng thời của các diễn xƣớng hát chƣa có tính tổ chức
rõ ràng và các diễn xƣớng hát cuộc có tính tổ chức với thể thức, lề lối, quy định cụ thể
trong diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái. Đáng nói là, sự tồn tại của các diễn xƣớng hát cuộc
với sự tham gia của âm nhạc ở dạng hát phát triển chiếm ƣu thế hơn. Hai dạng âm nhạc
nhƣ đã trình bày là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao trong quá trình định hình âm
nhạc dân gian ở từng dân tộc.
Sự tồn tại của cả hai dạng âm nhạc trong diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái nói lên
sự tƣơng đồng của hai tộc ngƣời về ý thức thẩm mĩ và trình độ phát triển kinh tế, xã hội.
Ngƣời Tày, Thái cùng chung cơ tầng văn hóa nguyên thủy của khối Bách Việt xa xƣa, vì
thế họ dễ gặp gỡ trong ý thức thẩm mĩ mà âm nhạc dân gian là một biểu hiện cụ thể. Họ là
những tộc ngƣời có cuộc sống khá ổn định và ngày càng phát triển khi khai thác kinh tế ở
vùng thung lũng chân núi thấp. Vì thế, một mặt, đời sống còn khá gần gũi với tự nhiên đã
tạo điều kiện cho sự bảo lƣu dạng hát đơn giản; mặt khác, yêu cầu ngày càng cao của dân
chúng đối với các sinh hoạt văn nghệ dân gian tất yếu dẫn đến sự ngày càng thịnh hành
của dạng hát phát triển. Tất nhiên, trong khuôn khổ một luận án ngành Văn học, chúng tôi
chỉ bàn đến sự tham gia của âm nhạc, còn cụ thể âm nhạc với những làn, những điệu, kí
âm ra sao là thuộc về chuyên ngành âm nhạc, chúng tôi không bàn đến.
3.5. Iếu và cắm nôm – sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái
Iếu và cắm nôm đều là điệu hát đối đáp giao duyên của ngƣời Tày. Khi khảo sát 50
bài iếu đƣợc lựa chọn, chúng tôi nhận thấy có sự gần gũi, giao thoa của những đặc điểm,
phẩm chất của DCTTSH của cả hai dân tộc Tày, Thái. Đối chiếu với 64 bài cắm nôm dƣới
103
hình thức song ngữ Tày – Việt mà nghệ nhân Hà Đình Tỵ ở xã Thƣợng Bằng La, huyện
Văn Chấn, tỉnh Yên Bái cung cấp cho chúng tôi trong một chuyến đi điền dã, chúng tôi
cũng nhận thấy sự gặp nhau của DCTTSH Tày, Thái trong mảng hát này. Sự giao thoa đó
là khá rõ ràng, bộc lộ ở nhiều đặc điểm. Cụ thể:
Về tên gọi: Ở nội bộ dân tộc Tày, trong khi các mảng của DCTTSH thƣờng đƣợc
gọi tên theo giai điệu, nhƣ lượn nàng ới có câu bắt đầu là nàng ới, kết thúc là nàng nỏ;
lượn cọi bắt đầu và kết thúc bằng câu gọi bạn tình ứ hợi, hừ - là – ơ – a – ơi – hư – ha –
ơi…; lượn slương bắt đầu và kết thúc bằng giai điệu ngọt ngào nhƣ đƣờng mật (thƣơng),
thì tên gọi iếu và cắm nôm lại không đƣợc gọi theo giai điệu nhƣ vậy. Iếu, cắm nôm đều là
tên tự gọi của đồng bào địa phƣơng, là một danh từ riêng. Trong tiếng Tày, không có một
sự giải thích nào có thể liên tƣởng đến đặc điểm hai mảng dân ca này. Cắm nôm nghĩa là
lời nôm. Riêng về iếu, iếu là tên gọi phổ biến nhất để chỉ mảng dân ca này nhƣng không
có nghĩa. Ở một vài địa phƣơng, đồng bào Tày còn gọi các bài hát này với những tên khác
nhƣ hiếu, cằm khắp (lời hát), khắp cọi (hát cọi). Tên gọi khắp cọi là từ ghép giữa tiếng
Tày và tiếng Thái. Trong tiếng Thái, khắp nghĩa là hát, tƣơng đƣơng với lượn trong tiếng
Tày. Cọi là tên gọi của một mảng dân ca Tày. Nhƣ thế, ngay từ tên gọi, tên gọi cắm nôm
đã thể hiện một sự không liên quan tới truyền thống đặt tên dân ca của ngƣời Tày, tên gọi
iếu lại cho thấy một sự giao thoa của văn hóa Tày, Thái.
Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong iếu và cắm nôm đều mang tính tự
nhiên, trong sáng, dễ hiểu. Nó là ngôn ngữ của đời sống thƣờng ngày bƣớc vào lời hát trữ
tình, thông qua sự sáng tạo, tái tạo nhiều đời mà trở nên ngôn ngữ nghệ thuật, tuy thế vẫn
giữ đƣợc vẻ chân chất, hồn nhiên và linh hoạt. Đặc điểm này gần giống với ngôn ngữ
trong DCTTSH Thái hơn là lượn cọi, lượn slương, lượn nàng ới DCTTSH Tày với hệ
thống từ Hán Việt, điển tích dày đặc và cách nói văn hoa, ƣớc lệ.
Về công thức nghệ thuật, trong iếu và cắm nôm, có nhiều bài có sự xuất hiện của
các công thức truyền thống trong DCTTSH Thái. Chẳng hạn, trong số 64 bài cắm nôm,
chúng tôi nhận thấy có đến 25 bài mà hình thức biểu hiện khá giống với DCTTSH của
ngƣời Thái. Cụ thể, đó là các bài: Khay thiêng (Mở lời), Thao khảu bản (Gái vào bản),
Chấm áng lảu (Mừng chậu rƣợu), Mới lảu (Mời rƣợu), Chấm rướn (Mừng nhà), Chấm
đẳm đáp (Mừng chuôi kiếm), Chúa lỉn (Rủ chơi), Hảy chụ nọi (Khóc ngƣời yêu non trẻ),
Puồn pút (Buồn chán), Múa tong (Ngày mùa), Tả váng (Ruồng bỏ), Thông căn (Tiễn
nhau), Khá khai (Gả bán), Chái so lìn (Trai xin), Bjoóc khắt (Hoa ké), Phặt phiến cản
lương (Rau phiến mạ vàng), Rọng chứ (Kêu nhớ), Ƣớc rứ đảy (Ƣớc), Đét lương (Nắng
104
vàng), Mẻn đao (Chòi trăng), Phan bấu thiếng (Mơ không thiêng), Piặc nghín tuộng
(Chào hỏi), Vô duyên, Láng ước (Ƣớc), Nhá lứm (Đừng quên) [PL4]. Ở những bài này,
ngƣời ta dễ nhận ra những đoạn thơ, dòng thơ mang tính chất công thức truyền thống,
đƣợc sử dụng trong nhiều bài dân ca Thái. Chẳng hạn nhƣ những lời mời nhau hát với sự
so sánh ngầm đối phƣơng với các loài chim rừng nhƣ dƣới đây:
Tày: Khay thiêng má dơ tôi nộc đăm/ Khay cắm má dơ tôi nộc yểng (Mở lời đi
đôi chim đen/ Mở tiếng đi đôi chim yểng) [PL4; Trai xin]
Thái: Khay xốp mạ nôộc ểng đăm/ Khay cặm mạ nôộc ểng bang (Mở miệng đi
chim yểng đen/ Cất lời đi chim yểng khoang) [121; tr. 335]
Hoặc, cách bày tỏ tình cảm theo sự trải rộng của không gian phía trên, phía dƣới:
Tày: Hó nưng pay ta tẳư dưm lừa/ Hó nưng mừa ta nưa dưm tảng (Một gói đi
sông dƣới mƣợn thuyền/ Một gói lên sông trên mƣợn mảng [22; tr. 37, 116]
Thái: Va lôm pay tăủ khuôn ha chí phák hó cưa/ Va lôm mưa nưa khuôn chai chí
phak lót lải (Gió xuôi cho ta gửi theo gói muối/ Nếu gió ngƣợc trai gửi theo cuộn tơ) [50;
tr. 256]
Hay, nhƣ lời dặn dò hãy ở nhé, lời hẹn ƣớc đừng quên tha thiết của lứa đôi yêu
nhau ở chặng cuối cùng của cuộc hát:
Tày: - Còi dú nớ lả còi dú/ Còi dú nớ pù thung tham thảu/ Còi dú nớ thảu ké
cuông mường/ Còi dú nớ tằng luông thao báo (Hãy ở nhé là hãy ở/ Hãy ở nhé núi cao ba
ngọn/ Hãy ở nhé ngƣời già trong mƣờng/ Hãy ở nhé cả bản trai gái) [22; tr. 60, 135]
- Thíp pi nhá lứm cắm chảu/ Cạu phạ nhá lứm cắm cháo/ Pia bú đỏn kin đao koi
lứm/ Sính sao lống khạt rắng (Mƣời năm đừng quên lời ta/ Chín năm đừng quên lời tỏ
tình đôi ta/ Khi nào cá bống lƣợn ăn trăng thì hãy quên) [PL 4; Đừng quên]
Thái: - Coi dú li dơ báo bua hôm kéng xao bua ha cuông bản/ Coi hú li dơ hạn
khuống nọi xí pịch xan tăm (Ở yên nhé chàng trai, cô gái sen làng của ta/ Ở yên nhé hạn
khuống nhỏ bốn bề nhẵn phên đan) [50; tr. 351 – 352]
- Cẳu chí lưm cắp xíp chí lưm/ … Pa bú dỏn kin đao chắng lưm (Chín sẽ quên và
mƣời sẽ quên… Cá bống bò lƣợn ăn sao hẵng quên) [50; tr. 353 - 354]
Về thể thơ, đa số các bài iếu và cắm nôm đƣợc sáng tác theo thể tự do nhƣ
DCTTSH Thái chứ không phải thể thất ngôn truyền thống của ngƣời Tày. Theo kết quả
thống kê của chúng tôi từ 50 bài iếu đƣợc lựa chọn khảo sát và 64 bài cắm nôm sƣu tầm
đƣợc số bài làm theo thể tự do là 38/50 (chiếm 76%) đối với iếu và 64/64 (chiếm 100%)
đối với cắm nôm.
105
Bên cạnh đó, trong khi thể hiện tình yêu, lòng tự hào về sự giàu có, quyền uy và
phồn thịnh của gia tộc, cắm nôm còn nhắc đến chế độ tổ chức xã hội mà nhiều đặc điểm
nhƣ sự tồn tại của các tầng lớp quý tộc mƣờng phìa, lộng, tạo và đặc quyền, đặc lợi của
tầng lớp ấy là tƣơng tự với tổ chức xã hội của ngƣời Thái [PL 4; Puồn pút]. Do điều kiện
xen cƣ nên nhiều địa danh của xứ Thái nhƣ Mƣờng So, Mƣờng Là, Mƣờng Púa… đã xuất
hiện trong dân ca Tày với tƣ cách là không gian cho những mối tình trai gái nảy nở:
- Píu di au đú kẻ chợ au má/ Mác láng au Mướng Tho, Mướng Lá au lại (Trầu tốt
mua ở kẻ chợ mang về/ Quả cau lấy ở Mƣờng So, Mƣờng Là mang lại?) [PL4; Giải trầu].
- Cắm tốn nặn Lò – Da mí chán/ … Tôi pia đú táng tại Mướng Púa nhá ni (Tiếng
đồn nƣớc Lò – Da có chón… Gửi lời đến đôi cá ở Mƣờng Púa đừng chạy) [PL4; Trai xin].
- Chạy oóc liệp Té (Cây chạy mọc ven bờ sông Đà) [PL4; Đừng quên]
Sự giao thoa về các đặc điểm nhƣ trên giữa iếu, cắm nôm với DCTTSH của ngƣời
Thái có thể đƣợc lí giải bởi những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, sự giao thoa phẩm chất Tày, Thái trong iếu và cắm nôm xuất phát từ
nguyên nhân về đặc điểm phân bố những bộ phận dân cƣ Tày lƣu truyền các làn điệu dân
ca này. Iếu chủ yếu lƣu truyền và phổ biến ở các huyện phía tây tỉnh Hà Giang nhƣ Bắc
Quang, Quang Bình, Vị Xuyên và ở huyện Lục Yên thuộc phía đông tỉnh Yên Bái.
Những bài dân ca cắm nôm mà chúng tôi sƣu tầm đƣợc có địa bàn lƣu truyền là huyện
Văn Chấn – Yên Bái. Đây đều là những địa phận nằm ở khu vực giáp ranh giữa vùng
Đông Bắc và Tây Bắc – là nơi cộng cƣ, cận cƣ của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Đặc điểm cƣ
trú trên cùng một phạm vi địa lí đã đƣa đến cho hai tộc ngƣời Tày, Thái nhiều điều kiện
thuận lợi cho việc giao lƣu, tiếp biến văn hóa một cách tự nhiên.
Thứ hai, ngƣời Tày và ngƣời Thái vốn có sự gần gũi về nguồn gốc tộc ngƣời.
Trong đó, ngƣời Tày gần gũi hơn với ngƣời Thái trắng. Điều đó đƣợc chứng minh bởi
hàng loạt các dấu vết trong văn hóa, xã hội, lịch sử tộc ngƣời nhƣ tên gọi, lịch pháp, lễ
hội… Chẳng hạn, ngƣời Thái tự xƣng là côn Tay hay phủ Tay (có nơi đọc chệch là Tày).
Yếu tố Tày trong tên gọi nhƣ thế còn là tên gọi chính thức của dân tộc Tày, cho thấy một
sự gần gũi giữa hai dân tộc Tày, Thái. Về trang phục, ngƣời Tày tự nhận là cần slửa khao
(ngƣời áo trắng), trong khi slửa ngoài nghĩa là áo để mặc còn có nội dung tâm linh là vật
chứa đựng linh hồn. Đây là cơ sở để các tác giả Chu Thái Sơn, Cầm Trọng cho rằng
ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc có cùng họ với ngƣời Thái thuộc ngành trắng [129; tr. 17].
Về cách tính lịch, ngƣời Thái trắng tính ngày tháng theo âm lịch nhƣ ngƣời Tày, ngƣời
106
Kinh chứ không theo lịch Thái nhƣ ngƣời Thái đen. Một sự gần gũi về nguồn gốc nhƣ thế
là cơ sở cho những đặc điểm tâm lí giống nhau.
Thứ ba, hai dân tộc Tày, Thái cùng thuộc dạng sinh thái nhân văn gọi là văn hóa
thung lũng. Điều này thể hiện rõ qua đặc điểm dựng bản, lập làng, đặc điểm tổ chức kinh
tế của ngƣời Tày, Thái. Sự tƣơng đồng về đặc điểm sinh thái văn hóa thung lũng nhƣ thế
dẫn tới sự gần gũi về lối tƣ duy của hai tộc ngƣời.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong toàn bộ chƣơng này, chúng tôi đã phân tích và so sánh các đặc điểm tƣơng
đồng về nội dung phản ánh, các lối nói nghệ thuật của nhân vật trữ tình, đặc điểm diễn
xƣớng và đặc điểm của iếu, cắm nôm. Từ đó, chúng tôi rút ra những kết luận nhƣ sau:
Sự tƣơng đồng đầu tiên là việc DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái đều phản ánh
đời sống hiện thực và thế giới tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời, phản ánh quy luật tất yếu
về nội dung của DCTTSH khi đây là bộ phận văn học gắn bó chặt chẽ với mọi phƣơng
diện của cuộc sống sinh hoạt của con ngƣời và sự thể hiện của tâm hồn, tính cách con
ngƣời trong cuộc sống đó. Bên cạnh đó, là bộ phận của văn học của những tộc ngƣời
thuộc khu vực miền núi phía Bắc với đời sống văn hóa vô cùng đặc sắc, nên khi cuộc
sống sinh hoạt đƣợc khúc xạ qua lăng kính của DCTTSH Tày, Thái, nó mang đậm màu
sắc nông thôn miền núi và dấu ấn văn hóa dân tộc. Có thể nói, sự phản ánh đời sống hiện
thực và thế giới tình cảm trong DCTTSH Tày, Thái là phép cộng của quy luật phản ánh
của dân ca nói chung và diện mạo đời sống, tâm lí của hai dân tộc.
Sự tƣơng đồng thứ hai là về các cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình,
bao gồm bốn lối nói: bóng gió, khiêm nhƣờng, cƣờng điệu và cầu khiến. Điều này bắt
nguồn từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình hoặc theo yêu cầu của từng
chặng hát trong quá trình diễn xƣớng.
Sự tƣơng đồng thứ ba là về việc sử dụng biểu tƣợng hoa của DCTTSH Tày, Thái.
Biểu tƣợng hoa xuất hiện trong hai hệ thống dân ca với tần suất cao và các hƣớng nghĩa
phong phú. Điều đó phản ánh những nét giống nhau trong tâm lí, tƣ duy của những tộc
ngƣời cùng chung một cơ tầng văn hóa nguyên thủy. Đặc điểm tâm lí, tƣ duy ấy chi phối
đến sự chuyển hóa của biểu tƣợng hoa từ văn hóa dân gian vào DCTTSH. Bên cạnh đó,
sự hình thành và sử dụng biểu tƣợng hoa trong DCTTSH còn đƣợc quy định bởi các đặc
điểm của ngôn ngữ và loại thể văn học.
Sự tƣơng đồng thứ tƣ là về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm
nhạc vào diễn xƣớng. Sự tƣơng đồng về trình tự ba chặng Chào mời – Tỏ lòng – Giã biệt 107
đƣợc hình thành do sự thể hiện của truyền thống lịch sự của con ngƣời và tính thông tin
trong một cuộc giao tiếp cụ thể là hát đối đáp. Về âm nhạc, diễn xƣớng DCTTSH Tày,
Thái đều có sự tham gia của âm nhạc ở dạng đơn giản và dạng phát triển. Đặc điểm này
có cội nguồn sâu xa từ sự tƣơng đồng về ý thức thẩm mĩ, đồng thời, phản ánh tình trạng
phát triển kinh tế, xã hội tƣơng tự nhau ở hai tộc ngƣời khi nó tạo điều kiện cho việc bảo
lƣu dạng hát đơn giản và thúc đẩy việc ngày càng phổ biến của dạng hát phát triển.
Sự tƣơng đồng thứ năm thể hiện ở việc hai làn điệu dân ca Tày là iếu và cắm nôm
mang trong mình những dấu ấn của DCTTSH Thái. Sự giao thoa phẩm chất ấy đƣợc lí
giải bằng những nguyên nhân liên quan đến địa bàn lƣu truyền, phổ biến của hai mảng
dân ca này và sự tƣơng đồng về nguồn gốc cũng nhƣ điều kiện sống của hai dân tộc.
Những điểm tƣơng đồng trên đây của DCTTSH Tày, Thái phản ánh quy luật
tƣơng đồng của DCTTSH, đồng thời phản ánh sự tƣơng đồng trong văn hóa của hai dân
tộc vốn có nhiều đặc điểm gần gũi với nhau.
108
CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH
SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI
4.1. Sự khác biệt về nhân vật trữ tình
4.1.1. Nhân vật trữ tình với cách ứng xử hài hòa, chừng mực và văn hoa trong dân ca
trữ tình sinh hoạt Tày
Trong DCTTSH Tày, các nhân vật trữ tình có lối ứng xử hài hòa, chừng mực và văn
hoa nhƣ tính cách con ngƣời trung đại. Điều đó đƣợc thể hiện rất rõ ở bộ phận dân ca về
chủ đề tình yêu đôi lứa. Tình yêu của họ đƣợc miêu tả là những mối tình dung dị, chân
thành, không vội vã, không mãnh liệt, đồng thời rất văn hoa, ƣớc lệ.
Tình yêu ban đầu của những con ngƣời thời đại sli lượn là những lời tỏ tình ý nhị,
trong sáng đƣợc vẽ lên với những đƣờng nét đẹp đẽ của các câu lƣợn chứa chan xúc cảm.
Tình yêu trong sáng của họ đƣợc giãi bày bằng những lời lẽ văn hoa, ƣớc lệ nhằm tôn vinh
ngƣời mình yêu. Trƣớc khi bày tỏ tình yêu, họ vòng vo khen ngợi bản làng, mƣờng của đối
phƣơng. Họ gọi đối phƣơng bằng tên của những ngƣời nổi tiếng trong lịch sử hoặc văn học
nhƣ: Lƣơng Quân – Bjoóc Lả, Thục Đế - Hằng Nga…, bằng những từ ngữ xƣng hô quen
thuộc trong văn hóa trung đại nhƣ: chàng, nàng, quan anh, quân tử… Thậm chí, đến cả một
việc trung chuyển tình yêu của họ là đƣa thƣ cũng đƣợc họ nâng lên thành việc én nhà trời,
chim ƣơng, chim nhạn giúp việc.
Khi đã yêu nhau rồi, cách bộc lộ nỗi nhớ của họ cũng rất khác biệt so với trong
DCTTSH của phần nhiều các DTTS. Nhớ nhau đến cồn cào ruột gan nhƣng họ chẳng vƣợt
đƣờng trƣờng tới thăm ngƣời yêu. Họ chỉ mƣợn ngoại cảnh để bộc lộ tâm trạng tƣơng tƣ,
nhớ thƣơng sâu kín trong lòng. Ngƣời buồn, cảnh buồn. Tình cảm ấy là loại tình cảm trong
sáng và thƣờng đƣợc diễn tả theo lối tức cảnh sinh tình – lối phô diễn tâm tình quen thuộc
đã trở thành công thức trong văn chƣơng trung đại. Trong DCTTSH Tày, lối phô diễn tâm
tình này của nhân vật trữ tình đƣợc sử dụng phổ biến trong các bài lượn Tày Lạng Sơn với
các nội dung: lượn hoa, lượn dùng thuyền hái hoa, lượn trăng, lượn năm tháng, lượn gà háy,
lượn canh, lượn trống, lượn đôi, lượn giã biệt…; hay trong lượn slương với các nội dung:
gà gáy, hái nhị xuân, năm canh chờ mong, kết duyên cùng làng khác, mƣời hai tháng, bốn
mùa, trăng đẹp, hoa thơm, dặn dò bạn…; và đặc biệt rõ trong phong slư. Bài lượn slương
dƣới đây là một minh chứng cho lối bộc lộ tình cảm khéo léo và quen thuộc của lứa đôi
Tày: Hai xinh nguyệt chỏi chỏi pjai xâu/ Nguyệt chỏi sloong rầu dú cách châu/ Nguyệt chỏi
sloong rầu dú cách xứ/ Cách xứ tàng quây chắng nội sâu (Trăng đẹp sáng lọt ngọn cây sâu/
109
Trăng sáng hai ta ở cách châu/ Trăng sáng hai ta ở cách xứ/ Cách xứ đƣờng xa nên nỗi sầu)
[108; tr. 337 – 338, 460].
Cũng nhƣ trong nhiều xã hội phụ quyền khác, việc tự do yêu đƣơng và đi đến hôn
nhân của đôi lứa Tày gặp rất nhiều trở ngại nhƣ: quan niệm môn đăng hộ đối, cha mẹ có
quyền quyết định… Bởi thế, nhiều lứa đôi đã phải chịu đau khổ vì không thực hiện đƣợc
tình yêu của mình. Bên cạnh lí do sự ràng buộc nặng nề của những quan niệm phong kiến
đó thì tính cách con ngƣời là một nguyên nhân có ảnh hƣởng lớn tới sự ứng xử chừng mực
của lứa đôi trong tình huống này. Ở DCTTSH Tày, nhân vật trữ tình với tính cách nhẹ
nhàng, luôn tuân theo các chuẩn mực của gia đình và xã hội nên đa phần có thái độ cam
chịu, nhẫn nhịn, ít khi bày tỏ sự phản kháng trực tiếp và mãnh liệt. Họ thƣờng chỉ giãi bày
nỗi buồn đau với thiên nhiên, vạn vật: Từ vằn kết bạn đuổi táng mường/ Pi khửn bươn mà
xa bạn luôn/ Cấu cạ cừn vằn thương cổ cấu/ Tiểng mèng sơn dạ roọng puồn hơn (Từ ngày
kết ngãi bạn khác mƣờng/ Năm đi tháng lại xa bạn luôn/ Vò võ ngày đêm thƣơng lấy bạn/
Ve kêu sơn dã lại thêm buồn) [5; tr. 68].
Tất nhiên, nói nhƣ thế không có nghĩa họ hoàn toàn cam chịu, không có thái độ phản
kháng. Sự phản kháng là tất yếu xảy ra khi họ bị trói buộc quá mức bởi nhiều quan niệm
phong kiến cổ hủ. Điều đáng nói là, sự phản ứng của họ khá chừng mực và thƣờng chỉ đƣợc
bộc lộ một cách gián tiếp thông qua việc trách móc đối phƣơng chứ không trực tiếp đấu
tranh với những nhân tố thực sự đẩy tình yêu của họ vào bế tắc. Một sự đấu tranh mạnh mẽ,
mãnh liệt bằng cái chết khi tình yêu bị ngăn trở, lâm vào bế tắc là có nhƣng ít gặp. Qua
khảo sát, chúng tôi nhận thấy cái chết của lứa đôi chỉ xuất hiện trong một vài bài dân ca lƣu
truyền, phổ biến ở phía tây, tức những nơi có sự cộng cƣ, cận cƣ giữa ngƣời Tày và ngƣời
Thái nhƣ cắm nôm, iếu chứ không xuất hiện trong DCTTSH Tày lƣu truyền ở phía đông.
Hoặc, cái chết của lứa đôi thƣờng chỉ xuất hiện trong lượn sử. Ở những bài hát đó, đôi trai
gái sẽ lấy cái chết của những cuộc tình duyên trong lịch sử và trong truyền thuyết, cổ tích
nhƣ truyện Lương Quân – Bjoóc Lả, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài để cất lên tiếng hát trữ
tình, nhắn nhủ ngƣời yêu về tình cảm sâu đậm của mình.
Việc xây dựng những nhân vật trữ tình với lối ứng xử trong sáng, nhẹ nhàng trong
DCTTSH của ngƣời Tày là kết quả của sự tác động tổng hợp của những ảnh hƣởng của chế
độ gia đình, xã hội đƣơng thời, các đặc điểm văn hóa và môi trƣờng tự nhiên đến tính cách
con ngƣời Tày trong thực tế. Từ đó, nó có tác động đến tâm lí tập thể, khiến tập thể cùng ƣa
thích kiểu nhân vật trữ tình có sự ứng xử nhẹ nhàng, hài hòa mà văn hoa, chuẩn mực nhƣ
con ngƣời trung đại.
110
Ngƣời Tày có nguồn gốc bản địa lâu đời ở vùng núi rừng Việt Bắc. Địa bàn cƣ trú
của họ là trung du và miền núi, tiếp giáp giữa miền núi và miền xuôi. Đặc điểm này dẫn tới
sự giao lƣu, tiếp biến về văn hóa, nhân chủng giữa ngƣời Tày với ngƣời Kinh, ngƣời Hán
khá mạnh mẽ. Cụ thể: Chế độ phong kiến cùng các tƣ tƣởng của Nho gia để lại những dấu
vết nhất định trong tổ chức gia đình và xã hội. Ấy là tổ chức xã hội theo kiểu quằng, thổ ti,
là chế độ gia đình phụ hệ mà chi phối sự vận hành của cả hệ thống tổ chức gia đình và xã
hội ấy là nguyên tắc nam quyền và sự phân chia thứ bậc rõ ràng. Đi kèm với sự phân chia
thứ bậc ấy là bổn phận và trách nhiệm, buộc con ngƣời phải tuân theo nếu muốn đƣợc cộng
đồng thừa nhận. Mấy nghìn năm phong kiến với sự chế định của tôn ti trật tự rõ ràng trong
gia đình và xã hội đã tạo cho con ngƣời tâm lí sống đúng vị trí, đúng bổn phận, hài hòa các
mối quan hệ, đặt hạnh phúc của mình trong sự kết nối hài hòa và sợi dây trách nhiệm với
những ngƣời xung quanh. Mặc khác, văn hóa ứng xử của ngƣời Hán, Kinh cũng có ảnh
hƣởng nhất định tới cƣ dân Tày, tạo cho họ tâm lí thích lối ứng xử ý tứ, chừng mực, ƣớc lệ
nhƣ con ngƣời trung đại. Tâm lí ấy đã tạo nên tập quán, truyền thống giao tiếp của họ, từ đó
ảnh hƣởng tới việc xây dựng nhân vật trữ tình trong DCTTSH . Chẳng hạn, từ truyền thống
giao đãi khiêm nhƣờng, ý tứ trong việc đón khách tới thăm nhà, thăm bản, ngƣời Tày đã
biến nó thành lối nói nghệ thuật khiêm nhƣờng của lứa đôi trong các cung hát giao đãi mở
đầu cuộc lƣợn. Có thể nói, những nét tâm lí đƣợc hình thành trong suốt chiều dài lịch sử do
sự tác động của văn hóa, xã hội đã phản ánh chân thực về hoàn cảnh sống của cƣ dân Tày
trong lịch sử, quy định lối ứng xử văn hoa, sự hài hòa và chừng mực của họ.
Bên cạnh đó, lối ứng xử trong sáng, hài hòa của ngƣời Tày còn đƣợc quy định bởi
tính chất tĩnh của văn hóa vùng và điều kiện tự nhiên. Không gian có phần tĩnh lặng và hiền
hòa của miền núi thấp và trung du khiến cho tính cách con ngƣời Tày nơi đây cũng có phần
trầm ổn. Họ thích cái nhàn, cái thanh bình. Ngƣời Tày xƣa có câu: Hêt kin bâu lẩp Hác/
Phuối pác bấu lẩp Keo/ Eo mèo bấu lẩp Mán (Kế sinh nhai không bằng ngƣời Hán/ Nói
năng không lƣu loát bằng ngƣời Kinh/ Làm cái tỉnh tình tinh không bằng ngƣời Mán). Câu
nói này không hẳn là nhận định về tâm lí tự ti dân tộc của ngƣời Tày mà nó còn cho thấy,
tâm lý ngƣời Tày không thích ganh đua. Họ sống theo chữ nhàn, thế nào cũng đƣợc, miễn
mọi thứ bình an, yên ổn.
4.1.2. Nhân vật trữ tình với cách ứng xử chủ động, mạnh mẽ trong dân ca trữ tình sinh
hoạt Thái
Trong DCTTSH Thái, đặc điểm nổi bật của nhân vật trữ tình là lối ứng xử chủ động,
mạnh mẽ và quyết liệt.
111
Trƣớc hết, ấy là những con ngƣời chủ động trong việc tìm kiếm và giữ gìn hạnh
phúc cá nhân. Xã hội phong kiến Thái xƣa cho phép nam nữ tự do tìm hiểu, yêu đƣơng,
song việc kết hôn lại thuộc quyền quyết định của cha mẹ. Tính chất dân chủ của tộc ngƣời
trong chuyện tình yêu nhƣ thế là cơ sở nuôi dƣỡng tính cách chủ động trong tình yêu của
nhân vật trữ tình nữ.
Trong dân ca, nhiều lần nhân vật trữ tình nữ công khai bày tỏ sự chủ động kiếm tìm
hạnh phúc. Gặp đƣợc ngƣời vừa ý, cô gái Thái nói rõ ý muốn theo đuổi chàng trai. Cô gái
sẵn sàng bỏ cha mẹ, đổi họ để theo chàng dù cho ngƣời ngoài có dị nghị. Khảo sát 286 bài
DCTTSH Thái, chúng tôi thấy có đến 22 lần các cô gái công khai bày tỏ ƣớc muốn mãnh
liệt ấy, chẳng hạn nhƣ cô gái trong bài ca sau: Bók nghhịu púng khá nghịu đeng đang/ Bók
đang púng khá đang đeng coóng/ Xoong mự noọng nhọm bók toóng đeng tơi/ Chại bớ khơi
noọng cọ hắng tôốc hợn hệt pặư/ Chại bớ chặư cọ hắng mị sứ mạ tham (Hoa gạo nở trên
cành đỏ rực. Hoa vông vang nở trên cành đỏ tƣơi/ Hai tay em nhuộm hoa vông đỏ thắm/
Anh không cƣới, em cũng tới nhà anh làm dâu/ Anh không cậy, cũng sẽ có mối mai đến
hỏi) [121; tr. 361, 578].
Một phƣơng diện khác nữa thể hiện rất rõ tính cách chủ động với hạnh phúc của nhân
vật trữ tình trong DCTTSH Thái là việc dám nói về chuyện chăn gối nhƣ một ẩn dụ cho sự
hòa hợp trong hạnh phúc cao nhất. Trong DCTTSH Thái, chúng tôi thấy đặc biệt phổ biến
các hình ảnh chăn gối, giƣờng chiếu gắn liền với hạnh phúc lứa đôi. Dƣới chăn ấy là hơi ấm
ngƣời tình, dƣới gối ấy là lời yêu thƣơng ẩn giấu. Để rồi, mỗi khi nhớ nhau hay trách giận
nhau, họ đều nhắc tới hình ảnh chăn gối ấy.
- Phăn hin ngụ xinh cắp ngụ xa khửn lá lót/ Phăn đảy cót chụ then kính nọn đôi xoong (Em
mơ thấy rắn ráo quấn lên cành nhót/ Mơ đƣợc ôm anh ngủ chung chăn) [121; tr. 342, 557].
- Mạ khạy xoong hạu chợ căn pay đăng phạy tịnh nhọt đớ cáu nơ/ Xoong hạu chắng
đảy nọn xớ khóp đeng/ … Chắng chí đảy nọn pheng chụ lả ái ởi/ … Chắng đảy nảu ón nọn
pheng môốc kẹm chăư na chại ả (Hai ta hãy dìu nhau cùng đi nhóm lửa trên ngọn cây sung/
Để đƣợc ngủ chung đệm/… Để đƣợc nằm chung giƣờng/… Để đƣợc nằm bên nhau mãi
mãi) [121; tr. 359, 575].
- Phô tạn chí chúp kèm mệ tạn cót eo chụm xắng/… Chại đảy cót mệ pẹng nà lựm nảu nờ/
… Chại vạng nhịnh lả vạy khẹm phả chí nao lọ/ … Mon dú hô nhăng coọng thả chại ná/ Phả
dú xảo mạy láy nhăng dắn ha chại ( Chồng ngƣời ta hôn má vợ rồi âu yếm ôm eo/… Anh đƣợc
vợ ôm đừng quên em nhé/ … Anh bỏ rơi em, chăn chiếu lạnh lùng/ … Gối trên đầu đang cùng
em đợi chờ anh / Chăn vắt trên sào tre láy đang còn đợi anh) [121; tr. 463 – 464, 686 – 687].
112
Trên thực tế, tính cách ngƣời Thái rất kín đáo, thận trọng. Họ luôn coi trọng việc giữ gìn
khuôn phép và các chuẩn mực đạo đức. Việc nhân vật trữ tình nhắc đến biểu tƣợng chăn gối
nhiều lần cho thấy ƣớc mơ của họ về việc con ngƣời đƣợc chủ động sống trọn vẹn với yêu
thƣơng, hạnh phúc.
Bên cạnh sự chủ động, nhân vật trữ tình nữ rất có ý thức về bản thân mình. Khi
chàng trai chê cô gái còn nhỏ, lại không xinh nên không tán, cô dùng tiếng hát tự tin khẳng
định bản vẻ đẹp của bản thân, tự tin cho rằng cô hoàn toàn có đủ điều kiện để đƣợc yêu
thƣơng và hƣởng hạnh phúc: Chại ả nà lụk ngái nọng pẹng cang nả máy/ Nà lụk ngái mák
cài hái doong bang/ Nà lụk ngái noọng pẹng cang nhăng nọi/ Xắc mừ nhịnh hắng hụ nhắư
pin xao/ Xắc mừ nhịnh hắng hụ dạo pin poỏng (Anh à, đừng coi thƣờng em má hồng/ Đừng
coi thƣờng trái vải rừng cùi mỏng/ Đừng coi thƣờng em đang còn nhỏ/ Ngày nào đó em sẽ
thành thiếu nữ/ Ngày nào đó em sẽ lớn đẹp xinh) [121; tr. 415, 463]. Ngay cả trong hoàn
cảnh tình yêu thất bại, họ cũng khẳng định đƣợc sự độc lập và giá trị của mình. Rõ ràng,
phải là ngƣời ý thức rất rõ về bản thân, cô gái mới có thể tự tin vào tình yêu kế tiếp ở tƣơng
lai nhƣ thế này: Chại páy nhịnh cọ ớ tai đai/ Nhịnh cọ hắng hụ mị kẻo khọ xai tô mắư dá lọ
chại ả/ Chại páy nhịnh nhịnh cọ mị mả dá/ Chại bớ thả nhịnh nhịnh cọ hắng hụ mị phô
(Anh xa em, em cũng chẳng ở một mình/ Em lại sẽ tìm đến tình yêu mới/ Anh bỏ em, em
vẫn sẽ có chồng/ Anh không chờ em, thì em vẫn có ngƣời khác) [121; tr. 493, 718].
Một khía cạnh nổi bật khác trong ứng xử của nhân vật trữ tình trong DCTTSH Thái
là sự chân thành, thẳng thắn trong tình yêu. Bên cạnh loạt bài dân ca nói lên trạng thái hạnh
phúc của các lứa đôi trong tình yêu thì cũng có một nhóm bài khác nói lên sự bất hạnh của
họ do tình yêu bị cha mẹ ngăn cản, hoặc bị đối phƣơng phụ bạc do yêu đƣơng phù phiếm,
có mới nới cũ, hoặc do hoàn cảnh nghèo, mồ côi, do duyên trời không định, bà mụ bẻ cây
ngáng đƣờng… Khi phải đối diện với những tình huống nhƣ vậy, chủ thể trữ tình sẽ không
ngại ngần mà thể hiện sự phản ứng mạnh mẽ bằng nhiều hình thức: trách giận, nói kháy,
nguyền rủa, tự tử. DCTTSH Thái có nhiều bài ghi nhận sự tức giận, phản ứng của các
chàng trai, cô gái dành cho đối phƣơng phụ bạc bằng việc nói thẳng cho đến nói kháy mang
tính trả đũa (14/286 bài). Ở những bài ca này, cô gái không chỉ lên tiếng trách móc mà còn
mỉa mai tƣơng lai của chàng trai: đi đƣờng bị ma trêu, lấy vợ xấu nhƣ con rái cá… Thậm
chí, ở trƣờng hợp bị phụ bạc và nói xỏ xiên, trong nỗi uất ức, họ còn nói những lời mang
tính chất nguyền rủa với nhau:
113
- Nà ác hẳư nhịnh lai/ Ác nhịnh lai tẻng lụk bớ mả/ Nà ác hẳư lả lai/ Ác lả lai bớ
phung céng ban lò chại ả (Đừng ác cho em nhiều/ Ác nhiều nuôi con sẽ không lớn/ Đừng
ác với em nhiều/ Ác nhiều sẽ chẳng đƣợc khỏe mạnh đâu anh à!) [121; tr. 381, 598].
- Ói pánh á… noọng pák xết pì lẹo phô noọng chí tai tôốc khum lé pánh ới/ … Há
ói… lụk thiên noọng chí tai ón xoong lé pánh ới/ … Ói pánh ơi… thiên noọng pánh chí dú
lỵ tính tiên lé pánh á (Em nói xỏ xiên anh rồi chồng em sẽ chết sa vực thẳm đó em ơi/
…Con của em sẽ chết lúc lên hai đó em à/ … Ơi thƣơng ơi… em sẽ thành bà góa sống lẻ loi
suốt đời đó em ơi… [DTLC I 234 – 238, 363 – 366].
Nhân vật trữ tình trách giận nhƣng trung thực. Họ nói thẳng, nói rõ ràng về sự trách
giận và đây là dấu hiệu để đối phƣơng biết hành vi đó là không đƣợc chấp nhận, qua đó tự
điều chỉnh bản thân: Xoong hạu xơng căn bớ đảy căn lè báu/ Xơng căn bớ đảy căn nà chụ
cáu nà nhăn/ Kẻo bơn pặn nà nhòi (Đôi ta yêu nhau chẳng lấy đƣợc nhau thì thôi/ (Không
lấy đƣợc nhau mặt đừng nhăn nhó/ Cũng đừng nói xấu nhau) [121; tr. 433, 652]. Hành động
này của các chủ thể trữ tình có thể không cứu vãn đƣợc tình yêu hiện tại nhƣng lại có ý
nghĩa đối với việc giúp họ dứt khoát đƣợc với quá khứ, tạo cơ sở cho việc đón nhận và xây
dựng hạnh phúc lâu dài về sau.
Nếu nhƣ trong DCTTSH Tày, chủ thể trữ tình không dám trực tiếp bày tỏ sự phản
kháng đối với quyết định ép duyên của cha mẹ thì trong DCTTSH Thái, họ đã phản ứng với
cha mẹ một cách quyết liệt, mạnh mẽ:
- Thiêng phua bắu peng hẳư khói căm lủ/ Thiêng phua bắu ỉng pên chụ hẳư khói căm
liêu/ Khuôn nhing chắng thiêng ỉng ỉng/ Chắng thiêng án án/ Chí thiêng nả lán khoan phăn/
Phủ pên peng chắng thiêng toi liêu (Cắt dây tình không thƣơng trong một ngày/ Bỏ chồng
chẳng yêu trong một đêm/ Em cãi đến cùng, cãi bằng xong/ Sẽ cãi mặt núi rìu bổ/ Anh hãy
cùng với em/ Em quyết theo anh [50; tr. 305 – 307].
- Khôm chăư me lả khẳu luông phua luông mia hư é to hảy/ Pên xư lăư xoong hău hặc
căn nẳng cô ốc xik me lả báu van (Mẹ mắng chuyện tình em còn cƣời/ Mẹ chửi, bắt lấy
chồng em khóc) [50; tr. 270 – 272].
Đặc biệt, nếu nhƣ việc chủ thể trữ tình yêu và đƣợc yêu, rồi tiến tới hôn nhân là biểu
hiện tích cực nhất của hạnh phúc trong tình yêu thì việc tự tử lại là biểu hiện tiêu cực nhất.
Trong DCTTSH Thái, chỉ tính riêng những bài ca có nhắc đến việc tự tử của cô gái khi
không đạt đƣợc mong ƣớc trong tình yêu đã lên tới con số 11/286 bài.
114
- Xơng căn đảy bớ căn/ Cắp căn pay kin ngộn bók đớ tai nham/ Cắp căn pay kin ngộn
bók lơng tai lạ (Yêu nhau chẳng lấy đƣợc nhau/ Ta sẽ cùng nhau ăn lá ngón hoa sung chết
cho hết kiếp/ Ta sẽ cùng nhau ăn lá ngón hoa vàng chết cho hết đời) [121; tr. 324, 537].
- Nhịnh chí tai pin họ kếp hó pai mạy dá lọ/ Chại ả nhịnh chí tai pin kê din dặng nả đán
xê dá lọ/ Hẳư chại mừ bớ mự cang tsái au kê nà/ Chại ả nhịnh bớ tai nhịnh chí pin mệ xếu nà
(Em muốn chết thành sóc làm ổ trên ngọn cây/ Muốn chết thành dơi ngủ treo vách đá/ Để cho
anh hằng ngày giăng lƣới bắt/ Anh à, em sẽ chết để khỏi thành vợ ngƣời) [121; tr. 555, 748].
Bằng việc tự tử, các cô gái, chàng trai Thái đã ngang nhiên đứng lên chống lại cái gọi là
“định mệnh”. Theo quan niệm của ngƣời Thái và nhiều dân tộc khác nữa, tình yêu có đạt
đƣợc kết quả tốt đẹp hay không phụ thuộc nhiều vào quan niệm “định mệnh”. Định mệnh
đƣợc hiểu với ý nghĩa số kiếp, nhân duyên đều là những thứ đã đƣợc định sẵn, rất khó thay
đổi. Cái gì đến tất đến, cái gì không thuộc về mình thì có cố gắng mấy vẫn vuột khỏi tầm
tay. Sự thể hiện của quan niệm định mệnh trong tình yêu, hôn nhân của ngƣời Thái đƣợc
hình tƣợng hóa bằng hình tƣợng Then, Trời, bà Mụ, nen (sợi dây số mệnh) với sức mạnh
của những vị thần hôn nhân, quản lí nhân duyên của con ngƣời. Đáng nói là, nếu nhƣ quan
niệm định mệnh thể hiện thái độ sống tiêu cực, buông xuôi, phó mặc cho định mệnh thì
trong DCTTSH của ngƣời Thái, nhân vật trữ tình lại rất tích cực chống lại cái gọi là định
mệnh ấy, dù rằng, sự đấu tranh đó là bằng con đƣờng tự tử. Lúc này, tự tử không hàm nghĩa
xấu mà thể hiện thái độ sống tích cực, chủ động đòi quyền hạnh phúc của nhân vật trữ tình.
Có thể nói, sự tự ý thức, khẳng định bản thân, chủ động kiếm tìm hạnh phúc và sự thẳng
thắn – biểu hiện của lòng tự trọng đƣợc xem là những chỉ báo đáng chú ý về lối ứng xử của
nhân vật trữ tình trong DCTTSH Thái. Bởi, con ngƣời có hiểu về bản thân, tự định hƣớng
và dám định đoạt hạnh phúc của mình, đó mới là con ngƣời thực sự hạnh phúc. Điều này có
thể xem là một điểm tiến bộ trong tƣ tƣởng, suy nghĩ của nhân vật trữ tình trong DCTTSH
Thái nếu nhìn từ góc độ bối cảnh văn hóa xã hội Thái cổ truyền. Nó gần với suy nghĩ về cái
tôi cá nhân và quyền hạnh phúc của con ngƣời hiện đại. Đáng quý hơn nữa, trong DCTTSH
Thái, sự chủ động và thẳng thắn trong ứng xử thể hiện ở nhân vật trữ tình nữ rõ hơn nhân
vật trữ tình nam. Việc xây dựng nhân vật trữ tình nữ nhƣ vậy đã góp phần xóa nhòa đi
khoảng cách về giới trong việc làm chủ cuộc đời cá nhân và đƣợc coi là một điểm cộng của
tác giả dân gian Thái khi viết về ngƣời phụ nữ trong bối cảnh văn hóa của một dân tộc theo
chế độ nam quyền.
Đằng sau việc xây dựng lối ứng xử của nhân vật trữ tình nhƣ vậy ẩn chứa nguyên
nhân sâu xa của nó. Chúng tôi tạm thời đƣa ra lí giải bƣớc đầu nhƣ sau:
115
Trƣớc hết, sự ứng xử thẳng thắn xuất phát từ sự dân chủ nhất định mà tộc ngƣời
dành cho lứa đôi khi tìm hiểu nhau. Đặc biệt, sự chủ động của nhân vật trữ tình nữ trong
DCTTSH Thái có cơ sở từ thái độ cởi mở, yêu thƣơng mà tộc ngƣời dành cho họ. Dân tộc
Thái là một dân tộc đƣợc đánh giá là khá văn minh với trình độ tổ chức xã hội cao và có
dành cho ngƣời phụ nữ sự dân chủ, tôn trọng nhất định so với một số DTTS khác. Tuy rằng
đây là một dân tộc theo chế độ nam quyền song ngƣời phụ nữ vẫn có vị trí nhất định trong
gia đình hạt nhân Thái truyền thống mà chúng tôi đã phân tích ở chƣơng trƣớc. Ít nhiều
không khí tự do và sự quý trọng mà gia đình và xã hội dành cho ngƣời phụ nữ thể hiện tính
nhân bản đáng trân trọng của tộc ngƣời. Sự dân chủ này là cơ sở để ngƣời phụ nữ đƣợc
hƣởng tự do nhất định trong chuyện tình yêu. Họ có thể chủ động trong chuyện tìm hiểu,
yêu đƣơng. Điều đó đƣợc phản ánh chân thực trong DCTTSH.
Song, bên cạnh đó, có những điều chúng ta cần lƣu ý về nhân vật trữ tình trong văn
học. Đó là những nhân vật đã đƣợc hƣ cấu thông qua lăng kính chủ quan của tác giả. Ở
DCTTSH, tác giả ấy là dân gian, là tập thể. Nhân vật trữ tình đƣợc gửi gắm ƣớc mơ,
nguyện vọng, tình cảm của dân gian, không phải nhân vật có thật trong thực tế lịch sử, xã
hội, nên những đặc điểm của nhân vật đó không nhất thiết trùng khớp với con ngƣời thực
trong đời sống. Khi nghiên cứu về mối liên quan giữa các công trình nghệ thuật với cấu trúc
tinh thần của một dân tộc trong công trình Những quy luật tâm lí về sự tiến hóa của các
dân tộc, Gustave Le Bon từng viết rằng: “Tôi luôn luôn nghi ngờ nhất đối với những tài liệu
văn học. Chúng thƣờng đánh lừa và hiếm khi hƣớng dẫn” [41; tr. 110]. Nhận định này là có
lí bởi văn học là tấm gƣơng phản chiếu đời sống, nhƣng là phản chiếu thông qua tƣ tƣởng,
tình cảm của con ngƣời chứ không đơn thuần phản chiếu một cách trung thực, khách quan.
Bởi có đặc điểm đó nên trong văn học nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, chúng ta
phải lƣu ý đến các khái niệm con ngƣời thiêng và con ngƣời phàm. Con ngƣời phàm là con
ngƣời đƣợc phản ánh đúng với cuộc sống thực tế. Cuộc đời của họ vui buồn, đau khổ hay
sung sƣớng đều là kết quả của sự tác động phức hợp của chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa,
lịch sử. Con ngƣời thiêng là con ngƣời phi hiện thực, là nơi trao gửi những ƣớc mơ, khát
vọng mà con ngƣời khó có đƣợc trong cuộc đời thực tại. Vì thế, con ngƣời thiêng là con
ngƣời của lí tƣởng, chỉ có những điều tốt đẹp. Văn học bao chứa cả hai khía cạnh thiêng,
phàm này. Hiểu nhƣ vậy, chúng ta mới có thể lí giải đƣợc những ứng xử của nhân vật trữ
tình trong DCTTSH Thái trong điều kiện chế độ xã hội nam quyền.
DCTTSH là một thể loại văn học, phản ánh tâm tƣ, tình cảm của nhân dân, nên
trong phạm vi của mình, nó đã miêu tả nhân vật trữ tình nữ của mình theo tinh thần “con
116
ngƣời thiêng” – tức con ngƣời mang mong ƣớc, hi vọng của nhân dân. Nếu nhƣ con ngƣời
phàm trong thực tế là con ngƣời bị ràng buộc bởi tôn ti trật tự và tâm lí bị áp chế bởi quan
niệm hôn nhân mang tính chất thần quyền, không đƣợc phép phản ứng lại với cha mẹ, với
sợi dây định mệnh; nếu nhƣ đó là những con ngƣời hiền hòa và luôn tuân theo khuôn phép,
không dám nhắc đến chuyện chăn gối, không dám đề cao bản thân mình… thì DCTTSH lại
xây dựng họ thành những con ngƣời thiêng - những ngƣời phụ nữ chủ động trong việc
khẳng định bản thân và kiếm tìm hạnh phúc, những lứa đôi dám thẳng thắn, đấu tranh vì
hạnh phúc. Các nhân vật trữ tình ấy đã đƣợc gửi gắm mong ƣớc đƣợc làm chủ đƣợc cuộc
đời mình của nhân dân.
4.2. Sự khác biệt về thi pháp lời thơ nghệ thuật
4.2.1. Sự đan xen của các ngôn ngữ Hán, Việt trong lời thơ nghệ thuật
Xem xét về mặt ngôn ngữ, chúng tôi nhận thấy lời thơ nghệ thuật của DCTTSH Tày
có sự đan xen dày đặc của các yếu tố ngôn ngữ Hán, Việt với hình thức ngữ âm, ngữ nghĩa
khá hiện đại. Trong khi đó, ở lời thơ nghệ thuật của DCTTSH Thái chỉ có sự đan xen của
tiếng Việt với mức độ rất ít và chủ yếu ở hình thức ngữ âm cổ.
Theo các nhà ngôn ngữ học, từ xa xƣa, ở lƣu vực sông Hồng đã có quá trình tiếp xúc
lâu dài giữa ngôn ngữ tiền Việt – Mƣờng và ngôn ngữ Tày – Thái cổ. Đây là cơ sở để hình
thành ngôn ngữ Việt Mƣờng chung. Ngôn ngữ tiền Việt phát triển đến ngôn ngữ Việt cổ thì
tách khỏi ngôn ngữ Mƣờng cổ do có sự cá tính hóa của tiếng Hán – Việt bắt đầu vào thế kỉ
X và chuyển sang quá trình ngôn ngữ Hán – Việt giao hòa mạnh mẽ kéo dài suốt từ thế kỉ X
đến thế kỉ XVI. Trong ngôn ngữ Tày và ngôn ngữ Việt, yếu tố Hán – Việt gia tăng cùng
quá trình giao hòa ngôn ngữ Tày – Việt từ trƣớc và ngày càng mạnh mẽ, nhất là từ thế kỉ
XVII đến đầu thế kỉ XX [161; tr. 269 – 270]. Trên thực tế, sự giao hòa về mặt ngôn ngữ đã
diễn ra từ rất lâu đời, trong sự hình thành của nhà nƣớc Âu Lạc với sự kết hợp của Lạc Việt
và Âu Việt, trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm phƣơng Bắc mà dân tộc Tày
và vùng Đông Bắc đƣợc coi phên giậu của triều đình, trong điều kiện cƣ trú liền kề, trong
điều kiện các vƣơng triều phong kiến ngƣời Việt chủ trƣơng học chữ Hán do những nhu cầu
lịch sử - xã hội. Bên cạnh đó, sự hình thành về mặt nhân chủng của dân tộc Tày trong
trƣờng kì lịch sử với sự tham gia của nhóm Tày gốc Kinh, nhóm Tày gốc Nùng và nhóm
những ngƣời đồng tộc đến từ Trung Quốc cũng là nguyên nhân có liên quan tới sự hình
thành ngôn ngữ Tày. Sự phát triển theo hƣớng nhƣ vậy khiến cho ngôn ngữ Tày thu hút một
lƣợng lớn từ vựng Hán Việt, đồng thời tạo nên sự đan xen về ngôn ngữ trong việc tổ chức
lời thơ nghệ thuật của DCTTSH Tày.
117
Quan sát DCTTSH của ngƣời Tày, chúng tôi nhận thấy do đây là một hình thức ca
hát dân gian của dân tộc, bộ phận từ gốc Tày là cơ bản và có vai trò nền móng kiến tạo nên
ngôn ngữ thơ. Song, ngôn ngữ DCTTSH Tày cũng có sự vay mƣợn vốn từ và cách thức
diễn tả của ngôn ngữ Hán, Việt. Đặc điểm này là rất đậm nét trong lời thơ nghệ thuật. Biểu
hiện rõ nhất của hiện tƣợng này là có một bộ phận dân ca đƣợc sáng tác hoàn toàn bằng
tiếng Việt, số còn lại có sự đan xen của tiếng Tày, tiếng Việt (Kinh) với hình thức ngữ âm
cổ, ngữ âm hiện đại và từ Hán Việt. Cụ thể:
Từ kết quả của quá trình điền dã của chúng tôi tại huyện Bắc Sơn – tỉnh Lạng Sơn
và từ việc nghiên cứu tài liệu, chúng tôi phát hiện trong kho tàng DCTTSH của ngƣời Tày,
có thêm bộ phận dân ca đƣợc sáng tác hoàn toàn bằng tiếng Kinh. Chẳng hạn, hát ví của
ngƣời Tày ở vùng Bắc Sơn – Lạng Sơn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông. Hoặc, lượn
thơ tiếng Kinh (còn gọi là thơ Keo) của ngƣời Tày Lạng Sơn cũng thuộc trƣờng hợp tƣơng
tự. Do vậy, trong kho tàng dân ca hết sức phong phú đƣợc ghi chép trong sách Lượn Tày:
Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương, các bài lượn cây, lượn tháng, lượn nhớ, lượn khan [108;
tr. 273 – 284] đều là những bài đƣợc ghi rõ là sáng tác bằng tiếng Việt. Hay, theo kết quả
công bố tƣ liệu dân ca của tác giả Triệu Thị Mai, lượn then ở các huyện thuộc miền đông
thuộc tỉnh Cao Bằng nhƣ Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang, có phần hát then
bằng tiếng Việt phổ thông [78].
Ở bộ phận DCTTSH Tày đƣợc sáng tác bằng tiếng Tày, chúng tôi lại nhận ra có sự
xuất hiện của tiếng Việt với hình thức ngữ âm cổ nhƣ: mủa xuân – mùa xuân, kiết bạn – kết
bạn, vội vạng– vội vàng, hại – hãy, ẻn – én, tiểng – tiếng, xẹ - sẽ, đạ - đã, them - thêm…;
hình thức ngữ âm hiện đại nhƣ: một, thương, yêu, vua, tươi tốt, xinh, sông… Đặc biệt,
không thể không kể đến sự xuất hiện của các từ Hán Việt. Ở đây, chúng tôi chỉ xin lấy ví dụ
nhỏ về sự đan xen ngôn ngữ nhƣ sau: Trong 10 lời dân ca lượn cọi đầu tiên đƣợc lựa chọn
để khảo sát, bao gồm 72 dòng thơ, chúng tôi thấy có 61 đơn vị từ tiếng Việt cổ và 57 đơn vị
từ Hán – Việt. Chẳng hạn:
- Hua cẳm móc tỏa tộng liền nà/ Phượng vàng loọt khâu phja mà loọt/ Xử điệp vợt
phả moóc mà thâng/ Bên mà chắp vườn hồng pá cảnh/ Bên mà chắp vườn hạnh bâư
ban… (Đầu hôm mây mù tỏa ruộng đồng/ Phƣợng hoàng vƣợt núi rừng ban đến/ Bƣớm
ong vƣợt mây trắng tới nơi/ Thấy hồng hạnh vƣờn ngƣời đậu lại/ Đậu đúng ngay vƣờn hạnh
xanh tƣơi) [117; tr. 14, 322].
- Khuyên mừa lội noọng á táng tàng/ Cần rầu như mậu đàn đang thí/ Cạ mừa á táng
tỉ hại toan/ Mèng chập bjoóc lâm san mèng lỉn/ Cạ mừa á táng xạ hại thương/ Hại khan pjá
118
táng mường slắc tiểng... (Xin khuyên hỡi ngƣời em khác đƣờng/ Ngƣời ta nhƣ mẫu đơn đang
nở/ Bảo cùng ngƣời khác chốn hãy thƣơng/ Bƣớm gặp hoa lâm sơn quyến luyến/ Em ngoài xã
khác chốn thƣơng cho/ Nói cùng ngƣời khác mƣờng một tiếng [117; tr. 23 – 24, 322 – 333].
Từ ví dụ này, rà soát lại đối với các lời dân ca trong các công trình công bố tƣ liệu
DCTTSH Tày, chúng tôi thấy trong ngôn ngữ đan xen, phần lớn là từ Hán - Việt. Hơn thế,
chúng là những từ khá gần gũi với tiếng Việt hiện đại về phƣơng diện ngữ âm và ngữ nghĩa,
chỉ khác về cách ghép từ do có sự chi phối của tƣ duy ngôn ngữ dân tộc Tày. Sự gần gũi đó
có thể đƣợc lí giải nhƣ sau: DCTTSH của ngƣời Tày có thể đƣợc ra đời rất sớm. Song, phải
đến những năm ba mƣơi của thế kỉ XX, với Nguyễn Văn Huyên, việc sƣu tầm và công bố
tƣ liệu DCTTSH Tày mới đƣợc tiến hành. Trong đó, việc ghi chép DCTTSH theo hình thức
song ngữ Tày – Việt sớm nhất là vào năm 1970 với công trình Rọi – Vốn cổ văn học dân
tộc Tày Nùng [99]. Do đó, ngôn ngữ đƣợc sử dụng để tạo nên lời thơ nghệ thuật của
DCTTSH là ngôn ngữ trong vòng vài trăm năm trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sự
tiệm cận về mặt thời gian của ngôn ngữ DCTTSH Tày so với tiếng Việt hiện đại khiến cho
sự gần gũi về phƣơng diện ngữ âm, ngữ nghĩa của các từ Hán – Việt trong DCTTSH Tày là
có thể hiểu đƣợc.
Việc sử dụng nhiều từ Hán – Việt trong lời thơ nghệ thuật đã đem lại hiệu quả thẩm
mĩ đáng kể cho DCTTSH Tày. Về mặt sắc thái ý nghĩa, luôn tồn tại một sự đối lập giữa từ
Hán – Việt với từ thuần Việt và tiếng Tày. Đây là cơ sở tạo nên tính đa nghĩa cho văn bản.
Nói cách khác, những hình thái đối lập của ngôn ngữ lúc này đóng vai trò là các chất xúc tác
nhằm tạo ra những sắc thái ngữ nghĩa mới. Nhờ thế, trên phông nền chủ đạo là tiếng Tày –
biểu hiện của cách cảm, cách nghĩ Tày thực sự, thì sự xuất hiện dày đặc của các từ Hán – Việt
với hơi hƣớng trí tuệ, bác học khiến cho lời thơ nghệ thuật trong DCTTSH Tày mang vẻ đẹp
của sự đối lập: vừa tự nhiên, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa trang trọng, kiểu cách. Điều đó
đƣợc minh chứng khá rõ trong ngôn ngữ xây dựng nhân vật trữ tình của dân ca tình yêu.
Trên cơ sở hai kiểu tiếp thu: tiếp thu nguyên vẹn và tiếp thu có biến cải ngôn ngữ
của ngƣời Việt, ngƣời Tày đã sáng tạo ra những cách nói ƣớc lệ nhằm tôn tinh, ca ngợi
tuyệt đối ngƣời yêu của mình. Mọi thứ thuộc về tình yêu đều đƣợc đặt cao hơn hiện thực
cuộc sống nhiều lần, trở nên trang trọng một cách quý tộc nhờ vào các từ ngữ Hán – Việt
đƣợc sử dụng. Điều đó thể hiện qua cách xƣng hô trong tình yêu. Chàng trai Tày đƣợc gọi
là: sĩ tử, nho sĩ, nho sinh, quân tử, quan, Thục Đế…, cô gái Tày đƣợc gọi là: nàng, Dƣơng
Nga, Hằng Nga, Kình Châm (đều với nghĩa là những cô tiên, em đẹp)... Nơi ở của các nàng
có phòng hƣơng (phòng xông hƣơng của con gái quý tộc), phòng loan…, các chàng trai có
119
ngự đƣờng trần, phòng văn... Nơi hẹn hò của họ là chốn Đào Nguyên, hồ Hải Lăng, hồ Tây
Hải, chốn Bồng Lai, chốn Đông Quân…
- Nhẳm lừa lồng lọt chổn Đào Nguyên/ Nho sinh thiểu nự bạn duyên hiền (Chèo
thuyền xuống tới chỗ Đào Nguyên/ Nho sinh tố nữ đôi bạn hiền) [108; tr. 310, 431]
Vì đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đan xen Tày – Việt, Hán – Việt nhƣ trên, đọc nhiều
lời dân ca tình yêu của ngƣời Tày, thấy khá gần gũi với văn chƣơng trung đại của ngƣời
Việt. Xin nêu ví dụ: Kết duyên táng bản bạn đàng xa/ Dưởng đặng Thục Đế kết Hằng Nga/
Kết đảy pền duyên sle pây nả/ Thiên hạ tằng lai ná một rà (Kết duyên khác bản bạn đƣờng
xa/ Ví nhƣ Thục Đế kết Hằng Nga/ Kết thành nhân duyên còn mãi mãi/ Thiên hạ khắp chốn
chẳng một ta) [108; tr. 320, 442].
Nhƣ thế, ngôn ngữ Việt đã có sự thâm nhập sâu rộng vào ngôn từ nghệ thuật của
DCTTSH Tày. Tất nhiên, nói nhƣ thế bao hàm cả sự ảnh hƣởng của ngôn ngữ Hán thông
qua bộ phận từ Hán – Việt. Xét về dạng thức thì ngôn ngữ Việt ảnh hƣởng trực tiếp, ngôn
ngữ Hán chủ yếu ảnh hƣởng gián tiếp thông qua ngôn ngữ Việt. Tình trạng đan xen về ngôn
ngữ trong lời thơ nghệ thuật của DCTTSH Tày chính là kết quả của quá trình giao lƣu văn
hóa và ngôn ngữ mấy nghìn năm lịch sử giữa các tộc ngƣời Kinh, Hán, Tày trong điều kiện
sống cộng cƣ và cận cƣ ở khu vực miền núi phía Bắc.
4.2.2. Các công thức lời thơ nghệ thuật
DCTTSH Tày, Thái đều có hiện tƣợng trùng lặp, hay chính là sự tồn tại của những
công thức truyền thống. Đây là hiện tƣợng thƣờng gặp trong dân ca của nhiều dân tộc. Tuy
nhiên, ở dân ca của mỗi dân tộc, những biểu hiện cụ thể của hiện tƣợng lặp là khác nhau,
xuất phát từ những lí do liên quan đến tâm lí sáng tạo tộc ngƣời. Về hiện tƣợng này, PGS.
TS Nguyễn Phƣơng Châm từng chỉ ra hai kiểu lặp chính là trùng lặp nội dung (gồm trùng
lặp chủ đề và trùng lặp hình ảnh, biểu tƣợng), trùng lặp hình thức (gồm trùng lặp kết cấu,
trùng lặp dòng thơ, trùng lặp từ ngữ) [16; tr. 541 – 542]. Đây là chỉ dẫn hết sức hữu ích đối
với tác giả luận án trong việc tìm hiểu các công thức truyền thống trong lời thơ nghệ thuật
của DCTTSH Tày, Thái.
Trong lời thơ nghệ thuật của DCTTSH Tày, Thái, chúng ta có thể thống kê đƣợc
hàng loạt công thức ở đủ mọi cấp độ: một từ, một nhóm từ, một kiểu câu mở đầu, một cặp
câu đối đáp, một chuỗi hình ảnh, biểu tƣợng… Các công thức này đƣợc tác giả dân gian
khéo léo sử dụng theo hai hƣớng: hoặc sử dụng nguyên vẹn một đoạn, một câu, một cụm từ
trong dân ca đƣợc coi là đẹp đến độ hoàn mĩ, đã hết sức quen thuộc với tâm thức nhân dân;
hoặc sử dụng các hình ảnh, biểu tƣợng, điển tích để sáng tạo, tái tạo lại thành lời vàng ý
120
ngọc cho các nhân vật trữ tình thổ lộ tâm tƣ, tình cảm. Ở từng hƣớng này, các công thức
nghệ thuật trong DCTTSH Tày, Thái lại có những biểu hiện khác nhau.
4.2.2.1. Hệ thống hình ảnh, biểu tượng
Ở DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái và các dân tộc khác đều có sự tồn tại của thế
giới hình ảnh, biểu tƣợng phong phú, đa dạng mà sự tồn tại của chúng là một trong những
yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự riêng biệt, đặc sắc cho DCTTSH nói riêng, văn hóa
các dân tộc nói chung. Có rất nhiều hình ảnh, biểu tƣợng xuất hiện ở dân ca của các dân tộc,
song không phải ở dân ca của dân tộc nào biểu tƣợng đó cũng là nổi bật. Chẳng hạn, trong
DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, chúng tôi đều nhận thấy sự có mặt của các biểu
tƣợng nƣớc. Nhƣng, xét về mức độ xuất hiện và sự phong phú của các hƣớng nghĩa thì biểu
tƣợng nƣớc ở DCTTSH Thái trội hơn ở DCTTSH Tày. Theo hƣớng ấy, qua khảo sát,
chúng tôi thấy rằng DCTTSH Tày nổi bật bởi các hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và biểu
tƣợng có nguồn gốc tự nhiên, DCTTSH Thái nổi bật bởi hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các
biểu tƣợng có nguồn gốc nhân tạo. Sự xuất hiện ở mức độ đậm đặc của các hệ thống hình
ảnh, biểu tƣợng này trong dân ca Tày, Thái phản ánh phức hợp các đặc điểm văn hóa và
quan niệm thẩm mĩ khác nhau của hai dân tộc.
DCTTSH Tày nổi bật bởi hệ thống hình ảnh, biểu tượng là con người và hình ảnh,
biểu tượng có nguồn gốc từ tự nhiên. Lựa chọn mẫu là các hình ảnh, biểu tƣợng liên quan
đến con ngƣời và một số hình ảnh, biểu tƣợng thiên nhiên tiêu biểu, xuất hiện nhiều lần
trong DCTTSH Tày, Thái, chúng tôi đã khảo sát sự xuất hiện của chúng tƣơng tự nhƣ công
việc thống kê sự xuất hiện của các từ cầu khiến ở chƣơng viết trƣớc và có kết quả nhƣ sau:
Bảng 4.1: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và các hình ảnh,
biểu tƣợng nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Tày, Thái
Số lần xuất hiện Tần suất Số câu đƣợc khảo sát STT Hình ảnh, biểu tƣợng Tày Thái Tày Thái Tày Thái
4216 6068 189 2 4.5% 0.03% 1 Người/ Nhân vật
Chim 4216 6068 145 3.4% 1.6% 97 2
4216 6068 212 5.0% 1.4% 84 3 Ong, bướm, ve
Trăng, sao 4216 6068 63 1.5% 0.3% 18 4
121
Nhìn vào bảng trên, có thể thấy hệ thống hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và hình
ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Thái không nổi trội nhƣ ở
DCTTSH Tày. Sự tiêu biểu của hai nhóm hình ảnh, biểu tƣợng: một bên là con ngƣời, một
bên có nguồn gốc thiên nhiên phản ánh đặc điểm văn hóa tộc ngƣời.
Hệ thống các biểu tƣợng là con ngƣời trong DCTTSH Tày bao gồm các nhân vật
đƣợc nhắc đến trong điển tích nhƣ: Lương Quân – Bjoóc Lả, Kim Quế, Tống Trân – Cúc
Hoa, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài… Sự xuất hiện của các biểu tƣợng này liên quan đến
việc sử dụng điển tích của tác giả dân gian Tày – những con ngƣời bị ảnh hƣởng và ƣa tính
trí tuệ, bác học nhƣ văn chƣơng của ngƣời Kinh, Hán. Tần suất xuất hiện dày đặc của các
biểu tƣợng là con ngƣời có thể coi là một đặc điểm khá rõ ràng trong việc phân biệt hai hệ
thống DCTTSH Tày, Thái. Trong DCTTSH Tày, các biểu tƣợng là con ngƣời đƣợc sử
dụng nhiều nhất trong các bài hát với ý nghĩa thở than, trách móc hoặc ƣớc ao, thề thốt và
dặn dò, đặc biệt là ở các chƣơng lượn sử.
Sử dụng biểu tƣợng là con ngƣời, tác giả dân gian Tày chủ yếu khai thác các phạm
trù nhân cách, phạm trù chức năng và phạm trù tình cảm, số phận của các nhân vật trong
thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, lịch sử để tạo nên các hƣớng nghĩa cho biểu tƣợng. Chẳng
hạn, Lƣơng Quân – Bjoóc Lả là hai nhân vật chính trong truyện cổ tích cùng tên của bản
tộc. Truyện ca ngợi mối tình đẹp đẽ giữa chàng Lƣơng Quân với nàng Bjoóc Lả. Đôi trai
gái yêu nhau thắm thiết, đã từng thề thốt bên nhau kết duyên chồng vợ. Thế rồi khi Lƣơng
Quân phải lên đƣờng học hành ứng thí, ở nhà, nhà cha mẹ Bjoóc Lả đã nhận lời gả nàng
cho một gã nhà giầu. Bjoóc Lả không thuận ý, đau thƣơng vô hạn. Ngày cha mẹ làm lễ
cƣới, Bjoóc Lả buồn rầu ra mời khách rồi chạy thẳng vào rừng ăn lá ngón hoa vàng và biến
thành đóa hoa vàng nở muộn. Ngƣời đời đặt tên thứ hoa ấy là Bjoóc Lả. Câu chuyện tình bi
thƣơng ấy còn là cảm hứng cho tác giả dân gian Tày sáng tạo nên truyện thơ Bjoóc Lả với
755 câu. Khi trở thành biểu tƣợng trong DCTTSH, cặp đôi Lƣơng Quân – Bjoóc Lả mang ý
nghĩa biểu trƣng cho những câu chuyện tình trắc trở, đau thƣơng, cho tình cảm thủy chung
và ƣớc mong hạnh phúc của lứa đôi; Lƣơng Quân biểu trƣng cho chàng trai thƣ sinh, nho
nhã; Bjoóc Lả biểu trƣng cho cô gái đẹp và tình yêu thủy chung.
Việc sử dụng phổ biến các biểu tƣợng là con ngƣời trong DCTTSH Thái liên quan
đến ứng xử văn hóa của ngƣời Tày. Dƣới những ảnh hƣởng của văn hóa Kinh, Hán, ngƣời
Tày hình thành tâm lí ƣa chuộng cách ứng xử văn hoa, bác học, chuộng lối “tập cổ” mà việc
sử dụng các biểu tƣợng là con ngƣời – nhân vật trong truyện cổ, trong lịch sử - sẽ rất hữu
ích trong việc gia tăng tính văn hoa, trí tuệ cho tiếng hát trữ tình của họ.
122
Bên cạnh biểu tƣợng là con ngƣời, trong DCTTSH Tày, hệ thống các hình ảnh, biểu
tƣợng có nguồn gốc tự nhiên cũng rất nổi bật, nhƣ: chim, ong, bướm, ve, trăng, sao. Đây
đều là các hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc từ đời sống hiện thực, nhƣng khi đƣa vào
DCTTSH, tác giả dân gian Tày đã khéo léo khai thác đặc tính của các sự vật, hiện tƣợng
trong thế giới tự nhiên để tạo cho chúng các hƣớng nghĩa mới, không có thật trong hiện
thực khách quan. Các hƣớng nghĩa mới này đều nhằm mục đích diễn tả, bộc lộ tâm trạng
của chủ thể trữ tình. Nhƣ thế, sử dụng các biểu tƣợng này, DCTTSH Tày không dùng nghĩa
biểu vật mà dùng nghĩa bóng.
Trong số các hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc tự nhiên, biểu tƣợng chim có tần số
xuất hiện cao nhất (145 lần), nhiều nhất là chim nhạn (40 lần), chim én (23 lần). Tên các
loài chim đƣợc nêu lên không nhằm chỉ tên các loài chim cụ thể trong đời sống mà mỗi cái
tên ấy đƣợc dân gian gắn cho những chức năng chuyên chở cảm xúc khác nhau. Có thể kể
đến các hƣớng nghĩa của biểu tƣợng chim trong DCTTSH Tày là: chim biểu trƣng cho nỗi
buồn, chim biểu trƣng cho niềm vui và hạnh phúc lứa đôi, chim biểu hiện cho thân phận
con ngƣời.
Chức năng biểu trƣng cho nỗi buồn đƣợc tác giả dân gian Tày trao cho những con
chim lẻ bạn, chủ yếu là chim khảm khắc, chim queng quý. Trong thực tế, khảm khắc và
queng quý là những loài chim thƣờng hót trong chiều muộn và ban đêm nơi rừng sâu, vách
núi, dễ gợi nỗi sầu bi nơi lòng ngƣời. Bởi thế, tiếng hót của những con chim lẻ cất lên ở
không gian hoang vắng, trong những khoảng thời gian muộn màng đã trở thành biểu tƣợng
cho nỗi buồn xa cách ngƣời yêu trong DCTTSH Tày. Nỗi buồn sâu nặng nhất đƣợc ngƣời
Tày gửi gắm trong tiếng hót của chim khảm khắc. Sự thê lƣơng của tiếng hót ấy không chỉ
đƣợc hình thành từ tập tính của loài chim trong thực tế mà còn đƣợc đồng vọng bởi ý nghĩa
của một câu chuyện cổ bản tộc. Ngƣời Tày kể rằng chim khảm khắc vì bị lạc mất bạn tình
mà đêm đêm hót gọi nhau nghe da diết, não nề. Tiếng hót đều đều của loài chim đã vọng
vào lòng ngƣời bao thế hệ, tạo nên một vết hằn trong tâm lí ngƣời Tày về sự chia cách đau
lòng. Biểu tƣợng chim khảm khắc vì thế mang tính dân tộc và bản địa, vùng miền rõ nét.
Loan - phƣợng khi sóng đôi cùng nhau sẽ biểu trƣng cho niềm vui và hạnh phúc lứa
đôi, nhƣng khi đặt một mình, phƣợng hoàng lại ám chỉ cho ngƣời có xuất thân cao quý,
sang trọng, thuộc tầng lớp trên. Trong khi đó, để chỉ những ngƣời có thân phận thấp hèn, bé
nhỏ, ngƣời Tày thƣờng dùng các biểu tƣợng chim ri, chim chích.
Ong – bƣớm là cặp đôi hình ảnh, biểu tƣợng thƣờng gặp trong cả DCTTSH của
ngƣời Tày và ngƣời Kinh. Ở đây, ong – bƣớm đƣợc đặt trong mối quan hệ giao hòa, quấn
123
quýt cùng cỏ cây, hoa lá nhằm diễn đạt hạnh phúc lứa đôi. Khi chỉ xuất hiện một thành tố
ong hoặc bƣớm, biểu tƣợng này lại gợi nỗi cô đơn, buồn bã vì thiếu vắng bạn tình. Cũng có
khi, cánh bƣớm mỏng manh, phiêu dật đƣợc đặt nơi mƣờng trời, gắn liền với quan niệm thế
giới ba tầng của ngƣời Tày. Lúc này, cánh bƣớm biểu trƣng cho cõi thiêng. Bên cạnh đó,
biểu tƣợng ve đƣợc ngƣời Tày khai thác ở phƣơng diện âm thanh và thân hình. Họ cho rằng
ve vì gọi bạn, nhớ bạn mà héo hon, cô sầu. Đi vào DCTTSH, ve mang ý nghĩa là nỗi nhung
nhớ đến thắt ruột của những lứa đôi yêu nhau hoặc biểu trƣng cho giọng hát của con ngƣời
trong cuộc lượn.
Xuất phát từ đặc điểm của trăng, sao trong thực tế là những sự vật phát ra ánh sáng khi
đêm tối, khi chuyển hóa vào DCTTSH, trăng, sao mang ý nghĩa biểu trƣng cho những không
gian đẹp và chỉ thời gian nghệ thuật - thời gian đêm muộn, thời gian của sự nảy sinh cảm xúc
nhớ nhung và cô sầu vì lứa đôi xa nhau, thời gian của sự tiếc nuối, níu kéo vì khoảnh khắc
bên nhau ngắn ngủi. Ngoài ý nghĩa chỉ thời gian, trăng, sao còn biểu trƣng cho ngƣời đẹp xa
cách khó với tới, ở một khoảng cách khó vƣợt qua trong tình yêu. Ý nghĩa này của trăng, sao
đƣợc tạo nên bởi sự cao xa trong thực tế của trăng sao khi nhìn từ mặt đất, đồng thời đƣợc
hình thành nhờ tích truyện về Thục đế ƣớc mong đƣợc lấy Hằng Nga trên cung trăng.
Sự nổi trội của nhóm các hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc thiên nhiên trong
DCTTSH Tày phản ánh đặc điểm thiên nhiên và cảm thức của tộc ngƣời này với thiên
nhiên. Thứ nhất, môi trƣờng tự nhiên của ngƣời Tày ở Đông Bắc nhìn chung khá gần gũi
với ngƣời Kinh. Trong đó, các sự vật, hiện tƣợng thiên nhiên mà con ngƣời tiếp xúc chủ
yếu là hoa, trăng sao, ong, bƣớm, chim… và chúng đã đi vào DCTTSH, trở thành các hình
ảnh, biểu tƣợng nổi bật. Môi trƣờng tự nhiên của ngƣời Thái ở Tây Bắc lại có sự khác biệt
với nhiều núi cao rừng thẳm, mạng lƣới sông suối chằng chịt. Thiên nhiên xuất hiện trong
DCTTSH Thái chủ yếu liên quan đến nƣớc. Thứ hai, nằm trong vòng ảnh hƣởng của văn
hóa Hán, Kinh khá rõ rệt, cảm thức về thiên nhiên của ngƣời Tày nhìn chung khá gần gũi
với ngƣời Kinh và nằm trong quỹ đạo của tƣ tƣởng Á Đông. Đó là tƣ tƣởng không xem
thiên nhiên là một đối tƣợng khách quan để con ngƣời phải chinh phục. Thiên nhiên không
tĩnh tại mà có năng lực biến đổi và hóa sinh. Điều này dẫn đến sự ghép đôi của các hình
ảnh, biểu tƣợng nhƣ ong, bƣớm, ve. Thiên nhiên và con ngƣời luôn có sự hòa đồng, hòa
điệu, giống nhƣ tinh thần thiên nhân hợp nhất của Kinh Dịch. Bởi thế, ngƣời Tày trong khi
sống hòa hợp với tự nhiên đã nhận thấy một số sự vật có sợi dây liên hệ với tình cảm lứa
đôi. DCTTSH Tày mà chúng tôi nghiên cứu ở đây chủ yếu có nội dung liên quan đến chủ
124
đề tình yêu. Do đó, khi thể hiện tâm tƣ, tình cảm theo cách thức tức cảnh sinh tình, việc sử
dụng nhiều hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc tự nhiên là điều dễ hiểu.
Nhƣ thế, các hình ảnh, biểu tƣợng nổi bật trong DCTTSH Tày đƣợc sử dụng với
nhiều ý nghĩa phong phú song đều nhằm mục đích diễn tả thế giới tƣ tƣởng, tình cảm của
con ngƣời.
DCTTSH Thái nổi bật bởi hệ thống hình ảnh, biểu tượng nước và hình ảnh, biểu
tượng có nguồn gốc nhân tạo. Khảo sát sự xuất hiện của một số hình ảnh, biểu tƣợng tiêu
biểu thuộc loại này trong DCTTSH của hai dân tộc, chúng tôi có kết quả nhƣ sau:
Bảng 4.2: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các hình ảnh, biểu
tƣợng có nguồn gốc nhân tạo trong DCTTSH Tày, Thái
Số lần xuất hiện Tần suất Số câu đƣợc khảo sát STT Thái Tày Thái Tày Thái Tày Hình ảnh, biểu tƣợng
6068 4216 412 188 6.8% 4.4% Nước 1
Khăn 6068 4216 43 0.7% 0% 0 2
Áo, vải 6068 4216 68 1.1% 0.3% 12 3
Chăn, gối, đệm 6068 4216 81 1.3% 0.2% 8 4
Sân tình 6068 4216 21 0.3% 0% 0 5
0 Hạn khuống 6068 4216 7 0.1% 0% 6
6 Sợi chỉ, dây tình 6068 4216 43 0.7% 0.1% 7
Nhƣ thế, các hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc nhân
tạo xuất hiện trong DCTTSH Thái nhiều hơn là trong DCTTSH Tày, tạo thành đặc điểm
nổi bật cho hệ thống dân ca này.
Nước trong DCTTSH Thái có nhiều hình thức biểu hiện: mương (mƣơng dẫn nƣớc),
phai (đập chắn nƣớc), me nặm (sông), huổi (suối), noong (ao), ta (bến), nặm (nƣớc), bó
(nguồn nƣớc)… với nhiều hƣớng nghĩa khác nhau.
Trong kết quả nghiên cứu luận án Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân
gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [113], tác giả Đặng Thị Oanh đã giải mã biểu
tƣợng nƣớc trong VHDG Thái trên một số hƣớng nghĩa cơ bản là biểu hiện tính nữ (mẹ, nữ
thần); biểu hiện không gian thiêng; mang sức mạnh của sự thanh tẩy, hủy diệt và tái sinh; là
125
dấu hiệu dự báo các hiện tƣợng tự nhiên, xã hội Thái; là chất kết nối tình cảm, thiết lập và
cố kết cộng đồng bản mƣờng Thái. Sự hình thành các hƣớng nghĩa này là kết quả của
những ảnh hƣởng của các đặc điểm về môi trƣờng sống, phong tục, tập quán, tín ngƣỡng
của ngƣời Thái khi xem xét mối liên quan của nƣớc với từng lĩnh vực. Khảo sát DCTTSH
Thái, chúng tôi nhận thấy hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc trong DCTTSH Thái cũng mang các ý
nghĩa này, trong đó tập trung nhất, nổi bật nhất là nƣớc có vai trò gắn kết tâm hồn, tình cảm
của những lứa đôi yêu nhau. Sự nổi trội của một hƣớng nghĩa này có liên quan đến chức
năng của DCTTSH: gắn liền với các sinh hoạt gia đình và xã hội của con ngƣời.
Nƣớc xuất hiện khi họ ngỏ lời yêu nhau, khi họ trao gửi tình cảm nhớ nhung, tƣơng
tƣ, rồi cả khi họ thề thốt, dặn dò nhau. Giữ vai trò quan trọng trong đời sống vật chất của
con ngƣời, nƣớc đồng thời tham gia vào việc tạo lập các mối quan hệ tình cảm và gắn bó
với mọi kỉ niệm của tình yêu. Dòng sông, con suối, từng bờ từng bến đã trở thành nơi hò
hẹn và lƣu giữ kỉ niệm của biết bao lứa đôi. Lối tƣ duy gắn liền với nƣớc đã ăn sâu vào máu
thịt họ, để rồi, xa nhau, họ nhắn nhủ:
- Oản nặm nà lựm đỉn/ Hí nặm nà lựm mơng cắp phai (Đắp nƣớc xin đừng quên
đất sét/ Khơi nƣớc vào ruộng xin đừng quên mƣơng, quên phai) [121; tr. 344, 559 - 560].
- Nặm Mức hẻng tó le cói hựm/ Nặm Tẹ hẻng tó thú cói lựm (Nƣớc sông Mã cạn
bằng lòng đĩa mới quên/ Nƣớc sông Đà cạn bằng chiếc đũa mới quên) [121; tr. 327, 540].
Ý nghĩa của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc trong DCTTSH Thái đƣợc hình thành từ
hiện thực khách quan, trong điều kiện cƣ trú liên quan nhiều đến không gian nƣớc và từ
nhận thức của ngƣời Thái về vai trò, quan hệ của nƣớc với đời sống của con ngƣời trên
nhiều lĩnh vực. Sự kết hợp của các phƣơng diện này đƣợc trừu tƣợng hóa thành biểu tƣợng
nƣớc trong lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ, vừa chứa đựng các ý nghĩa chung của biểu tƣợng
nƣớc trong văn hóa Thái, vừa mang đặc điểm riêng là sự thể hiện nổi trội của một hƣớng
nghĩa do sự chi phối của đặc điểm loại hình trữ tình dân gian.
Bên cạnh hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc, DCTTSH Thái còn đặc trƣng bởi nhóm các
hình ảnh, biểu tƣợng là vật thể nhân tạo nhƣ áo, khăn, chăn gối, sợi chỉ, sân tình, hạn
khuống. Trong đó, các hình ảnh, biểu tƣợng áo, khăn, chăn gối, sợi chỉ là các đồ dùng cá
nhân và dùng trong sinh hoạt gia đình, đƣợc khai thác ở các phạm trù chất liệu, phạm trù
trạng thái, tính chất và phạm trù giá trị sử dụng; sân tình, hạn khuống là các công trình kiến
trúc và đƣợc khai thác ở phạm trù không gian văn hóa, phạm trù chức năng.
Thuộc nhóm vật thể nhân tạo, ngoài nghĩa biểu trƣng cho tiêu chuẩn chất lƣợng cuộc
sống giàu – nghèo, sang – hèn, các hình ảnh, biểu tƣợng đều chứa đựng nội hàm văn hóa
126
nhất định. Chẳng hạn, hạn khuống (sàn chơi) ngoài ý nghĩa quen thuộc là không gian diễn
xƣớng giao duyên, nơi bắt đầu của tình yêu và hạnh phúc gia đình nhƣ sân tình, còn có ý
nghĩa biểu trƣng cho tín ngƣỡng phồn thực của ngƣời Thái. Điều đó thể hiện ở ngay kiến
trúc của hạn khuống. Ngƣời Thái dựng cái hạn (sàn sân khấu) hình vuông tƣợng trƣng cho
sinh thực khí nữ, cây nêu dựng chính giữa sàn tƣợng trƣng cho sinh thực khí nam. Không
gian phồn thực sống động ấy là nơi phù hợp để diễn ra những cuộc hát giao duyên, làm nảy
nở những mối tình trai gái mà kết thúc tốt đẹp của mối nhân duyên ấy sẽ là nền tảng cho sự
phồn thực, sinh sôi nảy nở của con ngƣời. Tính chất phồn thực của cuộc vui hạn khuống
còn đƣợc gợi lên từ việc diễn xƣớng các bài hát xin thang lên của các chàng trai và hát đáp
không có thang của các cô gái. Cùng với lời hát, việc kéo, rút thang của các cô gái là những
biểu trƣng sống động mô tả hành vi giao phối. Ở không gian hạn khuống, tín ngƣỡng phồn
thực đƣợc mô tả hết sức tinh tế.
Khăn đều là những vật dụng cá nhân của mỗi ngƣời. Khi đi vào DCTTSH, khăn
mang ý nghĩa biểu trƣng cho cho tín vật trong tình yêu. Hoa văn trên chiếc khăn piêu đặc
trƣng của ngƣời Thái có ba motif là kút piêu, xai peng và ta leo, tƣợng trƣng cho sự sống và
tình yêu của ngƣời Thái. Kút piêu là phẩm vật cao quý dành biếu bậc bề trên, ta leo là vật
trừ đuổi tà ma, bảo vệ thần hồn cho ngƣời đội khăn, xai peng là dây tình của đôi lứa. Trong
DCTTSH Thái, biểu tƣợng khăn chủ yếu đƣợc sử dụng với ý nghĩa chỉ tín vật tình yêu, nói
lên sự quấn quýt của tình cảm nam nữ và ý nghĩa bảo vệ linh hồn cho ngƣời yêu. Ngoài
khăn piêu, biểu tƣợng khăn còn có các hình thức biểu hiện khác nhƣ khăn đào, khăn lụa…
với ý nghĩa tƣơng tự nhƣ khăn piêu.
Vải, áo biểu trƣng cho phẩm chất và ƣớc mong về cuộc sống gia đình của ngƣời phụ
nữ dân tộc Thái. Ý nghĩa này xuất phát từ nghề nghiệp của ngƣời Thái. Trồng bông, dệt vải
là một trong nhiều nghề truyền thống của ngƣời Thái. Việc dệt vải, khâu áo đòi hỏi sự chăm
chỉ, khéo tay, đƣợc mặc định là việc của các bà, các mẹ, các cô, các em gái. Theo truyền
thống Thái, các cô gái học dệt vải, khâu áo từ khá sớm. Họ dệt rất nhiều, dùng để làm của
hồi môn, dành tặng nhà chồng và dành cho cuộc sống gia đình sau này. Thông qua công
việc thêu dệt, ngƣời Thái đánh giá phẩm chất siêng năng và khéo léo của ngƣời phụ nữ. Bên
cạnh đó, biểu tƣợng áo còn mang nghĩa biểu trƣng cho linh hồn con ngƣời. Điều này có liên
quan tới tín ngƣỡng của ngƣời Thái: coi áo là vật chứa đựng linh hồn.
Sợi chỉ biểu trƣng cho sự gắn kết tình cảm nam nữ. Sợi chỉ có khi đƣợc gọi là sợi tơ,
sợi chỉ đỏ, sợi chỉ hồng, dây thƣơng… Sợi chỉ giống nhƣ một minh chứng, một vật tín ƣớc
của trai gái từ thuở mới yêu nhau. Nó không có ý nghĩa là buộc sợi chỉ đỏ lên cổ tay để đính
127
ƣớc mà tƣợng trƣng cho chiếc khăn, chiếc vòng… trai gái tặng nhau. Khi hát giao duyên,
biểu tƣợng sợi chỉ đƣợc nhắc đến với ý nghĩa thay cho những vật đính ƣớc kia, dùng để
nhắc khéo đối phƣơng về tình cảm đã hẹn ƣớc. Khi họ tiến tới hôn nhân, trong đám cƣới,
sợi chỉ trắng mới đƣợc buộc vào cổ tay nhƣ để đánh dấu, khẳng định rằng cô gái đã có
chồng. Sợi chỉ lúc này còn mang ý nghĩa của một thứ bùa bảo vệ cho sự thủy chung của lứa
đôi. Sợi chỉ đứt là tình yêu, hạnh phúc đứng trƣớc bờ vực chia ly, xa cách.
Chăn, gối, đệm là những vật dụng dùng trong đời sống gia đình. Ngoài ý nghĩa là
của cải cô gái mang về nhà chồng, dùng để đánh giá phẩm chất của cô gái, hình ảnh chăn,
gối, đệm còn mang ý nghĩa biểu thị hạnh phúc vợ chồng và là nơi cất giấu những xúc cảm
riêng tƣ của lứa đôi yêu nhau.
- Phắư đảy noọng éng xai cót pằn pheng nợ/ Đảy xú sòn nọn cú đôi xoong noọng
ởi (Ƣớc đƣợc ôm em thƣơng yêu vào lòng/ Đƣợc ấp ủ nằm chung chăn chung gối) [121; tr.
367, 584].
- Chại nà vạng vạy khẹm mon nhịnh chí mỏm lọ/ Mon dú hô nhăng coọng thả chại
ná/ Phả dú xảo mạy láy nhăng dắn ha chại (Anh bỏ rơi em, chăn chiếu sẽ lạnh lùng/ Anh
đừng bỏ rơi em bên gối, em sẽ buồn/ Gối trên đầu đang cùng em đợi chờ anh đấy/ Chăn vắt
trên sào tre láy đang còn đợi anh) [121; 464, 687].
Có thế nói, sự hòa hợp gối chăn là biểu hiện cao nhất của hạnh phúc vợ chồng. Đó là
mơ ƣớc của biết bao thế hệ dân gian Thái, đƣợc gửi gắm vào những câu hát trữ tình. Có lẽ
bởi thế mà hình ảnh gối chăn cứ trở đi trở lại với số lần xuất hiện cao nhất trong số các hình
ảnh, biểu tƣợng là vật thể nhân tạo trong DCTTSH Thái nhƣ một niềm mong ƣớc khôn
nguôi về hạnh phúc. Bên cạnh đó, gối chăn còn biểu thị sự riêng tƣ với những cảm xúc giấu
kín của những ngƣời đang yêu. Đó là lời yêu thƣơng đƣợc cất giấu dƣới gối, là hi vọng về
sự gặp gỡ thông qua hình ảnh ghép gối đôi, trải chăn đợi chờ.
Việc sử dụng nhóm hình ảnh, biểu tƣợng là các vật thể nhân tạo với các ý nghĩa nhƣ
trên có liên quan đến phong tục, tập quán, tín ngƣỡng của ngƣời Thái. Bóc tách từng lớp ý
nghĩa của mỗi hình ảnh, biểu tƣợng, chúng ta đều dễ dàng nhận ra những nội hàm văn hóa
sâu xa trong đó.
4.2.2.2. Sự lặp lại về mặt ngôn ngữ trong những phạm vi khác nhau
Trong DCTTSH Thái, phổ biến sự lặp lại của cụm từ và cấu trúc câu trong phạm vi
một chỉnh thể tác phẩm. Cụ thể, DCTTSH Thái có 6 kiểu lặp là: lặp liệt kê (lặp liệt kê
tƣơng hỗ, lặp liệt kê tƣơng đồng), lặp vòng tròn, lặp so sánh (lặp so sánh tƣơng hỗ, lặp so
sánh tƣơng đồng), lặp triển khai, lặp ngắt quãng, lặp kết hợp. 6 kiểu lặp này đã đƣợc TS.
128
Phạm Đặng Xuân Hƣơng phân tích khá chi tiết và xác đáng trong bài viết Các cấu trúc
kiểu câu nghệ thuật trong dân ca Thái [57] và gọi nó là điệp lặp, nằm trong cấu trúc ngôn
từ trùng điệp của dân ca Thái. Chúng tôi thấy sự phân tích đó là xác đáng và hợp lí nên ở
đây chúng tôi sẽ không đi sâu làm rõ.
Điều đáng lƣu ý là ở DCTTSH Thái, sự lặp về hình thức thƣờng diễn ra trong nội bộ
một bài dân ca. Ở hầu hết các bài hát của ngƣời Thái đều có hiện tƣợng lặp. Chẳng hạn, ở
khắp báo xao, sau những tiếng đệm mở đầu nhƣ ún hướn căn ơi, ói pánh căn á…, là những
dòng thơ có sự lặp lại liên tiếp những cụm từ và cấu trúc câu phục vụ việc hát đi hát lại
nhiều lần, mỗi lần một lời khác nhau nhƣng tƣơng xứng với nhau về ý. Bài dân ca đƣợc
hình thành từ chính những sự lặp lại, nhấn nhá đó. Sự phổ biến của kiểu lặp về hình thức, ở
cấp độ ngôn ngữ với mức độ dày đặc trong phạm vi một đơn vị tác phẩm DCTTSH ngoài
tác dụng nhấn mạnh nội dung cần biểu đạt còn liên quan đến thể thơ của DCTTSH Thái và
đặc trƣng ngôn ngữ của ngƣời Thái. DCTTSH Thái đều đƣợc sáng tác theo thể tự do, với
dung lƣợng mỗi bài thƣờng khá dài. Điều đó gây khó khăn cho việc ghi nhớ bài dân ca đó
theo con đƣờng truyền khẩu. Ngay cả khi bài dân ca đó đƣợc ghi chép lại thì cũng vẫn gây
khó học thuộc bởi chữ Thái cổ không có dấu ngắt câu. Vì thế, việc phổ biến hiện tƣợng lặp
có tác dụng tạo ra những sự ám ảnh, giống nhƣ những vòng tròn đƣợc lặp đi lặp lại, tạo vết
hằn trong ấn tƣợng ngƣời nghe, ngƣời đọc. Từ đó, nó làm cho bài dân ca có điểm nhấn, có
nhịp điệu, khiến mọi ngƣời dễ thuộc, dễ nhớ hơn bài dân ca đó, đồng thời, dễ ứng khẩu
trong nhiều hoàn cảnh.
Trong khi đó, ở DCTTSH Tày, phổ biến sự lặp lại của khung kết cấu và câu mở đầu
trong phạm vi nhóm tác phẩm cùng chủ đề. Về khung kết cấu, các bài hát thở than, trách
móc thƣờng đƣợc kết cấu theo dạng: hoàn cảnh – trải lòng. Hoàn cảnh của nhân vật trữ
tình thƣờng có dạng: tháng… anh/em sầu buồn, kết duyên khác bản, hết lòng yêu bạn. Việc
trải lòng thƣơng nhớ đƣợc thực hiện thông qua ngoại cảnh hoặc điển tích, với các tâm trạng
ƣớc ao, thở than hoặc trách móc. Sau đây là một ví dụ DCTTSH Tày đƣợc sáng tác theo
khung kết cấu ấy: Lẹo mỉnh kết đuổi cấu vằn dờ/ Than thân đuổi bạn quá hâng thu/ Vằn
vẳng dú puồn hác pây luẩy/ Cốc mạy nẳng lồng khảu ẩn du (Hết lòng yêu lấy bạn từng giờ/
Than thân vì bạn đã mấy thu/ Ngày vắng vì buồn đi dạo núi/ Tìm đến gốc cây ngồi sầu tƣ)
[176; tr. 472].
Bởi vì lặp kết cấu, tức lặp cái phôi, cái khuôn mẫu cho sự phô diễn một cung bậc
tình cảm nên câu mở đầu thƣờng có hình thức khá giống nhau. Chẳng hạn, các bài hát với ý
nghĩa thở than, trách móc thƣờng lặp câu mở đầu bắt đầu với các từ, cụm từ là: Tháng
129
(tháng giêng, tháng năm, tháng sáu, tháng bảy, tháng chín,…), vọng mừa – ngẩng trông
(Ngẩng trông mƣời hai đoạn mƣờng trời/ mƣời hai nƣớc trắng ngần, mƣời hai đoạn mây
xanh/ba mƣơi vùng bà mụ/ chốn đào tiên ngàn dặm/ chốn vƣờn cảnh phù sa/ hoa trên rừng
đã héo), vọng lồng – nhìn xuống (Nhìn xuống cửa hạ giới/ chốn trời rộng du xuân/ bên bờ
bến ngã ba), kết căn – kết duyên, lẹo mỉnh - hết lòng, tặt cằm - gửi lời. Trƣớc nội dung hát
về trăng, tác giả dân gian sẽ mở đầu bằng những câu nhƣ: Hai xinh nưa fạ dú phả slung
(Trăng xinh trên trời ở trời cao), Hai xinh nưa fạ dú phả khao (Trăng xinh trên trời ở trời
trong), Hai xinh nưa fạ dú phả rương (Trăng xinh trên trời ở trời thẳm), Hai sinh sao sắc fạ
rùng xa (Trăng lên rọi chiếu qua ngọn gianh), Hai sinh sao sắc fạ rùng mơ (Trăng lên rọi
chiếu qua ngọn chanh)…, hay trong chƣơng gà gáy của lƣợn slƣơng, tác giả dân gian sẽ mở
đầu bằng những câu nhƣ: Cáy khăn liểu oóc tiểng cáy khăn (Gà gáy đi dạo gà gáy ran), Cáy
khăn liểu oóc tổng bản cọn (Gà gáy đi dạo khắp bản làng), Cáy khăn liểu oóc tói tổng môn
(Gà gáy đi dạo trống canh dồn), Cáy khăn dục oóc tọi khăn chèn (Gà gáy dạo chơi gà gáy
tràn), Cáy khăn dục oóc khắp đông tây (Gà gáy dạo chơi đông chí tây)…
Về câu mở đầu, sự trùng lặp có khi không dừng ở việc lặp từ, cụm từ mà nhiều khi
còn lặp nguyên câu mở đầu với chức năng trần thuật, miêu tả về hoàn cảnh, bối cảnh tình
yêu của lứa đôi. Chẳng hạn, các câu nhƣ: Chiêng nhỉ slam vụ xuân (Giêng hai ba mùa
xuân), Slí hả hốc vụ hè (Bốn năm sáu mùa hè), Chết pét cẩu vụ thu (Bảy tám chín mùa thu),
Slíp ết lạp vụ đông (Mƣời, một, chạp mùa đông), Kết duyên táng bản bạn đàng xa (Kết
duyên khác bản bạn đƣờng xa), Lẹo mỉnh kết đuổi cấu đông tâm (Hết lòng yêu lấy bạn đồng
tâm), Tặt cằm thương đuổi bạn đường xa (Gửi lời thƣơng tới bạn đƣờng xa)…
Việc lặp câu mở đầu ở dân ca của ngƣời Kinh là khá phổ biến. Tuy thế, ở dân ca của
ngƣời Kinh, không phải bao giờ câu mở đầu này cũng ăn nhập với nội dung của bài. Có khi
câu mở đầu không có sự móc nối, liên quan ý nghĩa với những câu sau. Nó chỉ đóng vai trò
là công thức mở đầu mà thôi. Xin nêu ví dụ nhƣ trƣờng hợp hai câu Trên trời có đám mây
xanh/ Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng, khi đƣợc đặt trong bài ca: Trên trời có đám
mây xanh/ Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng/ Ước gì anh lấy được nàng/ Để anh
mua gạch Bát Tràng về xây…, có ngƣời phân tích đám mây đủ màu sắc kia rất đẹp, thể hiện
sự giao hòa, quấn quýt, phù hợp với tâm trạng vui vẻ, đang muốn ngỏ lời cùng cô gái của
anh nông dân chất phác. Nếu hiểu hai câu đầu nhƣ thế, thì đến bài dƣới đây lại thấy nó
không hề phù hợp với tâm trạng buồn rầu, trông ngóng của cô gái: Trên trời có đám mây
xanh/ Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng/ Ới là tình phụ tình chàng/ Chừ là duyên chi
lắm bấy/ Cái dạ em trông chàng, mà chẳng thấy chàng đâu…
130
Nhƣng, việc lặp câu mở đầu ở DCTTSH Tày không chỉ có ý nghĩa nhƣ sự thể hiện
của một công thức sáng tác. Câu mở đầu đƣợc lặp lại nhƣng là lặp lại trong chuỗi các bài
dân ca thuộc cùng một chƣơng lượn, thể hiện cùng một loại tâm trạng nên dù đƣa vào bài
nào thuộc chƣơng đó nó cũng đều có sự phù hợp về ý nghĩa.
Những biểu hiện của hiện tƣợng lặp trong DCTTSH của ngƣời Tày nhƣ trên có
nguyên nhân và ý nghĩa hoàn toàn khác so với ở DCTTSH Thái. Xét về mặt ngôn ngữ, nó
không xuất phát từ đặc điểm ngôn ngữ nào của dân tộc Tày. Việc lặp ở cấp độ khung kết
cấu chỉ cho thấy việc sáng tác dân ca theo những lối mòn, những công thức có sẵn nhằm
sắp xếp các bài hát cùng chủ đề vào cùng môt chƣơng, một cung lượn. Sự lặp các khung kết
cấu: hoàn cảnh – trải lòng (thƣơng nhớ/ thở than/ trách móc/ ƣớc ao) ở các bài dân ca có ý
nghĩa tƣơng tự là một sự sắp đặt theo một khuôn đúc. Việc lặp này phổ biến nhất là trong
lượn Tày ở Lạng Sơn với các nội dung: lượn mời, lượn đi đƣờng, lượn hoa, lượn dùng
thuyền hái hoa, lượn trăng, lượn năm tháng, lượn gà háy, lượn canh, lượn trống, lượn đôi,
lượn giã biệt… và trong lượn slương với các nội dung: Gà gáy, hái nhị xuân, năm canh chờ
mong, kết duyên cùng làng khác, mƣời hai tháng, bốn mùa, trăng đẹp, hoa thơm, dặn dò
bạn… Các câu mở đầu hay khung kết cấu trong dân ca Tày đóng vai trò là những truyền
thống để mọi ngƣời dễ học, dễ nhớ, thuận tiện cho việc ứng tác trong những trƣờng hợp cụ
thể. Ở điểm này, DCTTSH Tày có sự gặp gỡ với dân ca của ngƣời Kinh. Nhƣng nó cũng
khác dân ca của ngƣời Kinh ở điểm câu mở đầu trong DCTTSH Tày luôn có sự phù hợp
với các câu bên dƣới, nhƣng dân ca của ngƣời Kinh thì điều đó là chƣa chắc chắn.
Mặt khác, xét về thể thơ thì việc lặp khung kết cấu có thể coi là một hệ quả của việc
sử dụng thể thơ thất ngôn trong DCTTSH của ngƣời Tày, đặc biệt là thất ngôn tứ tuyệt.
Trong khi đó, với việc sử dụng thể thơ tự do mang tính phóng khoáng, ngẫu hứng,
DCTTSH Thái khó có điều kiện để lặp lại khung kết cấu ở nhiều bài dân ca khác nhau.
4.2.2.3. Việc sử dụng điển tích
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái đều sử dụng điển tích. Song, việc sử dụng điển
tích trong DCTTSH Thái không nổi trội nhƣ trong DCTTSH Tày. Chúng tôi đã tiến hành
khảo sát 286 bài DCTTSH Thái và 500 bài DCTTSH Tày và có kết quả:
Bảng 4.3: Khảo sát việc sử dụng điển tích trong DCTTSH Tày, Thái
Nguồn gốc Dân tộc Số bài đƣợc khảo sát Số lần xuất hiện Dân tộc Hán tộc Kinh tộc
Thái 286 3 3 0 0
Tày 500 198 88 89 21
131
Từ đó, chúng tôi thấy trong DCTTSH Thái, điển tích xuất hiện rất ít (ba lần) và đều
có nguồn gốc dân tộc. Song, ở DCTTSH Tày, điển tích có mặt với mức độ dày đặc và từ
nhiều nguồn khác nhau. Tìm hiểu việc sử dụng điển tích trong DCTTSH của ngƣời Tày,
chúng tôi nhận thấy có những đặc điểm nổi bật nhƣ sau:
Thứ nhất, về nguồn gốc của điển tích: Điển tích trong dân ca Tày rất phong phú và
đa dạng. Xét về nguồn gốc khoa học của các điển tích, có thể phân ra thành hai loại:
- Nguồn gốc văn học: Lương Quân – Bjoóc Lả, Tư Mã Văn Quân, Ngưu Lang Chức
Nữ, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Hà Bá Long Vương, Thủy Tinh, Lưu Đài Hán Xuân,
Nam Kim – Thị Đan...
- Nguồn gốc lịch sử: Tư Mã Tương Như – Trác Văn Quân, Trương Lương, Hàn Tín,
vua Trụ, Đát Kỉ…
Xét về nguồn gốc dân tộc, các điển tích trong DCTTSH Tày có thể đƣợc phân làm
ba nhóm:
- Vay mƣợn của Trung Quốc: Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Trương Lương, Tiêu
Hà, Hàn Tín, Chiêu Quân, vua Trụ - Đát Kỷ, Thần Nông, Hữu Sào, vua Thuẫn, Thục đế -
Hằng Nga, chốn Đào Tiên, Đông Quân, …
- Vay mƣợn trong kho văn liệu của văn học ngƣời Kinh: Thánh Gióng, vua Thái
Tông, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Trầu cau...
- Nguồn gốc bản tộc: Lương Quân – Bjoóc Lả, Lưu Đài Hán Xuân, Nam Kim – Thị
Đan, Huyền Linh, Huyền Quang…
Ở đây, chúng tôi quan tâm đến cách phân loại liên quan đến nguồn gốc dân tộc của
các điển tích. Việc sử dụng hai nhóm điển tích có nguồn gốc Kinh tộc và Hán tộc là kết quả
của sự giao lƣu và tiếp biến văn hóa Tày, Kinh, Hán. Tuy có nguồn gốc ngoại lai nhƣng khi
đi vào DCTTSH Tày, các điển tích đã ít nhiều đƣợc vận dụng biến đổi cho phù hợp với đặc
điểm của dân tộc, vùng miền, khiến cho nó mang đậm màu sắc dân tộc. Điển tích đã thoát
thai đời sống cũ trong các sự kiện lịch sử, văn học của ngƣời Kinh và Trung Quốc. Chẳng
hạn, trong lịch sử Trung Quốc, Vƣơng Chiêu Quân đƣợc coi là là một trong tứ đại mỹ nhân.
Nhắc đến Chiêu Quân, ai cũng nghĩ ngay đến tích Chiêu Quân cống Hồ. Thế nhƣng, tác giả
dân gian khi sáng tác dân ca đã khéo léo Tày hóa tích này bằng việc biến Chiêu Quân thành
ngƣời con gái nƣớc Việt bị triều đình đem đi cống giặc phƣơng Bắc. Nàng bị đem đi triều
cống trong tâm trạng nhớ quê đau lòng, công cha nghĩa mẹ sinh thành chƣa báo đáp. Hàng
loạt các chi tiết cho thấy Chiêu Quân triều cống là sản phẩm của Việt Nam chứ không phải
Trung Quốc cổ: Chiêu Quân ăn trầu (liên quan đến ý nghĩa sự tích Trầu cau của Việt Nam),
132
Chiêu Quân đi thuyền (ở Trung Quốc, từ kinh đô nhà Hán đến Hung Nô không có đƣờng
thủy), vua Hán là của Việt Nam, vua Tần là vua Hung Nô.... Hơn thế, tích Chiêu Quân còn
đƣợc Tày hóa cao độ khi cho rằng sau khi đi sứ, Chiêu Quân trở về An Nam và đƣợc vua
phong quan cai quản bảy huyện, phù hợp với suy nghĩ về sự gần gũi của giai cấp thống trị
cùng quan niệm ở hiền gặp lành hết sức mộc mạc của ngƣời dân Tày: Vua truyền văn vọ
thuổn quan luông/ Chiêu Quân pây sử tái hồi hương/ Phong hẩư mỉnh nàng cai chết huyện/
Công khỏ mừa sứ nước Hồ Vương (Vua truyền văn vũ, báo quan mƣờng/ Chiêu Quân đi sứ
đƣợc hồi hƣơng/ Phong cho Chiêu Quân cai bảy huyện/ Trả công khó nhọc cống Hồ
Vƣơng) [108; tr. 361, 483].
Hoặc, bài lượn Lƣơng Sơn Bá – Chúc Anh Đài cũng vay mƣợn một tích truyện của
Trung Quốc. Thế nhƣng, nếu nguyên bản ở Trung Quốc, kết thúc câu chuyện, đôi trai gái
biến thành uyên ƣơng hồ điệp, mãi mãi bên nhau thì ở bài lƣợn của ngƣời Tày ở Lạng Sơn,
Anh Đài tự vẫn ở trên rừng, biến thành chim khảm khắc. Đây là loài chim thƣờng đƣợc
nhắc tới trong dân ca tình yêu của ngƣời Tày. Khảm khắc là loài chim nhỏ, kêu về đêm
quãng từ cuối xuân đến thu. Tiếng chim thê lƣơng, da diết, não nề trong đêm đen, vọng lại
từ ngọn đồi xa hay rừng già khiến lòng ngƣời sầu thảm. Từ đặc điểm của loài chim này
trong đời sống và từ ý nghĩa của một câu chuyện cổ, chim khảm khắc đã trở thành biểu
tƣợng cho nỗi sầu bi thê thiết của con ngƣời khi bị chia cách. Việc để Anh Đài hóa thành
chim khảm khắc là minh chứng rõ ràng cho sự đồng hóa của các điển tích Trung Quốc
DCTTSH của ngƣời Tày.
Thứ hai, cách sử dụng điển tích của ngƣời Tày có phần đặc biệt. Bên cạnh cách
thông thƣờng là điển tích có thể chỉ đƣợc điểm thoáng qua trong bài hát, điển tích trong dân
ca tình yêu của ngƣời Tày còn đƣợc hát thành một bài hát dài. Điều này đặc biệt phổ biến
trong các chƣơng lượn sử. Các tích truyện nhƣ Chiêu Quân, Đài Linh, Bjoóc Lồm, Lưu
Nguyễn sử kinh, Nam Kim – Thị Đan… đƣợc hát nhằm khéo gợi đối phƣơng noi theo. Cả
diễn xƣớng lƣợn cọi và lƣợn slƣơng đều có thể có lượn sử. Một cuộc hát mà có phần lƣợn
sử tức tình duyên đã đạt đến độ thắm thiết, mặn nồng.
Thứ ba, sự xuất hiện của điển tích trong DCTTSH Tày là khá dày đặc. Theo kết quả
thống kê của chúng tôi, chỉ tính riêng điển tích về nhân vật, trong 500 bài đƣợc lựa chọn
khảo sát, đã thấy xuất hiện 189 lần. Đặc biệt, ngƣời Tày có các chƣơng lượn sử. Ở đó, cả
một chƣơng dài chỉ hát về một tích truyện trong lịch sử hoặc truyền thuyết, cổ tích. Đặc
điểm này liên quan đến phong cách văn chƣơng của mỗi dân tộc. Lực lƣợng sáng tác dân ca
133
Tày chủ yếu là những trí thức dân tộc, những nghệ nhân có tài nên ƣa dùng các điển tích
nhƣ phong cách văn chƣơng bác học. Điều đó khiến cho DCTTSH Tày thiên về chất trí tuệ.
4.2.3. Sự phổ biến của các thể thơ
4.2.3.1. Sự phổ biến của thể thất ngôn trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày
DCTTSH Tày sử dụng các thể tự do, thể ngũ ngôn, thể thất ngôn. Trong đó, thể thơ
chính là thể thất ngôn. Ngƣời Tày dùng cả thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn trƣờng thiên và
song thất. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, từ 500 bài DCTTSH đƣợc lựa chọn, thống
kê từ các công trình sƣu tầm nhƣ đã trình bày ở phần phạm vi nghiên cứu thì có đến 409 bài
(chiếm 81,8 %) đƣợc làm theo thể thơ thất ngôn, 81 bài (chiếm 16,2%) đƣợc làm theo thể tự
do, 10 bài (chiếm 2%) đƣợc làm theo thể ngũ ngôn.
Ngƣời Tày có lượn cọi, lượn then, phong slư, lượn slương... đều là những loại hình
dân ca giao duyên và đƣợc sáng tác theo thể thất ngôn. Trong đó, lượn cọi, lượn then,
phong slư... đƣợc sáng tác theo thể thất ngôn trƣờng thiên, hay còn gọi là thất thất lƣu thủy.
Đây là thể thơ sử dụng vần chân (chữ cuối của câu trên vần với chữ lƣng của câu dƣới,
thƣờng là chữ thứ năm). Cách gieo vần này tƣơng tự cách gieo vần trong câu song thất
thuộc thể thơ song thất lục bát của ngƣời Việt. Ngƣời Việt gieo vần yêu vận ở hai câu thất
của bài ca dao làm theo thể song thất lục bát: Nước hồ Tây vừa trong vừa mát/ Đường chợ
Bưởi lắm cát dễ đi/ Cô kia bóng bảy làm chi/ Để cho anh ấy đi đi về về [157; tr. 180].
Trong thể thất ngôn trƣờng thiên của DCTTSH Tày, từ hai câu đầu gieo yêu vận,
các câu thơ tiếp theo cứ theo quy luật này mà lặp lại. Từ đó, bài dân ca có thể dễ dàng kéo
dài: Bươn chiêng ngòi hăn bjoóc một than/ Mọi thức bjoóc phung ban tềnh cáng/ Ong điệp
bên vội váng tím xa/ Một mèng bên pây mà tím nhị/ Như là than noọng nhỉ bấu hăn…
(Tháng giêng trồng hoa nở là than/ Mọi thứ hoa ban nở trên cành/ Ong bƣớm bay rộn ràng
tìm thăm/ Kiến ong cũng vội vàng tìm nhị/ Nhƣ đang tìm bạn nghĩa mất đâu…) [117; tr.
206, 522].
Tuy thế, cần lƣu ý lí do chính để các bài lượn cọi, phong slư, lượn sử... có dung
lƣợng lớn không hoàn toàn do việc sử dụng thể thất thất lƣu thủy. Trên thực tế, các thể lục
bát, song thất lục bát... phổ biến trong dân ca của ngƣời Kinh cũng có thể đƣợc sử dụng để
gia tăng dung lƣợng của tác phẩm. Thế nhƣng, ở dân ca của ngƣời Kinh chúng ta ít gặp
trƣờng hợp bài dân ca dài quá 20 câu. Sự khác nhau giữa độ dài của lượn cọi, lượn then...
của ngƣời Tày so với dân ca của ngƣời Kinh lúc này không phụ thuộc vào thể thơ. Cụ thể,
độ ngắn của dân ca của ngƣời Kinh phụ thuộc đặc điểm của lối hát đối đáp. Đối đáp là một
hình thức tỏ tình của nam nữ thanh ngƣời Kinh. Đặc trƣng của lối hát đối đáp là ngắn gọn.
134
Tài năng của ngƣời đối đáp không phụ thuộc độ dài ngắn mà phụ thuộc vào khả năng ứng
tác nhanh, nội dung sâu sắc. Trong khi đó, ở ngƣời Tày, ngoài hình thức đối đáp nhằm thể
hiện tài năng của ngƣời hát, DCTTSH Tày còn có một bộ phận không liên quan đến tính
chất thi tài giữa các bên hát. Chẳng hạn, lượn sử liên quan tới việc mƣợn các tích truyện xƣa
cũ trong lịch sử, truyên thuyết... để nhắc nhở bạn tình noi theo, hoặc phong slư liên quan tới
sự bộc lộ tình cảm buồn nhớ triền miên, lượn cọi tuy là đối đáp nhƣng không đặt mục đích
thi tài ứng tác mà đề cao tính trình tự của nội dung hát cùng tài ghi nhớ của các chàng trai.
Chính vì thế, các bài hát lượn sử, phong slư, lượn cọi thƣờng khá dài.
Nhƣ vậy, độ dài của bài DCTTSH vì lí do sử dụng thể thất ngôn trƣờng thiên mà
chúng tôi nghiên cứu ở đây chỉ có ý nghĩa phân biệt với độ ngắn của bài DCTTSH do đƣợc
làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt mà chúng tôi sẽ phân tích ở sau.
Vì đƣợc làm theo thể thất ngôn trƣờng thiên nên nhiều bài DCTTSH của ngƣời Tày
có dung lƣợng khá lớn. Chẳng hạn nhƣ cung lượn 12 tháng (slip nhí bươn) dài 249 câu. Các
bài lƣợn còn có thể dài hơn thế, tùy thuộc vào nội dung và tài nghệ của những ngƣời tham
gia vào cuộc lƣợn.
Nhƣ trên đã trình bày, thể thất ngôn trƣờng thiên sử dụng yêu vận, chữ cuối cùng
của câu trƣớc bắt vần với chữ thứ năm của câu sau. Nếu chữ cuối câu trƣớc là vần bằng thì
chữ thứ năm câu sau cũng vần bằng. Ngƣợc lại, nếu chữ cuối câu trƣớc là vần trắc thì chữ
thứ năm câu sau cũng là vần trắc. Bài dân ca dung nạp cả vần bằng, trắc trong gieo vần tạo
nhịp, khiến bài dân ca uyển chuyển, linh hoạt. Điều này rất có ý nghĩa đối với việc thể hiện
tâm hồn, tình cảm của con ngƣời: khi êm đềm, lắng đọng, khi mạnh mẽ, mãnh liệt. Vì ƣu
thế đó, thể thất thất lƣu thủy đƣợc sử dụng trong sáng tác lượn cọi, phong slư, lượn then…
bởi so với lượn slương, các nhóm này rộng rãi hơn về nội dung bài hát. Trong số các bài
DCTTSH đƣợc sáng tác theo thể thất ngôn trƣờng thiên, thỉnh thoảng có những bài mà có
câu chỉ gồm 5 tiếng, kiểu biến thể. Lúc này, việc gieo vần cuối của câu trƣớc sẽ rơi vào bất
kì tiếng nào của câu tiếp. Nhƣ thế, vẫn là yêu vận nhƣng chữ lƣng không cố định là tiếng
thứ mấy, chỉ trừ tiếng cuối cùng. Chẳng hạn: Hua cẳm moóc tỏa bản/ Cần tồn mì lục nhạn
mà nòn… (Đầu hôm mây che bản/ Đồn rằng có con nhạn qua đêm…) [117; tr. 14, 322].
Kiểu gieo yêu vận nhƣ trên còn đƣợc áp dụng trong thể song thất của DCTTSH Tày,
tƣơng tự nhƣ thể song thất trong dân ca của ngƣời Kinh. Bên cạnh đó, thể tự do cũng dùng
lối gieo vần yêu vận. Tuy nhiên, các thể này đều chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong DCTTSH Tày.
Khác với lượn cọi, lượn then, phong slư là loại dân ca sử dụng vần lƣng để kéo dài
khổ thơ, lượn slương chỉ dùng thất ngôn tứ tuyệt là chính. Các câu 1, 2, 4 vần với nhau nhƣ
135
lối thơ Đƣờng cổ xƣa. Do thể thất ngôn tứ tuyệt có sự quy định rõ ràng về số câu trong một
bài nên ở bài dân ca lượn slương luôn chỉ gồm 4 câu, không có sự kéo dài tùy hứng nhƣ
lượn cọi, phong slư...: Cáy khăn liểu oóc tiểng cáy khăn/ Lo tềnh nưa phạ oóc rụng vằn/
Bạn hợi nhằng thương rà hại lỉn/ Xiết hại sloong rà thương chứ căn (Gà gáy đi dạo gà gáy
ran/ Sợ trời cao rạng sáng mênh mang/ Bạn có lòng thƣơng thời chơi đã/ Kẻo nữa hai ta lại
nhớ than) [108; tr. 303, 435]. Sự chế định của thể thơ với số câu và cách gieo vần nhƣ thế
đã làm hạn chế khả năng miêu tả và biểu cảm của thể thơ này so với thể thất ngôn trƣờng
thiên. Hơn nữa, do chỉ đƣợc sử dụng sáng tác các bài lượn slương nên sự phổ biến của thể
thơ này trong DCTTSH Tày không cao bằng thể thất ngôn trƣờng thiên.
Việc DCTTSH Tày đƣợc sáng tác theo thể thất ngôn là chủ yếu có liên quan tới lịch sử
hình thành, phát triển và địa bàn cƣ trú của tộc ngƣời này. Về nguồn gốc, ngƣời Tày ở Đông
Bắc hiện nay bao gồm một bộ phận ngƣời có nguồn gốc là ngƣời Kinh hóa Tày. Bên cạnh
đó, do đặc điểm vùng đất cƣ trú, ngƣời Tày cộng cƣ và cận cƣ với ngƣời Kinh. Những điều
đó dẫn tới sự giao lƣu, tiếp biến văn hóa giữa hai cộng đồng Kinh, Tày mà một trong những
hệ quả của nó là việc thể thất ngôn đƣợc sử dụng rộng rãi trong DCTTSH Tày. Truyền
thống sử dụng thể thơ này đƣợc tạo thành chủ yếu do đội ngũ các nghệ nhân có tài, các trí
thức bình dân của dân tộc – những ngƣời đƣợc học hành và đọc sách vở của ngƣời Kinh. Ở
từng vùng, nổi lên vai trò của các nghệ nhân dân gian nổi tiếng. Họ là những ngƣời biết
nhiều, giỏi sử dụng và sáng tác dân ca. Họ có vai trò to lớn trong việc trau dồi vần điệu của
dân ca để tạo nên thể thơ với quy cách vần điệu ngày càng ổn định. Với việc sử dụng thể
thơ này, DCTTSH Tày tiến dần tới sự chuyên nghiệp hóa.
4.2.3.2. Sự phổ biến của thể tự do trong dân ca trữ tình sinh hoạt Thái
Thể thơ chiếm ƣu thế trong DCTTSH Thái là thể tự do (trúc chi từ). Lời hát gồm
nhiều câu dài ngắn khác nhau, không nhất thiết theo một khuôn phép nào. Nhờ thế, câu hát
trở nên mƣợt mà, phóng khoáng. Cảm xúc của con ngƣời đƣợc diễn đạt tự nhiên, trôi chảy
nhƣ một dòng sông, không bị ngắt quãng hay chịu sự chi phối của các niêm luật gò bó. Cảm
xúc cứ thế mở ra theo mạch của câu hát. Câu trƣớc gọi câu sau nhƣ dòng chảy mãi không
ngừng. Câu hát tƣởng hết lại có câu kế tiếp. Thể thơ này tạo cho DCTTSH Thái giống nhƣ
những lời nhắn nhủ thiết tha, yêu thƣơng, tựa hồ nói mãi không hết, kể mãi không ngừng.
Biểu hiện rõ nhất của dạng thức này, từ kết quả thống kê của chúng tôi, trong 286 bài
DCTTSH Thái đƣợc lựa chọn khảo sát thì cả 286 bài này đều đƣợc sáng tác theo thể tự do,
tức chiếm tỉ lệ 100%.
136
Thể tự do của DCTTSH Thái đƣợc biểu hiện thông qua các kiểu thông dụng nhƣ
kiểu xư bắc (câu dài 5 - 15 chữ, phải là số lẻ, ăn vần ở tiếng lẻ), khống khái (câu gồm 5 - 7
chữ, có vần giống nhƣ vè ở ngƣời Việt, vần đặt ở cuối câu trƣớc, bắt vần với tiếng đầu câu
sau). Các kiểu này dùng xen kẽ trong các bài hát và đƣợc chuyển đoạn, chuyển thể một
cách điêu luyện, tài tình. Chẳng hạn, khi muốn chuyển tiếp giữa hai đoạn thơ gồm toàn
những câu 5 - 7 chữ, ngƣời ta sử dụng một vài câu thơ dài trên chục chữ, hoặc ngƣợc lại,
chen giữa hai đoạn thơ gồm toàn những câu dài trên chục chữ là những dòng thơ 5 - 7 chữ,
có khi co lại chỉ còn vài chữ. Cách chuyển đoạn linh hoạt, uyển chuyển này không làm trơ
nhịp điệu của lời hát.
Để tạo nhịp điệu, các bài ca thƣờng sử dụng vần lƣng. Vần cuối của câu trƣớc bắt
với vần lƣng của câu sau. Đáng chú ý là DCTTSH Thái hiệp vần khá linh hoạt. Vần lƣng có
thể gieo vào tiếng bất kì của câu sau. Chỗ gieo vần lƣng tạo ra nhịp ngắt khiến câu hát vừa
vang xa, vừa rung động nhƣ xoáy sâu vào trái tim ngƣời nghe. Ví dụ nhƣ sự gieo vần trong
ví dụ sau: Ài dặc nhẳm phục, cố phục hạt/ Nhẳm xạt, cố xạt móng/ Nhẳm chong, cố chong
xầu/ Ài cu xó ê nộc xấu tù ô nọi họng dủ chơ khú/ Xó ê mư chúc xàng chụ khứa pơ tửn
(Anh dẫm vào chiếu, sợ chiếu rách/ Dẫm vào thảm, sợ thảm nhàu/ Dẫm lên giƣờng, sợ
giƣờng sập/ Anh xin làm con cu gáy nhỏ gọi trong đêm/ Xin lấy tay chạm sƣờn ngƣời tình
của ai, đánh thức) [176, tr. 951].
Rõ ràng, so với thể thất ngôn của ngƣời Tày, thể tự do của ngƣời Thái có một lợi thế
để thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình, đặc biệt trong tình cảm lứa đôi.
Các lứa đôi Thái sẽ không bị áp lực về quy tắc thể loại mà có thể thoải mái hát lên những
cảm xúc chân thực nhất của mình. Việc phổ biến thể tự do trong DCTTSH Thái có nguyên
nhân từ đặc trƣng ngôn ngữ Thái. Theo những nghiên cứu của các nhà khoa học về sự thiên
di của các ngành Thái ở Tây Bắc Việt Nam, đặc biệt qua hai cuốn sử thi của ngƣời Thái
Đen: Quắm tố mương và Táy pú xấc, vào khoảng thế kỷ IX đến XI ngành Thái Đen do Tạo
Xuông và Tạo Ngần dẫn đƣờng di cƣ từ Mƣờng Ôm, Mƣờng Ai đến Mƣờng Lò cƣ trú và
họ đã sáng tạo ra chữ viết để ghi lại những sinh hoạt văn hóa của mình. Chữ viết là phƣơng
tiện duy nhất để ghi chép các thông tin kinh tế, xã hội, văn hóa của dân tộc Thái. Và nhƣ
thế, chữ Thái cổ đã trở thành di sản văn hóa của tộc ngƣời và nhân dân Thái Mƣờng Lò.
Chữ Thái cổ Mƣờng Lò không có dấu ngắt câu, bởi vậy, các văn bản chủ yếu đƣợc viết
bằng văn vần, có vần điệu nhƣ thơ, có nhạc điệu và tiết tấu rất cao để dễ đọc, dễ ghi nhớ.
Bởi vậy, DCTTSH Thái đƣợc sáng tác dƣới dạng những câu dài ngắn đan xen, nhƣng đặc
biệt giàu vần điệu và dễ nhớ, dễ khắp.
137
Nhƣ thế, ngƣời Tày và ngƣời Thái, do có những đặc trƣng ngôn ngữ riêng, lực lƣợng
sáng tác riêng, chịu ảnh hƣởng của những nền văn hóa khác nhau nên dẫn tới sự khác nhau
về thể thơ nhƣ trên. Việc sử dụng phổ biến thể thất ngôn trong DCTTSH Tày hay thể tự do
trong DCTTSH Thái chính là sự thể hiện của nhịp điệu tâm hồn riêng của từng dân tộc.
Cuộc sống gắn bó với núi rừng hoang vu, tâm hồn ngƣời Thái mộc mạc, dân dã, theo đó
dân ca của họ cũng phóng khoáng với việc sử dụng phổ biến thể thơ tự do để diễn tả một
cách tự nhiên cảm xúc của mình. Trái lại, DCTTSH Tày sử dụng phổ biến thể thơ thất ngôn
do ảnh hƣởng của thơ ca Hán, Kinh.
4.3. Sự khác biệt về đặc điểm diễn xƣớng
4.3.1. Tính tổ chức của hát đối đáp
Hát đối đáp DCTTSH bao gồm hai cấp độ xét về mặt tổ chức:
Hát lẻ: Đây là dạng diễn xƣớng không có sự chuẩn bị từ trƣớc, không có nghi thức
tổ chức chặt chẽ, mang tính tự phát. Diễn xƣớng có thể xảy ra tự nhiên, bất chợt vào bất cứ
lúc nào, trong khoảng thời gian không dài. Đó là lúc lao động trên nƣơng rẫy, trong rừng
hay nơi đồng ruộng, cũng có thể là trong đời sống thƣờng ngày. Ngƣời ta hát vào buổi sáng,
ban chiều, hay những đêm trăng thơ mộng nơi bản làng mù sƣơng. Bởi không tuân theo
một nghi thức tổ chức nào nên các diễn xƣớng này đều sử dụng dạng hát tự do. Phần ngôn
từ nghệ thuật tham gia vào diễn xƣớng chỉ là những câu hát đơn hoặc hát đối đáp lẻ tẻ. Các
cá nhân tham gia diễn xƣớng chính là những ngƣời tham gia vào sáng tạo dân ca. Hoạt
động nghệ thuật gắn bó chặt chẽ với tính vui chơi giải trí, trao đổi tình cảm, với môi trƣờng
lao động và đời sống thƣờng ngày. Nhƣ thế, đây là dạng thức nguyên hợp, tồn tại ở trạng
thái tự nhiên nhất. Nó vốn tồn tại ở các thể loại dân ca, nhƣng hiện nay dạng thức này về cơ
bản đã mai một nhiều.
Hát cuộc: Đây là hình thức diễn xƣớng có tổ chức, có thể thức, lề lối đƣợc quy định
rõ ràng, chặt chẽ. Hình thức này dần tách rời khỏi thực tiễn hàng ngày, song không vì vậy
mà tách khỏi cuộc sống, môi trƣờng lao động. Trong loại diễn xƣớng này, công tác chuẩn
bị, cách thức diễn xƣớng đều có bài bản thứ tự trƣớc sau. Chức năng giao duyên của dân ca
giao duyên dần đƣợc biến thành chức năng giao lƣu tình cảm giữa những con ngƣời tham
gia vào cuộc hát. Hơn thế, có khi nó còn đƣợc nâng tầm thành cuộc thi tài mang yếu tố nghệ
thuật. Tính tự giác của dạng hát cuộc đã thay thế cho tính tự phát của dạng hát lẻ nguyên sơ.
Ở những cuộc hát có quy mô lớn, đặc biệt là cuộc hát có tính thi tài, diễn xƣớng cuộc
thƣờng do những ngƣời đứng đầu làng bản hoặc một gia đình khá giả trong bản đứng ra tổ
chức, hoặc tài trợ để tổ chức.
138
Ở ngƣời Thái Tây Bắc tồn tại cả hai cách thức tổ chức diễn xƣớng DCTTSH này.
Cách thức tổ chức thứ nhất có thể gặp ở diễn xƣớng khắp xáng buôn, khắp khơ nay chơi.
Chẳng hạn, khắp khơ nay chơi là điệu hát rong chơi, mang tính chất vui bâng quơ, thƣờng
dành cho lứa tuổi thanh niên còn thích bông đùa và hát vào khoảng thời gian nông nhàn. Họ
hát khi đi chơi ngoài đƣờng, trên cánh đồng hoặc lúc vào rừng. Khắp xáng buôn là điệu hát
giải sầu, đƣợc hát lúc vắng vẻ với tiếng hát to, ngân dài nhƣ than vãn để trải lòng về những
chuyện tình cảm riêng tƣ, khó chia sẻ. Trong thời gian điền dã cùng sinh viên trƣờng Đại
học Khoa học Thái Nguyên tại Sơn A (Văn Chấn - Yên Bái), chúng tôi thƣờng đƣợc nghe
điệu khắp khơ nay chơi của các nam thanh niên nơi đây. Mở đầu là tiếng sáo pí tam (sáo
nối), tiếp sau đó là tiếng hát to, vang lên oang oang ngoài đƣờng. Bên cạnh đó, các điệu
khắp báo xao lại thuộc dạng hát cuộc, tức hát có thể thức, lề lối đàng hoàng. Khắp báo xao
có thể diễn ra trong nhiều dịp: đám cƣới, làm nhà, lễ hội…; đƣợc tổ chức ngoài trời hoặc
trong nhà. Theo ghi nhận của chúng tôi trong chuyến thực địa tại Sơn A (Văn Chấn – Yên
Bái) với sự chứng kiến trực tiếp lễ hội Lồng tồng đầu xuân và một đám cƣới, một lễ làm
nhà tại đây, thì, hình thức tổ chức khắp báo xao trong nhà với tính chất nhƣ một cuộc thi tài
là phổ biến. Ngƣời ta bày mâm hát cho bên nam và bên nữ, có quy ƣớc rõ ràng về cuộc thi.
Khi đƣợc tổ chức ở nơi giao lƣu cộng đồng nhƣ vậy, khắp báo xao ít đƣợc tổ chức theo
hình thức hát cặp mà hát cùng lúc nhiều cặp, mang tính tập thể. Mục đích tỏ tình thầm kín
của cá nhân đƣợc thay bằng mục đích thi tài. Tuy thế, đồng bào vẫn giữ nguyên lời bài hát
nhƣ trong truyền thống, ít có sự sửa đổi.
Trong khi đó, ở ngƣời Tày Đông Bắc, dấu ấn về dạng hát lẻ, không có tổ chức rất
mờ nhạt. Trong quá khứ, dạng hát tự do này từng khá phổ biến với phuối pác, phuối rọi,
lượn rọi khi ngƣời ta gặp nhau ngoài đƣờng, ngoài chợ, khi làm nƣơng rẫy hoặc vui chơi
nơi chân núi. Tuy thế, ngày nay, chúng ta khó đƣợc chứng kiến dạng hát này của ngƣời
Tày. Trong toàn bộ quá trình điền dã tại một số nơi thuộc Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng,
chúng tôi không hề gặp dạng hát này. Dạng thức tổ chức hát cuộc với thể thức, lề lối ổn
định, rõ ràng nổi bật hơn cả. Diễn xƣớng lượn slương, lượn then, lượn cọi, iếu… thuộc dạng
này. Chẳng hạn, diễn xƣớng iếu quy định ngƣời tham gia cuộc hát phải là trai gái chƣa kết
hôn. Nếu đã có vợ có chồng rồi thì họ không đƣợc phép iếu nữa. Hơn thế, những ngƣời
quen biết nhau từ trƣớc nhƣ ngƣời cùng bản, cùng làng, cùng họ thì không iếu với nhau.
Đối tƣợng của iếu phải là ngƣời lạ, từ nơi khác đến. Nhìn chung, bối cảnh cho cuộc hát có
lề lối của ngƣời Tày thƣờng là trong ngày lễ hội, khách nghỉ tại bản làng. Lúc này chủ làng
trao đổi thống nhất với chủ nhà có khách trọ, một tốp thanh niên của bản kéo đến nhà có
139
khách trọ, lượn mời khách tham gia cuộc lượn. Khách có lời đáp lại là bắt đầu cuộc lượn
ứng tác giữa khách và tốp thanh niên. Sự ứng tác của đôi bên đều nằm trong phạm vi các
chủ đề của lượn slương, lượn cọi, iếu… với những khuôn mẫu, công thức có sẵn cho ngƣời
hát học thuộc và vận dụng để sáng tạo, tái tạo. Trong các loại hát cuộc của ngƣời Tày, lượn
cọi là hình thức diễn xƣớng có tính tổ chức cao nhất với sự tham gia của slấy cá (thầy dẫn)
với vai trò dẫn lượn, sự tồn tại của sách hát dành cho bên nam và sách hát dành cho bên nữ.
Ở các cuộc hát trong và sau lễ hội Lồng tồng của ngƣời Tày mà chúng tôi đƣợc tham dự ở
Na Rì (Bắc Kạn), phổ biến diễn xƣớng lượn slương với tính chất thi tài và lượn cọi với tính
chất giao lƣu tình cảm. Phần lời của các bài hát này đã đƣợc viết mới hoặc bổ sung, sửa đổi
cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện đại.
4.3.2. Không gian, thời gian của diễn xướng
Cùng là hát đối đáp nhƣng không gian, thời gian diễn xƣớng ở mỗi dân tộc lại có
những nét khác nhau. Ở ngƣời Tày có các hình thức lượn trong nhà, lượn ngoài đường,
lượn lễ hội. Trong đó, các loại lượn lễ hội, lượn trong nhà phổ biến hơn so với lượn ngoài
đƣờng. Tƣơng ứng với các hình thức lượn ấy là các loại không gian, thời gian khác nhau.
Lượn ngoài đƣờng là những cuộc hát mang tính chất tự do, ngẫu hứng, diễn ra trong những
dịp gặp nhau không hẹn trƣớc, có không gian là những địa điểm mang tính chất tự nhiên
nhƣ các quang cảnh hội xuân, bên lề phiên chợ, trên các gò đồi, ven suối, đƣờng lên nƣơng,
về bản… giống trong diễn xƣớng sli của ngƣời Nùng. Khi đó, họ sẽ dùng phuối pác, phuối
rọi là lối nói có vần điệu, mang tính hồn nhiên, dân dã cao để trao đổi tình cảm. Lượn lễ hội
là hình thức cuộc hát đƣợc tổ chức tại không gian lễ hội nhƣ lễ hội lồng tồng, lễ hội Nàng
Hai, với thời gian là sau phần lễ. Cuộc lượn có thể kéo dài từ ngày đến đêm tối, song khi
đêm tối, không gian của cuộc lượn thƣờng đƣợc chuyển vào trong nhà. Lượn trong nhà là
cuộc lượn có tính tổ chức cao với lề lối, quy củ khá rõ ràng. Về thời gian nói chung, các
cuộc lượn thƣờng đƣợc tổ chức vào những dịp lễ hội của bản làng hoặc khi có sự gặp gỡ
giữa chủ và khách nhƣ lễ cƣới, lẩu then, mừng nhà mới, khách lạ đến chơi. Về không gian,
thời gian cụ thể, cuộc lượn đƣợc tổ chức ở trong nhà và vào ban đêm. Quanh bếp lửa, phía
mặt trên (nả nưa) là chỗ dành cho nam giới ngồi. Phía sau (nả đâư) là chỗ ngồi của nữ giới.
Phía dƣới (nả tâử), gần chạn bát, bếp nấu là chỗ của ngƣời nấu nƣớng phục vụ cuộc hát.
Phía ngoài (nả noỏc) gần cầu thang lên xuống là chỗ ngồi của ngƣời dự nghe. Nhà lúc này
không thuần túy là không gian sinh hoạt của cuộc sống con ngƣời mà còn mang chức năng
của thính phòng, đƣợc đặt trong khoảng không gian giữa nhà. Cuộc lượn đƣợc thực hiện từ
hai chủ thể: chủ bản và khách xa, có thính giả thƣởng thức và hỗ trợ. Thƣờng, trai làng nọ
140
hát với gái làng kia hoặc ngƣợc lại. Hiếm khi trai gái cùng một bản lượn với nhau. Trong
không gian hẹp ấy, tại các bản làng, tiếng lượn cất lên phần nào phá tan không khí tĩnh lặng,
buồn tẻ, u tịch của núi rừng. Chính trong không gian yên ắng này, lời lượn càng lôi cuốn và
tăng thêm sức truyền cảm cho ngƣời nghe, góp phần sáng tạo, tái tạo văn hóa truyền thống
qua nhiều thế hệ.
Ở ngƣời Thái, diễn xƣớng khắp tự do hơn về không gian, thời gian. Họ có thể hát
trong không gian lễ hội: lễ hội Hoa ban, lễ hội Hạn khuống, lễ hội Xòe chiêng, lễ hội Kin
pang then… Ngoài ra, ngƣời Thái còn hát bất kể khi nào: lúc lao động (làm nƣơng, vào
rừng kiếm củi, nhặt rêu dƣới suối…), lúc trăng sáng đẹp trời, lúc đi chơi ngoài đƣờng, lúc
hò hẹn tâm tình… Họ hẹn nhau cùng hát ở nhà mình, nhà bạn; sân trƣớc nhà hay bãi ven
suối, ven bản; bên mâm cơm, mâm rƣợu…
Nhƣ thế, với sự phổ biến của lượn lễ hội và lượn trong nhà, các đặc điểm không
gian, thời gian các cuộc hát lượn của ngƣời Tày dần định hình ở một thể thức tƣơng đối ổn
định và công khai, ít nhiều mang tính chỉn chu, nghiêm túc, đòi hỏi sự chuẩn bị từ trƣớc.
Trong khi đó, các cuộc hát của ngƣời Thái diễn ra thƣờng xuyên hơn, không câu nệ về thời
gian, địa điểm.
4.3.3. Dạng thức diễn xướng theo sách
Trong diễn xƣớng dân ca, yếu tố ứng tác cho phép ngƣời ta sáng tạo ra những phiến
đoạn, những bài hát mới. Điều đó làm nên dạng thức diễn xƣớng tự do. Diễn xƣớng
DCTTSH của dân tộc nào cũng có dạng thức này. Song, riêng ở ngƣời Tày, chúng tôi nhận
thấy có thêm dạng thức diễn xƣớng theo sách.
Lượn slương của ngƣời Tày về cơ bản thuộc dạng diễn xƣớng tự do. Các bài hát đều
hoặc nhập tâm, hoặc ứng khẩu chứ không cần có thầy dẫn nhƣ trong diễn xƣớng lượn cọi.
Sau phần hát chào mời là phần hát tâm tình của nam nữ thanh niên Tày. Những lời hát đƣợc
hát lên theo lối ứng tác, đối đáp tự do, tùy nghi hoàn cảnh, tâm trạng của đôi bên mà đƣa ra
những lời đáp cho hợp ý, đẹp tình. Tuy thế, trong lượn slương, bên cạnh một số đƣờng lượn
mang tính tự do, ứng tác nhƣ lượn nải, lượn khan, lượn kiết, còn có sự xuất hiện của lượn
tuổng là một đƣờng lượn đòi hỏi hát theo sách. Do các bài lượn tuổng dài, khó thuộc, khó
nhớ nên khi lượn, đối tƣợng nam có thể xem sách lượn trƣớc một khổ rồi đọc cho nữ ngân
khổ tiếp theo. Quá trình lượn cũng có thể có sự hỗ trợ từ ngƣời thứ ba - một ngƣời lớn tuổi
thuộc nhiều bài với vai trò mách lượn giúp cặp đôi hát tiếp. Lúc đã thành cặp, họ ngồi tựa
lƣng vào nhau mà lượn. Các cặp đôi khi lượn thƣờng vừa lượn vừa dừng lại trò chuyện, ăn
trầu, uống nƣớc. Nhƣ thế, lượn slương cũng có sách nôm nhƣng thƣờng làm căn cứ cho các
141
bên nam học thuộc nhập tâm hoặc chỉ xem qua khi lượn tuổng. Đặc biệt, chỉ có quyển cho
bên hỏi chứ không có quyển cho bên đáp. Khi lượn thì bên nam lượn trƣớc, bên nữ lựa lời
đối đáp. Cho nên, trong lượn slương mới có chuyện thi tài, có bên thắng bên thua.
Độ dài của các bài lượn cọi là một thách thức đối với trí nhớ của ngƣời lao động.
Trong lượn cọi có những cung dài tới vài trăm câu rất khó nhớ. Khi diễn xƣớng, phải hát
nhiều cung nhƣ thế chứ không phải chỉ một cung. Cho nên, riêng ở lượn cọi, khi diễn
xƣớng bắt buộc phải có slấy cá để pjấy lượn (có nơi gọi là Tạy lượn, là hành động đọc cho
mỗi bên ngâm đối đáp). Bên chủa bản phải tìm cho đƣợc slấy cá để pjấy lượn. Slấy cá sẽ
căn cứ vào sách hƣớng dẫn hát giao duyên lượn cọi để dẫn lƣợn. Sách lượn cọi bao giờ
cũng gồm hai quyển, quyển cho bên nam và quyển cho bên nữ, hay chính là quyển cho bên
hỏi và quyển cho bên đáp. Diễn xƣớng lượn cọi, dù chỉ diễn ra trong một buổi hay kéo dài
tận nhiều ngày đêm thì cũng đều tuân theo trật tự do slấy cá hƣớng dẫn. Hình thức đối đáp
giữa hai bên trong cuộc lượn chính thức đều do slấy cá căn cứ vào sách mà hƣớng dẫn bằng
tàm pẹc (nói trơn đi trƣớc). Vì đề cao vai trò cá nhân của slấy cá và sách nhƣ thế nên trong
diễn xƣớng lượn cọi, ngƣời ta không đặt vấn đề thi tài, không có bên thắng bên thua nhƣ
trong diễn xƣớng lượn slương.
Cụ thể một cuộc lượn cọi nhƣ sau: Mở đầu cuộc lượn là những lời khuyên mời
nhƣng nó không ngắn nhƣ trong lượn slương mà biên độ mở rộng ra đến mấy trăm câu. Lời
mời lượn có lúc khiêm nhƣờng, thể hiện tập quán mến khách của tộc ngƣời, là những có lúc
lại bóng gió, ám chỉ bằng những lí lẽ để đối phƣơng buộc phải lên tiếng đáp trả. Sau khi
khách trả lời thì cuộc hát đi vào trật tự đúng nhƣ sách mà slấy cá sẽ là ngƣời hƣớng dẫn.
Trật tự ấy là: Có bạn phƣơng xa đến bản. Cuộc hành trình vào bản Tày đƣợc miêu tả hết sức
tỉ mỉ từ xa lại gần. Bƣớc chân đến đó, khách thấy đƣờng rộng thênh thang, thấy cây đa, thấy
đồng ruộng trù phú với cây cối quen thuộc, vƣờn tƣợc tầng tầng lớp lớp, thấy mỏ nƣớc, rồi
khách tới cổng ngõ thấy nhà sàn với những cánh cửa khéo vẽ, trâu chó đầy dƣới sàn, thấy
cuộc sống nông nghiệp với những gia cầm gia súc thân quen. Sau cùng là các tổ chức làng
bản ở địa phƣơng cùng những gái trai tài giỏi, đẹp xinh – tinh hoa của làng, bản ấy. Có thể
nói, lượn cọi không chỉ là bức tranh toàn cảnh về đời sống ngƣời Tày mà còn là chiếc cầu
trao đổi tâm tình yêu mến của nam nữ thanh niên, từ nhu cầu làm quen, tìm hiểu cho đến
thở than, trách móc, than ƣớc. Bên cạnh đó, lượn cọi còn phản ánh thế giới quan phong phú
của đồng bào Tày với quan niệm về một thế giới vũ trụ ba tầng: mƣờng trời, trần gian và
long vƣơng. Trí tƣởng tƣợng đã đƣa con ngƣời ngao du khắp cả mƣờng trời và long vƣơng,
thực hiện những điều mong ƣớc sâu xa liên quan đến tình yêu. Trở về mặt đất, họ dặn dò
142
nhau nhớ kĩ chuyến đi và tâm tình đã gửi trao ấy. Lượn cọi dành một dung lƣợng khá lớn
cho các cung mừng vùng, mừng gia cảnh… và các cung thể hiện thế giới quan của ngƣời
Tày nhƣ lên mƣờng trời, vào thuyền cùng thầy… Tất cả các cung lượn này cũng đều phải
tuyệt đối tuân thủ theo sách và do slấy cá làm thầy dẫn.
Trong khi đó, ở diễn xƣớng DCTTSH của ngƣời Thái, không có sự xuất hiện của
dạng thức hát theo sách. Với sự xuất hiện của dạng thức này, diễn xƣớng DCTTSH Tày
ngày càng tiến tới chuyên nghiệp hóa. Ngày nay, cùng với quá trình ảnh hƣởng sâu rộng
của văn hóa hiện đại vào đời sống cƣ dân Tày, số ngƣời nhập tâm thuộc lời và biết hát các
điệu DCTTSH ngày càng ít, chỉ còn số ít ngƣời già và các nghệ nhân làm đƣợc điều này.
Cho nên, những ngƣời không thuộc lời muốn tham gia cuộc hát hầu nhƣ đều cần đến vai trò
của sách. Dạng thức hát theo sách lúc này không chỉ xuất hiện trong các bài hát lượn cọi và
các chƣơng lượn tuổng, lượn sử của lượn slương mà còn xuất hiện cả trong các bài hát
thuộc nhóm khác nhƣ lượn nàng ới.
4.3.4. Sự tham gia của vũ đạo vào diễn xướng
Trong diễn xƣớng DCTTSH Thái, có sự tham gia của vũ đạo dân gian là các điệu
múa xòe đặc trƣng của tộc ngƣời này. Trên thực tế, DCTTSH không chỉ có chức năng trao
đổi tình cảm cá nhân, riêng tƣ mà còn tham gia vào các cuộc vui nhƣ lễ hội, đám cƣới, đám
mừng nhà mới… với tƣ cách một phƣơng tiện giải trí và đoàn kết cộng đồng tộc ngƣời. Ở
đây, sinh hoạt nghi lễ đã kết hợp sống động với sinh hoạt có tính thế tục, tạo nên những sinh
hoạt văn hóa đặc sắc. Trong không gian các lễ hội Xòe chiêng, Hoa ban…, ngƣời Thái say
mê theo lời ca dịu ngọt, trống chiêng nhịp nhàng và những điệu xòe quyến rũ. Ngƣời Thái
có nhiều điệu xòe nổi tiếng nhƣ: khắm khen (nắm tay nhau xòe vòng tròn), khắm khăn mơi
lảu (nâng khăn mời rƣợu), phá xí (xòe bổ bốn), nhôm khăn (tung khăn), đổn hôn (tiến, lùi
trong cung vòng tròn), ỏm lọm tốp mư (vòng tròn vỗ tay) Chẳng hạn, khi diễn xƣớng khắp
xe. Múa xòe là một sinh hoạt văn hóa dân gian không thể thiếu trong các lễ hội mùa xuân,
hội mùa và đám cƣới của đồng bào Thái. Già trẻ, gái trai đều yêu múa xòe. Bên ánh lửa bập
bùng, trong tiếng trống, chiêng nhịp nhàng, điệu múa xòe không thể thiếu sự góp mặt của
những điệu DCTTSH tình tứ, nồng say. Ngƣời Thái quan niệm múa xòe là phải vui. Vì thế,
thanh niên nam nữ hát múa xòe thƣờng hát những bài hát vui, ca ngợi bản mƣờng và công
đức ngƣời đứng đầu, hoặc hát làn điệu khắp báo xao, một bên hỏi, kể chuyện, bên kia hát
đáp lại. Cứ thế, họ vừa hát vừa múa, chơi vui đến khuya không chán. Sở dĩ có sự hiện diện
của vũ đạo dân gian vào diễn xƣớng DCTTSH Thái nhƣ thế là bắt nguồn từ việc nghệ thuật
múa của tộc ngƣời này khá phát triển và đạt đến sự đặc sắc.
143
Cho đến nay, sự kết hợp giữa múa xòe với diễn xƣớng DCTTSH ở dân tộc Thái vẫn
đƣợc duy trì và ngày càng đƣợc chú trọng bảo lƣu, phát triển. Tham gia các lễ hội đầu xuân
ở cấp thôn, bản nhƣ thôn Co Cọi 2 (xã Sơn A) và bản Tào (xã Hạnh Sơn) thuộc huyện Văn
Chấn (Yên Bái), chúng tôi nhận thấy hầu hết phụ nữ trong thôn đều biết múa xòe. Mọi
ngƣời đều rất hào hứng với việc tham gia múa xòe và hát trong các lễ hội đó. Phần hấp dẫn
nhất của lễ hội, thu hút sự cộng cảm của cả tập thể bao giờ cũng là phần múa xòe kết hợp
với làn điệu khắp báo xao.
Trong khi đó, diễn xƣớng DCTTSH Tày cũng góp vui trong các lễ hội của ngƣời
Tày nhƣ lễ hội Lồng tồng, lễ hội Nàng Hai, song chúng tôi không thấy có sự tham gia của
vũ đạo mà chỉ thấy nổi rõ vai trò của âm nhạc. Có lẽ điều đó xuất phát từ việc nghệ thuật
múa của ngƣời Tày không phát triển lắm so với một số dân tộc khác. Vũ đạo chỉ tham gia
vào diễn xƣớng dân ca nghi lễ chứ không xuất hiện trong diễn xƣớng DCTTSH Tày.
Tiểu kết chƣơng 4
Ở chƣơng viết này, chúng tôi đã phân tích các điểm có tính chất nổi trội của
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái để chỉ ra sự khác biệt của hai hệ thống dân ca này và
rút ra những kết luận nhƣ sau:
Về nhân vật trữ tình, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt chủ yếu nằm ở cách ứng xử
dƣới ảnh hƣởng của tính cách con ngƣời trong thực tế và của văn hóa. Ở DCTTSH Tày,
nhân vật có cách ứng xử nhẹ nhàng, chừng mực và văn hoa, phản ánh đặc điểm tính cách
coi trọng tôn ti trật tự, lễ giáo và tính cách thích an nhàn của ngƣời Tày trong thực tế, đồng
thời cho thấy ảnh hƣởng của văn hóa Kinh thông qua lối ứng xử văn hoa. Ứng xử của nhân
vật trữ tình trong DCTTSH của ngƣời Thái lại nổi bật ở đặc điểm chủ động, mạnh mẽ,
quyết liệt. Lối ứng xử này ngoài việc đƣợc tạo nền tảng từ sự dân chủ mà tộc ngƣời dành
cho còn thể hiện mẫu hình con ngƣời mơ ƣớc của nhân dân.
Về thi pháp lời thơ nghệ thuật, DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái phân biệt bởi
nhiều điểm: ngôn ngữ, các công thức truyền thống, thể thơ. Ở DCTTSH Tày, ngôn ngữ có
sự đan xen của các yếu tố Hán, Việt. Đây là kết quả của sự hỗn hợp về mặt nhân chủng và
quá trình giao lƣu ngôn ngữ giữa ngƣời Tày với ngƣời Kinh, Hán. Ngƣời Tày cũng hay
dùng điển tích trong việc phô diễn tâm tƣ, tình cảm do ảnh hƣởng tính trí tuê, bác học của
văn chƣơng trung đại của ngƣời Kinh. Về hệ thống hình ảnh, biểu tƣợng, nếu nhƣ việc
DCTTSH Tày sử dụng phổ biến nhóm các hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời liên quan đến
đặc điểm ƣa dùng lối ứng xử văn hoa, lối “tập cổ” thì sự xuất hiện nhiều của các hình ảnh,
biểu tƣợng có nguồn gốc tự nhiên lại phản ánh đặc điểm thiên nhiên và cảm thức của ngƣời
144
Tày trƣớc thiên nhiên. DCTTSH Thái sử dụng hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc với mức độ dày
đặc do sự có mặt và vai trò quan trọng của nƣớc trong đời sống của cƣ dân Thái. Bên cạnh
đó, việc sử dụng nhóm các hình ảnh, biểu tƣợng là vật thể nhân tạo lại liên quan đến phong
tục, tập quán, tín ngƣỡng của họ. Về sự trùng lặp của các hiện tƣợng ngôn ngữ, DCTTSH
Tày phổ biến kiểu lặp nhóm khung kết cấu và câu mở đầu trong phạm vi các bài hát cùng
chủ đề, xuất phát từ đặc điểm sáng tác theo những lối mòn để thuận tiện cho việc tổ chức
các bài hát cùng chủ đề vào một cung lượn, dễ dàng cho việc học thuộc và ứng tác;
DCTTSH Thái phổ biến kiểu lặp cụm từ và cấu trúc câu trong phạm vi một đơn vị tác
phẩm, liên quan đến đặc điểm ngôn ngữ Thái. Về thể thơ, DCTTSH Tày chủ yếu sử dụng
thể thất ngôn do học tập từ văn học viết của ngƣời Kinh, DCTTSH Thái lại chỉ sử dụng thể
tự do với hai kiểu khống khái và xư bắc vì thể này tạo ra những sự hiệp vần linh hoạt, khiến
ngƣời ta dễ nhớ, dễ thuộc hơn trong điều kiện ngôn ngữ Thái cổ không có dấu câu.
Về sự diễn xƣớng, diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái có những khác biệt nhất định về
tính tổ chức của diễn xƣớng, không gian, thời gian, dạng diễn xƣớng theo sách và sự tham
gia của vũ đạo vào diễn xƣớng. Từ đó, có thể thấy diễn xƣớng của ngƣời Thái nổi bật ở tính
tự do và sinh động: tự do về không gian, thời gian tổ chức, phổ biến cả hai dạng thức tổ
chức là nguyên sơ và có thể thức; sinh động bởi có sự tham gia của vũ đạo; diễn xƣớng của
ngƣời Tày nổi bật ở tính ổn định và tổ chức cao bởi cách thức diễn xƣớng nguyên sơ ít, phổ
biến lối diễn xƣớng có lề lối, sự quy định rõ ràng về không gian, thời gian diễn xƣớng.
Với những đặc điểm khác nhau nhƣ thế, DCTTSH Tày thiên về tính trí tuệ, bác học,
trong khi DCTTSH Thái thiên về tính trữ tình.
145
KẾT LUẬN
DCTTSH là bộ phận tiêu biểu và phong phú của kho tàng dân ca Tày, Thái.
Luận án của chúng tôi đã khảo sát 500 bài DCTTSH Tày, gồm 4216 dòng thơ và 286
bài DCTTSH Thái, gồm 6068 dòng thơ. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, DCTTSH
của hai dân tộc vừa có những nét chung, gần gũi, đồng thời lại có những nét đặc thù,
phản ánh nhiều đặc điểm phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, tâm lí... Chúng tôi đã phân
tích các đặc điểm liên quan đến nội dung, thi pháp và sự diễn xƣớng để chỉ ra những
nét tƣơng đồng, khác biệt, lí giải chúng từ góc độ điều kiện tự nhiên và văn hóa, lịch
sử, xã hội của tộc ngƣời.
Từ kết quả của quá trình khảo sát, phân tích và so sánh, chúng tôi rút ra các kết
luận nhƣ sau:
1. Sự tƣơng đồng của DCTTSH Tày, Thái thể hiện trên năm phƣơng diện là: Sự
phản ánh đời sống hiện thực và tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời; bốn lối nói nghệ thuật:
bóng gió, khiêm nhƣờng, cƣờng điệu, cầu khiến của nhân vật trữ tình; việc sử dụng
biểu tƣợng hoa; trình tự diễn xƣớng ba chặng và sự tham gia của âm nhạc vào diễn
xƣớng; sự giao thoa phẩm chất trong iếu và cắm nôm. Những đặc điểm tƣơng đồng
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
1.1. Sự tương đồng do môi trường tự nhiên: DCTTSH Tày, Thái có những sự
giống nhau khi phản ánh đời sống hiện thực của con ngƣời, đặc biệt là cảnh quan, nếp
sống nơi bản làng. Điều đó có cơ sở từ việc ngƣời Tày, Thái có chung một dạng sinh
thái văn hóa nhân văn là văn hóa thung lũng. Trong điều kiện môi trƣờng cƣ trú ở
những đồng bằng thuộc thung lũng chân núi thấp, hai tộc ngƣời có những sự tƣơng tự
về dạng cảnh quan, tập quán cƣ trú, tổ chức hoạt động sản xuất và các loại phong tục,
tín ngƣỡng thể hiện sự phù hợp, thích nghi của con ngƣời với môi trƣờng.
1.2. Sự tương đồng do văn hóa dân gian, thể hiện ở ba khía cạnh:
Thứ nhất, văn hóa dân gian Tày, Thái đều bắt nguồn từ cơ tầng văn hóa chung.
DCTTSH Tày, Thái đều sử dụng biểu tƣợng hoa với mức độ dày đặc và với những
những hƣớng nghĩa tƣơng tự nhau. Sự gần gũi trong tâm lí yêu hoa, coi hoa là chuẩn
mực của vẻ đẹp nhan sắc, tình yêu và đạo đức, tín ngƣỡng coi hoa là con ngƣời… cho
thấy ngƣời Tày, Thái có chung một cơ sở tâm lí và tƣ duy – dấu vết của việc cùng
chung một cơ tầng văn hóa nguyên thủy, văn hóa Bách Việt xa xƣa. Đặc điểm tâm lí,
146
tƣ duy ấy cùng với những quy tắc của ngôn ngữ và loại thể văn học đã chi phối sự
chuyển hóa của biểu tƣợng hoa từ văn hóa dân gian vào DCTTSH.
Sự tƣơng đồng về văn hóa cũng ảnh hƣởng nhất định đến nội dung đƣợc phản ánh
trong DCTTSH Tày, Thái. Ngƣời Tày, Thái là cƣ dân khối Bách Việt xa xƣa và đều thuộc
dạng sinh thái văn hóa thung lũng. Vì thế, hai hệ thống dân ca đều phản ánh cuộc sống
của những cƣ dân ở nông thôn vùng chân núi thấp với những đặc điểm cƣ trú và cách tổ
chức làng bản giống nhau nhƣ: tục ở nhà sàn, cƣ trú ở những vùng thung lũng chân núi
thấp với những tổ chức làng bản tƣơng đối lớn, có khi lên đến vài trăm nóc nhà và đƣợc
liên kết với nhau thành những tổ chức cộng đồng lớn hơn nhƣ mƣờng.
Đặc điểm sự tham gia của âm nhạc vào diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái cũng
gợi mở tính chung về văn hóa của khối Bách Việt. Sự tƣơng đồng này không phải do
một mối quan hệ ảnh hƣởng trực tiếp nào cả, chỉ có thể lí giải bằng sự tƣơng đồng về
cội nguồn văn hóa sâu xa của các dân tộc này. Ngƣời Tày, Thái xƣa kia đều là cƣ dân
Bách Việt nên có sự gặp gỡ về ý thức thẩm mĩ, thể hiện ra là sự giống nhau về việc âm
nhạc tham gia vào diễn xƣớng DCTTSH với hai mức độ là dạng hát đơn giản và dạng
hát phát triển.
Thứ hai, sự tƣơng đồng trong DCTTSH Tày, Thái là kết quả của quá trình giao
lƣu, tiếp biến văn hóa giữa hai dân tộc này. Quá trình cƣ trú cộng cƣ hoặc cận cƣ ở khu
vực giáp ranh vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc dẫn tới sự giao lƣu tự nhiên giữa hai cộng
đồng ngƣời mà hệ quả là sự giao thoa phẩm chất Tày, Thái trong iếu và cắm nôm.
Thứ ba, nhiều điểm giống nhau trong DCTTSH Tày, Thái gắn liền với các hiện
tƣợng văn hóa dân gian chủ yếu và phổ biến của nhiều tộc ngƣời trên đất nƣớc ta và
thế giới. Đó là hiện tƣợng cuộc hát đối đáp phải đảm bảo tính lịch sự của con ngƣời và
tính trình tự của một giao tiếp cơ bản. Vì thế, diễn xƣớng DCTTSH của hai dân tộc
Tày, Thái và nhiều dân tộc khác nữa đều trải qua ba chặng cơ bản là Chào mời – Tỏ
lòng – Giã biệt.
1.3. Sự tương đồng do trình độ phát triển của tộc người: Cƣ dân Tày, Thái ở
khu vực miền núi phía Bắc có nhiều điểm giống nhau về trình độ phát triển kinh tế, xã
hội mà một trong những hệ quả của điều đó là sự tƣơng đối giống nhau về sự tồn tại
của các dạng âm nhạc: một mặt, đời sống còn gần gũi tự nhiên, tạo điều kiện cho việc
bảo lƣu dạng hát đơn giản; mặt khác, yêu cầu ngày càng cao đối với các sinh hoạt văn
147
hóa dân gian của dân chúng trong đời sống ngày càng phát triển dẫn đến sự phổ biến
của dạng hát phát triển.
1.4. Sự tương đồng do quy luật tâm lí chung của con người: DCTTSH Tày,
Thái đều phản ánh thế giới tâm tƣ, tình cảm phong phú của con ngƣời xoay quanh các
mối quan hệ tình yêu nam nữ và tình cảm gia đình. Điều đó phản ánh quy luật tâm lí,
tình cảm chung của con ngƣời. Dù thuộc dân tộc nào đi nữa, tác giả của những tiếng
hát trữ tình kia cũng đều là con ngƣời, có những tình cảm, tâm lý, trí tuệ giống nhau,
với những cung bậc cảm xúc giống nhau dựa trên những mối quan hệ cơ bản, cũng đều
ƣa truyền thống lịch sự. Họ làm ra dân ca để đáp ứng nhu cầu bộc lộ những nét vi tế
của các cung bậc cảm xúc ấy, thông qua sự giao lƣu trực tiếp giữa ngƣời sáng tạo và
ngƣời tiếp nhận. Đây chính là cội nguồn tạo nên nét chung, mang tính phổ quát của
loại hình về nội dung phản ánh và trình tự diễn xƣớng. Cho nên, DCTTSH Tày, Thái
đều ca ngợi tình yêu, lòng chung thủy, ca ngợi mối quan hệ thuận hòa, cởi mở trong
gia đình, tự hào về bản làng, dân tộc với đời sống bình yên và đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc; đều đƣợc hát theo trình tự ba chặng.
2. Sự khác biệt của DCTTSH Tày, Thái thể hiện trên các phƣơng diện: cách ứng
xử của nhân vật trữ tình; thi pháp lời thơ nghệ thuật với các đặc điểm ngôn ngữ, công thức
truyền thống, thể thơ; sự diễn xƣớng. Nguyên nhân của những khác biệt này là:
2.1. Khác biệt vì tiểu môi trường tự nhiên: Những đặc điểm khác biệt về tính
cách nhân vật trữ tình, biểu tƣợng và thể thơ một phần vì điều kiện tự nhiên của hai
dân tộc, tức vì những nét đặc thù về môi trƣờng tự nhiên riêng của ngƣời Tày, Thái.
Khu vực sinh sống của ngƣời Tày chủ yếu ở vùng Đông Bắc, mang tính chất bắc Hán,
xuôi Kinh, sự phân cắt địa hình giữa vùng Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ không lớn,
thuận tiện cho việc giao lƣu văn hóa, xã hội, kinh tế giữa miền núi và miền xuôi với
mức độ ngày càng tăng. Đồng thời, đây là vùng đất mà điều kiện khí hậu hiền hòa, ít
hiện tƣợng cực đoan với địa hình trung du khá bằng phẳng. Đặc điểm của tiểu môi
trƣờng nhƣ thế đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lƣu văn hóa giữa ngƣời Tày và
ngƣời Kinh, Hán; đồng thời góp phần hình thành tính cách và lối ứng xử chừng mực,
thích sự an nhàn cho ngƣời Tày, chi phối đến việc xây dựng nhân vật trữ tình trong
DCTTSH. Trong khi đó, địa bàn phân cƣ của ngƣời Thái chủ yếu ở vùng thƣợng Tây
Bắc. Vùng đất với nhiều núi cao rừng thẳm, nhiều sông suối, hồ thác tạo cho ngƣời
Thái nơi đây cuộc sống gần gũi với tự nhiên và cách tƣ duy gắn liền với thiên nhiên,
148
đặc biệt là gắn với nƣớc – thứ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của cƣ
dân Thái. Điều kiện tự nhiên ấy có tác dụng tạo nên nhóm các biểu tƣợng nƣớc với
những hình thức biểu hiện phong phú và nhiều hƣớng nghĩa trong DCTTSH Thái. Tuy
thế, tính chất miền núi thống nhất đã quy định tính khép kín của vùng, khiến cho sự
giao lƣu, tiếp biến văn hóa giữa ngƣời Thái với ngƣời Kinh ở đồng bằng và với ngƣời
Hán ở bên kia biên giới rất ít xảy ra, đồng thời ngƣời Thái bảo lƣu đƣợc nhiều giá trị
văn hóa bản tộc nhƣ ngôn ngữ, tín ngƣỡng, sự dân chủ dành cho ngƣời phụ nữ… Điều
đó dẫn tới việc trong DCTTSH Thái, nhân vật trữ tình mang đặc điểm ứng xử chủ
động, thẳng thắn – hệ quả của nền dân chủ tộc ngƣời; các hình ảnh, biểu tƣợng vật thể
nhân tạo chiếm ƣu thế với nguyên nhân từ phong tục, tín ngƣỡng; thể thơ là thể tự do,
phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ của dân tộc.
2.2. Khác biệt do quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa: Sự khác biệt trong
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái chủ yếu nằm ở quá trình giao lƣu, tiếp biến văn
hóa của từng dân tộc trong lịch sử. Quá trình ấy diễn ra trên ba hƣớng cơ bản, với đối
tƣợng giao lƣu chính là văn hóa Kinh và văn hóa Hán.
Hƣớng thứ nhất là sự tiếp biến về văn hóa trong quá trình hình thành và phát
triển dân tộc. Từ nguồn gốc dân tộc, có thể thấy ngƣời Tày và ngƣời Thái đều thuộc
khối siêu tộc Bách Việt ở miền nam Trung Quốc thời cổ đại. Dƣới thời Tần Hán, các
nhóm Việt đều chịu sự thống trị của vƣơng triều trung nguyên, trừ Điền Việt – tức bộ
phận tổ thành ngƣời Thái đen thiên di vào Tây Bắc Việt Nam sau này. Nhƣ thế, xét từ
lịch sử dân tộc, có thể thấy rằng ngƣời Thái không chịu ảnh hƣởng của văn hóa Hán,
trong khi ngƣời Tày có chịu ảnh hƣởng. Tiếp đó, quá trình thiên di của ngƣời Tày vào
Việt Nam không mang tính chất ồ ạt, địa bàn phân cƣ cũng ổn định hơn ngƣời Thái,
tạo điều kiện cho việc bảo lƣu những giá trị văn hóa tiếp thu của ngƣời Hán. Bên cạnh
đó, diện mạo dân tộc Tày ở Đông Bắc nhƣ ngày nay có sự kết hợp của bộ phận Tày
gốc Kinh, Tày gốc Nùng và nhóm những ngƣời đồng tộc đến từ Trung Quốc. Sự hỗn
hợp về mặt nhân chủng nhƣ trên là cơ sở thuận lợi cho sự giao lƣu với văn hóa Kinh
thông qua bộ phận ngƣời Tày gốc Kinh, giao lƣu với văn hóa Hán thông qua bộ phận
ngƣời Tày gốc Nùng và nhóm những ngƣời đồng tộc ở bên kia biên giới.
Hƣớng thứ hai là quá trình giao lƣu giữa dân tộc chủ thể, chiếm đa số với
DTTS. Trong suốt thời kì phong kiến độc lập, để củng cố quốc gia, các vƣơng triều
phong kiến ở đồng bằng vẫn luôn muốn vƣơn tầm ảnh hƣởng lên vùng cƣ trú của các
149
DTTS, song các nhà cầm quyền chỉ có thể làm đƣợc điều đó với xứ Tày chứ không
làm đƣợc triệt để với xứ Thái.
Hƣớng thứ ba là quá trình giao lƣu tự nhiên giữa các dân tộc chung sống trên
một phạm vi địa lí với kết quả là sự hòa hợp về văn hóa. Theo đó, ngƣời Tày có sự gần
gũi về văn hóa với ngƣời Kinh, Hán, Nùng…, văn hóa Thái lại có sự gặp gỡ với văn
hóa của các tộc Môn – Khơ Me.
Kết quả của cả ba hƣớng này là sự ảnh hƣởng sâu đậm của văn hóa Kinh, Hán
lên văn hóa Tày và sự độc lập tƣơng đối của văn hóa Thái so với văn hóa Kinh, Hán.
Trong DCTTSH Tày, dấu vết của sự ảnh hƣởng nằm ở việc xây dựng nhân vật trữ tình
với lối ứng xử văn hoa; ở ngôn ngữ đan xen yếu tố Hán, Việt; ở nhóm các biểu tƣợng
là con ngƣời; ở việc chuộng dùng điển tích và dùng điển tích có nguồn gốc Hán tộc
hoặc Kinh tộc; ở tính ổn định và tổ chức cao bởi sự phổ biến của sự diễn xƣớng có lề
lối với quy định rõ ràng về không gian, thời gian, mục đích của diễn xƣớng, diễn
xƣớng theo sách và có thầy dẫn. Trong khi đó, văn hóa Thái ít có sự giao lƣu với văn
hóa Kinh nên về cơ bản văn hóa Thái là nền văn hóa nội sinh. Điều đó thể hiện trong
DCTTSH là sự phổ biến của nhóm các hình ảnh, biểu tƣợng là vật thể nhân tạo, thể
thơ tự do, sự lặp lại của cụm từ hay cấu trúc câu trong phạm vi một tác phẩm, là sự
diễn xƣớng mang tính tự do và sinh động: tự do về không gian, thời gian tổ chức, phổ
biến cả hai dạng thức tổ chức là nguyên sơ và có thể thức; sinh động bởi có sự tham
gia của vũ đạo.
Từ việc so sánh, khẳng định những điểm chung, gần gũi và những điểm riêng
biệt giữa hai hệ thống DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái, chỉ ra các lớp văn hóa,
các phong tục, tín ngƣỡng… đƣợc ẩn chứa trong đó, chúng tôi hƣớng tới việc chỉ ra
cái chung, cái phổ biến và cái đặc thù trong văn hóa của mỗi dân tộc. Nếu nhƣ những
điểm chung là cơ sở cho quá trình tích hợp văn hóa Việt Nam thống nhất thì những
điểm khác biệt khiến cho văn hóa Tày, Thái tuy bắt rễ sâu vào cơ tầng văn hóa chung
nhƣng lại mang những nét đặc thù, tạo nên bản sắc văn hóa cho từng dân tộc.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hà Xuân Hƣơng. 2017. “Thân phận ngƣời phụ nữ trong dân ca trữ tình sinh hoạt
Tày, Thái”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ (Đại học Thái Nguyên), tập 172, số 12/2,
tr. 3 – 7.
2. Hà Xuân Hƣơng. 2017. “Thân phận ngƣời phụ nữ trong dân ca trữ tình sinh hoạt
của ngƣời Thái”, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội (Học viện Khoa học Xã hội), số
12 (55), tr. 99 – 104.
3. Hà Xuân Hƣơng. 2018. “So sánh lối diễn đạt trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày,
Thái”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ (Đại học Duy Tân – Đà Nẵng), số 03 (28), tr. 3
– 9.
4. Hà Xuân Hƣơng. 2018. “Ảnh hƣởng của văn hóa Kinh, Hán tới thi pháp lời thơ
nghệ thuật của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày”, Tạp chí Khoa học (Trường Đại học Sư
phạm – Đại học Đà Nẵng), số 27 (01), tr. 24 – 30.
5. Hà Xuân Hƣơng. 2018. “So sánh thể thơ trong dân ca trữ tình sinh hoạt của ngƣời
Tày và ngƣời Thái”, Tạp chí Khoa học (Đại học Tân Trào), số 08 – 6/2018, tr. 87 –
91.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Nguyễn Thị Hải Anh. 2017. Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái, Luận án
Tiến sĩ Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên.
2. Triều Ân (chủ biên). 2000. Then Tày – Những khúc hát, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
3. Ban Văn học Việt Nam. 2004. Cho thỏa lòng thương (Dân ca Nùng, Tày, Khơ mú,
Thái, Lô Lô, Pu Péo, Vân Kiều, Dao, Ê Đê...), Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Ban Văn học Việt Nam. 2004. Ca dao Tày, Nùng, H’Mông và Tiếng hát tình yêu,
Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Duy Bắc. 2012. Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
6. Phƣơng Bằng (sƣu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch). 2012. Phong Slư, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Phƣơng Bằng, Lã Văn Lô (sƣu tầm, phiên âm, dịch). 1992. Lượn slương, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
8. Vi Văn Biên. 2009. Một số phong tục và lễ hội truyền thống của người Thái ở
Thanh Hóa, Nghệ An, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
9. Cầm Biêu (sƣu tầm và biên soạn). 1991. Hạn khuống, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
10. Thu Bình. 2012. Một khúc ru Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật
tỉnh Cao Bằng.
11. Dƣơng Kim Bội (sƣu tầm, giới thiệu), Hoàng Hà (dịch). 1975. Lời hát then, Nxb
Việt Bắc.
12. Lƣu Văn Bổng. 2017. Văn học so sánh – Một khoa học kết liên phức hợp, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
13. Hoàng Thị Cành (sƣu tầm, tuyển dịch, biên soạn). 1994. Đồng dao Tày, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
14. Hoàng Thị Cấp (sƣu tầm và dịch). 2005. Chồm bjoóc mạ, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
15. Hoàng Thị Cấp. 2014. Pang Then của người Tày trắng xã Xuân Giang, huyện
Quang Bình, tỉnh Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
152
16. Nguyễn Thị Phƣơng Châm. 2003. “Nghiên cứu hiện tƣợng trùng lặp trong ca dao
và những vấn đề đặt ra”, Thông báo văn hóa dân gian 2002, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, tr. 539 – 551.
17. Nông Quốc Chấn (chủ biên, giới thiệu). 1979. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập VI,
Văn học dân tộc ít người, quyển I, Nxb Văn học, Hà Nội.
18. Đỗ Thị Ngọc Chi. 2012. “Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa”, Tạp chí Nghiên
cứu văn hóa, số 2, tr. 86 – 92.
19. Nguyễn Từ Chi. 2003. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa
dân tộc, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, Hà Nội.
20. Quàng Thị Chính (sƣu tầm, biên dịch). 2005. Lễ cưới dòng họ Mè (huyện Yên
Châu, tỉnh Sơn La), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
21. Lợi Chung. 1984. “Tiếng hát những đêm xuân của ngƣời Tày”, Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 1, tr. 45 – 46.
22. Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng (sƣu tầm, biên dịch). 2012. Iếu –
dân ca dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
23. Cầm Cƣờng. 1993. Tìm hiểu văn học dân tộc Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Dân. 2003. Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
25. Phan Hữu Dật, Cầm Trọng. 1999. Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
26. Sầm Nga Di (sƣu tầm và biên soạn). 1982. Tục ngữ - Ca dao – Dân ca dân tộc
Thái Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ Tĩnh.
27. Chu Xuân Diên. 1999. Cơ sở văn hóa Việt Nam, Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh xuất bản.
28. Chu Xuân Diên. 2004. Mấy vấn đề về văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
29. Chu Xuân Diên. 2008. Nghiên cứu văn hóa dân gian – Phương pháp, lịch sử, thể
loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Lò Ngọc Duyên (sƣu tầm và biên soạn). 2002. Tâm tình người yêu (Tản chụ xiết
xương) Trường ca dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
153
31. Trần Trí Dõi, Vi Khăm Mun. 2012. Tục ngữ và thành ngữ của người Thái mương
ở Tương Dương, Nghệ An, NXB Lao động, Hà Nội.
32. Lƣơng Thị Đại (sƣu tầm và biên dịch). 2005. Tang lễ của người Thái trắng, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
33. Lƣơng Thị Đại, Lò Xuân Hinh (sƣu tầm và biên dịch). 2009. Lời ca trong lễ Xên
bản xên mường của người Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
34. Hà Thị Anh Đào. 2017. Dân ca nghi lễ của người Thái, Luận án Tiến sĩ Văn học,
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
35. Nguyễn Xuân Đức. 2003. Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
36. La Thi Mai Gia. 2015. “Các hình thức đối đáp trong ca dao tình yêu nam nữ”, Tạp
chí Nguồn sáng dân gian, số 1, tr. 16 – 22.
37. Tuấn Giang. 2004. Đặc điểm dân ca Mông Tày Nùng Thái, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
38. Hoàng Lâm Giang. 2010. Yếu tố nước trong đời sống văn hoá của người Tày ở
Cao Bằng, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Dân tộc học, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Phạm Hoàng Giang. 2006. “Bƣớc đầu tìm hiểu về thơ Nôm thất ngôn bát cú của
ngƣời Tày”, Thông báo Hán Nôm học 2006, tr.184 - 188.
40. Nguyễn Thiện Giáp. 2012. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn
ngữ, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
41. Gustave Le Bon (Nguyễn Tiến Văn dịch). 2017. Những quy luật tâm lí về sự tiến
hóa của các dân tộc, Nxb Thế giới, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Bích Hà. 2013. Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
43. Đinh Hồng Hải. 2014. Nghiên cứu biểu tượng – Một số hướng tiếp cận lí thuyết,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
44. Mai Thị Hồng Hải. 2013. “Về một số phƣơng diện văn hóa Thái ở xứ Thanh trong sự
so sánh với văn hóa Thái ở Tây Bắc”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 22 – 31.
45. Mai Thị Hồng Hải. 2014. “Văn học dân gian Thái xứ Thanh nhận diện qua mối quan
hệ Thái – Mƣờng trong lịch sử”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5, tr 128 – 136.
154
46. Mai Thị Hồng Hải. 2014. “Văn học dân gian Thái với việc chăm sóc, giáo dục con
cái”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 359, tr 51 – 55.
47. Hoàng Thị Hạnh, Lò Văn Biến, Hoàng Mạnh Hùng. 2005. Tìm hiểu tục cúng vía
của người Thái đen ở Mường Lò, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
48. Phạm Thị Hằng. 2010. “Đặc điểm văn học dân gian ngƣời Thái Thanh Hóa”, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 3 (129), tr 22 – 28.
49. Tòng Văn Hân. 2012. Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện
Điện Biên, tỉnh Điện Biên, NXB Thời đại, Hà Nội.
50. Nguyễn Văn Hòa (sƣu tầm, biên dịch). 2001. Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây
Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
51. Kiều Thu Hoạch. 2014. Văn hóa dân gian người Việt – Góc nhìn so sánh, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Vi Hồng. 1979. Sli, lượn dân ca trữ tình Tày Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
53. Nguyễn Thị Huế. 2011. Những xu hướng biến đổi văn hóa các dân tộc miền núi
phía bắc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
54. Lại Phi Hùng. 1996. So sánh một số kiểu truyện cổ dân gian Lào và Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Huyên (Hà Văn Tấn chủ biên nhóm biên soạn). 1995. Góp phần
nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
56. Hà Xuân Hƣơng. 2015. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về người anh
hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
57. Phạm Đặng Xuân Hƣơng. 2014. “Các cấu trúc kiểu câu nghệ thuật trong dân ca
Thái”, Kỉ yếu hội thảo Ngôn ngữ và văn học Tây Bắc, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà
Nội, tr. 239 – 353.
58. Đổng Trọng Im. 2011. Phong tục và nghi lễ của người Thái ở Phong Thổ - tỉnh Lai
Châu, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
59. Đinh Gia Khánh (chủ biên). 1972. Văn học dân gian, Tập 1, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
60. Đinh Gia Khánh. 1993. Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông
Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
155
61. Đinh Gia Khánh (chủ biên). 1996, 1997. Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
62. Đinh Gia Khánh. 2003. Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
63. Vũ Ngọc Khánh. 1991. Dẫn luận nghiên cứu folklore Việt Nam, Sở giáo dục
Thanh Hóa xuất bản.
64. Hoàng Tam Khọi (sƣu tầm và biên soạn). 1984. Tản chụ xống xương (Tâm tình
tiễn thương), Nxb Văn hóa, Hà Nội.
65. Nguyễn Xuân Kính. 2012. Thi pháp ca dao, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
66. Nguyễn Xuân Kính. 2012. Một nhận thức về văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
67. Nguyễn Xuân Kính. 2013. Con người, môi trường và văn hóa, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
68. Nguyễn Xuân Kính. 2014. “Những vấn đề của khoa nghiên cứu văn hóa dân gian”,
Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5, tr. 3 – 13.
69. Hoàng Ngọc La (chủ biên), Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn. 2002. Văn hóa dân
gian Tày, Sở Văn hóa Thông tin Thái Nguyên xuất bản.
70. Hoàng Tƣơng Lai (sƣu tầm, biên dịch). 2016. Tàng pây kết chụ (đường đi kết bạn
tình), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
71. Lèng Thị Lan. 2015. Đồng dao và trò chơi trẻ em các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
72. Nguyễn Thị Ngọc Lan. 2014. So sánh kiểu truyện người em của Việt Nam với
truyện cùng kiểu ở một số quốc gia châu Âu, Đề tài nghiên cứu khoa học và công
nghệ cấp cơ sở, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, Mã số C.2014.08, Nghiệm
thu theo QĐ số 462/QĐ-ĐHSPHN2.
73. Nguyễn Thị Ngọc Lan. 2016. “So sánh kiểu truyện ngƣời em của Việt Nam với
truyện cùng kiểu ở một số quốc gia châu Á”, Hội thảo khoa học quốc gia Văn
học Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa, tháng 12/2016 (Trƣờng ĐHSP –
Đại học Đà Nẵng), Nxb Thông tin và truyền thông, tr. 205 – 217.
74. Lã Văn Lô, Hà Văn Thƣ. 1984. Văn hóa Tày Nùng, NXB Văn hóa, Hà Nội.
156
75. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn. 1968. Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày,
Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
76. Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân. 1987. Lượn cọi Tày – Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
77. Hoàng Lƣơng. 2011. Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam các tỉnh phía Bắc,
Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
78. Triệu Thị Mai. 2010. Lượn then ở miền đông Cao Bằng, Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội, Hà Nội.
79. Hồ Á Mẫn (Lê Huy Tiêu dịch). 2011. Giáo trình Văn học so sánh, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
80. Quán Vi Miên (sƣu tầm và dịch). 2010. Ca dao – dân ca Thái Nghệ An, Tập 1 –
Ca dao, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
81. Quán Vi Miên (sƣu tầm và dịch). 2010. Ca dao – dân ca Thái Nghệ An, Tập 2 –
Dân ca, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
82. Vƣơng Thị Mín, Vƣơng Thị May (sƣu tầm, biên dịch). 2010. Tín ngưỡng của dân
tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu.
83. Lâm Bá Nam. 2012. “Văn hóa Thái trong bức tranh văn hóa các tộc ngƣời Tây
Bắc”, Kỉ yếu Hội nghị Thái học lần thứ VI, Nxb Thế giới, tr. 179 – 185.
84. Đỗ Vân Nga. 2012. Khảo sát ý nghĩa hình ảnh trong ca dao – dân ca Tày Nùng,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Thái
Nguyên.
85. Nguyễn Thị Bích Ngọc. 2016. Nhân vật trữ tình trong cắm nôm – dân ca dân gian
Tày huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và văn hóa Việt
Nam, Trƣờng Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên.
86. Trần Đức Ngôn. 1990. “Một số vấn đề lí luận chung quanh việc nghiên cứu văn
bản văn học dân gian”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 16 – 19.
87. Trần Đức Ngôn. 1991. “Lí thuyết hình thái học của V.IA.Propp và truyện cổ tích
thần kì ngƣời Việt”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 12 – 15.
88. Trần Hoàng Nghịch. 2000. Lời tang lễ dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
89. Hoàng Trần Nghịch, Tóng Ín, Anh Cầm (sƣu tầm, biên dịch). 2013. Hát giao
duyên gái trai dân tộc Thái, Hội Văn học nghệ thuật Sơn La xuất bản.
157
90. Hoàng Minh Nguyệt. 2009. Hát Iếu của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang –
Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên.
91. Nguyễn Thị Nguyệt. 2012. “Văn hóa và giao lƣu văn hóa trong trong sự phát triển
giữa các dân tộc ở huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số
6 (144), tr. 35 – 46.
92. Hoàng Thị Quỳnh Nha. 2003. Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
93. Lƣơng Quy Nhân (sƣu tầm, biên dịch). 1991. Hạn Khuống, Sở Văn hóa Thông tin
– Hội Văn nghệ Lai Châu xuất bản.
94. Phan Đăng Nhật. 1992. “Quan điểm về phƣơng pháp khái quát diện mạo và tiến
trình văn học Thái”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 27 – 30.
95. Phan Đăng Nhật. 1981. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước Cách mạng
tháng Tám 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
96. Trần Quang Nhiếp. 1998. Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
97. Nông Thị Nhình. 2000. Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày – Nùng – Dao Lạng
Sơn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
98. Nhiều tác giả. 1962. Văn học dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa, Viện Văn học, Hà Nội.
99. Nhiều tác giả. 1970. Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – Nùng), Nxb dân tộc Việt Bắc.
100. Nhiều tác giả. 1989. Văn hóa dân gian – Những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
101. Nhiều tác giả. 1990. Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
102. Nhiều tác giả. 1993. Văn hóa dân gian Cao Bằng, Hội Văn nghệ Cao Bằng xuất bản.
103. Nhiều tác giả. 1997. Văn hóa truyền thống Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
104. Nhiều tác giả. 1997. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
105. Nhiều tác giả. 2000. Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
158
106. Nhiều tác giả. 2009. Đông Bắc – Vùng đất, con người, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
107. Nhiều tác giả. 2009. Tây Bắc – Vùng đất, con người, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
108. Nhiều tác giả. 2012. Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
109. Võ Quang Nhơn. 1983. Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
110. Lò Cao Nhum (biên soạn và dịch). 2001. Lời hát trong lễ hội Chá chiêng, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
111. Đặng Thị Oanh. 2009. “Địa danh Mƣờng Then (Mƣờng Thanh) Tây Bắc – Việt
Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 (124), tr. 26 – 33.
112. Đặng Thị Oanh. 2010. Tri thức dân gian về nước của người Thái ở Điện Biên
xưa, Nxb Thời đại, Hà Nội.
113. Đặng Thị Oanh. 2012. Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian của
người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội.
114. Lê Lƣu Oanh. 2011. Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sƣ phạm,
Hà Nội.
115. Lục Văn Pảo. 1991. Phong slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
116. Lục Văn Pảo (sƣu tầm, biên soạn, dịch), Bế Viết Đẳng (viết lời giới thiệu), Phan
Ngọc (dịch ra tiếng Pháp). 1992. Pựt Tày, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
117. Lục Văn Pảo (sƣu tầm, phiên âm, dịch). 1994. Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
118. Vũ Ngọc Phan. 1978. Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
119. Mạc Phi. 1979. Dân ca Thái (Hai trăm lẻ sáu bài dân ca Thái về tình yêu), Nxb
Văn hóa, Hà Nội.
120. Mạc Phi (dịch và giới thiệu). 2013. Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao), Hội
liên hiệp Văn học – Nghệ thuật Sơn La xuất bản.
159
121. Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch). 2012. Dân ca Thái Lai Châu,
Quyển 2 - Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
122. Cầm Bá Phƣợng. 2010. Giải mã một số biểu tượng trong ca dao – dân ca dân tộc
Thái, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
123. Ngô Thị Phƣợng. 2013. Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt
Nam có cùng đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
124. Triệu Thị Phƣợng. 2009. Sự tương đồng và khác biệt về nội dung giữa truyện thơ
Tày và truyện thơ Thái (2009), Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Trƣờng Đại
học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên.
125. Lê Chí Quế chủ biên. 1998. Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
126. Lê Chí Quế. 2001. Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
127. Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân (sƣu tầm, biên soạn). 2014. Thành ngữ - Tục ngữ
- Ca dao dân tộc Tày, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
128. Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào (sƣu tầm). 2016. Lượn rọi – hát đối đáp của
của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
129. Chu Thái Sơn, Cầm Trọng. 2005. Người Thái, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
130. Dƣơng Đình Minh Sơn. 2001. Ngôn ngữ với việc hình thành âm điệu đặc trưng
trong dân ca Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
131. Trần Hữu Sơn. 2014. “Nghiên cứu văn hóa dân gian các tộc ngƣời ở Lào Cai”,
Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 4, tr. 11 – 17.
132. Kiều Trung Sơn. 2012. “Nhìn lại khái niệm diễn xƣớng”, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 5, tr. 3 - 12
133. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lƣu Oanh tuyển chọn. 2005. Văn học so sánh –
Nghiên cứu và triển vọng, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
134. Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch). 2012. Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 – Chiêng
xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
160
135. Khà Văn Tiến (sƣu tầm và dịch). 1972. Ẳm ệt luông Trường ca, dân ca, tục ngữ
dân tộc Thái huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, Ty Văn hóa Thông tin Hòa Bình
xuất bản.
136. Nguyễn Mạnh Tiến. 2014. Những đỉnh núi du ca – Một lối tìm về cá tính
H’Mông, Nxb Thế giới, Hà Nội.
137. Tổng cục Thống kê. 1979. Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, Tổng cục
Thống kê công bố, Tổng cục trƣởng Hoàng Trình kí.
138. Doãn Thanh (sƣu tầm, biên soạn). 1997. Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn, Sở Văn
hóa Thông tin Lào Cai xuất bản.
139. Tô Ngọc Thanh. 1998. Âm nhạc dân gian Thái Tây Bắc, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
140. Hà Đình Thành (chủ biên). 2010. Văn hóa dân gian Tày – Nùng ở Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
141. Lê Thị Phƣơng Thảo. 2011. Hát lượn slương của người Tày (Qua khảo sát ở xã
Yên Cư, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn), Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên.
142. Đặng Duy Thắng. 2013. Hát ru và những nghi lễ đầu đời cho trẻ nhỏ của người
Thái huyện Sôp Cộp tỉnh Sơn La, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên.
143. Đƣờng Tiểu Thi. 2011. So sánh kiểu truyện cô Lọ Lem của một số dân tộc miền
nam Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
144. Nguyễn Duy Thịnh. 2017. “Tại sao chỉ có phụ nữ Thái Mai Châu tham gia kành
loóng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr. 14 – 19.
145. Ngô Đức Thịnh. 2006. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
146. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan chủ biên. 2005. Folklore thế giới – Một số công
trình nghiên cứu cơ bản, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
147. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan chủ biên. 2005. Folklore thế giới – Một số thuật
ngữ đương đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
148. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (sƣu tầm, dịch, chú giải và giới thiệu). 2012. Luật
tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
149. Đỗ Lai Thúy. 2007. Phân tâm học và tính cách dân tộc, Nxb Tri thức, Hà Nội.
161
150. Nguyễn Hữu Thức (chủ biên), Đặng Nghiêm Vạn (chỉnh lí và viết lời tựa). 1991.
Dân ca Thái Mai Châu, Sở Văn hóa Thông tin Hà Sơn Bình xuất bản.
151. Trần Thị Huyền Trang. 2016. Võ Bình Định nhìn từ tâm thức dân gian, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
152. Cầm Trọng. 1978. Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
153. Cầm Trọng. 1987. Mấy vấn đề về lịch sử, kinh tế, xã hội cổ đại người Thái Tây
Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
154. Cầm Trọng. 1996. Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
155. Vƣơng Trung. 2012. Quám khắp Ing Éng (Truyện thơ Ing Éng), Hội liên hiệp
VHNT Sơn La xuất bản.
156. Vƣơng Trung. 1999. Mo khuôn, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
157. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia. 2002. Tổng tập văn học dân
gian người Việt, tập 15 – Ca dao, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
158. Hoàng Văn Trụ (biên soạn). 1997. Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
159. Vũ Anh Tuấn. 1984. “Về một số biểu tƣợng văn học dân gian miền núi”, Tạp chí
Văn hóa dân gian, số 2, tr. 63 – 66.
160. Vũ Anh Tuấn. 2003. “Tự sự học với vấn đề nghiên cứu đặc sắc tự sự dân gian
Tày qua việc khảo sát liên văn bản motif truyện kể Tày dạng Tấm Cám” Tự sự
học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Hà Nội, tr.
185 – 198.
161. Vũ Anh Tuấn. 2015. Truyện thơ Tày: Nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp
thể loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
162. Vũ Anh Tuấn (chủ biên). 2015. Giáo trình Văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
163. Đoàn Thị Tuyến. 2014. Bản sắc văn hóa từ góc độ lí thuyết, Đề tài cấp cơ sở,
Viên Nghiên cứu Văn hóa, bản đánh máy, 24 trang.
164. Vũ Ánh Tuyết. 2008. Yếu tố tự sự trong dân ca Tày, Luận văn Thạc sĩ khoa học
Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Thái Nguyên.
162
165. V. IA. Propp (Chu Xuân Diên, Phạm Lan Hƣơng, Nguyễn Kim Loan, Phạm Bích
Ngọc, Trần Minh Tâm, Đỗ Đức Thịnh, Đỗ Lai Thúy, Phan Ngọc dịch). 2003.
Tuyển tập V. IA. Propp (tập 1), Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật, Hà Nội.
166. Đặng Nghiêm Vạn. 1977. Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái Tây Bắc, Nxb
Khoa học Xã hội.
167. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 1988. Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của người Thái
Mai Châu, Sở Văn hóa Thông tin Hòa Bình xuất bản.
168. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 1992. Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở
Việt Nam, quyển 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
169. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 2000. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 40, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
170. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 2000. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 41, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
171. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 2002. Tổng tập Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam, tập 1, quyển 2, Nxb Đà Nẵng.
172. Trần Lê Văn. 1987. “Hạn Khuống, một hình thức hội diễn ca nhạc cổ truyền của
đồng bào Thái Tây Bắc”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, tr. 61 – 64.
173. Viện dân tộc học. 1978. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
174. Viện Dân tộc học. 1992. Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
175. Viện Nghiên cứu Văn hóa. 2007. Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam, tập 18 – Dân ca, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
176. Viện Nghiên cứu Văn hóa. 2007. Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam, tập 19 – Dân ca, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
177. Viện Nghiên cứu Văn hóa (2008), Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu
số Việt Nam, tập 17 – Dân ca, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
178. Viện Nghiên cứu Văn hóa. 2010. Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam, tập 23 – Nhận định và tra cứu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
179. Lƣu Thị Hồng Việt. 2010. “So sánh dân ca của ngƣời Việt và ngƣời Hàn”, Tạp
chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1.
163
180. Lƣu Thị Hồng Việt. 2010. “Thần thoại Việt – Hàn, sự tƣơng đồng và khác biệt”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 317, tháng 11 – 2010.
181. Lƣu Thị Hồng Việt. 2012. “So sánh truyện cổ tích Hàn – Nhật”, Tạp chí Khoa
học Đại học Huế, số 76.
182. Lƣu Thị Hồng Việt. 2013. “Một số tƣơng đồng về các kiểu nhân vật trong “Kim
ngao tân thoại” (Kim thời tập) và “Truyền kì mạn lục” (Nguyễn Dữ)”, Tạp chí
Đại học Thủ Dầu Một, số 12.
183. Lƣu Thị Hồng Việt. 2015. Không gian trong truyện cổ tích Việt Nam – Hàn
Quốc: một cái nhìn so sánh, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội.
184. Lê Trung Vũ. 1992. 65 lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
185. Lô Khánh Xuyên, Sầm Nga Di (sƣu tầm và biên soạn). 1993. Tục ngữ - ca dao –
dân ca dân tộc Thái – Nghệ An, Nxb Nghệ An.
186. Nguyễn Khắc Xƣơng. 1986. “Về vấn đề khái niệm trong nghiên cứu nghê thuật
biểu diễn dân gian: Diễn xƣớng và trò diễn”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr.
35 – 40.
187. La Công Ý. 2010. Đến với người Tày và văn hóa Tày, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
188. Nguyễn Thị Yên. 2003. Lễ hội Nàng Hai của người Tày ở Cao Bằng, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
189. Nguyễn Thị Yên. 2006. Then Tày, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
190. Nguyễn Thị Yên. 2009. Tín ngưỡng dân gian Tày Nùng, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
191. Nguyễn Thị Yên. 2010. Đời sống tín ngưỡng của người Tày ven biên giới Hạ
Lang – Cao Bằng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
192. Nguyễn Thị Yên (chủ biên), Triệu Sinh, Dƣơng Thuấn (sƣu tầm, biên dịch, giới
thiệu). 2014. Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Tài liệu tiếng nước ngoài
193. Ruut Veenhoven. 1991. “Is happiness relative?” (Hạnh phúc là tƣơng đối?), Social Indicators Research, 24, Pg. 1 – 34.
194. Ruut Veenhoven. 2003. “Happiness” (Hạnh phúc), The Psychologist, Vol 16, Pg. 128 – 129.
164