CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Giới thiệu
Trong nhận thức của phần lớn các nhà đầu tư thì hiệu quả công ty thường gắn
liền với giá cổ phiếu. Mục đích chính của quản trị là để tối đa hóa sự giàu có của công
ty (Sujoko, 2007), hiệu quả/giá trị công ty được phản ánh vào giá cổ phiếu đó là ổn
định hay tăng trưởng. Nếu giá cổ phiếu cao sẽ làm cho hiệu quả công ty cao và tác
động đến lòng tin của thị trường đối với hiệu quả công ty ở hiện tại, cũng như triển
vọng đối với công ty trong tương lai, rất quan trọng trong các giao dịch đầu tư. Tuy
nhiên, để đạt được hiệu quả công ty cao thì các nhà quản lý có thể thực hiện theo
nhiều cách khác nhau. Một là, tác động vào các chỉ số tài chính của công ty để cải
thiện lợi nhuận, vì lợi nhuận tăng có thể dẫn đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán tăng. Hai là, các nhà quản lý công bố rộng rãi về việc thực hiện tốt trách nhiệm
xã hội (Corporate social responsibility – CSR) để nâng cao hình ảnh và làm tăng
doanh số bán hàng của công ty. Ba là, các nhà quản lý thực hiện tốt quản trị công ty,
vì quá trình quản trị công ty tốt hơn có thể làm tăng hiệu quả công ty. Bốn là, các công
ty lớn có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vững chắc hơn nên nó được dự kiến
là sẽ làm gia tăng hiệu quả công ty. Cho nên, những công ty có báo cáo các thông tin
về trách nhiệm xã hội tốt, quản trị công ty tốt, và quy mô lớn được kỳ vọng sẽ có
những ảnh hưởng tốt đối vối việc cải thiện hiệu quả công ty. Như vậy, có nhiều khía
cạnh khác nhau để đạt được hiệu quả công ty cao và trách nhiệm xã hội là một trong
những khía cạnh được các nhà quản lý sử dụng để làm tăng hiệu quả công ty. Nhưng
trách nhiệm xã hội (CSR) là gì? Trách nhiệm xã hội có tác động như thế nào lên hiệu
quả công ty (hiệu quả tài chính)? Đó là hướng nghiên cứu chính của nghiên cứu này.
Thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội” đã xuất hiện trong lý thuyết Quản trị và Kế
toán trong khoảng 45 năm (Wood, 2010). Trong những năm gần đây không chỉ các tổ
chức kinh tế mà cả xã hội ngày càng gia tăng mối quan tâm của họ đối với trách
nhiệm xã hội (Adams và Frost 2006; Gulyas 2009; Young và Thyil 2009). Theo
truyền thống, các công ty phải tập trung các chiến lược của họ cho hoạt động kinh
doanh và lợi nhuận (ví dụ như sự khác biệt, sự đa dạng, tập trung và toàn cầu hóa
v.v…). Tuy nhiên, gần đây nhu cầu mở rộng các hoạt động của tổ chức vào các hoạt
động xã hội đã trở nên cấp thiết và đóng vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược
1
của tổ chức. Các học giả cho rằng những hoạt động như vậy chính là các hoạt động
trách nhiệm xã hội (Carroll 1979; Margolis và Walsh 2001). Cụ thể hơn, trách nhiệm
xã hội là việc công ty/doanh nghiệp sẽ tự nguyện tích hợp các vấn đề về xã hội và môi
trường vào hoạt động kinh doanh của họ và tương tác với các bên liên quan (Djalil,
2003). Hay hiểu rộng hơn, khái niệm này hàm ý rằng trách nhiệm xã hội trở thành một
phần không thể thiếu trong chiến lược đầu tư, chiến lược kinh doanh cốt lõi, công cụ
quản lý, cũng như các hoạt động của tổ chức - nghĩa là trách nhiệm không phải là chi
phí mà là một sự đầu tư đối với tổ chức kinh doanh (Kusuma Dilaga, 2010). Trách
nhiệm xã hội là sự khẳng định rằng tổ chức không chỉ hoạt động vì lợi ích của các cổ
đông, mà còn vì lợi ích của các bên liên quan khác cụ thể là người lao động, cộng
đồng địa phương, chính phủ, tổ chức phi chính phủ (NGOs), người tiêu dùng và môi
trường.
Việt Nam, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã được truyền bá vào
nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc gia đầu tư nước ngoài. Các công
ty này thường đưa ra các chương trình khuyến cáo ứng xử về văn hoá kinh doanh đem
áp dụng vào các địa bàn đầu tư. Ví dụ như “Chương trình tôi yêu Việt Nam” của công
ty Honda - Vietnam; “Chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân” cho các trẻ em của
công ty Unilever; “Chương trình đào tạo tin học Topic 64” của Microsoft, Qualcomm
và HP; “Chương trình hỗ trợ dị tật tim bẩm sinh” và “Chương trình ủng hộ nạn nhân
vụ sập cầu Cần Thơ” của Vinacapitat, Samsung; “Chương trình khôi phục thị lực cho
trẻ em nghèo” của Western Union;… Kết quả, những năm qua đã có một số tổ chức
kinh tế chủ động thực hiện trách nhiệm xã hội và nhờ đó mà thương hiệu của họ càng
được xã hội biết đến (Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, Ngân hàng Á Châu - ACB,
Sacombank, Kinh Đô,…).
Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội không hề mới; đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội cũng như nhiều công ty nước ngoài từ lâu đã
thực hiện trách nhiệm xã hội một cách nghiêm túc và bài bản. Tuy nhiên, việc thực
hiện trách nhiệm xã hội phụ thuộc vào điều kiện phát triển của mỗi quốc gia, nhất là
các nước phát triển phương Tây như Hoa Kỳ (USA) và Vương quốc Anh (UK)
(Chambers và cộng sự, 2003). Các điều kiện cụ thể đã được thảo luận bởi nhiều nhà
nghiên cứu và họ đã xác định là có khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển (Chambers và cộng sự, 2003; Matten và Moon 2004; Chapple và
2
Moon 2005; Visser 2008). Các nhà nghiên cứu như Edmondson và Carroll (1999),
Burton và cộng sự (2000) và Khan (2005), cho rằng trách nhiệm xã hội bị ảnh hưởng
bởi các mô hình văn hóa và phong tục truyền thống khác nhau nên có thể khó áp dụng
ở các nước đang phát triển.
Mặt khác, có một số lượng lớn các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội được thực
hiện khi sử dụng các khía cạnh trách nhiệm xã hội khác nhau, các quốc gia khác nhau
và thị trường khác nhau (Guthrie và Parker, 1989; Deegan và Gordon, 1996;
Mathews, 1997; O’Dwyer, 2001; Deegan và cộng sự, 2002; Murphy và Abeysekera,
2008; Clarklon và cộng sự, 2011). Cũng như một số lượng lớn nghiên cứu khác tiến
hành điều tra mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
công ty (Corporate financial performance – CFP) (Griffin và Mahon, 1997;
McWilliam và Siegel, 2000; Chen và Wang, 2011). Tuy nhiên, kết quả của các nghiên
cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính thường
mâu thuẫn và hỗn hợp. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy mối tương quan dương
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (Waddock và Graves, 1997; Van de
velde và cộng sự, 2005; Petrer và Mullen, 2009; Choi và cộng sự, 2010; Kwanbo,
2011; Michelon, 2011; Oeyono và cộng sự, 2011; Stephanus và cộng sự, 2014; Sarah
và cộng sự, 2015; Yusuf và Maryam, 2015; Strouhal và cộng sự, 2015; Amran, 2015;
Wan và Muhammad, 2016); trong khi một số nghiên cứu khác phát hiện ra mối tương
quan âm (Mittal và cộng sự, 2008; Crisostomo và cộng sự, 2100); hay cũng có một số
nghiên cứu không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính (Preston và O’Bannon, 1997; McWilliam và Siegel, 2000; Moneva và
Ortas; 2008; Kimbro và Melendy, 2010).
Phần còn lại được phân bổ như sau: mục 1.2, bối cảnh; mục 1.3, câu hỏi nghiên
cứu; mục 1.4, mục tiêu nghiên cứu; mục 1.5, đối tượng và phạm vi nghiên cứu; mục
1.6, phương pháp nghiên cứu; mục 1.7, ý nghĩa của nghiên cứu; mục 1.8, bố cục của
nghiên cứu.
1.2. Bối cảnh
Vào cuối những năm 1980, trách nhiệm xã hội đã thu hút được sự chú ý trên
toàn thế giới và một số học giả đã xác định rằng các công ty có trách nhiệm xã hội
được hưởng một số lợi ích. Những lợi ích đó bao gồm các yếu tố như lợi nhuận - việc
đạt được một lợi thế cạnh tranh (Smith 1994; Porter và Kramer, 2002); tạo ra một hình
3
ảnh tích cực về công ty (Smith và Stodghill, 1994); thu hút và giữ chân những nhân
viên giỏi nhất (Turban và Greening, 1997); và nâng cao lòng trung thành của khách
hàng (Brown và Dacin, 1997). Tuy nhiên, một số học giả đã thừa nhận rằng các sáng
kiến trách nhiệm xã hội có thể tạo ra chi phí bổ sung (Agarwal, 2008; Sharma và
Talwar, 2005) và các công ty có thể gặp một số bất lợi về kinh tế từ việc thực hiện
trách nhiệm xã hội (Ullmann, 1985; Turban và Greening, 1997).
Sang thế kỷ 21, tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát
triển bắt đầu được thảo luận bởi nhiều học giả. Một nghiên cứu về các công ty Châu Á
(Belal, 2001) lập luận, các nước đang phát triển đã quan tâm đến các mối nguy hiểm
tiềm năng do đầu tư nước ngoài mang lại, phát triển công nghiệp cho thấy những tác
động xấu đến môi trường và tệ nạn xã hội. Trong nghiên cứu của Rais và
Goedegebuure (2009), Chappel và Moon (2003) về các nước đang phát triển đã nhấn
mạnh, toàn cầu hóa đã khuyến khích trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển
nói chung và cấu trúc lại hệ thống doanh nghiệp quốc gia, chính trị, tài chính, giáo dục
và văn hóa trách nhiệm xã hội trong các công ty đa quốc gia nói riêng. Hơn nữa, các
nước đang phát triển thường có các vấn đề về xã hội và môi trường như quyền con
người, ô nhiễm môi trường và các vấn đề lao động. Tuy nhiên, người dân ở các nước
đang phát triển cho rằng các công ty đa quốc gia (MNCs) có thể giải quyết những vấn
đề này khi tham gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội theo sự phát triển bền vững
và hợp tác với xã hội (Ite, 2004). Các tổ chức kinh doanh luôn suy nghĩ làm thế nào để
tăng hiệu quả tài chính của họ. Nếu họ tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội,
họ có thể giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường (Henderson, 2001). Bởi vì những
vấn đề trên thường phổ biến cho các nước đang phát triển, các nhà nghiên cứu cũng đề
xuất những biện pháp để khắc phục những vấn đề chung này bằng việc thực hiện trách
nhiệm xã hội. Tất nhiên, những vấn đề nêu trên có liên quan trực tiếp đến Việt Nam,
một quốc gia đang phát triển. Vì vậy, nghiên cứu này trước hết sẽ xác định việc thực
hành trách nhiệm xã hội và xác định lợi ích của trách nhiệm xã hội thông qua kiểm tra
các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của các công ty niêm
yết Việt Nam.
Đồng thời các nhà nghiên cứu tại các nước đang phát triển hiện nay cũng đang
bắt đầu xem xét các khái niệm trách nhiệm xã hội ở mức độ sâu hơn. Đặc biệt quan
tâm liệu việc thực hiện trách nhiệm xã hội đạt đến mức độ nào (Dober và Halme,
4
2009), các khái niệm phổ biến của phương Tây về trách nhiệm xã hội có thể thực hiện
được ở các nước đang phát triển (Jamali, 2007), và liệu trách nhiệm xã hội có mang
đến lợi ích kinh doanh cao (Dutta và Durgamohan, 2008). Mặc dù các bên liên quan
khác nhau đã buộc các tổ chức ở các nước đang phát triển thực hiện trách nhiệm xã
hội, nhưng có vẻ như rất nhiều tổ chức kinh doanh không có đủ kiến thức để hiện thực
hóa trách nhiệm xã hội (Fernando, 2007). Hơn nữa, không có quy tắc nào về trách
nhiệm xã hội được chấp nhận ở các nước đang phát triển để thực thi yêu cầu các bên
liên quan (Chambers và cộng sự, 2003; Blowfield, 2004; Chapple và Moon, 2005;
Thorpe và Prakash-Mani, 2006; Visser, 2008). Các học giả khác lại cho rằng sự thiếu
hiểu biết về các lợi ích của trách nhiệm xã hội đã cản trở việc thực hiện trách nhiệm
xã hội (Fernando, 2007; Agarwal, 2008). Do đó, các bên liên quan và các tổ chức có ít
thông tin về khả năng áp dụng các khía cạnh trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát
triển. Hơn nữa, các thông tin đến từ các tổ chức quốc tế như UN Global Compact và
Global Reporting Initiative (GRI) đã hỗ trợ cho sự phát triển của nhiều kế hoạch thực
hiện trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính là quan trọng bởi vì nếu nó được phát hiện là có mối quan hệ cùng chiều,
thì điều này sẽ hỗ trợ cho các tranh luận “win – win”. Quả nhiên, các tài liệu đã cho
thấy các kết quả trái ngược nhau bởi vì nhiều nghiên cứu bị mắc phải lỗi mô hình
thông số sai lệch và/hoặc dữ liệu hạn chế (Elsayed và Paton, 2005). Elsayed và Paton
(2005) đã xác định một khoảng trống lớn trong các tài liệu - rất ít nghiên cứu có kiểm
soát đối với công ty không đồng nhất hoặc xem xét hiệu ứng động trong mối quan hệ
giữa hiệu quả môi trường – xã hội và hiệu quả tài chính".
Việt Nam là một đất nước có lịch sử lâu dài với niên đại hơn 4000 năm. Phần
đông người dân theo đạo Phật và họ tin rằng họ có trách nhiệm lẫn nhau và điều này là
rất quan trọng trong sự phát triển cuộc sống của họ. Trách nhiệm này sau đó được mở
rộng đến kinh doanh. Do đó, thuật ngữ "Trách nhiệm xã hội" không phải là mới đối
với người dân Việt Nam nói chung và các tổ chức nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm
trách nhiệm xã hội (CSR) là mới đối với các tổ chức kinh doanh, các nhà đầu tư, với
người tiêu dùng và toàn xã hội nói chung. Nhất là, sau khi Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của WTO vào năm 2007, việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các tổ
chức kinh doanh trở nên đặc biệt quan trọng. Nhưng việc thực hiện trách nhiệm xã hội
5
ở Việt Nam lại còn tương đối khó khăn. Điều này do nguyên nhân bởi chính bản thân
các tổ chức cũng chưa có hiểu biết đúng đắn về trách nhiệm xã hội (CSR).
Ngoài ra, nếu xem xét tổng thể các tổ chức kinh tế thì Việt Nam có hơn 90%
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa (Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
của Chính phủ) nên sự am hiểu và đầu tư cho việc thực hành trách nhiệm xã hội còn
rất nhiều khoảng trống. Mặt khác, cách hiểu phổ biến của phần lớn các tổ chức kinh tế
là đồng nhất giữa thực hiện trách nhiệm xã hội với làm từ thiện hay thực hiện trách
nhiệm xã hội là không bắt buộc, khi nào có điều kiện thì làm. Thậm chí có nhiều nhà
quản lý trong các tổ chức còn coi trách nhiệm xã hội là hoạt động PR, khuếch trương
tên tuổi của mình nhằm che dấu hiệu quả kinh tế thực tế. Điều đó đi ngược hoàn toàn
với tinh thần của trách nhiệm xã hội. Đồng thời, việc thiếu nguồn nhân lực, tài chính
và kỹ thuật của các tổ chức kinh doanh cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các phát
kiến trách nhiệm xã hội.
Mặc dù vậy, một số tổ chức kinh doanh tại Việt Nam đã thực hiện một loạt các
hoạt động trách nhiệm xã hội và nhiều báo cáo sáng kiến trách nhiệm xã hội của họ
được công bố trên các websites công ty, báo cáo bền vững và các báo cáo thường
niên. Bởi vì, các tổ chức đều nhận thức và quan tâm đến sự ảnh hưởng trong các hoạt
động của họ đối với môi trường, cộng đồng, người lao động và các bên liên quan
khác. Cũng như rất nhiều các tổ chức Việt Nam đã nhận thấy được những lợi ích tích
cực liên quan đến các hoạt động trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức vẫn phải
đối mặt với những thách thức to lớn trong việc thực hành các hoạt động trách nhiệm
xã hội và mức độ hiểu biết về trách nhiệm xã hội vẫn còn rất thấp. Do đó, các nghiên
cứu tập trung vào việc xác định các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn, bởi vì không
có bằng chứng bắt buộc cho dù trách nhiệm xã hội đã được thực hiện ở Việt Nam.
Dựa vào những lập luận trên trong các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội ở Việt
Nam, đã cho tác giả thấy được sự cần thiết mở rộng các nghiên cứu trước đây về trách
nhiệm xã hội, về mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính đối với các công ty niêm yết trên thị trường vốn Việt Nam. Đó chính là lý do tác
giả lựa chọn chủ đề về “Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ
các công ty niêm yết Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu chính cho nghiên cứu này.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
6
Như thảo luận trong bối cảnh nghiên cứu, sự hiểu biết về trách nhiệm xã hội ở
Việt Nam là chưa cao. Mặc dù, một số công ty đã áp dụng và phát triển các khía cạnh
trách nhiệm xã hội để báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội của họ trên cơ sở tự
nguyện nhưng lại có tương đối ít các công ty niêm yết đã thực hiện việc công bố trách
nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và websites có nội dung
bền vững. Do đó, những cuộc điều tra xa hơn về việc mở rộng các nghiên cứu trước
về trách nhiệm xã hội cần được thực hiện.
Các câu hỏi nghiên cứu chính trong nghiên cứu này bao gồm:
(1) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các phương diện (khía cạnh)
trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính trong các công ty công ty niêm yết Việt Nam
hay không?
(2) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty trong các công ty
công ty niêm yết Việt Nam hay không?
(3) Các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội luôn có hiệu quả tài
chính tốt hơn các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội đúng
không?
1.4. Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết sự thiếu rõ ràng về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính, cũng như những tranh luận về khả năng áp dụng trách nhiệm xã hội vào
các nước đang phát triển như Việt Nam.
- Mục tiêu chung của nghiên cứu này: kiểm tra các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty bằng việc áp dụng phương pháp
phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội (CSR) trên cơ sở đó, kiểm
tra mức độ thực hành CSR cho các công ty niêm yết Việt Nam và đo lường các mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính.
- Mục tiêu cụ thể:
(1) Tính toán và đo lường chỉ số trách nhiệm xã hội sau đó sử dụng chỉ số CSR
này kiểm tra các mối quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và
rủi ro công ty.
(2) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách nhiệm
xã hội với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam.
(3) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty.
7
(4) Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội so với các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu: trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công
ty và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam (chia thành hai nhóm gồm các công ty niêm yết có công bố
CSR và nhóm các công ty niêm yết không công bố CSR) giai đoạn 2012 – 2016, để
hoàn thành hai kiểm tra thực nghiệm. Một là, khảo sát việc thực hành trách nhiệm xã
hội của các công ty niêm yết; hai là, kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty đồng thời so sánh hiệu quả tài chính giữa các
công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công
bố trách nhiệm xã hội.
Trong phần kiểm tra thực nghiệm đầu tiên được chia thành hai bước: một là,
dựa trên phân tích nội dung báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và các websites có
nội dung bền vững của các công ty niêm yết để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội
bao gồm bốn phương diện (khía cạnh): trách nhiệm với môi trường, với người lao
động, với cộng đồng và với sản phẩm/khách hàng. Sau đó dùng chỉ số CSR được phát
triển để kiểm tra mức độ thực hành trách nhiệm xã hội và đo lường các mối quan hệ
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty; hai là, xác định các
biến đại diện cho hiệu quả tài chính, các biến kiểm soát và thu thập dữ liệu cho các
biến này.
Trong phần kiểm tra thực nghiệm thứ hai sử dụng mô hình kinh tế lượng và các
kiểm tra kỹ thuật để kiểm tra các mối quan hệ trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính, và rủi ro công ty, so sánh hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công
bố CSR và các công ty niêm yết không công bố CSR.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu này được dựa trên các tài liệu hiện nay
về trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Các thành phần chính của phương pháp
được sử dụng như sau:
8
Một là, phát triển khung nghiên cứu; thiết kế mẫu nghiên cứu và thu thập dữ
liệu cho nghiên cứu.
Hai là, sử dụng phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách
nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh Việt Nam, và để đo lường việc thực hành trách
nhiệm xã hội của các công ty niêm yết bằng cách thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo
thường niên, báo cáo bền vững và websites của các công ty niêm yết có công bố thông
tin trách nhiệm xã hội. Đồng thời, xác định các biến đo lường đại diện cho hiệu quả tài
chính, rủi ro công ty và thu thập dữ liệu cho biến hiệu quả tài chính và rủi ro công ty
từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết.
Ba là, xây dựng mô hình hồi quy cụ thể để đo lường các mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Bốn là, sử dụng các mô hình kinh tế lượng (Pooled OLS, FEM, REM) và các
kiểm tra kỹ thuật phù hợp để kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Cuối cùng, các kết quả từ phân tích thực nghiệm sẽ được giải thích và được
phân tích. Các kết quả ban đầu từ nghiên cứu được so sánh với kết quả từ các nghiên
cứu khác để giải thích mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu.
1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu
Các nghiên cứu hiện nay đã có những đóng góp thiết thực đáng kể cho lĩnh vực
trách nhiệm xã hội vì nó chứa các hiệu quả kinh tế cũng như hỗ trợ việc áp dụng các
chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội thích hợp. Hiệu quả kinh tế đạt được từ
các kết quả phân tích hồi quy, và các chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội đã
được xác định từ sự phát triển của các chỉ số trách nhiệm xã hội. Phần lớn các nghiên
cứu hiện có về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã tập trung
vào quan điểm của các nước phương Tây (Mỹ, Anh và Úc). Các tài liệu đã nhấn mạnh
rằng một khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội thích hợp là một yếu tố quan trọng
trong việc đảm bảo các chính sách và nguyên tắc trách nhiệm xã hội ở các nước đang
phát triển (Rathnasiri, 2003; Fernando, 2008; Moon, 2002). Hiện nay các nhà nghiên
cứu về trách nhiệm xã hội như McWilliams và cộng sự (2006), Rodríguez và cộng sự
(2006) đã chỉ trích các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội là những lời tuyên bố kém vì
không có định nghĩa được chấp nhận, thiếu vận hành và thước đo được chấp nhận.
9
Nghiên cứu này cố gắng khắc phục những vấn đề trên bằng cách phát triển
khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh ở Việt Nam. Ngoài ra,
khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có thể được sử dụng như là một công cụ để tiếp
tục các nghiên cứu trách nhiệm xã hội và ra quyết định đối với các nhà nghiên cứu
trong tương lai. Hơn nữa, quá trình phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có
thể hữu ích cho việc quản lý cũng như các bên liên quan để giúp họ hiểu được các
khái niệm trách nhiệm xã hội (Carroll, 2004; Maon và cộng sự, 2009).
Mặt khác, như đã đề cập nhiệm vụ khó khăn nhất cho các nghiên cứu trách
nhiệm xã hội là đo lường hiệu quả trách nhiệm xã hội. Wood (2010), có một số nghiên
cứu trách nhiệm xã hội đã sử dụng nhiều thước đo trách nhiệm xã hội khác nhau
nhưng các nghiên cứu này không thể được phân thành các nguyên tắc, quy trình hoặc
kết quả. Điều này có nghĩa việc lượng hóa khái niệm trách nhiệm xã hội là rất quan
trọng vì nó sẽ giúp các nhà nghiên cứu đo lường được các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và cho phép sự minh bạch giữa nhà quản lý và các
bên liên quan. Abbott (1979) nêu hai vấn đề chính về đo lường trách nhiệm xã hội cho
các nghiên cứu trong lĩnh vực trách nhiệm xã hội: (i) việc thiếu các dữ liệu định lượng
các hoạt động xã hội và (ii) khó khăn của các phương pháp được sử dụng bởi các học
giả để nhận ra những hiệu ứng đầy đủ của xã hội. Bởi vì, sử dụng các con số định
lượng có thể nhận ra hiệu quả trách nhiệm xã hội của công ty. Kết quả là, nhà quản lý
có thể đưa ra quyết định mà những quyết định này sẽ làm giảm xung đột giữa các tổ
chức và nhân viên, cộng đồng và khách hàng của mình. Do vậy, việc lượng hóa trách
nhiệm xã hội thông qua việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội của nghiên cứu này
sẽ bổ sung đáng kể cho các tài liệu về trách nhiệm xã hội hiện nay trong bối cảnh Việt
Nam.
Cuối cùng, như đã nêu, mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra các mối
quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty khi
mà có tương đối hạn chế các nghiên cứu thực nghiệm tương tự được thực hiện trước
đó ở Việt Nam. Điều này sẽ hỗ trợ và khuyến khích các công ty tăng cường đầu tư cho
các hoạt động trách nhiệm xã hội và làm nền tảng cho các nghiên cứu tương lai về các
mối quan hệ này. Như vậy, nghiên cứu này đã có đóng góp tốt đối với thực hành trách
nhiệm xã hội của các công ty niêm yết trong bối cảnh Việt Nam.
1.8. Bố cục nghiên cứu
10
Nghiên cứu này bao gồm năm chương. Các chương này giới thiệu về các chủ
đề và cung cấp kiến thức nền tảng cho nghiên cứu. Nó bao gồm một thiết kế cho các
mục tiêu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 2: Thảo luận về các lý thuyết và các tài liệu thực nghiệm liên quan
đến trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và các mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Chương này bắt đầu với
việc thảo luận về khái niệm trách nhiệm xã hội, các lý thuyết chính liên quan trách
nhiệm xã hội, lý do tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội và lợi ích của trách
nhiệm xã hội mang lại cho các tổ chức. Sau đó tổng quan các vấn đề về mối quan hệ
thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước phát triển, các
nước đang phát triển và Việt Nam. Tiếp theo, xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và rủi ro công ty. Kế tiếp xem xét hiệu quả tài chính giữa công ty có công bố
trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, xác định
“gaps” trong nghiên cứu. Từ những nền tảng lý luận này, hình thành giả thuyết nghiên
cứu và khung nghiên cứu chung để sử dụng trong nghiên cứu án này.
Chương 3: Thảo luận về dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Đầu tiên, giải
thích khung nghiên cứu và mô tả việc phát triển khung nghiên cứu để hiểu được
những ảnh hưởng của các biến lên hiệu quả tài chính. Tiếp theo liên quan đến lựa
chọn mẫu nghiên cứu, việc lựa chọn và đo lường các biến, xây dựng mô hình hồi quy
để kiểm tra các mối quan hệ, và lựa chon các mô hình kinh tế lượng và các kiểm tra
kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 4: Giải thích các kết quả nghiên cứu chính của nghiên cứu. Chương
này thảo luận các kỹ thuật phân tích được đề cập trọng trong Chương 3 dựa trên các
giả thuyết nghiên cứu trong Chương 2 thông qua ba bước để đạt mục tiêu nghiên cứu:
(i) sử dụng phân tích nội dung, (ii) thống kê mô tả, (iii) hệ số tương quan, (iv) giải
thích kết quả phân tích hồi quy về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính và rủi ro công ty.
Chương 5: Kết luận. Cụ thể, Chương này đưa ra một vài kiến nghị, hàm ý
chính sách, những hạn chế và đề xuất cho các hướng nghiên cứu tương lai.
11
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Giới thiệu
Chương 2 giới thiệu các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến
trách nhiệm xã hội và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính
và rủi ro. Thứ nhất, nội dung bao gồm định nghĩa về trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài
chính và rủi ro công ty. Thứ hai, các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và rủi ro công ty để có một sự hiểu biết sợ bộ về các mối quan hệ này trong thực
tế.
Nhiều nghiên cứu đã hướng đến việc xác định các cơ chế của trách nhiệm xã
hội và làm thế nào trách nhiệm xã hội liên quan đến việc làm tăng lợi thế cạnh tranh.
Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã cố gắng xác định các tác động của trách nhiệm xã hội
lên các bên liên quan khác nhau, chẳng hạn như nhân viên, khách hàng và xã hội. Một
số nghiên cứu đã điều tra làm thế nào các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty
ảnh hưởng đến lợi nhuận của nó (Waddock và Graves, 1997; Luo và Bhattacharya,
2006) đã lập luận rằng trách nhiệm xã hội làm tăng doanh thu và giảm chi phí (Cruz
và Wakolbinger, 2008; Maloni và Brown, 2006). Các nhà nghiên cứu khác (Ruf và
cộng sự, 2001; Griffin và Mahon, 1997) đã chỉ ra rằng việc cải thiện trách nhiệm xã
hội sẽ dẫn đến hiệu quả tài chính cao hơn, cho dù hiệu quả này là do giảm chi phí hoặc
tăng doanh thu. Friedman (1970), trách nhiệm chính của công ty là tối đa hóa sự giàu
có của cổ đông. Garriga và Melé (2004), tối đa hóa giá trị của cổ đông phù hợp với sự
thỏa mãn lợi ích nhất định của những người trong tổ chức và họ cũng nói rằng các
công ty nhận được nhiều lợi ích qua việc đầu tư vào các nhu cầu xã hội và "việc đầu
tư vào các hoạt động từ thiện có thể là cách duy nhất để cải thiện lợi thế cạnh tranh
của một công ty". Ngoài ra, từ quan điểm của lý thuyết các bên liên quan, trách nhiệm
xã hội có thể được đánh giá trong điều kiện của một công ty đáp ứng nhu cầu của
nhiều bên liên quan. Ruf và cộng sự (2001) cho rằng đã có nhiều cách tiếp cận khác
nhau để "thỏa mãn yêu cầu các bên liên quan, đi từ giảm thiểu chi phí đến tối đa hóa
xã hội. Bằng cách đầu tư có chiến lược vào nhu cầu các bên liên quan, công ty đạt
được lợi thế cạnh tranh bằng việc phát triển thêm các kỹ năng bổ sung mà đối thủ
cạnh tranh gần như không thể bắt chước".
12
Các phần tiếp theo được trình bày như sau. Mục 2.2, trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp (CSR). Mục 2.3, hiệu quả tài chính công ty (CFP). Mục 2.4, các quan điểm lý
thuyết về trách nhiệm xã hội. Mục 2.5, các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Mục 2.6, mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và rủi ro công ty. Mục 2.7, xác định khoảng trống nghiên cứu. Mục 2.8, giả
thuyết nghiên cứu. Cuối cùng, phần tóm tắt Chương 2.
2.2. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Corporate social responsibility -
CSR)
2.2.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR)
2.2.1.1. Định nghĩa
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội. Mỗi doanh nghiệp, tổ
chức, chính phủ nhìn nhận CSR dưới những góc độ riêng và quan điểm riêng, phụ
thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của mình. Keith Davis (1973) đưa
ra một khái niệm khá rộng: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với
các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”.
Trong khi đó, Caroll (1999) cho rằng trách nhiệm xã hội còn có phạm vi lớn hơn “là
tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi
trong mỗi thời điểm nhất định”.
Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm bao gồm nhiều khái
niệm khác như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh
nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó là khái niệm động và luôn được
thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”.
Theo Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững: “Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp nhằm đóng góp cho phát triển kinh tế
bền vững thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người
lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và cho toàn xã hội theo cách có
lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội”.
Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội theo thời gian đã mở rộng đối tượng
ảnh hưởng của mình ra nhiều doanh nghiệp và tổ chức liên quan. Các doanh nghiệp đó
phải quan tâm tới việc các hoạt động của mình có ảnh hưởng như thế nào tới các vấn
đề xã hội xung quanh như với cộng đồng (quyền con người, các vấn đề về lao
động…), bảo vệ môi trường… Tuy nhiên, sau rất nhiều định nghĩa về trách nhiệm xã
13
hội thì khái niệm của Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững cho thấy rõ hơn
bản chất của trách nhiệm xã hội. Do đó, nghiên cứu thống nhất với khái niệm của Ủy
ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững.
2.2.1.2. Các cách tiếp cận trách nhiệm xã hội
Mặc dù hiện nay trách nhiệm xã hội là một vấn đề tương đối phổ biến. Song,
trên thực tế, còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung và phạm vi của trách
nhiệm xã hội, dưới đây là một số cách tiếp cận phổ biến:
Tiếp cận theo mô hình “Kim tự tháp” của A. Carroll (1999)
Mô hình này có tính toàn diện và được sử dụng rộng rãi nhất. Mô hình “Kim tự
tháp” của A. Carroll thể hiện rõ nhất và bao quát nhất các lĩnh vực quan tâm của trách
nhiệm xã hội.
Hình 2.1: Mô hình “kim tự tháp trách nhiệm xã hội (Nguồn: Carroll Archie, 1999)
Theo mô hình trên, trách nhiệm xã hội bao gồm trách nhiệm kinh tế, trách
nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện. Ranh giới giữa các tầng
trong “Kim tự tháp” là không rõ ràng, tác động lẫn nhau. Việc tuân thủ quy định pháp
luật chắc chắn đưa đến các chi phí kinh tế cho tổ chức. Và quy tắc đạo đức xã hội
ngoài luật luôn mở rộng (theo trình độ phát triển của xã hội), tạo áp lực lên hệ thống
pháp luật, bắt buộc các nhà làm luật phải luôn bám sát thực tiễn xã hội.
Bên cạnh đó, một số tác giả cho rằng: trách nhiệm xã hội có thể tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau và bao trùm nhiều khía cạnh. Ngoài cách tiếp cận theo mô
hình “Kim tự tháp” của A. Carroll, các tổ chức có thể tiếp cận theo các bên liên quan.
Tiếp cận theo các bên liên quan
Các bên liên quan, ảnh hưởng và hưởng lợi của việc thực thi trách nhiệm xã hội
có thể bao gồm: Cổ đông/chủ sở hữu doanh nghiệp, người lao động, đối tác, khách
hàng, cộng đồng và các đối tượng khác như cơ quan quản lý, các hiệp hội hay các tổ
chức phi lợi nhuận hay các tổ chức quốc tế (Matten và Moon, 2005).
14
Theo hình 2, trách nhiệm xã hội đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức hoạt
động kinh doanh có trách nhiệm đối với người lao động, có trách nhiệm bảo vệ môi
trường, trách nhiệm đóng góp cho lợi ích cộng đồng, trách nhiệm đối với khách hàng,
nhà cung ứng.
Hình 2.2: Các đối tượng tác động của trách nhiệm xã hội
Các nội dung thực thi trách nhiệm xã hội và các mức độ quan tâm của các bên
liên quan đến việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được tóm tắt trong
bảng sau.
Bảng 2.1: Mức độ quan tâm của các bên liên quan đối với trách nhiệm xã hội
Chủ sở
Khách
Người lao
Cộng
Cơ quan
Nội dung
hữu
hàng
động
đồng
quản lý
Trách nhiệm_ kinh tế
1
4
2
3
5
Trách nhiệm_ pháp lý
3
2
1
4
5
Trách nhiệm_ đạo đức
4
1
2
3
5
Trách nhiệm_ từ thiện
3
4
2
1
5
Các số từ 1 đến 5 chỉ thứ tự quan tâm của từng bên liên quan đến các nội dung trách
nhiệm xã hội. (Nguồn: Carroll và Buchholtz, 2003)
Như vậy, qua bảng trên có thể thấy rằng tùy thuộc vào mục tiêu của từng đối
tượng cụ thể mà các khía cạnh trách nhiệm xã hội sẽ được nhận thức theo từng mức
độ khác nhau. Đối với chủ sở hữu công ty, họ luôn xem trách nhiệm kinh tế là mực
tiêu quan tâm hàng đầu đối với họ vì lợi ích của cổ đông và chính bản thân công ty.
Trong khi khách hàng luôn đặt vấn đề đạo đức của công ty vào sản phẩm họ sản xuất
và cung cấp trên thị trường là mối quan tâm chính, thì người lao động lại xem trách
nhiệm thực thi pháp luật của công ty đối với họ lại là vấn đề thiết yếu để bảo vệ quyền
15
và lợi ích của chính bản thân cũng như gia đình của họ. Đối với cộng đồng, luôn đề
cao các hoạt động tham gia từ thiện của các công ty, doanh nghiệp thông qua các hoạt
động như bảo vệ môi trường, đóng góp, ủng hộ, tài trợ, quyên góp, giúp đỡ các đối
tượng gặp khó khăn, thiên tai.v.v… là vấn đề quan trọng bởi vì ngoài trách nhiệm với
cơ quan chủ quản thông qua việc đóng thuế thì các công ty, doanh nghiệp cũng cần có
trách nhiệm với cộng đồng xung quanh nơi họ đặt cơ sở hạ tằng để thực hiện các hoat
động sản xuất kinh doanh. Cuối cùng, các cơ quan chủ quản, họ xem cả bốn trách
nhiệm trên đều quan trọng và thiết yếu mà bất kỳ một công ty, một doanh nghiệp hay
một bên liên quan nào cũng cần có để đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội.
Tiếp cận chuỗi giá trị
Theo cách tiếp cận này, Michael Porter và Kramer (2006) và các nhà nghiên
cứu đã xây dựng chiến lược thực hiện trách nhiệm xã hội gắn liền với những yêu cầu
thực thi trách nhiệm xã hội bắt buộc và tự nguyện. Nó có thể trở thành một bộ phận
trong chiến lược của tổ chức nếu tổ chức thực sự quan tâm, hiểu được vai trò của trách
nhiệm xã hội trong thực hiện các mục tiêu của mình.
Bảng 2.2: Cách tiếp cận chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội
Các hoạt động hỗ trợ Cơ sở hạ tầng (các mối quan hệ về tài chính, kế hoạch, đầu tư)
Quản trị nguồn nhân lực (tuyển dụng, đào tạo, hệ thống đãi ngộ,...)
Phát triển công nghệ (thiết kế sản phẩm, thiết kế quy trình, nghiên cứu vật tư, nghiên cứu thị trường,…)
Mua sắm (vật tư , máy móc, dịch vụ ngoài)
Thực hành các báo cáo tài chính trung thực; Đảm bảo sự minh bạch hóa; Thúc đẩy thay đổi chính sách;… Đào tạo và tập huấn công việc cho người lao động; Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn; Đánh giá đúng sự đa dạng và phân biệt hóa; Quan tâm chăm sóc sức khỏe và các lợi ích khác; Có chế độ đãi ngộ đối với người lao động; Có chế độ khi người lao động nghỉ việc,;… Duy trì các mối quan hệ với các cơ sở đào tạo; Nghiên cứu về các giá trị đạo đức; Sản xuất các sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng; Sử dụng các nguồn nguyên liệu bền vững; Sử dụng các nguồn nguyên liệu và sản xuất các sản phẩm tái chế. Mua sắm và thực hiện chuỗi cung ứng sạch (tránh các vấn đề liên quan đến hành vi bất minh trong mua bán, sử dụng các lao động trẻ em,…); Sử dụng các nguồn nguyên liệu đặc biệt (lông thú,..); Tối đa
16
hóa nguồn lực tự nhiên Ảnh hưởng của việc vận chuyển (hiệu ứng nhà kính, tắc nghẽn đường…)
Tác nghiệp trực tiếp Logistic mua (nhập kho nguyên liệu và quản lý kho, cơ sở dữ liệu, dịch vụ,...) Vận hành (tạo sản phẩm, dịch vụ…)
Bức xạ và chất thải; Ảnh hưởng đến sinh thái và đa dạng sinh học; Sử dụng năng lượng và nước sạch; Điều kiện an toàn trong lao động và quan hệ với người lao động; Nguồn vật liệu nguy hiểm Đóng gói rác thải; Các ảnh hưởng của vận chuyển
Logistic bán (nhận đơn hàng, phân phối sản phẩm, dịch vụ) Marketing và bán (bán, khuyến mại, quảng cáo, …)
Các hoạt động marketing và quảng cáo (đảm bảo quảng cáo trung thực, chú ý các hoạt động quảng cáo cho trẻ em,…); Chính sách giá (không lũng loạn giá, quan tâm đến chính sách giá đối với người nghèo,…); Thông tin trung thực cho người tiêu dùng;… Loại bỏ sản phẩm cũ; Đảm bảo việc thay thế và vận hành cho khách hàng (dầu máy ô tô, mực in…); Đảm bảo sự an toàn thông tin của khách hàng
Dịch vụ sau khi bán (hỗ trợ khách hàng; giải quyết các phàn nàn của khách; sửa chữa, thay thế, …) Giá trị gia tăng
(Nguồn: Porter và Kramer, 2006)
2.2.2. Đo lường trách nhiệm xã hội (CSR)
Các tài liệu trách nhiệm xã hội cho thấy có nhiều thách thức trong việc đo
lường hiệu quả xã hội của công ty (Graves và Waddock, 1994). Trong thực tế, do các
định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội nên thiếu sự đồng thuận trong cách đo
trách nhiệm xã hội. Abbott và Monsen (1979) nói rằng có hai khó khăn cơ bản trong
việc đo lường trách nhiệm xã hội liên quan đến mục đích nghiên cứu. Việc đầu tiên
trong số này là việc thiếu thông tin định lượng về các hoạt động xã hội. Để khắc phục
điều này, họ cho rằng đối với mục đích nghiên cứu các hoạt động trách nhiệm xã hội
phải được đo và được báo cáo thống nhất thông qua phân tích thống kê bởi một số
lượng lớn các công ty. Khó khăn thứ hai là phát triển một phương pháp phù hợp để đo
lường toàn bộ tác động của các hoạt động xã hội của công ty lên phạm vi xã hội rộng
lớn hơn.
Nhiều học giả đã đo trách nhiệm xã hội theo những cách khác nhau. Griffin và
Mahon (1997) nghiên cứu mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
17
khi sử dụng một thước đo duy nhất của hiệu quả xã hội - ô nhiễm môi trường. Ví dụ
khác về các thước đo khác nhau của trách nhiệm xã hội bao gồm sử dụng xếp hạng tài
chính và các chỉ số được phát triển như: KLD Kinder, Lydenberg, Domini và Co
(Waddock và Graves 1997), trong đó điều tra một loạt các nguồn và sử dụng các tiêu
chí định lượng để xác định các giá trị phù hợp; Vigeo của Châu Âu (Vermeir và cộng
sự, 2005); cơ sở dữ liệu đầu tư xã hội Canada (Canadian Social Investment Database -
CSID) (Mahoney và Roberts 2007); bộ dữ liệu doanh nghiệp Monitor CSP cho các
công ty Úc (Kristoffersen và cộng sự, 2005); Toxics Release Inventory (TRI), trong
đó chỉ tập trung vào một vài ngành công nghiệp; công dân doanh nghiệp tốt (Best
Corporate Citizens). Gần đây, STRING Consultants đã phát triển một chỉ số CSR cho
các công ty Sri Lanka (Anthonisz, 2011). Saleh và cộng sự (2008) giải thích rằng
những đánh giá được "dựa trên tỷ trọng bằng nhau của bảy tiêu chí. Bảy tiêu chí bao
gồm lợi nhuận trung bình của cổ đông trong ba năm và điểm trung bình trên sáu thước
đo hiệu quả xã hội được báo cáo bởi một công ty nghiên cứu đầu tư xã hội đáng tin
cậy" (Murphy và Poist 2002, trang 6).
Hiện nay, nhiều hệ thống đo lường trách nhiệm xã hội được sử dụng bởi các
nhà nghiên cứu. Các hệ thống đo lường được biết như là các chỉ số chủ quan. Các chỉ
số đầu tiên là khảo sát của sinh viên kinh doanh (Heinz, 1976), giảng viên kinh doanh
(Moskowitz, 1972) hoặc thậm chí các bảng xếp hạng tài sản (McGuire và cộng sự,
1988). Các nghiên cứu khác đã sử dụng công cụ điều tra buộc phải lựa chọn (Aupperle
và cộng sự, 1985; Aupperle, 1991), chỉ số uy tín của công ty (McGuire và cộng sự,
1988.) và phân tích nội dung của văn bản (Wolfe, 1991) như các công cụ đo lường
trong nghiên cứu trách nhiệm xã hội. Ngoài ra, một số chỉ số trách nhiệm xã hội khác
nhau cũng có sẵn (Hopkins 2005) chẳng hạn như các chỉ số cộng đồng doanh nghiệp
(Business in the Community - BITC), chỉ số FTSE4Good, chỉ số Bền vững Dow Jones
(Dow Jones Sustainability Index - DJSI), đạo đức kinh doanh 100, xếp hạng trách
nhiệm (AA), báo cáo Sáng kiến toàn cầu (GRI) và chỉ số KLD (Graves và Waddock,
1994). Thật không may, các phép đo trách nhiệm xã hội sử dụng thông thường không
thể áp dụng trực tiếp vào các nghiên cứu của các nước đang phát triển (Hopkins,
2005) bởi vì các thước đo này dựa trên các công ty của các nước phát triển (Fortune
500 công ty) và các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội quốc tế (Pháp luật Lao động Quốc
tế).
18
Do đó, các nhà nghiên cứu ở các nước đang phát triển thường sử dụng dữ liệu
thứ cấp để đo hiệu quả trách nhiệm xã hội từ các cuộc điều tra khác nhau. Theo
Ghauri và Gronhaug, (2005) - "Dữ liệu thứ cấp là hữu ích không chỉ để tìm thông tin
để giải quyết vấn đề nghiên cứu mà còn để hiểu rõ hơn và giải thích vấn đề nghiên
cứu của chúng tôi". Ngược lại với các xếp hạng tài chính, dữ liệu thứ cấp cung cấp
một cách tiếp cận bổ sung cho trách nhiệm xã hội vì chúng đều được dựa trên các hoạt
động thực tế của công ty mà không có sự đánh giá từ các cơ quan khác. Do đó, thước
đo phổ biến nhất đối với trách nhiệm xã hội sẽ là chỉ số trách nhiệm xã hội, được trích
xuất từ các dữ liệu thứ cấp. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp để định
lượng chỉ số trách nhiệm xã hội bằng cách sử dụng báo cáo thường niên và báo cáo
bền vững thông qua phương pháp phân tích nội dung.
2.2.3. Tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội (CSR)?
Khái niệm trách nhiệm xã hội đang phát triển liên tục do sự tương tác với
những ảnh hưởng bên trong và bên ngoài. Silberhorn và Warren (2007) cho rằng khái
niệm trách nhiệm xã hội phát triển để đáp ứng với sự tương tác giữa các giá trị tổ chức
và ảnh hưởng bên ngoài. Các giá trị quan trọng của một tổ chức có thể được mô tả như
là tài nguyên, văn hóa và cấu trúc của nó (Wheelen và Hunger, 2002).
Một số nghiên cứu đã đề xuất rằng mặc dù các yếu tố bên trong đã được thảo
luận ở trên, các tổ chức chủ yếu phản ứng đối với trách nhiệm xã hội từ áp lực bên
ngoài chứ không phải bên trong để xác định trách nhiệm xã hội (L'Etang, 1994;
Vogel, 2005). Ví dụ, trong môi trường xã hội và kinh doanh hiện tại, có một nhu cầu
ngày càng tăng của công chúng đối với các nhà lãnh đạo của tổ chức bao gồm các vấn
đề xã hội như là một phần trong chiến lược của họ (Lantos, 2001). Các nhà quản lý
thường xuyên phải chịu áp lực từ các bên liên quan khác nhau trong việc phân bổ
nguồn lực tài chính cho các hoạt động trách nhiệm xã hội. Các áp lực đến từ các bên
liên quan như: người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và các nhóm môi trường
(McWilliams và Siegel 2001) được thảo luận dưới đây:
2.2.3.1. Áp lực từ người lao động
Những áp lực từ các nhân viên được thảo luận bởi Musah (2008) bao gồm sự
nhìn nhận ngày càng tăng của công chúng về các quyền lợi nhất định của nhân viên tại
nơi làm việc, không phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sa thải và thăng cấp. Matten
và Moon (2008) cho rằng trách nhiệm xã hội đã giải quyết rõ ràng các vấn đề như tiền
19
lương công bằng, giờ và điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe, dự phòng và bảo vệ
chống lại sa thải bất công. Các ví dụ quan trọng khác về áp lực từ người lao động
được xem như là chỉ số uy tín của trách nhiệm xã hội (KLD). Các khía cạnh bao gồm
các vấn đề tại nơi làm việc và “nhân viên là quan hệ lao động”, quyền lợi nhân viên và
nhân viên tham gia. KLD sử dụng các vấn đề về người lao động cho mục đích đo
lường trách nhiệm xã hội (Graves và Waddock, 1994; Sharfman, 1996; Turban và
Greening, 1997).
Các nước phát triển như Anh và Đức có nhiều mối quan tâm về sức khỏe của
người lao động, an ninh xã hội và sự đóng góp vào dịch vụ y tế quốc gia của họ thông
qua thuế (Matten và Moon, 2008). Phân tích của Aguilera và cộng sự (2007) cho thấy
nhận thức về trách nhiệm xã hội định hình thái độ và hành vi của nhân viên đối với
công ty và nhấn mạnh rằng làm thế nào nhân viên có thể thúc đẩy các công ty tham
gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội. Trên thực tế, sự công bằng trong nhận thức
ở bất kỳ môi trường làm việc nào đều có một tác động lên phúc lợi của nhân viên (sự
hài lòng trong công việc, căng thẳng và cảm xúc) cộng với sự cân nhắc của tổ chức
như sự vắng mặt và cam kết của nhân viên (Colquitt, 2001). Trên thực tế, khi một tổ
chức tạo một môi trường làm việc không thiên vị, nhân viên rất vui và rất chăm chỉ.
Khi người lao động hạnh phúc thì không khó để thuyết phục họ tham gia làm
tình nguyện viên cho các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty - gọi là nhân viên
tình nguyện. Trung tâm công dân doanh nghiệp tại Đại học Boston (1999) kết luận
rằng nhân viên tình nguyện cung cấp nhiều lợi ích theo ba cách (1) cho các công ty,
(2) cho người lao động và (3) là cộng đồng. Theo Hahn (2003) những lợi ích của hoạt
động tình nguyện “cải thiện mối quan hệ với cộng đồng xung quanh, cải thiện hình
ảnh công cộng, xây dựng một lực lượng lao động gắn kết và năng động, làm tăng hiệu
quả và năng suất lao động, giúp thiết lập và nâng cao uy tín hoặc thương hiệu của
công ty trong các thị trường mới hoặc hiện tại”.
Ở đây điều quan trọng để thảo luận về sự cần thiết của các tổ chức thực hiện
phương pháp trách nhiệm xã hội để tránh đình công hoặc tỷ lệ lao động có thu nhập
cao, cải thiện quan hệ với người lao động và duy trì các thị trường tiêu dùng của các tổ
chức. Collier và Esteban (2007) trong lời giải thích của họ về vai trò của trách nhiệm
xã hội trong việc nâng cao động lực và cam kết của người lao động, cho rằng "việc
cung cấp hiệu quả của các sáng kiến trách nhiệm xã hội và môi trường của công ty
20
phụ thuộc vào phản ứng của nhân viên. Đối với nhân viên để thỏa mãn yêu cầu trách
nhiệm xã hội, họ phải có động lực và cam kết khắc phục những thách thức và đạt được
các mục tiêu của hành vi trách nhiệm công ty”.
2.2.3.2. Áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng
Tương tự, áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng bao gồm kỳ vọng rằng công ty
sẽ sản xuất các sản phẩm an toàn và cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhiều hơn
(Musah, 2008). Các tổ chức cần phải nhận thức được những nhu cầu của người tiêu
dùng và hành động vì các nhu cầu của họ như một phần trong chiến lược kinh doanh
của mình; ví dụ, các dịch vụ sau khi bán hàng, và các dịch vụ bảo vệ khách hàng.
Nói chung, khách hàng yêu cầu một khoảng thời gian bảo hành cho sản phẩm
mà họ mua, các dịch vụ gia tăng giá trị và khả năng trả lại bất kỳ sản phẩm đã được
mua, nếu nó không đáp ứng được kỳ vọng của họ (Maignan và cộng sự, 2005). Nếu tổ
chức không xem xét nhu cầu của khách hàng, nó sẽ mất thị phần. Do đó, áp lực từ
khách hàng ảnh hưởng đến rủi ro thị trường của tổ chức. Các tài liệu học thuật và quản
lý đã ít cung cấp hướng dẫn để giúp các nhà tiếp thị tích hợp các sáng kiến khác nhau
vào một chương trình quan trọng có thể bao gồm một loạt các trách nhiệm của công
ty. Ví dụ, người ta cho rằng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và động viên người lao
động để thỏa mãn sự kỳ vọng của công ty (George, 2003). Nghiên cứu các bên liên
quan cho thấy việc đối xử với khách hàng và nhân viên có ảnh hưởng nhiều lên hiệu
quả tài chính (Berman và cộng sự, 1999). Vì vậy, cách tốt hơn để cải thiện việc đối xử
với khách hàng là áp dụng trách nhiệm xã hội như một chiến lược tiếp thị (Maignan và
cộng sự, 2005).
Smith và Langford (2009) đã chỉ ra rằng "kinh doanh có thể mang lại lợi ích
trách nhiệm xã hội, đặc biệt là lợi ích thương mại do tác động của trách nhiệm xã hội
lên hành vi và thái độ của người tiêu dùng" (p.100). Bhattacharya và Sen (2004) kết
luận rằng người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm của các tổ
chức có trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, nếu công ty bỏ qua nhu cầu tiêu dùng của họ,
hoạt động tẩy chay có thể dẫn đến kết quả xấu và trở thành một vấn đề lớn. Đây là
một trong những biểu hiện của áp lực từ người tiêu dùng. Smith (2003) cho rằng thông
điệp tẩy chay sản phẩm có liên quan đến những phản ứng tiêu cực lớn trên thị trường
chứng khoán. Smith (2003) giải thích rằng "tẩy chay có thể là một ví dụ rõ ràng nhất
21
của một hiện tượng lớn hơn về hành vi tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi nhận thức trách
nhiệm xã hội sai lầm của tổ chức".
2.2.3.3. Áp lực từ cộng đồng
Ngoài việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, xã hội hy vọng rằng các tổ chức sẽ
cung cấp sự an toàn, cải thiện đời sống, việc làm, cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường
mà không ảnh hưởng đến hoạt động và lợi ích văn hóa (Agarwal, 2008). Sự mong đợi
của xã hội đối với việc cải thiện đời sống bao gồm sự phát triển của giáo dục, y tế, tôn
giáo, chính trị và công nghệ hiện đại. Idemudia và Ite (2006) nói rằng các công ty thực
hành trách nhiệm xã hội chủ yếu nhắm đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, công tác
phòng chống vi phạm quyền con người và bảo vệ môi trường. Những kỳ vọng này
khác nhau đối với từng nền văn hóa. Mong đợi của xã hội và mong đợi của tổ chức
khá khác nhau. Sự không phù hợp này đặt áp lực lên các tổ chức, vì nếu những mong
đợi của người tiêu dùng không được thỏa mãn, cộng đồng có thể cấm sản phẩm của
công ty và thực thi nhiều chế tài. Tuy nhiên, Idemudia và Ite (2006) nói rằng ngay cả
khi các công ty tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội tốt như đầu tư cho hoạt
động từ thiện và xã hội, phân bổ thêm nguồn vốn cho phát triển cộng đồng, người dân
vẫn tham gia vào các cuộc xung đột với các tổ chức. Newell (2005) đã chứng minh
bằng trường hợp của các ngành công nghiệp khai thác mỏ, lý do các cuộc xung đột là
thiếu sự đại diện của cộng đồng trong việc thiết lập các quy tắc và quy định.
2.2.3.4. Áp lực từ môi trường
Hoạt động của các công ty gây ô nhiễm môi trường và thậm chí gây ra các cuộc
khủng hoảng. Các nhà nghiên cứu khác (Brown và cộng sự, 1989; Clark, 1989; Pryde,
1992) thảo luận về các thiệt hại môi trường như sự suy giảm ozone do CFC, sự nóng
lên toàn cầu gây ra bởi ô nhiễm công nghiệp trong khí quyển, mưa axit, ô nhiễm
không khí đô thị, chất thải độc hại và hạt nhân, sự tuyệt chủng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học (Shrivastava, 1995). Đồng thời, các tổ chức
sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đang suy giảm như dầu, nước và khí đốt trong quá
trình sản xuất của họ. Shrivastava (1995) cho rằng việc duy trì một môi trường sạch sẽ
là một trách nhiệm lớn đối với các tổ chức.
2.2.4. Lợi ích khi thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR)
Các công ty cần xác định chi phí và lợi ích của trách nhiệm xã hội. Các công ty
đầu tư vốn chủ sở hữu của chúng vào các hoạt động trách nhiệm xã hội, kỳ vọng tối đa
22
hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro. Tsoutsoura (2004) đã nhấn mạnh điều này và nói
rằng: “trách nhiệm xã hội là đạt được những lợi ích cốt yếu để có được sự bền vững”.
Sự phát triển của khái niệm trách nhiệm xã hội sẽ được thảo luận từ những quan điểm
kinh tế và xã hội. Có một số lợi ích hữu hình và vô hình từ trách nhiệm xã hội đã được
xác định bởi các nhà nghiên cứu (Jenkins, 2006; Grayson và Hodges, 2004; Greening
và Turban, 2000; Orlitzky và cộng sự, 2003). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cho rằng
động lực của nhân viên, và cải thiện hình ảnh công ty có thể là những lợi ích nổi bật
của trách nhiệm xã hội đem lại.
Nhiều lợi ích của trách nhiệm xã hội đã được xác định. Một là, hình ảnh thương
hiệu và uy tín của các công ty thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội thì cao hơn
so với các công ty không thực hiện trách nhiệm xã hội, hay các công ty thiếu trách
nhiệm xã hội (Jenkins, 2006). Tsoutsoura (2004), một số khía cạnh trách nhiệm xã hội
có thể làm giảm chi phí điều hành của một công ty. Hai là, các công ty có trách nhiệm
xã hội sẽ có ít các rủi ro liên quan đến các sự kiện tiêu cực hiếm có hơn. Kết quả là,
Turban và Greening (1997) cho rằng sự cam kết mạnh mẽ về việc thực hiện trách
nhiệm xã hội làm tăng khả năng thu hút và giữ chân người giỏi cho công ty. Ba là,
thực hành trách nhiệm xã hội dẫn đến tăng năng suất và giảm tỷ lệ lỗi (Tsoutsoura,
2004). Vì vậy, những lợi ích này được kết hợp với sự hài lòng của các bên liên quan.
Ví dụ, hiệu quả tăng năng suất từ việc cải thiện điều kiện làm việc và thực hành lao
động (Tsoutsoura, 2004). Hình ảnh thương hiệu và uy tín là một lợi thế cho các tổ
chức, cho phép các tổ chức tăng vốn và thu hút và giữ chân đối tác kinh doanh của họ.
Một lợi thế nữa của việc thực hành trách nhiệm xã hội là thu hút và giữ được nhân
viên, do đó chi phí tuyển dụng, đào tạo và phát triển của các công ty giảm.
Những lợi ích này đã được xác định trong nhiều nghiên cứu, và đã được sử
dụng trong việc phát triển các khái niệm trách nhiệm xã hội. Các nghiên cứu đã chứng
minh lợi thế của việc cải thiện trách nhiệm xã hội.
Những lợi ích đã được nhấn mạnh bởi nhiều nhà nghiên cứu như làm tăng giá
trị thị trường (Aupperle và cộng sự, 1985; McWilliams và Siegel, 2000), làm giảm rủi
ro (Moore, 2001), động lực thúc đẩy nhân viên (Turban và Greening, 1997), và làm
tăng lòng trung thành của nhân viên và nâng cao uy tín của công ty (Maignan và cộng
sự, 1999).
2.3. Hiệu quả tài chính công ty (Coporate financial performance - CFP)
23
2.3.1. Định nghĩa
Trong chiến lược kinh doanh và quản lý ngày nay, người ta tin rằng hiệu quả
tài chính là một trong những khái niệm quan trọng nhất. Hơn nữa, hiệu quả tài chính
là mục tiêu mà tất cả các công ty phải cải thiện để tồn tại hay để thỏa mãn các bên liên
quan của nó. Mặc dù có một số lượng lớn các tài liệu và nghiên cứu xem xét hiệu quả
tài chính như là biến phụ thuộc chính, nhưng những định nghĩa chính xác và phổ biến
của hiệu quả tài chính vẫn không tồn tại (Richard và cộng sự, 2009). Các nghiên cứu
liên quan đến hiệu quả tài chính cho kết quả khác nhau do thiếu sự đồng thuận, do
cách đo lường khác nhau về hiệu quả tài chính của công ty. Do đó, Glick và cộng sự
(2005) cho rằng các nhà nghiên cứu có xu hướng sử dụng chỉ có một hoặc một số chỉ
số để đại diện cho hiệu quả tài chính.
Trên thực tế, hiệu quả công ty là một khái niệm phức tạp với cấu trúc đa chiều.
Venkatraman và Ramanujam (1987) phân loại hiệu quả công ty thành ba khía cạnh
khác nhau: hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tổ chức. Hiệu quả tài
chính của một công ty có thể được đánh giá bởi một số chỉ tiêu dựa trên kế toán hoặc
tài chính của công ty đó. Các chỉ số này có xu hướng đo lường lợi nhuận công ty bằng
cách quan sát tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty. Một số biến đại
diện cơ bản cho hiệu quả tài chính có thể là ROA (lợi nhuận trên tài sản), ROE (lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu), và ROS (lợi nhuận trên doanh thu). Ngoài ra, hiệu quả
kinh doanh giữ một vị trí cơ bản trong nghiên cứu quản lý và thực tiễn. Nó có thể
được coi là biện pháp dựa trên thị trường bao gồm cả hiệu quả tài chính và hiệu quả
hoạt động. Một số chỉ số có thể được sử dụng để đo lường hiệu quả kinh doanh: tăng
trưởng doanh thu, thị phần, phát triển sản phẩm, v.v… Hiệu quả tổ chức là một khía
cạnh khác của hiệu quả công ty đại diện cho hiệu quả hoạt động kinh doanh công ty để
đạt được mục tiêu của công ty. Các công ty luôn cố gắng để đạt được hiệu quả công ty
thông qua lãnh đạo, cơ cấu, chất lượng, sự hài lòng của nhân viên công ty, v.v…
2.3.2. Đo lường hiệu quả tài chính
Việc đo lường hiệu quả tài chính rất phổ biến trong các nghiên cứu trách nhiệm
xã hội; tuy nhiên, có rất ít sự đồng thuận về các công cụ đo lường được áp dụng. Các
nghiên cứu trước đây cho rằng hiệu quả công ty có thể được đo lường bằng một trong
hai thước đo là dựa vào kế toán và/hoặc dựa trên thị trường:
24
Dựa vào kế toán: sử dụng các chỉ số kế toán như ROA, ROE hoặc phân tích
tình hình tài chính của doanh nghiệp/công ty (Ruf và cộng sự, 2001; Elsayed và Paton
2005). Các chỉ số này có thể phản ánh hoạt động của công ty ở một góc độ tổng thể
nhưng không quan sát các đặc tính đa quốc gia của quá trình sản xuất của doanh
nghiệp/công ty. Một số thước đo dựa vào kế toán đã được sử dụng để đánh giá hiệu
quả tài chính bao gồm ROE, ROS và ROA (Cochran và Wood, 1984; Aupperle và
cộng sự, 1985; Waddock và Graves, 1997; Stanwick và Stanwick, 1998; Tsoutsoura,
2004). Simpson và Kohers (2002) sử dụng ROA và tổn thất cho vay, Berman và cộng
sự (1999) chỉ áp dụng ROA. Lý do sử dụng ba biến trên để đo hiệu quả tài chính là
những dữ liệu này ít có khả năng bị ngụy tạo, và cũng là các thước đo được sử dụng
rộng rãi nhất cho hiệu quả tài chính (Yoshikawa và Phan, 2003). Nhưng sự hạn chế cố
hữu của các thước đo dựa vào kế toán là chúng chỉ nắm bắt các dữ liệu lịch sử của
hiệu quả tài chính. Thứ hai, các dữ liệu có thể bị sai lệch bởi nhận thức quản lý và thủ
tục kế toán khác nhau được sử dụng bởi các công ty khác nhau (Branch, 1983;
McGuire và cộng sự, 1986.).
Dựa trên thị trường, một số nghiên cứu đã sử dụng các thước đo thị trường
(Vance 1975; Alexander và Buchholz 1978). Bởi vì thước đo hiệu quả tài chính dựa
trên thị trường tránh được một số những hạn chế về kế toán vì nó cho thấy các yếu tố
tương lai và tập trung vào các hiệu quả thị trường (McGuire và cộng sự 1986). Những
thước đo này ít liên quan đến thủ tục kế toán và là chỉ số của các nhà đầu tư lựa chọn
để đánh giá khả năng của một công ty tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Ví dụ, Ullmann
(1985) cho rằng việc sử dụng các thước đo dựa trên thị trường cho thấy việc đánh giá
hiệu quả tài chính của nhà đầu tư là một thước đo hiệu quả phù hợp (McGuire và cộng
sự, 1988; Tsoutsoura, 2004). Song, việc sử dụng cổ phiếu như là các thước đo dựa
trên thị trường của hiệu quả tài chính cũng có những hạn chế.
Ngoài ra, một số nghiên cứu đã sử dụng cả dữ liệu liệu kế toán và dữ liệu thị
trường (Han và Suk, 1998; Saleh và cộng sự, 2008) với ba biến như ROA, suất sinh
lợi trên thị trường chứng khoán và Tobin's q. Hơn nữa, Han và Suk (1998) sử dụng lợi
nhuận cổ phiếu như là biến phụ thuộc để đo lường hiệu quả tài chính. Orlitzky và cộng
sự (2003) lập luận rằng cả hai chỉ số kế toán và thị trường có thể được áp dụng để đo
hiệu quả tài chính của doanh nghiệp/công ty.
25
Việc sử dụng hai phương pháp khác nhau để đo hiệu quả tài chính có nghĩa là
rất khó để so sánh trực tiếp kết quả của các nghiên cứu khác nhau (Tsoutsoura, 2004).
Tuy nhiên, hai phương pháp dựa vào kế toán và dựa trên thị trường trên cho thấy quan
điểm khác nhau về việc đánh giá hiệu quả tài chính của công ty và có ý nghĩa lý
thuyết khác nhau (Hillman và cộng sự, 2001). McGuire và cộng sự (1986) cho rằng
mỗi phương pháp tùy thuộc vào những khuynh hướng nhất định. Do đó từ những lập
luận trên, hiệu quả tài chính trong nghiên cứu này được đo lường dựa vào thước đo
dựa vào kế toán và dựa trên thị trường.
2.4. Các quan điểm lý thuyết về trách nhiệm xã hội (CSR)
Mối quan hệ giữa đầu tư trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã được thảo
luận trong nhiều lý thuyết nổi tiếng. Phần này tóm tắt các lý thuyết nền trong các
nghiên cứu trước đó về trách nhiệm xã hội:
2.4.1. Lý thuyết cổ đông (Shareholder Theory)
Lý thuyết cổ đông có thể được coi là lý thuyết đầu tiên về trách nhiệm xã hội sẽ
được sử dụng để hình thành khái niệm trách nhiệm xã hội. Quan điểm này xuất phát từ
các lý thuyết của công ty với ý tưởng rằng mục tiêu chính của công ty là tối đa hóa lợi
nhuận của mình. Theo quan điểm ban đầu này, Friedman (1962, 1970) cho rằng các
công ty chỉ nên tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận của mình và không bắt buộc
phải làm bất cứ trách nhiệm xã hội nào. Nói cách khác, các cổ đông là những người
quan trọng nhất và công ty cần phải sử dụng tất cả các nguồn lực của mình để gia tăng
sự giàu có của cổ đông. Quan điểm này sau đó bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều học giả
và các bên liên quan khác của công ty. Kết quả là, có rất nhiều lý thuyết đã xuất hiện
để giải quyết những lời chỉ trích: Lý thuyết đại diện, lý thuyết các bên liên quan, và
mô hình kim tự tháp của trách nhiệm xã hội.
2.4.2. Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết này được phát triển đầu tiên bởi Jensen và Meckling (1976). Quan
điểm của lý thuyết đại diện chỉ ra rằng luôn luôn có xung đột lợi ích giữa các cổ đông
và các nhà quản lý doanh nghiệp. Cuộc xung đột này thường được đặt tên là "vấn đề
đại diện". Nhìn chung, một công ty bao gồm các nhóm lợi ích khác nhau và vấn đề đại
diện duy nhất có thể được giải quyết khi các điểm cân bằng của các lợi ích khác nhau
có thể đạt được (Krisnawati và cộng sự, 2014). Theo lý thuyết này, lợi ích của các cổ
đông và các nhà quản lý của công ty sẽ không bao giờ gắn kết và trách nhiệm xã hội
26
có thể là kết quả của những cuộc xung đột (Jensen và Meckling, 1976). Trong ý nghĩa
này, các nhà quản lý có thể sử dụng các nguồn lực của công ty để tăng sự giàu có và
tiện ích của riêng họ thay vì đầu tư vào các dự án tiềm năng có thể cải thiện hiệu quả
tài chính. Do vậy, các hoạt động trách nhiệm xã hội có thể dẫn đến hiệu quả của công
ty kém và sự giàu có của cổ đông có thể giảm. Lý thuyết này cho rằng các nguồn lực
và các khoản đầu tư cho trách nhiệm xã hội phải được chi một cách hiệu quả để cải
thiện hiệu quả công ty của nhưng nó lại không giúp ích cho lợi ích của nhà quản lý.
Dựa trên quan điểm của lý thuyết đại diện, lý thuyết các bên liên quan xuất hiện để
giải quyết các vấn đề đại diện.
2.4.3. Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory)
Trái ngược với lý thuyết cổ đông có thể chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, lý thuyết đại diện cho thấy những tác động
tích cực của trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính. Quan điểm các bên liên quan từ
Freeman (1984) đề xuất ý tưởng rằng một công ty chỉ có thể tồn tại nếu nó có khả
năng đáp ứng nhu cầu các bên liên quan - những người có thể ảnh hưởng đáng kể đến
phúc lợi của công ty. Bởi vì các bên liên quan có thể đóng góp vào khả năng tạo ra
của cải của một công ty (Post và cộng sự, 2002), để duy trì sự tăng trưởng, các công ty
nên quan tâm đến lợi ích cho các bên liên quan (Van der La, 2009) và tính đến các
quan điểm và các hoạt động của họ. Trong trường hợp này, các bên liên quan chính là
nhóm, cá nhân có quyền lợi và mối quan hệ với các công ty, chẳng hạn như khách
hàng, nhân viên, nhà cung cấp v.v...
Lập luận này có hai lý do. Đầu tiên, các bên liên quan cung cấp các nguồn lực
như vốn, lao động và doanh thu (Sweeney, 2009). Nếu các công ty hành động vô trách
nhiệm đối với nhân viên, khách hàng và xã hội, thì họ có nguy cơ mất đi những nguồn
lực quan trọng này. Thứ hai, các bên liên quan vừa là người hưởng lợi tiềm năng vừa
là người chịu rủi ro cao (Post và cộng sự, 2002). Họ thường xuyên phải đối diện với
những rủi ro liên quan đến những hành vi vô trách nhiệm xã hội, chẳng hạn như các
sản phẩm kém chất lượng, khai thác lao động và môi trường tự nhiên quá mức. Theo
nguyên tắc phân phối công bằng (Sweeney, 2009), lợi nhuận công ty nên được chia
đều giữa các thành viên chịu rủi ro, bao gồm cả các bên liên quan. Việc phân loại các
bên liên quan thành quan trọng và thứ yếu của Metcalfe (1998) đã giúp phân định rõ
khái niệm này. Các bên liên quan quan trọng là những người tham gia vào các hoạt
27
động quan trọng của công ty, ví dụ, khách hàng, người lao động và cổ đông. Các bên
liên quan thứ yếu là những người ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của
một công ty, nhưng không được tham gia vào các hoạt động của công ty, ví dụ, các
phương tiện truyền thông (Metcalfe, 1998). Sự phân biệt này làm rõ các yếu tố quyết
định của các sáng kiến trách nhiệm xã hội.
Lý thuyết này được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu và phát triển
hơn nữa trong nhiều cách khác nhau. Ví dụ, Blombäck và Wigren (2009) cho rằng
công ty và các bên liên quan nên hợp tác với nhau để cùng hưởng tất cả các lợi ích có
liên quan lẫn nhau. Nói cách khác, bên cạnh mục tiêu tăng lợi nhuận cho các cổ đông,
các doanh nghiệp/công ty nên tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội để đáp
ứng các bên liên quan phi tài chính, người có thể cung cấp sự hỗ trợ mạnh mẽ cho các
họ. Hơn nữa, Clarkson (1995) cho rằng việc đem lại sự giàu có và giá trị cho các bên
liên quan là cách duy nhất cho phép các công ty để thịnh vượng hơn. Jensen (2002)
giới thiệu khái niệm tối đa hóa giá trị phù hợp với lý thuyết các bên liên quan và giá
trị công ty trong thời gian dài. Trên thực tế, tối đa hóa giá trị cho thấy rằng giá trị thị
trường dài hạn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của công ty trong khi lý
thuyết các bên liên quan cố vấn cho các nhà quản lý để đáp ứng lợi ích và lợi ích của
tất cả các bên liên quan. Jensen khẳng định rằng mục tiêu chính của công ty là tối đa
hóa giá trị công ty và chứng minh rằng tối đa hóa giá trị công ty không phải luôn luôn
xung đột với một đối tác cụ thể. Cách tiếp cận này đã loại bỏ việc thực hành các mục
tiêu khác nhau của công ty ở góc độ các bên liên quan truyền thống như tiền lương
cao cho nhân viên, giá thấp cho khách hàng hoặc tổ chức từ thiện cho trẻ em mồ côi.
Theo Deegan và cộng sự (2000), lý thuyết các bên liên quan có thể được chia
thành hai nhánh gồm nhánh thuộc về đạo đức và nhánh thuộc về quản lý. Nhánh đạo
đức được dựa trên tiền đề “tất cả các bên liên quan có quyền được đối xử công bằng
bởi một tổ chức, và các nhà quản lý nên quản lý tổ chức vì lợi ích của các bên liên
quan”, nghĩa là tất cả các bên liên quan có quyền được cung cấp các thông tin về các
hoạt động của công ty ảnh hưởng lên họ. Các bên liên quan cần biết tất cả các thông
tin, bao gồm các thông tin về việc chất thải độc hại, ô nhiễm nước, hỗ trợ xã hội, thậm
chí các thông tin không có liên quan trực tiếp đến họ. Nhánh quản lý dựa trên tranh
luận là các tổ chức sẽ phản ứng với xã hội thông qua quyền lực các bên liên quan để
tác động lên quản trị công ty/doanh nghiệp. Dựa trên quan điểm này, các tổ chức sẽ
28
cung cấp nhiều thông tin nhắm tới sự quan tâm và kỳ vọng của những nhóm cụ thể
hoặc các bên liên quan chính liên quan đến tổ chức. Kết quả là, việc công bố thông tin
của doanh nghiệp/công ty sẽ được sử dụng như là chiến lược để duy trì sự ủng hộ của
các bên liên quan chính (Deehan và Blomquist, 2006; Islam và Deegan, 2008).
Các nghiên cứu trước về CSR đã định nghĩa vai trò của các bên liên quan trong
việc tác động lên quyết định tổ chức (McGuire và cộng sự, 1988). Theo Jensen
(2001), các nhà quản lý nên đưa ra các nhận định về lợi ích của các bên liên quan
trong một công ty/doanh nghiệp. Mặc dù, điều này có thể khó để các nhà quản lý xác
định những sự đánh đổi cần thiết giữa lợi ích cạnh tranh của các bên liên quan khác
nhau, các nhà quản lý được kỳ vọng làm cân bằng các lợi ích này bên trong lợi ích tốt
nhất của tổ chức. Lý thuyết các bên liên quan giúp giải thích lợi ích cạnh tranh và ảnh
hưởng của các bên liên quan lên quyết định quản lý. Lý thuyết các bên liên quan được
sử dụng để đánh giá tác động lên hiệu quả tài chính, chiến lược quy hoạch và sự tập
trung của các bên liên quan vào số lượng công bố trách nhiệm xã hội của các tổ chức
(Roberts, 1992).
Theo lý thuyết các bên liên quan, các tổ chức nhắm đến việc cân bằng kỳ vọng
của tất cả các nhóm bên liên quan thông qua hoạt động của họ. Các tổ chức cần chắc
chắn mối quan hệ của họ với tất cả các bên liên quan. Các nhà quản lý nên xem xét và
duy trì kỳ vọng của tất cả các nhóm bên liên quan khi họ đưa ra quyết định công bố
trách nhiệm xã hội. Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng trong nghiên cứu này để
giải thích cái gì đã thúc đẩy doanh nghiệp/công ty thực hành/công bố trách nhiệm xã
hội. Việc phát triển khuôn khổ trách nhiệm xã hội sẽ sử dụng các bên liên quan quan
trọng, những người mà có liên quan đến các hoạt động trách nhiệm xã hội của các
công ty được điều tra.
Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng để giải thích các mô hình trách
nhiệm xã hội; các động lực của công ty liên quan đến việc thực hành trách nhiệm xã
hội. Vì vậy, nghiên cứu này giả định các yếu tố trách nhiệm xã hội chính bao gồm
trách nhiệm với người lao động, với sản phẩm, với cộng đồng và với môi trường đã
ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của công ty.
2.4.4. Lý thuyết tính chính đáng (Legitimacy theory)
Lý thuyết tính chính đáng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về xã
hội và kế toán để giải thích tại sao các công ty/doanh nghiệp cần phải công bố thông
29
tin về xã hội và môi trường. Suchman (1995) đã định nghĩa lý thuyết tính chính đáng
“hoạt động của một thực thể được kỳ vọng là thích hợp, hoặc phù hợp với một số hệ
thống kiến trúc xã hội về các chuẩn mực, giá trị, niềm tin và khái niệm”.
Lý thuyết tính chính đáng dựa trên quan điểm là quyền và trách nhiệm của tổ
chức phải đến từ xã hội. Các tổ chức kinh doanh phải hoạt động trong ranh giới của xã
hội để đáp ứng các kỳ vọng của xã hội, bao gồm việc cung cấp các hàng hóa và dịch
vụ tốt hơn cho xã hội. Bởi vì tổ chức là một phần của hệ thống xã hội rộng lớn, các tổ
chức cần phải hoạt động trong hệ thống xã hội, mà không có bất kỳ tác động tiêu cực
nào đến xã hội (Deegan, 2002). Điều này có thể làm cho tổ chức đạt được các mục
tiêu và lợi nhuận ổn định. Suchman (1995) đã định nghĩa ba hình thức của tính chính
đáng: thực dụng (dựa vào đối tượng tư lợi), bình thường (dựa vào tính chất quy
phạm), và nhận thức (dựa trên tính toàn diện và sự trợ cấp) nó được sử dụng trong các
thuật ngữ tham nhũng và sự ủng hộ của xã hội. Ba hình thức này được sử dụng để giải
thích mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội với lý thuyết tính chính đáng. Guthrie và
Parker (1989), O’Donovan (2002) đã tranh luận, lý thuyết tính chính đáng được dựa
trên quan điểm đó là các tổ chức được quản lý bởi xã hội thông qua một hợp đồng xã
hội mà các nhà quản lý đã thỏa thuận để có được, dựa trên một số yêu cầu xã hội, bù
đắp lại cho chính các mục tiêu của tổ chức. Các tổ chức cần phải hành xử và công bố
đầy đủ các thông tin cho xã hội để xã hội đánh giá đó có phải là một công dân tốt. Các
công ty được công nhận là một “công dân doanh nghiệp tốt” khi hoạt động theo các
cam kết với xã hội.
Vì mục tiêu “hoạt động như một công dân doanh nghiệp tốt”, nhiều tổ chức có
thể cần phải thay đổi quy trình tổ chức của họ. Newson và Deegan (2002) đã tranh
luận, lý thuyết tính chính đáng được cho là bị ảnh hưởng bởi việc công bố thông tin
chứ không phải bởi những thay đổi trong hoạt động kinh doanh. Khi các kỳ vọng của
xã hội thay đổi, các tổ chức sẽ được yêu cầu chứng minh sự thay đổi trong các chiến
lược hoạt động của mình cho phù hợp. O’Donovan (2002) tranh luận, các tổ chức cố
gắng thay đổi các kỳ vọng xã hội, nhận thức và giá trị thông qua một số phương pháp
tiếp cận như là một phần của quy trình tính chính đáng.
Lindblom (1994), Gray và cộng sự (1995a) đã xác định bốn chiến lược hay
phương pháp tiếp cận về cách tổ chức đạt được tính chính đáng. Một là, một tổ chức
có thể cần phải giáo dục và thông tin cho công chúng liên quan về sự thay đổi trong
30
thành quả và hành động của tổ chức. Phương pháp này được sử dụng để xác định
khoảng trống của tính chính đáng giữa hành động và sự thất bại thực tế của tổ chức.
Hai là, để làm thay đổi nhận thức của xã hội mà không làm thay đổi hành vi thực tế
của tổ chức. Phương pháp này được sử dụng khi khoảng trống tính chính đáng đã tăng
giữa tổ chức và xã hội. Ba là, các tổ chức có thể cần phải thu hút sự quan tâm của
công chúng tránh xa khỏi các vấn đề hiện tại và các vấn đề liên quan khác. Phương
pháp này có thể làm chệch hướng các kỳ vọng của công chúng từ một tình huống hiện
tại đã có. Bốn là, một tổ chức có thể cần phải thay đổi kỳ vọng của công chúng khi xã
hội có kỳ vọng không đúng về hiệu quả của mình.
Như vậy, lý thuyết tính chính đáng có thể được sử dụng như là động lực đối với
các công ty để các công ty công bố các hoạt động xã hội và môi trường của họ. Tuy
nhiên, nghiên cứu này không tập trung vào quy trình của tính chính đáng, mà tập trung
vào việc áp dụng tính chính đáng vào lý thuyết trách nhiệm xã hội.
2.5. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và hiệu quả tài chính
Nhiều nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính đã sử dụng trách nhiệm xã hội như là biến phụ thuộc và các tham số hiệu quả tài
chính là biến độc lập (Preston và O’Bannon, 1997; Mc Williams và Siegel, 2000;
Nelling và Webb, 2009; Choil và cộng sự, 2010). Trong khi một số nghiên cứu khác
sử dụng trách nhiệm xã hội là biến độc lập và hiệu quả tài chính là biến phụ thuộc
(Aras và cộng sự, 2010). Kết quả của các nghiên cứu đề cập ở trên là mang tính hỗn
hợp. Cụ thể, một vài nghiên cứu tìm thấy mối tương quan dương giữa hai biến
(Waddock và Graves, 1997; Orlitzky và cộng sự, 2003), nhưng một số nghiên cứu lại
không tìm thấy mối quan hệ nào giữa hai biến (Mc Williams và Siegel, 2000; Elijido-
Ten, 2007), nhưng cũng có những nghiên cứu tìm thấy mối tương quan âm giữa hai
biến (Jones và cộng sự, 2007; Crisostomo và cộng sự, 2011). Tóm lại, từ các kết quả
khác nhau của các nghiên cứu trên và để hiểu rõ hơn bản chất mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, nghiên cứu này sẽ xem xét mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính theo những nội dung sau:
2.5.1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước
phát triển
31
Các nghiên cứu sử dụng bộ chỉ số đo lường trách nhiệm xã hội đã được phát
triển: Cochran và Wood (1984) sử dụng thước đo CSR từ mô hình Moskiwitz (1972).
Waddock và Graves (1997), McWilliams và Siegel (2000), Bird và cộng sự (2007),
Scholtens (2008), Peters và Mullen (2009), Nelling và Webb (2009), Lee và Park
(2009); Kang và cộng sự (2010); Jo và Hajoto (2011), Ghelli (2013), Lee và cộng sự
(2013) sử dụng CSR từ KLD. Preston và O’Bannon (1997) sử dụng CSR từ tạp chí
Fortune, trong khi Griffin và Mahon (1997) sử dụng 4 thước đo cho CSR gồm KLD,
chỉ số danh tiếng Fortune, dữ liệu TRI và hoạt động từ thiện của doanh nghiệp còn
Tsoutsoura (2004) sử dụng 2 thước đo cho trách nhiệm xã hội gồm KLD và chỉ số xã
hội Domini 400. Khi xem xét đước đo hiệu quả tài chính của các nghiên cứu này:
Waddock và Graves (1997), Preston và O’Bannon (1997), Griffin và Mahon (1997),
McWilliams và Siegel (2000), Tsoutsoura (2004), Peters và Mullen (2009), Lee và
Park (2009) sử dụng thước đo dựa vào kế toán (ROA, ROE, ROS, ROI); Scholtens
(2008) sử dụng thước đo dựa trên thị trường (rủi ro, lợi nhuận cổ phiếu); Cochran và
Wood (1984), Bird và cộng sự (2007), Nelling và Webb (2009), Kang và cộng sự
(2010), Ghelli (2013), Lee và cộng sự (2013) sử dụng cả hai thước đo hiệu quả tài
chính dựa vào kế toán và thị trường (ROA, ROE, ROS, TBQ, lợi nhuân cổ phiếu,
phần trăm chênh lệch so với giá trị thị trường); ngoại trừ Jo và Hajoto (2011) điều tra
mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và quản trị công ty. Xét về mẫu nghiên cứu:
Waddock và Graves (1997) đã kiểm tra mô hình của họ khi sử dụng 500 công ty,
Preston và O’Bannon (1997) điều tra 67 công ty từ những ngành công nghiệp khác
nhau, Griffin và Mahon (1997) tập trung vào một ngành công nghiệp duy nhất (ngành
công nghiệp hóa chất), McWilliams và Siegel (2000) điều tra 524 công ty Mỹ,
Tsoutsoura (2004) điều tra các công ty niêm yết Mỹ từ S&P 500, Scholtens (2008)
điều tra 289 công ty Mỹ, Bird và cộng sự (2007) điều tra các công ty trên S&P 500,
Lee và Park (2009) điều tra 85 công ty lấy từ S&P 500 và Russell 1000, Peters và
Mullen (2009) điều tra 81 công ty Mỹ lấy từ chỉ số Fortune 500, Nelling và Webb
(2009) điều tra hơn 600 công ty Mỹ, Kang và cộng sự (2010) xem xét các công ty
niêm yết trên S&P500 và Russell 3000, Jo và Hajoto (2011) mẫu gồm 12,527 công
ty/năm, Ghelli (2013) điều tra 322 công ty lấy từ Fortune 500, Lee và cộng sự (2013)
kiểm tra các công ty được lấy từ S&P 500 hoặc the Russell 3000.
32
Như vậy, kết quả từ các nghiên cứu thực nghiệm trên cho thấy mối tương quan
dương giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đối với những công ty được niêm
yết trên chỉ số KLD và Fortune. Riêng, kết quả từ nghiên cứu của McWilliams và
Siegel (2000), Nelling và Webb (2009), Kang và cộng sự (2010) cho thấy kết quả hỗn
hợp về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính.
Bên cạnh các nghiên cứu sử dụng bộ chỉ số đo lường trách nhiệm xã hội đã
được phát triển (KLD, Domini 400, TRI, Fortune…), có nhiều nghiên cứu khác sử
dụng các thước đo CSR khác nhau để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính. Kết quả từ các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng các thước đo CSR
khác nhau cho thấy các kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính: (i) tìm thấy mối tương quan dương giữa hai biến: Richardson và
Welker (2001) điều tra các công ty Canada, hiệu quả tài chính (chi phí vốn chủ sở
hữu); Orlitzky và cộng sự (2003) phân tích tổng hợp của 52 nghiên cứu, hiệu quả tài
chính (ROA, ROE); Moneva và Rivera-Lirio (2007) điều tra báo cáo thường niên và
báo cáo bền vững của 52 công ty niêm yết Tây Ban Nha; Moneva và Ortas (2008)
điều tra 142 công ty Châu Âu, dữ liệu trách nhiệm xã hội lấy từ nhóm SIRI, hiệu quả
tài chính (lợi nhuận cổ phiếu - SR); Mahoney và cộng sự (2008) mẫu gồm 44 công ty
chỉnh sửa số liệu thu nhập (restating firms) và 44 công ty không chỉnh sửa số liệu thu
nhập (non-restating firms) và được tổng hợp từ GAO-03-395R; Bnouni (2011) dữ liệu
trách nhiệm xã hội được thu thập qua bảng câu hỏi, mẫu gồm 8 công ty Pháp có quy
mô nhỏ và vừa, hiệu quả tài chính (lợi nhuận/doanh thu cổ phần). (ii) tìm thấy mối
tương quan âm giữa hai biến: Reverte (2012) điều tra các công ty niêm yết Tây Ban
Nha, dữ liệu trách nhiệm xã hội được lấy từ OCSR, hiệu quả tài chính (chi phí vốn).
(iii) không tìm thấy mối quan hệ nào giữa hai biến: Murray và cộng sự (2006) thực
hiện phân tích hồi quy của 100 công ty niêm yết lớn nhất ở Mỹ từ Time 1000, hiệu
quả tài chính (lợi nhuận cổ phiếu - SR); Fiori và cộng sự (2007) điều tra 25 công ty
niêm yết ở Ý, hiệu quả tài chính (giá cổ phiếu - SP); Strouhal và cộng sự (2015), xác
định mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính và trách nhiệm xã hội ở hai nước trong khu
vực CEE - Séc và Estonia, hiệu quả tài chính (ROA, MVA). (iv) tìm thấy kết quả hỗn
hợp giữa hai biến: Lyon (2007) kiểm tra 125 công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán New Zealand, trách nhiệm xã hội được tập hợp từ báo cáo thường niên thông
qua phân tích nội dung, hiệu quả tài chính (ROA, ROE); Shreck (2011) điều tra 69
33
công ty, dữ liệu trách nhiệm xã hội lấy từ Oekom, hiệu quả tài chính (ROE, TBQ); Robert và cộng sự (2016) kiểm tra 10 công ty tthuộc nhóm chỉ số CROBEX10® trên
thị trường chứng khoán Zagreb ở Croatia, trách nhiệm xã hội được tập hợp từ báo cáo
thường niên thông qua phân tích nội dung, hiệu quả tài chính (ROA, ROE).
Như vậy, những nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và hiệu quả tài chính mô tả ở trên đều được thực hiện ở các nước phát triển (Mỹ,
Anh, Canada, Úc và New Zealand). Trong khi các nghiên cứu thực nghiệm về mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ngoài các nước phát triển thì ít.
Đối với trách nhiệm xã hội, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước phát triển đã sử dụng chỉ số KLD
để đo lường trách nhiệm xã hội (Tsoutsoura, 2004; Scholten, 2008; Nelling và Webb,
2009; Peter và Mullen, 2009; Jo và Harjoto, 2011; Ghelli, 2013). Tuy nhiên, một số
nghiên cứu khác sử dụng các chỉ số trách nhiệm xã hội khác (ngoài chỉ số KLD)
chẳng hạn như chỉ số trách nhiệm xã hội của Vigeo (Van de Velde và cộng sự, 2005),
chỉ số GRI (Jones và cộng sự, 2007), DJSI (Byus và cộng sự, 2010), chỉ số xã hội
Domini 400 (Mc William và Siegel, 2000), và dữ liệu nghiên cứu của Oekom
(Schreck, 2011). Đối với hiệu quả tài chính, các chỉ sổ được sử dụng phổ biến trong
các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính gồm: thước đo dựa vào kế toán (ROA, ROI, ROE, ROS, EPS, tỷ số P/E, NPM)
và các chỉ số dựa trên thị trường (TBQ, giá cổ phiếu, lợi nhuận cổ phiếu, MVA). Về
phương pháp, các nghiên cứu thực nghiệm đã sử dụng nhiều mô hình kinh tế lượng
khác nhau để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính gồm:
hồi quy tuyến tính “ordinary least squares - OLS”, quan hệ nhân quả Ranger
(Scholten, 2008; Nelling và Webb, 2009; Schreck, 2011), mô hình dữ liệu bảng (Mc
William và Siegel, 2000; Nelling và Webb, 2009), phương pháp bình phương tối thiểu
từng phần “partial least squares - PLS” (Moneva và Ortas, 2008), mô hình “ Two-
Stage Least Squares - 2SLS” để thực hiện phân tích thống kê (Al-Tuwaijri và cộng sự,
2004; Garcia-Castro và cộng sự, 2010; Jo và Harjoto, 2011). Đối với các biến kiểm
soát trong mô hình hồi quy, phần lớn các nghiên cứu đều sử dụng các đặc điểm công
ty (quy mô, đòn bẩy, loại ngành công nghiệp, tuổi của công ty, mức độ R&D và quản
trị doanh nghiệp) như là các biến kiểm soát khi kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính. Từ các lập luận trên cho thấy, nguyên nhân dẫn đến kết
34
quả của các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính được thực hiện ở các quốc gia phát triển là hỗn hợp do các nghiên cứu
thực nghiệm này sử dụng phương pháp khác nhau, các biến đại diện cho trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính cũng khác nhau.
2.5.2. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước
đang phát triển
Các nghiên cứu thực nghiệm tìm thấy mối tương quan dương giữa trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính: Hossain và cộng sự (2006) khảo sát 107 công ty phi tài
chính ở Bangladesh, chỉ số trách nhiệm xã hội gồm 60 khía cạnh, lợi nhuận ròng biên
(NPM) là biến đại diện cho hiệu quả tài chính; Choi và cộng sự (2010) dữ liệu trách
nhiệm xã hội được lấy từ KEJI, hiệu quả tài chính (ROA, ROE và TBQ); Kwanbo
(2011) điều tra 231 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Nigeria, trách nhiệm
xã hội được tập hợp từ báo cáo thường niên thông qua phân tích nội dung, hiệu quả tài
chính (EPS); Chang (2010); Oeyono và cộng sự (2011) mẫu gồm 50 công ty hàng đầu
ở Indonesia, trách nhiệm xã hội theo hướng dẫn của GRI 2007, hiệu quả tài chính
(EPS, EBITDA); Saleh và cộng sự (2011); Tilakasiri (2012) điều tra 50 công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Columbo ở Sri Lanka, trách nhiệm xã hội được đo
bằng phương pháp Delphi, hiệu quả tài chính (ROA, ROE); Tyagi (2012) điều tra 215
công ty Ấn độ (S&P ESG 500), trách nhiệm xã hội được thu thập thông qua bảng câu
hỏi, hiệu quả tài chính (ROA, ROE, lợi nhuận/vốn sử dụng); Li và cộng sự (2013)
mẫu nghiên cứu gồm 1,574 công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán
Trung Quốc, trách nhiệm xã hội được tập hợp từ “The Blue book of CSR reporting”,
hiệu quả tài chính (ROA); Waworuntu và cộng sự (2014) xem xét các công ty niêm
yết hàng đầu trong khu vực ASEAN; Sarah và cộng sự (2015), thực hiện một nghiên
cứu định tính về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong bối
cảnh ở Pakistan; Wan và cộng sự (2016) mẫu gồm các công ty niêm yết ở Malaysia,
trách nhiệm xã hội được tập hợp từ báo cáo thường niên thông qua phân tích nội dung,
hiệu quả tài chính (ROA, ROE, TBQ).
Các nghiên cứu thực nghiệm không tìm thấy mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và hiệu quả tài chính: Aras và cộng sự (2010) kiểm tra 40 công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Istanbul (ISE), trách nhiệm xã hội được tập hợp từ báo cáo
thường niên thông qua phân tích nội dung, hiệu quả tài chính (ROA, ROE, ROS);
35
Khemir và Baccouche (2010) phân tích 23 công ty niêm yết ở Tuy Ni Di, trách nhiệm
xã hội được tập hợp từ báo cao thường niên thông qua phân tích nội dung, hiệu quả tài
chính (ROA, ROE); Luethge và Helen (2012) kiểm tra 62 công ty Trung Quốc niêm
yết trên thị trường chứng khoán Hong Kong, trách nhiệm xã hội được tập hợp từ báo
cáo thường niên thông qua phân tích nội dung bằng phương pháp đếm chữ, hiệu quả
tài chính (ROA, ROE).
Các nghiên cứu thực nghiệm tìm thấy mối quan hệ hỗn hợp giữa trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính: Mitta và cộng sự (2008) kiểm tra 50 công ty Ấn độ, trách
nhiệm xã hội được tập hợp từ báo cáo thường niên thông qua phân tích nội dung, giá
trị kinh tế tăng thêm (EVA) là biến đại diện cho hiệu quả tài chính; Bayoud và cộng
sự (2012) điều tra 40 công ty ở Libi, phân tích nội dung và bảng câu hỏi được sử dụng
để thu thập dữ liệu trách nhiệm xã hội từ báo cáo thường niên, hiệu quả tài chính
(ROA, ROE, ROS); Dkhili và Ansi (2012) điều tra 30 công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Tuynidi, trách nhiệm xã hội được thu thập thông qua bảng câu hỏi, hiệu
quả tài chính (ROA, ROE); Amran (2015) điều tra các công ty Nigeria, trách nhiệm xã
hội được tập hợp từ báo cáo thường niên thông qua phân tích nội dung, hiệu quả tài
chính (ROA, giá cổ phiếu); Nidal và Nidal (2015), khảo sát 26 công ty Jordan, trách
nhiệm xã hội được thu thập từ báo cáo thường niên, hiệu quả tài chính (TBQ).
Như vậy, từ các nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và hiệu quả tài chính ở các nước đang phát triển cho thấy có một số kỹ thuật đã được
sử dụng để đo lường trách nhiệm xã hội và cho ra nhiều kết quả khác nhau (dương, âm
hoặc không có mối quan hệ với hiệu quả tài chính). Những nghiên cứu thực nghiệm
này chỉ ra rằng phương pháp và quy mô mẫu là những nhân tố chính liên quan đến sự
khác nhau về kết quả. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính thì
khá đa dạng bởi vì còn có những khía cạnh khác nhau ảnh hưởng lên kết quả nghiên
cứu. Những ảnh hưởng đó là quy mô (Rashid và Lodh, 2008), nước xuất xứ
(Michelon, 2011), loại ngành, tuổi của công ty, trạng thái niêm yết (listing status),
thành phần hội đồng quản trị, mức độ R&D (McWilliam và Siegel, 2000), cấu trúc
vốn, mức độ phát triển (Ribeiro và Aibar-Guzman, 2010) và mức độ nợ. Theo
Ullmann (1985) lý do của sự thiếu nhất quán trong các kết quả này có thể là các nhà
nghiên cứu đã sử dụng những kỹ thuật lấy mẫu không đạt yêu cầu (Choi và cộng sự,
2010), sử dụng những chỉ số trách nhiệm xã hội không đáng tin cậy và chỉ số hiệu quả
36
tài chính kém. Do đó, để khắc phục những lý do trên nghiên cứu này sẽ sưu tập mẫu
gồm tất cả các công ty niêm yết đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
(2012 – 2016) để bao gồm tất cả quy mô công ty và lĩnh vực hoạt động, phát triển chỉ
số trách nhiệm xã hội từ các nghiên cứu trước và sử dụng cả hai thước đo dựa vào kế
toán và thị trường để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính ở Việt Nam.
2.5.3. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính ở Việt Nam
Gần đây nhất, nghiên cứu Trang và Yekini (2014), điều tra mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của 20 công ty lớn nhất niêm yết trên cả hai
sàn chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (2010 – 2012). Kết quả cho thấy
có mối quan hệ yếu giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của 20 công ty niêm
yết Việt Nam. Hoàng cửu Long (2015), xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và xu hướng thị trường (market orientation – MO) với hiệu quả công ty. Kết quả cho
thấy cả hai hoạt động trách nhiệm xã hội và MO đều có tác động tích cực đến hiệu quả
công ty. Nghiên cứu cũng cho thấy các nhà quản lý cấp cao, các CEO, cũng như chủ
sở hữu công ty của các công ty Việt Nam nên nâng cấp nhận thức của họ về tầm quan
trọng của trách nhiệm xã hội, để họ có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của họ trong
nền kinh tế định hướng thị trường.
Trang và cộng sự (2016), điều tra ảnh hưởng của sự đa dạng trong hội đồng
quản trị đối với việc công bố xã hội của các công ty niêm yết Việt Nam (2008 –
2010). Trong đó chỉ số trách nhiệm xã hội được thu thập từ báo cáo thường niên và
được đo lường dựa vào hướng dẫn GRI 3.1. Biến đa dạng hội đồng quản trị được đo
lường thông quả bốn bảng câu hỏi cho bốn bên lên quan khác nhau (người lao động,
sản phẩm, cộng đồng địa phương và công bằng xã hội). Kết quả cho thấy có những
ảnh hưởng tích cực đáng kể của đa dạng trong hội đồng quản trị (sự khác biệt giữa các
giám đốc trong một hội đồng, ví dụ như các thuộc tính nhân khẩu học của các thành
viên trong hội đồng quản trị) lên trách nhiệm xã hội trong khi đa dạng của hội đồng
quản trị (sự khác biệt giữa các hội đồng, ví dụ như cấu trúc hội đồng quản trị) không
có ảnh hưởng lên trách nhiệm xã hội.
Các kết quả đóng góp bằng cách cho thấy rằng một cách tiếp cận lý thuyết duy
nhất có thể cung cấp một lời giải thích đầy đủ cho sự đa dạng của hội đồng quản trị.
37
Nghiên cứu đóng góp phương pháp luận bằng cách chứng minh thiết kế và đo lường
các chỉ số đa dạng của bảng và chỉ số trách nhiệm xã hội có ba bên liên quan. Những
phát hiện mang lại lợi ích cho các nhà quản lý và giám đốc điều hành doanh nghiệp tốt
hơn trong các hoạt động của trách nhiệm xã hội và các bên liên quan.
Tuy nhiên, một vài nghiên cứu thực nghiệm trên đây vẫn chưa đầy đủ và làm rõ
được những ảnh hưởng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính
của các công ty niêm yết Việt Nam. Nói khác đi, các nghiên cứu tổng thể về mối quan
hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở Việt Nam là khá
khiêm tốn so với các nước đang phát triển và các nước khác trong khu vực. Chính
điều này đã cho tác giả thấy được khoảng trống trong nghiên cứu và sự cần thiết mở
rộng các nghiên cứu trước đây về trách nhiệm xã hội, về mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đối với các công ty niêm yết trên thị trường vốn
Việt Nam.
2.6. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
2.6.1. Khái niệm rủi ro công ty (Firm Risk – FR)
Rủi ro công ty được xác định là một rủi ro vốn có trong hoạt động của một
công ty do các yếu tố bên ngoài hoặc bên trong có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của
một công ty. Các yếu tố như thay đổi nhu cầu của khách hàng có thể làm cho giá
chứng khoán của công ty biến động khi nhu cầu nhiều hơn có nghĩa là ít rủi ro hơn
trong khi nhu cầu ít hơn có nghĩa là nhiều rủi ro hơn và điều này rất được các nhà đầu
tư quan tâm. Nói chung, rủi ro cơ bản là sự kết hợp của rủi ro có hệ thống và không có
hệ thống. Bởi vì rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến một số lượng lớn tài sản, nên chúng
thường được gọi là rủi ro thị trường. Mặt khác, rủi ro phi hệ thống chỉ ảnh hưởng đến
hầu hết các tài sản nhỏ, đôi khi chúng được gọi là rủi ro duy nhất cho công ty cụ thể
(Ross và cộng sự, 2011).
2.6.2. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
Do sự phát triển mối quan tâm ngày càng mạnh cả trong giới học thuật và thực
tiễn trên toàn thế giới về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty. Vì
vậy, đã có nhiều nghiên cứu tiến hành kiểm tra các ảnh hưởng của trách nhiệm xã hội
lên rủi ro công ty được thực hiện (McGuire và cộng sự, 1988; Feldman và cộng sự,
1997; Orlitzky và Benjamin, 2001; Husted, 2005; Godfrey và cộng sự, 2009;
Oikonomou và cộng sự, 2010; và Salama và cộng sự, 2011). Bên cạnh đó, cũng có
38
một vài nghiên cứu khác xem xét các khía cạnh khác nhau của việc giảm rủi ro bằng
cách tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội. Quản lý rủi ro có thể làm giảm
rủi ro công ty bằng cách giảm khả năng xảy ra khủng hoảng dự kiến về tài chính, xã
hội và môi trường mà có thể ảnh hưởng đến dòng tiền mặt của công ty (Sharfman và
Fernando 2008) và/hoặc bằng cách tạo ra vốn đạo đức hoặc thiện chí có thể cung cấp
sự bảo vệ giống như bảo hiểm để duy trì hiệu quả tài chính (Godfrey 2005, Godfrey
và cộng sự, 2009). Kết quả là, hầu hết các nghiên cứu kiểm tra mối quan hệ thực
nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty đều tìm thấy một mối quan hệ
nghịch giữa hai biến này.
Một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây cũng cho thấy mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và rủi ro hệ thống và chi phí vốn cổ phần. Sharfman và Fernando (2008)
sử dụng dữ liệu của 270 công ty và cho rằng hiệu quả môi trường ở cấp độ công ty có
quan hệ ngược chiều với rủi ro hệ thống (trong đó rủi ro hệ thống được đo lường bằng
mô hình CAPM), kết quả làm cho chi phí vốn cổ phần thấp hơn. Oikonomou và cộng
sự (2012) sử dụng bảng dữ liệu của các công ty S&P 500, xác nhận rằng trách nhiệm
xã hội có mối quan hệ ngược chiều với rủi ro hệ thống trong đó rủi ro hệ thống gồm
rủi ro thị trường (ĐLC lợi nhuận cổ phiếu, β cổ phiếu) và rủi ro kế toán (tỷ số nợ dài
hạn/tài sản, tỷ số nợ/VCSH, sự biến động ROA). El Ghoul và cộng sự (2012), các
doanh nghiệp có điểm trách nhiệm xã hội cao hơn sẽ có chi phí vốn thấp hơn.
Một số nghiên cứu khác thực hiện nghiên cứu hiệu quả thị trường chứng khoán
của cổ phiếu trách nhiệm xã hội, và kết quả là hỗn hợp. Brammer và cộng sự (2006)
và Hong và Kacperczyk (2009) thấy rằng các cổ phiếu trách nhiệm xã hội có được lợi
nhuận kỳ vọng cao hơn sau khi kiểm soát rủi ro. Becchetti và Ciciretti (2009), các cổ
phiếu trách nhiệm xã hội không có sự khác biệt về lợi nhuận điều chỉnh rủi ro mua và
nắm giữ. Ngược lại, Derwall và cộng sự (2005) cho rằng hầu hết các công ty trách
nhiệm xã hội (liên quan khía cạnh môi trường) đều có lợi nhuận dự kiến cao hơn, và
Kempf và Osthoff (2007) đưa ra một chiến lược mà theo đó họ đầu tư vào các cổ
phiếu có trách nhiệm xã hội cao nhất và bán các cổ phiếu có trách nhiệm xã hội thấp
nhất để tạo ra lợi nhuận bất thường.
Bằng việc sử dụng xếp hạng danh tiếng công ty của tạp chí Fortune, McGuire
và cộng sự (1988) cho thấy trách nhiệm xã hội có liên quan với rủi ro công ty (lợi
nhuận cổ phiếu, các thước đo kế toán). Gregory và cộng sự (2014) kiểm tra mối quan
39
hệ giữa trách nhiệm xã hội và giá trị công ty (rủi ro hệ thống được đo bằng mô hình
CAPM), kết luận đầu tư cho trách nhiệm xã hội có thể đem lại các lợi ích tài chính
cho công ty và gắn liền với triển vọng tăng trưởng dài hạn tốt hơn; ví dụ, các công ty
giảm chất thải sẽ tránh thảm họa môi trường/kiện tụng/sự tẩy chay của người tiêu
dùng, và do đó làm gia tăng giá trị và uy tín thương hiệu, tăng động lực cho người lao
động, cải thiện sự thu hút và duy trì khách hàng. Bouslah và cộng sự (2013) kiểm tra
mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty (trong đó rủi ro công ty gồm:
tổng rủi ro bằng độ lệch chuẩn của suất sinh lợi ngày, rủi ro không hệ thống bằng độ
lệch chuẩn của các phần còn lại từ bốn nhân tố), nhận thấy rằng sự đa dạng nhân viên
và liên quan đến quản trị có ảnh hưởng tích cực lên rủi ro công ty, trong khi ưu điểm
cộng đồng có ảnh hưởng tiêu cực (tích cực) lên rủi ro công ty.
Jo và Na (2012) ngay cả trong các ngành công nghiệp gây tranh cãi (rượu,
thuốc lá, cờ bạc, v.v…) thì tham gia trách nhiệm xã hội có một tác động đáng kể lên
rủi ro công ty sau khi kiểm soát các đặc điểm công ty, trong đó rủi ro công ty bao gồm
tổng rủi ro (độ lệch chuẩn của suất sinh lợi ngày ngày) và rủi ro thị trường (được đo
bằng mô hình CAPM). Parast và Adams (2012) đã đề xuất việc thực hiện trách nhiệm
xã hội trong ngành công nghiệp dầu khí. Vì theo họ khi công ty tham gia vào trách
nhiệm xã hội sẽ làm tối đa hóa giá trị cổ đông, nâng cao uy tín, và đảm bảo khả năng
tồn tại lâu dài của công ty. Các nhà đầu tư và nhà quản lý phải của công ty phải quan
tâm đến hoạt động trách nhiệm xã hội trong việc xây dựng chiến lược đầu tư và các
chính sách quy định của họ.
Mặc dù, vẫn còn khá nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã thảo luận về tầm quan
trọng của trách nhiệm xã hội đến việc giảm thiểu rủi ro, nhưng đến nay có rất ít bằng
chứng thực nghiệm về việc có hay không có trách nhiệm xã hội (bao gồm khía cạnh
kinh tế, môi trường và xã hội) làm tăng giá trị hay làm giảm rủi ro cho công. Như vậy,
mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty là một vấn đề thực nghiệm khác
và cũng cần được kiểm tra thêm.
2.7. Xác định khoảng trống nghiên cứu
Một là, Dựa vào phần lược khảo tài liệu về các nghiên cứu thực nghiệm mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, rõ ràng là trách nhiệm xã hội ở
các nước đang phát triển có liên quan đến ba lĩnh vực chính: phạm vi và mức độ thực
hành trách nhiệm xã hội, quan điểm quản lý, và quan điểm các bên liên quan. Nghiên
40
cứu đã xác định trách nhiệm xã hội như chiến lược “win – win” cho tổ chức và xã hội.
Trong khi những lợi ích thiết thực của trách nhiệm xã hội đang được khuyến khích ở
các nước đang phát triển, nhiều nước vẫn còn thiếu một sự hiểu biết rõ ràng về trách
nhiệm xã hội (Korathotage, 2012) ví dụ như Việt Nam.
Hai là, Do không có chỉ số trách nhiệm xã hội được phát triển đáng tin cậy để
đo lường việc thực hành trách nhiệm xã hội cho các tổ chức như ở các nước phát triển.
Nên các nhà nghiên cứu trước đã phát hiện được rằng các đặc điểm trách nhiệm xã hội
ở các nước đang phát triển khác biệt so với đặc điểm trách nhiệm xã hội ở các nước
phát triển (Visser 2007). Ngoài ra, theo Chapple và Moon (2005) thì mỗi quốc gia
đang phát triển, thậm chí trong cùng một vùng, đặc điểm trách nhiệm xã hội cũng có
xu hướng khác nhau. Vì vậy, trước khi xác định mức độ thực hành trách nhiệm xã hội
trong một quốc gia cụ thể, cần có một chỉ số trách nhiệm xã hội thống nhất cho quốc
gia. Đồng thời, cũng chưa có được khung khái niệm/nghiên cứu về trách nhiệm xã hội
chung phù hợp với bối cảnh ở các nước đang phát triển nòi chung và Việt Nam nói
riêng để hướng dẫn các công ty niêm yết thực hiện (ngoài việc chủ yếu dựa vào hướng
dẫn GRI4).
Ba là, Các nghiên cứu trước về mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội
và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty phần lớn đều tập trung ở các nước phát triển
(Mỹ, Úc, Châu Âu). Nhưng lại có sự giới hạn các nghiên cứu tổng thể tương tự về các
mối quan hệ này cho các công ty niêm yết được thực hiện ở các nước đang phát triển.
Cụ thể, các nghiên cứu thực nghiệm tổng thể về mối quan hệ giữa các khía cạnh trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty cho các công ty niêm yết Việt
Nam tương đối hạn chế. Do vậy, kết quả thực nghiệm từ nghiên cứu này có thể sẽ
khác so với các nước đang phát triển khác cũng như các nước trong khu vực. Điều này
có thể do sự khác biệt trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của Việt Nam so với
các nền kinh tế đang phát triển khác. Những khác biệt xảy ra có thể do sự khác nhau
trong việc định nghĩa trách nhiệm xã hội, vấn đề văn hóa, luật pháp và các quy định.
Dựa vào ba khoảng trống trong nghiên cứu, các vấn đề sau đây được xem xét
cho việc phát triển các câu hỏi nghiên cứu cho nghiên cứu này, và cung cấp một đóng
góp có ý nghĩa cho các nghiên cứu tương lai về trách nhiệm xã hội.
1. Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các phương diện trách
nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam.
41
2. Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty của các công
ty niêm yết Việt Nam.
3. Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội với các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội.
2.8. Giả thuyết nghiên cứu
Giả định đầu tiên được thực hiện trong nghiên cứu này là các công ty niêm yết
Việt Nam thực hành trách nhiệm xã hội trên cơ sở tự nguyện. Giả định thứ hai là tất cả
các hoạt động trách nhiệm xã hội được những công ty này công bố trong báo cáo
thường niên của chúng. Các giả thuyết của nghiên cứu này được dựa trên các đề xuất
rằng việc thực hành trách nhiệm xã hội của công ty tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp lên hiệu
quả tài chính và góp phần làm giảm rủi ro của công ty.
Nhiều nghiên cứu gần đây về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính đươc dựa trên lý thuyết các bên liên quan (Ruf và cộng sự, 2001) và các biến
trách nhiệm xã hội của công ty được đại diện cho mối quan hệ với các bên liên quan
như nhân viên, khách hàng, môi trường, và cộng đồng. Do đó, nghiên cứu này xác
định bốn thành phần các bên liên quan trên như là bốn khía cạnh trách nhiệm xã hội
của công ty có liên quan đến từng bên liên quan trong các công ty niêm yết Việt Nam.
Mỗi khía cạnh trách nhiệm xã hội của công ty được kết hợp với mỗi chỉ tiêu hiệu quả
tài chính của công ty để xác định các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính.
2.8.1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
Như đã trình bày trong các phần trước, mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính là mối quan hệ hỗn hợp. Vì vậy, vẫn còn nhiều câu hỏi được đặt ra
là lý do tại sao các công ty nên hay không nên tham gia vào các hoạt động trách nhiệm
xã hội và liệu các nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này có thể cung cấp câu trả lời
hợp lý, do đó câu hỏi này vẫn rất cần thiết để tiếp tục tìm hiểu mối quan hệ này.
Cụ thể, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã tìm thấy mối quan hệ cùng chiều
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (Bragdon và Marlin, 1972; Bowman và
Haire, 1975; Parket và Eibert, 1975; Freeman, 1984; Cochran và Wood, 1985;
Clarkson, 1995; Donaldson và Preston, 1995; McWilliams và Siegel, 2000; Ruf và
cộng sự , 2001; Moneva và cộng sự, 2007; Odemilin và cộng sự, 2010). Moneva và
cộng sự (2007) xác định lợi nhuận là một yếu tố quan trọng trong việc công bố thông
42
tin về thực hành trách nhiệm xã hội của công ty. Wu (2006) cũng tìm thấy một mối
quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong một
mẫu của 197 công ty. Wu (2006) hỗ trợ cho kết quả của mình bằng cách giải thích
rằng một công ty có hiệu quả tài chính tốt sẽ có nhiều nguồn lực để đối phó với các
vấn đề xã hội và hai biến này có khả năng ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, mâu thuẫn
với các nghiên cứu thực nghiệm trên, Aupperle và cộng sự (1985), Waddock và
Graves (1997), Preston và O'Bannon (1997) và Moore (2001) cung cấp một bản tóm
tắt các kết quả nghiên cứu trước đây về mối tương quan âm, tương quan dương và
không có mối tương quan giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, đồng thời cho
rằng thực hành/công bố thông tin trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí và làm giảm
hiệu quả tài chính. Ngoài ra, Becchetti và Ciciretti (2006), D'Arcimoles và Trebucq
(2002), Nelling và Webb (2009) cho rằng không có mối quan hệ nào giữa trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính. Trong khi, Griffin và Mahon (1997) đã kiểm tra 51
nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
trong vòng một thập niên và đã tìm thấy 33 kết quả về mối tương quan dương, 20 kết
quả cho thấy mối tương quan âm và 9 kết quả cho thấy không có mối quan hệ. Vì vậy,
theo quan điểm của những nghiên cứu thực nghiệm khác nhau về các mối quan hệ
khác nhau giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, các giả thuyết cơ bản đầu
tiên có thể được đề xuất cho mối quan hệ trực tiếp giữa hai biến:
H1A: Có mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
trong các công ty niêm yết Việt Nam.
2.8.2. Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
Dựa vào các giả định ở trên và có nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã tiến hành
kiểm tra những ảnh hưởng của các khía cạnh trách nhiệm xã hội khác nhau (môi
trường, khách hàng, cộng đồng, và nhân viên) lên hiệu quả tài chính. Kết quả, các
nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng trách nhiệm xã hội làm tăng sự hài lòng của
các bên liên quan đối với các hoạt động của tổ chức (Williams và Ho Wern Pei, 1999).
Vì vậy, để làm rõ mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, tương tự
các nghiên cứu thực nghiệm trước ở các nước đang phát triển, nghiên cứu này tiến
hành xem xét sự tác động của các khía cạnh trách nhiệm xã hội gắn liền với nhu cầu
các bên liên quan khác nhau lên hiệu quả tài chính, cụ thể như sau:
43
2.8.2.1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm với môi trường (CSR_env) và hiệu quả
tài chính
Bảo vệ môi trường được coi là lợi ích công cộng (Mazurkiewicz, 2004). Chính
phủ Việt Nam đã yêu cầu các tổ chức thực hiện các hành vi thân thiện với môi trường
thông qua việc thiết lập các quy định, biện pháp trừng phạt và ưu đãi. Theo Mishra và
Suar (2010), hiệu quả môi trường được tăng cường bằng những cải thiện ở ba khía
cạnh: công nghệ sản phẩm chẳng hạn như việc sử dụng các nguyên vật liệu tái chế và
các chương trình tiết kiệm các nguồn tài nguyên khác; quy trình công nghệ như hệ
thống sản xuất hiệu quả và kiểm soát đường ống thải; hệ thống quản lý như các
chương trình đào tạo công nhân và kiểm toán môi trường. Họ cũng lưu ý rằng các
chính sách môi trường toàn cầu đã xác nhận việc sử dụng các khía cạnh trên. Bằng
chứng cho thấy rằng việc quản lý môi trường chủ động đã nâng cao giá trị thị trường,
uy tín và hiệu quả tài chính của một công ty (Klassen và McLaughlin 1996).
Như vậy, trách nhiệm của các tổ chức là bảo vệ môi trường. Nhiều tổ chức thực
hiện điều này trên cơ sở tự nguyện. Kết quả là, các khía cạnh môi trường của trách
nhiệm xã hội có thể được định nghĩa là các nhiệm vụ bao gồm các hàm ý về môi
trường trong mọi hoạt động, sản phẩm và thiết bị của công ty; loại bỏ chất thải và khí
thải; tối đa hóa hiệu quả và năng suất của các nguồn tài nguyên; và giảm thiểu các
hoạt động mà có thể ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên của đất
nước lên các thế hệ tương lai. Davenport (2000), Wood (1991) thêm các hoạt động
môi trường vào các khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội của họ để chứng minh cam
kết với môi trường và phát triển bền vững.
Các nền tảng lý thuyết về mối quan hệ giữa hiệu quả môi trường và hiệu quả tài
chính cho thấy một số lập luận quan trọng. Elsayed và Paton (2005) đã chỉ ra "niềm
tin về chiến lược “win-win” của các học giả (Porter, 1991; Porter và Linde, 1995) đó
là việc cải thiện hoặc bảo vệ môi trường có thể là sự quan tâm của công ty cũng như
giúp cho toàn xã hội". Sau đó, nhiều học giả tranh luận về các tuyên bố của Porter
(1991), Porter và Van der Linde (1995). Tuy nhiên, Palmer và cộng sự (1995), Walley
và Whitehead (1994) cho rằng các công ty có thể quan sát được việc đánh đổi (ít nhất
là trong ngắn hạn) giữa hiệu quả môi trường và hiệu quả tài chính. McWilliams và
Seigel (2001) hỗ trợ lập luận này, cho rằng "mức đầu tư tối ưu cho trách nhiệm xã hội
đối với một công ty có thể được đánh giá theo cách tương tự như bất kỳ các khoản đầu
44
tư khác bằng cách xem xét các chi phí và lợi ích cận biên" (Elsayed và Paton, 2005).
Tuy nhiên, nghiên cứu (Elsayed và Paton, 2005; McWilliams và Seigel, 2001) đã đề
xuất mối tương quan dương giữa hiệu quả xã hội hoặc hiệu quả môi trường và hiệu
quả tài chính.
Do đó, các tranh luận về tầm quan trọng của việc công bố thông tin về môi
trường đã đạt được một cuộc thảo luận thành công tốt đẹp trong thời gian gần đây liên
quan đến hoạt động kinh doanh (Deegan, 2002; Kuasirikun & Scherer, 2004). Một
chuỗi các nghiên cứu chứng minh rằng việc bổ sung nhiều chỉ số trách nhiệm với môi
trường chẳng hạn như việc thực hiện các biện pháp khác nhau để bảo tồn năng lượng
và vấn đề ngăn ngừa ô nhiễm có khả năng dẫn đến hiệu quả tài chính tốt hơn (Haniffa
và Cooke, 2005; Pahuja, 2009; Setyorini và Ishak, 2012). Samy, Odemilin và
Bampton (2009), Menassa (2010) thừa nhận rằng các công ty Anh đặt tầm quan trọng
lớn hơn vào các hoạt động môi trường như ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải, khí
thải, bảo tồn năng lượng và các vấn đề khác liên quan môi trường thông qua trách
nhiệm xã hội. Nghiên cứu chứng minh mối quan hệ giữa trách nhiệm với môi trường
và hiệu quả tài chính (thu nhập trên mỗi cổ phiếu - EPS) là mối quan hệ yếu. Magness
(2006) và Dragomir (2009) đã tiến hành một nghiên cứu tại thời điểm và bối cảnh
khác nhau, kết quả họ cho thấy không có mối quan hệ giữa trách nhiệm với môi
trường và hiệu quả tài chính.
2.8.2.2. Mối quan hệ giữa trách nhiệm với người lao động (CSR_empl) và hiệu
quả tài chính
Người lao động, yếu tố con người của một tổ chức, là một nguồn lực quan
trọng để thực hiện mọi chiến lược (Lee và Miller, 1999). Gần một nửa các công ty lớn
nhất thế giới tin rằng thúc đẩy nhân viên là một yếu tố quan trọng khi nói đến trách
nhiệm xã hội (Volunteering Australia Inc, 2007). Trong khi nhân viên là một nguồn
tài nguyên đắt tiền cho công ty, họ được coi là các bên liên quan có giá trị. Giá trị của
người lao động thể hiện qua năng lực của họ. Nếu một tổ chức không đối xử tốt với
người lao động và đẩy mạnh thực hiện các trách nhiệm hướng về phía người lao động
và xã hội, tổ chức có thể gặp thiệt hại do đánh mất năng lực của người lao động.
Graves và Waddock (1994), Wood (1991), và Davenport (2000) xem xét các sáng
kiến trách nhiệm xã hội hướng đến người lao động như cung cấp một môi trường làm
việc thân nhiện như trong gia đình; tham gia nhiệm vụ quản trị nguồn nhân lực; cung
45
cấp một hệ thống tiền lương và thưởng công bằng cho người lao động; tham gia vào
các hoạt động giao tiếp mở và linh hoạt với người lao động và đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực.
Lee và Miller (1999) tìm thấy những cam kết của tổ chức đối với người lao
động (Organisational commitment of employees - OCE) có thể có một mối quan hệ
cùng chiều nhưng yếu với ROA. Quan trọng hơn, họ thấy rằng ROA bị ảnh hưởng
mạnh mẽ và cùng chiều bởi sự tương tác giữa OCE và việc theo đuổi các mục tiêu
chuyên dụng trong chiến lược của Porter (1980) để đạt được lợi thế cạnh tranh: dẫn
đầu về giá (cost leadership), sự khác biệt và sáng tạo. Những chiến lược này được sử
dụng bởi các tổ chức để cải thiện các cam kết đối nhân viên của họ và bao gồm các
yếu tố như một cộng đồng gần gũi, hợp tác tốt, lòng trung thành và sự cống hiến của
người lao động, chủ động tham gia công việc. Ngoài ra, chi phí cho việc có một mức
độ trách nhiệm xã hội cao hơn được bù đắp bởi những lợi ích nhận được từ tinh thần
và năng suất của người lao động (Solomon và Hanson, 1985). Các ngoại tác tiêu cực
ảnh hưởng lên xã hội bởi cách quản lý nhân viên yếu kém có thể được xác định tức
thì. Ví dụ, nếu người lao động đình công thì điều này sẽ ảnh hưởng lên xã hội. Những
ảnh hưởng như thế không chỉ cần được xác định và được đo lường, mà còn cần phải
được quản lý theo cách mà các ngoại tác tích cực được tối đa hóa và các ngoại tác tiêu
cực phải được giảm thiểu.
Post và cộng sự (2002) khuyên các công ty nên phát triển nguồn vốn con người
như là một nguồn lực của lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, Post và cộng sự (2002) còn cho
thấy sự cam kết của người lao động có thể giúp công ty đạt được mục tiêu của mình.
Hơn nữa, Cohen (2001; được Post và cộng sự trích dẫn, 2002) giải thích rằng các nhà
quản lý và người lao động xác định chất lượng công việc thể hiện qua lợi thế cạnh
tranh. Các nhiệm vụ tiếp theo của công ty là tập trung vào sự đóng góp của nhân viên
cho CSR, cam kết của các công ty trong việc phát triển nhân viên liên quan trách
nhiệm xã hội, và đóng góp của người người lao động vào việc làm tăng hiệu quả công
ty. Các công ty niêm yết Việt Nam cam kết về mặt pháp lý để bảo vệ người lao động
và người sử dụng lao của họ thông qua sự quản lý trực tiếp của các văn bản Luật (Luật
Lao động), các tổ chức Công đoàn và các Hội đoàn thể quần chúng (Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ nữ...). Mặc dù các pháp lệnh được thực hiện vì lợi ích của người lao động,
46
nhưng các cam kết tự nguyện cũng được kỳ vọng từ các tổ chức của người lao động.
Các công ty cam kết với nhân viên của họ bằng cách thực hiện nhiều hoạt động xã hội.
Tóm lại, nguồn nhân lực là lực lượng đại diện cho sở hữu trí tuệ và xu hướng
giá trị trong bất kỳ một tổ chức nào đó. Từ quan điểm dựa vào nguồn lực (resource
based perspective - RBP), thực thể công ty có thể cải thiện uy tín và hiệu quả tài chính
của mình thông qua các chính sách CSR (Branco và Rodrigues, 2009; Skudiene và
Auruskeviciene, 2010). Trách nhiệm với người lao động có liên quan mạnh với hiệu
quả tài chính và hiệu quả tổ chức (Menassa, 2010). Nó thúc đẩy sự cam kết, động lực
và lòng trung thành của nhân viên, và sau đó là sự phát triển các nguồn lực bên trong
liên quan nhân viên và khả năng của họ (Branco & Rodrigues, 2009). Do đó, những
nhân viên năng động và trung thành trong nội bộ sẽ làm việc tích cực để đạt được mục
tiêu chung của tổ chức vì những lý do không liên quan đến những lợi ích mà có thể
phát sinh từ phần thưởng bên ngoài hơn là vì có mối quan hệ tốt với các công ty mà họ
làm việc (Skudiene và Auruskeviciene, 2010). Skudiene và Auruskeviciene (2010) nói
thêm rằng trách nhiệm đào tạo và sự vắng mặt của nhân viên làm giảm doanh thu.
Tương tự như vậy, Guadamillas-Go'mez và Manzanares (2011) cho thấy những
bằng chứng rõ ràng rằng các trách nhiệm với người lao động là một trong những khía
cạnh đạo đức trong các quyết định của công ty để phát triển con người. Chất lượng và
mức độ đầu tư vào chính sách thân thiện trong tuyển dụng nhân viên như tiền công
cao hơn, tiền lương hưu và tiền thưởng, phúc lợi, đào tạo chất lượng, chính sách y tế
và an toàn và sự tham gia của nhân viên với cơ hội bình đẳng có xu hướng cải thiện
các vấn đề liên quan đến chi phí lao động của tổ chức, sự vắng mặt và tỷ lệ nhân viên
nghỉ việc hàng năm (Carrol, 1999; Vitaliano, 2009; Samy, Odemilin và Bampton,
2009). Các học giả đã sử dụng lý thuyết nhân viên công bằng để hỗ trợ nhận thức của
toàn bộ nhân viên về mức độ công bằng được thể hiện bằng việc công ty hướng tới
nhân viên. Họ lập luận rằng thông qua trách nhiệm với người lao động, tổ chức hình
thành nhân viên có đạo đức tốt và có thể tuyển dụng, duy trì và ngăn ngừa nhân viên
tốt rời khỏi công ty (Aguilera và cộng sự, 2007; Galbreath, 2009). Trái ngược với
những nghiên cứu thành lập mối tương quan dương giữa chủ động nguồn nhân lực và
hiệu quả tài chính, Criso'stomo, Freir và Vasconcellos (2011) tìm thấy một tác động
âm của trách nhiệm với người lao động lên hiệu quả tài chính.
47
2.8.2.3. Mối quan hệ giữa trách nhiệm với cộng đồng (CSR_com) và hiệu quả
tài chính
Các công ty cũng bắt đầu xem xét đến công chúng khi họ đánh giá các hoạt
động xã hội của họ. Yếu tố cộng đồng là một trong những khía cạnh quan trọng của
trách nhiệm xã hội. Không giống như trách nhiệm với người lao động, với khách hàng
và với môi trường, đây là một thể loại quan trọng bởi vì tất cả các bên liên quan là
thành viên của công chúng. Lesser (2001) cho thấy rằng khi công ty phát triển về quy
mô, phạm vi địa lý, và mức độ phức tạp, công ty đặc biệt chú ý đến sự hỗ trợ từ các
hoạt động của cộng đồng để có thể cải thiện hiệu quả công ty. Hơn nữa, Husted (2003)
đã chứng minh rằng khi các công ty tập trung các hoạt động xã hội vào cộng đồng bên
trong và xung quanh khu vực hoạt động, các công ty gặt hái được nhiều lợi ích qua
hình ảnh trách nhiệm xã hội cho người lao động và cộng đồng địa phương. Tuy nhiên,
ngược lại với điều này, Berman và cộng sự (1999; được Mishra và Suar trích dẫn,
2010) cho rằng bằng chứng trước đây cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa trách
nhiệm với cộng đồng và hiệu quả tài chính.
Hơn nữa, như đã đề cập trong Chương 2 của Luận án này, Griffin và Mahon
(1997), Margolis và Walsh (2001) đã phân tích 147 bài báo nghiên cứu về mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Kể từ đó, có một số nghiên cứu khác
liên quan đến lĩnh vực này đã được thực hiện (Tsoutsoura, 2004; Coombs và Gilley,
2005; Brine và cộng sự, 2006.). Ví dụ, Berman và cộng sự (1999) đã kết luận ảnh
hưởng của trách nhiệm với cộng đồng lên hiệu quả tài chính ít có thể nhận thấy được.
Ngoài ra, Porter (1980) cho rằng mối quan hệ giữa trách nhiệm với cộng đồng và hiệu
quả tài chính là ít quan trọng bởi vì các hoạt động cộng đồng là một công việc không
được thực hiện tập trung và chia làm từng phần.
Vì vậy, việc công bố thông tin về các hoạt động tham gia cộng đồng là một
trong những yếu tố quan trọng nhất của trách nhiệm xã hội khi đánh giá trách nhiệm
với cộng đồng của một công ty. Nejati và Ghasemi (2012) ghi nhận rằng việc công bố
các hoạt động tham gia cộng đồng là nhìn vào cách các công ty có thể đóng góp vào
sự tiến bộ của xã hội bằng cách tích hợp các chuẩn mực và giá trị xã hội trong chiến
lược hoạt động của công ty. Nhiều sáng kiến cộng đồng như đóng góp từ thiện, hỗ trợ
cho giáo dục, hỗ trợ tài trợ cho các hoạt động giải trí, thu thập kỹ năng đào tạo cho
cộng đồng, chống hối lộ và tham nhũng, cấp nước và hỗ trợ cho các dịch vụ chăm sóc
48
sức khỏe y tế đã được đưa vào trong quyết định kinh doanh của họ (Branco và
Rodrigues, 2009). Đây được xem là một nhận thức tích cực để có được một lợi ích đối
ứng cho cả tổ chưc và xã hội khi các tổ chức tích cực tham gia vào các hoạt động trách
nhiệm xã hội. David (2012) nói thêm rằng các tổ chức có được danh tiếng tốt hơn khi
chúng tham gia vào các dự án đầu tư vì lợi ích xã hội. Về mối quan hệ cộng sinh này,
các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một mối quan hệ có ý nghĩa giữa tiến bộ xã hội và
hiệu quả tài chính. Khi một công ty thể hiện được sự cam kết của chính mình về các
giá trị và niềm tin với các bên liên quan, các bên liên quan nội bộ do sự tác động tích
cực về mặt nhận thức đã thúc đẩy họ sẵn sàng tham gia và đóng góp cho các sáng kiến
thay đổi xã hội vì lợi ích cộng đồng (Aguilera, Rupp, Williams và Ganapathi, 2007;
Heslin và Roach, 2008). Joshi và Gao (2009), Lii (2011) xem xét các ảnh hưởng
tương đối của một số yếu tố của hoạt động tham gia cộng đồng. Phát hiện của họ cho
thấy rằng hoạt động cộng đồng giúp tổ chức tạo mối quan hệ tốt với các bên liên quan.
Kết quả là, các công ty xây dựng hình ảnh thương hiệu với chi phí tương đối thấp hơn
so với những gì có thể đạt được thông qua quảng cáo và quan hệ công chúng.
2.8.2.4. Mối quan hệ giữa trách nhiệm với sản phẩm/khách hàng (CSR_prod)
và hiệu quả tài chính
Khách hàng là những bên liên quan quan trọng khác và được coi là động lực
chính cho các công ty để thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội. Sự hài lòng của
khách hàng có thể được xác định qua tổng số tiền mua sắm và kinh nghiệm tiêu dùng
của họ đối với một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó theo thời gian (Anderson và
Gerbing, 1988). Fornell và cộng sự (2006) cho rằng sự hài lòng của khách hàng được
công nhận là một chiến lược tiếp thị và là động lực chính đối với lợi nhuận và giá trị
thị trường trong dài hạn của công ty (Gruca và Rego, 2005). Sự hài lòng của khách
hàng rõ ràng là động lực thực hiện trách nhiệm xã hội của công ty. Luo và
Bhattacharya (2006) đã đề xuất ba cách để giải quyết những quan điểm này. Thứ nhất,
thể chế và lý thuyết các bên liên quan cho thấy hoạt động của một công ty thu hút sự
đa dạng người tiêu dùng không chỉ ở mặt kinh tế mà còn được xem ở góc độ là thành
viên của một gia đình, một cộng đồng và đất nước (Handelman và Arnold, 1999). Thứ
hai, trách nhiệm xã hội tạo ra một tình huống thuận lợi trong việc tích cực làm tăng
thái độ tốt của người tiêu dùng đối với công ty (Handelman và Arnold, 1999; Gürhan-
49
Canli và Batra, 2004). Thứ ba, quyền lực của khách hàng tăng trở thành một cách để
thể hiện cam kết trong xã hội.
Davenport (2000), Wood (1991) đã phát triển khung nghiên cứu CSR bao gồm
các hoạt động chăm sóc khách hàng: tôn trọng các quyền của người tiêu dùng, cung
cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng và cung cấp thông tin trung thực và hữu ích. Các
tài liệu đã ngụ ý rằng các hoạt động CSR tạo ra giá trị thị trường của một công ty qua
sự hài lòng của khách hàng (Brown và Dacin, 1997; Anderson và cộng sự, 2004.). Họ
đề cập đến các khía cạnh của trách nhiệm xã hội như khả năng sáng tạo của công ty,
hoặc chất lượng sản phẩm tốt, các hoạt động làm tăng sự hài lòng của khách hàng.
Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng các hoạt động trách nhiệm
xã hội có thể không tạo ra được nhiều tính chính đáng cho tổ chức hoặc sự hài lòng
của khách hàng (Scott, 1987). Lee và Heo (2009) kết luận rằng sự hài lòng của khách
hàng là nền tảng của trách nhiệm xã hội vì nó ảnh hưởng tích cực lên hiệu quả tài
chính.
Cho nên, trách nhiệm với sản phẩm cũng được cho là có ảnh hưởng lên hiệu
quả tài chính. Bởi vì tầm quan trọng của sáng kiến này trong việc xây dựng kiến thức
khách hàng, nó là một trong những khía cạnh được quan tâm nhất trong bối cảnh
nghiên cứu trách nhiệm xã hội ở Việt Nam. Những điểm cốt yếu trong sáng kiến này
của trách nhiệm xã hội khuyến khích tổ chức tập trung vào các vấn đề đạo đức và thực
hành tốt các nội dung liên quan đến sản phẩm, dịch vụ và khách hàng nhằm duy trì vị
thế thị trường (Galbreath, 2009; Rashid, 2010). Những sáng kiến chung giữa các học
giả nhấn mạnh về đầu tư vào chất lượng và sự đổi mới sản phẩm, sáng kiến sự hài
lòng của khách hàng, cung cấp cho khách hàng khuyết tật, xây dựng đạo đức hoạt
động, đóng góp xã hội cho sự thay đổi, và tuân thủ pháp luật và các chuẩn mực
(Carrol, 1991; Rashid, 2010). Các tổ chức trên thế giới đang ngày càng kết hợp các
sáng kiến này ngoài các mục tiêu kinh tế chủ yếu để tạo ra lợi nhuận tối đa bằng cách
thêm giá trị tình cảm, xã hội và chức năng cho người tiêu dùng (Menassa, 2010; Green
và Peloza, 2011). Một sự thay đổi trong từng yếu tố cụ thể có thể làm cải thiện hay
làm xấu đi giá trị cảm nhận sản phẩm công ty của khách hàng.
Khi tất cả các yếu tố được xem là bằng nhau giữa các tổ chức, trách nhiệm xã
hội là cách để một tổ chức có được tương quan tích cực với giá trị của người tiêu
dùng, xác định được mức độ đáp ứng yêu cầu của họ đối với các sản phẩm và dịch vụ
50
của công ty. Nếu người tiêu dùng ghi nhận tốt đối với hoạt động trách nhiệm xã hội
của công ty, họ sẽ phản ứng tích cực với những hình ảnh, sản phẩm và dịch vụ của
công ty và ngược lại (Joshi và Gao, 2009). Thông qua các phát kiến trách nhiệm xã
hội, công ty có thể nâng cao mức độ hiệu quả của mình bằng cách thực hiện các dự án
xã hội có giá trị kinh tế gia tăng đối với các sản phẩm và dịch vụ. Chẳng hạn như việc
bảo đảm bảo vệ người tiêu dùng bằng cách cung cấp thông tin cần thiết và cung cấp
giá cả tốt hơn để đáp ứng sự mong đợi của khách hàng (Gilbreath, 2009; Skudiene và
Auruskeviciene, 2010). Theo các nghiên cứu, họ tìm thấy một mối quan hệ cùng chiều
giữa trách nhiệm với sản phẩm và hiệu quả tài chính.
Tóm lại, dựa vào các tiền đề được lập luận ở trên về mối quan hệ giữa bốn khía
cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính, do đó giả thuyết tiếp theo được đề
nghị cho nghiên cứu này:
H1B: Có mối quan hệ cùng chiều giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính trong các công ty niêm yết Việt Nam.
2.8.3. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
2.8.3.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ ngược chiều giữa trách
nhiệm xã hội và rủi ro công ty
Lý thuyết các bên liên quan (Donaldson và Preston, 1995; Jones, 1995) cho
rằng đầu tư vào trách nhiệm xã hội giúp các tổ chức giảm thiểu rủi ro của họ. Bằng
cách tạo ra nguồn vốn tương ứng giữa các bên liên quan, tham gia trách nhiệm xã hội
cung cấp cho các tổ chức một sự bảo vệ có lợi tương đương với một hợp đồng bảo
hiểm (Godfrey, 2005). Kết quả là, trách nhiệm xã hội làm cho các công ty ít bị tổn
thương và mau phục hồi hơn từ sự suy giảm tiềm năng. Đặc biệt, người tiêu dùng ít có
khả năng tránh xa các sản phẩm của công ty. Sau sự cố tiêu cực, chẳng hạn như các
thảm họa môi trường, các công ty có trách nhiệm xã hội cao (nghĩa là các công ty có
trách nhiệm nhiều hơn) được dự kiến sẽ ít bị ảnh hưởng hơn so với đối thủ cạnh tranh
trực tiếp của họ (Pascal và Anna, 2015).
Sen và cộng sự (2006) khẳng định rằng trách nhiệm xã hội tạo ra sự thiện chí
của các bên liên quan trong việc giảm nhẹ những đánh giá tiêu cực. Lòng trung thành
lớn hơn từ khách hàng có thể giúp các công ty hấp thụ những cú sốc bên ngoài và
cung cấp cho công ty thêm thời gian để thực hiện điều chỉnh hoạt động của nó. Ngoài
ra, CSR có thể cải thiện thái độ của nhân viên đối với công ty (Melo, 2012). trách
51
nhiệm xã hội làm cho nhân viên sẵn sàng chia sẻ gánh nặng trong trường hợp công ty
gặp khó khăn về tài chính. Ví dụ, nhân viên có thể dành nhiều giờ hơn làm việc miễn
phí và kêu gọi sự hỗ trợ từ bên ngoài (bằng văn bản gửi cho các cấp có thẩm quyền
hay khuyến khích bạn bè mua sản phẩm của công ty). Do đó, tham gia trách nhiệm xã
hội có thể làm tăng khả năng của công ty trong việc đối đầu với các sự kiện tiêu cực.
Ngoài việc giúp công ty hấp thụ hiệu quả các cú sốc tiêu cực, trách nhiệm xã
hội còn giúp công ty hạn chế những sự kiện tiêu cực. Ví dụ, công ty thực hiện trách
nhiệm môi trường sẽ làm giảm rủi ro gây tai nạn ô nhiễm. Thực tế, công ty giảm nhẹ
khả năng bị trừng phạt tốn kém nên cũng được tính là một lợi nhuận tích cực từ việc
đầu tư trách nhiệm xã hội. Spicer (1978) chứng minh rằng các công ty có hồ sơ kiểm
soát ô nhiễm tốt ít bị chịu các chi phí xử phạt tốn kém.
Như một quy luật, quan tâm trách nhiệm xã hội giúp phát triển một phong trào
văn hóa mạnh mẽ về sự an toàn đối với các nhân viên và các bên liên quan khác. Bằng
việc bồi dưỡng nhiều hơn trong nhận thức về nguy cơ rủi ro, trách nhiệm xã hội giúp
công ty đối phó những sự cố bất lợi, làm giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng và làm giảm
sự thiệt hại cho công ty. Ví dụ, đầu tư cho bảo trì máy móc thiết bị làm giảm nguy cơ
tai nạn liên quan đến người lao động mà còn báo hiệu rằng an toàn là một vấn đề quan
trọng đối với công ty. Tương tự như vậy, việc áp dụng các công nghệ xanh có xu
hướng là tốn kém, nhưng ít liên quan đến những sự cố kịch tính hơn cho môi trường
sống và môi trường làm việc. Xem xét an toàn sản phẩm và kiểm tra chất lượng sản
phẩm cũng có thể làm giảm rủi ro tai nạn liên quan đến khách hàng. Tóm lại, trách
nhiệm xã hội được kỳ vọng sẽ làm cho các nhà sản xuất suy nghĩ nhiều hơn trong việc
đối phó với tất cả các loại rủi ro.
Ngược lại, các doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích của các bên liên quan sẽ
làm tăng chi phí mà họ có thể phải trả trong tương lai (McGuire và cộng sự, 1988). Ví
dụ về các chi phí quan trọng do hành vi thiếu trách nhiệm của công ty bao gồm các vụ
kiện nhắm vào các nhà sản xuất thuốc lá (Orlitzky và Benjamin, 2001). Các chi phí do
hành vi thiếu trách nhiệm của công ty leo thang hơn nữa vì có khả năng tăng cường sự
can thiệp thông qua điều tiết (ví dụ thông qua các chỉ tiêu sản xuất nghiêm ngặt và
điều kiện quảng cáo).
Nhận thức của công chúng về một công ty không thực hành tốt trách nhiệm xã
hội có khả năng làm tăng mức độ nghiêm trọng của một phản ứng dữ dội. Nó làm tăng
52
cơ hội công ty phải chịu trách nhiệm và nhận được kết quả tiêu cực nhiều hơn. Do đó,
hoạt động trách nhiệm xã hội kém có khả năng làm trầm trọng thêm các chi phí tại
một thời điểm mà các công ty phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng. Đặc
biệt, công ty có thể chịu áp lực trong việc kiểm soát thiệt hại cho hình ảnh của mình
bằng cách chi tiêu nhiều vào quảng cáo và quan hệ công chúng. Do trách nhiệm xã hội
kém, các công ty không thể duy trì sự trung thành của khách hàng và nhân viên của
họ. Khách hàng có thể chuyển sang nhà cung cấp khác trong khi các nhân viên có thể
rời khỏi công ty khi khó khăn đang diễn ra trong công ty. Trong cả hai trường hợp,
các vấn đề của công ty sẽ được khuếch đại và cho thấy rủi ro lớn hơn cho cổ đông.
McGuire và cộng sự (2003) cho rằng việc khuyến khích quản lý có thể chịu trách
nhiệm về trách nhiệm xã hội kém do tập trung nhiều vào việc đạt được các mục tiêu
ngắn hạn.
Bằng chứng về mối tương quan âm giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty đã
nổi lên ngày càng nhiều trong vài năm qua. Luo và Bhattacharya (2009) cho rằng
trách nhiệm xã hội có liên quan với giảm rủi ro không hệ thống. Oikonomou và cộng
sự (2012) tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa các lợi thế trách nhiệm xã hội
và rủi ro hệ thống và một mối quan hệ cùng chiều giữa các vấn đề trách nhiệm xã hội
và rủi ro hệ thống. Các vấn đề quan trọng nhất liên quan đến cộng đồng, việc làm và
vấn đề môi trường. Salama và cộng sự (2011) nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng
và trách nhiệm môi trường (CER) và rủi ro hệ thống ở Anh, kết luận có sự tồn tại của
một mối quan hệ ngược chiều đáng kể. Sharfman và Fernando (2008) cho thấy cải
thiện quản lý rủi ro môi trường có liên quan với chi phí vốn thấp hơn và đặc biệt là chi
phí vốn chủ sở hữu thấp hơn. Chi phí của khoản nợ tăng bởi vì các doanh nghiệp tận
dụng lợi thế của rủi ro thấp hơn để tăng đòn bẩy của họ. El Ghoul và cộng sự (2011)
xác nhận các kết quả này bằng việc sử dụng dữ liệu KLD. Trong bối cảnh đó, Attig và
cộng sự (2013) xác định rằng trách nhiệm xã hội tốt có liên quan đến xếp hạng tín
dụng cao hơn. Các nghiên cứu cho rằng các nhà đầu tư tin tưởng rằng các công ty có
trách nhiệm xã hội cao sẽ có rủi ro thấp hơn.
2.8.3.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ cùng chiều giữa trách
nhiệm xã hội và rủi ro công ty.
Một quan điểm khác là đầu tư vào trách nhiệm xã hội làm chuyển hướng các
nguồn lực có giá trị của tổ chức mà có thể được sử dụng trong các dự án khác như
53
phát triển các dòng sản phẩm mới hoặc xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển
mạnh hơn (Barnea và Rubin, 2010). Kết quả là, các hoạt động CSR của tổ chức có thể
làm giảm tính cạnh tranh của mình và làm cho nó dễ bị tổn thương trước những cú sốc
từ bên ngoài. Ví dụ, sự chú ý quá mức vào môi trường có thể làm tăng chi phí sản xuất
và làm cho các công ty gặp bất lợi so với đối thủ cạnh tranh của họ. Vì có nhiều khả
năng làm cho tổ chức bị thiệt hại, do đó trách nhiệm xã hội có thể chuyển thành rủi ro
lớn hơn cho các cổ đông.
Nhìn chung, trách nhiệm xã hội liên quan đến sự cân bằng các yêu sách cạnh
tranh giữa các nhóm bên liên quan. Xem xét tốt yêu cầu của một nhóm các bên liên
quan thể hiện một khoản chi phí cho một nhóm các bên liên quan khác. Chẳng hạn,
miễn cưỡng sa thải nhân viên vì lo lắng về phúc lợi của họ tương ứng với chi phí cố
định của công ty mà làm tăng rủi ro cho các cổ đông. Chi phí chăm sóc cho nhân viên
cũng có thể do các nhân viên khác chịu. Điều này xảy ra khi công ty được yêu cầu
giới hạn mức lương cấp cho nhân viên có năng suất cao hơn để bù đắp chi phí phát
sinh thêm bởi các nhân viên có năng suất ít hơn. Sau đó các nhân viên tốt nhất có thể
rời khỏi công ty, trong khi các ứng cử viên bên ngoài có thể bị cản trở tham gia, do đó
ảnh hưởng đến hiệu quả của công ty, và cuối cùng làm tăng rủi ro cho các cổ đông.
Bằng việc sử dụng lập luận của lý thuyết đại diện, Cespa và Cestone (2007)
khẳng định rằng các nhà quản lý có xu hướng sử dụng các hoạt động trách nhiệm xã
hội nhằm mục đích bảo đảm sự hỗ trợ từ các cộng đồng địa phương và các chính trị
gia. Bằng cách ngăn chặn việc tiếp quản thù địch, trách nhiệm xã hội có thể sẽ làm
trầm trọng thêm sự quản lý của nhà quản lý. Với những ảnh hưởng tiêu cực đến kết
quả kinh doanh của công ty, có thể không có gì ngạc nhiên rằng công ty sẽ bị coi là có
rủi ro cao hơn. Đến nay, các tài liệu thực nghiệm đã không đưa ra bất kỳ bằng chứng
về mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro.
Như vậy, từ hai lập luận trên, nghiên cứu này đưa ra giả thuyết sau:
H2: Có mối quan hệ ngược chiều giữa trách nhiệm xã hội với rủi ro công ty.
2.8.4. Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội với các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội.
Có nhiều sự ủng hộ thực nghiệm đối với quan điểm cho rằng các công ty sẽ bị
phạt nếu chúng cảm thấy việc quản lý kinh doanh bằng nhiều cách làm xung đột với
các giá trị xã hội. Điều này đặc biệt đúng khi mâu thuẫn phát sinh giữa việc theo đuổi
54
lợi nhuận tổ chức và mục tiêu xã hội, chẳng hạn như bảo vệ môi trường, sức khỏe
cộng đồng, các quyền con người và những vấn đề khác. Điều giải thích trên của trách
nhiệm xã hội ngụ ý rằng công ty có động cơ để hành động trách nhiệm xã hội nhiều
hơn. Tất nhiên, một trong những cách để các công ty quản lý rủi ro trong quá trình
hoạt động và nâng cao hiệu quả tài chính là tham gia vào các hành vi trách nhiệm xã
hội. Trách nhiệm xã hội có thể đóng một vai trò lớn trong sự phát triển kinh tế, xã hội
và môi trường của đất nước. Juliana, Xu (2016) điều tra những tác động của trách
nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính bằng việc so sánh hiệu quả tài chính (ROA, ROE)
thông qua kiểm định t-test trung bình một mẫu giữa 50 công ty công bố trách nhiệm
xã hội và 51 công ty không công bố trách nhiệm xã hội, kết quả trách nhiệm xã hội có
tác động cùng chiều lên hiệu quả tài chính và hiệu quả tài chính của các công ty công
bố trách nhiệm xã hội cao hơn so với các công ty không công bố trách nhiệm xã hội.
Tương tự, Nicola và Sergio (2016) điều tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả công ty (ROE, MVA, SIZE, INTA, ROCE, AGE) bằng phân tích đồ thị chiến
lược giữa 100 công ty không công bố trách nhiệm xã hội và 317 công ty công bố trách
nhiệm xã hội, kết quả chính cho thấy có một số điểm khác biệt về một số chỉ tiêu kinh
tế giữa các công ty công bố trách nhiệm xã hội và các công ty không công bố trách
nhiệm xã hội, và giữa Hoa Kỳ và EU, và trong các ngành công nghiệp khác nhau.
Chính kết quả từ hai nghiên cứu trên và để có thể hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đối với các công ty niêm yết Việt Nam,
nghiên cứu này tiến hành xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có
công bố trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội
nhằm đánh giá tác động của trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính cũng như những
lợi ích mà trách nhiệm xã hội đã mang lại cho các công ty niêm yết công bố trách
nhiệm xã hội trong bối cảnh Việt Nam. Cụ thể, nghiên cứu kiểm tra giả thuyết:
H3: Có sự khác biệt hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố
trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội.
Tóm tắt chương 2
Chương này nhằm lược khảo lại các lý thuyết về trách nhiệm xã hội, hiệu quả
tài chính, mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty và xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty có
công bố trách nhiệm xã hội và những công ty không có công bố trách nhiệm xã hội.
55
Lý thuyết cổ đông, lý thuyết đại diện, lý thuyết tính chính đáng và lý thuyết các bên
liên quan được xem là những quan điểm lý thuyết chính được sử dụng nhiều nhất để
giải thích cho trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, không có lý thuyết duy nhất nào để giải
thích cho việc tại sao các tổ chức nên tham gia trách nhiệm xã hội (Belkaoui, 1989;
Gray và cộng sự, 1995a). Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng để mô tả kỳ vọng
của các nhóm bên liên quan về các hoạt động trách nhiệm xã hội. Lý thuyết tính chính
đáng liên quan đến nhận thức của các tổ chức hướng về các hoạt động trách nhiệm xã
hội và làm thế nào quản lý các cách tiếp cận xã hội trong xã hội để vẫn chính đáng
(Deegan và cộng sự, 2002; O’Donovan, 2002).
Các tài liệu cho thấy ở các nước đang phát triển việc thực hiện trách nhiệm xã
hội thì khác so với các nước phát triển, phần lớn là do sự khác biệt về văn hóa và sự
tham gia của chính phủ. Chính phủ là người điều hành chính trong nền kinh tế của các
nước đang phát triển, và do đó các quy tắc và quy định về phúc lợi xã hội ở các nước
này được phát triển với sự hỗ trợ của chính phủ. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu đã
lưu ý rằng yếu tố văn hóa là động lực chính đằng sau sự khác biệt trong thực hành
trách nhiệm xã hội ở các nước khác nhau. Việc thực hành trách nhiệm xã hội đã được
phát triển tại các nước phát triển thì không thể được thực hiện tại các nước đang phát
triển do sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia. Tuy nhiên, các công ty ở các nước
đang phát triển thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội của mình (phúc lợi) theo
kinh nghiệm riêng của họ, như là một phần không thể thiếu trong chiến lược kinh
doanh của họ.
Mặt khác, trong khái niệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính, một số nghiên cứu đã được kiểm chứng và kết luận rằng trách nhiệm xã hội
được tìm thấy có mối tương quan dương và đáng kể với hiệu quả tài chính (Waddock
và Graves, 1997; Jones và cộng sự, 2007; Peters và Mullen, 2009; Byus và cộng sự,
2010; Choi và cộng sự, 2010; Moneva và Ortas, 2010; Bnouni, 2011; Chen và Wang,
2011; Saleh và cộng sự, 2011; Crisostomo và cộng sự, 2011 Ehsan và Kaleem, 2012).
Tuy nhiên, một số lượng các nghiên cứu khác trước đây cho rằng không có bằng
chứng về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (McWilliam và
Siegel, 2000; Moneva và Ortas, 2008; Abdul Rahman và cộng sự, 2009; Dragomir,
2010; Soana, 2011a). Bên cạnh đó, khi xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và rủi ro công ty, các nghiên cứu trước đã chứng minh rằng nếu công ty tích cực tham
56
gia các hoạt động trách nhiệm xã hội sẽ góp phần làm giảm rủi ro công ty vì trách
nhiệm xã hội giúp công ty hấp thụ hiệu quả các cú sốc tiêu cực (Spicer, 1978; Sen và
cộng sự, 2006; Sharfman và Fernando, 2008; Luo và Bhattacharya, 2009; Oikonomou
và cộng sự, 2010; El Ghoul và cộng sự, 2011; Melo, 2012; Attig và cộng sự, 2013).
Nhưng một số nghiên cứu thực nghiệm khác tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa
hai biến này (Luo và Bhattacharya, 2009; Oikonomou và cộng sự, 2010; Salama và
cộng sự, 2011). Ngoài ra, Poddi và Vergalli (2008), Ching và cộng sự (2009), Chen và
Wang (2011), Uadiale và Fagbemi (2011), Hassan và cộng sự (2012) và Julian và Xu
(2016) tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
khi so sánh hiệu quả tài chính giữa công ty thực hiện trách nhiệm xã hội và công ty
không thực hiện trách nhiệm xã hội.
Như vậy, sự khác biệt giữa các kết quả của các nghiên cứu trước đây có thể là
do trách nhiệm xã hội chưa được hiểu đầy đủ, hoặc họ đã sử dụng các thước đo trách
nhiệm xã hội khác nhau, phương pháp khác nhau, các giai đoạn nghiên cứu khác nhau,
và quy mô mẫu khác nhau v.v...
57
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Giới thiệu
Như đã trình bày trong Chương 2, nhiều nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính hiện nay được dựa trên kinh nghiệm của
các nước phát triển và điều tra các mối quan hệ không nhất quán giữa trách nhiệm xã
hội và hiệu quả tài chính. Tổng quan về những hạn chế của các nghiên cứu trước đây
cho thấy rằng mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính gặp nhiều
hạn chế ở các nước đang phát triển, do các nước đang phát triển không có hệ thống đo
lường chỉ số trách nhiệm xã hội tin cậy được chấp nhận và không có hệ thống báo cáo
trách nhiệm xã hội được chấp nhận. Ngoài ra, trách nhiệm xã hội được thực hiện trên
cơ sở tự nguyện và rất tốn kém. Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm tra mối quan hệ
tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và rủi ro công ty, và xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có
công bố trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội
ở một nước đang phát triển như Việt Nam. Theo đó, nhằm mục đích phát triển một
khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh Việt Nam, và phát triển
một chỉ số trách nhiệm xã hội để kiểm tra việc thực hành trách nhiệm xã hội và để đo
lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong các công ty
niêm yết Việt Nam.
Nội dung tiếp theo được trình bày như sau: mục 3.2, khung nghiên cứu sẽ được
xây dựng trong phần đầu của chương này; 3.3, thiết kế mẫu và thu thập dữ liệu; mục
3.4, thảo luận về việc đo lường trách nhiệm xã hội; mục 3.5, thảo luận về thước đo
hiệu quả tài chính và các biến kiểm soát; mục 3.6, thảo luận về việc đo lường trách
nhiệm xã hội và rủi ro công ty; mục 3.7, thảo luận về việc xem xét hiệu quả tài chính
giữa công ty có công bố trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách nhiệm xã
hội; mục 3.8, phương pháp nghiên cứu; mục 3.9, mô hình nghiên cứu và kiểm tra giả
thuyết. Cuối cùng, tóm tắt Chương 3.
3.2. Khung nghiên cứu
Các tài liệu về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
đã được kiểm tra trong Chương 2 của nghiên cứu này. Bốn khía cạnh trách nhiệm xã
58
hội được xem xét bao gồm: trách nhiệm với môi trường (CSR_env), với người lao
động (CSR_empl), với cộng đồng (CSR_com) và với sản phẩm/khách hàng
(CSR_prod). Hai khía cạnh của hiệu quả tài chính được đo lường bao gồm hai chỉ số
sau: tỷ số lợi nhuận/tổng tài sản (ROA), TBQ. Khung nghiên cứu đo lường mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty của nghiên cứu này
được thể hiện ở hình 3.1.
CSR_môi trường
Trách
Hiệu
Hình 3.1. Khung nghiên cứu
quả tài
Rủi ro
xã hội
chính
ty
(CSR)
(CFP)
(FR)
CSR_cộng đồng
CSR_sản phẩm
Biến kiểm soát
nhiệm công CSR_người LĐ
3.3. Thiết kế mẫu nghiên cứu và thu thập dữ liệu
Mẫu các công ty niêm yết được lựa chọn trong nghiên cứu này được chia thành
hai nhóm khác nhau gồm: (1) nhóm các công ty niêm yết có công bố CSR (trả lời cho
câu hỏi nghiên cứu 1, 2), (2) nhóm các công ty niêm yết không công bố CSR (trả lời
cho câu hỏi nghiên cứu 3). Điều kiện cụ thể để lựa chọn các công ty niêm yết cho mỗi
nhóm như sau:
Nhóm một, các công ty niêm yết có công bố CSR. Các công ty niêm yết để được
chọn vào mẫu nghiên cứu này, các công ty niêm yết Việt Nam được lựa chọn phải đáp
ứng hai tiêu chí: (i) các công ty phải có một bộ dữ liệu tài chính hoàn chỉnh trong báo
cáo thường niên trong 5 năm (2012 - 2016) để thu thập dữ liệu thứ cấp và đo lường
cho hai chỉ tiêu của hiệu quả tài chính; (ii) các công ty phải có công bố thông tin về
trách nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên hoặc có báo cáo bền vững riêng hoặc
website của họ để thu thập dữ liệu thứ cấp và phát triển chỉ số CSR. Trong trường hợp
công ty không có báo cáo bền vững riêng, nghiên cứu này sẽ sử dụng báo cáo thường
niên có công bố thông tin về trách nhiệm xã hội của công ty để xây dựng chỉ số. Sau
khi xem xét tổng thể các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
trong suốt giai đoạn nghiên cứu, nghiên cứu này nhận thấy rằng có khá nhiều công ty
59
niêm yết không đáp ứng được một trong hai tiêu chí trên và do đó bị loại khỏi mẫu
nghiên cứu. Vì vậy đây là nguyên nhân chính làm cho mẫu của nghiên cứu này bị giới
hạn và số lượng các công ty trong suốt giai đoạn nghiên cứu không đều nhau và không
có đầy đủ cho toàn bộ thị trường.
Nghiên cứu này chọn thời điểm nghiên cứu bắt đầu vào năm 2012 do đây là
thời điểm mà các công ty niêm yết Việt Nam chính thức tự nguyện đưa các nội dung
trách nhiệm xã hội vào báo cáo thường niên hoặc báo cáo bền vững theo yêu cầu của
UBCKNN vào năm 2012. Tuy nhiên, do số lượng công ty có báo cáo thông tin CSR
còn khá ít ở giai đoạn đầu nên ở mỗi giai đoạn thu thập dữ liệu thứ cấp về thông tin
CSR của các công ty niêm yết trong suốt giai đoạn nghiên cứu thì một số thông tin
trách nhiệm xã hội nghiên cứu này phải tổng hợp thêm từ các nguồn khác (websites
của công ty, HOSE, HNX). Bên cạnh đó, có khá ít các nghiên cứu thực nghiệm điều
tra mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính được thực hiện
trước đây có sử dụng dữ liệu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Vì vậy, mẫu cuối cùng cho nghiên cứu này ở dạng dữ liệu bảng không cân bằng
cụ thể được trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1: Mẫu các công ty niêm yết phân theo ngành có công bố trách nhiệm xã hội
Số CTNY có công bố CSR
TT
Ngành công nghiệp
2012
2013
2014
2015
2016
1 Hàng tiêu dùng thiết yếu
2
3
7
12
10
2 Chăm sóc sức khỏe
1
3
4
6
5
3 Năng lượng
0
3
4
5
4
4 Nguyên vật liệu
2
3
4
10
6
5
Tài chính
1
10
10
6
13
6 Bất động sản
0
2
4
9
6
7 Công nghệ thông tin
0
1
1
3
2
8 Hàng tiêu dung
1
3
3
10
6
9 Dịch vụ tiện ích
0
0
2
6
5
10 Công nghiệp
3
5
9
26
15
69
Tổng cộng
10
29
48
100
(Nguồn: Tác giả tổng hợp trên TTCK Việt Nam)
Tuy nhiên, như được đề cập do có khá ít các nghiên cứu sử dụng dữ liệu Việt
Nam để điều tra mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
60
nên quy mô mẫu được sử dụng cho nghiên cứu trước tương đối nhỏ. Ví dụ, Ho và
Yekini (2014) sử dụng 20 công ty lớn nhất niêm yết trên cả hai sàn chứng khoán Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho giai đoạn 3 năm (2010 – 2012). Do đó, sự tin cậy
của các kết quả có thể bị ảnh hưởng bởi quy mô mẫu nghiên cứu nhỏ (Cochran và
Wood, 1984; Klassen và McLaughlin, 1996; Cheung và cộng sự, 2010; Ferreira, 2010;
Petchareon và Janthimapornkij, 2010; Farook và cộng sự, 2010; Qian và cộng sự
2010). Cho nên để làm tăng sự tin cậy cho nghiên cứu này, mẫu nghiên cứu trong
nghiên cứu này sẽ bao gồm tất cả các công ty niêm yết có công bố thông tin trách
nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên hoặc báo cáo bền vững hoặc trên websites của
công ty không phân biệt công ty thuộc ngành tài chính hay phi tài chính, quy mô vốn
hóa thị trường của công ty lớn hay nhỏ qua giai đoạn 5 năm (2012 – 2016).
Quy trình nghiên cứu của nghiên cứu liên quan đến phân tích sơ bộ báo cáo
thường niên, báo cáo bền vững của các công ty niêm yết cho từng ngành để tìm hiểu
mức độ xuất hiện và tần suất thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết
Việt Nam.
Các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội được phân tích và kiểm tra
chặt chẽ. Tất cả các phần trong báo cáo thường niên sẽ được phân tích cẩn thận để ghi
nhận mức độ thực hành trách nhiệm xã hội. Các dữ liệu thứ cấp về CSR và hiệu quả
tài chính được thu thập bằng tay. Riêng các thông tin tài chính bao gồm các chỉ số tài
chính, báo cáo tài chính, hồ sơ công ty và dữ liệu thị trường được tổng hợp từ
webistes của công ty và từ hai sàn giao dịch chứng khoán (HOSE, HNX) từ năm 2012
đến 2016. Mặt khác, có một số công ty trong mẫu nghiên cứu cung cấp báo cáo
thường niên bằng cả hai thứ tiếng Anh và Việt Nam. Một số công ty niêm yết khác chỉ
cung cấp báo cáo thường niên bằng một trong hai ngôn ngữ Anh hoặc Việt Nam, để
đảm bảo tính đầy đủ và khả năng tiếp cận các dữ liệu, nghiên cứu này chỉ tập trung
vào các báo cáo thường niên sử dụng tiếng Việt. Nghiên cứu cũng không xem xét bất
kỳ báo cáo phát hành nào khác mà không liên quan đến mục tiêu nghiên cứu do các
công ty niêm yết Việt Nam phát hành.
3.4. Trách nhiệm xã hội (CSR)
Nhìn chung, có một vài phương pháp để đo lường các khía cạnh/phương diện
trách nhiệm xã hội. Cách đầu tiên chính là chỉ số danh tiếng, ví dụ như chỉ số danh
tiếng CEP (The Council of Economic Priorities), chỉ số danh tiếng Milton Moskowiz
61
và chỉ số danh tiếng Fortune. Theo phương pháp này thì thước đo trách nhiệm xã hội
đã được sử dụng trong một số các nghiên cứu trước đây như các nghiên cứu của
Cochran và Wood (1984), Pava và Krausz (1996), Griffin và Mahon (1997), Preston
và O’Bannon (1997), Waddock và Graves (1997), Stanwick và Stanwick (1998).
Phương pháp thứ hai để đo lường trách nhiệm xã hội là xếp hạng doanh nghiệp,
ví dụ như chỉ số Kinder, Lydenberg, và Domini index (KLD); chỉ số bền vững Dow
Jones (DJSI); Chỉ số báo cáo sáng kiến toàn cầu (GRI); và chỉ số xã hội Domini 400
(DSI). Một số nghiên cứu đã sử dụng phương pháp xếp hạng doanh nghiệp, bao gồm
các nghiên cứu của Orlitzky và Benjamin (2001), Orlitzky và cộng sự (2003), Moneva
và Ortas (2008), Choltens (2008), Nelling và Webb (2009), Peters và Mullen (2009),
Byus và cộng sự (2010), Garcia-Castro và cộng sự (2010), Karagiorgos (2010),
Oeyono và cộng sự (2010), và Inoue và Lee (2011).
Phương pháp thứ ba để đánh giá trách nhiệm xã hội là phương pháp khảo sát.
Trong phương pháp này, một số nhà nghiên cứu đã thực hiện trong một vài lĩnh vực
nghiên cứu bằng việc sử dụng bảng câu hỏi và các kỹ thuật khảo sát khác nhau để xây
dựng chỉ số trách nhiệm xã hội (Aupperle và cộng sự, 1985; Ngwakwe, 2009; Mishra,
2010; Tilakasiri, 2012). Phương pháp này gặp một số bất lợi đó là tốn nhiều chi phí và
lãng phí thời gian.
Phương pháp cuối cùng để đo lường trách nhiệm xã hội là phân tích nội dung
của dữ liệu thứ cấp. Rất nhiều các nghiên cứu đã áp dụng phương pháp này để phân
tích mức độ các hoạt động trách nhiệm xã hội của các công ty đại chúng, đặc biệt là
trong các BCTN của chúng. Phân tích nội dung được sử dụng rộng rãi bởi Moore
(2001), Van de Velde và cộng sự (2005), Murray và cộng sự (2006), Fiori và cộng sự
(2007), Jones và cộng sự (2007), Mittal và cộng sự (2008), Abdul Rahman và cộng sự
(2009), Kimbro và Melendy (2010), Bnouni (2011), Crisostomo và cộng sự (2011),
Ehsan và Kaleem (2012).
Mỗi phương pháp để đo lường trách nhiệm xã hội đều có ưu điểm và nhược
điểm. Đầu tiên, khi sử dụng thước đo chỉ số danh tiếng có nhiều nhược điểm. Ví dụ,
thước đo hiệu quả xã hội (CSP) sử dụng chỉ số KLD được thảo luận bởi Mahoney và
Thorn (2006). Cochran và Wood (1984) cho rằng bảng xếp hạng rất chủ quan và kết
quả có thể là khác biệt, phụ thuộc vào số quan sát và điều này có thể dẫn đến sự thiếu
nhất quán trong kết quả. Một nhược điểm khác của phương pháp này là phương pháp
62
chỉ số danh tiếng cho đến nay chỉ bao gồm bộ dữ liệu nghiên cứu tương đối nhỏ. Cho
nên phương pháp này không đáng tin cậy vì chỉ có một số lượng nhỏ các công ty được
sử dụng để tạo ra chỉ số. Hơn nữa, Chatterji và cộng sự (2009) cho rằng giá trị KLD
đối với hệ thống quản lý bị giới hạn. McGuire và cộng sự (1988), Griffin và Mahon
(1997) cũng tranh luận rằng việc đánh giá tỷ số Fortune có thể bị sai lệch bởi vì các
khía cạnh trách nhiệm xã hội không được định nghĩa rõ ràng. Điều này có thể ảnh
hưởng lên kết quả nghiên cứu.
Unerman (2000) đã xác định mức độ quan trọng của việc sử dụng phân tích nội
dung là để đo lường các khía cạnh trách nhiệm xã hội. Phương pháp này chỉ tập trung
vào số và chữ, không quan tâm đến đồ họa, phông chữ và các hình ảnh khác nhau của
các hoạt động trách nhiệm xã hội. Milne và Adler (1999) nhận thấy rằng tính minh
bạch của một kỹ thuật phân loại thì quan trọng hơn là đo lường. Không có một tiêu
chuẩn toàn cầu của phân tích nội dung được thực hiện để đánh giá độ tin cậy của trách
nhiệm xã hội. Guthrie và Abeysekera (2006), Guthrie và cộng sự (2004), Cochran và
Wood (1984) đã thảo luận những giới hạn của phương pháp phân tích nội dung, và đề
nghị rằng phương pháp này cần tập trung vào thực tiễn thực hành trách nhiệm xã hội
hơn là chính sách của trách nhiệm xã hội. Phương pháp này cũng mang tính chất chủ
quan. Phân tích nội dung không nắm bắt được chất lượng báo cáo về trách nhiệm xã
hội. Wilmshurst (2000) đã chỉ ra rằng một sự giải thích dựa vào phân tích nội dung có
thể không đáng tin cậy. Chất lượng của trách nhiệm xã hội có thể không được đánh
giá rõ ràng nếu chỉ sử dụng số lượng chữ để đánh giá thực hiện trách nhiệm xã hội.
Như vậy trách nhiệm xã hội và đo lường trách nhiệm xã hội đã được rất nhiều
nghiên cứu khảo sát, xác định dưới nhiều hình thức khác nhau, với nhiều cách đo
lường khác nhau. Tuy nhiên, mỗi cách đo lường chỉ phản ánh một phương diện nào đó
của trách nhiệm xã hội, coi phương diện đó là biến đại diện cho trách nhiệm xã hội.
Nghiên cứu này đề xuất một cách tiếp cận khác, kết hợp “Hướng dẫn GRI-4” và
nghiên cứu của Amran (2015) thông qua phân tích nội dung để xây dựng các tiêu chí
trách nhiệm xã hội liên quan đến bốn nhóm trách nhiệm gồm trách nhiệm với môi
trường, với người lao động, với cộng đồng và với sản phẩm, sau đó, tiến hành chấm
điểm các tiêu chí trách nhiệm xã hội từ đó phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội như các
nghiên cứu trước đã được thực hiện ở các nước đang phát triển.
63
Lý do nghiên cứu này chọn việc kết hợp các tiêu chí trách nhiệm xã hội từ
hướng dẫn GRI4 và Amran (2015): mặc dù việc thực hiện báo cáo bền vững ở Việt
Nam là tự nguyện, để nâng cao độ tin cậy của thông tin trách nhiệm xã hội thì các báo
cáo về trách nhiệm xã hội của các công ty nêm yết cần tuân thủ theo một vài tiêu
chuẩn tự nguyện (UN Global Impact, ISO 26000, ISO 14000, SA 8000…) hay tiêu
chuẩn đang được áp dụng phổ biến là hướng dẫn GRI (Global Reporting Initiative,
gồm 13 chỉ số kinh tế, 35 chỉ tiêu môi trường và 49 chỉ tiêu xã hội). Như vậy, GRI
cung cấp các hướng dẫn và hỗ trợ cho những công ty muốn công khai các hoạt động
trách nhiệm xã hội của họ và các biện pháp phát triển bền vững (Brown và cộng sự,
2007).
Hiện nay, có hơn 31,000 công ty tại 35 quốc gia đã chấp thuận sử dụng theo
hướng dẫn của GRI. Có thể thấy hướng dẫn GRI là báo cáo tiêu chuẩn được áp dụng
nhiều nhất ngày nay, GRI vẫn còn nhiều vấn đề và thiếu sót mà tổ chức xây dựng bộ
tiêu chí của hướng dẫn này đang cố gắng khắc phục. Mặt khác, việc đo lường các hoạt
động CSR luôn là vấn đề gây tranh cãi lâu dài, cũng như không có công thức “cố
định” trong việc xác định các hoạt động trách nhiệm xã hội (Xem Báo cáo doanh
nghiệp, 2006). Vì vậy, khi các tổ chức ở các nước đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng áp dụng bộ tiêu chí trong hướng dẫn GRI vào việc đánh giá các hoạt
động trách nhiệm xã hội thì các tổ chức luôn cố gắng để đảm bảo rằng họ có thể đáp
ứng được nhiều tiêu chí trách nhiệm xã hội nhất có thể theo khuôn khổ GRI - nghĩa là
có khá nhiều các tiêu chí đánh giá CSR mà các công ty ở các nước sử dụng hướng dẫn
GRI không thể thực hiện được đầy đủ hay nói cách khác là có khá nhiều tiêu chí
không phù hợp với bối cảnh của nước áp dụng hướng dẫn GRI; ngoài ra, hướng dẫn
để xác định và đo lường các tiêu chí trách nhiệm xã hội trong GRI giải thích tương đối
khó hiểu và phức tạp đối với tổ chức khi áp dụng, do vậy thường thì các công ty có
khuynh hướng báo cáo theo cách riêng của họ nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu về
mặt pháp lý và quy định ở nước sở tại về lĩnh vực trách nhiệm xã hội (ví dụ, ở Việt
Nam chỉ có Tập đoàn Bảo Việt, công ty sữa Vinamilk là hai công ty được xem là có
báo cáo bền vững độc lập đảm bảo đáp ứng đầy đủ các tiêu ch theo hướng dẫn GRI).
Chính vì hạn chế trong việc áp dụng bộ tiêu chí của hướng dẫn GRI vào Việt Nam,
nghiên cứu này sẽ không sử dụng hoàn toàn bộ tiêu chí trong GRI4 để phát triển chỉ
số trách nhiệm xã hội mà sẽ kết hợp một số tiêu chí trong hướng dẫn GRI4 có nội
64
dung phù hợp với các công ty niêm yết Việt Nam với các tiêu chí trong nghiên cứu
của Amran (2015) thông qua phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số
trách nhiệm xã hội phù hợp với bố cảnh của các công ty niêm yết Việt Nam (xem phụ
lục 1b).
Quy trình phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội (đo lường trách nhiệm xã hội)
của các công ty niêm yết trong mẫu, thực hiên qua bốn bước sau:
3.4.1. Bước một – Lựa chon chủ đề cho các khía cạnh trách nhiệm xã hội
Qua tổng quan tài liệu đã khẳng định rằng các hoạt động trách nhiệm xã hội
đang được thực hiện bởi các công ty niêm yết Việt Nam. Tuy nhiên, các tài liệu cũng
cho thấy rằng chưa có một khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội thống nhất ở Việt
Nam để hướng dẫn các công ty niêm yết thực hành các hoạt động trách nhiệm xã hội.
Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng báo cáo thường niên để thu thập dữ liệu về trách
nhiệm xã hội (Wiseman, 1982; Gutherie và Petty, 2000; Oxibar, 2003; Singh và
Kansal, 2011) thông quan phân tích nội dung để xác định chủ đề cho các khía cạnh
hoạt động trách nhiệm xã hội từ đó xây dựng bảng câu hỏi các tiêu chí trách nhiệm xã
hội cho nghiên cứu. Kết quả, xác định được bốn chủ đề liên quan đến việc thực hành
trách nhiệm xã hội ở Việt Nam.
3.4.1.1. Phân tích nội dung
Phân tích nội dung được sử dụng để phân tích mức độ thực hiện trách nhiệm xã
hội của một công ty. Phân tích nội dung BCTN là phương pháp mã hóa các thông tin
định tính và định lượng vào các nhóm khác nhau. Nó được sử dụng rộng rãi trong các
tài liệu trách nhiệm xã hội để xác định các đặc điểm thực hành trách nhiệm xã hội
(Gray và cộng sự, 1995a; Krippendorff, 2004; Guthrie và Abeysekera, 2006; Guthrie
và Farneti, 2008). Có một số phương pháp để mã hóa dữ liệu về định lượng, chẳng
hạn như đếm số lượng chữ (Zeghal và Ahmed, 1990; Deegan và Gordon, 1996;
Wilmshurst và Frost, 2000; Haniffa và Cooke, 2002, 2005; Ratanajongkon và cộng sự,
2006; Islam và Deegan, 2008; Rashid và Lodh, 2008; Islam và Deegan, 2010; Kimbro
và melendy, 2010), số lượng câu (Hackston và Milne, 1996; Tsang, 1998; Milne và
Adler, 1999; Deegan và cộng sự, 2000; Ahmad và Sulaiman, 2004; Chatterjee và Mir,
2008; Murphy và Abeysekera, 2008; Aras và cộng sự, 2010; Azim, 2010; Khemir và
Baccouche, 2010; Saleh và cộng sự, 2010; Vurro và Perrini, 2011), số đoạn và tỷ lệ
65
của một trang giấy (Gray và cộng sự, 1995a; Adams và cộng sự, 1998; Belal, 2000;
Unerman, 2000; Tilt, 2001).
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đã xác định rằng độ tin cậy của phân tích nội
dung là tương đối thấp (Milne và Adler, 1999), độ tin cậy và tính hợp lệ của nội dung
phân tích cần phải được xem xét (Unerman, 2000). Người ta còn tranh luận rằng kỹ
thuật đo lường cần được thảo luận (Tilt, 1995, Gray và cộng sự, 1995a). Ví dụ, sự chỉ
trích đối việc sử dụng tỷ lệ của các trang giấy là có sự khác biệt trong phông chữ,
chiều rộng lề, số lượng và kích thước của các bức hình và đồ họa trong báo cáo
thường niên. Báo cáo thường niên của các công ty có sự khác nhau lớn về chất lượng
và định dạng (Hackston và Milne, 1996). Theo Unerman (2000), kết quả đánh giá của
việc sử dụng phương pháp đếm câu có thể sẽ thấp hơn so với việc đánh giá số lượng
chữ và tỷ lệ trang giấy. Sự khác nhau trong việc sử dụng phương pháp đếm chữ để đo
lường việc công bố trách nhiệm xã hội là khó, vì việc kiểm tra câu, đếm từ không thể
hiện được ý nghĩa của bối cảnh (Tilt, 1994; Milne và adler, 1999). Bởi vì có sự giới
hạn trong việc sử dụng trang và số trang, nghiên cứu này sử dụng phân tích nội dung
bằng việc xây dựng bảng tiêu chí cho trách nhiệm xã hội để thiết lập các chỉ số trách
nhiệm xã hội nhằm kiểm tra các khía cạnh khác nhau của việc thực hành trách nhiệm
xã hội ở Việt Nam.
3.4.1.2. Quy trình phân tích nội dung
Krippendorff (1980) không đồng ý với quan điểm cho rằng phân tích nội dung
là những gì mỗi người chúng ta có thể làm trong việc đọc tờ báo buổi sáng, và ông đã
xác định rõ ràng nó là một quy trình khoa học khác nhau giữa các quy luật khi sử
dụng. Các kỹ thuật phân tích này tạo điều kiện cho các mô tả về các nội dung rõ ràng
và/hoặc tiềm ẩn của thông tin bằng cách đo lường tần số, trật tự, hoặc cường độ xuất
hiện của từ, cụm từ, hoặc câu (Krippendorff, 1980; McLaughlin và Marascuilo, 1990;
Weber, 1985). Theo Weber (1985), "Các quy tắc của quá trình suy luận này thay đổi
tùy theo lý thuyết và mối quan tâm thực tế của các điều tra viên". Mặc dù không có bộ
quy tắc và thủ tục chung, phương pháp nghiên cứu phân tích nội dung thường bao
gồm các bước sau đây:
1. Lựa chọn các đơn vị phân tích,
2. Hình thành và xác định các thể loại/chủ đề,
3. Kiểm tra trước các định nghĩa và các quy tắc,
66
4. Đánh giá độ tin cậy và tính hợp lệ,
5. Sửa đổi các quy tắc mã hóa nếu cần thiết,
6. Kiểm tra trước các chương mục sửa đổi,
7. Mã hóa tất cả các dữ liệu,
8. Đánh giá lại độ tin cậy và tính hợp lệ.
3.4.1.3. Lựa chọn chủ đề/câu hỏi phân tích nội dung
Bước này là vô cùng quan trọng bởi vì những chủ đề được chọn sẽ cung cấp tất
cả các thông tin cần thiết để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu. Vì vậy, trước hết cần
phải xác định những chủ đề nào phù hợp với bối cảnh Việt Nam để đưa vào trong mẫu
khảo sát của nghiên cứu.
Các chủ đề trong bảng câu hỏi phân tích nội dung được thiết lập xoay quanh
bốn lĩnh vực đã được xác định dựa trên các nghiên cứu trước được thực hiện bởi Gray
và cộng sự (1995a), Hackston và Milne (1996), Kuasirikun và Sherer (2004), Hossain
và cộng sự (2006), Aras và cộng sự (2010), Islam và Deegan (2010), Amran (2015) và
hướng dẫn GRI4, và tất cả chúng được thu thập từ báo cáo thường niên của các công
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam thuộc mười ngành công nghiệp
khác nhau đại diện cho mối quan hệ với các bên liên quan khác nhau. Sau đó, các
thông tin liên quan trách nhiệm xã hội được tổng hợp và sắp xếp thành ba nhóm: vị trí,
chủ đề và hình thức của báo cáo trách nhiệm xã hội. Các chủ đề công bố thông tin
trách nhiệm xã hội được dựa vào trách nhiệm với môi trường, với người lao động, với
cộng đồng và với sản phẩm. Các hình thức công bố thông tin trách nhiệm xã hội bao
gồm trần thuật và/hoặc hình ảnh, và trần thuật gồm dữ liệu tiền tệ. Ngoài ra, phần báo
cáo của chủ tịch hội đồng quản trị, tổng quan hoạt động, phần quản trị doanh nghiệp,
phần báo cáo về trách nhiệm xã hội và các phần khác trong báo cáo thường niên cũng
đều được kiểm tra kỹ lưỡng.
3.4.2. Bước hai – Xây dựng bảng câu hỏi cho các tiêu chí trách nhiệm xã hội
thành phần
Theo Hackston và Milne (1996), Haniffa và Cooke (2002, 2005), Hossian và
cộng sự (2006), Islam (2009), Peters và Mullen (2009), Azim (2009), và Saleh và
cộng sự (2009) việc xây dựng bảng câu hỏi cho các hoạt động trách nhiệm xã hội giúp
có được cái nhìn tổng quan về các khía cạnh của hoạt động trách nhiệm xã hội, cụ thể
67
trong nghiên cứu này tiêu chí trách nhiệm xã hội liên quan bốn khía cạnh: môi trường,
người lao động, cộng đồng và sản phẩm.
Sau đó, bảng câu hỏi này được kiểm tra trước bằng việc khảo sát các báo cáo
thường niên của các công ty niêm yết Việt Nam. Tiếp theo, dựa vào kết quả khảo sát
của bảng câu hỏi này, tổng hợp được tổng số 23 tiêu chí trách nhiệm xã hội (Amran,
2015 và hướng dẫn GRI4) liên quan từng khía cạnh trách nhiệm xã hội và được lưu lại
theo bốn nhóm gồm: trách nhiệm với môi trường (8 tiêu chí), với người lao động (6
tiêu chí), với cộng đồng (5 tiêu chí), và với sản phẩm (4 tiêu chí). Các tiêu chí cụ thể
của mỗi khía cạnh trách nhiệm xã hội được lựa chọn cẩn thận vì tất cả các tiêu chí này
được xem là phù hợp và cần thiết đối với việc thực hành trách nhiệm xã hội trong bối
cảnh Việt Nam.
Các tiêu chí trong việc lựa chọn dữ liệu trước khi kiểm tra được tổng hợp từ
báo cáo thường niên của các công ty niêm yết khác nhau không phân biệt mức độ vốn
hóa thị trường cao hay thấp. Trong phân tích mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội của
các công ty niêm yết, báo cáo thường niên là dữ liệu chủ chốt (chỉ có ba công ty niêm
yết có báo cáo phát triển bền vững riêng biệt gồm VNM, BVH, PVD; hai công ty
niêm yết có website về nội dung trách nhiệm xã hội là HAG, TCM). Cuối cùng bảng
câu hỏi các tiêu chí trách nhiệm xã hội được sử dụng để phân tích mức độ thực hiện
trách nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên của một công ty. Để làm tăng giá trị và
phạm vi cho các chủ đề và khía cạnh công bố trách nhiệm xã hội, đầu tiên báo cáo
thường niên được phân tích bằng cách đọc tất cả các phần trong báo cáo. Sau đó dùng
công cụ tìm kiếm để kiểm tra tính hợp lệ và đầy đủ của từng thuật ngữ trách nhiệm xã
hội được công bố bằng việc sử dụng một số từ khóa ví dụ như lợi ích của người lao
động, môi trường, nước thải, quyên góp, tiết kiệm năng lượng v.v…
3.4.3. Bước ba – Tính toán chỉ số trách nhiệm xã hội
Giai đoạn này được thiết kế với mục đích chính cho việc phát triển chỉ số trách
nhiệm xã hội để đo lường dữ liệu bằng cách sử dụng phương pháp định lượng để kiểm
tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Chỉ số trách nhiệm
xã hội đã được tính toán dựa trên các thông tin được công bố bởi các công ty niêm yết
thông qua BCTN của họ. Các bước phát triển của chỉ số trách nhiệm xã hội sẽ được
thảo luận dưới đây.
3.4.3.1. Quy trình
68
Chỉ số trách nhiệm xã hội được phát triển qua ba bước. Bước đầu tiên, lựa chọn
các thuật ngữ tin cậy (Cooke, 1989; Marston và Shrives, 1991). Bước thứ hai, tỷ trọng
các thuật ngữ xuất hiện trong chỉ số. Cerf (1961, trích dẫn trong Marston và Shrives,
1991) xem xét lại tỷ trọng bằng cách kiểm tra các tài liệu và khảo sát tài liệu kế toán
đã được chấp nhận. Bước cuối cùng, tính toán điểm chỉ số. Buzdy (1974) và Wiseman
(1982) cho rằng việc tính toán chỉ số là một nhiệm vụ khó khăn. Các nhà nghiên cứu
có thể sử dụng các thuật ngữ được công bố của công ty để phát triển chỉ số trách
nhiệm xã hội, nhưng các thuật ngữ không được công bố liệu có liên quan hay không
liên quan đến chỉ số. Do đó, họ đã quyết định đọc tất cả các thuật ngữ có trong báo
cáo thường niên để làm cho báo cáo hợp lệ về việc liệu một thuật ngữ đã được hoặc
không được công bố có hoặc không có liên quan đến công ty.
3.4.3.2. Phương pháp không trọng số
Một vài kỹ thuật đã được sử dụng để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội trong
các nghiên cứu trước. Trong nghiên cứu này, phương pháp chỉ số công bố thông tin
không trọng số (Haniffa và Cooke, 2002, 2005; Saleh và cộng sự, 2010; Rouf, 2011)
được sử dụng để đo lường mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội như là một
biến nhị phân. Tương tự các nghiên cứu thực nghiệm trước đó về trách nhiệm xã hội,
quy ước CSR = 1 có sự hiện diện của thông tin trách nhiệm xã hội trong BCTN và
ngược lại CSR = 0 (Gujarati, 2009). Tổng điểm trách nhiệm xã hội từng thành phần
bằng điểm trung bình của tất cả các câu hỏi trong thành phần đó, còn tổng điểm của
chỉ số trách nhiệm xã hội tổng của từng công ty sẽ là điểm trung bình của 4 chỉ số
trách nhiệm xã hội thành phần trên (Branco & Rodrigues, 2006; Haniffa & Cooke,
𝐤 𝐢=𝟏
2002). Các chỉ số trách nhiệm xã hội được tính theo công thức sau:
𝟒 𝐢=𝟏
(𝟏) 𝐂𝐡ỉ 𝐬ố 𝐂𝐒𝐑 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐩𝐡ầ𝐧𝐢𝐣 = ∑ 𝐜𝐬𝐫𝐢𝐣 𝐧𝐢𝐣
(𝟐) 𝐂𝐡ỉ 𝐬ố 𝐂𝐒𝐑 𝐭ổ𝐧𝐠𝐢𝐣 = ∑ 𝐭ổ𝐧𝐠 𝐂𝐒𝐑 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐩𝐡ầ𝐧𝐢𝐣 𝟒
Trong đó:
CSRij: chỉ số trách nhiệm xã hội tổng và các chỉ số trách nhiệm xã hội thành
phần của công ty thứ j (0 ≤ CSRj ≤ 1)
csrij bằng 1 nếu thông tin về tiêu chí trách nhiệm xã hội thứ i của công ty thứ j
có thông tin công bố, ngược lại bằng 0.
69
nij: số lượng câu hỏi kỳ vọng thứ i đối với công ty j (n = 1,..., k).
i: số lượng các khía cạnh trách nhiệm xã hội kỳ vọng đối với một công ty
3.4.4. Bước bốn - Chấm điểm chéo chỉ số trách nhiệm xã hội tổng và các chỉ số
trách nhiệm xã hội thành phần.
Các chỉ số trách nhiệm xã hội sẽ được hai nhóm trợ lý độc lập thực hiện. Cụ
thể, hai nhóm độc lập này gồm bốn bạn sinh viên năm ba thuộc hai ngành Quản trị
kinh doanh và Tài chính – Ngân hàng của trường Cao đẳng Miền Nam thực hiện. Lý
do cho việc chọn hai nhóm độc lập này: (i) tạo độ tin cậy cho chỉ số trách nhiệm xã
hội, do chỉ số trách nhiệm xã hội được phát triển trong nghiên cứu này không được
kiểm định hay đánh giá bởi một tổ chức uy tín như các chỉ số trách nhiệm xã hội đã
phát triển ở các nước phát triển; (ii) tạo tính khách quan cho chỉ số trách nhiệm xã hội,
vì với hai chuyên ngành khác nhau hai nhóm sẽ có nhận thức khác nhau đối với các
nội dung đặt ra cho các tiêu chí trách nhiệm xã hội trong quá trình chấm cũng như thu
thập các thông tin thứ cấp về trách nhiệm xã hội từ báo cáo thường niên của các công
ty niêm yết.
Nhóm thứ nhất (hai sinh viên ngành Tài chính – Ngân hàng) thực hiện phân
tích nội dung và chấm điểm các tiêu chí trách nhiệm xã hội, nhóm thứ hai (hai sinh
viên ngành Quản trị kinh doanh) tiến hành chấm lại để kiểm tra chéo kết quả của
nhóm thứ nhất. Nếu kết quả của 2 nhóm khác biệt bằng hoặc nhỏ hơn 0.5% thì sử
dụng kết quả của nhóm thứ 1, nếu kết quả khác biệt trên 0.5% thì sẽ tiến hành chấm
điểm lại lần thứ ba và chọn kết quả chấm điểm các tiêu chí trách nhiệm xã hội lần thứ
ba làm kết quả cuối cùng cho chỉ số trách nhiệm xã hội.
Sau khi hai nhóm hoàn thành việc chấm điểm các tiêu chí trách nhiệm xã hội.
Bước tiếp theo, tác giả và hai nhóm trợ lý tiến hành tổng hợp, kiểm tra và so sánh kết
quả chấm từ hai nhóm trợ lý. Từ kết quả so sánh cho thấy sự sai lệch về kết qủa chấm
điểm các tiêu chí trách nhiệm xã hội đảm bảo yêu cầu đặt ra (không có mã chứng
khoán nào có điểm các tiêu chí trách nhiệm xã hội lớn hơn 0.5%), mặc dù vẫn có một
số mã chứng khoán có kết quả chấm khác nhau giữa hai nhóm nhưng sự khác biệt cao
nhất giữa hai nhóm là 0.5%. Do đó, dự vào kết quả tổng hợp, nghiên cứu này chọn kết
quả của nhóm thứ nhất làm kết quả cuối cùng cho việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã
hội (xem phụ lục 1e).
3.5. Hiệu quả tài chính (CFP) và các biến kiểm soát
70
3.5.1. Hiệu quả tài chính
Các nghiên cứu trước đã sử dụng cả hai thước đo dựa vào kế toán (ROA, net
profit margin – NPM) và thước đo dựa trên thị trường (TBQ) (Cocharan và Wood,
1984; Griffin và Mahon, 1997) như là công cụ để đo lường hiệu quả tài chính.
McGuire và cộng sự (1988) cho rằng thước đo dựa vào kế toán sẽ dự báo trách nhiệm
xã hội hiệu quả hơn so với với thước đo dựa trên thị trường. Mặt khác, Karagiorgos
(2010) nhận thấy thước đo dựa trên thị trường cho thấy mối tương quan dương và có ý
nghĩa với trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, Elijido-Ten (2004) tranh luận là không có
mối quan hệ có ý nghĩa giữa mức độ thực hành trách nhiệm xã hội với cả hai thước đo
dựa vào kế toán và dựa trên thị trường. Ngoài ra Griffin và Mahon (1997) nhận xét
rằng các thước đo hiệu quả tài chính khác nhau được sử dụng trong các nghiên cứu
trước đã không được xác minh khi đánh giá giá trị và sự tin cậy của chúng. Griffin và
Mahon (1997) cho rằng các nghiên cứu mới nên sử dụng một vài chỉ số hiệu quả tài
chính quan trọng để làm tăng giá trị và sự tin cậy của các thước đo. Saleh và cộng sự
(2011) cũng phát hiện rằng mối quan hệ giữa các thước đo hiệu quả tài chính khác
nhau và trách nhiệm xã hội là không thể dự báo. Hơn nữa, Scholtens (2008) đã chỉ ra
rằng cả hai thước đo dựa vào kế toán và dựa trên thị trường có thể mở rộng sự bất lợi
trong việc xác định hiệu quả tài chính trong các lĩnh vực khác nhau.
Theo Hoskisson và cộng sự (1993), Reverte (2009), nghiên cúu sử dụng một
thước đo dựa vào kế toán và một thước đo dựa trên thị trường để kiểm tra mối quan hệ
với trách nhiệm xã hội. Hai chỉ số đại diện cho hiệu quả tài chính đó là ROA, TBQ
(Waddock và Graves, 1997; McWilliams và Siegel, 2000; Hossain và cộng sự, 2006;
Peters và Mullen, 2009; Choi và cộng sự, 2010; Khemir và Baccouche, 2010). Việc
chọn hai chỉ số hiệu quả tài chính này bởi vì chúng là những thước đo được thực hành
nhiều nhất để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
trong các nghiên cứu trước. Các chỉ số này bao gồm vấn đề khả năng sinh lời, cấu trúc
tài chính, giá cổ phiếu sẽ được sử dụng trong nghiên cứu để giải thích cho hiệu quả tài
chính. Hai thước đo hiệu quả tài chính được mô tả như sau:
3.5.1.1. Tỷ số lợi nhuận/tài sản (ROA)
ROA là thước đo lợi nhuận cơ bản được sử dụng để đo lường hiệu quả tài chính
của công ty hoặc để đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận liên quan đến tài sản của công
ty. Aupperle và cộng sự (1985) cho rằng thước đo lợi nhuận (ROA) được sử dụng
71
rộng rãi và tạo ra hiệu quả hơn so với các thước đo tài chính khác. Các nghiên cứu
khác đã sử dụng ROA như là thước đo hiệu quả tài chính để khám phá mối quan hệ
giữa ROA và trách nhiệm xã hội (Aupperle và cộng sự, 1985; Stanwick và Stanwick,
1998; McWilliam và Siegle, 2000; Peters và Mullen, 2009; Salam, 2009; Crisostomo
và cộng sự, 2011; Soana, 2011b; Ehsan và Kaleem, 2012). Hệ số tương quan giữa
trách nhiệm xã hội và ROA được phát hiện là dương bởi McGuire và cộng sự (1988),
Pava và Krausz (1996), Griffin và Mahon (1997), Preston và O;Bannon (1997),
Waddock và Graves (1997), Simpson và Kohers (2002), Van de Velde và cộng sự
(2005), Mahoney và cộng sự (2008), Peters và Mullen (2009), Moneva và Ortas
(2010), Oeyono và cộng sự (2011). Tuy nhiên, Aupperle và cộng sự (1985),
McWilliam và Siegle (2000), Abdul Rahman và cộng sự (2009), Dragomir (2010)
không tìm thấy mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và ROA.
Aras và cộng sự (2010) không tìm thấy bất cứ mối quan hệ nào giữa trách
nhiệm xã hội và ROA. Họ cho rằng hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế của các
công ty không thể có mối quan hệ chặt chẽ nào với trách nhiệm xã hội, đặc biệt là ở
các nước đang phát triển. Dragomir (2010) nhận thấy rằng mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong một năm là rất yếu so với mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính khi xét trong dài hạn, chẳng hạn như ở giai
đoạn 5 năm hoặc 10 năm.
Do đó, nghiên cứu này, ROA được xem như là thước đo lợi nhuận. ROA được
tính bằng lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (Cochran và Wood, 1984; Waddock và
Graves, 1997; Korathotage, 2012; Wu và Shen, 2013).
3.5.1.2. Tobin’q (TBQ)
TBQ được sử dụng như là biến đại diện cho giá trị thị trường của tài sản công
ty. Nếu giá trị của TBQ nằm trong khoảng giữa 0 và 1, nó chỉ ra rằng chi phí tái sản
xuất (the reproduction cost) của tài sản công ty cao hơn giá cổ phiếu. Ngược lại, nếu
giá trị TBQ > 1 thì nó cho biết rằng giá cổ phiếu lớn hơn chi phí thay thế (the
replacement cost) của tài sản công ty. Hoskisson và cộng sự (1993) đưa ra lý do chọn
TBQ, vì mối quan hệ giữa hiệu quả dựa vào kế toán và hiệu quả dựa trên thị trường thì
khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ gián tiếp với nhau. Tuy nhiên, Dibvig
và Warachka (2011) cho rằng TBQ có thể tăng hoặc giảm với hiệu quả tài chính,
nhưng hiệu quả tài chính thấp không được đại diện bởi một TBQ cao. Các nghiên cứu
72
thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và TBQ dường như là không
chắc chắn. Một số nghiên cứu cho thấy có mối tương quan dương và có ý nghĩa giữa
trách nhiệm xã hội và TBQ (Fombrun và Shanley, 1990; Brown và Perry, 1994;
Dowell và cộng sự, 2000; King và Lenox, 2001; Cheung và cộng sự, 2010; Saleh và
cộng sự, 2011). Ngược lại, Garcia-Castro và cộng sự (2010) đã đưa ra bằng chứng
tương lai về những hưởng mà mối tương quan âm giữa TBQ và trách nhiệm xã hội
dựa trên mô hình fixed-effect. Các phát hiện của Inoue và Lee (2011) cho rằng mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và TBQ trong bốn ngành công nghiệp (hàng không,
sòng bạc, khách sạn và nhà hàng) là một kết quả hỗn hợp. Ví dụ, TBQ được tìm thấy
có mối quan hệ cùng chiều với khía cạnh người lao động và sản phẩm của trách nhiệm
xã hội cho ngành công nghiệp hàng không; với khía cạnh cộng đồng, khía cạnh đa
dạng hóa và sản phẩm của trách nhiệm xã hội cho ngành công nghiệp khách sạn; và
với khía cạnh cộng đồng của trách nhiệm xã hội cho ngành công nghiệp nhà hàng.
Tương tự, Schreck (2011) cho rằng TBQ cho thấy mối tương quan âm với khía cạnh
trách nhiệm xã hội về sản phẩm và khách hàng.
Trong các quan điểm khác nhau ở các nghiên thực nghiệm cứu trước, TBQ rất
hữu dụng để điều tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và TBQ cho các công ty
niêm yết Việt Nam. TBQ được định nghĩa cho mục đích của nghiên cứu này là tỷ số
giữa giá trị thị trường của công ty bằng (nợ ngắn hạn + nợ dài hạn + vốn hóa thị
trường)/giá trị sổ sách của tổng tài sản công ty (Oba, 2009; Cheung và cộng sự, 2010;
Dragomir, 2010; Saleh và cộng sự, 2011; Zhang và Gu, 2012; Ghelli, 2013; Li và
cộng sự, 2013).
3.5.2. Các biến kiểm soát
Nhiều tranh luận trong một vài nghiên cứu (Ullmann, 1985; Griffin và Mahon,
1997; Waddock và Graves, 1997; McWilliam và Siegel, 2000; Clarkson và cộng sự,
2011) là mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính bị ảnh hưởng bởi
một số nhân tố như quy mô công ty, ngành và tuổi công ty. Các nghiên cứu trước đã
cho thấy mối quan hệ giữa quy mô công ty, ngành và tuổi công ty với việc thực hành
trách nhiệm xã hội (Waddock và Graves, 1997; Murray và cộng sự, 2006; Jones và
cộng sự, 2007; Prado-Lorenzo và cộng sự, 2008; Peters và Mullen, 2009; Kimbro và
Melendy, 2010; Bnouni, 2011; Crisóstomo và cộng sự, 2011; Inoue và Lee, 2011;
Michelon, 2011). Gần đây, Boesso và Kumar (2007) cho rằng việc thực hành trách
73
nhiệm xã hội có liên quan đến quy mô công ty, vì một công ty có quy mô lớn được kỳ
vọng bởi các nhóm bên liên quan là đem lại nhiều hiệu quả cho các hoạt động xã hội
hơn so với các công ty có quy mô nhỏ. Dowell và cộng sự (2000) tranh luận, quy mô
công ty có liên quan với tiêu chuẩn môi trường. Các công ty lớn quan tâm nhiều hơn
về hình ảnh xã hội của họ bởi vì sản phẩm của một số công ty lớn có thể tạo ra những
hình ảnh xấu trong mắt cộng đồng nếu họ phát thảy nhiều khí gas gây ô nhiễm, v.v…
những hành động này có thể gây nguy hiểm cho cộng đồng. Jones và cộng sự (2007)
cho rằng nhóm ngành và các biến kiểm soát khác (quy mô công ty, lợi nhuận cổ
phiếu) không phải là các biến quan trọng trong mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và hiệu quả tài chính. Cheng và Wang (2011) cho rằng bản chất của các công ty và
loại ngành không có ảnh hưởng lên các biến đã tác động lên mô hình hồi quy.
Nghiên cứu này sử dụng một số biến kiểm soát mà có thể được xem là có ảnh
hưởng lên mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính như (1) quy mô
công ty, (2) đòn bẩy tài chính, (3) ngành.
3.5.2.1. Quy mô công ty (Size)
Quy mô công ty là một trong những đặc tính quan trọng nhất của công ty mà có
thể ảnh hưởng lên các hoạt động của công ty, quy mô công ty được phát hiện là có
mối tương quan đáng kể với việc thực hành trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
(Ullmann, 1985; Patten, 1991; Gray, 1995; Meek và cộng sự, 1995; Deegan và
Rankin, 1996; Hackston và Milne, 1996; Cormier và Magnan, 2003; Al-Tuwaijri và
cộng sự, 2004; Freedman, 2005; Jennifer Ho và Taylor, 2007; Brammer và Pavelin,
2008; Abdul Rahman và cộng sự, 2009; Da Silva Monteiro và Aibar-Guzman, 2010;
Sutantoputra và cộng sự, 2012).
Waddock và Graves (1997), Nelling và Webb (2009) cho rằng các công ty có
quy mô lớn hơn có thể có nhiều nguồn lực hơn so với các công ty có quy mô nhỏ hơn
để đảm đương các hoạt động xã hội và môi trường. Ngoài ra, Cormier và Gordon
(2001), Orlitzky (2001) đã phát hiện mối tương quan dương giữa quy mô công ty và
các hoạt động trách nhiệm xã hội bởi vì các công ty có quy mô lớn hơn sẽ có nhiều
tiền, quyền lực và khả năng lớn hơn để thực hiện trách nhiệm xã hội hơn so với các
công ty có quy mô nhỏ. Đồng thời, hiệu quả tài chính cũng được tìm thấy có mối
tương quan dương với quy mô công ty bởi vì những công ty có quy mô lớn hơn có thể
74
có nhiều lợi thế trong chuỗi sản phẩm và họ có thể quản lý được các nguồn lực tốt hơn
so với những công ty có quy mô nhỏ.
Theo Liston-Heyes và Ceton (2009), một chiến lược công ty hiệu quả bị ảnh
hưởng bởi quy mô công ty bởi vì các hoạt động của công ty lớn bị quan sát bởi công
chúng và cộng đồng gần đó. Danh tiếng công ty là mối quan tâm đối với các công ty
lớn. Theo Brammer và Pavelin (2006), chất lượng công bố trách nhiệm xã hội cao hơn
đã được coi là của các công ty lớn khi họ tạo ra một báo cáo bền vững qua các phương
tiện khác nhau. Tuy nhiên, Stanwick và Stanwick (1998), có một sự hạn chế trong
mức độ để quy mô công ty có thể ảnh hưởng lên trách nhiệm xã hội vì còn có các
nhân tố khác có thể ảnh hưởng lên mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính ngoài quy mô công ty. Các phát hiện của Stanwick và Stanwick (1998) đã
không ủng hộ các nghiên cứu trước là công ty có quy mô lớn sẽ công bố nhiều thông
tin về hoạt động trách nhiệm xã hội hơn để đạt được hiệu quả tài chính tốt hơn.
Hơn nữa, Van der Laan và cộng sự (2008) cho rằng mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và quy mô công ty có thể bị sai lệch bởi vì việc đánh giá của công ty cụ
thể có thể sẽ cao hơn các công ty khác khi các công ty trình bày thêm các thông tin
trách nhiệm xã hội. Công bố thông tin trách nhiệm xã hội có mối tương quan dương
với quy mô công ty, nếu những công ty này công bố các thông tin tích cực và tiêu cực
về trách nhiệm xã hội. Những công ty lớn hơn có khả năng công bố nhiều thông tin về
trách nhiệm xã hội hơn các công ty nhỏ. Moore (2001) đã chỉ ra mối tương quan
dương đáng kể giữa trách nhiệm xã hội và quy mô công ty. Danh tiếng của các công
ty lớn chịu áp lực cao từ kỳ vọng của các bên liên quan lên các hoạt động trách nhiệm
xã hội và do đó các công ty lớn phải thực hiện nhiều hoạt động trách nhiệm xã hội phù
hợp.
Ngược lại, Cheng và Wang (2011) cho rằng mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và quy mô công ty (tổng tài sản) không được tìm thấy trong các mô hình của họ.
Tương tự, Roberts (1992), Mishra và Suar (2010) cũng nhận thấy rằng hiệu quả tài
chính không bị ảnh hưởng bởi quy mô công ty. Vì quy mô công ty có thể ảnh hưởng
lên mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, quy mô công ty được
sử dụng như là biến kiểm soát trong nghiên cứu này. Quy mô công ty có thể được đo
bằng một số đặc tính như số lượng lao động, tổng doanh thu, khối lượng bán hàng,
75
hoặc tổng giá trị tài sản, v.v… Nghiên cứu này, quy mô công ty được tính bằng [ln
(tổng tài sản)] (Clarkson và cộng sự, 2008 và 2011).
3.5.2.2. Đòn bẩy tài chính (Leverage - LEV)
LEV là một công cụ để đo lường đòn bẩy tài chính của một công ty. Các công
ty có mức độ nợ thấp và tình hình tài chính tốt sẽ đầu tư vào các hoạt động trách
nhiệm xã hội nhiều hơn các công ty có mức độ nợ cao. Barbosa và Lori (2005),
Kapopoulos và Lazaretou (2007) tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa các
hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty và đòn bẩy tài chính. Theo Brammer và
Pavelin (2006), áp lực từ các bên liên quan là chủ nợ có thể giảm đi khi có mức độ
đòn bẩy tài chính thấp. Ngân quỹ của các công ty có mức độ đòn bẩy thấp tài chính có
thể tăng lên dễ dàng, và các công ty có thể sử dụng ngân quỹ của họ để hỗ trợ cho các
hoạt động trách nhiệm xã hội. Ngược lại, những công ty có LEV cao hơn có thể có thu
nhập không ổn định do chi phí lãi vay nhiều. Jensen và Meckling (1976) cho rằng
những công ty có LEV cao có thể gặp phải rủi ro phá sản cao hơn và các công ty này
cố gắng phát triển các hoạt động trách nhiệm xã hội để làm giảm chi phí đại diện. Một
số nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu, nhưng kết quả là hỗn hợp (McGuire và cộng sự, 1988;
Belkaoui, 1989; Aerts và cộng sự, 2006; Dragomir, 2010).
Belkaoui (1989) nhận thấy có một mối tương quan âm và đáng kể giữa LEV và
trách nhiệm xã hội bởi vì các nhà quản lý của các công ty có LEV cao có khả năng
báo cáo lợi nhuận bằng cách sử dụng thực hành kế toán hoãn thu nhập từ giai đoạn
hiện tại đến một khoảng thời gian trong tương lai. Như được đề xuất bởi Nelling và
Webb (2009), mối tương quan âm và đáng kể giữa trách nhiệm xã hội và LEV cho
thấy mức độ công bố trách nhiệm xã hội thấp được báo cáo bởi những công ty có LEV
cao. Mối tương quan âm này nhất quán với những phát hiện của Ho (2011), Clacher
và hagendorff (2012), các công ty có LEV cao không thể chi nhiều tiền cho các hoạt
động trách nhiệm xã hội, trong khi Clarkson và cộng sự (2008) tranh luận rằng cần có
một báo cáo trách nhiệm xã hội ở mức độ cao. Echave và Bahati (2010) cho thấy
không có mối quan hệ giữa các chỉ số kinh tế, đặc biệt là LEV (cũng như lợi nhuận,
doanh thu xuất khẩu, và quy mô công ty) và mức độ công bố trách nhiệm xã hội. Cũng
như Roberts (1002) và Elijido-Ten (2004) đã lập lại kết quả tương tự Echave và
Bahati (2010).
76
LEV được xem như là biến kiểm soát trong nghiên cứu này. LEV là thước đo
sức mạnh tài chính của một công ty, và được tính bằng tỷ lệ nợ/tổng tài sản (DTA)
(Aras và Aybars, 2010).
3.5.2.3. Ngành (Industry)
Trong các nghiên cứu trước, loại ngành được phát hiện là biến quan trọng cho
việc giải thích tính đa dạng của các cấp độ hoạt động trách nhiệm xã hội (Cochran và
Wood, 1984; Patten, 1991; Cooke, 1992; Wallace và Naser, 1995; Ali Fekrat, 1996;
Deegan và Gordon, 1996; Waddock và Graves, 1997; Brammer và Pavelin, 2006;
Mittal và cộng sự, 2008; Kimbro và Lelendy, 2010). Khi được đề xuất bởi Dierkes và
Preston (1997), Deehan và Gordon (1996), một số ngành có thể có những ảnh hưởng
mạnh lên mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Ví dụ như các
ngành công nghiệp khai thác mỏ, dầu và khí đốt có nhiều khả năng công bố các thông
tin về các ảnh hưởng lên xã hội và môi trường hơn so với các ngành công nghiệp
khác. Điều này là có thể bởi vì các công ty trong các ngành công nghiệp khác nhau sẽ
báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào loại
ngành. Theo Hackston và Milne (1996), mức độ công bố trách nhiệm xã hội có liên
quan mạnh đến loại ngành. Có nghĩa là, các công ty thuộc các nhóm ngành lớn ở New
Zealand có khuynh hướng báo cáo hoạt động trách nhiệm xã hội cao hơn so với các
công ty thuộc các nhóm ngành nhỏ.
Cooke (1992) nhận thấy rằng các công ty sản xuất Nhật Bản có khả năng tự
nguyện báo cáo nhiều hoạt động trách nhiệm xã hội hơn các công ty phi sản xuất.
Waston và cộng sự (2002) cho rằng không chỉ các công ty trong các ngành phi sản
xuất mà còn các công ty thuộc các ngành truyền thông và tiện ích (khu vực sản xuất)
có khả năng báo cáo trách nhiệm xã hội nhiều hơn so với những công ty trong các
ngành khác. Các phát hiện này đã nhấn mạnh rằng tác động của ngành có thể được
kiểm soát để xác định kết quả tốt hơn. Hơn nữa, Wallace và Naser (1995) giải thích
rằng lý do cho sự khác biệt của trách nhiệm xã hội trong một số ngành là do mỗi công
ty riêng biệt phải tránh bị phạt do không công bố một số vấn đề liên quan đến ngành
của họ. Báo cáo của họ có thể cho thấy một số vấn đề đặc biệt mà các công ty khác
không được yêu cầu công bố. Haniffa và Coocke (2005) tranh luận rằng việc công bố
trách nhiệm xã hội của các ngành thâm dụng lao động (công nghiệp sản xuất) có khả
năng công bố nhiều thông tin hơn các ngành khác và nhiều thông tin về môi trường
77
hơn được công bố bởi các ngành hóa chất để phản ánh bản chất nhạy cảm trong hoạt
động của họ.
Hơn nữa, Cowen và cộng sự (1987) cho rằng các khía cạnh của trách nhiệm xã
hội liên quan đến cộng đồng và năng lượng có khả năng bị ảnh hưởng bởi loại ngành
(và quy mô công ty) trong khi các khía cạnh về sản phẩm và nguồn nhân lực thì không
có liên quan đến loại ngành. Ngược lại, Owusu-Ansah (1998) cho rằng mối quan hệ
giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và các đặc tính của ngành có thể được phát
hiện, và cho thấy một vài lý do tại sao việc thực hành công bố trách nhiệm xã hội của
các công ty được đa dạng hóa mà không giống nhau trong bản chất của công việc liên
quan, loại dòng sản phẩm hoặc sự đa dạng của sản phẩm và quy định của ngành.
Roberts (1992) phân biệt giữa ngành lớn và ngành nhỏ bằng việc sử dụng một số đặc
tính của ngành chẳng hạn như rủi ro pháp lý, tầm nhìn của người tiêu dùng và mức độ
cạnh tranh cho sự phân loại này. Khả năng là các ngành lớn có thể công bố trách
nhiệm xã hội nhiều hơn các ngành nhỏ. Hossain và cộng sự (2006) đã đưa ra các bằng
chứng xa hơn về việc trách nhiệm xã hội có liên quan đến bản chất của các công ty.
Các kết quả của họ cho rằng các công ty trong các ngành sản xuất sẽ báo cáo nhiều
thông tin về trách nhiệm xã hội hơn.
Do đó, trong nghiên cứu này ngành được xem là biến kiểm soát mà được áp
dụng bởi Patten (1991), Roberts (1992), Hackston và Milne (1996), Hossain và cộng
sự (2006), Bayoud và cộng sự (2012). Biến ngành trong nghiên cứu này được xác định
là ngành tài chính – bất động sản và ngành phi tài chính (dựa vào phân ngành của
HOSE). Nếu công ty không thuộc ngành tài chính – bất động sản thì nó mang giá trị là
1 và ngược lại là 0.
3.6. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
3.6.1. Rủi ro công ty (Firm risk – FR)
Rủi ro thường được đo bằng độ lệch chuẩn của suất sinh lợi trong một khoảng
thời gian nhất định. Một số các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội sử dụng suất sinh lợi
thông qua sự biến động giá cổ phiếu để đo lường mối quan hệ này (Brammer và cộng
sự, 2006; Bhagat và Bolton, 2008; Nelling và Webb, 2009; Hussainey và Walker,
2009; Karagoiorgos, 2010) và các thành phần rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ
thống (Luo và Bhattacharya, 2009). Trong nghiên cứu này rủi ro công ty được tính
bằng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi ngày của 250 phiên trong năm nhân với √250
78
(Adams và cộng sự, 2005; Murray và cộng sự, 2006; Moneva và Ortas, 2008;
Oikonomou và cộng sự, 2012; Bouslah và cộng sự, 2013).
Lý do nghiên cứu này đo lường rủi ro công ty dựa vào độ lệch chuẩn của tỷ
suất sinh lợi ngày, do rủi ro thị trường thường lên quan đến chỉ số VN-index (thể hiện
qua hệ số β) trong khi nghiên cứu này không đề cập đến phương diện rủi ro thị trường
của công ty mà chỉ xem xét rủi ro tổng thể của các công ty niêm yết Việt Nam (thể
hiện qua sự biến động giá cổ phiếu của công ty trên thị trường). Vì vậy, nghiên cứu sử
dụng rủi ro tổng thể làm thước đo rủi ro công ty để kiểm tra mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và rủi ro công ty.
3.6.2. Trách nhiệm xã hội
Các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội trước đây thường kết hợp những điểm
mạnh và mối quan tâm vào mỗi khía cạnh trách nhiệm xã hội bằng cách lấy tổng số
các điểm mạnh trừ tổng số các mối quan tâm (Kempf và Osthoff, 2007; Sun và
Stuebs, 2012). Cách tiếp cận này làm hạn chế khả năng đánh giá riêng mối quan hệ
giữa các khía cạnh khác nhau của trách nhiệm xã hội và rủi ro.
Theo Mattingly và Berman (2006) và Bird và cộng sự (2007), nghiên cứu này
không phân loại và tổng hợp điểm mạnh và/hoặc mối quan tâm vào cùng khía cạnh
trách nhiệm xã hội vì chúng có thể là các cấu trúc riêng biệt. Thay vào đó, nghiên cứu
này vẫn giữa nguyên cách đo lường chỉ số trách nhiệm xã hội như được trình bày ở
phần trên cho từng công ty niêm yết. Sau đó, tiến hành đo lường sự biến động của chỉ
số trách nhiệm xã hội trung bình của từng công ty niêm yết bằng cánh lấy chỉ số trách
nhiệm xã hội trung bình năm sau trừ chỉ số trách nhiệm xã hội trung bình năm trước
để cho phép so sánh chính xác hơn về tác động của trách nhiệm xã hội tổng có thể có
lên rủi ro công ty (Jo và Na, 2012). Tuy nhiên, do số lượng các công ty niêm yết có
công bố thông tin trách nhiệm xã hội không đều nhau nên nghiên cứu chỉ chọn những
công ty niêm yết có thời gian phát hành báo cáo trách nhiệm xã hội từ 3 năm trở lên
để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty, kết quả mẫu nghiên
cứu chỉ bao gồm 29 công ty với 116 quan sát công ty/năm (2012 – 2016).
3.7. Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội.
3.7.1. Mẫu nghiên cứu
79
Nhóm hai, các công ty niêm yết không công bố CSR. Các công ty niêm yết
không công bố trách nhiệm xã hội để được chọn vào mẫu nghiên cứu này (trả lời cho
câu hỏi nghiên cứu thứ 3) phải đáp ứng hai tiêu chí: (i) các công ty phải có một bộ dữ
liệu tài chính hoàn chỉnh trong báo cáo thường niên trong 5 năm (2012 - 2016) để thu
thập dữ liệu thứ cấp và đo lường cho hai chỉ tiêu của hiệu quả tài chính; (ii) các công
ty phải tương ứng về quy mô vốn hóa thị trường và ngành, thời gian niêm yết. Dựa
vào hai tiêu chí trên, nghiên cứu này tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên các công ty niêm
yết không công bố trách nhiệm xã hội tương ứng với mẫu các công ty niêm yết có
công bố trách nhiệm xã hội trên thị trường chứng khoán Việt Nam cho giai đoạn 5
năm (2012 – 2016). Xem phụ lục 3.
3.7.2. Phương pháp
Các báo cáo tài chính đã được kiểm toán được sử dụng để thu thập các dữ liệu
về hiệu quả tài chính của các công ty giai đoạn 2012 - 2016. Phân tích nội dung được
thực hiện để tách báo cáo thường niên của các công ty thành hai nhóm, những công ty
niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và những công ty niêm yết không công bố
trách nhiệm xã hội (Karaibrahimoglu, 2010; Ntoi, 2010). Sau đó sử dụng kiểm định t-
test trung bình một mẫu và Anova cho từng nhóm nhằm kiểm tra sự khác biệt về giá
trị trung bình giữa các công ty công bố trách nhiệm xã hội và các công ty không công
bố trách nhiệm xã hội (Juliana và Xu, 2016).
3.7.3. Biến đo lường
Nghiên cứu vẫn sử dụng hai biến đại diện cho thước đo hiệu quả tài chính
(ROA, TBQ) và ba biến kiểm soát (Lev, Size, Indust) để kiểm tra sự khác biệt giữa
hai nhóm công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và công ty niêm yết không
có công bố trách nhiệm xã hội.
Tóm tắt mô tả và phương pháp đo lường các biến sử dụng cho nghiên cứu này
được trình bày trong phụ lục 4.
3.8. Phương pháp hồi quy
Cho đến nay nhiều phương pháp nghiên cứu đã được phát triển và được giới
thiệu để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, trong đó
bao gồm phương pháp hồi quy OLS. Người ta lập luận rằng hồi quy OLS ở hầu hết
các nghiên cứu trước không xác định được sự phù hợp của mô hình trong việc xử lý
các tập dữ liệu. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào bốn nhóm mô hình hồi quy để
80
phân tích mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong bối cảnh
các công ty niêm yết Việt Nam. Bốn mô hình đó là: mô hình dữ liệu chéo, mô hình
Pooled OLS và dữ liệu bảng (mô hình tác động cố định - FEM và mô hình tác động
ngẫu nhiên - REM). Mô hình dữ liệu bảng là một bộ dữ liệu trong đó hành vi của các
thực thể hoặc cá nhân hoặc đơn vị được quan sát theo thời gian (Baum, 2006).
Gujarati (2009) liệt kê một số ưu điểm của dữ liệu bảng có thể nhận thấy được và đo
lường hiệu quả mà nếu sử dụng mô hình OLS pure cross-section không thể quan sát
được. Ví dụ, dữ liệu bảng cung cấp dữ liệu có nhiều thông tin hơn, nhiều biến hơn,
hiệu quả hơn và có ít đa cộng tuyến giữa các biến so với dữ liệu chéo.
Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng cần lưu ý là có thể xuất hiện vấn đề nội sinh
khi ước lượng các phương trình thực thực nghiệm. Đầu tiên, vấn đề bỏ sót biến, đề
cập đến trường hợp khi các mô hình không bao gồm một số biến và các các yếu tố
không quan sát được có thể tác động đáng kể cả thước đo trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính. Thứ hai, khuynh hướng đồng thời xảy ra khi có quan hệ nhân quả ngược
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính hay nói cách khác, trách nhiệm xã hội là
một hàm số của hiệu quả tài chính. Trong vấn đề đầu tiên, mô hình hiệu quả cố định
(FEM) có thể có hiệu quả trong việc làm giảm tác dụng nội sinh vì FEM cung cấp một
phương tiện để kiểm soát cho các biến bị bỏ qua. Nhưng điều khó khăn là FEM không
thể giải quyết nội sinh gây ra bởi vấn đề đồng thời.
Một giải pháp có thể để giải quyết các vấn đề của khuynh hướng đồng thời và
các nguồn nội sinh khác là áp dụng phương pháp biến công cụ (IV), đã được sử dụng
rộng rãi trong nhiều ứng dụng kinh tế và kinh tế lượng. Phương pháp này đòi hỏi các
nhà nghiên cứu phải xác định được biến công cụ tốt hay xác định đúng các biến ngoại
sinh mà có thể tương quan mạnh với chỉ số trách nhiệm xã hội nhưng không tương
quan đến các sai số của phương trình hiệu quả. Một số nghiên cứu trước đây đã sử
dụng các biến khác nhau để làm biến công cụ cho trách nhiệm xã hội: biến giả ngành
và thu nhập dương trong năm trước (Fodio và cộng sự, 2013); biến giả sự kiện có ảnh
hưởng quy định chung và việc sử dụng các công cụ làm việc nhóm năm 2013 (Crifo
và cộng sự, 2016); kết hợp các yếu tố quyết định trách nhiệm xã hội – (Erhemjamts và
cộng sự, 2012): tuổi công ty, tỷ lệ phần trăm thay đổi doanh thu của toàn ngành công
nghiệp, biến giả lĩnh vực mới và điểm số Z của Altman (1968). Garcia-Castro và cộng
sự (2010), Baum (2006) đã sử dụng một số biến công cụ như ngành công nghiệp, thù
81
lao của ban điều hành, sức mạnh quyền sở hữu, tính minh bạch và tầm nhìn của công
ty. Việc kiểm tra giá trị các biến công cụ cho thấy chúng là phù hợp. Tuy nhiên, một
số biến như quy mô công ty, đòn bẩy trong nghiên cứu có ảnh hưởng lên các biến nội
sinh cũng như có ảnh hưởng trực tiếp lên hiệu quả tài chính. Các biến này không thể
sử dụng như là biến công cụ cho nghiên cứu
Nhưng do mẫu nghiên cứu của nghiên cứu tương đối nhỏ, không thể phát hiện
các biến công cụ tốt đáp ứng hai điều kiện: (1) có tương quan chặt chẽ với chỉ số trách
nhiệm xã hội và các biến ngoại sinh với hiệu quả công ty; (2) phải được chứng minh
là biến công cụ thích hợp cho trách nhiệm xã hội trong các tài liệu thực nghiệm hoặc
lý thuyết trước đó. Hơn nữa, việc áp dụng các biến công cụ yếu sẽ dẫn đến sự sai lệch
lớn trong đo lường. Đối với những lý do trên, Nghiên cứu này không xác định biến
công cụ tốt cho trách nhiệm xã hội để sử dụng trong phương trình hiệu quả tài chính
của công ty. Đây có thể là một hạn chế tiếp theo của nghiên cứu này. Thay vào đó, các
mô hình hồi quy cơ bản cho dữ liệu bảng như OLS, FEM, REM được sử dụng trong
phân tích hồi quy của nghiên cứu. Sau đó, sử dụng một số kiểm tra riêng biệt để lựa
chọn mô hình thích hợp cho nghiên cứu.
3.8.1. Mô hình hồi quy cho phân tích
Nghiên cứu cố gắng so sánh ba mô hình hồi quy khác nhau khi xem xét mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính để lựa chọn mô hình phù hợp
nhất. Tóm lại, ba mô hình hồi quy sử dụng trong nghiên cứu này là:
(1) Mô hình hồi quy đa biến được sử dụng để xác định mối quan hệ giữa các
biến phụ thuộc và biến độc lập. Mô hình này sẽ được sử dụng để phân tích mối quan
hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội tổng, chỉ số trách nhiệm xã hội thành phần với hiệu
quả tài chính.
(2) Mô hình Pooled OLS hoặc mô hình hệ số không đổi (constant coefficient
models). Mô hình Pooled OLS xem xét các hệ số không đổi với giả định thông thường
cho dữ liệu chéo (Cameron và Trivedi, 2008) và kiểm soát theo năm. Phương pháp
này giả định rằng các biến hồi quy không tương quan với các lỗi, hoặc sự chặn và độ
dốc đều bằng nhau cho tất cả các dữ liệu.
(3) Mô hình REM. Mô hình này giả định rằng các ảnh hưởng riêng biệt không
quan sát được chính là các biến ngẫu nhiên và không có tương quan với biến độc lập
hoặc biến dự báo trong mô hình. Hơn nữa, mô hình FEM cũng được sử dụng để kiểm
82
tra mối quan hệ giữa các biến dự báo và các biến kết quả trong một công ty. Những
ảnh hưởng của đặc tính thời gian bất biến sẽ được loại bỏ bằng việc sử dụng mô hình
FEM. Mô hình FEM giả định rằng các đặc tính thời gian bất biến là duy nhất cho cá
nhân và sẽ không tương quan với các đặc tính riêng biệt khác (Torres-Reyna, 2013).
Để có thể hiểu tốt hơn mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính trong bối cảnh Việt Nam, nghiên cứu này sử dụng các hàm hồi quy
trên để điều tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, cũng
như các đặc điểm khác của công ty như quy mô công ty, ngành, đòn bẩy tài chính.
Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này gồm (i) hiệu quả tài chính bao gồm thước đo
dựa vào kế toán (ROA) và thước đo dựa trên thị trường (TBQ); (ii) rủi ro công ty.
Biến độc lập gồm chỉ số trách nhiệm xã hội tổng, chỉ số trách nhiệm xã hội thành
phần, và các biến kiểm soát (quy mô công ty, đòn bẩy, ngành công nghiệp).
3.8.2. Các kiểm tra kỹ thuật
Các kiểm tra sau sẽ được sử dụng để xác định mô hình phù hợp giữa Pooled
OLS, REM và FEM.
Kiểm định Breusch và Pagan Lagrange (LM ) - Pooled OLS hoặc REM. Sử
dụng phương pháp nhân tử Lagrange (LM) với kiểm định Breusch – Pagan để xác
định mô hình phù hợp giữa pooled OLS hoặc REM. Giả thuyết H0 là phương sai giữa 2 = 0) (Gujarati, 2009). Nghĩa
các đối tượng hoặc các thời điểm là không đổi (H0: 𝜎𝑖𝑡 là, không có sự khác biệt lớn giữa các biến. Nếu kết quả kiểm định có p-value < 0.05
thì bác bỏ giả thuyết H0 khi đó REM sẽ tốt hơn pooled OLS, ngược lại nếu giả thuyết
H0 được chấp nhận thì mô hình pooled OLS phù hợp hơn REM.
Kiểm định Hausman – random effects hoặc fixed effects. Kiểm định này được
sử dụng để xem xét mô hình FEM hay REM phù hợp hơn. Thực chất kiểm định
Hausman để xem xét có tồn tại tự tương quan giữa εi và các biến độc lập hay không,
với giả thuyết H0 là εi và biến độc lập không tương quan (P_value < 0.05 -> bác bỏ
H0). Nếu kết quả kiểm định cho thấy p_value không có ý nghĩa – giả thuyết H0 được
chấp nhận (chọn REM). Ngược lại, nếu kết quả cho thấy p_value có ý nghĩa – bác bỏ
giả thuyết H0 (chọn FEM).
Kiểm tra đa cộng tuyến. Kiểm tra đa động tuyến cũng được thực hiện để xem
xét các biến độc lập của mô hình hồi quy và xác định xem liệu chúng có biểu hiện đa
cộng tuyến với nhau không, nếu như sự tương quan giữa hai biến độc lập là ≥ 0.9.
83
Thước đo phổ biến nhất để xác định đa cộng tuyến là hệ số phóng đại phương sai
(VIF) và hệ số Tolerance (Gujarati, 2009; Sekeran và Bougie, 2010). Hai thước đo
này cho thấy mức độ mà một biến độc lập được giải thích bằng một biến độc lập khác.
Kiểm định điểm dị biệt (Outlier). Các outlier có thể làm méo mó tính chất
chuẩn hóa của dữ liệu, do vậy cần kiểm tra để loại bỏ những ảnh hưởng của outlier để
đưa dữ liệu về dạng chuẩn hóa. Thông qua việc sử dụng công cụ Studentized
Residuals (James, 1983) để loại bỏ outlier và tránh được hiện tượng đa cộng tuyến, tự
tương quan và nội sinh xảy ra làm ảnh hưởng đến kết quả chính của mô hình nghiên
cứu.
Kiểm định t-test (kiểm định t): được sử dụng trong kiểm định sự khác biệt về
giá trị trung bình của tổng thể (μ) với một giá trị (μ0) cho trước, hoặc kiểm định sự
khác biệt về giá trị trung bình giữa hai tổng thể (μ1 và μ2). Nếu p-value ≥ α thì chấp
nhận giả thuyết H0 và ngược lại nếu p-value < α thì bác bỏ giả thuyết H0.
3.9. Mô hình nghiên cứu
Để kiểm tra giả thuyết lên quan đến các mối quan hệ trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính và rủi ro công ty của các công ty niêm yết Việt Nam, nghiên cứu
này sử dụng các mô hình hồi quy khác nhau. Giống như các nghiên cứu trước, nghiên
cứu này xây dựng mô hình hồi quy qua các bước sau: (1) hiệu quả tài chính và rủi ro
công ty là biến phụ thuộc, biến trách nhiệm xã hội, biến các khía cạnh trách nhiệm xã
hội và ba biến kiểm soát là các biến độc lập; (2) xem xét thêm yếu tố độ trễ; (3) sự
biến động của biến độc lập trách nhiệm xã hội. Nghiên cứu sử dụng các phương trình
hồi quy sau để tạo ra các đánh giá thực nghiệm cho mỗi nhóm.
Mô hình (1a) này được áp dụng theo nghiên cứu của Waddock và Graves
(1997), Aras và Aybars (2010), McWilliams và Siegel (2000), Lioui và Sharma
(2012), Lee và cộng sự (2013) và Amran (2015) bằng việc phân tích dữ liệu chéo
(cross-sectional data) với hiệu quả tài chính là biến phụ thuộc.
𝐑𝐎𝐀𝐣𝐭 (𝐓𝐁𝐐𝐣𝐭) = 𝛃𝟎 + 𝛃𝟏𝐂𝐒𝐑𝐣𝐭 + 𝛃𝟐𝐋𝐄𝐕𝐣𝐭 + 𝛃𝟑𝐒𝐈𝐙𝐄𝐣𝐭 + 𝛃𝟒𝐈𝐍𝐃𝐔𝐒𝐣𝐭 + 𝛆𝐣𝐭 (1a)
Mô hình (1b) này được sửa đổi từ câu hỏi nghiên cứu thứ nhất bằng cách phân
chia trách nhiệm xã hội thành bốn nhóm sau: trách nhiệm với môi trường (CSR_env),
với người lao động (CSR_empl), với cộng đồng (CSR_com) và với sản phẩm
(CSR_prod). Để xác định mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu
quả tài chính, mô hình hồi quy được ước lượng có thể ở dạng sau:
84
𝐑𝐎𝐀𝐢𝐣 (𝐓𝐁𝐐𝐣𝐭) = 𝛃𝟎 + 𝛃𝟏𝐂𝐒𝐑_𝐞𝐧𝐯𝐣𝐭 + 𝛃𝟐𝐂𝐒𝐑_𝐞𝐦𝐩𝐥𝐣𝐭 + 𝛃𝟑𝐂𝐒𝐑_𝐜𝐨𝐦𝐣𝐭 +
𝛃𝟒𝐂𝐒𝐑_𝐩𝐫𝐨𝐝𝐣𝐭 + 𝛃𝟓𝐋𝐄𝐕𝐣𝐭 + 𝛃𝟔𝐒𝐈𝐙𝐄𝐣𝐭 + 𝛃𝟕𝐈𝐍𝐃𝐔𝐒𝐣𝐭 + 𝛆𝐣𝐭 (1b)
Hai mô hình tiếp theo 2 (a, b) này được sửa đổi từ mô hình 1(a, b). Bởi vì,
trong các nghiên cứu thực nghiệm trước (Elsayed và Paton, 2005; Brammer và
Pavelin, 2008; Mahoney và Roberts, 2007; Rodrıguez và Cruz, 2007; Nelling và
Webb, 2009; Trang và Yekini, 2014) khi kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và hiệu quả tài chính họ đã thêm yếu tố độ trễ (t-1) đối với biến trách nhiệm xã hội
vào mô hình nhằm kiểm tra thêm có hay không có sự tác động của trách nhiệm xã hội
trong quá khứ lên hiệu quả tài chính, kết quả từ các nghiên cứu thực nghiệm trên cho
thấy rằng không chỉ các hoạt động trách nhiệm xã hội ở tại thời điểm nghiên cứu có
ảnh hưởng trực tiếp lên hiệu quả tài chính mà các hoạt động trách nhiệm xã hội trong
quá khứ (có xét yếu tố độ trễ) cũng có ảnh hưởng đáng kể lên hiệu quả tài chính. Do
đó, để cung cấp thêm một sự hiểu biết sâu hơn và làm rõ hơn về mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, nghiên cứu này cũng áp dụng phương pháp
tương tự các nghiên cứu thực nghiệm trước để kiểm tra xem liệu kết quả hồi quy về
mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội quá khứ và các khía cạnh trách nhiệm xã hội quá
khứ với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết trong bối cảnh Việt Nam có khác
biệt gì so với kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước đồng thời góp phần làm
rõ hơn cho câu hỏi nghiên cứu thứ nhất.
Nghiên cứu này chọn độ trễ cho trách nhiệm xã hội là trước một năm (t-1) mà
không chọn độ trễ là trước hai năm hay sau một/hai năm vì ba lý do: (i) xem xét mức
độ ảnh hưởng của các hoạt động CSR mà công ty đã triển khai thực hiện ở năm trước
(quá khứ) lên hiệu quả tài chính ở hiện tại; (ii) Jeffrey (2015, pp 616) – “… càng đưa
nhiều độ trễ, mất nhiều quan sát. Nếu đưa vào quá nhiều độ trễ, độ mạnh của kiểm
định đối với mẫu nhỏ sẽ giảm đi đáng kể. ….. Đối với dữ liệu theo năm, một hoặc hai
độ trễ trường là đủ.”; (iii) mẫu nghiên cứu này vốn dĩ là mẫu không cân bằng và quy
mô mẫu tương đối nhỏ so với toàn thị trường. Nghĩa là, nếu nghiên cứu chọn độ trễ
trước hai năm đối với trách nhiệm xã hội sẽ làm cho độ mạnh của kiểm định giảm đi
nhiều hơn do số lượng mẫu quá ít. Mô hình hồi quy được ước lượng ở dạng sau:
𝐑𝐎𝐀𝐢𝐣 (𝐓𝐁𝐐𝐣𝐭) = 𝛃𝟎 + 𝛃𝟏𝐂𝐒𝐑𝐣𝐭−𝟏 + 𝛃𝟐𝐋𝐄𝐕𝐣𝐭 + 𝛃𝟑𝐒𝐈𝐙𝐄𝐣𝐭 + 𝛃𝟒𝐈𝐍𝐃𝐔𝐒𝐣𝐭 + 𝛆𝐣𝐭 (2a)
85
+ 𝛃𝟑𝐂𝐒𝐑𝐜𝐨𝐦𝐣𝐭−𝟏 + 𝐑𝐎𝐀𝐢𝐣 (𝐓𝐁𝐐𝐣𝐭) = 𝛃𝟎 + 𝛃𝟏𝐂𝐒𝐑𝐞𝐧𝐯𝐣𝐭−𝟏 + 𝛃𝟐𝐂𝐒𝐑𝐞𝐦𝐩𝐥𝐣𝐭−𝟏
+ 𝛃𝟓𝐋𝐄𝐕𝐣𝐭 + 𝛃𝟔𝐒𝐈𝐙𝐄𝐣𝐭 + 𝛃𝟕𝐈𝐍𝐃𝐔𝐒𝐣𝐭 + 𝛆𝐣𝐭 (2b) 𝛃𝟒𝐂𝐒𝐑𝐩𝐫𝐨𝐝𝐣𝐭−𝟏
Như vậy, mô hình 1(a, b) và mô hình 2(a,b) được sử dụng để trả lời cho câu hỏi
nghiên cứu thứ nhất trong nghiên cứu này.
Mô hình (3) kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty (trả
lời câu hỏi thứ 2). Dựa vào mô hình nghiên cứu của Adams và cộng sự (2005), Pascal
và Anna (2015).
𝐅𝐑 = 𝛃𝟎 + 𝛃𝟏∆𝐂𝐒𝐑𝐣𝐭 + 𝛃𝟐𝐋𝐄𝐕𝐣𝐭 + 𝛃𝟑𝐒𝐈𝐙𝐄𝐣𝐭 + 𝛃𝟒𝐈𝐍𝐃𝐔𝐒𝐣𝐭 + 𝛆𝐣𝐭 (3)
Trong đó:
β0: hệ số tung độ gốc
t: năm hiện tại
t-1: năm trước
FR: rủi ro công ty = (độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi ngày của 250 phiên
trong năm) *√250
ROAj (chỉ số hiệu quả tài chính của công ty j) = lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản
TBQj (chỉ số hiệu quả tài chính của công ty j) = (nợ ngắn hạn + nợ dài hạn +
vốn hóa thị trường)/giá trị sổ sách tổng tài sản công ty
CSRjt: chỉ số trách nhiệm xã hội tổng của công ty j
ΔCSRij: sự biến động chỉ số trách nhiệm xã hội của công ty j (ΔCSR = CSR1 –
CSR0)
CSR_envj: chỉ số trách nhiệm với môi trường của công ty j
CSR_emplLj: chỉ số trách nhiệm với người lao động của công ty j
CSR_comj: chỉ số trách nhiệm với cộng đồng của công ty j
CSR_prodj: chỉ số trách nhiệm với sản phẩm của công ty j
SIZEj: quy mô công ty của công ty j (Ln [tổng tài sản tính bằng trăm tỷ VND])
LEVj: đòn bẩy tài chính của công ty j (DTA = tổng nợ/tổng tài sản)
INDUSj: ngành công nghiệp của công ty j. Nếu công ty không thuộc ngành Tài
chính - Bất động sản thì nó mang giá trị là 1 và ngược lại là 0 (căn cứ theo sự phân
ngành trên HOSE)
εjt: sai số.
86
Tóm tắt Chương 3
Chương này mô tả chi tiết các phương pháp nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu và
phương pháp thu thập dữ liệu, cùng với quy trình lựa chọn mẫu và quy trình đo lường.
Sự phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội và việc xác định các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty đã được mô tả.
Có một vài phương pháp để đo lường trách nhiệm xã hội như chỉ số danh tiếng
(chỉ số CEP, chỉ số Fortune) (Preston và O’Bannon, 1997; Waddock và Graves,
1997), phương pháp xếp hạng doanh nghiệp (tỷ số KLD, DJSI, GRI) (Byus và cộng
sự, 2010; Inoue và Lee, 2011; Oeyono và cộng sự, 2011), phương pháp khảo sát (bảng
câu hỏi) (Mishra và Suar, 2010; Tilakasiri, 2012) và phương pháp phân tích nội dung
(Kimbro và Melendy, 2010; Bnouni, 2011; Ehsan và Kaleem, 2012).
Trong nghiên cứu này, các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam thuộc mười ngành công nghiệp khác nhau được chọn. Báo cáo thường niên được
tập hợp trong suốt giai đoạn nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2016 và được sử dụng
như là nguồn dữ liệu chính. Phân tích nội dung được sử dụng như là công cụ cho việc
phân tích mức độ thực hành trách nhiệm xã hội thông qua bảng câu hỏi các tiêu chí
trách nhiệm xã hội để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội. Phương pháp này đã được
sử dụng trong các nghiên cứu trách nhiệm xã hội để xác định các đặc điểm và mô hình
thực hành trách nhiệm xã hội. Phân tích nội dung là một trong các phương pháp
nghiên cứu phù hợp để kiểm tra thực hành trách nhiệm xã hội (Hackston và Milne,
1996; Guthrie và Abeysekera, 2006). Một số học giả cho rằng có một vài phương
pháp để mã hóa dữ liệu định lượng như đếm số trang giấy, đếm số câu, đếm số đoạn
và tỷ lệ của trang giấy. Phân tích nội dung được áp dụng qua bốn bước: Đầu tiên liên
quan đến việc lựa chọn các chủ đề về trách nhiệm xã hội; thứ hai liên quan đến việc
xây dựng bảng câu hỏi các tiêu chí trách nhiệm xã hội qua việc phân loại trách nhiệm
xã hội thành bốn khía cạnh; thứ ba là tính toán chỉ số trách nhiệm xã hội; cuối cùng là
chấm điểm chéo chỉ số trách nhiệm xã hội để tạo độ tin cậy cho bộ chỉ số.
Nghiên cứu sử dụng một thước đo hiệu quả tài chính dựa vào kế toán và một
thước đo hiệu quả tài chính dựa trên thị trường để kiểm tra mối quan hệ với trách
nhiệm xã hội. Hai thước đo hiệu quả tài chính gồm ROA, TBQ (Vander Laan và cộng
sự, 2008; Ehsan và Kaleem, 2012; Tyagi, 2012; Lee và cộng sự, 2013). Bên cạnh đó,
nghiên cứu còn sử dụng thêm thước đo rủi ro công ty (Adams và cộng sự, 2005;
87
Murray và cộng sự, 2006; Moneva và Ortas, 2008; Oikonomou và cộng sự, 2012;
Bouslah và cộng sự, 2013) để đo lường mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro
công ty. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng một số biến mà được phát hiện có ảnh
hưởng nhiều lên mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính như là các
biến kiểm soát gồm quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và ngành (Byus và cộng sự,
2010; Inoue và Lee, 2011; Islam và cộng sự, 2012; Pyo và Lee, 2013). Cuối cùng là
xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và
các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội.
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty, xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm
yết có công bố CSR và các công ty niêm yết không công bố CSR sẽ được trình bày
trong chương tiếp theo.
88
CHƯƠNG 4:
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM VÀ THẢO LUẬN
4.1. Giới thiệu
Như được mô tả trong các chương trước, mục đích của nghiên cứu này là điều
tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2012 – 2016.
Chương 3 thảo luận việc định nghĩa các biến, nguồn dữ liệu và các công cụ để kiểm
tra mô hình. Phân tích nội dung được sử dụng để tập hợp dữ liệu thực hành trách
nhiệm xã hội từ các báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và dữ liệu định lượng về
các chỉ số hiệu quả tài chính từ báo cáo tài chính trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Hồi quy đa biến được sử dụng để kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Chương này tập trung vào việc trình bày và
thảo luận các kết quả thực nghiệm mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính, và rủi ro công ty cũng như xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm
yết có công bố CSR với các công ty niêm yết khác. Các mô hình hồi quy đa biến
(pooled OLS, FEM, REM) và các kiểm tra kỹ thuật được áp dụng để kiểm tra các mối
quan hệ trên.
Các phần tiếp theo được sắp xếp như sau. Mục 4.2, thống kê mô tả. Mục 4.3,
phân tích tương quan. Mục 4.4, trình bày mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các
khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính cho cả hai trường hợp có và không
có yếu tố độ trễ (câu hỏi nghiên cứu 1). Mục 4.5, trình bày mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và rủi ro công ty (câu hỏi nghiên cứu 2). Mục 4.6, xem xét hiệu quả tài
chính giữa công ty có công bố trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách
nhiệm xã hội (câu hỏi nghiên cứu 3). Mục 4.7, thảo luận các kết quả đạt được. Cuối
cùng, tóm tắt và các kết luận liên quan đến phân tích hồi quy đa biến.
4.2. Thống kê mô tả
Hình 4.1 cho cái nhìn tổng quan về việc thực hành trách nhiệm xã hội ở Việt
Nam. Trong suốt giai đoạn nghiên cứu, mức độ thực hành công bố trách nhiệm xã hội
biến động theo chiều hướng tăng, điều này không chỉ được chứng minh qua số lượng
các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội tăng 10 lần so với thời điểm năm
2012 (10 công ty) đến năm 2016 (100 công ty) mà còn được thể hiện qua số lượng
89
thông tin công bố về trách nhiệm xã hội tăng lên, nghĩa là các công ty niêm yết Việt
Nam đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của việc thực hành và công bố trách
nhiệm xã hội đối với các bên liên quan của họ bên cạnh việc công bố các thông tin
truyền thống như trước nay để nâng cao lợi thế cạnh tranh và danh tiếng của công ty.
Hình 4.1: Sự biến động chỉ số trách nhiệm xã hội trung bình của các công ty niêm yết
giai đoạn 5 năm (2012 – 2016)
CSR trung bình
63%
56%
51%
50%
49%
70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
2012
2013
2014
2015
2016
(Nguồn: tác giả)
Bảng 4.1: Thống kê các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu
Obs
Mean
Std. Dev Min
Max
256
.0857
.0966
-.361
.784
ROA
256
.3674
.1139
.096
.875
FR
256
.8651 1.0889
.002 6.669
TBQ
256
.4467
.2175
0
1
csr_env
256
.7102031
.1593
0
1
csr_empl
256
.6
.1832
0
1
csr_com
256
.4921
.2474
0
1
csr_prod
256
.5640
.1396
0
1
CSRtotal
256
1.7546 3.771594
-.17 9.217
Size
256
.4921
.2355
.015
.963
Lev
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Bảng 4.1 trình bày thống kê mô tả của các biến từ năm 2012 đến năm 2016. Sự
chênh lệch giữa giá trị tối đa và giá trị tối thiểu đối với một số biến tương đối cao. Ví
dụ, ở mức trung bình, ROA trong khoản -.361 đến .784, FR từ .096 đến .875, và TBQ
từ .002 đến 6.669 cho toàn giai đoạn nghiên cứu. Có một số biến mang giá trị âm, ví
90
dụ ROA, SIZE. Độ lệch chuẩn có giá trị cao nhất đối với biến hiệu quả tài chính là
TBQ (86%), nghĩa là có sự khác biệt giữa các công ty niêm yết về hiệu quả thị trường.
Giá trị trung bình của các biến độc lập về chỉ số trách nhiệm xã hội từ cao nhất
đến thấp nhất là 0.71, 0.6, 0.56, 0.49, 0.45 (CSR_empl, CSR_com, CSR_total,
CSR_prod, CSR_env) cho thấy các công ty niêm yết Việt Nam tình nguyện công bố
các hoạt động trách nhiệm xã hội. Kiểm tra các số này cho thấy thông tin về cộng
đồng và người lao động đã nhận được sự chú ý cao nhất và được các công ty niêm yết
Việt Nam công bố nhiều nhất trong các báo cáo thường niên, hoặc báo cáo bền vững,
hoặc websites. Điều này có nghĩa là các công ty niêm yết đã chi tiền để giúp đỡ cộng
đồng xung quanh, người dân và người lao động trong công ty ngày càng nhiều. Độ
lệch của CSR_env là 22%, CSR_empl là 16%, CSR_com là 18%, CSR_prod là 25% và
CSR tổng là 14%. Các con số này cho biết độ lệch về mức độ cung cấp thông tin trên
của mỗi khía cạnh trách nhiệm xã hội là không khác nhau nhiều.
Để đánh giá cao hơn nữa xu hướng thực hành trách nhiệm xã hội tại Việt Nam,
xem xét các khía cạnh trách nhiệm xã hội riêng biệt. Qua thống kê mô tả chứng minh
rằng các sáng kiến trách nhiệm xã hội được sử dụng bởi các công ty trong mẫu như
một phương tiện truyền thông đến các bên liên quan của họ. Tuy nhiên, ỡ mức giá trị
tối thiểu của các chỉ số trách nhiệm xã hội thành phần là 0%, nghĩa là vẫn còn nhiều
công ty không cung cấp nhiều thông tin liên quan đến các vấn đề môi trường, người
lao động, cộng đồng và sản phẩm hay mức độ công bố thông tin liên quan các vấn đề
này trong báo cáo thường niên vẫn còn rất yếu so với những gì các bên liên quan
mong muốn hoặc là các vấn đề này không xuất hiện trong hoạt động của các công ty.
4.3. Phân tích tương quan
Mục đích của phân tích tương quan nhằm kiểm tra khuynh hướng mối quan hệ
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc trong mô hình. Kết quả bảng 4.2 cho thấy chỉ
số trách nhiệm xã hội tổng có tương quan dương với ROA, TBQ nhưng nó lại tương
quan âm với FR, Lev, Size, Indus. Điều này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu
trước (Crochran và Wood, 1984; Waddock và Grave, 1997; Tsoutsoura, 2004). Đặc
biệt, Waddock và Grave (1997) thấy rằng trách nhiệm xã hội có tương quan dương và
đáng kể với ROA, ROE và ROS nhưng có tương quan âm đáng kể với LEV. Tuy nhiên,
Waddock và Grave (1997), Denis và Irene (2001), Aras và Aybars (2010) cũng tìm
thấy mối tương quan dương giữa trách nhiệm xã hội và Size trong các nghiên cứu của
91
họ. Tuy nhiên, những phát hiện trong nghiên cứu này là không nhất quán với kết quả
của họ: tương quan âm giữa Size và chỉ số trách nhiệm xã hội tổng.
Bảng 4.2: Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu
CRS
CSR
CSR
CSR
CSR
ROA
TBQ
FR
Size
Lev
Indus
Env
Empl
Com
Prod
Total
ROA
1.000
TBQ
0.573 1.000
FR
-0.111 -0.140 1.000
0.265 0.294
-0.103 1.000
CRSEnv
0.001 0.053 0.015 0.415 1.000
CSREmpl
0.047
0.034
-0.167 0.169 0.206 1.000
CSRCom
0.281
0.323 0.004 0.390 0.145 0.272 1.000
CSRProd
0.287 0.246
-0.090 0.755 0.583 0.576 0.733 1.000
CSRTotal
-0.159
0.002
-0.281 -0.163 -0.129 0.248
-0.048 -0.046
Size
1.000
-0.512
-0.323 0.022
-0.247 -0.066 -0.031
Lev
-0.264 -0.247 0.473 1.000
0.232
0.152
0.137
0.227
0.139
-0.154
0.118
0.138
-0.501
Indus
-0.319 1.000
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Khi xem xét mối tương quan giữa chỉ số trách nhiệm xã hội tổng, các chỉ số
trách nhiệm xã hội thành phần với hiệu quả tài chính và rủi ro công ty, kết quả một lần
nữa chỉ ra mối tương quan hỗn hợp. Cụ thể, có mối tương quan dương giữa chỉ số
trách nhiệm xã hội tổng, các chỉ số trách nhiệm xã hội thành phần với hiệu quả tài
chính; trong khi, chỉ số trách nhiệm xã hội tổng, chỉ số trách nhiệm với môi trường và
với cộng đồng tương quan âm với rủi ro công ty thì chỉ số trách nhiệm với người lao
động và với sản phẩm tương quan dương với rủi ro công ty.
Bên cạnh đó, nếu xét mối tương quan giữa ba biến kiểm soát với các chỉ số
trách nhiệm xã hội thành phần thấy rằng Lev có tương quan âm với bốn khía cạnh
trách nhiệm xã hội; Size có tương quan dương với CSR_com nhưng lại tương quan âm
với ba chỉ số trách nhiệm xã hội còn lại; ngược lại, Indus có tương quan âm với
CSR_com nhưng lại tương quan dương với ba chỉ số trách nhiệm xã hội còn lại. Nghĩa
là công ty có quy mô càng lớn thì càng đầu tư nhiều chi phí hơn cho các hoạt động
cộng đồng để xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho công ty với cộng đồng địa phương và các
bên liên quan khác, hay các công ty thuộc nhóm ngành công nghiệp có khả năng gây ô
nhiễm cao sẽ có khuynh hướng đầu tư nhiều hơn cho các hoạt động cộng đồng nhằm
cải thiện hình ảnh và tăng hiệu quả tài chính.
92
Như vậy, kết quả bảng 4.2 cho thấy mối tương quan giữa chỉ số trách nhiệm xã
hội tổng, các chỉ số trách nhiệm xã hội thành phần với hiệu quả tài chính và rủi ro
công ty.
4.4. Phân tích mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách
nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính
4.4.1. Trường hợp 1: Không xem xét yếu tố độ trễ vào mô hình hồi quy
4.4.1.1. Kiểm tra đa cộng tuyến
Bảng 4.3: Kiểm tra đa cộng tuyến bằng việc sử dụng VIF
Variable
1/VIF 0.9208 0.6299 0.7206 0.7309 Mối quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội tổng và hiệu quả tài chính VIF 1.09 1.59 1.39 1.37 1.36
CSR tổng Size Lev Indus Mean VIF
Mối quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội thành phần và hiệu quả tài chính
0.6851 0.7846 0.7965 0.7676 0.5861 0.6930 0.7135 CSR_env CSR_empl CSR_com CSR_prod Size Lev Indus Mean VIF 1.46 1.27 1.26 1.30 1.71 1.44 1.40 1.35
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Đa cộng tuyến được sử dụng để kiểm tra xem các biến độc lập có tương quan
với nhau không hay đa cộng tuyến có xuất hiện giữa các biến độc lập trong mô hình
không (size, leverage, industry, trách nhiệm xã hội), vì nếu xuất hiện đa công tuyến
trong mô hình sẽ làm cho kết quả hồi quy bị sai lệch. Do đó, trước khi thực hiện hồi
quy để đảm bảo độ tin cậy cho kết quả hồi quy, nghiên cứu này tiến hành kiểm tra đa
cộng tiến bằng việc kiểm tra tương quan Pearson, hệ số phóng đại phương sai
(Variance inflation factor - VIF) và hệ số Tolerance (giá trị của độ chấp nhận).
Gujarati (2009) cho rằng nếu hệ số tương quan lớn hơn 0.8 (0.9) được xem là một vấn
đề nghiêm trọng.
93
Hệ số và mức độ tương quan tương quan của các biến độc lập và phụ thuộc
trong dữ liệu bảng (2012 - 2016) được trình bày trong bảng 4.2. Kết quả bảng 4.2 cho
thấy ma trận tương quan giữa các biến độc lập, biến phụ thuộc và biến kiểm soát.
Tương quan Pearson giữa từng cặp biến trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính cho
thấy hệ số tương quan cao nhất giữa CSR_env – ROA (0.26), CSR_env – TBQ (0.29);
CSR_prod – ROA (0.28), CSR_prod – TBQ (0.32); CSR tổng – ROA (0.24), CSR tổng
– TBQ (0.28); giữa trách nhiệm xã hội với các biến kiểm soát thì CSR_env - Lev
(0.247), CSR_com – Size (0.248); giữa chỉ số trách nhiệm xã hội tổng và các chỉ số
trách nhiệm xã hội thành phần thì CSR_env – CSR tổng (0.75), CSR_prod – CSR tổng
(0.73). Như vậy các kết quả đều cho thấy hệ số tương quan thấp hơn 0.8, điều này
chứng minh rằng vấn đề đa cộng tuyến không có khả năng xảy ra giữa các biến trong
mô hình.
Ngoài ra, các biến độc lập không có tương quan mạnh lẫn nhau. Mặc dù vẫn có
một số biến có tương quan chặt với nhau, nhưng mức độ tương quan này thì vẫn thấp
hơn 0.8 hay đa cộng tuyến không tồn tại trong mô hình. Nghiên cứu tiến hành kiểm tra
VIF và hệ số Tolerance. Theo “Nguyên tắc kinh nghiệm” (Gujarati, 2009), bảng 4.3
cho thấy kết quả VIF < 2.5 hoặc độ sai biệt > 0.5 nghĩa là là đa cộng tuyến không phải
là vấn đề nghiêm trọng cho mô hình này.
4.4.1.2. Kiểm tra phương sai thay đổi
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi
Chi (𝛘2) Prob Mô hình hồi quy giữa chỉ số trách nhiệm xã hội tổng và hiệu quả tài chính ROA White’s General 15.52 0.2758 TBQ White’s General 56.13 0.0000
Mô hình hồi quy giữa chỉ số trách nhiệm xã hội thành phần và hiệu quả tài chính
72.87
30.65 0.6324 Chi (𝛘2) Prob 0.0001
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Bên cạnh đó, để làm tăng thêm độ tin cậy cho các kết quả hồi quy, nghiên cứu
này tiến hành kiểm tra liệu có hiện tượng phương sai thay đổi xảy ra trong mô hình
nghiên cứu hay không thông qua việc sử dụng kiểm định Breusch-Pagan/Cook-
94
Weisberg test và/hoặc White’s General để phát hiện phương sai thay đổi. Ngoài ra,
phương pháp dùng sai số chuẩn điều chỉnh (robust standard error) cũng là một phương
pháp khác để kiểm tra phương sai thay đổi. Gujarati (2009) cho rằng vấn đề của OLS
khi ước lượng sai số thì không được phân phối độc lập và đồng nhất. Khi phương sai
thay đổi tồn tại, sai số chuẩn có thể bị sai lệch. Các hệ số từ các ước lượng sẽ không
thay đổi khi sử dụng phương pháp dùng sai số điều chỉnh.
Bảng 4.4, cho thấy có hiện tượng phương sai thay đổi nói khác đi vấn đề
phương sai thay đổi có thể là vấn đề quan trọng của nghiên cứu. Ví dụ, khi xét mối
quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội tổng và các chỉ số trách nhiệm xã hội thành
phần - TBQ (p value < 0.05). Do đó, để hoàn thành giả định hồi quy, nghiên cứu này
kiểm soát vấn đề phương sai thay đổi nhằm cung cấp biện pháp phù hợp hơn cho mô
hình bằng việc sử dụng phương pháp dùng sai số điều chỉnh (robust standard errors)
đối với các mô hình xuất hiện phương sai thay đổi và kết quả hồi quy được trình bày
trong phần phân tích hồi quy đa biến.
4.4.1.3. Phân tích hồi quy đa biến
4.4.1.3.1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
ROA là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.5 cho thấy
chấp nhận giả thuyết H0 (Prob = 1.0000) do vậy mô hình pooled OLS là mô hình phù
0.0444) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Tuy nhiên, khi dựa vào
hợp hơn REM. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, bác bỏ giả thuyết H0 (Prob =
kết quả kiểm định F-test (Prob = 0.4620), cũng cho rằng mô hình phù hợp là pooled
OLS. Như vậy, mô hình phù hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ này là mô hình
pooled OLS, với mức ý nghĩa 1%
TBQ là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.5 cho thấy
bác bỏ giả thuyết H0 (Prob = 0.0000), mô hình REM là mô hình phù hợp hơn pooled
OLS. Tương tự, đối với kết quả kiểm tra Hausman test cũng bác bỏ giả thuyết H0
(Prob = 0.0000) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Đồng thời F-test
cũng cho thấy mô hình FEM là mô hình phù hợp (Prob = 0.0000). Vì vậy, mô hình
phù hợp để đo lường mối quan hệ này là mô hình FEM.
95
Bảng 4.5: Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
ROA TBQ
CSR tổng
Size
Lev
Indus
Observations R-squared F P_value F test Hausman test Chi (χ2) Prob Breusch-Pagan LM test Chi (χ2) Prob OLS .0678** (1.94) .0077** (2.33) -.1946*** (-8.32) .0318** (2.10) 256 0.2975 26.58 0.0000*** 0.4620 0.00 1.0000 FE .0140 (0.30) -.0133 (-1.18) -.2637*** (-2.77) -.0543179 (-0.62) 256 0.1990 2.69 0.0332** 9.77 0.0444 OLS 1.7914*** (4.19) .0749 (1.56) -.5703** (-2.09) .3534*** (2.80) 256 0.1419 6.31 0.0000*** 0.0000 143.64 0.0000 FE .3550 (1.48 ) -.0920 (-1.01) .6759*** (2.69) -.1242 (0.29) 256 0.0106 2.16 0.0762 75.51 0.0000
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata).
(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5% và (***) mức ý nghĩa 1%
Như vậy, có mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính với mức ý nghĩa là 1%, khẳng định mối tương quan trong bảng 4.2, kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Cochran và Wood (1984), Waddock và Grave (1997).
Tuy nhiên, khi xét đơn biến thì trách nhiệm xã hội không ảnh hưởng lên hiệu quả tài
chính dựa trên dữ liệu thị trường mà chỉ có Lev tác động cùng chiều lên TBQ ở mức ý
nghĩa 1%, điều này có nghĩa là việc sử dụng nợ vay có thể làm giảm gánh nặng thuế
và thông qua đó làm tăng giá trị/hiệu quả công ty. Tuy nhiên, nếu lạm dụng đòn bẩy
tài chính sẽ gây ra chi phí kiệt quệ tài chính và làm giảm giá trị công ty, thậm chí dẫn
tới phá sản. Bởi vậy, khi các công ty niêm yết sử dụng nợ ở mức cao thì các chủ nợ và
cả cổ đông sẽ yêu cầu các công ty niêm yết phải quản trị rủi ro tốt hơn. Ngược lại,
trách nhiệm xã hội chỉ ảnh hưởng lên hiệu quả tài chính dựa vào dữ liệu kế toán
(ROA) ở mức ý nghĩa 5%, kết quả này phù hợp với các nghiên cứu (Aupperle và cộng
sự, 1985; Stanwick và Stanwick, 1998; McWilliam và Siegle, 2000; Peters và Mullen,
96
2009; Salam, 2009; Crisostomo và cộng sự, 2011; Soana, 2011b; Ehsan và Kaleem,
2012); nhưng lại không có bất kỳ ảnh hường nào của trách nhiệm xã hội lên hiệu quả
tài chính dựa trên thị trường (TBQ), kết quả này trái với các nghiên cứu (Fombrun và
Shanley, 1990; Brown và Perry, 1994; Dowell và cộng sự, 2000; King và Lenox,
2001; Cheung và cộng sự, 2010; Saleh và cộng sự, 2011; Garcia-Castro và cộng sự,
2010; Schreck, 2011). Tóm lại, kết quả hồi quy này cho thấy rằng việc thực hiện các
hoạt động trách nhiệm xã hội đã tác động cùng chiều lên hiệu quả tài chính nhưng
hiệu quả tài chính tốt hơn chỉ được phản ánh trên dữ liệu kế toán mà không được phản
ánh qua dữ liệu thị trường có thể một phần do trách nhiệm xã hội trong bối cảnh Việt
Nam chưa phải là một trong các yếu tố quan trọng để nhà đầu tư xem xét trong khi
đưa ra quyết định đầu tư của mình, mặt khác nhận thức của phần lớn các nhà đầu tư ở
nước ta về trách nhiệm xã hội vẫn chưa đầy đủ cũng như hoạt động trách nhiệm xã hội
vẫn mang tính tự nguyện và chủ yếu các công ty niêm yết có quy mô lớn thực hiện.
Chính vì những lý do trên đã không phản ánh được những lợi ích của trách nhiệm xã
hội mang lại cho hiệu quả tài chính qua dữ liệu thị trường. Song có một số nghiên cứu
gần đây được thực hiện bởi Bewley và Li (2000), Beurden và Gossling (2008), Chen
và Wang (2011), Sun (2012) và Amran (2015) đã đưa ra những bằng chứng tương tự.
Họ đã kết luận rằng có mối tương quan dương giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính. Họ cũng tranh luận rằng việc thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội có thể
mang lại nhiều lợi ích kinh tế như làm tăng hiệu quả tài chính, do đó góp phần làm tối
đa hóa giá trị tài sản của cổ đông và cải thiện mối quan hệ giữa cổ đông và các nhà
quản lý.
4.4.1.3.2. Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính công ty
ROA là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.6 cho thấy
chấp nhận giả thuyết H0 (Prob = 1.0000), mô hình pooled OLS là mô hình phù hợp
hơn REM. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, chấp nhận giả thuyết H0 (Prob =
0.1653) nghĩa là mô hình REM là mô hình phù hợp hơn FEM. Tuy nhiên, kết quả F-
test (Prob = 0.6610) thì mô hình pooled OLS là mô hình phù hợp. Từ kết quả so sánh
có thể thấy mô hình phù hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ này là mô hình
pooled OLS, với mức ý nghĩa 1%.
97
TBQ là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.6 cho thấy
bác bỏ giả thuyết H0 (Prob = 0.0000), mô hình REM là mô hình phù hợp hơn pooled
OLS. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, cũng bác bỏ giả thuyết H0 (Prob =
0.0000) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Đồng thời, kết quả
kiểm tra F-test (Prob = 0.0000) thì mô hình phù hợp là mô hình FEM. Vì vậy, mô hình
phù hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ này là mô hình FEM.
Bảng 4.6: Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
ROA TBQ
CSR_env
CSR_empl
CSR_com
CSR_prod
Size
Lev
Indus
Observations R-squared F P_value F test Hausman test Chi (χ2) Prob Breusch-Pagan LM test Chi (χ2) Prob OLS .0587** (2.29) -.0547 (-1.67) -.0108 (-0.38) .0390* (1.83) .0075** (2.23) -.1841*** (-7.81) .0285* (1.88) 256 0.3220 16.83 0.0000*** 0.6610 0.00 1.0000 FE .0289798 (0.69) -.0407572 (-0.85) .0051545 (0.12) .0079145 (0.26) -.0133 (-1.16) -.2644*** (-2.73) -.0597366 (-0.68) 256 0.2102 1.66 0.1240 10.43 0.1653 OLS 1.0817*** (3.69) -.3331 (-1.21) -.1871 (-0.58) .7252*** (3.23) .0867** (2.44) -.5384** (-2.23) .2809* (1.75) 256 0.1937 8.51 0.0000*** 0.0000 112.87 0.0000 FE .1051 (0.50) -.0224 (-0.09) .2066 (0.97) .0831 (0.56) -.0952 (-1.03) .6743*** (2.64) -.1291 (-0.30) 256 0.0098 1.32 0.2437 30.29 0.0001
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata).
(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5% và (***) mức ý nghĩa 1%
98
Tương tự kết quả hồi quy ở bảng 4.5, cũng cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở mức ý nghĩa
1%. Tuy nhiên, khi xét đơn biến thì các khía cạnh trách nhiệm xã hội không ảnh
hưởng lên hiệu quả tài chính dựa trên dữ liệu thị trường mà chỉ có Lev tác động cùng
chiều lên TBQ ở mức ý nghĩa 1%. Ngược lại, các phương diện trách nhiệm xã hội lại
ảnh hưởng lên hiệu quả tài chính dựa vào dữ liệu kế toán, cụ thể: CSR_env có tương
quan dương với ROA ở mức ý nghĩa là 5%. Điều này khẳng định mối tương trong
bảng 4.2 và kết quả phù hợp với các nghiên cứu của Deegan (2002), Kuasirikun và
Scherer (2004), Haniffa và Cooke (2005), Pahuja (2009), Setyorini và Ishak (2012).
Các nghiên cứu này chứng minh rằng các công ty chi phí cho các hoạt động bảo vệ
môi trường hay có thông tin về chính sách môi trường có khả năng dẫn đến hiệu quả
tài chính tốt hơn. Tương tự, có bằng chứng về mối tương quan dương giữa CSR_prod
và hiệu quả tài chính (ROA) với mức ý nghĩa là 10%. Kết quả phù hợp với các nghiên
cứu của Carrol (1991), Galbreath (2009), Rashid (2010), Menassa (2010), Green và
Peloza (2011). Các nghiên cứu này cũng tìm thấy một mối tương quan dương giữa
CSR_prod và hiệu quả tài chính. Bởi vì, thông qua sáng kiến trách nhiệm với sản
phẩm/khách hàng, công ty có thể mở rộng thị trường đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
người tiêu dùng, do vậy nâng cao mức độ hiệu quả của mình bằng cách giảm thiểu chi
phí, tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, các kết quả phân tích hồi quy không cung cấp bằng chứng về mối
quan hệ giữa CSR_empl và hiệu quả tài chính (ROA), kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Criso'stomo, Freir và Vasconcellos (2011), Korathotage (2012), Wisuttorn
(2015). Đồng thời, cũng không tìm thấy mối quan hệ nào giữa CSR_com với ROA.
Kết quả này trái với các nghiên cứu của Branco & Rodrigues (2009), Joshi và Gao
(2009), Lii (2011), Nejati và Ghasemi (2012), David (2012).
4.4.2. Trường hợp 2: Có xem xét yếu tố độ trễ (t-1) vào mô hình hồi quy
4.4.2.1. Kiểm tra đa cộng tuyến
Tương tự, để đảm bảo tính chính xác cho các kết quả hồi khi đưa yếu tố độ trễ
vào xem xét. Nghiên cứu này cũng tiến hành kiểm tra lại hiện tượng đa cộng tuyến
bằng cách dựa vào kết quả phân tích hệ số tương quan và mức độ tương quan của các
biến độc lập và phụ thuộc giai đoạn (2012 - 2016) được trình bày trong bảng 4.2. Sau
đó, nghiên cứu tiến hành kiểm tra vấn đề đa cộng tuyến thông qua hệ số VIF và độ sai
99
biệt (tolerance) và kết quả từ bảng 4.7 cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến
tồn tại trong cả bốn mô hình hồi quy vì VIF < 2.50.
Bảng 4.7: Kiểm tra đa cộng tuyến bằng việc sử dụng VIF
Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội (t-1) và hiệu quả tài chính
1/VIF 0.9072 0.5493 0.6572 0.9072 VIF 1.10 1.82 1.52 1.10 1.48
Variable CSRt-1 tổng Size Lev Indus Mean VIF
Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội (t-1) và hiệu quả tài chính 0.7192 0.8359 0.7973 0.7718 0.5239 0.6305 0.6479 CSR_envt-1 CSR_emplt-1 CSR_comt-1 CSR_prodt-1 Size Lev Indus Mean VIF 1.39 1.20 1.25 1.30 1.91 1.59 1.54 1.45
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
4.4.2.2. Kiểm tra phương sai thay đổi
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi
Mô hình hồi quy giữa trách nhiệm xã hội (t-1) và hiệu quả tài chính
ROA White’s General 5.79 0.9534 TBQ White’s General 39.72 0.0002 Chi (𝛘2) Prob
Mô hình hồi quy giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội (t-1) và hiệu quả tài chính
19.57 0.9773 48.69 0.0492 Chi (𝛘2) Prob
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Mục đích của việc kiểm tra lại phương sai thay đổi nhằm tăng độ tin cậy cho
kết quả hồi quy, bằng việc sử dụng các kiểm định tương tự khi kiểm tra mối quan hệ
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính không đưa yếu tố độ trễ vào mô hình.
100
Kết quả kiểm định bảng 4.8 cho thấy có hiện tượng phương sai thay đổi khi xét mối
quan hệ giữa chỉ số CSRt-1 và TBQ (p < 0.05), để khắc phục vấn đề phương sai thay
đổi nghiên cứu này sử dụng phương pháp dùng sai số chuẩn điều chỉnh (robust
standard errors) khi kiểm tra mối quan hệ có xét yếu tố độ trễ giữa trách nhiệm xã hội
và TBQ. Kết quả được trình bày trong phần tiếp theo.
4.4.2.3. Phân tích hồi quy đa biến
4.4.2.3.1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội có xét yếu tố độ trễ và hiệu quả
tài chính
Bảng 4.9: Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội có yếu tố độ trễ và hiệu quả tài chính
ROA TBQ
CSRt-1 tổng
Size
Lev
indus
Observations R-squared F P_value F test Hausman test Chi (χ2) Prob Breusch-Pagan LM test Chi (χ2) Prob OLS .1386*** (4.02) .0006 (0.65) -.1141*** (-5.08) .0339*** (2.71) 154 0.3249 17.92 0.0000*** 0.6170 0.00 1.0000 FE .0333 (0.46) -.0120 (-0.62) -.3914*** (-2.91) -.0286 (-0.55) 156 0.2621 2.70 0.0363** 6.61 0.1579 OLS 1.6850*** (3.54) .0037 (0.25) -.3830 (-1.26) .3026 (1.74) 156 0.1308 5.68 0.0003*** 0.0000 135.18 0.0000 FE .7176** (2.14) -.0081 (-0.99) .4864* (1.72) -.1036 (-0.43) 156 0.1104 2.83 0.0296** 1019.08 0.0000
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5% và (***) mức ý nghĩa 1%
ROA là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.9 cho thấy
chấp nhận giả thuyết H0 (Prob = 1.0000), mô hình pooled OLS là mô hình phù hợp
hơn REM. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, cũng chấp nhận giả thuyết H0 (Prob
= 0.1579) nghĩa là mô hình REM là mô hình phù hợp hơn FEM. Tuy nhiên, kết quả
101
kiểm tra F-test (Prob = 0.6170) thì mô hình pooled OLS là mô hình phù hợp. Từ kết
quả so sánh có thể thấy mô hình phù hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ này là
mô hình pooled OLS, với mức ý nghĩa 1%.
TBQ là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.9 cho thấy
bác bỏ giả thuyết H0 (Prob = 0.0000), mô hình REM là mô hình phù hợp hơn pooled
OLS. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, cũng bác bỏ giả thuyết H0 (Prob =
0.0000) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Đồng thời, kết quả F-
test (Prob = 0.0000) cho thấy mô hình FEM là mô hình phù hợp. Vì vậy, Mô hình phù
hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ này là mô hình FEM, với mức ý nghĩa 5%.
Như vậy, khi xét thêm yếu tố độ trễ vào mô hình, kết quả cũng cung cấp mối
quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở mức ý nghĩa lần
lượt là 1% và 5%. Tuy nhiên, có sự khác biệt so với trường hợp không đưa độ trễ vào
mô hình ở chỗ, trách nhiệm xã hội có độ trễ thời gian trong mô hình hồi quy đã tác
động đồng thời lên hiệu quả tài chính ở cả hai phương diện dựa vào kế toán và dựa
trên thị trường. Nghĩa là việc thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội năm trước
không chỉ góp phần làm tăng hiệu quả tài chính về phương diện kế toán (ROA) mà
cũng còn làm tăng hiệu quả tài chính ở phương diện thị trường (TBQ) tại thời điểm
nghiên cứu, phát hiện này phù hợp với các cứu trước đây của Cochran và Wood
(1984), Waddock và Grave (1997), Trang và Yekini (2014).
4.4.2.3.2. Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội có xét yếu tố độ
trễ và hiệu quả tài chính
ROA là biến phụ thuộc
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.10 cho
thấy chấp nhận giả thuyết H0 (Prob = 1.0000), mô hình pooled OLS là mô hình phù
hợp hơn REM. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, bác bỏ giả thuyết H0 (Prob =
0.0132) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Tuy nhiên, kết quả
kiểm tra F-test (Prob = 0.0811) thì mô hình poolde OLS là mô hình phù hợp. Do vậy,
từ kết quả so sánh có thể thấy mô hình phù hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ
này là mô hình pooled OLS, với mức ý nghĩa 1%.
TBQ là biến phụ thuộc
102
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.10 cho
thấy bác bỏ giả thuyết H0 (Prob = 0.0000), mô hình REM là mô hình phù hợp hơn
pooled OLS. Đối với kết quả kiểm tra Hausman test, cũng bác bỏ thuyết H0 (Prob =
0.0000) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Đồng thời kết quả kiểm
tra từ F-test (Prob = 0.0000) cũng cho rằng mô hình FEM là mô hình phù hợp. Do
vậy, mô hình phù hợp nhất để đo lường mối quan hệ này là mô hình FEM.
Bảng 4.10: Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội có xét yếu tố độ trễ và
hiệu quả tài chính
ROA TBQ
CSR_envt-1
CSR_emplt-1
CSR_comt-1
CSR_prodt-1
Sizet
Levt
Indust
Observations R-squared F P_value F test Hausman test Chi (χ2) Prob Breusch-Pagan LM test Chi (χ2) Prob OLS .0882*** (3.37) -.0246 (-0.84) .0032 (-0.13) .0506** (2.52) .0004 (0.45) -.1084*** (-4.85) .0310** (2.41) 152 0.3483 12.91 0.0000*** 0.0811 0.00 1.0000 FE -.0666 (-1.13) -.0223 (-0.31) .0361 (0.47) -.0280 (-0.60) .0015 (0.75) -.1435** (-2.25) -.0364 (-0.67) 156 0.0228 1.02 0.4209 17.74 0.0132 OLS 1.1597*** (3.34) -.4424 (-1.03) -.1318 (-0.35) .6644** (2.23) .0010 (0.07) -.2708 (-0.90) .1966 (1.11) 156 0.1917 5.01 0.0000*** 0.0000 115.34 0.0000 FE -.2740 (-1.03) -.4146 (-1.30) -.3387 (-0.98) .0903 (0.43) -.0119 (-1.31) .4641 (1.61) -.1134 (-0.46) 156 0.0669 1.89 0.0824 200.49 0.0000
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5% và (***) mức ý nghĩa 1%
103
Cũng tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa các khía cạnh trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính khi đưa yếu tố độ trễ vào mô hình hồi quy với mức ý
nghĩa 1%. Tuy nhiên, tương tự trường hợp hồi quy không có xét yếu tố độ trễ, kết quả
hồi quy chỉ cung cấp mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả
tài chính dựa vào kế toán (ROA) trong khi lại không có bất kỳ mối quan hệ nào lên
hiệu quả tài chính dựa vào thị trường (TBQ). Kết quả này hàm ý rằng việc thực hiện
các khía cạnh trách nhiệm xã hội năm trước chỉ tác động lên trực tiếp lên ROA tại thời
điểm nghiên cứu. Điều này được thể hiện rõ hơn khi phân tích đơn biến mối quan hệ
giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính, cụ thể: chỉ có hai khía
cạnh trách nhiệm xã hội cho thấy mối quan hệ với hiệu quả tài chính: CSR_prodt-1
tương quan dương với ROA ở mức ý nghĩa 5% kết quả trái với các nghiên cứu của
Carrol (1991) Galbreath (2009), Rashid (2010), Rashid (2010), Menassa (2010),
Green và Peloza (2011); CSR_envt-1 có tương quan dương với ROA ở mức ý nghĩa
1%. Nghĩa là, chi phí cho các hoạt động bảo vệ môi trường và truyền thông về chính
sách môi trường không chỉ ảnh hưởng tích cực tức thời lên hiệu quả tài chính mà sự
ảnh hưởng này còn kéo dài sang năm tiếp theo. Kết quả phù hợp với các nghiên cứu
của Deegan (2002), Kuasirikun & Scherer (2004), Haniffa & Cooke (2005), Pahuja
(2009), Setyorini & Ishak (2012).
Trong khi đó, CSR_emplt-1 không có ảnh hưởng lên hiệu quả tài chính, kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Criso'stomo, Freir và Vasconcellos (2011). Và
CSR_comt-1 cũng không có bất kỳ mối quan hệ nào với ROA, nghĩa là cho dù đây là
một trong các hoạt động trách nhiệm xã hội được các công ty báo cáo nhiều nhất về
mặt nội dung các kết quả đã thực hiện nhưng qua kết quả phân tích hồi quy thì việc
công ty có hay không có quan hệ tốt với cộng đồng, đóng góp nhiều cho các hoạt động
từ thiện, nhân đạo hay tham gia các hoạt động cộng đồng xung quanh ở năm trước
cũng không ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính tại thời điểm nghiên cứu. Mặc dù, thực
tế cho thấy nhờ các hoạt động cộng đồng, nhân đạo, từ thiện v.v... mà các công ty góp
phần giảm được các chi phì về quảng bá thương hiệu và là kênh tiếp cận được cộng
đồng nhanh nhất và rẻ tiền nhất. Kết quả này trái với các nghiên cứu của Branco và
Rodrigues (2009), Joshi và Gao (2009), Lii (2011), Nejati và Ghasemi (2012), David
(2012).
4.5. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
104
Bảng 4.11: Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
ΔCSR
Size
Lev
indus FEM .1662996** (1.92) .2229682** (2.45) -1.094198*** (-3.62) -
OLS -.0836444** (-2.13) -.0346938*** (-2.87) .2192619*** (3.18) .0688998* (1.70) 112 0.2025 6.79 0.0001*** FR REM .1472636* (1.72) .0248077 (0.99) -.0351405 (-0.24) .0788447 (0.89) 116 0.0367 4.22 0.3766 116 0.0069 6.50 0.0005*** 0.0767 31.50 0.0000
0.00 1.0000
Observations R-squared F/ χ2 P_value F test Hausman test Chi (χ2) Prob Breusch-Pagan LM test Chi (χ2) Prob (Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5% và (***) mức ý nghĩa 1%
Đối với kết quả kiểm tra Breusch-Pagan Lagrange (LM) test, bảng 4.11 cho
thấy chấp nhận giả thuyết H0 (Prob = 1.0000), mô hình pooled OLS là mô hình phù
0.0000) nghĩa là mô hình FEM là mô hình phù hợp hơn REM. Tuy nhiên, theo kết quả
hợp hơn REM. Nhưng kết quả kiểm tra Hausman test, bác bỏ giả thuyết H0 (Prob =
kiểm định F test thì cho rằng mô hình phù hợp để kiểm tra mối quan hệ này là pooled
OLS (Prob = 0.0767). Như vậy, mô hình phù hợp cuối cùng để đo lường mối quan hệ
này là mô hình OLS, với mức ý nghĩa 1%.
Tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro
công ty với mức ý nghĩa 1%. Khi xét đơn biến, tìm thấy mối quan hệ ngược chiều
giữa ΔCSR - FR với mức ý nghĩa 5%, như vậy kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
trước của Spicer (1978), Sen và cộng sự (2006), Sharfman và Fernando (2008), Luo
và Bhattacharya (2009), Oikonomou và cộng sự (2010), El Ghoul và cộng sự (2011),
105
Melo (2012), Attig và cộng sự (2013) nghĩa là nếu công ty tích cực tham gia các hoạt
động trách nhiệm xã hội (công ty có trách nhiệm xã hội) góp phần làm giảm rủi ro vì
trách nhiệm xã hội giúp công ty hấp thụ hiệu quả các cú sốc tiêu cực xảy ra nếu có và
làm cho giá cổ phiếu của công ty trên thị trường ổn định hơn.
4.6. Xem xét hiệu quả tài chính giữa công ty có công bố trách nhiệm xã hội
và công ty không công bố trách nhiệm xã hội
Bảng 4.12a: Thống kê nhóm của hiệu quả tài chính
Group No Mean Std.Dev Std.Err
CSR 100 .0861071 .096689 .0060431 ROA Non-CSR 100 .0761367 .4100884 .0256305
CSR 100 1.088996 .8651135 .0540696 TBQ Non-CSR 100 1.154711 2.066977 .1291861
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Bảng 4.12b: Bartlett's test for equal variances
Bartlett's test
F Prob > F SS df MS χ2 Prob
2.69 0.0000 2.383 .009 89.3899 0.001 255 ROA
0.39 1.0000 1089.460 4.272 412.6062 0.000 255 TBQ
(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp trên phần mềm Stata)
Thống kê nhóm ROA
Bảng 4.12a, giá tri mean đối với số liệu thống kê nhóm của các công ty niêm
yết có công bố CSR (0.086) cao hơn so với các công ty niêm yết không công bố CSR
(0.076). Đồng thời kết quả kiểm định t-test ở bảng 4.12b cho thấy giá trị p-value =
0.000 < 0.05 như vậy giả thuyết H0 được bác bỏ và chấp nhận giả thuyết thay thế.
Điều này có nghĩa là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về ROA giữa các công ty
niêm yết có công bố CSR và các công ty niêm yết không có công bố CSR.
Thống kê nhóm TBQ
Bảng 4.12a, giá tri mean đối với số liệu thống kê nhóm của các công ty niêm
yết có CSR (1.088) thấp hơn so với các công ty niêm yết không có CSR (1.154).
Nhưng kết quả kiểm định t-test ở bảng 4.12b cho thấy giá trị p-value = 1.000 > 0.05
như vậy giả thuyết H0 được chấp nhận, điều này có nghĩa là không có sự khác biệt có
106
ý nghĩa thống kê về TBQ giữa các công ty niêm yết có công bố CSR và các công ty
niêm yết không có công bố CSR.
Các phát hiện cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả tài
chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội so với những công ty
niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội dẫn đến việc chấp nhận giả thuyết H3,
nghĩa là hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội tốt
hơn các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, khi xem xét
từng biến cụ thể thấy rằng hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết thực hiện công
bố trách nhiệm xã hội lớn hơn các công ty niêm yết không thực hiện công bố trách
nhiệm xã hội chỉ được thể hiện qua thước đo dựa vào kế toán (Poddi và Vergalli,
2008; Ching và cộng sự, 2009; Chen và Wang, 2011; Uadiale và Fagbemi, 2011;
Hassan và cộng sự, 2012; Julian và Xu, 2016), trong khi xem xét thước đo dựa trên thị
trường thì việc thực hiện hay không thực hiện công bố các hoạt động trách nhiệm xã
hội lại không có sự khác nhau giữa hai nhóm công ty có công bô bố CSR và không
công bố CSR. Điều này có nghĩa là khi một công ty có quan hệ tốt với các bên liên
quan, tham gia tích cực vào các chương trình mang lại lợi ích cho cộng đồng sẽ đẩy
mạnh hình ảnh và làm tăng giá trị thương hiệu; cải thiện khả năng cạnh tranh; khách
hàng sẽ trở nên trung thành hơn; thúc đẩy tinh thần của nhân viên góp phần làm giảm
các chi phí liên quan đến lao động và nâng cao năng suất; các cổ đông cảm thấy quyền
lợi của họ đang được bảo vệ và tiền của họ cũng được sử dụng để cải thiện phúc lợi xã
hội bằng các khoản đóng góp vào các dự án trách nhiệm xã hội khác nhau và bảo vệ
môi trường. Kết quả là làm giảm chi phí giao dịch để có được nguồn tài trợ từ bên
ngoài… Tất cả các phát hiện có lợi trên đối với các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội xác nhận rằng thực sự các hoạt động trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng
lên hiệu quả tài chính và đó là một kết quả tích cực vì các công ty niêm yết có công bố
trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng cả khả năng sinh lời và tính bền vững của công ty đồng
thời nâng cao danh tiếng hơn so với các công ty niêm yết không công bố thông tin
trách nhiệm xã hội.
4.7. Thảo luận về các kết quả đạt được
4.7.1. Thảo luận về việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội
Như đã mô tả ở Chương 3, các nghiên cứu trước đó đã sử dụng các công cụ
điều tra như các thước đo buộc phải lựa chọn (Aupperle và cộng sự, 1985;. Aupperle,
107
1991) và thước đo danh tiếng như chỉ số danh tiếng và trách nhiệm xã hội của tạp chí
Fortune hoặc thang đo danh tiếng Moskowitz (Bowman và Haire, 1975; McGuire và
cộng sự, 1988; Preston và O'Bannon, 1997) để đo chỉ số trách nhiệm xã hội. Hơn nữa,
các chỉ số này thu được bằng cách phân tích nội dung của văn bản (Wolfe, 1991), các
thước đo hành vi và nhận thức (Wokutch và McKinney, 1991) và phương pháp nghiên
cứu tình huống tương tự như kiểm toán xã hội (Clarkson, 1991) cũng đã được sử dụng
như là thước đo trách nhiệm xã hội. Một số nhà nghiên cứu (Bowman và Haire, 1975;
Spicer, 1978; Chen và Metcalf, 1980; Shane và Spicer, 1983) đã sử dụng thước đo
một khía cạnh của trách nhiệm xã hội, chẳng hạn như đầu tư cho kiểm soát ô nhiễm.
Waddock và Graves (1997) sử dụng chỉ số KLD như một công cụ mới để đo trách
nhiệm xã hội dựa trên tám thuộc tính hiệu quả xã hội (CSP) mà nó được đánh giá một
cách nhất quán trên toàn bộ 500 công ty Standard & Poor. Tóm lại, năm trên tám
thuộc tính được đánh giá đã nhấn mạnh mối quan hệ chủ chốt với các bên liên quan,
cụ thể, quan hệ với cộng đồng, quan hệ với người lao động, hiệu quả đối với đặc điểm
sản phẩm và đối xử với phụ nữ và dân tộc thiểu số. Ba trên tám thuộc tính được dựa
trên chức năng quân sự: ký kết hợp đồng, tham gia vào năng lượng hạt nhân và sự
tham gia ở Nam Phi. Tuy nhiên, những phát hiện của nghiên cứu này đã không thể
chứng minh các chỉ số phát triển bền vững đã được mô tả trong các tài liệu. Ví dụ,
Mayer (2008) giải thích rằng nhiều chỉ số phát triển bền vững đã sử dụng cùng một
loại phương pháp để kết hợp dữ liệu của chúng và ông cũng chỉ trích các chỉ số này.
Mayer (2008) đề xuất một số chỉ số phát triển bền vững được sử dụng bởi các tổ chức
hiện hành. Chúng bao gồm các yếu tố như sức khoẻ, tính bền vững môi trường, tài
nguyên thiên nhiên, yếu tố dựa trên tính bền vững và thu nhập quốc gia bền vững.
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính cho nên cần có được một con số định lượng về
trách nhiệm xã hội. Vì vậy, mục đích của việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội là
để đo lường trách nhiệm xã hội được công bố trong báo cáo thường niên của các công
ty niêm yết được sử dụng trong nghiên cứu này. Mattingly và Berman (2006) nói rằng
việc đo lường trách nhiệm xã hội vẫn là một nhiệm vụ khó. Các nghiên cứu trước cho
rằng việc phát triển một chỉ số là phương pháp thích hợp nhất để đo trách nhiệm xã
hội ở các nước đang phát triển. Mặc dù có nhiều chỉ số bền vững khác nhau trong các
tài liệu hiện nay và các chỉ số này đã được sử dụng để đo các yếu tố xã hội và môi
108
trường. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên nghiên cứu này đã phát triển một chỉ số trách
nhiệm xã hội và cho phép chỉ số này được coi là chỉ số trách nhiệm xã hội tổng, hoặc
là bốn chỉ số trách nhiệm xã hội riêng liên quan đến bốn khía cạnh trách nhiệm xã hội
ở Việt Nam.
Tầm quan trọng của việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội là nó có thể được
áp dụng cho bất kỳ khung nghiên cứu về trách nhiệm xã hội. Bởi vì, tất cả các chỉ số
trách nhiệm xã hội được đề cập ở trên đều là một khía cạnh, trong khi chỉ số được phát
triển trong nghiên cứu này là đa khía cạnh. Do đó, chỉ số trách nhiệm xã hội trong
nghiên cứu này có thể được phát triển hơn nữa bằng cách thêm vào các khía cạnh khác
nhau. Trên cơ sở các tài liệu mô tả ở Chương 2, do không có sự rõ ràng trong việc đo
lường chỉ số trách nhiệm xã hội (Tsoutsoura, 2004). Vì vậy, nghiên cứu này đã phát
triển một thước đo đa chiều (khía cạnh) giống như hệ thống đánh giá KLD mà mỗi
công ty đại diện của chỉ số Standard & Poor 500 được đánh giá trên nhiều yếu tố trách
nhiệm xã hội (Waddock và Graves, 1997; Tsoutsoura, 2004).
Việc tính toán chỉ số được sử dụng trong nghiên cứu này là đơn giản và dễ
hiểu. Tất cả các thông tin trách nhiệm xã hội được công bố trong báo cáo thường niên
của các công ty niêm yết đã được bao gồm để tính chỉ số. Việc tính toán này được
thực hiện theo khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội đã được phát triển trong nghiên
cứu này. Ngoài việc đo lường hiệu quả trách nhiệm xã hội, kết quả của chỉ số này có
thể được sử dụng để xác định tính minh bạch biểu thị đặc điểm của các công ty trách
nhiệm xã hội (Chatterji 2009).
Tuy nhiên, hạn chế của chỉ số trách nhiệm xã hội được phát triển trong nghiên
cứu này là không có hệ thống tiêu chuẩn để đánh giá đối với các thông tin trách nhiệm
xã hội được công bố khi chúng được lượng hóa. Tuy nhiên, nghiên cứu đã không quan
tâm đến sự hạn chế này vì khung nghiên cứu không đề cập đến bất kỳ bên liên quan
quan trọng nào vì xác định rằng mối quan hệ với các bên liên quan là tương tự nhau.
Tuy nhiên, để khắc phục hạn chế này của chỉ số, các nghiên cứu tương lai có thể cân
nhắc những nội dung quan trọng đối với các thông tin trách nhiệm xã hội được công
bố sau khi lượng hóa các chỉ số.
4.7.2. Thảo luận các kết quả chính của nghiên cứu
Nghiên cứu đã kiểm tra việc thực hành trách nhiệm xã hội và mối quan hệ của
nó với hiệu quả tài chính trong bối cảnh Việt Nam. Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu
109
bao gồm các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (2012 – 2016).
Mẫu dữ liệu cuối của nghiên cứu cùng gồm 100 công ty (2016) với 256 quan sát công
ty/năm.
Trong nghiên cứu, biến trách nhiệm xã hội bao gồm 4 khía cạnh như: (1) môi
trường, (2) người lao động, (3) cộng đồng, (4) sản phẩm/khách hàng. Hiệu quả tài
chính được đo bằng hai thước đo (dựa vào kế toán, dựa trên thị trường) gồm: ROA,
TBQ. Rủi ro công ty được đo bằng độ lệch chuẩn của suất sinh lợi ngày nhân với căn
250. Các biến kiểm soát sử dụng trong nghiên cứu là quy mô công ty, đòn bẩy tài
chính và ngành.
4.7.2.1. Việc thực hành trách nhiệm xã hội ở Việt Nam
Các kết quả chính của việc điều tra việc thực hành trách nhiệm xã hội thông
qua việc lược khảo báo cáo thường niên của công ty cho thấy số lượng các công ty
niêm yết Việt Nam công bố thông tin trách nhiệm xã hội ngày càng tăng trong suốt
giai đoạn nghiên cứu từ năm 2012 (10 công ty) đến năm 2016 (100 công ty). Các hoạt
động liên quan đến người lao động, cộng đồng là chủ đề được công bố nhiều nhất
trong báo cáo thường niên, sau đó là các thông tin liên quan đến sản phẩm và môi
trường. Các kết quả trên cho thấy bốn khía cạnh trách nhiệm xã hội là các vấn đề công
khai nhất mà các công ty niêm yết Việt Nam công bố.
Khi so sánh giữa các ngành cho thấy phần lớn các chủ đề liên quan trách nhiệm
xã hội được công bố đều liên quan đến người lao động, cộng đồng. Đây có thể là lý do
tại sao các công ty niêm yết Việt Nam rất muốn công bố các thông tin liên quan đến
cộng đồng xung và người lao động, cụ thể là để thúc đẩy các hoạt động xã hội của
công ty. Tuy nhiên, liên quan đến môi trường và sản phẩm thí ít được các công ty
niêm yết công bố khi so sánh giữa các ngành. Các kết quả này cũng cho thấy các công
ty niêm yết Việt Nam chưa ưu tiên công bố các thông tin liên quan đến môi trường và
sản phẩm trong suốt giai đoạn nghiên cứu. Có thể do các chương trình dành cho
nghiên cứu và phát triển sản phẩm, bảo vệ môi trường chưa được xem là nội dung phổ
biến đối với các công ty Việt Nam. Lời giải thích có thể cho sự khác biệt trên có thể
do trách nhiệm xã hội chưa phải là hoạt động có hệ thống ở Việt Nam. Các công ty
niêm yết cũng có thể chưa thật sự hiểu rõ làm thế nào công bố các hoạt động trách
nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên cho từng ngành công nghiệp. Một sự giải
thích hợp lý nữa cho các khác biệt là khuynh hướng của sự thay đổi trong nhận thức
110
về trách nhiệm xã hội theo thời gian. Động lực cho việc báo cáo trách nhiệm xã hội
thay đổi trong khi có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng lên trách nhiệm xã hội.
Liên quan đến việc phân bổ và phương pháp công bố trách nhiệm xã hội trong
báo cáo, các phát hiện cho thấy các công ty niêm yết Việt Nam có khả năng công bố
các hoạt động trách nhiệm xã hội của chúng nhiều nhất trong báo cáo thường niên
dưới hình thức trần thuật và hình ảnh hơn là trong các báo cáo khác (Deegan, 2000;
Deegan và Blomquist, 2006). Các kỳ vọng và áp lực của các bên liên quan cụ thể có
thể ảnh hưởng lên việc thực hành trách nhiệm xã hội, cũng như khối lượng công bố
trách nhiệm xã hội liên quan đến kỳ vọng của các bên liên quan (Deegan, 2000).
Nghiên cứu cũng cho thấy các thông tin liên quan đến sản phẩm và môi trường
là hai chủ đề được công bố theo sau người lao động và cộng đồng ở Việt Nam. Từ
quan điểm lý thuyết tính chính đáng, các thông tin này thể hiện sự tuân thủ pháp luật
và quy định liên quan đến môi trường và chất lượng sản phẩm của các công ty niêm
yết Việt Nam để có được tính chính đáng. Tuy nhiên, nghiên cứu này phát hiện các
thông tin công bố liên quan đến môi trường lại là chủ đề ít được công bố chi tiết nhất
đối với các công ty niêm yết Việt Nam. Lý do cho vấn đề trên có thể do các công ty
thuộc các ngành công nghiệp khác nhau chịu trách nhiệm khác nhau trong việc báo
cáo các thông tin trách nhiệm xã hội để hợp pháp hóa hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty (Deegan và Gordon, 1996; Deegan và cộng sự, 2000).
4.7.2.2. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (câu hỏi
nghiên cứu thứ 1)
Như đã mô tả ở Chương 2, một số nghiên cứu đã tìm thấy mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính là có ý nghĩa. Trong nghiên cứu này,
sự tồn tại về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã được kiểm
tra bằng cách sử dụng chỉ số trách nhiệm xã hội được phát triển và phân tích hồi quy
đa biến. Nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng để xác nhận các kết quả của nhiều
nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, ví
dụ, Waddock và Graves (1997), Hillman và Keim (2001) và Nelling và Webb (2009).
Từ khung khái niệm, nghiên cứu đưa ra hai giả thuyết đầu tiên trong đó các giả thuyết
đều được kỳ vọng có một mối quan hệ cùng chiều giữa các biến phụ thuộc và độc lập.
Câu hỏi nghiên cứu đầu tiên được đặt ra trong Chương 1: (1) Có mối quan hệ giữa
111
trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính trong
các công ty công ty niêm yết Việt Nam?. Kết quả trả lời cho câu hỏi nghiên cứu (1)
được trình bày qua bảng tóm tắt 4.13a và 4.13b.
Trong bảng 4.13a, H1AT, H2A1T, H2A2R; H2A2T; H2A3R; H2A3T, H2A4T bị bác
bỏ trên cơ sở không có ý nghĩa thống kê. Tương tự, kết quả trả lời cho mối quan hệ
giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính có
xét thêm yết tố độ trễ được trình bày qua bảng tóm tắt 4.13b.
Bảng 4.13a: Không xem xét yếu tố độ trễ trong mô hình hồi quy
Kết quả
Mối quan hệ giữa hai biến nghiên cứu
CSR – ROA CSR – TBQ CSR_env – ROA CSR_env – TBQ CSR_empl – ROA CSR_empl – TBQ CSR_com – ROA CSR_com – TBQ CSR_prod – ROA CSR_prod – TBQ
Dấu kỳ vọng (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+)
Kết quả chạy hồi quy P < 0.01 P > 0.1 P < 0.01 P > 0.1 P > 0.1 P > 0.1 P > 0.1 P > 0.1 P < 0.01 P > 0.1
Chấp nhận Bác bỏ Chấp nhận Bác bỏ Bác bỏ Bácbỏ Bác bỏ Bác bỏ Chấp nhận Bác bỏ
Số lượng giả thuyết H1AR H1AT H2A1R H2A1T H2A2R H2A2T H2A3R H2A3T H2A4R H2A4T
(Nguồn: tác giả tính toán và tổng hợp)
Bảng 4.13b, chỉ có các giả thuyết H1BR, H1BT, H2B1R, H2B4R được chấp nhận
nghĩa là trách nhiệm xã hội năm trước cũng có ảnh hưởng lên hiệu quả tài chính ở
hiện tại. Trong khi H2B1T, H2B2R; H2B2T; H2B3R; H2B3TH2B4T bị bác bỏ.
Bảng 4.13b: Có xem xét yếu tố độ trễ trong mô hình hồi quy
Dấu kỳ vọng
Kết quả
Mối quan hệ giữa hai biến nghiên cứu
Kết quả chạy hồi quy P < 0.01 P < 0.01 P < 0.01 P > 0.1 P > 0.1 P > 0.1 P > 0.1 P > 0.1 P <0.01 P > 0.1
Chấp nhận Chấp nhận Chấp nhận Bác bỏ Bác bỏ Bác bỏ Bác bỏ Bác bỏ Chấp nhận Bác bỏ
(+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+) (+)
Số lượng giả thuyết H1BR H1BT H2B1R H2B1T H2B2R H2B2T H2B3R H2B3T H2B4R H2B4T
CSRt-1 – ROA CSRt-1 – TBQ CSR_envt-1 – ROA CSR_envt-1 – TBQ CSR_emplt-1 – ROA CSR_emplt-1 – TBQ CSR_comt-1 – ROA CSR_comt-1 – TBQ CSR_prodt-1 – ROA CSR_prodt-1 – TBQ
(Nguồn: tác giả tính toán và tổng hợp)
112
Qua hai bảng tóm tắt kết quả kiểm tra giả thuyết, các kết quả thực nghiệm về
mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đều đạt được
đúng kỳ vọng: chỉ số trách nhiệm với môi trường (CSR_env), chỉ số trách nhiệm với
sản phẩm (CSR_prod) có tương quan dương và có ý nghĩa thống kê với ROA, TBQ.
Cụ thể:
(1) Tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa trách nhiệm với môi trường
(CSR_env) và hiệu quả tài chính trong hai trường hợp phân tích hồi quy khi xét thêm
biến ngành. Điều này có nghĩa là các công ty thuộc ngành tài chính và bất động sản
không đặt nhiều tầm quan trọng vào các hoạt động môi trường bởi vì các hoạt động
của họ ít liên quan đến các hoạt động bảo vệ môi trường, trong khi các công ty thuộc
ngành phi tài chính có liên quan mạnh đến các hoạt động hủy hoại môi trường cao cho
nên các công ty thuộc nhóm ngành này thích công bố các thông tin môi trường tích
cực hoặc khi được yêu cầu bởi pháp luật và quy định. Tuy nhiên, các ảnh hưởng của
trách nhiệm với môi trường chỉ được thể hiện qua hiệu quả tài chính dựa vào kế toán
(ROA).
(2) Không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa trách nhiệm với người lao
động (CSR_env) và hiệu quả tài chính trong kết quả phân tích thực nghiệm, mặc dù
qua khảo sát thì thông tin liên quan người lao động luôn là chủ đề được các công ty
niêm yết công bố nhiều nhất trong báo cáo của họ. Lý do cho kết quả này (i) có thể do
quy mô mẫu chưa đủ lớn, (ii) là tiêu chí ít có sự biến động nhất qua các năm so với
các tiêu chí còn lại nên có thể có những ảnh hưởng chủ quan trong quá trình chấm
điểm khi sử dụng phân tích nội dung.
(3) Tương tự, cũng không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa trách nhiệm
với cộng đồng (CSR_com) và hiệu quả tài chính trong hai trường hợp phân tích hồi
quy. Mặc dù, qua khảo sát các báo cáo thường niên thì các hoạt động cộng đồng cũng
là nội dung được các công ty rất chú trọng công bố và đẩy mạnh thực hiện bằng nhiều
chương trình thiết thực gắn liền với thương hiệu. Tuy nhiên, các phát hiện này cho
thấy việc công ty thực hiện các hoạt động cộng đồng tốt vẫn không ảnh hưởng lên
hiệu quả tài chính công ty.
(4) Tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm với sản phẩm
(CSR_prod) và hiệu quả tài chính trong cả hai trường hợp phân tích hồi quy. Nghĩa là,
nếu các công ty niêm yết Việt Nam càng đặt tầm quan trọng của trách nhiệm với
113
khách hàng, với sản phẩm và dịch vụ trong báo cáo của họ thì sẽ góp phần làm cho
hiệu quả tài chính công ty tăng cao ở cả hiện tại lẫn tương lai. Nhưng cũng giống với
trách nhiệm với môi trường (CSR_env), mối quan hệ cùng chiều chỉ được tìm thấy với
ROA.
Như vậy, qua kết quả phân tích thực nghiệm cho thấy có mối quan hệ hỗn hợp
giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong bối cảnh Việt Nam.
Nguyên nhân cho kết quả trên, bởi vì mức độ phức tạp trong việc thực hành trách
nhiệm xã hội đối với từng công ty không giống nhau đồng thời các công ty niêm yết
Việt Nam không bị bắt buộc phải công bố thông tin trách nhiệm xã hội trong báo cáo
thường niên của họ.
4.7.2.3 Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty (câu hỏi nghiên
cứu thứ 2)
Các kết quả khảo sát mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty một
lần nữa chứng minh rằng những công ty thường xuyên công bố thông tin trách nhiệm
xã hội (công ty có trách nhiệm) góp phần làm giảm rủi ro công ty (cổ phiếu của công
ty ổn định hơn) so với các công ty không có công bố thông tin về trách nhiệm xã hội
trong cùng ngành.
4.7.2.4. Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội (câu hỏi
nghiên cứu thứ 3)
Kết quả kiểm định t-test trung bình một mẫu đã chứng minh, các công ty niêm
yết có công bố thông tin về trách nhiệm xã hội sẽ đạt được hiệu quả tài chính tốt hơn
so với các công ty niêm yết không công bố về trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính
được thể hiện qua chỉ số ROA. Tuy nhiên, hiệu quả tài chính tốt hơn lại không được
phản ánh qua TBQ.
4.7.2.5. Những ảnh hưởng của các đặc điểm công ty lên thực hành trách nhiệm
xã hội
Nghiên cứu sử dụng một số biến giải thích liên quan đến đặc điểm công ty như
quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và ngành. Như trình bày trong chương này, các
phát hiện cho thấy các biến đặc điểm công ty theo lý thuyết tính chính đáng (ví dụ,
quy mô công ty) có thể ảnh hưởng lên thực hành trách nhiệm xã hội khi xem xét giữa
các ngành khác nhau. Kết quả, phần lớn đều tương quan âm với quy mô ngoại trừ chỉ
114
số trách nhiệm với cộng đồng là tương quan dương với quy mô, ngụ ý rằng những
công ty có quy mô lớn có khả năng cung cấp nhiều thông tin liên quan đến hoạt động
trách nhiệm với cộng đồng hơn so với các thông tin khác. Kết quả này trái với các
nghiên cứu của Deegan và Gordon (1996), Hackston và Milne (1996), Elijido-Ten
(2007), Nelling và Webb (2009), Rouf (2011), Luethge và Helen (2012), Shubiri và
cộng sự (2012), Ghelli (2013), Li và cộng sự (2013).
Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy một ảnh hưởng hỗn hợp của đòn bẩy
và ngành lên trách nhiệm xã hội. Các công ty thuộc nhóm ngành sản xuất kinh doanh
có xu hướng công bố nhiều thông tin liên quan đến môi trường, người lao động và sản
phẩm hơn các ngành khác. Trong khi những công ty có tỷ lệ nợ càng cao thì càng
công bố nhiều thông tin liên quan đến cộng đồng hơn các thông tin khác.
Tóm tắt Chương 4
Chương này tiến hành kiểm tra thực nghiệm các mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính (ROA, TBQ). Mục đích của nghiên cứu là kiểm tra những
ảnh hưởng của việc thực hành trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính. Để phân tích
các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, hồi quy đa biến được
thực hiện dựa trên mẫu gồm 256 lượt quan sát công ty/năm trên thị trường chứng
khoán Việt Nam từ năm 2012 đến năm 2016. Kết quả có thể được tóm tắt như sau:
- Kết quả trong hai trường hợp phân tích mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội,
các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính:
+ Trách nhiệm với cộng đồng, với người lao động và hiệu quả tài chính cho
thấy không có bất kỳ mối quan hệ nào.
+ Mối quan hệ giữa các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính chỉ
thể hiện qua hiệu quả tài chính dựa vào kế toán (ROA), không được phản ánh qua hiệu
quả tài chính dựa trên thị trường (TBQ).
- Đối với mô hình hồi quy không xem xét yếu tố độ trễ.
Tìm thấy mối tương quan dương giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (ROA) ở mức 1%. Điều này có nghĩa
là công ty thực hiện tốt các hoạt động trách nhiệm xã hội sẽ góp phần làm tăng
lợi nhuận cho chính công ty.
Khi xét mối quan hệ giữa từng biến độc lập trách nhiệm xã hội, các khía cạnh
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính cho thấy mối quan hệ hỗn hợp: tìm
115
thấy mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
(ROA) ở mức ý nghĩa 5%; mối quan hệ cùng chiều giữa trách nhiệm với môi
trường và hiệu quả tài chính (ROA) ở mức ý nghĩa 5%; mối quan hệ cùng chiều
giữa trách nhiệm với sản phẩm và hiệu quả tài chính (ROA) ở mức ý nghĩa
10%.
- Đối với mô hình hồi quy có xem xét yếu tố độ trễ.
Cung cấp bằng chứng về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (ROA, TBQ) ở mức 1%. Điều này có
nghĩa là hiệu quả thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội năm trước cũng
góp phần làm tăng lợi nhuận và giá trị thị trường ở năm hiện tại.
Khi xét mối quan hệ giữa từng biến độc lập trách nhiệm xã hội, các khía cạnh
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính cho kết quả hơi khác biệt với trường
hợp phân tích hồi quy không xem xét yếu tố độ trễ: tìm thấy mối quan hệ cùng
chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (ROA, TBQ) lần lượt là
1%, 5%; mối qua hệ cùng chiều giữa trách nhiệm với môi trường năm trước và
hiệu quả tài chính (ROA) ở mức ý nghĩa 1%; mối quan hệ cùng chiều giữa trách
nhiệm với sản phẩm năm trước và hiệu quả tài chính (ROA) ở mức ý nghĩa 5%.
- Đối với mô hình hồi quy giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty: Cung cấp
bằng chứng tồn tại về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty ở mức ý
nghĩa 1%. Khi xét đơn biến mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty
cũng cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty ở
mức ý nghĩa 10%.
- Đối với việc xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố
trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội: Kết
quả một lần nữa đã chứng minh rằng hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết có
công bố CSR tốt hơn hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết không công bố CSR
(hay có sự khác biệt về hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố thông
tin trách nhiệm xã hội với các công ty niêm yết không công bố thông tin trách nhiệm
xã hội). Tuy nhiên, khi xét đơn biến, chỉ tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
hiệu quả tài chính dựa vào kế toán (ROA) giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội với các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội (Prob =
116
0.000 < 0.05) trong khi xem xét hiệu quả tài chính dựa trên thị trường (TBQ) thì
không có sự khác biệt giữa hai nhóm công ty niêm yết khác nhau (Prob > 0.05).
117
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1. Giới thiệu
Hầu hết các học giả tranh luận rằng chính sách và thực hành trách nhiệm xã hội
đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc hỗ trợ các nước đang phát triển, chẳng
hạn như Việt Nam, để đạt được phát triển bền vững. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều
nghiên cứu tổng thể liên quan các khía cạnh trách nhiệm xã hội được thực hiện trong
bối cảnh Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu này có thể xem là nghiên cứu có hệ thống đầu
tiên về sự phát triển trách nhiệm xã hội ở Việt Nam. Nghiên cứu này xem xét các mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Mục đích của chương này là
đưa ra các kiến nghị cũng như thảo luận về những đóng góp, hạn chế và đề xuất các
hướng nghiên cứu tương lai của nghiên cứu.
Ngoài ra, các kết quả liên quan đến động cơ nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu,
câu hỏi nghiên cứu đều có ý nghĩa. Các phát hiện trong phần đầu của nghiên cứu đã
thảo luận về khái niệm, lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước phát triển, đang phát triển và Việt
Nam (Chương 2). Phương pháp nghiên cứu và thu thập dữ liệu được mô tả trong
Chương 3, chia mẫu thành bốn nhóm dữ liệu (phân tích mối quan hệ không xét yếu tố
độ trễ, phân tích mối quan hệ có xét yếu tố độ trễ, phân tích mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và rủi ro công ty, và xem xét hiệu quả tài chính giữa công ty có công bố
trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách nhiệm xã hội). Chương 4 của
nghiên cứu giải thích và thảo luận các kết quả về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Cuối cùng, Chương này dựa trên các kết
quả đạt được qua phân tích hồi quy từ đó đề xuất một vài kiến nghị, cũng như thảo
luận về những đóng góp của nghiên cứu, những hạn chế của nghiên cứu và các đề xuất
cho các hướng nghiên cứu tương lai.
Phần còn lại được sắp xếp như sau. Mục 5.2, hàm ý chính sách. Mục 5.3, đóng
góp học thuật và thực tiễn của nghiên cứu. Mục 5.4, hạn chế của nghiên cứu. Mục 5.5,
đề xuất cho nghiên cứu tương lai. Mục 5.6, kết luận.
5.2. Hàm ý chính sách
Rõ ràng trách nhiệm xã hội có ảnh hưởng tích cực lên hiệu quả tài chính của
công ty cũng như góp phần làm giảm rủi ro công ty trong bối cảnh Việt Nam, do vậy,
118
ngoài các biện pháp truyền thống mà các nhà quản lý thường sử dụng để làm tăng giá
trị/hiệu quả công ty thì trách nhiệm xã hội đang là một xu hướng mới thu hút được
nhiều sự quan tâm từ phía các tổ chức. Vì vậy, việc áp dụng trách nhiệm xã hội là rất
cần thiết đối với các tổ chức kinh doanh trong quá trình hội nhập với thị trường quốc
tế vì nó mang lại lợi ích cho cả tổ chức và xã hội, đặc biệt là làm tăng tính cạnh tranh
của chính các công ty niêm yết. Vì vậy, từ bây giờ, nên có các hành động và chính
sách để tạo thuận lợi cho các tổ chức (công ty niêm yết) tham gia vào các hoạt động
trách nhiệm xã hội. Dựa trên các kết quả thực nghiệm, nghiên cứu này đề xuất một số
khuyến nghị để nâng cao việc thực thực hành trách nhiệm xã hội ở Việt Nam cho cả
Chính phủ và tổ chức kinh doanh:
Đối với Chính phủ:
Một là, tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam
để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Bởi vì hệ thống
pháp luật sẽ là khuôn khổ cho các tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh nói chung
và thực hiện trách nhiệm xã hội nói riêng. Tuy nhiên khung pháp lý hiện tại của Việt
Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và bất cập đã tạo thuận lợi cho các tổ chức có thể lợi
dụng các sơ hở pháp lý để tránh các nghĩa vụ đạo đức và trách nhiệm xã hội. Cụ thể,
pháp luật về lao động hiện hành và các luật liên quan đến quản lý cần được hoàn thiện
hơn để tăng cường trách nhiệm xã hội về lao động và quản lý.
Hai là, tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội và
có chính sách khuyến khích và hỗ trợ thực hiện trách nhiệm xã hội trong hoạt động
kinh doanh của tổ chức. Nhận thức được đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội là
cần thiết vì nhận thức đúng đắn có thể dẫn đến hành động đúng cho mọi tổ chức. Tuy
nhiên, việc nâng cao hiệu quả thực hiện trách nhiệm xã hội là kết quả của sự hợp tác
giữa Chính phủ và tổ chức. Chính phủ phải thông qua các chính sách tuyên truyền
kiến thức về trách nhiệm xã hội cho tổ chức bằng cách tổ chức các cuộc hội thảo hoặc
đối thoại trực tiếp về thực tiễn áp dụng trách nhiệm xã hội. Vì đã có một số lượng lớn
các công ty Việt Nam có kiến thức cơ bản về trách nhiệm xã hội nên việc tuyên truyền
về trách nhiệm xã hội không nên tập trung vào trách nhiệm xã hội tổng thể, mà phải
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các khía cạnh trách nhiệm xã hội cụ thể và lợi ích
của các bên liên quan tác động lên hiệu quả kinh doanh mà hầu hết các doanh nghiệp
và công ty Việt Nam thường bỏ qua (ví dụ, các hoạt động liên quan đến cộng đồng).
119
Qua kết quả thực nghiệm ở Chương 4, mặc dù không cung cấp bất kỳ mối quan
hệ nào giữa trách nhiệm với cộng đồng và hiệu quả tài chính, nhưng trong tư duy của
nhiều nhà quản lý hiện nay họ vẫn đánh đồng trách nhiệm với cộng đồng là làm từ
thiện, và sử dụng hoạt động này như một công cụ đắc lực để quảng bá thương hiệu và
đánh bóng tên tuổi của cá nhân/tổ chức. Trong khi, ý nghĩa thật sự của các hoạt động
trách nhiệm xã hội của cộng đồng này cho thấy trách nhiệm của các tổ chức đối với xã
hội như cải thiện môi trường, giáo dục, giảm nghèo... Do đó, để nâng cao nhận thức
đúng đắn cho các tổ chức và các nhà quản lý về trách nhiệm với cộng đồng thì Chính
phủ không nên bắt buộc các tổ chức phải làm từ thiện, nhân đạo mà chỉ nên gián tiếp
tác động thông qua các tổ chức như NGOs, hiệp hội, mạng lưới cộng đồng, giáo
dục… để nâng cao hơn nữa ý thức thực hành trách nhiệm xã hội (trách nhiệm với
cộng đồng). Đồng thời, Chính phủ cũng nên đưa ra lộ trình hỗ trợ tổ chức tham gia
trách nhiệm xã hội vì các tổ chức không thể có đủ năng lực để tham gia tất cả các hoạt
động trách nhiệm xã hội.
Ba là, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ giúp các tổ chức phát triển bền
vững, thông qua các hoạt động như tuân thủ pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm,
bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm, tái chế chất thải, tiết kiệm tài nguyên… Tuy
nhiên, các tổ chức hiện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc thực hiện
trách nhiệm xã hội cũng như tuân thủ các quy định pháp luật về chất lượng sản phẩm,
bảo vệ môi trường. Theo đó, Chính phủ cần tổ chức các chương trình đào tạo chuyên
sâu về quản lý môi trường và chất lượng sản phẩm đi đôi với việc ban hành các chính
sách hỗ trợ để nâng cao năng lực kiểm soát chất lượng sản phảm, ô nhiễm, bảo vệ môi
trường, tạo điều kiện cho các tổ chức đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc, phát
triển sản phẩm mới, hiện đại hóa quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng
hóa, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù, Chính phủ đã ban hành các
chính sách hỗ trợ các tổ chức để phát triển sản xuất. Tuy vậy, các chính sách này mới
chỉ nêu các biện pháp mà thiếu các nguyên tắc về nguồn lực thực hiện. Thêm vào đó,
các tổ chức ở Việt Nam mới tiếp cận các khái niệm về trách nhiệm xã hội mà chưa có
một chính sách cụ thể hay chương trình đào tạo bài bản về vấn đề này, do vậy cần ưu
tiên hỗ trợ các tổ chức trong việc tiếp cận nguồn vốn và công nghệ tiên tiến; đồng thời
ban hành bộ tài liệu về văn bản pháp luật, trong đó có đầy đủ các quy định về chất
lượng thực phẩm và bảo vệ môi trường. Cần xây dựng một nền công nghiệp môi
120
trường và vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó phải quản lý được công nghệ hiện có và
phát triển dựa trên điều kiện của Việt Nam. Công nghệ đó phải xử lý đạt tiêu chuẩn,
làm cơ sở để khuyến nghị các tổ chức sử dụng cũng như có chính sách hỗ trợ như
giảm thuế, hỗ trợ vay vốn cho tổ chức. Đồng thời, cần cung cấp thông tin về các
trường hợp tổ chức điển hình trong cả nước để nhân rộng mô hình làm tốt công tác
quản lý môi trường, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế; tổ chức các chương
trình đào tạo chuyên sâu về quản lý môi trường, sản phẩm cho tổ chức.
Đối với tổ chức kinh doanh (công ty niêm yết)
Một là, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội và lợi ích của trách nhiệm xã
hội mang lại cho các tổ chức. Tăng sự nhận thức về trách nhiệm xã hội phải bắt đầu từ
người đứng đầu các công ty hoặc nhà quản lý bởi vì tầm nhìn và quyết định của họ có
ảnh hưởng lớn đến cả chiến lược kinh doanh lẫn hiệu quả hoạt động của tổ chức. Theo
nghĩa này, các nhà quản lý của công ty phải nhận thức đúng về bản chất của trách
nhiệm xã hội cũng như bản chất của từng phương diện (khía cạnh) trách nhiệm xã hội
vì việc thực hiện trách nhiệm xã hội không chỉ đơn giản là vấn đề đạo đức kinh doanh
hay các hoạt động từ thiện theo cách hiểu mang tính truyền thống; không phải là các
hoạt động đòi hỏi công ty phải bỏ chi phí mà không đem lại lợi ích kinh tế, ngược lại,
thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ giúp công ty có được nhiều lợi thế trong cạnh tranh
trên thị trường để khuyến khích họ tự nguyện đưa các hoạt động trách nhiệm xã hội
vào trong chiến lược kinh doanh của công ty, và nhiệt tình tham gia vào các hoạt động
trách nhiệm xã hội nhằm tạo ra một giải pháp có lợi cho cả công ty và các bên liên
quan. Hơn nữa, nghiên cứu này đã đưa ra một số bằng chứng về mối quan hệ giữa các
khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty của các công ty
niêm yết Việt Nam; do đó, các công ty niêm yết được khuyến khích tham gia nhiều
hoạt động trách nhiệm xã hội để được hưởng lợi từ chính các hoạt động này.
Hai là, đề xuất chiến lược dài hạn để áp dụng trách nhiệm xã hội với các bước
thích hợp trong các giai đoạn khác nhau. Các công ty cần có chiến lược dài hạn trong
việc xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội. Việc thực hiện trách
nhiệm xã hội theo ý nghĩa đầy đủ và đích thực không phải là một vấn đề đơn giản và
nằm trong khả năng giải quyết tức thì của phần lớn các công ty, bởi vì sự hạn chế về
nhận thức, các yếu tố nguồn lực, trong đó có nguồn lực tài chính, kỹ thuật, nhân lực
trình độ cao. Vì vậy, các công ty cần xây dựng một lộ trình phù hợp trong việc từng
121
bước thực hiện những khía cạnh trách nhiệm xã hội không chỉ phù hợp với các chuẩn
mực chung, mà còn được các chủ thể có liên quan chấp nhận, góp phần tích cực vào
việc cải thiện hiệu quả công ty cũng như sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đang
trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hơn vào kinh tế khu vực và toàn cầu.
Ba là, dẫu biết rằng mục tiêu quan trọng nhất của các tổ chức là lợi nhuận nên
trong nhận thức của họ việc thực hiện quản lý môi trường và chất lượng sản phẩm là
tốn kém và giảm lợi nhuận, thế nhưng đây là một nhận thức chưa đúng đắn. Để thay
đổi nhận thức đó, trước hết các nhà quản lý phải được đào tạo chuyên sâu các kiến
thức pháp luật về quản lý môi trường và chất lượng sản phẩm thông qua các lớp tập
huấn ngắn hạn, các chương trình nghị sự, các cuộc hội thảo, chuyển giao công nghệ
do các cơ quan chức năng, các cơ quan chuyên môn của Chính phủ tổ chức; từ đó,
chính các nhà quản lý sẽ là người trực tiếp hướng dẫn, thực hiện và xây dựng kế
hoạch quản lý môi trường, chất lượng sản phẩm cho tổ chức họ phù hợp với bối cảnh
hiện có trong từng giai đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức. Bởi vì, qua
kết quả hồi quy đã chứng minh rằng trong bối cảnh Việt Nam, khi các công ty niêm
yết thực hiện tốt các hoạt động trách nhiệm với môi trường và với sản phẩm sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả tài chính. Do vậy, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ giúp
các tổ chức không chỉ có môi trường làm việc an toàn mang đến lợi ích về sức khỏe
cho cán bộ công nhân viên được đảm bảo, từ đó cán bộ yên tâm công tác, đảm bảo
năng suất lao động mà còn mang lại lợi ích cho cả cộng động xung quanh và người
tiêu dùng trong và ngoài nước. Hơn nữa, việc tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật
môi trường và sản phẩm sẽ giúp tổ chức không gặp rủi ro về pháp lý, thanh kiểm tra
và chế tài xử phạt. Điều quan trọng là khi làm tốt công tác bảo vệ môi trường và chất
lượng sản phẩm, các tổ chức còn đạt được hiệu quả về kinh tế (ví dụ như hồi lưu nước
thải và xử lý biogas, tái sử dụng chất thải rắn…) và tạo sự an tâm cho người tiêu dùng
cũng như làm tăng lòng trung thành sử dụng sản phẩm của họ đối với sản phẩm nội
địa.
Bốn là, trong bố cảnh Việt Nam việc báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội
của tổ chức đến các bên liên quan (nhà đầu tư trong và ngoài nước, cơ quan chức
năng, chính quyền sở tại, người tiêu dùng…) chủ yếu vẫn là tự nguyện và mang tính
tự do không theo bất kỳ khuôn mẫu chung nào (ngoài hướng dẫn GRI4), chỉ có những
công ty có quy mô lớn lập báo cáo trách nhiệm xã hội, và số lượng các công ty lập báo
122
cáo trách nhiệm xã hội (báo cáo bền vững) lại rất ít. Tuy nhiên, qua kết quả thực
nghiệm trong nghiên cứu cho thấy, khi các công ty niêm yết công bố trách nhiệm xã
hội của họ trong báo cáo thường niên hoặc báo cáo bền vững riêng biệt đến các bên
liên quan không chỉ làm cho hiệu quả tài chính tốt hơn, giảm thiểu được rủi ro mà còn
góp phần nâng cao thương hiệu, nâng cao lòng trung thành của người lao động đối với
tổ chức cũng như lòng trung thành và niềm tin của cộng đồng, người tiêu dùng đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Vì vậy, bản thân các tổ chức cần thay đổi
quan điểm trong khi lập báo cáo thường niên cũng như các nội dung công bố thông tin
trong báo cáo thường niên của mình, không nên quá chú trọng đến các chỉ số tài chính
đã đạt được trong năm mà bỏ qua các kết quả đạt được liên quan đến cộng đồng, xã
hội mà mình đã thực hiện. Bởi vì, hiện nay cùng với xu thế phát triển chung của thế
giới, các nhà đầu tư cũng bắt đầu khó khăn hơn trong quyết định bỏ tiền của họ vào
đâu và cho ai là hợp lý, nếu như trước đây báo cáo tài chính là công cụ đắc lực của các
tổ chức để thu hút sự quan tâm từ phía các nhà đầu tư thì hiện nay một yếu tố khác
cũng khá quan trọng để tạo sự chú ý từ họ chính là các hoạt động trách nhiệm xã hội.
Điều này có nghĩa là, nếu tổ chức thực hiện tốt các hoạt động trách nhiệm xã hội, có
uy tín thương hiệu tốt trên thị trường nhưng tất cả những việc làm trách nhiệm với xã
hội mà tổ chức đã làm lại không được tổ chức báo cáo cùng với báo cáo tài chính đến
các bên liên quan sẽ góp phần làm giảm đi khả năng thu hút vốn đầu tư so với các đối
thủ cạnh tranh khác trên thị trường.
Năm là, xây dựng một liên minh công đoàn mạnh mẽ. Từ khi Công đoàn đóng
vai trò quan trọng là người đại diện của người lao động trong một tổ chức, nó có tiếng
nói trong các cuộc đàm phán về việc đưa ra các điều khoản và điều kiện làm việc cho
người lao động như lương bổng, thời gian làm việc và các lợi ích khác. Do đó, sự hiện
diện của tổ chức Công đoàn có thể cải thiện các hoạt động trách nhiệm xã hội liên
quan đến người lao động, đây là một khía cạnh thiết yếu của trách nhiệm xã hội tổng
hợp. Mặc dù, kết quả thực nghiệm trong nghiên cứu này không cho thấy các hoạt động
trách nhiệm xã hội liên quan người lao động ảnh hưởng lên hiệu quả tài chính, nhưng
nếu công ty thực hiện tốt trách nhiệm với người lao động sẽ tạo ra một lợi ích không
nhỏ cho chính bản thân công ty trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực giỏi,
giàu kinh nghiệm, trung thành và giảm được nhiều chi phí liên quan đến đào tạo, huấn
luyện v.v…
123
5.3. Đóng góp của Luận án
5.3.1. Đóng góp về mặt học thuật
Trong tổng quan tài liệu, khung trách nhiệm xã hội rõ ràng đã được phát triển,
cùng với các nguyên tắc và lý thuyết, và các nghiên cứu trước đó đã cho thấy các kết
quả khác nhau về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Nghiên
cứu này góp phần đáng kể vào kiến thức trong lĩnh vực trách nhiệm xã hội theo những
cách sau đây:
Một là, có thể được xem là nghiên cứu tổng thể đầu tiên về việc kiểm tra các
mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội, các khía cạnh trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính, và rủi ro công ty cho các công ty niêm yết Việt Nam. Các nghiên cứu trước
được thực hiện chủ yếu tập trung vào từng khía cạnh trách nhiệm xã hội cụ thể, từng
ngành công nghiệp cụ thể. Ngược lại, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu của toàn bộ các
công ty niêm yết, không phân biệt loại ngành, không phân biệt quy mô vốn hóa mà
xem xét tổng thể các khía cạnh của trách nhiệm xã hội và các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty cho các công ty niêm yết Việt
Nam.
Hai là, nghiên cứu đã phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội cho các
nghiên cứu trách nhiệm xã hội trong bối cảnh Việt Nam là một đóng góp thứ hai cho
kiến thức về trách nhiệm xã hội. Các kết quả của nghiên cứu này cho rằng các công ty
niêm yết Việt Nam đang thực hiện và báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội trong
báo cáo thường niên của họ. Vì vây, các công ty niêm yết Việt Nam cần có một khung
nghiên cứu trách nhiệm xã hội phù hợp để thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội
cũng như để xác định được lợi thế của chính công ty và các bên liên quan của họ.
Ba là, nghiên cứu cũng đã đóng góp về mặt lý thuyết bằng cách phát triển một
chỉ số trách nhiệm xã hội có thể được sử dụng để đo lường mức độ thực hành trách
nhiệm xã hội, và kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
và rủi ro công ty cho các công ty niêm yết. Chỉ số này được dựa trên khung nghiên
cứu trách nhiệm xã hội trong nghiên cứu.
Bốn là, như mô tả trong Chương 2, trách nhiệm xã hội được xác định bởi mối
quan hệ với các bên liên quan của nó. Do đó, lý thuyết các bên liên quan cung cấp nền
tảng lý thuyết cho nghiên cứu này. Theo Freeman (1983) công ty không chỉ xem xét
lợi ích của cổ đông, mà còn nên xem xét đến lợi ích của các bên liên quan khác.
124
Những lợi ích khác liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội đã được thảo luận
trong Chương 2. Nghiên cứu này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của lý thuyết
các bên liên quan đến sự hiểu biết về trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển
như Việt Nam.
Cuối cùng, mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định các mối quan hệ
tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty. Những phát
hiện của nghiên cứu này là phù hợp với nhiều nghiên cứu trước về mối quan hệ trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty khi sử dụng phương pháp phân
tích nội dung. Vì vậy, nghiên cứu này là một đóng góp trực tiếp cho các lý thuyết về
trách nhiệm xã hội và sự phát triển của nó.
5.3.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Một là, nghiên cứu cung cấp thông tin đến các nhà quản lý công ty rằng tương
tác với các bên liên quan sẽ đem lại lợi ích cho họ. Mặc dù hoạt động của các bên liên
quan được dựa trên chi phí, về lâu dài các hoạt động này mang lại lợi ích tài chính cho
các cổ đông và do đó các nhà quản lý sẽ được khuyến khích thực hiện các hoạt động
trách nhiệm xã hội trên cơ sở tự nguyện.
Hai là, dự định là chất xúc tác cho các nghiên cứu xa hơn về trách nhiệm xã
hội ở Việt Nam khi sử dụng chỉ số trách nhiệm xã hội. Đây có thể được xem là nghiên
cứu đầu tiên kết hợp các tiêu chí trách nhiệm xã hội giữa hướng dẫn GRI4 với nghiên
cứu của Amran (2015) để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội cho Việt Nam, sau đó
sử dụng chỉ số này kiểm tra thực nghiệm các mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm
xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty cho các công ty niêm yết Việt Nam.
Ba là, góp phần củng cố chất lượng của các nghiên cứu tương lai về trách
nhiệm xã hội và những tác động của nó lên hiệu quả tài chính trong bối cảnh Việt
Nam. Cụ thể, nghiên cứu kỳ vọng góp phần vào sự hiểu biết đúng hơn đối với đặc
điểm công ty bị ảnh hưởng bởi trách nhiệm xã hội. Trong khi những tác động của
trách nhiệm xã hội lên đặc điểm công ty đã được kiểm chứng ở các nước phát triển và
các nước đang phát triển khác, các đặc điểm này có thể là khác trong bối cảnh Việt
Nam. Nghiên cứu này sẽ tạo ra một cái nhìn rõ hơn về những ảnh hưởng của trách
nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính ở Việt Nam.
Cuối cùng, như đã thảo luận ở Chương 2, thực hành trách nhiệm xã hội được
các tổ chức quan tâm trong điều kiện áp lực từ các bên liên quan. Quản lý tốt trách
125
nhiệm xã hội cung cấp một cơ hội để quản lý rủi ro cho công ty. Tuy nhiên, nghiên
cứu mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công
ty ở Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn sơ khai. Tìm hiểu những tác động tích cực của
trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính là một nghiên cứu quan trọng đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam. Nghiên cứu gần đây của Trang và Yekini (2014),
Trang và cộng sự (2015), Long (2015) sử dụng dữ liệu Việt Nam đã đề cập những lợi
ích trách nhiệm xã hội mang lại: quản lý rủi ro, nâng cao uy tín và giá trị thương hiệu,
quản trị công ty, nâng cao hiệu quả, nâng cao năng suất lao động và giảm chi phí vốn.
5.4. Những hạn chế của nghiên cứu
Có hai hạn chế chính trong các tài liệu hiện nay về trách nhiệm xã hội ở các
nước đang phát triển. Đầu tiên, chưa có bộ chỉ số đo lường trách nhiệm xã hội chung
được phát triển như các nước phát triển, và có ít các nghiên cứu tổng thể về mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước đang phát triển hơn so với
các nước phát triển. Thứ hai, phần lớn các nghiên cứu đều là dữ liệu chéo và chỉ được
tiến hành để xem xét trách nhiệm xã hội trong các công ty, không phải để kiểm tra sự
phát triển của thực hành trách nhiệm xã hội trong tổng thể đất nước (Gray và cộng sự,
1995; Tsang, 1998). Việc thực hành trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển
được thực hiện bởi phong cách quản lý của từng công ty. Báo cáo trách nhiệm xã hội
không phải là một yêu cầu bắt buộc; mặc dù, một số công ty đã công bố kế hoạch và
hoạt động trách nhiệm xã hội của mình trong các báo cáo thường niên theo hướng dẫn
của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các bộ tiêu chuẩn khác
(SA8000, WRAP, ISO 26000, ISO 14000, SA 8000, UN Global Impact v.v..).
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trách nhiệm xã hội đã được thực hiện từ quan
điểm của các nước phát triển. Ví dụ, các nguyên tắc, các yếu tố, các khuôn khổ và các
chỉ số trách nhiệm xã hội đã được phát triển cho Mỹ. Tuy nhiên, các nguyên tắc và
khuôn khổ trên không thể được chấp nhận trong các nước đang phát triển (Matten và
Moon, 2004; Chapple và Moon, 2005; Matten và Moon, 2008) cho một loạt các lý do
như sự khác biệt về văn hóa, thái độ quản lý và kế hoạch kinh doanh khác nhau. Do
đó, kết quả dự kiến từ khái niệm không phù hợp khi áp dụng trực tiếp các khái niệm
và nguyên tắc trách nhiệm xã hội hiện tại vào các nước đang phát triển như Việt Nam.
Liên quan đến các giới hạn này bao gồm:
126
1. Do trách nhiệm xã hội là một cấu trúc đa chiều, không phải dễ dàng để
đo lường các biến của nó. Đây là một trong những hạn chế lớn được xác
định trong các nghiên cứu trách nhiệm xã hội hiện nay.
2. Các dữ liệu về trách nhiệm xã hội trong nghiên cứu này phụ thuộc phần
lớn vào chất lượng và số lượng của các dữ liệu thứ cấp có sẵn trong các
báo cáo thường niên của các công ty niêm yết trong khi số lượng các
công ty niêm yết công bố trách nhiệm xã hội lại tương đối ít trong suốt
giai đoạn nghiên cứu. Do đó, các kết quả bị giới hạn bởi những thông tin
được thu thập từ nguồn dữ liệu này.
3. Như đã đề cập trước đây, Elsayed và Paton (2005) đã chỉ ra rằng nhiều
nghiên cứu trách nhiệm xã hội bị mắc phải vấn đề mô hình thông số sai
lệch và/hoặc dữ liệu hạn chế.
4. Chưa có được khung khái niệm trách nhiệm xã hội thống nhất, do khung
khái niệm được thực hiện bởi các nghiên cứu khác nhau hiện nay được
dựa trên các hoạt động trách nhiệm xã hội của những công ty trong mẫu
nghiên cứu và tổng quan tài liệu.
5. Khi tính toán các chỉ số trách nhiệm xã hội, nhiều tiêu chí trách nhiệm
xã hội không phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Cụ thể, chỉ có 23 tiêu chí
trách nhiệm xã hội được ghi nhận trong nghiên cứu này. Hơn nữa, có
nhiều công ty khi được kiểm tra lại không có bất kỳ chữ hay câu nào
liên quan đến các tiêu chí trong bảng câu hỏi trách nhiệm xã hội được
phát triển, hoặc có những tiêu chí hầu như không thay đổi qua các năm
(ví dụ, liên quan người lao động) đã gây khó khăn trong quá trình tổng
hợp và chấm điểm.
6. Nghiên cứu bị giới hạn ở hai thước đo hiệu quả tài chính (ROA, TBQ)
để đo lường hiệu quả tài chính và các ảnh hưởng của ba biến kiểm soát
như quy mô công ty, đòn bẩy tài chính và ngành, trong khi vẫn còn
nhiều chỉ số khác (ví dụ, các chỉ số phi tài chính) cũng có thể được sử
dụng để kiểm tra mối quan hệ này.
5.5. Các nghiên cứu tương lai
Một là, nghiên cứu này kiểm tra mối quan hệ tổng thể giữa các khía cạnh trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của 100 công ty niêm yết trên thị trường chứng
127
khoán Việt Nam (2012 – 2016). Các nghiên cứu tương lại có thể áp dụng phương
pháp theo chiều dọc bằng việc sử dụng dữ liệu nhiều năm và quy mô mẫu lớn hơn.
Điều này có thể làm tăng độ tin cậy cho các kết quả.
Hai là, nghiên cứu chỉ tập trung vào các công ty niêm yết Việt Nam. Nghiên
cứu tương lai có thể so sánh chéo giữa nghiên cứu Việt Nam với các nghiên cứu khác
trong Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và/hoặc các nước trong khu vực Đông Nam
Á. Các nghiên cứu tương lai cũng có thể so sánh với nghiên cứu của các nước phát
triển và các nước đang phát triển khác để hiểu được bản chất và mức độ thực hành
trách nhiệm xã hội cũng như mối quan hệ của nó với hiệu quả tài chính. Điều này rất
quan trọng để hiểu được mức độ thực hành các khía cạnh trách nhiệm xã hội trong các
quốc gia khác nhau.
Ba là, nghiên cứu sử dụng phân tích nội dung để thu thập dữ liệu chủ yếu từ
báo cáo thường niên. Nghiên cứu tương lai có thể sử dụng thêm các báo cáo khác để
điều tra mức độ thực hành trách nhiệm xã hội và mối quan hệ của nó với hiệu quả tài
chính. Bởi vì các công ty niêm yết có thể báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội
qua các phương tiện truyền thông khác như báo cáo trách nhiệm xã hội, báo cáo bền
vững, websites của công ty có nội dung bền vững v.v…
Bốn là, nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi trách nhiệm xã hội để đo lường mức
độ thực hành trách nhiệm xã hội. Bảng câu hỏi gồm bốn khía cạnh với 23 tiêu chí
trách nhiệm xã hội liên quan đến môi trường, người lao động, cộng đồng và sản phẩm.
Để tăng độ tin cậy, các nghiên cứu tương lai nên sử dụng các kỹ thuật khác liên quan
đến việc thu thập các hoạt động trách nhiệm xã hội bằng phân tích nội dung chẳng hạn
như đếm chữ, đếm câu, đếm đoạn v.v…
Cuối cùng, nghiên cứu bị giới hạn ở hai chỉ số hiệu quả tài chính (suất sinh
lợi/tài sản - ROA, Tobins’q - TBQ). Nghiên cứu tương lai có thể đưa thêm các biến
kiểm soát khác (quản trị công ty, tuổi công ty, R&D, các yếu tố kinh tế vi mô và vĩ
mô,…) và sử dụng nhiều chỉ số hiệu quả tài chính (suất sinh lợi/vốn chủ sở hữu -
ROE, thu nhập trên mỗi cổ phần - EPS, lợi nhuận cổ phiếu - SR, lợi nhuận ròng biên -
NPM) để kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính.
5.6. Kết luận
Các tài liệu đã cho thấy những lợi ích thu được từ hoạt động trách nhiệm xã hội
tốt. Trách nhiệm xã hội đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút các bên liên
128
quan và sự tin tưởng của các bên liên quan đối với công ty như đã thảo luận ở Chương
2. Nghiên cứu đã hỗ trợ lập luận rằng có một mối quan hệ cùng chiều giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong các công ty niêm yết Việt Nam, cũng như
những công ty thương xuyên công bố trách nhiệm xã hội sẽ góp phần làm cho rủi ro
công ty thấp và những công ty có công bố trách nhiệm xã hội luôn đạt được hiệu quả
tài chính tốt hơn so với những công ty không công bố trách nhiệm xã hội. Ngoài ra,
các kỹ thuật thu thập dữ liệu, phương pháp phân tích và phát triển chỉ số trách nhiệm
xã hội là một lĩnh vực mới trong nghiên cứu trách nhiệm xã hội ở Việt Nam.
Những phát hiện của nghiên cứu này phù hợp với các tài liệu đã được xác định
từ các nước khác nhau. Nghiên cứu này nghiên cứu Việt Nam như là một nước đang
phát triển. Đã có một vài nghiên cứu mô tả sự phát triển của việc phát triển khung
nghiên cứu trách nhiệm xã hội cho các nước đang phát triển. Theo Clarkson (1995),
Moore (2001), Rais và Goedegebuure (2009) và Amran (2015), sử dụng sáu thước đo
cho trách nhiệm xã hội (người lao động, khách hàng, cổ đông, môi trường, nhà cung
cấp, cộng đồng) kết hợp với hướng dẫn GRI4 nghiên cứu đã đề xuất khung nghiên
cứu trách nhiệm xã hội (gồm bốn khía cạnh: môi trường, người lao đông, cộng đồng,
sản phẩm với 23 tiêu chí hoạt động) phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Ngoài ra,
Davenport (2000), Ruf và cộng sự (2001) đã phát triển khung trách nhiệm xã hội sử
dụng mối quan hệ với các bên liên quan. Như đã mô tả ở Chương 2, thực hành trách
nhiệm xã hội khác nhau giữa các quốc gia và các nền văn hóa (Chambers, 2003;
Matten, 2004). Những nghiên cứu khác nhau đã phát triển khung trách nhiệm xã hội
phù hợp với các tài liệu và phong tục quốc gia của họ.
Các nước phát triển sử dụng các chỉ số trách nhiệm xã hội cho các mục tiêu
khác nhau, chẳng hạn như đo hiệu quả trách nhiệm xã hội, cung cấp sự minh bạch
giữa các bên liên quan và các công ty và nghiên cứu phân tích. Các chỉ số xếp hạng
trách nhiệm xã hội phổ biến là chỉ số KLD, chỉ số trách nhiệm xã hội, chỉ số AA1000,
chỉ số bền vững Dow Jone v.v… Nghiên cứu này đã phát triển chỉ số trách nhiệm xã
hội vì các chỉ số hiện tại không thể áp dụng được cho các công ty niêm yết Việt Nam
bởi vì mẫu cho việc thực hành trách nhiệm xã hội của các nước phát triển không thực
hiện được ở Việt Nam.
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty bằng việc áp dụng phương pháp
129
phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội (CSR) trên cơ sở đó, kiểm
tra mức độ thực hành CSR cho các công ty niêm yết Việt Nam và đo lường các mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Đối với mục tiêu này, nghiên
cứu đã phân tích dữ liệu bằng các kiểm định kinh tế lượng, phân tích hồi quy đa biến
(pooled OLS, FEM, REM). Nghiên cứu này có thể được xem là nghiên cứu tổng thể
đầu tiên ở Việt Nam xác định các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính sử dụng phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội. Kết quả cho
thấy tồn tại các mối quan hệ có ý nghĩa giữa trách nhiệm xã hội, các khía cạnh trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính trong hai trường hợp có xem xét và không có xem
xét yếu tố độ trễ; những công ty thường xuyên công bố trách nhiệm xã hội tốt qua các
năm sẽ làm cho rủi ro công ty thấp hơn; hiệu quả tài chính của công ty có công bố
trách nhiệm xã hội luôn cao hơn so với công ty không công bố trách nhiệm xã hội
(hiệu quả tài chính cao hơn thể hiên qua ROA).
130
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aaronson, S. 2005. Minding Our Business: What the United States Government has
done and can do to ensure that US Multinationals Act Responsibly in Foreign
Markets. Journal of Business Ethics, Vol.9, pp. 17 - 198.
Abbott, W. F. and Monsen, R. J. 1979. On the measurement of corporate social
responsibility: self-reported disclosures as a method of measuring corporate
social involvement. The Academy of Management Journal, vol.22, no.3, 501-
15.
Adams, CA and Frost, GR 2006. Accessibility and functionality of the corporate
web site: implications for sustainability reporting. Business Strategy and the
Environment, vol. 15, no. 4, pp. 275–87.
Adams, CA, Hill, W-Y and Roberts, CB. 1998. Corporate social reporting practices in
Western Europe: legitimating corporate behavior?. The British Accounting
Review, vol 30, no 1, pp 1 -21.
Adams, R., Almeida, H. and Ferreira, D. 2005. Powerful CEOs and their impact on
corporate performance. Review of Financial Studies, Vol. 18 No. 4, pp. 1403-
1432.
Adewuyi, AO, and Olowookere, AE. 2010a. CSR and sustainable community
development in Nigeria: a case from WAPCO cement industry. Social
Responsibility Journal, Vol. 6, No. 4, pp. 522–535.
Agarwal, SK 2008. Corporate social responsibility in India. Sage Publications Pvt.
Ltd.
Aguilera, R.V., Rupp, D.E., Williams, C.A. and Ganapathi, J. 2007. Putting the S
back in corporate social responsibility: a multi-level theory of social change in
organizations. Academy of Management Review, Vol. 32 No. 3, pp. 836-863.
Ahmad, NNN and Sulaiman, M. 2004. Environmental disclosure in Malaysian annual
report: a legitimacy theory perspective. International Journal of Commerce and
Mangement, vol 14, no 1, pp 44.
Alexis Cellier, Pierre Chollet, 2015. The effects of social ratings on firm value.
Research in International Business and Finance, RIBAF-376; No. of Pages28
131
Ali Fekrat, M 1996. Corporate environmental disclosures: competitive disclosure
hypothesis using 1991 annual report data. The Intenational journal of
accounting education and research, vol 31, no 2, pp 175 – 195.
Allouche, J. and P. Laroche: 2005. A Meta-Analytical Investigation of the
Relationship Between Corporate Social and Financial Performance. Revue de
Gestion des Ressources Humaines, vol 57, no (1), pp 8–41.
Al-Tuwaijri, SA, Christense, TE and Hughes II, KE, 2004. The relations among
environment disclosure, environmental performance, and economic
performance: a simultaneous equations approach. Accounting, Organization
and Society, vol 29, no 5, pp 447-471.
Amran, ABUNA 2015. Corporate social responsibility practice and corporate
financial performance: evidence from Nigeria. Social Responsibility Journal,
Vol. 11, No. 4 pp 1-24.
Angelidis J.P., Massetti B.L. and Magee-Egan P. 2008. Does Corporate Social
Responsibility Orientation Vary by Position in the Organizational Hierarchy?.
Review of Business Spring, vol 28, no (3), pp 23-32.
Aras, G, Aybars, A and Kutlu, O. 2010. Managing corporate performance.
Investigating the relationship between corporate social responsibility and
financial performance in emerging markets. International Journal of
Productivity and Performance Management, vol 59, no 3, pp 229-254.
Aras, G. and Crowther, D. 2007. Is the global economy sustainable?. London: The
Geopolitics of the City, Forum Press, pp 165-94.
Arlow, P. and R. Ackelsberg: 1991. A Small Firm Planning Survey: Business Goals,
Social Responsibility, and Financial Performance. Akron Business and
Economic Review, vol 22, no (2), pp 161–172.
Arora, P and Dharwadkar, R. 2011. Corporate Governance and Corporate Social
Responsibility (CSR): The Moderating Roles of Attainment Discrepancy and
Organization Slack. Corporate Governance: An International Review, vol.19,
no.2, pp 136-152.
Attig, N, El Ghoul, S, Guedhami, O and Suh, J. 2013. Corporate social responsibility
and credit ratings. Journal of Business Ethics , Vol 117, No 4, pp 679-694.
132
Aupperle, KE, Carroll, AB and Hatfield, JD 1985. An empirical examination of
the relationship between corporate social responsibility and profitability.
Academy of Management Journal, vol. 28, no. 2, pp. 446–63.
Azim, MI. 2010. A study of corporate social disclosure in the finance sector in
Bangladesh. AFAANZ.
Azmat, F and Samaratunge, R 2009. Responsible entrepreneurship in developing
countries: understanding the realities and complexities. Journal of Business
Ethics, vol. 90, no. 3, pp. 437–52.
Balabanis, G., H. C. Philips and J. Lyall: 1998. Corporate Social Responsibility and
Economic Performance inthe Top British Companies: Are They Linked?.
European Business Review, vol 98, no (1), pp 25–42.
Barbosa, N. and Louri, H. 2005. Corporate performance: does ownership matter?. A
comparison of foreign-and-domestic-owned firms in Greece and Portugal.
Review of Industrial Organization, Vol.27, pp. 73-112.
Barnett, ML. 2007. Stakeholder influence capacity and the variability of financial
returns to corporate social responsibility. Academy of Management Review,
32: 794–816.
Barnett, ML. and RM, Salomon. 2006. Beyond Dichotomy: The Curvilinear
Relationship between Social Responsibility and Financial Performance.
Strategic Management Journal 27(11), 1101–1156.
Baum, CF 2006. An introduction to modern econometrics using Stata/Christopher F.
Baum, Stata Press, College Station, Tex.
Bayoud, NS, Kavanagh, M and Slaughter, G, 2012. An empirical study of the
relationship between CSR disclosure and organizational performance: evidence
from Libya, International Journal of Management and Marketing Research, vol
5, no 3, pp 69-82.
Bayoud, NSM 2012. CSR disclosure and organizational performance: the case of
Libya, a mixed methods study. Doctor of Philosophy, School of Accounting,
Economics and Finance, Faculty of Business and Law, University of Southern
Queensland.
BCSD 1999. Corporate Social Responsibility: Meeting changing expectations.
Viewed 12.09.2009.
133
Becchetti, L. and Ciciretti, R. 2006. Corporate social responsibility and stock market
performrance. CEIS Tor Vergata – Research Paper Series, pp. 27-79.
Becchetti, L., and Ciciretti, R., 2009. Corporate Social Responsibility and Stock
Market Performance. Applied Financial Economics, vol 19, pp 1283-1293.
Belal, A. R. 2001. A study of corporate social disclosures in Bangladesh. Managerial
Auditing Journal, 16 (5), 274–289.
Beltratti, A. 2005. The complementarity between corporate governance and corporate
social responsibility. Geneva Papers on Risk & Insurance, vol 30, pp 373–86.
Beurden, VP, Goessling, T 2008. The worth of values - A literature review on the
relation between corporate social and financial performance. Journal of
Business Ethics, vol 82, no 2, pp 407-424.
Bewley, K and Li, Y 2000. Disclosure of Environmental Information by Canadian
Manufacturing Companies: A Voluntary Disclosure Perspective. Advances in
Environmental Accounting & Management, vol 1, pp 201 – 226.
Bhagat, S and Bolton, B., 2008. Corporate governance and firm performance.
Journal of Corporate Finance vol 14, pp 257-273.
Blacconiere, WG and DM, Patten: 1994. Environmental Disclosures, Regulatory
Costs, and Changes in Firm Value. Journal of Accounting and Economics, vol
18, no (3), pp 357–377.
Blowfield, M 2004. Implementation deficits of ethical trade systems: lessons from the
Indonesian cocoa and timber industries. Journal of corporate citizenship, vol.
13, pp. 77–90.
Boorman, S. Healthy profits: Workers’ wellbeing is directly linked to the bottom
line//Western Daily Press [Bristol (UK)] July 5, 2011. p.1.
Bowen, H.R. 1953. Social responsibilities of the businessman. Harper & Row, New
York, NY.
Boyle, EJ, MM, Higgins and SG, Rhee: 1997. Stock Market Reaction to Ethical
Initiatives of Defence Contractors: Theory and Evidence. Critical Perspectives
on Accounting, vol.8, no (6), 541–561.
Bragdon, JH, and Marlin, JT. 1972. Is pollution profitable? Risk Management, vol 19,
no 4, pp 9-18. Business and Society Review, 1972. So far so good, (2): 88
134
Brammer, S, C. Brooks and S. Pavelin: 2006. Corporate Social Performance and
Stock Returns UK Evidence from Disaggregate Measures. Financial
Management, vol.35, no 3, pp 97–116.
Branco, C and Rodrigues, L. 2007. Positioning stakeholder theory within the debate
on corporate social responsibility.
Branco, MC and Rodrigues, LL. 2006. Communication of corporate social
responsibility by Portuguese banks: a legitimacy theory perspective corporate
communications. An International Journal, Vol. 11 No. 3, pp. 232-248.
Branco, MC and Rodrigues, LL. 2006. Corporate social responsibility and resource -
based perspectives. Journal of Business Ethics, vol. 69, no. 2, pp. 111–32.
Brown, B.: 1998. Do Stock Market Investors Reward Companies with Reputations for
Social Performance?. Corporate Reputation Review 1 (3), 271–280.
Carrol, A.B. 1999. Corporate social responsibility: Evolution of a definitional
construct. Business and Society, Vol. 38 No. 3, pp. 268–295.
Carroll, AB. 1979. A three-dimensional conceptual model of corporate performance.
Academy of management review, vol. 4, no. 4, pp. 497–505.
Carroll, AB. 1991. The pyramid of corporate social responsibility: toward the moral
management of organizational stakeholders. Business horizons, vol. 34, no. 4,
pp. 39–48.
Carter, CR., R. Kale and C. M. Grimm: 2000. Environmental Purchasing and Firm
Performance: An Empirical Investigation. Transportation Research, vol.36, no
(E), pp 219–228.
Chand, M and Fraser, S 2006. The relationship between corporate social
performance and corporate financial performance: industry type as a
boundary condition, The Business Review, vol. 5, no. 1, pp. 240–5.
Chatterjee, B and Mir, MZ. 2008. The current status of environmental reporting by
Indian companies. Managerial Auditing Journal, vol 23, no 6, pp 609-629.
Chen, H. and Wang, X. 2011. Corporate Social Responsibility and Corporate Social
Performance in China: An Empirical Research from Chinese Firms. Corporate
Governance: The international journal of business in society, Vol. 11 Iss 4 pp.
361 – 370.
135
Cheung, YL, Tan, W, Ahn, HJ and Zhang, Z 2010. Does corporate social
responsibility matter in asian emerging markets?. Journal of Business Ethics,
vol. 92, no. 3, pp 401-413.
Ching, L. Yung, F. and Chung, Y. 2009. The Linkage between Corporate Social
Performance and Corporate Financial Performance [J]. Emerald.
Clarke, J 1998. Corporate social reporting: an ethical practice. Ethical issues in
accounting, pp. 184–99.
Clarkson, M. 1988. Corporate social performance in Canada, 1976–86.
International and comparative studies, p. 241
Clement, LT. 2002. Corporate social responsibility - bottom-line issue or public
relations exercise?. Financial Times, No 1. pp. 5-13.
Cochran, P and Wood, R. 1985. Corporate social responsibility and financial
performance. Academy of Management Review, vol. 4, pp. 758–69.
Cochran, R. and Wood, R. 1984. Corporate social responsibility and financial
performance. Academy of Management Journal, vol 27, no (1), pp 42-56.
Coelho, PRP, McClure, JE and Spry, JA. 2003. The social responsibility of corporate
management: A classical critique. Mid-American Journal of Business, vol. 18,
no. 1, p. 15.
Cooke, T 1993. Disclosure in Japanese corporate annual reports. Journal of
Business Finance & Accounting, vol. 20, no. 4, pp. 521–35.
Cooke, TE. 1989. Disclosure in the corporate annual reports of Swedish companies.
Accounting & Business Research, Vol. 19 No. 74, pp. 113-124.
Cornell, B and Shapiro, A.C. 1987. Corporate Stakeholders and Corporate Finance.
Financial Management, vol 16, pp 5-14.
Cowen, LB and Scott, S. 1987. The impact of corporate characteristics on social
responsibility disclosure: a typology and frequency-based analysis.
Accounting, Organizations and Society, vol. 12, no. 2, pp. 111–22.
Crane, A, Matten, D and Spence, LJ. 2008. Corporate Social Responsibility -
Readings and cases in a global context. London and New York: Routledge.
Crawford D, T. Scaletta. The Balanced Score card and Corporate Social
Responsibility: Aligning values for profit. The Management Accounting
Magazine, CMA Management, 2005. Vol 79, no 6, pp. 20-27.
136
Crespin, R. 2012. Where CSR fits on the board's agenda, NACD directorship.
http://www. directorship.com/where-csr-fits-on-the-boards -agenda (accessed
Oct. 28, 2012).
Crisóstomo, VL, Freire, FDS and Vasconcellos, FC. De. 2011. Corporate social
responsibility, firm value and financial performance in Brazil. Social
Responsibility Journal, Vol.7, No.2, pp.295–309.
D’Arcimoles, C.H. and Trebucq, S. 2002. The corporate social performance –
financial performance link: evidence from France. Working paper series.
David, O. 2012. An assessment of the impact of corporate social responsibility on
Nigerian society: the examples of banking and communication industries.
Universal Journal of Marketing and Business Research, Vol. 1 No. 1, pp. 17-
43.
Davis, K and Frederick, W 1984. Business and society: Management, public policy,
ethics. McGraw-Hill Companies
Daviss B. Profits from Principle. The Futurist, 1999. No 33 (3). pp. 28-33.
De Bakker, FGA, P. Groenewegen and F. Den Hond: 2005. A Bibliometric Analysis
of 30 Years of Research and Theory on Corporate Social Responsibility and
Corporate Social Performance. Business and Society 44(3), 283–317.
Deegan, C and Gordon, B 1996. A study of the environmental disclosure practices of
Autralian corporation. Accounting and Business Research, vol 26, no 3, pp
187-199
Deegan, C, Rankin, M and Voght, P. 2000. Firms’ disclosure reactions to major social
incidents: Australian evidence. Accounting Forum, vol 24, no 1, pp 101-130.
Deegan, C. 2002. Introduction: the legitimising effect of social and environmental
disclosures: a theoretical foundation. Accounting, Auditing & Accountability
Journal, Vol. 15, No. 3, pp. 282-311.
Deegan, C., and Rankin, M. 1996. Do Australian Companies Report Environmental
News Objectively? An Analysis of Environmental Disclosures By Firms
Prosecuted Successfully by the Environmental Protection Authority.
Accounting, Auditing and Accountability Journal, Vol 9, No 2, pp 505-67.
Dentchev, NA, 2004. Corporate social performance as a business strategy. Journal of
Business Ethics, vol 55, no 4, pp 395-410.
137
Derwall, J., Guenster, N., Bauer, R., and Koedjik, K., 2005. The Eco-E ¢ciency Pre-
mium Puzzle. Financial Analysts Journal March/April, pp 51-63.
Dhaliwal, D., LI, O., Tsang, A. and Yang, Y. 2011. Voluntary nonfinancial disclosure
and the cost of equity capital: the initiation of corporate social responsibility
reporting. The Accounting Review, vol 86, no (1), pp 59-100.
Dierkes, M and Preston, LE 1977. Corporate social accounting reporting for the
physical environment: a critical review and implementation proposal.
Accounting, Organizations and Society, vol 2, no 1, pp 3 – 22.
Djalil. 2003. Good Corporate Governance: Kelemahan fundamental Makroekonomi
Indonesia. www.BusinessDictionary. com
Donaldson, T and Preston, LE 1995. The stakeholder theory of the corporation:
Concepts, evidence, and implications. The Academy of Management Review,
vol. 20, no. 1, pp. 65–91.
Donaldson, T. and Preston, L.E. 1995. The stakeholder theory of the corporation:
concepts, evidence, and implications. Academy of Management Review, Vol
20, No 1, pp 65-91.
Dowell, G., Hart, S and Yeung, B. 2000, Do corporate global environmental standards
create or destroy market value?. Management Science, Vol 46 No 8, pp 1059-
74
Dowling, J. and Pfeffer, J. 1975. Organizational legitimacy: social values and
organizational behavior. Pacific Sociological Review, vol 18, no 1, pp 122-136.
Dragomir, V.D. 2009. Environmentally sensitive disclosures and financial
performance in a European setting. Journal of Accounting & Organizational
Change, Vol 6, No 3, pp 359-388.
Dufresne, F.B., P. Savaria. 2004. Corporate Social Responsibility and Financial
Risk//The Journal of Investing, vol 13, no (1), pp. 57-66.
Dunlop, A. 1998. Corporate Governance and Control. CIMA Publishing, London.
Ebiringa, O. T., Yadirichukwu, E., Chigbu, E. E., and Ogochukwu, O. J. 2013. Effect
of firms Size and profitability on corporate social disclosures: The Nigerian Oil
and Gas sector in focus. British Journal of Economics, Management & Trade
Vol 3, No 4, pp 563–574.
138
El Ghoul, S, Guedhami, O., Kwok, C. and Mishra, D. 2012. Does corporate social
responsibility affect the cost of capital?. Journal of Banking & Finance, Vol 35,
No 9, pp 2388-2406.
Elsayed, K and Paton, D 2005. The impact of environmental performance on firm
performance: static and dynamic panel data evidence. Structural Change and
Economic Dynamics, vol 16, no 3, pp 395–412.
Falck, O, S. Heblich. 2007. Corporate social responsibility: Doing well by doing good
Business Horizons, Vol 50, no (3), pp. 247-254.
Feldman, J., Soyka, P., & Ameer, P. 1997. Does improving a firm’s environmental
management system and environmental performance result in a higher stock
price?. Journal of Investing, 6 , 87–97.
Fernando, M 2007. Corporate Social Responsibility in the Wake of the Asian
Tsunami: A Comparative Case Study of Two Sri Lankan Companies.
European Management Journal, vol. 25, no. 1, pp. 1–10.
Fischer, J. 2004. Social Responsibility and Ethics: Clarifying the Concepts. Journal of
Business Ethics, vol.52 no (4), pp 381-390.
Fombrun, C and Shanley, M 1990a. What’s in a name? Reputation building and
corporate strategy. Academy of Management Journal, pp. 233–58.
Fombrun, C and Shanley, M 1990b. What’s in a name? Reputation building and
corporate strategy. Academy of Management Journal, vol 33, n. 2, pp 233–58.
Freedman, M. and A. J. Stagliano: 1991. Differences in Social-Cost Disclosures: A
Market Test of Investor Reactions. Accounting Auditing and Accountability
Journa, vol 4, no 1, pp 68–83.
Freeman, R 1983. Strategic management: A stakeholder approach. Advances in
strategic management, vol 1, no 1, pp 31–60.
Friedman M. 2007. The Social Responsibility of Business is to Increase its Profits.
Corporate Ethics and Corporate Governance, Vol 4, pp. 173-178.
Friedman, M, 1970. The Social Responsibility of Business is to Increase its Profit.
The New York Times Magazine, September 13, 1970.
Frye, Melissa B, Edward Nelling, and Elizabeth Webb, 2006. Executive
Compensation in Socially Responsible Firms. Corporate Governance: An
International Review, vol 14, pp 446-455.
139
Galbreath, J. 2009. Building corporate social responsibility into strategy. European
Business Review, Vol. 21, No. 2, pp. 109-127.
Gamerschlag, Ramin, Moller, Klaus and Verbeeten, Frank. 2011. Determinants of
voluntary CSR disclosure: Empirical evidence from Germany. Review of
managerial science, 5 (2), 233-262.
Garcia-castro, R, Arino, M and Canela, M, 2010. Does social performance really lead
to financial performance? Accouting for endogenety. Journal of Business
Ethics, vol 92, no 1, pp 107-126.
Garriga, E and Melé, D 2004. Corporate social responsibility theories: mapping the
territory. Journal of Business Ethics, vol. 53, no. 1, pp. 51–71.
Gatewood, R.D, Gowan, M.A and Lautenschlager, G.J. 1993. Corporate Image,
Recruitment Image and Initial Job Choice Decisions. The Academy of
Management Journal 36(2), 414-427.
Ghelli, C 2013. Corporate social responsibility and financial performance: an
empirical evidence. MSc Economics & Business Administration, Copenhagen
Business School. CBS
Giannarakis, G and Theotokas, I. 2011. The Effect of Financial Crisis in Corporate
Social Responsibility Performance. International Journal of Marketing Studies.
Vol 3.
Glick, W.H, Washburn, N.T and Miller, C.C. 2005. The myth of firm performance.
Proceedings of the Annual Meeting of American Academy of Management.
Honolulu, Hawaii.
Godfrey, P. 2005. The relationship between corporate philanthropy and shareholder
wealth: a risk management perspective. Academy of Management Review, Vol
30, No 4, pp 777-798.
Godfrey, P. C., Merrill, C., & Hansen, J. 2009. The relationship between corporate
social responsibility and shareholder value: An empirical test of the risk
management hypothesis. Strategic Management Journal, 30(4), 425–445.
Goll, I and AA. Rasheed: 2004. The Moderating Environmental Munificence and
Dynamism on the Relationship between Discretionary Social Responsibility
and Firm Performance. Journal of Business Ethics, vol.49, no 1, pp 41–54.
140
Gompers, P, Ishii, J and Metrick, A. 2003. Corporate governance and equity prices.
Quartery Journal of Economics, vol 118, pp 107–55
Graves, S.B and S.A. Waddock: 1999. A Look at the Financial-Social Performance
Nexus When Quality of Management is Held Constant. International Journal of
Value-Based Management, vol 12, no 1, pp 87–99.
Green, T. and Peloza, J. 2011. How does corporate social responsibility create value
for consumers. Journal of Consumer Marketing , Vol. 28 No. 1, pp. 48-56.
Greenwood, M, 2001. The Importance of Stakeholders According to Business
Leaders. Business & Society Review, vol 106, no 1, pp 29-49.
Griffin, J and Mahon, J 1997a. The corporate social performance and corporate
financial performance debate. Business & Society, vol. 36, no. 1, p. 5.
Griffin, J and Mahon, J 1997b, the corporate social performance and corporate
financial performance debate, Business and Society, vol. 36, no. 1, pp. 5–31.
Griffin, J.J, J.F. Mahon. 1997. The Corporate Social Performance and Corporate
Financial Performance Debate. Business and Society, Vol 36, no 1, pp 5-31.
Griffin, JJ. 2000. Corporate social performance: Research directions for the 21st
century. Business & Society, vol. 39, no. 4, p. 479.
Grosser, K. and Moon, J. 2005. Gender mainstreaming and CSR: Reporting workplace
issues. Journal of Business Ethics, vol 62, pp 327–40.
Guadamillas-Gómez, F and Donate-Manzanares, MJ. 2011. Ethics and corporate
social responsibility integrated into knowledge management and innovation
technology: A case study. Journal of Management Development, vol.30, No.6,
pp 569–581.
Guerard, J. B. Jr. 1997. Is There a Cost to Being Socially Responsible in Investing?.
Journal of Investing 6(2), 11–18.
Gujarati, DN 2009. Basic economietrics. McGraw-Hill Irwin, Boston.
Gulyás, Á 2009. Corporate social responsibility in the British media industries-
preliminary findings. Media, Culture & Society, vol. 31, no. 4, p. 657.
Gutherie, J. and Petty, R. 2000. Intellectual capital: Australian annual reporting
Practices. Journal of Intellectual Capital, 1 (3), 62-65.
141
Guthrie, J and Abeysekera, I. 2006. Content analysis of social, environmental
reporting: what is new?. Journal of HRCA: Humance resource costing &
Accounting, vol 10, no 2, pp 114-114.
Guthrie, J and Farneti. 2008. GRI sustainability report by Australian public sector
organizations. Public Money & Management, vol 28, no 6, pp 361.
Guthrie, J., Petty, R., Yongvanich, K. and Ricceri, F. 2004. Using content analysis as
a Research Method to Inquire into Intellectual Capital Reporting. Journal of
Intellectual Capital, 5 (2), 282-293.
Hackston, D and Milen, MJ. 1996. Some determinants of social and environmental
disclosure in New Zealand companies. Accounting, Auditing & Accountability
Journal, vol 9, no 1, pp 77-108.
Hamilton, S., H. Jo and M. Statman: 1993. Doing Well While Doing Good? The
Investment Performance of Socially Responsible Mutual Funds. Financial
Analysts Journal 49, 62–66.
Hammond, S.A., J.W. Slocum. 1996. The impact of prior firm financial performance
on subsequent corporate reputation. Journal of Business Ethics, Vol 15, no (2),
pp 159-165.
Hancock J. (ed.) 2005. Investing in Corporate Social Responsibility: A Guide to Best
Practice. Business Planning & the UK’s Leading Companies, Kogan Page,
London.
Hart, S. L. and G. Ahuja: 1996. Does It Pay to be Green? An Empirical Examination
of the Relationship between Emission Reduction and Firm Performance.
Business Strategy and the Environment, vol 5, no (1), pp 30–37.
Hassan, I. Islam, Z. and Ahmed, S. 2012. Corporate Social Responsibility and
Financial Performance Linkage [C]. the Banking Sector of Bangladesh.
He, Y, Z. Tian and Y. Chen: 2007. Performance Implications of Non-market Strategy
in China. Asia Pacific Journal of Management, vol 24, no (2), pp 151–169.
Heal, G. 2005. Corporate Social Responsibility: an Economic and Financial
Framework. The Geneva Papers, vol 30, pp 387-409.
Heinz, GH. 1976. Methyl mercury: Second-generation reproductive and behavioural
effects on mallard ducks. The Journal of Wildlife Management, pp 710–5.
142
Helslin, T and Roach, APP. 2008. Environmental issues and corporate social
responsibility in Nigeria Niger Delta region: the need for a pragmatic approach.
Vol. 4, pp. 1–21.
Henri Servaes and Ane Tamayo. 2013. The Impact of Corporate Social Responsibility
on Firm Value: The Role of Customer Awareness. Management Science, Vol.
59, No. 5, pp. 1045–1061.
Herremans, I. M., P. Akathaporn and M. McInnes: 1993. An Investigation of
Corporate Social Responsibility Reputation and Economic Performance.
Accounting Organizations and Society, vol 18, no 7/8, pp 587–604.
Ho, C. 2005. Corporate governance and corporate competitiveness: An international
analysis. Corporate Governance: An International Review, 13: 211–53.
Holmes, S 1976. Executive perceptions of corporate social responsibility. Business
Horizons, vol. 19, no. 3, pp. 34–40.
Hong, H., Kubik, J.D., and Scheinkman, J.A., 2011. Financial Constraints on
Corporate Goodness. Working paper, Princeton University.
Hopkins 2007. Corporate social responsibility and international development: is
business the solution?. Earth scan/James & James.
Hopkins, E 2000. Industrialisation and society: a social history, 1830–1951.
Psychology Press.
Hopkins, M. 2005. Measurement of corporate social responsibility. International
Journal of Management and Decision Making, vol. 6, no. 3, pp. 213–31.
Hossain, M. and Hammami, H. 2009. Voluntary disclosure in the annual reports of an
emerging country: the case of Qatar. Advances in Accounting, Vol. 25 No. 2,
pp. 255-265.
Hughes, S.B, Anderson, A and Golden, S. 2001. Corporate environmental disclosure:
are they useful in determining environmental performance. Journal of
Accounting and Public Policy, Vol. 20, pp. 217-40.
Hussainey, K., and Walker, M. 2009. The effects of voluntary disclosure and dividend
propensity on prices leading earnings. Accounting and Business Research, Vol.
39 No. 1, pp. 37–55. doi:10.1080/00014788.2009.9663348.
143
Husted, B. W. 2005. The relationship between corporate social responsibility and
shareholder value: An empirical test of the risk management hypothesis.
Journal of Business Ethics, 60 (2), 175–183.
Husted, B.W., D.B. Allen. 2007. Strategic Corporate Social Responsibility and Value
Creation among Large Firms: Lessons from the Spanish Experience. Long
Range Planning, Vol 40, no (6), pp. 531-642.
Isaksson, R. and Steimle, U. 2009. What does GRI Reporting tell us about Corporate
Sustainability?. The TQM Journal Vol 21, pp 168-81.
Islam, MA and Deegan, C. 2010. Media pressures and corporate disclosure of social
responsibility performance information: a study of two global clothing and
sports retail companies. Accounting and Business Research, vol 40, no 2, pp
131.
Jamali. D, Zanhour. M and Keshishian. T. 2008. Peculiar strengths and relational
attributes of SMEs in the context of CSR. Journal of Business Ethics (in press).
Jeffrey, M.W. 2015. Introductory econometrics: a modern approach. Fifth edition.
South-Western, CENGAGE learning.
Jensen M.C and Meckling W.H. 1976. Theory of the firm: managerial behavior,
agency costs and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3, 305–
360. DOI:10.2139/ssrn.9404
Jensen, M. 2001. Value maximization, stakeholder theory and the corporate objective
function. Tuck Business School Working Paper No. 01-09; Harvard NOM
Research Paper No. 01-01; Harvard Business School Working Paper No. 00-
058.
Jitaree, W. 2015. PhD thesis “Corporate social responsibility disclosure and financial
performance: evidence from Thailand”
Jo, H. and Na, H. 2012. Does CSR reduce firm risk? Evidence from controversial
industry Sectors. Journal of Business Ethics , Vol. 43, No. 4, pp. 441-456.
Jones, M. 2005. The traditional corporation, corporate social responsibility and the
outsourcing debate. The Journal of American Academy, Vol. 2, pp. 91-7.
Jones, S, Frost, G, Loftus, J and van der Laan, S 2007. An empirical examination of
the market returns and financial performance of entities engaged in
sustainability reporting. Australian Accounting Review, vol 17, no 1, pp 78-87.
144
Jones, T.M. 1995. Instrumental stakeholder theory: a synthesis of ethics and
economics. Academy of Management Review, Vol 20, No 2, pp 404-437.
Joshi, P.L. and Gao, S.S. 2009. Multinational corporations’ corporate social and
environmental disclosures on web sites. International Journal of Commerce and
Management , Vol. 19 No. 1, pp. 27-44.
Judge, W. Q. Jr. and T. J. Douglas: 1998. Performance Implications of Incorporating
Natural Environmental Issues into the Strategic Planning Process: An
Empirical Assessment. Journal of Management Studies, vol 35, no (2), pp 241–
262.
Juliana, I and Xu, F. 2016. Impact of Corporate Social Responsibility on Firm’s
Financial Performance: The Tanzanian Perspective. RISUS - Journal on
Innovation and Subtainability, São Paulo, Vol 7, no 1, pp 18 – 27.
Kapopoulos, P. and Lazaretou, S. 2007. Corporate ownership structure and firm
performance: evidence from Greek firm. Corporate Governance, vol 15, no 2,
pp 144 - 58.
Karagiorgos, T 2010. Corporate social responsibility and financial performance: an
empirical analysis on Greek companies. European Research Studies, vol 13, no
4, pp 85 – 109.
Karaibrahimoglu, Z. Y 2010. Corporate Social Responsibility in Times of Financial
Crisis [J]. African Journal of Business Management, vol 4.
Kempf, A. and Osthoff, P. 2007. The effect of socially responsible investing on
financial performance. European Financial Management, Vol. 13 No. 5, pp.
908-922.
Kendall, N. 1999. Good corporate governance, Accountants’ Digest. Issue 40. The
ICA in England and Wales.
Khan, S 2005. Exploring the concept of sustainability in emerging markets: Evidences
from the Indian pharmaceutical industry. URL: http://www. Oikosstiftung
unisg.ch/academy2005/paper_khan. Pdf. [Acessado em 10 June 2006].
Khemir, S and Baccouche, C. 2010. Analysis of determinants of corporate social
responsibility disclosure in the annual report of Tunisian listed firms.
Accounting in Emerging Economies, vol 10, pp 119-144.
145
Kimbro, MB and Melendy, SR. 2010. Financial performance and voluntary
environmental disclosure during the Asian Financial Crisis: the case of Hong
Kong. International Journal of Business performance Management, vol 12, no
1, pp 72-85.
Klassen, R. D. and C. P. McLaughlin: 1996. The Impact of Environmental
Management on Firm Performance. Management Science, vol 42, no (8), pp
1199–1214.
Kraft, K.L., J. Hage. 1990. Strategy, social responsibility and implementation. Journal
of Business Ethics, Vol 9, no (1), pp. 11-19.
Krippendorff, K. 1980. Content analysis: An introduction to its methodology. London:
Sage.
Krippendorff, K. 2004. Content analysis. An introduction to its metholodogy. London.
Sage.
Krisnawati. A, Yudoko. G and Bangun Y.R. 2014. Development Path of Corporate
Social Responsibility Theories. World Applied Sciences Journal 30 (Innovation
Challenges in Multidiciplinary Research & Practice): 110-120, 2014. ISSN
1818-4952. DOI: 10.5829/idosi.wasj.2014.30.icmrp.17.
Kuasirikun, N., and Scherer, M. 2004. Corporate social accounting disclosure in
Thailand. Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 17, No. 4, pp.
629–660.
Kumar, R., W. B. Lamb and R. E. Wokutch: 2002. The End of South African
Sanctions, Institutional Ownership, and the Stock Price Performance of
Boycotted Firms. Business and Society, vol 41, no 2, pp 133–165.
Lammertjan Dam - Proefschrift, 2007. “Corporate Social Responsibility and Financial
Markets”.
Lancaster, I. 2004. Flavour of the Month is here to Stay as CSR Takes Firm Hold In
PR. Media Asia, 1-3.
Lantos, G 2001. The boundaries of strategic corporate social responsibility. Journal of
Consumer Marketing, vol. 18, no. 7, pp. 595–632.
Lee, S, Singal, M and Kang, KH 2013. The corporate responsibility – financial
performance link in the U.S restaurant industry: do economic conditions
146
matter?. International Journal of Hospitality Management, vol 32, no 0, pp 2-
10.
Leonardo Becchetti, Rocco Ciciretti, Iftekhar Hasan, Nada Kobeissi. Corporate social
responsibility and shareholder's value. Journal of Business Research 65 (2012)
1628 –1635.
Lieberman M.B and Kang J. 2008. How to measure company productivity using
value-added: A focus on Pohang Steel (POSCO). Asia Pacific J Manage, vol
25, pp 209–224. DOI. 10.1007/s10490-007-9081-0.
Lii, Y. 2011. The effect of corporate social responsibility initiatives on consumers
identification with companies. Asian Journal of Business and Management ,
Vol. 5 No. 5, pp. 1642-1649.
Lindblom, CK. 1993. The implications of organizational legitimacy for corporate
social performance and disclosure. Critical Perspectives on Accounting
Conference.
Lindblom, CK. 1994. The implications of organizational legitimacy for social
performance and disclosure. The Critical Perspectives on Accounting
Conference, New York.
Lioui, A. and Sharma, Z. 2012. Environmental corporate social responsibility and
financial performance: Disentangling direct and indirect effects. Ecological
Economics, Vol. 78, 100–111.
Long, HC. 2015. The impact of market orientation and corporate social responsibility
on firm performance: evidence from Vietnam. Academy of Marketing Studies
Journal, Vol 19, No 1, pp 265-277.
Lopes, P and Rodrigues, L 2007. Accounting for Financial Instruments: An
Analysis of the determinants of disclosure in the Portuguese stock
exchange. The International Journal of Accounting, vol. 42, no. 1, pp. 25–56.
Louis W, Fry, LW, Keim, GD, RE. 1982. Meiners. Corporate Contributions: Altruistic
or For Profit?. The Academy of Management Journal, Vol 25, no 1, pp 94-106.
Luo, X and CB. Bhattacharya: 2006. Corporate Social Responsibility, Customer
Satisfaction, and Market Value. Journal of Marketing, vol 70, no (1), pp 1–18.
147
Luo, X. and Bhattacharya, C.B. 2009. The debate over doing good: corporate social
performance, strategic marketing levers, and firm-idiosyncratic risk. Journal of
Marketing, Vol 73 No 6, pp 198-213.
Mackey, A, Mackey, TB, JB. Barney. 2007. Corporate Social Responsibility and Firm
Performance: Investor Preferences and Corporate Strategies. The Academy of
Management Review, Vol 32, no (3), pp. 817-835.
Magness, V. 2006. Strategic posture, financial performance and environmental
disclosure: an empirical test of legitimacy theory. Accounting, Auditing &
Accountability Journal, Vol. 19 No. 4, pp. 540-563.
Mahoney, L and Roberts, RW 2007. Corporate social performance, financial
performance and institutional ownership in Canadian firms, in vol. 31, pp. 233–
53.
Maignan, I and Ralston, DA 2002. Corporate Social Responsibility in Europe and
the US: Insights from Businesses - Self-Presentations. Journal of International
Business Studies, vol. 33, no. 3, pp. 497–515.
Maphosa, F. 1997. Corporate Social Responsibility in Zimbabwe: A Content Analysis
of Mission Statements and Annual Reports. Zambezia. XXIV (II):181-193.
Margolis, JD and JP. Walsh: 2003. Misery Loves Companies: Rethinking Social
Initiatives by Business. Administrative Science Quarterly, vol 48, no (2), pp
268–305.
Marsiglia, E. and Falautano, I. 2005. Corporate social responsibility and sustainability
challenges for a Bancassurance Company. The Geneva Papers, 30: 485–97.
Mattingly, J.E. and Berman, S.L. 2006. Measurement of corporate social action:
discovering taxonomy in the Kinder Lydenberg Domini ratings data. Business
& Society, Vol. 45 No. 1, pp. 20-46.
Maury, B and Pajuste, A. 2005. Multiple large shareholders and firm value. Journal of
Banking & Finance, Vol. 29 No. 7, pp. 1813-34.
McGuire, J, Sundgren, A and Schneeweis, T, 1988. Corporate social responsibility
and firm financial performance. Academy of Management Journal, vol. 31, no.
4, pp. 854–72.
McGuire, J.B., Dow, S and Argheyd, K. 2003. CEO incentives and corporate social
performance. Journal of Business Ethics, Vol 45, No 4, pp 341-359.
148
Melo, T. 2012. Determinants of corporate social performance: the influence of
organizational culture, management tenure and financial performance. Social
Responsibility Journal , Vol 8, No 1, pp 33-47.
Metcalfe, CE. 1998. The Stakeholder Corporation. Business Ethics: A European
Review, 7(1), 30-36.
Milne, MJ and Adler, RW. 1999. Exploring the reliability of social and environmental
disclosures content analysis. Accounting, Auditing & Accountability Journal,
vol 12, no 2, pp 237-256.
Minna, Y and Ronald, Z. 2014. Sustainability and irm valuation: an international
investigation. nternational Journal of Accounting and Information
Management, Vol. 23 Iss 3 pp. 289 – 307.
Mittal, RK, Sinha, N and Singh, A 2008. An analysis of linkage between economic
value added and corporate social responsibility. Management Decision, vol 45,
no 9, pp 1437 – 1443.
Moir, L 2001. What do we mean by corporate social responsibility?. Corporate
Governance, vol. 1, no. 2, pp. 16–22.
Momin, MA., and Parker, LD. 2013. Motivations for corporate social responsibility
reporting by MNC subsidiaries in an emerging country: The case of
Bangladesh. The British Accounting Review, Vol. 45 No. 3, pp. 215–228.
Moneva, JM and Ortas, E. 2008. Are stock markets influenced by sustainability
matter? Evidence from European companies. Int. J. Sustainable Economy, Vol.
1, No. 1
Moneva, JM and Ortas, E. 2010. Corporate environmental and financial performance:
a multivariate approach. Induatrial Management & Data System, vol 110, no 2,
pp 193-210.
Moneve, JM, Rivera-Lirio, JM. and Munoz-Torres, MJ. 2007. The corporate
stakeholder commitment and social and financial performance. Industrial
Management and Data Systems, 107 (1), 84-102
Moore, G. 2001. Corporate social and financial performance: an investigation in the
UK supermarket industry. Journal of Business Ethics, Vol. 34, pp. 299-315.
Murphy, PR and Poist, RF. 2002. Socially responsible logistics: an exploratory study.
Transportation Journal, vol. 41, no. 4, pp 23–35.
149
Murray, A., Sinclair, D., Power, D. and Gray, R. 2006. Do financial markets care
about social and environmental disclosure?. Accounting, Auditing and
Accountability Journal, Vol. 19, pp 228–255
Musphy, V and Abeysekera, I. 2008. Corporate social reporting by top Indian
software firms. Australian Accounting Business and Finance Journal, vol 2, no
1, pp 36-59.
Namita Rajput (India), Geetanjali Batra (India), Ruchira Pathak (India). 2012. Linking
CSR and financial performance: an empirical validation. Problems and
Perspectives in Management, Volume 10, Issue 2, 2012.
Nejati, M. and Ghasemi, S. 2012. Corporate social responsibility in Iran from the
perspective of employees. Social Responsibility Journal, Vol. 8 No. 4, pp. 587-
588.
Nelling, E. and Webb, E. 2009. Corporate social responsibility and financial
performance: the virtuous circle revisited. Review of Quantitative Finance and
Accounting, Vol. 32, pp. 197-209.
Nicola, C.L.P and Sergio, V 2016. Corporate Social Responsibility and Firms’
Performance: a Strategic Graphical Analysis. Journal of International Business
and Economics, vol. 4, no 1, pp 1-12
Ntoi, H 2010. The Impact of CSR on CFP of Companies Listed on Johannesburg
Securities Exchange [D]. MBA Dissertation.
O’Neill, H.M., Saunders, CB, AD, 1998. McCarthy. Board members, corporate social
responsiveness and profitability: Are trade-offs necessary?. Journal of Business
Ethics, Vol 8 (5). pp. 353-357.
Odemilin, EG, Samym, and Bampton, R. 2010. Corporate social responsibility: a
strategy for sustainable business success. An analysis of 20 selected British
corporations. Journal of Business in Society, Vol. 10.
Oikonomou, I., Brooks, C and Pavelin, S. 2010. The impact of corporate social
performance on financial risk and utility: a longitudinal analysis. Working
Paper, University of Reading.
Oikonomou, I., Brooks, C. and Pavelin, S. 2014. The effects of corporate social
performance on the cost of corporate debt and credit ratings. Financial Review ,
Vol. 49 No. 1, pp. 49-75.
150
Orlitzky, M, FL. Schmidt and SL. Rynes: 2003. Corporate Social and Financial
Performance: A Meta Analysis. Organization Studies, vol 24, no 3, pp 403–
441.
Orlitzky, M. and Benjamin, J.D. 2001. Corporate social performance and firm risk: a
meta-analytic review. Business & Society, Vol 40, No 4, pp 369-396.
Oxibar, O. 2003. La diffusion d’information sociétale dans les rapports annuels et les
sites internet des entreprises françaises. Doctorat En Sciences De Gestion,
Université de Paris Dauphine, Paris.
Pahuja, S. 2009. Relationship between environmental disclosures and corporate
characteristics: a study of large manufacturing companies in India. Social
Responsibility Journal, Vol. 5 No. 2, pp. 227-244.
Pascal, N and Anna, N. 2015. The effect of corporate social responsibility on firm
risk. Social Responsibility Journal, Vol. 11 Iss 2 pp. 324 – 339.
Paterson, R. 2000. High-fliers choose ethics over avarice. Sunday Herald, Glasgow
(UK), 3 Edition, December 31, 2000, p. 5.
Patten, DM 1991. Exposure, legitimacy, and social disclosure. Journal of Accounting
and Public Policy, vol 10, no 4, pp 297 – 308.
Pava, ML and J. Krausz: 1996. The Association between Corporate Social-
Responsibility and Financial Performance: The Paradox of Social Cost. Journal
of Business Ethics, vol 15, no (3), pp 321–357.
Peinado-Vara, E. 2006. Corporate Social Responsibility in Latin America. The Journal
of Corporate Citizenship, vol 21, no (1), pp 61–69.
Perrini, F, Pogutz, S and Tencati, A. 2006. Developing Corporate Social
Responsibility: A European Perspective. Edward Elgar Publishing,
Cheltenham, Gloucestershire.
Pitelis, C, & Boulouta, I. 2011. CSR-Based Positioning Strategies. National
Competitive Advantage, and the Role of Innovation.
Poddi, L. and Vergalli, S. 2008. Does Corporate Social Responsibility Affect Firms
Performance? [J]. Journal of Business Management, Emerald.
Popa, M and Salanță, I. 2014. Corporate social responsibility versus corporate social
irresponsibility. Management & Marketing. Challenges for the Knowledge
Society, vol 9, no 2, pp 137 – 146.
151
Porter, M. 1980. Competitive Strategy: Techniques for Analyzing Industries and
Competitors, Free Press, New York, NY.
Posnikoff, J 1997. Disinvestment from South Africa: They did well by doing
good. Contemporary Economic Policy, vol. 15, no. 1, pp. 76–86.
Post, E, Preston, E and Sachs, S. 2002. Managing the extended enterprise: The new
stakeholder view. California Management Review, 45: 6–28
Post, J, Preston, L and Sachs. 2002. Redefining the Corporation. California: Stanford
University Press
Prayukvong, P and Olsen, M 2009. Research on the CSR Development in Thailand.
Preston, L. E. and D. P. O’Bannon: 1997. The Corporate Social-Financial
Performance Relationship: A Typology and Analysis. Business and Society,
vol 36, no (4), pp 419–429.
Qu, R. 2007. Corporate Social Responsibility: Impact of Regulations, Market
Orientation and Ownership Structure. Chinese Management Studies, vol 1, no
(3), pp 198-207.
Quazi, AM and DO. Brien, 2008. An Empirical Test of a Cross-national Model of
Corporate Social Responsibility. Journal of Business Ethics, Vol 25, no 1, pp
33-51.
Rashid, A and Lodh, SC. 2008. The influence of ownership structures and board
practices on corporate social disclosure in Bangladesh. Research in Accounting
in Emerging Economics, vol 8, no 1, pp 211-237.
Rashid, A, De Zoysa, A, Lodh, S and Rudkin, K 2010. Board composition and firm
performance: evidence from Bangladesh. Australian Accounting Business &
Finance Journal, vol 4, no 1, pp 76 – 95.
Rashid, ZA. and Ibrahim, S. 2002. Executive and Management Attitudes towards
Corporate Social Responsibility in Malaysia. Corporate Governance, vol 2, no
4, pp 10-11.
Ratanajongkon, S, Davey, H and Low, M. 2006. Corporate social reporting in
Thaland. Qualitative Research in Accounting and Management, vol 2, no 1, pp
67-83.
152
Rathnasiri, H. 2003a. Corporate Social Responsibility Practices of Sri Lankan Private
Sector: An Exploratory Study. Sri Lanka Journal of MAnageemnt, vol. 8, no.
3–4, pp. 195–228.
Reich, RB, 2008. The Case Against Corporate Social Responsibility. Goldman School
of Public Policy, 2008. Working Paper No. GSPP08-003.
Reverte, C. 2008. Determinants of Corporate Social Responsibility Disclosure Ratings
by Spanish Listed Firms. Journal of business ethics, vol 8, no (2), pp 351-366.
Richard, P.J, Devinney, T.M, Yip, G.S, Johnson, G. 2009. Measuring organizational
performance: towards methodological best practice. Journal of Management,
vol 35, no 3, pp 718–804. doi:10.1177/0149206308330560.
Roberts, RW 1992. Determinants of corporate social responsibility disclosure: an
application of stakeholder theory. Accounting, Organizations and Siciety, vol
17, no 6, pp 595 – 612.
Rodrıguez, F.J.G. and Cruz, Y.A., 2007. Relation between social-environmental
responsibility and performance in hotel firms. International Journal of
Hospitality Management 26(4), 824-839.
Roman, RM., S. Hayibor and RB. Agle: 1999. The Relation Between Social and
Financial Performance: Repainting a Portrait. Business and Society, vol 38, no
(1), pp 109–125
Rosam, I. and Peddle, R. 2004. Implementing Effective Corporate Social
Responsibility and Corporate Governance. British Standards Institution, UK.
Ross, S., Westerfield, R., and Jordan, B. 2011. Essentials of corporate finance (7th
ed.). Boston: McGraw-Hill Irwin.
Ruf, BM, Muralidhar, K. and Paul, K, 1998. The Development of a Systematic,
Aggregate Measure of Corporate Social Performance. Journal of Management,
vol 24, no (1), pp 119-133.
Rumelt, R. 1974. Strategy, Structure, and Economic Performance. Harvard University
Press, Cambridge, MA.
Russo, MV and PA. Fouts: 1997. A Resource-Based Perspective on Corporate
Environmental Performance and Profitability. Academy of Management
Journal, vol 40, no (3), pp 534–559.
153
Salama, A, Anderson, K.P and Toms, S. 2011. Does community and environmental
responsibility affect firm risk: evidence from UK panel data 1994-2006.
Business Ethics: A European Review, Vol 20, pp 192-204.
Saleh, M, Zulkifli, N & Muhamad, R 2008. An empirical examination of the
relationship between corporate social responsibility disclosure and financial
performance in an emerging market.
Saleh, M Zulkifli, N and Muhamad, R. 2010. Corporate social responsibility
disclosure and its relation on institutional ownership: evidence from public
listed companies in Malaisia. Managerial Auditing Journal, vol 25, no 6, pp
591-613.
Saleh, M, Norhayah, Z and Rusnah, M. 2011. Looking for evidence of the relationship
between corporate social responsibility and corporate fianancial responsibility
in an emergingmarkets. Asia-Pacific Journal of business administration, vol 3,
no 2, pp 165.
Samy, M, Odemilin, G. and Bampton, R. 2010. Corporate social responsibility: a
strategy for sustainable business success: an analysis of 20 selected British
companies. Corporate Governance, Vol. 10, No. 24, pp. 203-217.
Sarah Wali Qazi et al, 2015. Company’s financial performance & CSR: Pakistan
context. Global Advanced Research Journal of Management and Business
Studies (ISSN: 2315-5086) Vol. 4, no 5, pp. 196-202, May, 2015.
Savage, AA. 1994. Environmental reporting: Stakeholder’s Perspective. Port
Elizabeth. University of Port Elizabeth, Working paper 94.
Schneider, B. and Konz, AM. 2006. Strategic job analysis. Human Resource Manage,
Vol.28, pp. 51–63.
Schnietz, K. E. and M. J. Epstein, 2005. Exploring Financial Value of a Reputation for
Corporate Social Responsibility During a Crisis. Corporate Reputation Review
vol 7, no 4, pp 327–345.
Schwaiger M 2004. Components and parameters of corporate reputation - An
empirical study. Schmalenbach Business Review, vol. 56, no.1, pp. 46–71.
Seifert, B, SA. Morris and BR. Bartkus, 2003. Comparing Big Givers and Small
Givers: Financial Correlates of Corporate Philanthropy. Journal of Business
Ethics, vol 45, no (3), pp 195–211.
154
Sen, S, Bhattacharya, C.B. and Korschun, D. 2006. The role of corporate social
responsibility in strengthening multiple stakeholder relationships. Journal of
the Academy of Marketing Science, Vol 34, No 2, pp 158-166.
Setyorini, CT. and Ishak, Z. 2012. Corporate social and environmental disclosure: a
positive accounting theory view point. International Journal of Business and
Social Science , Vol. 3 No. 9, pp. 152-164.
Sharfman, M.P. and Fernando, C.S. 2008. Environmental risk management and the
cost of capital. Strategic Management Journal, Vol 29, no 6, pp 569-592.
Shih-Fang, L and Her-Jiun, S. 2007. Is Corporate Sustainability a Value-Increasing
Strategy for Business?. Article in Corporate Governace an International
Review. February 2007.
Shih-Fang, L and Her-Jiun, S. 2007. Is Corporate Sustainability a Value-Increasing
Strategy for Business?. Corporate Governance An International Review. DOI:
10.1111/j.1467-8683.2007.00565.x·Source: RePEc.
Sigh, S. and Kansal, M. 2011. Voluntary disclosures of intellectual capital: An
empirical analysis. Journal of intellectual capital, 12(2), 301-318.
Simpson, WG and Kohers, T 2002. The link between corporate social and financial
performance: evidence from the banking industry. Journal of Business Ethics,
vol. 35, no. 2, pp. 97–109.
Singh, S and Kansal, M. 2011. Voluntary disclosures of intellectual capital: An
empirical analysis. Journal of intellectual capital, vol 12, no (2), pp 301-318.
Skudiene, V and Auruskeviciene, V. 2012. The contribution of corporate social
responsibility to internal employee motivation. Baltic Journal of Management ,
Vol. 7 No. 1, pp. 49-67.
Spicer, B.H. 1978. Investors, corporate social performance and information
disclosure: an empirical study. Accounting Review, Vol 53, No 1, pp 94-111.
Stanny, E. and Ely K. 2008. Corporate environmental disclosures about the effects of
climate change. Corporate Social Responsibility and Environmental
Management, 15, 338-348
Stanwick, PA and Stanwick, SD 1998, The relationship between corporate
social performance, and organizational size, financial performance, and
155
environmental performance: An empirical examination, Journal of business
ethics, vol. 17, no. 2, pp. 195–204.
Stephanus, RW, Michelle, DW and Toto, R. 2014. CSR and financial performance
analysis: evidence from top ASEAN listed companies (International
Conference on Accounting Studies 2014, ICAS 2014, 18-19 August 2014,
Kuala Lumpur, Malaysia). Procedia - Social and Behavioral Sciences, vol 164,
pp 493 – 500.
Sternberg, E 1997. The defects of stakeholder theory. Corporate Governance, vol. 5,
no. 1, pp. 3–10.
Strouhal, J, Gurvitš, N, Nikitina-Kalamäe, M., Startseva, E., 2015. Finding the link
between CSR reporting and corporate financial performance: Evidence on
Czech and Estonian listed companies. Central European business review,
volume 4, number 03, 2015
Subroto, P 2002. A correlational study of corporate social responsibility and
financial performance: An empirical survey toward ethical business
practices in Indonesia. UMI Dissertation Services, Capella.
Suchman, MC. 1995. Managing Legitimacy: Strategic and Institutional Approaches.
The Academy of Management Review, vol.20, no.3, pp 571-610.
Sujoko dan Ugy Soebiantoro, 2007. Pengaruh Struktur Kepemilikan saham,
Leverage, Faktor intern, dan extern terhadap nilai perusahaan. Journal
Ekonomi Manajemen. Fakultas Ekonomi, Universitas Petra.
Sun, L. and Stuebs, M. 2012. Corporate social responsibility and firm productivity:
evidence from the chemical industry in the United States. Journal of Business
Ethics, Vol. 118 No. 2, pp. 251-263.
Sundaram, AK and Inkpen, AC 2004. The corporate objective revisited. Organization
Science, pp. 350–63.
Sweeney, L. 2009. A Study of Current Practice of Corporate Social Responsibility
(CSR) and an examination of the relationship between CSR and Financial
Performance Using Structural Equation Modelling (SEM). Doctoral Thesis.
Dublin Institute of Technology.
156
Teoh, S.H, Welch, I and Wazzan, C.P. 1999, the effect of socially activist investment
policies on the financial markets: Evidence from the South African boycott,
Journal of Business, pp. 35–89.
Thome, F. 2009. Corporate Responsibility in the Age of Irresponsibility: A Symbiotic
relationship between CSR and the Financial Crisis?. International Institute for
Sustainable Development.
Tilakasiri, KK, 2012. PhD thesis “Corporate Social Responsibility and Company
Performance: Evidence from Sri Lanka”. Victoria University. Melbourne,
Victoria, Australia.
Tilt, CA. 1994. The influence of external pressure groups on corporate social
disclosure: some empirical evidence. Accounting, Auditing & Accountability
Journal, vol 7, no 4, pp 47-72.
Tilt, CA. 2001. The content and disclosure of Australian corporate environmental
policies. Accounting, Auditing & Accountability Journal, vol 14, no 2, pp 190-
212.
Trang, CH, Indra, A and Shiguang, M. 2016. Board Diversity and Corporate Social
Disclosure: Evidence from Vietnam. Journal of Business Ethics, vol 137, no 2,
pp 1 – 20. ISSN 0167-4544.
Trang, H.N.T and Yekini, L.S. 2014. Investigating the link between CSR and
Financial performance – Evidence from Vietnamese listed companies. British
Journal of Arts and Social Sciences. ISSN: 2046-9578, 17 (1).
Tsoutsoura, M 2004a Corporate social responsibility and financial performance.
University of California, Berkeley.
Tsoutsoura, M. 2004. Corporate social responsibility and financial performance: the
“virtuous circle” revisited. Working paper, University of California, Berkeley,
CA.
Twose, N., and Rao, T. 2003. Strengthening Developing Country Governments
Engagement with Corporate Social Responsibility: Conclusions and
Recommendations from Technical Assistance in Vietnam. Final Report.
Ullman, A 1985. A Data in Search of a Theory: A Critical Examination of the
Relationship among Social Performance, Social Disclosure, and Economic
Performance. Academy of Management Review, vol. 10, no. 3, pp. 540–77.
157
Unerman, J. 2000. Metholodogical issues – reflections on quantifications in corporate
social reporting conten analysis. Accounting, Auditing & Accountability
Journal, vol 13, no 5, pp 667-680.
Uwuigbe, U, and Egbide, BC. 2012. Corporate social responsibility disclosures in
Nigeria: A study of Listed Financial and Non-Financial firms. Journal of
Management and Sustainability, Vol. 2 No. 1, pp. 160–169.
Va der Laan Smith, G. Van Ees, H and Van Witteloostuijn, A. 2008. Corporate social
and financial performance: an extended stakeholder theory, and empirical test
with accounting measure. Journal of Business Ethics, vol 79, no 3, pp 299-310.
Van de Velde, E., W. Vermeir and F. Corten: 2005. Finance and Accounting:
Corporate Social Responsibility and Financial Performance. Corporate
Governance, vol 5, no 3, pp 129–137.
Van den Berghe, L. and Louche, C. 2005. The link between corporate governance
and corporate social responsibility in insurance. The Geneva Papers, vol 30, pp
425–42
Van Der Lan, S. 2009. The Role of Theory in Explaining Motivation for Corporate
Social Disclosures: Voluntary Disclosures vs ‘Solicited’ Disclosures.
Australasian Accounting Business and Finance Journal, vol 3, no 4, pp 15-29.
Van Marrewijk, M. and Werre, M. 2003. Multiple Levels of Corporate Sustainability.
Journal of Business Ethics, vol 44, pp 107–119.
Venkatraman, N and Ramanujam, V. 1987. Measurement of business economic
performance: an examination of method convergent. Journal of Management,
vol 13, no 1, pp 109-122. doi: 10.1177/014920638701300109.
Vicente Lima Crisóstomo, Fátima de Souza Freire, Felipe Cortes de Vasconcellos,
2010. Corporate Social Responsibility, Firm Value and Financial Performance
in Brazil. http://ssrn.com/abstract=1587023.
Villalonga, B. and Amit, R. 2006. How do family ownership, control and
management affect firm value?. Journal of Financial Economics, Vol. 80 No. 2,
pp. 385-417.
Vitaliano, D. F. 2010. Corporate social responsibility and labor turnover. Corporate
Governance, Vol. 10 No. 5, pp. 563–573.
158
Waddock, S, Graves, S and Gorski, R. 1998. Social and Traditional Investment:
Stakeholder and Performance Characteristics. The Investment Research Guide
to Socially Responsible Investing.
Waddock, SA and Graves, SB 1997. The corporate social performance - financial
performance link. Strategic Management Journal, vol. 18, no. 4, pp. 303–19.
Wallance, RSO and Naser, K 1995. Firm-specific determinants of the
comprehensiveness of mandatory disclosure in the corporate annual reports of
firms listed on the stock exchange of Hong Kong. Journal of Accounting and
Public Policy, vol 14, no 4, pp 311 – 368.
Wan, FW and Muhammad, SA. 2016. The relationship between Corporation social
responsibility and Financial performance: Evidence from Malaysia.
MedwellJournals, 2016; International Business Management, vol 10, no (4), pp
245-351.
Welford, R 2004. Corporate social responsibility in Europe and Asia: critical elements
and best practice. Journal of corporate citizenship, vol. 13, no. 1, pp. 31–47.
Wilks, Neil. “Good behaviour is its own reward”. Professional Engineering, 2002. Vol
15, no (8), pp. 36-37.
Wilmshurst, TD and Frost, GR 2000. Corporate environmental reporting: a test of
legitimacy theory. Accounting, Auditing & Accountability Journal, vol 13, no
1, pp 10-26.
Windsor, D. and Preston, L. 1988. Corporate Governance, Social Policy and Social
Performance in the Multinational Corporation, Research in Corporate Social
Performance and Policy, 10: 45–58.
Wiseman, J. 1982. An evaluation of environmental disclosures made in corporate
annual reports. Accounting, Organizations and Society, Vol. 7, No. 1, pp. 53-
63, 1982.
Wisuttorn Jitaree, 2015. PhD thesis “Corporate responsibility disclosure and financial
performance: evidence from Thaliand”. University of Wollongong.
Wolfe, R 1991. The use of content analysis to assess corporate social
responsibility. Research in corporate social performance and policy, vol. 12,
pp. 281–307.
159
Wong Ho Yin, 2012. Corporate social responsibility and firm performance: evidence
from China. Thesis Master. Philosophy in Business (Accountancy), Lingnan
University.
Wood, D. 1991. Corporate social performance revisited. Academy of management
Review, vol. 16, no. 4, pp. 691–718.
Wood, DJ. 2010. Measuring corporate social performance: a review. International
Journal of Management Reviews vol.12, no.1, pp 50-84.
Wright, P and Ferris, S. 1997. Agency conflict and corporate strategy: The effect of
divestment on corporate value. Strategic Management Journal, vol. 18, no. 1,
pp. 77–83.
Wu, ML. 2006. Corporate social performance, corporate financial performance, and
firm size: a meta-analysis. Journal of American Academy of Business, Vol. 8,
no (1), pp. 163-71.
Xin Deng, Jun-koo Kang, Buen Sin Low, 2013. Corporate social resp onsibility and
stakeholder value maximization: Evidence from mergers. Journal of Financial
Economics, no 110, pp 87 – 109.
Young, S and Thyil, V. 2009. Governance, employees and CSR: Integration is the
key to unlocking value. Asia Pacific Journal of Human Resources, vol. 47, no.
2, pp. 167–85.
Young, Z. and Marais, M. 2012. A multi-level perspective of CSR reporting: The
implications of national institutions and industry risk characteristics. Corporate
Governance: An International Review, 20: 432–450.
Younghwan K, Jungwoo L, Y. Taeyong. 2010. Corporate Transparency and Firm
Performance: Evidence from Korean Ventures. International Council for Small
Business (ICSB). World Conference Proceedings, pp. 1-35.
Yusuf Babatunde Adeneye and Maryam Ahmed, 2015. The relationship between
Corporation social responsibility and Company performance. Journal of
Business Studies Quarterly, Volume 7, Number 1, 2015.
Zhang, J 2013. Determinants of corporate environmental and social disclosure in
Chinese listed mining, electricity supply and chemical companies annual
reports. Master of Accounting by Research, Edith Cowan University.
160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. PGS.TS Hồ Viết Tiến, NCS Hồ Thị Vân Anh, NCS Nguyễn Đình Khôi, 2016.
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và quản trị công ty: bằng chứng từ các công
ty niêm yết Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Hoàn thiện thể chế
cho sự phát triển bền vững hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2016 –
2020” 2016. 21. 277. Nhà xuất bản Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội
(Đã xuất bản).
2. NCS Hồ Thị Vân Anh, PGS.TS Hồ Viết tiến, 2016. Trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp và giá trị công ty: bằng chứng từ các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp trường (đã nghiệm
thu).
3. PGS.TS Hồ Viết tiến, NCS Hồ Thị Vân Anh, 2016. The corporate social
responsibility and firm value (Corporate financial performance): evidences from Vietnam. The 1st Asian – Pacific Infinity conference on international
Finance, UEH 2016.
4. PGS.TS Hồ Viết Tiến, NCS Hồ Thị Vân Anh, 2017. Trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam.
Tạp chí Kinh tế và phát triển Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội tháng
8/2017, số 242, trang 36 - 46.
5. PGS.TS Hồ Viết Tiến, NCS Hồ Thị Vân Anh, 2017. The corporate
environmental responsibility and corporate financial performance: evidences from Vietnamese listed companies. The 13th Annual international conference on
Asian Law and Economics association, UEH 2017.
6. PGS.TS Hồ Viết Tiến, NCS Hồ Thị Vân Anh, ThS. Nguyễn Trung Chỉnh,
2017. The corporate environmental responsibility and corporate financial
performance: evidences from Vietnamese listed companies. Policies and
sustainable economics development - International Conference of University of
Economics Ho chi Minh City (ICUEH 2017). Journal of Economic
development, pp 647 – 665.
161
7. NCS Hồ Thị Vân Anh, PGS.TS Hồ Viết tiến, 2017. Trách nhiệm với môi
trường và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường. (đã nghiệm thu, tháng 11/2017).
162
Phụ lục 1a: Danh mục và các lĩnh vực trong hướng dẫn GRI4
(Nguồn: Trích trong hướng dẫn GR4)
163
Phụ lục 1b: Các tiêu chí trách nhiệm xã hội được lựa chọn từ hướng
dẫn GRI4 kết hợp với các tiêu chí trách nhiệm xã hội trong nghiên
cứu của Amran (2015)
Chỉ tiêu
GRI4
Amran (2015)
Vật liệu
Chính sách về môi trường
Năng lượng
Mối quan tâm về môi trường
Nước
Chính sách đầu tư cho môi trường
Môi trường
Phát thải
Nước thải và chất thải
An toàn và sức khỏe nghề nghiệp
Phổ biến thông tin cho người lao động
Giáo dục và đào tạo
Tiền lương
Người lao
Phúc lợi
động
Khen thưởng
Sự an toàn và sức khỏe của khách hàng
Chất lượng sản phẩm
Sản phẩm/
Thông tin và dán nhãn sản phẩm – dịch vụ
Sự hài lòng của khách hàng
khách hàng
Cộng đồng địa phương
Hỗ trợ cho người tàn tật, người khó khăn
Đóng góp/tài trợ
Cộng đồng
Ủng hộ giáo dục
Ủng hộ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
(Nguồn: tác giả tổng hợp từ GRI4 và Amran, 2015)
164
Phụ lục 1c:
Bảng tổng hợp kết quả khảo sát các tiêu chí trách nhiệm xã hội
Loại Tiêu chí CSR
1. Nguyên vật liệu
2. Năng lượng
3. Nước
Chỉ số môi trường 4. Phát thải
(CSR_env) 5. Nước thải và chất thải
6. Chính sách về môi trường
7. Mối quan tâm đến môi trường
8. Chính sách đầu tư cho môi trường
1. An toàn và sức khỏe
2. Giáo dục và đào tạo
Chỉ số người lao động 3. Phổ biến thông tin cho người lao động
(CSR_empl) 4. Tiền lương
5. Phúc lợi
6. Khen thưởng
1. Cộng đồng địa phương
2. Hỗ trợ người tàn tật và người nghèo Chỉ số cộng đồng 3. Đóng góp/tài trợ (CSR_com) 4. Ủng hộ giáo dục
5. Ủng hộ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
1. Sự an toàn và sức khỏe của khách hàng
Chỉ số sản phẩm 2. Thông tin và nhãn sản phẩm và dịch vụ
(CSR_prod) 3. Chất lượng sản phẩm
4. Sự hài lòng của khách hàng
(Nguồn: tác giả tổng hợp từ kết quả khảo sát các CTNY)
165
Phụ lục 1d: Bảng câu hỏi các tiêu chí trách nhiệm xã hội thành phần
Câu trả lời Câu hỏi Có Không
I. Tiêu chí trách nhiệm với môi trường (CSR_env)
1. Công ty có đề cập đến vấn đề sử dụng nguyên vật liệu trong quá
trình sản xuất kinh doanh không?
2. Công ty có đề cập đến vấn đề tiêu thụ năng lượng không?
3. Công ty có đề cập đến vấn đề sử dụng và tiết kiệm nước trong
quá trình sản xuất kinh doanh không?
4. Công ty có đề cập đến vấn đề phát thải ra môi trường xung
quanh nơi công ty đang hoạt động không?
5. Công ty có đề cập đến vấn đề xử lý nước thải và chất thải của
công ty ra môi trường không?
6. Công ty có đề cập đến việc xây dựng các chính sách về bảo vệ
môi trường không?
7. Công ty có thể hiện mối quan tâm của công ty về vấn đề môi
trường xung quanh không?
8. Công ty có đề cập đến việc xây dựng các kế hoạch cho chính
sách đầu tư cho môi trường của công ty không?
II. Tiêu chí trách nhiệm với người lao động (CSR_empl)
1. Công ty có đề cập đến vấn đề bảo đảm an toàn và sức khỏe nghề
nghiệp cho người lao động không?
2. Công ty có đề cập đến vấn đề giáo dục và đào tạo cho người lao
động không?
3. Công ty có đề cập đến việc phổ biến thông tin nội bộ, chính sách
pháp luật liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao
động không?
4. Công ty có đề cập đến chính sách tiền lương cho người lao động
không?
5. Công ty có đề cập đến vấn đề phúc lợi (bảo hiểm xã hội, bảo
166
hiểm y tế, vui chơi, giải trí, thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ,
các phong trào thi đua khác, hỗ trợ v.v…) cho người lao động
và các thành viên trong gia đình của họ không?
6. Công ty có đề cập đến vấn đề khen thưởng, biểu dương cho
nhân viên hoàn thành xuất sắc công việc không?
III. Tiêu chí trách nhiệm với cộng đồng (CSR_com)
1. Công ty có báo cáo các hoạt động tham gia và tổ chức các hoạt
động cộng đồng tại địa phương không?
2. Công ty có đề cập đến việc tham gia các hoạt động hỗ trợ người
tàn tật, người già, người neo đơn và người nghèo không?
3. Công ty có đề cập đến việc tham gia các hoạt động đóng góp/tài
trợ cho các chương trình từ thiện, nhân đạo và nghĩa tình
không?
4. Công ty có đề cập đến việc tài trợ và ủng hộ cho các hoạt động
giáo dục, ươm mầm trí tuệ không?
5. Công ty có đề cập đến việc tài trợ và ủng hộ các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe không?
IV. Tiêu chí trách nhiệm với sản phẩm (CSR_prod)
1. Công ty có đề cập đến vấn đề bảo đảm an toàn và sức khỏe cho
khách hàng không?
2. Công ty có đề cập đến việc cung cấp đầy đủ các thông tin và dán
nhãn đầy đủ về sản phẩm – dịch vụ đến khách hàng không?
3. Công ty có đề cập đến chất lượng sản phẩm không?
4. Công ty có đề cập đến sự hài lòng của khách hàng sau khi sử
dụng sản phẩm, dịch vụ của công ty không?
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Amran (2015) và hướng dẫn GRI4)
167
Phụ lục 1e:
Bảng tổng hợp kết quả chấm điểm các tiêu chí CSR của hai nhóm hỗ trợ độc lập cho nghiên cứu
Năm MCK
CSR
CSR
CSR
2012 BMP
Nhóm 1 (Tài chính - Ngân hàng) CSR (Com) 0.800
CSR (Empl) 0.667
CSR (Prod) 0.250
CSR (Env) 0.375
CSR (Env) 0.523 0.375
Nhóm 2 (Quản trị kinh doanh) CSR (Com) 0.800
CSR (Empl) 0.833
CSR (Prod) 0.250
0.565
%Chệnh lệch giữa nhóm 2 và 1 CSR (Com) 0.0
CSR (Empl) 0.3
CSR (Prod) 0.0
CSR (Env) 0.0
0.1
2012 DPM
0.500
0.667
0.800
0.500
0.617 0.500
0.667
0.800
0.500
0.617
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2012 DQC
0.375
0.667
0.600
0.750
0.598 0.375
0.667
0.600
0.750
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2012 HBC
0.250
0.667
0.600
0.250
0.442 0.250
0.667
0.600
0.250
0.442
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2012
PAC
0.500
0.667
0.400
0.500
0.517 0.500
0.667
0.400
0.500
0.517
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2012 VNM
0.875
0.833
0.600
1.000
0.827 0.875
0.833
0.600
1.000
0.827
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2012 BVH
0.250
0.667
0.400
0.250
0.392 0.250
0.833
0.600
0.250
0.483
0.0
0.3
0.5
0.0
0.2
2012
SPM
0.000
0.333
0.400
0.000
0.183 0.000
0.333
0.400
0.000
0.183
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2012 KDC
0.250
0.333
0.200
0.500
0.321 0.375
0.333
0.200
0.500
0.352
0.5
0.0
0.0
0.0
0.1
2012
SMC
0.500
0.833
0.400
0.250
0.496 0.500
0.833
0.400
0.250
0.496
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
BID
0.250
0.667
0.800
0.250
0.492 0.250
0.667
0.800
0.250
0.492
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 DHG
0.750
0.833
0.800
1.000
0.846 0.750
0.833
0.800
1.000
0.846
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 DMC
0.375
0.833
0.800
0.750
0.690 0.375
0.833
0.800
0.750
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
EVE
0.250
0.833
0.400
1.000
0.621 0.250
0.833
0.400
1.000
0.621
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
FPT
0.250
0.833
0.600
0.500
0.546 0.250
0.833
0.600
0.500
0.546
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
168
2013 NSC
0.375
0.667
0.800
0.500
0.585 0.375
0.667
0.800
0.500
0.585
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
PDR
0.375
0.667
0.600
0.250
0.473 0.375
0.667
0.600
0.250
0.473
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
PVD
0.250
0.667
0.800
0.500
0.554 0.250
0.667
0.800
0.500
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 REE
0.375
0.667
0.600
0.250
0.473 0.375
0.667
0.600
0.250
0.473
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
SSI
0.250
0.667
0.600
0.250
0.442 0.250
0.667
0.600
0.250
0.442
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 VIC
0.250
0.667
0.600
0.250
0.442 0.250
0.667
0.600
0.250
0.442
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 HAG
0.375
0.667
0.800
0.250
0.523 0.375
0.667
0.800
0.250
0.523
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
STB
0.250
0.667
0.600
0.250
0.442 0.250
0.667
0.600
0.250
0.442
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 HSG
0.250
0.667
0.600
0.250
0.442 0.250
0.667
0.600
0.250
0.442
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 CTG
0.000
0.333
0.600
0.500
0.358 0.000
0.333
0.600
0.500
0.358
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
BCI
0.250
0.333
0.400
0.250
0.308 0.250
0.333
0.400
0.250
0.308
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 HNG
0.250
0.500
0.800
0.250
0.450 0.250
0.667
0.800
0.250
0.492
0.0
0.3
0.0
0.0
0.1
2013 BMP
0.375
0.667
0.600
0.500
0.535 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 DPM
0.625
0.667
0.800
0.250
0.585 0.625
0.667
0.800
0.250
0.585
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 DQC
0.125
0.667
0.400
0.500
0.423 0.125
0.667
0.400
0.500
0.423
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 HBC
0.125
0.667
0.600
0.250
0.410 0.125
0.667
0.600
0.250
0.410
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
PAC
0.375
0.833
0.600
0.750
0.640 0.375
0.833
0.600
0.750
0.640
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 VNM
1.000
0.833
0.600
1.000
0.858 1.000
1.000
0.800
1.000
0.950
0.0
0.2
0.3
0.0
0.1
2013 BVH
0.500
0.667
0.400
0.250
0.454 0.625
1.000
0.600
0.250
0.619
0.3
0.5
0.5
0.0
0.4
2013
SPM
0.000
0.167
0.400
0.000
0.142 0.000
0.167
0.400
0.000
0.142
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 KDC
0.250
0.333
0.600
0.500
0.421 0.250
0.333
0.600
0.500
0.421
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
169
2013
SMC
0.625
0.833
0.400
0.250
0.527 0.625
0.833
0.400
0.250
0.527
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
TTF
0.500
0.667
0.600
0.500
0.567 0.500
0.667
0.600
0.500
0.567
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
SHS
0.125
0.667
0.600
0.500
0.473 0.125
0.667
0.600
0.500
0.473
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
PGS
0.375
0.833
0.400
0.250
0.465 0.375
0.833
0.400
0.250
0.465
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013
PVS
0.250
0.833
0.400
0.250
0.433 0.250
0.833
0.400
0.250
0.433
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2013 VCS
0.625
0.833
0.400
0.250
0.527 0.625
0.833
0.400
0.250
0.527
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
BSI
0.250
0.500
0.800
0.500
0.513 0.375
0.667
0.800
0.500
0.585
0.5
0.3
0.0
0.0
0.1
2014 CNG
0.625
0.667
0.800
0.750
0.710 0.625
0.667
0.800
0.750
0.710
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 CTD
0.250
0.500
0.600
0.500
0.463 0.375
0.500
0.600
0.500
0.494
0.5
0.0
0.0
0.0
0.1
2014
FCN
0.125
0.667
0.800
0.750
0.585 0.125
0.667
0.800
0.750
0.585
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 HPG
0.375
0.500
0.800
1.000
0.669 0.375
0.500
0.800
1.000
0.669
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 HQC
0.625
0.667
0.600
0.500
0.598 0.625
0.667
0.600
0.500
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 KHP
0.500
0.500
0.600
0.750
0.588 0.500
0.500
0.600
0.750
0.588
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PAN
0.625
0.667
0.400
0.750
0.610 0.625
0.667
0.400
0.750
0.610
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PGD
0.250
0.667
0.600
0.750
0.567 0.250
0.667
0.600
0.750
0.567
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
SHI
0.375
0.500
0.600
0.750
0.556 0.375
0.500
0.600
0.750
0.556
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
SSC
0.375
0.667
0.800
0.750
0.648 0.375
0.667
0.800
0.750
0.648
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
TRA
0.875
0.667
0.600
1.000
0.785 0.875
0.667
0.600
1.000
0.785
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 VHC
0.375
0.667
1.000
1.000
0.760 0.375
0.667
1.000
1.000
0.760
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 HCM
0.250
0.500
0.600
0.500
0.463 0.250
0.500
0.600
0.500
0.463
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 MBB
0.000
0.333
0.400
0.250
0.246 0.000
0.333
0.400
0.250
0.246
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
170
2014
SBT
0.250
0.500
0.600
0.500
0.463 0.250
0.500
0.600
0.500
0.463
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
TSC
0.375
0.667
0.200
0.750
0.498 0.375
0.667
0.200
0.750
0.498
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
BID
0.250
0.500
0.800
0.500
0.513 0.250
0.500
0.800
0.500
0.513
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 DHG
0.875
0.667
1.000
1.000
0.885 0.875
0.667
1.000
1.000
0.885
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 DMC
0.750
0.667
0.800
1.000
0.804 0.750
0.667
0.800
1.000
0.804
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
EVE
0.750
0.833
0.600
1.000
0.796 0.750
0.833
0.600
1.000
0.796
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
FPT
0.500
0.667
0.400
0.500
0.517 0.500
0.667
0.400
0.500
0.517
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 NSC
0.250
0.500
0.600
1.000
0.588 0.250
0.500
0.600
1.000
0.588
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PDR
0.125
0.667
0.600
0.500
0.473 0.125
0.667
0.600
0.500
0.473
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PVD
0.500
0.667
0.800
0.250
0.554 0.500
0.667
0.800
0.250
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 REE
0.250
0.500
0.800
0.750
0.575 0.250
0.500
0.800
0.750
0.575
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
SSI
0.000
0.833
1.000
0.500
0.583 0.000
0.833
1.000
0.500
0.583
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 VIC
0.250
0.667
0.800
0.500
0.554 0.250
0.667
0.800
0.500
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 HAG
0.375
0.500
1.000
0.500
0.594 0.375
0.500
1.000
0.500
0.594
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
STB
0.750
0.833
0.800
0.750
0.783 0.750
0.833
0.800
0.750
0.783
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 HSG
0.125
0.667
0.600
1.000
0.598 0.125
0.667
0.600
1.000
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 CTG
0.000
0.333
0.600
0.250
0.296 0.000
0.333
0.600
0.250
0.296
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
BCI
0.375
0.333
0.400
0.250
0.340 0.375
0.333
0.400
0.250
0.340
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 BMP
0.750
0.667
0.800
0.500
0.679 0.750
0.667
0.800
0.500
0.679
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 DPM
0.750
0.500
1.000
1.000
0.813 0.750
0.500
1.000
1.000
0.813
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 DQC
0.625
0.667
0.800
1.000
0.773 0.625
0.667
0.800
1.000
0.773
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
171
2014 HBC
0.375
0.500
0.600
0.250
0.431 0.375
0.500
0.600
0.250
0.431
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PAC
0.625
0.500
0.400
1.000
0.631 0.625
0.500
0.400
1.000
0.631
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 VNM
0.750
0.500
0.400
1.000
0.663 0.875
0.667
0.400
1.000
0.735
0.2
0.3
0.0
0.0
0.1
2014 BVH
0.500
0.500
0.600
0.500
0.525 0.625
0.667
0.600
0.500
0.598
0.3
0.3
0.0
0.0
0.1
2014
SPM
0.000
0.333
0.400
0.250
0.183 0.000
0.333
0.400
0.250
0.246
0.0
0.0
0.0
0.0
0.3
2014 KDC
0.250
0.333
0.600
0.500
0.421 0.250
0.333
0.600
0.500
0.421
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 KHA
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
SMC
0.625
0.833
0.400
0.500
0.590 0.625
0.833
0.400
0.500
0.590
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
TTF
0.375
0.667
0.600
0.500
0.535 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PGS
0.250
0.833
0.400
0.250
0.433 0.250
0.833
0.400
0.250
0.433
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014
PVS
0.125
0.833
0.400
0.250
0.402 0.125
0.833
0.400
0.250
0.402
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2014 VCS
0.375
0.667
0.600
0.500
0.535 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
BSI
0.500
0.667
0.600
0.250
0.504 0.500
0.667
0.600
0.250
0.504
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 CNG
0.375
0.667
0.400
0.250
0.423 0.375
0.667
0.400
0.250
0.423
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 CTD
0.125
0.500
0.400
0.250
0.319 0.125
0.500
0.400
0.250
0.319
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
FCN
0.500
0.667
0.600
0.250
0.504 0.500
0.667
0.600
0.250
0.504
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HPG
0.625
0.667
0.600
0.250
0.535 0.625
0.667
0.600
0.250
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HQC
0.375
0.667
0.600
0.500
0.535 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 KHP
0.250
0.667
0.400
0.250
0.392 0.250
0.667
0.400
0.250
0.392
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
PAN
0.250
0.667
0.600
0.500
0.504 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.5
0.0
0.0
0.0
0.1
2015
PGD
0.500
0.500
0.600
0.250
0.463 0.500
0.500
0.600
0.250
0.463
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
172
2015
SHI
0.500
0.167
0.600
0.250
0.379 0.500
0.167
0.600
0.250
0.379
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
SSC
0.375
0.667
0.800
0.750
0.648 0.375
0.667
0.800
0.750
0.648
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
TRA
0.625
0.667
0.600
0.500
0.598 0.625
0.667
0.600
0.500
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 VHC
0.375
0.667
0.600
0.500
0.535 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HCM
0.125
0.667
0.800
0.500
0.523 0.125
0.667
0.800
0.500
0.523
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 MBB
0.250
0.667
0.600
0.500
0.504 0.250
0.667
0.600
0.500
0.504
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
SBT
0.250
0.667
1.000
0.500
0.604 0.250
0.667
1.000
0.500
0.604
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
TSC
0.625
0.667
0.200
0.500
0.498 0.625
0.667
0.200
0.500
0.498
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
BID
0.250
0.667
0.800
0.500
0.554 0.250
0.667
0.800
0.500
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DHG
0.500
0.667
0.400
0.500
0.517 0.500
0.667
0.400
0.500
0.517
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DMC
0.750
0.500
0.600
0.500
0.588 0.750
0.500
0.600
0.500
0.588
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
EVE
0.500
0.667
0.400
0.750
0.579 0.500
0.667
0.400
0.750
0.579
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
FPT
0.250
0.500
0.600
0.500
0.463 0.250
0.500
0.600
0.500
0.463
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 NSC
0.375
0.500
0.600
0.500
0.494 0.375
0.500
0.600
0.500
0.494
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
PDR
0.125
0.500
0.600
0.250
0.369 0.125
0.500
0.600
0.250
0.369
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
PVD
0.500
0.667
0.800
0.250
0.554 0.500
0.667
0.800
0.250
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 REE
0.250
0.333
0.400
0.250
0.308 0.250
0.333
0.400
0.250
0.308
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
SSI
0.125
0.833
0.600
0.250
0.452 0.125
0.833
0.600
0.250
0.452
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 VIC
0.250
0.833
0.800
0.250
0.533 0.250
0.833
0.800
0.250
0.533
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HAG
0.375
0.667
0.800
0.250
0.523 0.375
0.667
0.800
0.250
0.523
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
STB
0.750
0.833
0.800
0.750
0.783 0.750
0.833
0.800
0.750
0.783
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
173
2015 HSG
0.250
0.667
0.400
0.250
0.392 0.250
0.667
0.400
0.250
0.392
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 CTG
0.250
0.667
0.800
0.500
0.554 0.250
0.667
0.800
0.500
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
BCI
0.625
0.500
0.400
0.250
0.444 0.625
0.500
0.400
0.250
0.444
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HNG
0.250
0.667
0.800
0.500
0.554 0.250
0.667
0.800
0.500
0.554
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 BMP
0.625
0.667
0.400
0.750
0.610 0.625
0.667
0.400
0.750
0.610
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DPM
0.375
0.667
0.800
0.250
0.523 0.375
0.667
0.800
0.250
0.523
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DQC
0.500
0.667
0.400
0.250
0.454 0.500
0.667
0.400
0.250
0.454
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HBC
0.250
0.667
0.400
0.250
0.392 0.250
0.667
0.400
0.250
0.392
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
PAC
0.125
0.500
0.200
0.250
0.269 0.125
0.500
0.200
0.250
0.269
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 VNM
0.500
0.667
0.600
0.500
0.567 0.750
1.000
0.800
0.750
0.825
0.5
0.5
0.3
0.5
0.5
2015 BVH
0.500
0.667
0.600
0.250
0.504 0.625
0.833
0.600
0.500
0.640
0.3
0.3
0.0
1.0
0.3
2015
SPM
0.125
0.667
0.400
0.500
0.423 0.125
0.667
0.400
0.500
0.423
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 KDC
0.500
0.500
0.400
0.500
0.475 0.500
0.500
0.400
0.500
0.475
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 BHS
0.500
0.667
0.200
0.750
0.529 0.500
0.667
0.200
0.750
0.529
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
C32
0.875
0.667
0.600
0.250
0.598 0.875
0.667
0.600
0.250
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DCM
0.625
0.833
0.800
0.250
0.627 0.625
0.833
0.800
0.250
0.627
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DGW
0.375
0.833
0.600
0.750
0.640 0.375
0.833
0.600
0.750
0.640
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DIG
0.625
0.833
0.400
0.500
0.590 0.625
0.833
0.600
0.500
0.640
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2015 GMD
0.500
0.833
0.600
0.250
0.546 0.500
0.833
0.600
0.250
0.546
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HOT
0.375
0.833
0.600
0.250
0.515 0.375
0.833
0.600
0.250
0.515
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 KHA
0.375
0.833
0.400
0.500
0.527 0.375
0.833
0.400
0.500
0.527
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
174
2015 LHG
0.500
0.833
0.600
0.250
0.546 0.500
0.833
0.600
0.250
0.546
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 NAF
0.375
0.833
0.600
0.750
0.640 0.375
0.833
0.600
0.750
0.640
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 NT2
0.375
0.833
0.600
0.250
0.515 0.500
0.833
0.600
0.250
0.546
0.3
0.0
0.0
0.0
0.1
2015
SHP
0.375
0.833
0.600
0.000
0.452 0.375
0.833
0.600
0.000
0.452
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
SKG
0.500
0.833
0.600
0.250
0.546 0.500
0.833
0.600
0.250
0.546
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
SMC
0.625
0.833
0.600
0.500
0.640 0.625
0.833
0.600
0.500
0.640
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
STK
0.875
0.833
0.400
0.000
0.527 0.875
0.833
0.600
0.000
0.577
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2015
SVI
0.375
0.667
0.400
0.500
0.485 0.375
0.667
0.400
0.500
0.485
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 TCM
0.375
0.667
0.800
0.250
0.523 0.375
0.667
0.800
0.250
0.523
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
TTF
0.625
0.667
0.600
0.500
0.598 0.625
0.667
0.600
0.500
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 CHP
0.750
0.833
0.400
0.250
0.558 0.750
0.833
0.400
0.250
0.558
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 DBT
0.625
0.667
0.400
0.250
0.485 0.625
0.667
0.400
0.250
0.485
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 HDO
0.250
0.667
0.400
0.250
0.392 0.250
0.667
0.400
0.250
0.392
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 NTP
0.750
0.833
0.400
0.750
0.683 0.750
0.833
0.400
0.750
0.683
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
PGS
0.250
0.833
0.400
0.500
0.496 0.250
0.833
0.400
0.500
0.496
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
PVS
0.375
0.833
0.400
0.250
0.465 0.375
0.833
0.400
0.250
0.465
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015
TIG
0.250
0.667
0.400
0.500
0.454 0.250
0.667
0.400
0.500
0.454
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2015 VCS
0.500
0.833
0.400
0.500
0.558 0.500
0.833
0.400
0.500
0.558
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HSG
0.750
0.833
0.800
1.000
0.846 0.750
0.833
0.800
1.000
0.846
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
STB
0.375
0.833
0.600
0.250
0.515 0.375
0.833
0.600
0.250
0.515
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HCM
0.250
0.833
0.800
0.500
0.596 0.250
0.833
0.800
0.500
0.596
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
175
2016 BVH
0.500
0.667
0.800
0.250
0.554 0.750
0.833
0.800
0.250
0.658
0.5
0.3
0.0
0.0
0.2
2016 HAG
0.375
0.667
0.800
0.250
0.523 0.375
0.667
0.800
0.250
0.523
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VNM
1.000
0.833
0.800
1.000
0.908 1.000
1.000
0.800
1.000
0.950
0.0
0.2
0.0
0.0
0.0
2016 VIC
0.375
0.667
0.600
0.500
0.535 0.375
0.667
0.600
0.500
0.535
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VHC
0.750
0.833
0.800
1.000
0.846 0.750
0.833
0.800
1.000
0.846
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TRA
0.875
0.833
0.800
1.000
0.877 0.875
0.833
0.800
1.000
0.877
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SSI
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SSC
0.500
0.667
0.800
0.500
0.617 0.500
0.667
0.800
0.500
0.617
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SHI
0.500
0.833
0.400
0.750
0.621 0.500
0.833
0.600
0.750
0.671
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2016 REE
0.625
0.833
0.600
0.750
0.702 0.625
0.833
0.600
0.750
0.702
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PVD
0.250
0.833
0.800
0.250
0.533 0.250
0.833
0.800
0.250
0.533
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PGD
0.625
0.667
0.600
0.500
0.598 0.625
0.667
0.600
0.500
0.598
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PDR
0.250
0.667
0.600
0.250
0.442 0.250
0.667
0.600
0.250
0.442
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PAN
0.500
0.667
0.400
1.000
0.642 0.500
0.667
0.600
1.000
0.692
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2016
PAC
0.750
0.667
0.600
0.750
0.692 0.750
0.667
0.600
0.750
0.692
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NSC
0.375
0.833
0.600
0.750
0.640 0.375
0.833
0.600
0.750
0.640
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 KHP
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HQC
0.750
0.833
0.800
0.250
0.658 0.750
0.833
0.800
0.250
0.658
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HPG
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HBC
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
FPT
0.500
0.833
0.800
0.500
0.658 0.500
0.833
0.800
0.500
0.658
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
176
2016
FCN
0.250
0.833
0.800
0.500
0.596 0.375
0.833
0.800
0.500
0.627
0.5
0.0
0.0
0.0
0.1
2016
EVE
0.625
0.833
0.800
0.750
0.752 0.625
0.833
0.800
0.750
0.752
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DQC
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DPM
0.625
0.833
1.000
0.750
0.802 0.625
0.833
1.000
0.750
0.802
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DMC
0.625
0.667
0.600
1.000
0.723 0.625
0.667
0.600
1.000
0.723
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DHG
0.750
0.833
0.600
1.000
0.796 0.750
0.833
0.600
1.000
0.796
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 CTD
0.750
0.833
0.800
0.500
0.721 0.750
0.833
0.800
0.500
0.721
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
BID
0.375
0.833
0.600
1.000
0.702 0.375
0.833
0.600
1.000
0.702
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 BMP
0.750
0.833
0.800
1.000
0.846 0.750
0.833
0.800
1.000
0.846
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
BSI
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 CNG
0.750
0.833
0.600
0.500
0.671 0.750
0.833
0.600
0.500
0.671
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 CTG
0.250
0.833
1.000
0.500
0.646 0.250
0.833
1.000
0.500
0.646
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 MBB
0.250
0.833
1.000
0.500
0.646 0.250
0.833
1.000
0.500
0.646
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
BCI
0.500
0.667
0.600
0.500
0.567 0.500
0.667
0.600
0.500
0.567
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SPM
0.625
0.833
0.800
1.000
0.815 0.625
0.833
0.800
1.000
0.815
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HNG
0.250
0.667
0.400
0.500
0.454 0.250
0.667
0.600
0.500
0.504
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2016 KDC
0.625
0.833
0.400
0.500
0.590 0.625
0.833
0.400
0.500
0.590
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SBT
0.750
0.833
0.600
0.500
0.671 0.750
0.833
0.600
0.500
0.671
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TSC
0.750
0.833
0.600
0.750
0.733 0.750
0.833
0.600
0.750
0.733
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 BHS
0.750
0.833
0.600
0.500
0.671 0.750
0.833
0.600
0.500
0.671
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
C32
0.750
0.833
0.600
0.750
0.733 0.750
0.833
0.600
0.750
0.733
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
177
2016 DCM
0.750
0.833
0.800
0.750
0.783 0.750
0.833
0.800
0.750
0.783
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DGW
0.250
0.833
0.800
0.500
0.596 0.250
0.833
0.800
0.500
0.596
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DIG
0.500
0.833
0.800
0.250
0.596 0.500
0.833
0.800
0.250
0.596
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 GMD
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HOT
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 KHA
0.250
0.833
0.800
0.500
0.596 0.375
0.833
0.800
0.500
0.627
0.5
0.0
0.0
0.0
0.1
2016 LHG
0.500
0.833
0.800
0.750
0.721 0.500
0.833
0.800
0.750
0.721
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NAF
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NT2
0.750
0.833
0.600
0.500
0.671 0.750
0.833
0.600
0.500
0.671
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SHP
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SKG
0.250
0.833
0.600
0.500
0.546 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.5
0.0
0.0
0.0
0.1
2016
SMC
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
STK
0.750
0.833
0.600
0.500
0.671 0.750
0.833
0.600
0.500
0.671
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SVI
0.500
0.833
0.600
0.500
0.608 0.500
0.833
0.600
0.500
0.608
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 TCM
0.750
0.833
0.800
0.500
0.721 0.750
0.833
0.800
0.500
0.721
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TTF
0.250
0.833
0.400
0.250
0.433 0.250
0.833
0.600
0.250
0.483
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2016 CHP
0.625
0.833
0.600
0.500
0.640 0.625
0.833
0.600
0.500
0.640
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 DBT
0.625
0.833
0.600
1.000
0.765 0.625
0.833
0.600
1.000
0.765
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HDO
0.250
0.833
0.400
0.250
0.433 0.250
0.833
0.400
0.250
0.433
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NTP
0.750
0.833
0.800
0.500
0.721 0.750
0.833
0.800
0.500
0.721
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PGS
0.500
0.833
0.600
0.500
0.608 0.500
0.833
0.600
0.500
0.608
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
178
2016
PVS
0.500
0.833
0.800
0.500
0.658 0.500
0.833
0.800
0.500
0.658
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TIG
0.250
0.833
0.800
0.750
0.658 0.250
0.833
0.800
0.750
0.658
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VCS
0.500
0.833
0.600
0.500
0.608 0.500
0.833
0.600
0.500
0.608
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PVT
0.500
0.833
0.800
0.250
0.596 0.500
0.833
0.800
0.250
0.596
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PNJ
0.625
0.833
0.800
0.500
0.690 0.625
0.833
0.800
0.500
0.690
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TCO
0.750
0.833
0.400
0.500
0.621 0.750
0.833
0.400
0.500
0.621
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TIP
0.250
0.833
0.400
0.250
0.433 0.250
0.833
0.400
0.250
0.433
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TBC
0.500
0.833
0.600
0.250
0.546 0.500
0.833
0.600
0.250
0.546
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NLG
0.375
0.833
0.600
0.250
0.515 0.375
0.833
0.600
0.250
0.515
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SRF
0.250
0.833
0.400
0.500
0.496 0.250
0.833
0.400
0.500
0.496
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 GMC
0.625
0.833
0.600
0.250
0.577 0.625
0.833
0.600
0.250
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 QBS
0.750
0.833
0.400
0.500
0.621 0.750
0.833
0.400
0.500
0.621
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 KDH
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VNE
0.500
0.833
0.400
0.250
0.496 0.500
0.833
0.400
0.250
0.496
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 LBM
0.625
0.833
0.400
0.250
0.527 0.625
0.833
0.400
0.250
0.527
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NKG
0.625
0.833
0.400
0.250
0.527 0.625
0.833
0.400
0.250
0.527
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TIE
0.375
0.833
0.600
0.250
0.515 0.375
0.833
0.600
0.250
0.515
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HU1
0.375
0.833
0.400
0.250
0.465 0.375
0.833
0.400
0.250
0.465
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 ADS
0.625
0.833
0.400
0.250
0.527 0.625
0.833
0.400
0.250
0.527
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 BCG
0.125
0.833
0.600
0.250
0.452 0.125
0.833
0.600
0.250
0.452
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SAB
0.625
0.833
0.400
0.500
0.590 0.625
0.833
0.400
0.500
0.590
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
179
2016 MSN
0.750
0.833
0.600
0.500
0.671 0.750
0.833
0.600
0.500
0.671
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
TLG
0.750
0.833
0.800
0.500
0.721 0.750
0.833
0.800
0.500
0.721
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 ALT
0.500
0.833
0.400
0.500
0.558 0.500
0.833
0.400
0.500
0.558
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 AMC
0.500
0.833
0.400
0.250
0.496 0.500
0.833
0.600
0.250
0.546
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2016 BVS
0.500
0.833
0.400
0.500
0.558 0.500
0.833
0.400
0.500
0.558
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 HUT
0.250
0.833
0.400
0.250
0.433 0.250
0.833
0.600
0.250
0.483
0.0
0.0
0.5
0.0
0.1
2016
L44
0.500
0.833
0.400
0.250
0.496 0.500
0.833
0.400
0.250
0.496
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 NAG
0.500
0.833
0.400
0.500
0.558 0.500
0.833
0.400
0.500
0.558
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
PMC
0.750
1.000
0.800
0.750
0.825 0.750
1.000
0.800
0.750
0.825
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016
SHS
0.500
0.833
0.600
0.500
0.608 0.500
0.833
0.600
0.500
0.608
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VDS
0.375
0.833
0.600
0.500
0.577 0.375
0.833
0.600
0.500
0.577
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VTV
0.375
0.833
0.400
0.750
0.590 0.375
0.833
0.400
0.750
0.590
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
2016 VXB
0.625
0.833
0.800
0.250
0.627 0.625
0.833
0.800
0.250
0.627
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ excel)
180
Phụ lục 2a: Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
Kết quả mối quan hệ CSR - CFP
Nước
(+)
Hỗn hợp
(-)
(2007), and (2009),
Lyon Nelling Webb Shreck (2011)
and Bragdon (1972), Marlin Vance (1975), Aupperle et al (1985), Moore (2001), Jones et (2007), al Crisostomo et al (2011), Reverte (2012)
Không có quan hệ Cornell and Shapiro (1987), Abbott and Monse, (1979), Mc Williams and Siegel (2000), and D'Arcimoles (2002), Trebucq Murray al et (2006), Becchetti Ciciretti and (2006), Elijido-Ten (2007), Fiori et al (2007), Lioui and (2012), Sharma Strouhal al et (2015)
Jo
et
Đang phát triển
Aras et al (2010), Khemir and Baccouche (2010), Luethge and Helen (2012).
Mitta al (2008), Bayoud (2012), et al Dkhili and Ansi (2012), Amran (2015), Nidal and Nidal (2015)
Phát triển Cochran and Wood (1984) Waddock and Graves (1997), Preston and O’Bannon (1997), Griffin and Mahon (1997), McWilliams and Siegel (2000), Ruff et al. and (2001), Richardson Welker (2001), Rashid and Ibrahim (2002), Orlitzky et al (2003), Tsoutsoura (2004), Jones (2005), Rivera-Lirio (2007), Bird et al (2007, p192), Scholtens (2008), Van der Laan et al. (2008), Moneva and Ortas (2008), Mahoney et al (2008), Peters and Mullen (2009), Lee and Park (2009, pp 107); Kang et al (2010, p73), Moneva and Bnouni and (2011), Hajoto (2011), Lioui and (2012), Ghelli Sharma (2013), Lee et al. (2013, p3) Hossain et al (2006), Choi et al (2010), Chang (2010), pp.94), Oeyono et al (2011), Kwanbo (2011), Saleh et al (2011), Tilakasiri (2012), Tyagi (2012), Li et al (2013), Waworuntu et al (2014), Sarah et al (2015),Wan et al (2016)
Việt Nam Ho and Yekini (2014), Long
Trang et al (2016)
(2015), Loc (2016)
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
181
Phụ lục 2b: Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
TT Tác Giả Tên bài báo Mẫu NC Biến độc lập Mô hình Kết quả Ghi chú Biến phụ thuộc
1 FP TNXH và hiệu quả tài chính Cochran và Wood (1984)
366 công ty (1970- 1975, 1975- 1979) CSR (reputation index và Moskowitz, 1972)
CSR -> operating earnings/sales, EV (+) CSR -> asset age, asset turnover (-) CFPi = bjCSRj + bkINDk + ϵ, i = 1,2,3 (1) CSR = α0 + α1OES + α2AGE + α3TURN + α4EV + ϵ (𝟐)
(2) để kiểm tra đa cộng tuyến bằng phân tích Logit FP: operating earnings to asset, operating earnings to sales, excess market valuation - EV, asset age, asset turnover
2 CSP (KLD) FP Waddock và Graves (1997) 500 công ty Mỹ (S&P 500) FP -> CSP (+) CSP -> ROA, ROS (+) Mối quan hệ nhân quả CSP - FP Mối liên kết giữa hiệu quả xã hội – hiệu quả tài chính FP (ROA, ROE, ROS) CSP CSP1990 = FPt−1 + D/A + Sale + Asset + ϵ (𝟏)
182
3
Preston và O’Bannon (1997) 67 công ty Mỹ (Fortune) ROA, ROE, ROI CSP (Fortune) Sử dụng phân tích Lead - Lag Mối quan hệ giữa hiệu quả xã hội – hiệu quả tài chính CSP FP (ROA, ROE, ROI)
4
Griffin và Mahon (1997a,b) Cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa CSP – CFP 8 công ty hóa chất Mỹ
ROA, ROE, ROS Tổng TS Tuổi TS CSP (KLD,TRI Fortune, hoạt động từ thiện của DN) FP1991 = CSPt−1 + D/A + Sale + Asset + FPt−1 + ϵ (𝟐) FP = ɑ + CSP + ϵ CSP -> FP FP -> CSP CSP <-> FP Xếp hạng các công ty theo 5 loại thước đo CFP và 4 loại thước đo CSP (A+, A-, B+, v.v) Tìm thấy mối quan hệ dương cho cả ba trường hợp KLD, Fortune - > CFP (+) TRI, hoạt động từ thiện – CFP (không có quan hệ)
5 PERF CSP (KLD) 524 công ty Mỹ McWilliam s và Siegel (2000) Có hay không mối quan hệ giữa TNXH và hiệu quả tài chính CSP -> ROA (+) khi biến R&D và ngành CN không đưa vào mô hình PERFi = f(CSPi, Sizei, Riski, INDi, RDINTi, INDADINTi)
6 Xem ghi chú (1) Richardson và Welker Công bố thông tin về XH – TC Công ty Canada FDISC SDISC DSIZE ROE FDISC -> COST (-) RDINT: mức độ R&D của công ty thứ i. INDADINT: mức độ quảng cáo công ty thứ i. PERF: hiệu quả kinh tế/tài chính trong dài hạn DSIZE: biến giả cho giá trị
183
(2001) COST
và chi phí vốn cổ phần (1990- 1992) SDISC –> COST (+, yếu)
LEV DANAL IND: biến giả ngành công nghiệp
thị trường VCSH. DANAL: biến giả về số lượng các nhà phân tích cung cấp dự báo thu. LANAL: biến giả. Về số nhà phân tích công ty. FDISC: điểm công bố TC. SDISC: điểm công bố xã hội. COST: chi phí VCSH
7 CSP 52 nghiên cứu Orlitzky và cộng sự (2003) ROA, ROE, P/E, EPS, TBQ Phân tích tổng hợp (meta- analysis) Mối quan hệ hai chiều giữa CSP và FP Hiệu quả xã hội và hiệu quả tài chính: một phân tích tổng hợp CSP – CFP (+) CSP <-> CFP CSPrepu –> CFP (mạnh)
184
8 S&P 500 Tsoutsoura (2004) ROA, RET CSR TNXH và hiệu quả tài chính: xem xét lại vòng tròn đạo đức CFP CSR LEV, ASSETS, SALES
Mối quan hệ nhân quả (OLS, FEM, Granger, fixed effects Granger) RET: thu nhập cổ phiếu hàng năm. CSR –> CFP (+, OLS) CSR –> CFP (yếu, fixed effects Granger) CSR – CFP (không có quan hệ, Granger) RET -> CSRempl (+) CSR (WSCORE) = ROA + RET + LEV + SALES + ASSETS + ε (𝟏) CFP = WSCORE + LEV + SALES + ASSETS + ε (𝟐)
9
Murray và cộng sự (2006) Công bố thông tin CSR (CSEAR)
Lợi nhuận cổ phiếu (share returns – SR) 100 công ty trên “Time 1000” (1988- 1997) Rit = ϕ + θ1 + λXit + γYit + δZit + μSit + (θλ)tXit + (θγ)tYit + (θδ)tZit + (θμ)it + εit Thị trường tài chính có quan tâm đến việc công bố thông tin về xã hội và môi trường không? Các bằng chứng xa hơn và điều tra từ UK
SR – CSR không có quan hệ. Tuy nhiên, các dữ liệu theo chiều dọc cho thấy mối quan hệ giữa lợi nhuận cao (thấp) và công bố thông tin nhiều (ít).
Thực hiện 3 bước kiểm tra: (1) hệ số tương quan Pearson, (2) xem xét có tồn tại mối quan hệ tuyến tính CSR – SR, (3) sử dụng MH tuyến tính tổng quát. X (CSRTOT): tổng thông tin công bố về
185
10
Hossain và cộng sự (2006) CSR (SEDI) thu thập từ BCTN 150 công ty Banglades h (2002- 2003)
TNXH về công bố thông tin môi trường của doanh nghiệp ở các nước đang phát triển: bằng chứng từ Bangladesh
SEDI = α + β1ROASSETS + β2NPMRGIN + β3MULTICOM + β4INDUTYPE + β5SALES + β6INLINK + β7ASSETS + β8AGE + ε
XH-MT Y (VOLTOT): tổng thông tin công bố tự nguyện Z (ENVTOT): tổng thông tin công bố về MT S = log(DT) θ: biến giả năm Sử dụng hồi quy tuyến tính đa biến (Multiple linear regression) NPMARGIN: lợi nhuận ròng biên. ROASSETS: tỷ số LN/tổng tài sản. MULTICOM Có rất ít các công ty Bangladesh đang nỗ lực cung cấp thông tin về XH-MT trên cơ sở tự nguyện. Các công ty ở Bangladesh có mức độ công bố thông XH-MT thấp nhất. Size Lợi nhuận (FP) Đa quốc gia, Industry Liên kết quốc tế của các công ty kiểm toán Lệ phí kiểm toán (AFEES), sự hiện diện giấy nợ công
186
(DEBENTUR E)
: công ty con của công ty đa quốc gia. INLINK: liên kết quốc tế của các công ty kiểm toán. ASSETS: tổng TS.
11 Giá cổ phiếu Fiori và cộng sự (2007) 25 công ty Ý (2004- 2006) CSR, D/E, ROE, Beta levered Không tìm thấy mối quan hệ CSR – SP
TNXH và hiệu quả công ty: phân tích các công ty niêm yết Ý
Stock price = Y + ACSRemploy + BCSRenv + CCSRcommu + DD/Eration + Fbetalevered
12 TBQ (firm value)
Shih-Fang Lo và Her- Jiun Sheu (2007) Các công ty phi tài chính Mỹ (1999 – 2002) Tính bền vững của công ty là một chiến lược làm tăng giá trị cho doanh nghiệp?
Các công ty có chiến lược phát triển bền vững sẽ được các nhà đầu tư đánh giá cao hơn trong các thị trường tài chính.
Sustainability dummy (DJSGI) Size Dividend dummy Leverage ROA Sales growth Investment growth
187
Diversification dummy Credit rating
13 CFP (Y) Xem ghi chú (2) Scholtens (2008) CSR (X: lấy từ KLD) CSR <-> CFP (RR và LN cổ phiếu) Lưu ý về sự tương tác giữa TNXH và hiệu quả tài chính 289 công ty Mỹ (1991- 2004)
MH 1, 2: Sử dụng hồi quy có độ trễ 3 năm và 5 năm (lagged OLS) MH 3, 4: Quan hệ nhân quả Granger
FP = α + CSR 14 CSR FP (EVA, MVA) + ε Mittal và cộng sự (2008) CSR –> EVA (3 năm, -) CSR –> MVA (+, yếu) Phân tích mối quan hệ giữa giá trị kinh tế gia tăng và hiệu quả xã hội 50 công ty (S&P CNX Nifty) Ấn Độ (2001- 2005)
15 Xem ghi chú (3) CSP (KLD) Mahoney và cộng sự (2008) 44 công ty Mỹ (GAO- 03-395R)
Hiệu quả xã hội, hiệu quả tài chính cho các doanh nghiệp xác định lại thu nhập FP (ROA) Quy mô (size) Đòn bẩy (lev) Ngành công nghiệp (industry)
K: 1-7 (điểm SIC -1) Post = 1 nếu 1 hoặc 2 năm sau công bố lại, ngược lại =0 Match = 0 nếu công ty công bố lại, ngược lại = 1 Các công ty báo cáo lại đã có một sự gia tăng lớn trong điểm mạnh /yếu CSP, điểm mạnh CSPprod, điểm mạnh CSPpeople và giảm lớn trong tổng CSPpeople hơn so
188
Industryk = 1 nếu là ngành công nghiệp k, ngược lại = 0
với các doanh nghiệp không báo cáo lại. Khi so sánh mối quan hệ giữa CSP-FP, có mối quan hệ tích cực giữa ROA – điểm mạnh CSP trong các công ty báo cáo lại so với các công ty không báo cáo lại.
16 Không tìm thấy mối quan hệ Moneva và Ortas (2008) 142 công ty Châu Âu (2003- 2005) CSR gồm DJSI, GRI (SIRI) LN cổ phiếu (Share returns – SR)
Thị trường cổ phiếu có bị ảnh hưởng bởi vấn đề bền vững không? Bằng chứng từ các công ty Châu Âu
DJSI: biến giả. Nếu công ty thuộc DJSI (=1), ngược lại (=0). Tương tự thay GRI vào (1) để kiểm tra H2. X: đại diện cho CSRenv. Tương tự thay cho Rit = ∞ + B1 ∗ log (Ri,t−1) + B2DJSIit + ∂t (1) Rit = ∞ + B1 ∗ log (Ri,t−1) + B2Xi,t−1 + ∂t (2) Dùng kiểm định phân tích nhân tố (KMO và Bartlett
189
test) để kiểm tra tính vững
CSRcom, CSRcg, CSRcust, CSRemploy
17 Granger, OLS, FEM CSR (KLD) Nelling và Webb (2009) Hơn 600 công ty Mỹ (1993- 2000) TNXH và hiệu quả tài chính: xem xét lại các vòng tròn đạo đức
CSR –> CFP (OLS, +) CSR< -> CFP (Granger, + yếu) FEM -> không tìm thấy mối quan hệ CSR - LNCP ROA Lợi nhuận CP (RET) Đòn bẩy (LEV) doanh số (Sales) Tổng tài sản (Assets)
18 Không tìm thấy mối quan hệ Aras và cộng sự (2010) 40 công ty Istanbul (2005- 2007)
Điều tra mối quan hệ giữa TNXH và hiệu quả tài chính trong thị trường mới nổi CSR (phân tích nội dung) FP (ROA, ROE, ROS)
Vốn hóa thị trường (mcap) Quy mô (lnsales) Tổng tài sản (lnassets) Đòn bẩy (DTA) WSCOREt = β0 + β1ROAt−1 + β2RETt−1 + β3LEVt−1 + β4SALESt−1 + β5ASSETSt−1 + ε ROAt, RETt = β0 + β1WSOREt−1 + β2LEVt−1 + β3SALESt−1 + β4ASSETSt−1 + ε CSRt = β0 + β1ROAt−1 + β2ROEt−1 + β3ROSt−1 + β4lnmcapt−1 + β5lnsalest−1 + β6lnassetst−1 + β7DTAt−1 + ε
190
FPt = β0 + β1CSRt−1 + β2lnmcapt−1 + β3lnsalest−1 + β4lnassetst−1 + β5DTAt−1 + ε
CFPit = β0 + β1CSRindexit + ∑ γjCONTROLijt
19 CSR – CFP (+)
j + εit (1) Rt = α0 + α1RMRFt + α2SMBt + α3HMLt + α4Momentumt + ηt (2)
Choi và cộng sự (2010) ROA, ROE, TBQ 1,222 công ty/năm (2002- 2008) TNXH và hiệu quả tài chính công ty: bằng chứng từ Hàn Quốc CSR (KEJI) Quy mô công ty (logassets) Rủi ro R&D
Sử dụng MH hồi quy dữ liệu chéo (cross- sectional), MH 4 nhân tố của Carhart’s (1997). Sử dụng 2SLS để xử lý nội sinh, và Granger kiểm tra mối quan hệ nhân quả
191
20
Khemir và Baccouche (2010) CSR (phân tích nội dung)
23 công ty phi TC ở Tuy Ni Di (2001- 2004)
Phân tích các yếu tố quyết định công bố thông tin TNXH trong BCTN của các công ty niêm yết Tunisia DIVSit = βit + β1ROEit + β2ROAit + β3STRCit + β4DITit + β5ENDit + β6VAit + β7VCAit + εit Tìm thấy mối quan hệ giữa CSR - cấu trúc vốn, mức độ nợ, mức độ quốc tế hóa và tầm nhìn chính trị CSR – ROA, ROE (không có quan hệ) Cấu trúc vốn (STRC) Mức độ nợ (END) FP (ROA, ROE) Mức độ quốc tế hóa (DIT) Tầm nhìn chính trị (VA, VCA)
21 69 công ty CSR (Oekom) Xem ghi chú (4) Schreck (2011) ROE, TBQ
Rà soát trường hợp kinh doanh vì TNXH: bằng chứng và phân tích mới
CSR <-> CFP (Granger: không có quan hệ) CSR_env -> ROE (+) CSR_prod -> ROE (-) CSR_cg, CSR_env, CSR_prod -> TBQ (+) Sử dụng mô hình hồi quy OLS. Sử dụng 2SLS để xử lý nội sinh, và Granger (có yếu tố độ trễ) để kiểm tra mối quan hệ 2 chiều.
22 Kwanbo (2011) Không tìm thấy mối quan hệ
231 công ty Nigeria (2005- 2009) Đánh giá hiệu quả của việc công bố thông tin xã hội lên EPS trong các công ty Công bố thông tin xã hội/cổ phiếu (SDPS) EPS Tổng số cổ đông (SH) Tổng số người lao động (Em) SDPS = f(EPS) (1) SD = f(EPS+SHs+Ems) (2)
192
công cộng Nigeria
Công bố thông tin xã hội (SD)
23 Xem ghi chú (5)
Saleh và cộng sự (2011) 200 Cty Malaysia (1999 – 2006) CFP (ROA, TBQ, giá cổ phiếu “R”) Tìm bằng chứng về mối quan hệ giữa CSR và hiệu quả xã hội ở thị trường đang phát triển CSRcom, empl –> CFP (+) Trong dài hạn có ít bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa CSR - CFP
CSRD (phân tích nội dung BCTN) RRHT (Beta) Lev Size DT tài sản (ART) EPS
24 50 công ty Indonesia CSR (GRI 2007) Oeyono và cộng sự (2011) FP (EBITDA, EPS) FP = α + CSR + ε (1) Kiểm tra mối quan hệ TNXH và hiệu quả tài chính CSR –> EPS (+) CSR -> EBITDA (+, yếu) Sử dụng mô hình OLS, REM, FEM EMPD: tổng điểm của khía cạnh người lao động ENVD: tổng điểm khía cạnh môi trường COMD: tổng điểm khía cạnh cộng đồng PROD: tổng điểm khía cạnh sản phẩm Kiểm tra mối quan hệ nhân quả (CSR – FP)
193
25 Giá trị công ty CSR (KLD) CSR -> giá trị công ty (+) Jo và Hajoto (2011) Sử dụng 2SLS để xử lý nội sinh Quản trị công ty và giá trị công ty: tác động của CSR 12,527 công ty (1993- 2004)
CSR = α + FP + ε (2) Xem ghi chú (6) MH 1 – hàm probit MH 2 – hàm Tobit MH 3 – hồi quy đồng thời và kiểm tra 2SLS
26 CSR (OCSR) Xem ghi chú (7) Reverte (2012) Chi phí vốn (CC) CSR -> chi phí vốn (-)
Công ty TBN (2003- 2008)
27 Xem ghi chú (8)
Bayoud và cộng sự (2012) ROA, ROE, ROS 40 công ty ở Libi (2007- 2009) CSR_repu –> FP (+) CSR_employ – CFP (khống có ý nghĩa) CSR (100 BCTN qua bảng câu hỏi) Size Age Industry Tác động tốt của việc công bố TNXH doanh nghiệp lên chi phí vốn chủ sở hữu Một nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa công bố TNXH và hiệu quả tổ chức: bằng chứng từ Libya
194
28 ROA, ROE CSR (bảng câu hỏi) Dkhili và Ansi (2012) Mối quan hệ giữa CSR – FP: trường hợp các công ty Tuynidi 30 công ty Tuy-ni-di (2004 – 2007) CSReco –> ROA (-) CSRchar – ROE (không có quan hệ) FPit = α0 + α1DECOit + α2DLEGit + α3DETHit + α4DDISCRit + α5DENVit + εit
DECO: khía cạnh kinh tế DLEG: khía cạnh pháp luật DETH: khía cạnh đạo đức DDISCR: khía cạnh tùy ý DENV: khía cạnh môi trường
29 CSR (Delphi) Tilakasiri (2012) 50 công ty Sri Lanka ROA, ROE, ROS TNXH và hiệu quả công ty: bằng chứng từ Sri Lanka
CP = β0 + β1Cust + β2Employ + β3Health + β4Edu + β5Commu + β6Env + β7Size + ε Tìm thấy mối quan hệ dương có ý nghĩa thống kê giữa CSR-CP Chỉ có CSRcom, health –> CP, CSRcust, emp, edu,env không có quan hệ với ROE.
30
Luethge và Helen (2012) CSD (thu thập qua BCTN) - ENVC Không tìm thấy mối quan hệ giữa FP – CSD Size –> CSD (+) Đánh giá hiệu quả xã hội và hiệu quả tài chính ở Trung Quốc 62 công ty Trung Quốc trên TTCK Hong FP (ROA, ROE) Size Industry Sở hữu nhà ENVC = TPI + CMI + SO + LSIZE + MSIZE + ε (1) ENVC = FP + TPI TPI: ngành CN vận tải CMI: ngành CN vật liệu hóa chất
195
nước (SO)
Kong (2008)
+ CMI + SO + LSIZE + MSIZE + ε (2)
31 CSR Li và cộng sự (2013) Xem ghi chú (9) Sử dụng hồi quy Probit and Tobit 1,574 công ty phi tài chính TQ (2009) Hiệu quả công ty, sở hữu của công ty, và công khai TNXH ở Trung Quốc ROA Biến kiểm soát (size, lev) SOE Perf
LSIZE: công ty quy mô lớn MSIZE: công ty quy mô vừa SOE: biến giả cho sở hữu công ty (=1 thuộc sở hữu nhà nước, ngược lại =0) Perf: lợi nhuận/tài sản cuối năm Mối quan hệ giữa CSR – FP của các công ty thuộc sở hưu nhà nước thì yếu hơn so với các công ty không thuộc sở hữu nhà nước
32 CSR
Ho và Yekini (2014)
CFP (ROA, ROE, ROS), quy mô công ty (CS), rủi ro tài chính (FR) Điều tra mối quan hệ giữa CSR-CFP – bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam 20 công ty niêm yết trên TTCKVN (2010- 2012) CFP <-> CSR (+) DTA -> CSR (+) CSR - CS (không có quan hệ)
CSR2011 = β0 + β1CFPt−1 + β2FRt−1 + β3CS + α (𝟏) CFP2012 = β0 + β1CSRt−1 + β2DTAt + β3CS + α (𝟐)
33 Long, HC (2015) FP CSR CSR, xu hướng thị trường (OM) Các công ty Việt Nam ở ĐBSCL Tác động của xu hướng thị trường và TNXH lên hiệu quả tài chính CSR, OM -> FP (+) LF – FP (không có ý nghĩa) LF –> EC (có Sử dụng mô hình (SEM) trong phân tích hồi quy LF (legal
196
tương quan)
factor): yếu tố pháp luật EC (ethical component): thành phần đạo đức
34 Công ty Pakistan Sarah và cộng sự (2015)
TNXH và hiệu quả tài chính của công ty: bối cảnh Pakistan CSR có tác động tích cực mạnh mẽ lên hiệu quả tài chính của công ty. Phân tích định tính Thông qua phòng vấn, bài báo, tin tức và báo cáo của các công ty
35 Amran (2015) CFP (ROA, SP) CSR (phân tích nội dung BCTN)
Trách nhiệm xã hội DN và hiệu qủa tài chính công ty: bằng chứng từ Nigeria Các công ty niêm yết trên TTCK Nigeria (2010- 2012) COMINV, HRDISC, PRCDISC -> CFP (+) ENVDISC -> CFP (-)
CFP = β0 + β1ENVDISC + β2COMINV + β3HRDISC + β4PRCDISC + β5FIRMSIZE + ε
ENVDISC: thông tin về môi trường COMINV: liên quan đến cộng đồng HRDISC: thông tin về người lao động FIRMsize: quy mô công ty
197
36 Tobin’q
Bilal và Nidal (2015) TNXH và giá trị thị trường: bằng chứng từ Jordan 26 công ty trên ASE (2006- 2010) Human resources (HR): nguồn nhân lực CSR gồm 4 nhóm (thu thập từ BCTN) Quy mô (Size) Đòn bẩy (Lev)
𝑇𝐵 = 𝛽0 + 𝛽1𝐸𝑛𝑣 + 𝛽2𝐻𝑅 + 𝛽3𝐶𝑜𝑚 + 𝛽4𝑃𝑟𝑜𝑑 + 𝛽5𝑆𝑖𝑧𝑒 + 𝛽6𝐿𝑒𝑣 + 𝑒
37 Xem ghi chú (10) ROA, TBQ Các CTNY Mỹ trên S&P 500 Tác động của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp lên rủi ro công ty Pascal Nguyen và Anna Nguyen (2015) Trong ngành công nghiệp đồ ăn & thức uống: CSRenv, com, prod làm giảm TBQ, CSRHR không ảnh hưởng TBQ. Trong ngành công nghiệp P&M: CSRcom - > TBQ (-), còn CSRenv, people, prod không có ảnh hưởng lên TBQ. Trong nàh công nghiệp hóa chất -> không tìm thấy mối quan hệ giữa 4 thành phần CSR – TBQ. Những mối quan tâm về CSR (sự đa dạng, người LĐ, CG) làm tăng RR cho các cổ đông. Các CSR strengths/ concerns (community, diversity, employee relations,
198
điểm mạnh về CSR (sự đa dạng, người LĐ) cũng làm rủi ro cao hơn. Hai chỉ số CSR tổng thế mạnh/quan tâm có ảnh hưởng cùng chiều lên rủi ro công ty.
38 TBQ Xem ghi chú (11)
Mẫu quốc tế (1999 – 2011) Minna Yu và Ronald Zhao (2015) Tính bền vững và định giá công ty: một cuộc điều tra quốc tế Tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa hiệu quả bền vững và giá trị công ty.
environment, products characteristics, corporate governance, aggregate strengths/conc ern) Firm age Firm size Dividend yield Number of segments Capex/sales R&D intensity DJSI index NV_Protection Transparency SIZE XLIST DTOA CAPEX Country controls Industry controls CSR gồm 4 39 Wan và Mối quan hệ giữa 100 công EPS, FP = ɑ + CSR +ε CSR –> CFP (+)
199
ROE
cộng sự (2016)
ty hàng đầu Malaysia
TNXH và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ Malaysia
40 Các CTNY Việt Nam CSD (GRI 3.1) Trang và cộng sự (2016) W_DiB -> CSD W_DoB không có ảnh hưởng CSD
Đa dạng hóa hội đồng quản trị và công bố xã hội công ty: bằng chứng từ Việt Nam Diversity-of- boards index (W_DoB ) Diversity-in - boards index (W_Di B)
41 ROA, ROE
Lộc, TP (Master thesis, 2016) 6435 DNVN (2010 – 2012) Ảnh hưởng của CSR lên hiệu quả công ty: trường hợp các công ty Việt Nam - Các loại hình sở hữu của công ty -> FP - Ba khía cạnh của CSR -> FP (+). Financial_perform anceit = αi + β * CSR Indexit+µ * Control variables + εit
thành phần: môi trường (Env), cộng đồng (Com), thị trường lao động (MP), nơi làm việc (WP) W_DoB W_DiB ROA AUDIT FO REIGN STO CK_EX CSR Firm size Firm age R&D Engagement Leverage Export Final good ratio Firm ownership CSR 42 Robert và Mối quan hệ giữa 10 công ty ROA - CSR tổng
200
ROE
cộng sự (2016)
được giao dịch trên TTCK Croatia không có ảnh hưởng lên CFP. - CSR thành phần -> CFP
43 CSR CSR -> (+) CFP ROA ROE
Juliana Isanzu, Xu Fengju (2016)
101 công ty (50 công ty CSR, 51 công ty không CSR) CSR và hiệu quả tài chính - Các công ty nhóm chỉ số CROBEX10® trên Sở giao dịch Zagreb (2012 – 2014) Tác động của trách nhiệm xã hội đối lên hiệu quả tài chính của doanh nghiệp: Quan điểm của người Tanzania So sánh sự khác nhau giữa công ty CSR và công ty không CSR (sử dụng kiểm định t- test trung bình một mẫu)
44
Trách nhiệm xã hội và Hiệu quả công ty: Một Phân tích Đồ hoạ Chiến lược
So sánh sự khác nhau giữa công ty CSR và công ty không CSR (sử dụng phân tích mô tả và chiến lược đồ thị) Nicola Comincioli Laura Poddi, Sergio Vergalli (2016) ROE ROCE MKTCAP (market capitalizat ion) MVA
417 công ty (100 công ty không CSR, 317 công ty CSR) giai đoạn 1999 - 2003 Có một số điểm khác biệt trong một số chỉ tiêu kinh tế giữa công ty CSR và công ty không CSR, giữa Hoa Kỳ và EU, và trong các ngành công nghiệp khác nhau.
CSR NCSR AGE INTA (Intangible Asset) STLT (Short Term Debt /Long Term Debt) Intensity Size GDP
201
Ghi chú
(1) Mô hình của Richardson và Welker (2001)
(INDit × SIZEit) + φ5DANALit + φ6LEVIT + ϑit (2)
(LANALit × SDISCit) + ηit (𝟒)
FDISCit = α + β1DSIZEit + β2ROEit + β3DANALit + ε (1) SDISCit = γ + φ1DSIZEit + φ2ROEit + φ3INDit + φ4 COSTit = γ + ψ1NANALit + ψ2LEVit + ψ3FDISCit + ψ4SDISCit + ηit (3) COSTit = γ + ψ1NANALit + ψ2LEVit + ψ3FDISCit + ψ4SDISCit + ψ5(LANALit × FDISCit) + ψ6 (2) Mô hình của Scholtens (2008)
Yt = β0 + β1Xt + β2Xt−1 + β3Xt−2 + β4Xt−3 + εit (1a) Xt = β0 + β1Yt + β2Yt−1 + β3Yt−2 + β4Yt−3 + νit (1b) Yt = β0 + β1Xt + β2Xt−1 + β3Xt−2 + β4Xt−3 + β5Xt−4 + β6Xt−5 + εit (2a) Xt = β0 + β1Yt + β2Yt−1 + β3Yt−2 + β4Yt−3 + β5Yt−4 + β6Yt−5 + νit (2b) Yt = β0 + β1Xt−1 + β2Xt−2 + β3Xt−3 + β4Yt−1 + β5Yt−2 + β6Yt−3 + εit (3a) Xt = β0 + β1Yt−1 + β2Yt−2 + β3Yt−3 + β4Xt−1 + β5Xt−2 + β6Xt−3 + νit (3b) Yt = β0 + β1Xt−1 + β2Xt−2 + β3Xt−3 + β4Xt−4 + β5Xt−5 + β6Yt−1 + β7Yt−2 + β8Yt−3 + β9Yt−4 + β10Yt−5 + εit (4a) Xt = β0 + β1Yt−1 + β2Yt−2 + β3Yt−3 + β4Yt−4 + β5Yt−5 + β6Xt−1 + β7Xt−2 + β8Xt−3 + β9Xt−4 + β10Xt−5 + νit (4b)
(3) Mô hình của Mahoney et al (2008)
CSPi,t+1 = b0 + b1ROAit + b2Matchit + b3Postit + b4ROA ∗ Matchit + b5ROA ∗ Postit + b6Match ∗ Postit
+ b7ROA ∗ Post ∗ Matchit + b8D/Eit + b9ASSETSit + b10Industrykit
(4) Mô hình của Schreck (2011)
Q = β0 + β1Aggregate CSP + β2Risk + β3Lev + β4Size
202
Q = β0 + β1Employ + β2CG + β3EnvM + β4Prod&𝑐𝑢𝑠𝑡 + β5Soc&𝐶𝑜𝑚𝑚𝑢 + β6Risk + β7Lev + β8Size Q = β0 + β1Employ + β2CG + β3EnvM + β4Prod&𝑐𝑢𝑠𝑡 + β5Soc&𝐶𝑜𝑚𝑚𝑢 + β6Risk + β7Lev + β8Size + β9EnvM
× Industry class + β10CG × reporting quality
(5) Mô hình của Saleh et al (2011)
CFPjt = β0 + β1CSRDjt + β2BETAjt + β3LEVjt + β4LSIZEit + β5ATRjt + β6EPSjt + εjt (1)
CFPjt = β0 + β1EMPDjt + β2COMDjt + β3PRODjt + β4ENVDjt + β5BETAjt + β6LEVjt + β7LSIZEit + β8ATRjt + β9EPSjt + εjt (2)
CFPjt = β0 + β1CSRDj,t−1 + β2EMPDj,t−1 + β3COMDj,t−1 + β4PRODj,t−1 + β5ENVDj,t−1 + β6BETAj,t−1 + β7LEVj,t−1
+ β8LSIZEj,t−1 + β9ATRj,t−1 + β10EPSj,t−1 + εjt (3)
(6) Mô hình của Jo và Hajoto (2011)
CSR = GINDEX + ENTINDEX + DUALITY + CEONOM + PCTDIRSHR + PCTINDEP + LOGBLKS + PCTINSTI +
LOGANAL + LOGTA + DEBTR + RNDR + FAMFIRM + STATELAW + ROA + CHGROA + SEGDIV + ε (1)
CSR-combined scores = GINDEX + ENTINDEX + DUALITY + CEONOM + PCTDIRSHR + PCTINDEP + LOGBLKS +
PCTINSTI + LOGANAL + LOGTA + DEBTR + RNDR + FAMFIRM + STATELAW + ROA + SEGDIV + ε (2)
CSR = LOGANAL+ GINDEX + DUALITY + CEONOM + PCTDIRSH + PCTINDEP + LOGBLKS + PCTINSTI + LOGTA +
DEBTR + RNDR + CAPXR + ADVR + FAMFIRM + STATELAW + ROA + SEGDIV SEGDIV + ε (3a)
LOGANAL = CSR+ GINDEX + DUALITY + CEONOM + PCTDIRSH + PCTINDEP + LOGBLKS + PCTINSTI + LOGTA +
DEBTR + RNDR + CAPXR + ADVR + FAMFIRM + SEGDIV SEGDIV+ SP500 + FIRMAGE + ε (3b)
(7) Mô hình của Reverte (2012)
CCit = √ espi,t+2 − epsi,t+1 P0i
203
CCit = β0 + β1BETAit + β2MBit + β3SIZEit + εit (1) CCit = β0 + β1BETAit + β2MBit + β3SIZEit + β4CSR_SCOREit + εit (2) CCit = β0 + β1BETAit + β2MBit + β3SIZEit + β4CSR_RANKit + εit (3) CCit = β0 + β1BETAit + β2MBit + β3SIZEit + β4CSR_SCOREit + β5CSR_SCORE ∗ IND_SENSit + εit (4) (8) Mô hình của Bayoud et al (2012)
FP = 𝛼 + 𝛽1 CSRD + 𝛽2 SIZE + 𝛽3 AGE + 𝛽4 INDTY +𝜀
EC (Employee Commitment) = 𝛼 + 𝛽1 CSRD + 𝛽2 SIZE + 𝛽3 AGE + 𝛽4 INDTY +𝜀
CR (Corporate Reputation) = 𝛼 + 𝛽1 CSRD + 𝛽2 SIZE + 𝛽3 AGE + 𝛽4 INDTY +𝜀
(9) Mô hình của Li et al (2013)
Prob(Dis) = α0 + α1Perf + α2SOE + ∑ αkControlsk + ε (1)
Score = β0 + β1Perf + β2SOE + ∑ βkControlsk + η (2)
Prob(Dis) = α0 + α1Perf + α2SOE + α3Perf ∗ SOE + ∑ αkControlsk + ε (3)
Score = β0 + β1Perf + β2SOE + β3Perf ∗ SOE + ∑ βkControlsk + η (4)
(10) Pascal Nguyen và Anna Nguyen (2015)
𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑟𝑖𝑠𝑘 (𝑅𝑂𝐴, 𝑇𝐵𝑄) = 𝛽0 + 𝛽1𝐶𝑆𝑅 𝐴𝑔𝑔𝑟𝑒𝑔𝑎𝑡𝑒 𝑠𝑡𝑟𝑒𝑛𝑔𝑡ℎ𝑠 + 𝛽2𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑎𝑔𝑒 + 𝛽3𝐹𝑖𝑟𝑚𝑠𝑖𝑧𝑒 + 𝛽4𝐷𝑖𝑣𝑖𝑑𝑒𝑛𝑑 𝑦𝑖𝑒𝑙𝑑 + 𝛽5𝐿𝑒𝑣 +
𝛽6𝑁𝑢𝑚𝑏𝑒𝑟 𝑜𝑓 𝑠𝑒𝑔𝑚𝑒𝑛𝑡𝑠 + 𝛽7𝐶𝑎𝑝𝑒𝑥/𝑠𝑎𝑙𝑒𝑠 + 𝛽8𝑅&𝐷 + 𝜀 (1a)
𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑟𝑖𝑠𝑘 (𝑅𝑂𝐴, 𝑇𝐵𝑄) = 𝛽0 + 𝛽1𝐶𝑆𝑅𝑐𝑜𝑚 + 𝛽2𝐶𝑆𝑅𝑑𝑖𝑣 + 𝛽3𝐶𝑆𝑅𝑒𝑚𝑝𝑙 + 𝛽4𝐶𝑆𝑅𝑒𝑛𝑣 + 𝛽5𝐶𝑆𝑅𝑝𝑟𝑜𝑑 + 𝛽6𝐶𝑆𝑅_𝐶𝐺 + 𝛽7𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑎𝑔𝑒 +
𝛽8𝐹𝑖𝑟𝑚𝑠𝑖𝑧𝑒 + 𝛽9𝐷𝑖𝑣𝑖𝑑𝑒𝑛𝑑 𝑦𝑖𝑒𝑙𝑑 + 𝛽10𝐿𝑒𝑣 + 𝛽11𝑁𝑢𝑚𝑏𝑒𝑟 𝑜𝑓 𝑠𝑒𝑔𝑚𝑒𝑛𝑡𝑠 + 𝛽12𝐶𝑎𝑝𝑒𝑥/𝑠𝑎𝑙𝑒𝑠 + 𝛽13𝑅&𝐷 + 𝜀 (1b)
204
𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑟𝑖𝑠𝑘 (𝑅𝑂𝐴, 𝑇𝐵𝑄) = 𝛽0 + 𝛽1𝐶𝑆𝑅 𝐴𝑔𝑔𝑟𝑒𝑔𝑎𝑡𝑒 𝑠𝑡𝑟𝑒𝑛𝑔𝑡ℎ𝑠 + 𝛽2𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑎𝑔𝑒 + 𝛽3𝐹𝑖𝑟𝑚𝑠𝑖𝑧𝑒 + 𝛽4𝐷𝑖𝑣𝑖𝑑𝑒𝑛𝑑 𝑦𝑖𝑒𝑙𝑑 + 𝛽5𝐿𝑒𝑣 +
𝛽6𝑁𝑢𝑚𝑏𝑒𝑟 𝑜𝑓 𝑠𝑒𝑔𝑚𝑒𝑛𝑡𝑠 + 𝛽7𝐶𝑎𝑝𝑒𝑥/𝑠𝑎𝑙𝑒𝑠 + 𝛽8𝑅&𝐷 + 𝜀 (2a)
𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑟𝑖𝑠𝑘 (𝑅𝑂𝐴, 𝑇𝐵𝑄) = 𝛽0 + 𝛽1𝐶𝑆𝑅𝑐𝑜𝑚 + 𝛽2𝐶𝑆𝑅𝑑𝑖𝑣 + 𝛽3𝐶𝑆𝑅𝑒𝑚𝑝𝑙 + 𝛽4𝐶𝑆𝑅𝑒𝑛𝑣 + 𝛽5𝐶𝑆𝑅𝑝𝑟𝑜𝑑 + 𝛽6𝐶𝑆𝑅_𝐶𝐺 + 𝛽7𝐹𝑖𝑟𝑚 𝑎𝑔𝑒 +
𝛽8𝐹𝑖𝑟𝑚𝑠𝑖𝑧𝑒 + 𝛽9𝐷𝑖𝑣𝑖𝑑𝑒𝑛𝑑 𝑦𝑖𝑒𝑙𝑑 + 𝛽10𝐿𝑒𝑣 + 𝛽11𝑁𝑢𝑚𝑏𝑒𝑟 𝑜𝑓 𝑠𝑒𝑔𝑚𝑒𝑛𝑡𝑠 + 𝛽12𝐶𝑎𝑝𝑒𝑥/𝑠𝑎𝑙𝑒𝑠 + 𝛽13𝑅&𝐷 + 𝜀 (2b)
(11) Minna Yu và Ronald Zhao (2015)
Trong đó:
TOBINSQit: (VHTT + Nợ NH + Nợ DH)/Tổng TS
DJSIit = 1 nếu công ty thứ i nằm trong chỉ số DJSI ở năm t, ngược lại = 0
Sizeit = log (tổng TS)
XLISTit = 1 công ty thứ i được niêm yết trên TTCK Mỹ vào năm t
205
DTOAit = Tổng nợ phải trả/tổng TS
CAPEXit = Chi đầu tư/tổng TS
INV_PROTECTIONC (Bảo vệ nhà đầu tư cấp quốc gia): nguồn gốc hợp pháp hoặc chỉ số quyền đối với giám đốc
DJSIit* INV_PROTECTIONC: sự tương tác giữa DJSIit và INV_PROTECTIONC
TRANSPARENCYC (Minh bạch tài chính cấp quốc gia): được đánh giá bởi xếp hạng CIGAR
DJSIit* TRANSPARENCYC:sự tương tác giữa DJSIit và TRANSPARENCYC
206
Phụ lục 3: Danh sách các công ty niêm yết có công bố CSR và các công ty niêm yết không công bố CSR
CTNY có công bố CSR
CTNY không công bố CSR
TT Năm
INDUS
MCK BVH VNM PAC HBC DQC DPM BMP SPM KDC SMC HSG CTG STB BVH HAG VNM VIC SSI REE PVD PDR PAC
ROA 0.031 0.330 0.055 0.029 0.027 0.285 0.278 0.058 0.065 0.032 0.093 0.014 0.014 0.022 0.033 0.307 0.094 0.054 0.140 0.093 0.0004 0.048
FR 0.485 0.460 0.484 0.875 0.462 0.340 0.378 0.399 0.371 0.238 0.420 0.255 0.257 0.449 0.347 0.231 0.252 0.248 0.343 0.351 0.505 0.333
TBQ 0.585 3.724 0.604 0.414 0.491 1.281 1.097 0.535 1.208 0.532 1.240 1.010 1.011 0.472 0.972 4.935 1.187 0.866 1.116 1.042 0.886 0.696
0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1
ROA FR 0.011 0.358 0.051 0.315 0.376 0.288 0.002 0.531 0.003 0.465 0.001 0.475 0.074 0.444 0.090 0.310 0.263 0.309 0.006 0.403 0.022 0.585 0.009 0.302 0.110 0.431 0.004 0.193 0.027 0.417 0.043 0.304 0.006 0.573 0.020 0.402 0.009 0.668 0.033 0.477 -0.078 0.435 0.024 0.336
TBQ 0.258 2.244 2.151 0.664 0.451 0.873 1.026 0.672 3.753 0.722 0.615 0.234 1.008 0.317 0.286 1.698 0.534 0.197 0.720 0.736 0.660 0.423
SIZE 8.330 5.958 0.547 1.361 4.606 4.891 4.195 2.154 2.428 2.965 3.146 8.453 2.220 7.437 3.179 6.142 4.831 3.830 1.481 4.559 2.857 2.696
LEV 0.101 0.373 0.000 0.432 0.242 0.758 0.654 0.000 0.000 0.575 0.501 0.097 0.509 0.180 0.000 0.402 0.308 0.000 0.279 0.451 0.323 0.170
SIZE 6.136 5.283 2.438 3.824 2.843 4.662 2.655 2.412 4.010 3.064 4.265 8.659 7.386 6.312 5.698 5.433 6.630 4.344 4.242 5.370 4.036 2.661
2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
LEV MCK 0.020 VCB 0.000 MSN 0.256 DSN 0.307 LGC 0.255 ITA 0.003 HT1 0.003 CII 0.134 IMP 0.106 VCF 0.360 NKG 0.475 NKG 0.906 VCB 0.889 PTB 0.005 EIB 0.478 PGI 0.016 MSN 0.361 KBC 0.047 BMI 0.075 LGC 0.261 PVT 0.490 KDH 0.335 SVC
207
2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014
23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49
1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 1 1 0
NSC HBC FPT BCI EVE DQC DPM DMC DHG BMP SPM KDC SMC TTF PGS PVS VCS HSG STB HCM BVH HAG VNM VIC VHC TRA SSI
0.219 0.005 0.131 0.027 0.100 0.074 0.198 0.108 0.191 0.238 0.016 0.077 0.008 -0.001 0.079 0.071 0.020 0.047 0.013 0.108 0.028 0.043 0.249 0.042 0.125 0.132 0.084
0.401 0.311 0.211 0.393 0.491 0.377 0.242 0.368 0.277 0.337 0.544 0.232 0.279 0.443 0.251 0.225 0.468 0.378 0.286 0.440 0.372 0.311 0.186 0.270 0.422 0.273 0.390
1.757 0.439 0.893 0.553 0.916 0.734 1.466 0.933 2.460 1.915 0.476 1.302 0.527 0.695 0.527 0.529 0.751 1.013 1.019 1.029 0.458 0.980 3.769 1.079 1.238 1.464 1.260
0.000 0.291 0.240 0.150 0.001 0.290 0.006 0.107 0.041 0.021 0.141 0.089 0.406 0.563 0.175 0.148 0.492 0.560 0.910 0.000 0.000 0.500 0.063 0.368 0.467 0.030 0.169
1.481 3.856 5.169 3.538 2.183 2.815 4.683 2.322 3.428 2.822 2.414 4.155 3.424 3.560 3.424 5.473 3.320 4.614 7.543 3.653 6.165 5.896 5.552 6.808 3.805 2.427 4.490
0.129 0.394 0.008 0.509 0.034 0.505 0.005 0.382 0.397 0.276 0.212 0.317 0.000 0.441 0.104 0.399 0.070 0.279 0.015 0.327 0.026 0.291 0.161 0.444 0.008 0.401 0.092 0.499 0.049 0.421 0.039 0.476 0.116 0.495 0.026 0.482 0.111 0.393 0.017 0.503 0.005 0.161 0.023 0.408 0.143 0.294 0.024 0.479 0.131 0.289 0.123 0.342 0.038 0.532
1.336 0.559 0.774 0.361 2.898 1.348 0.857 1.661 0.704 0.860 0.900 2.384 0.673 0.595 0.767 0.715 1.228 0.536 1.085 0.538 0.110 0.236 2.124 0.717 1.242 1.463 7.775
1.671 4.678 2.251 3.643 0.525 2.427 4.877 1.684 2.163 4.384 2.791 2.781 3.126 0.826 2.736 3.015 2.312 3.380 2.390 3.308 7.493 3.978 5.479 4.873 1.818 1.673 3.239
0.084 0.180 0.086 0.096 0.000 0.008 0.627 0.133 0.000 0.588 0.262 0.143 0.430 0.000 0.290 0.404 0.247 0.354 0.497 0.066 0.016 0.000 0.345 0.242 0.120 0.056 0.000
LIX ITA ELC AGR DSN VSC HT1 OPC IMP CII JVC VCF DTL HTL PXS PGC TLG NKG PTB AGR ACB BMI MSN KBC LIX OPC IVS
208
2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014
50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 1 0 0
SSC SHI REE PVD PGD PDR PAN PAC NSC KHP HQC HPG HBC FPT FCN EVE DQC DPM DMC DHG CTD BID BMP BSI CNG CTG MBB
0.172 0.021 0.130 0.108 0.055 0.007 0.071 0.056 0.178 0.057 0.007 0.147 0.012 0.107 0.060 0.105 0.130 0.108 0.142 0.153 0.074 0.008 0.209 0.045 0.177 0.012 0.013
1.608 0.667 0.987 1.021 0.532 0.804 1.247 0.870 1.122 0.692 0.540 1.478 0.466 1.031 0.682 0.800 0.953 1.167 1.175 2.451 0.494 0.951 1.752 0.620 1.461 0.994 0.990
0.108 0.505 0.085 0.182 0.000 0.458 0.098 0.389 0.027 0.273 0.192 0.305 0.330 0.303 0.251 0.053 0.167 0.009 0.000 0.051 0.000 0.948 0.030 0.127 0.097 0.916 0.914
1.681 2.819 4.431 5.451 3.544 4.103 3.115 2.527 2.254 2.573 3.703 5.398 4.061 5.423 3.090 2.288 2.925 4.616 2.232 3.550 3.884 8.780 2.959 2.914 1.859 8.797 7.603
0.099 0.291 0.029 0.322 0.008 0.423 0.043 0.472 0.267 0.349 0.020 0.361 0.047 0.423 0.033 0.374 0.052 0.359 0.045 0.327 0.036 0.510 0.024 0.489 0.133 0.396 0.057 0.409 0.023 0.435 0.386 0.225 0.034 0.448 -0.003 0.356 0.086 0.353 0.083 0.521 0.060 0.389 0.002 0.246 0.143 0.802 -0.308 0.447 0.042 0.356 0.008 0.325 0.005 0.336
1.051 0.898 0.639 0.797 2.624 0.898 0.918 0.459 0.978 0.965 0.749 1.006 1.460 0.572 0.695 2.915 0.843 0.844 0.892 1.068 0.978 0.373 0.638 0.422 0.858 0.261 0.105
1.980 3.113 4.678 4.538 6.288 3.441 4.503 3.273 2.493 2.673 3.211 4.841 2.405 2.387 3.476 0.570 4.209 4.540 3.239 2.332 4.504 7.379 2.818 4.491 3.016 8.660 7.433
0.481 0.668 0.180 0.414 0.141 0.413 0.526 0.307 0.258 0.505 0.377 0.569 0.179 0.099 0.169 0.000 0.293 0.677 0.156 0.000 0.559 0.256 0.147 0.183 0.523 0.110 0.039
0.501 0.508 0.297 0.392 0.287 0.496 0.494 0.334 0.330 0.278 0.478 0.353 0.408 0.314 0.388 0.509 0.409 0.288 0.316 0.228 0.312 0.237 0.257 0.536 0.309 0.182 0.218
CLC RAL ITA PVT GAS KDH HVG SVC TAC SBA ASM HT1 TLG ELC SAM DSN IJC POM JVC IMP CII EIB LGC OGC PGC VCB SHB
209
2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015
77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103
0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1
BCI SPM KDC SBT TSC KHA SMC TTF PGS PVS VCS HSG STB HCM BVH HAG VNM VIC VHC TRA SSI SSC SHI REE PVD PGD PDR
0.029 0.031 0.068 0.049 0.148 0.158 -0.019 0.017 0.045 0.075 0.080 0.066 0.066 0.056 0.020 0.012 0.290 0.010 0.073 0.157 0.064 0.091 0.046 0.090 0.072 0.077 0.021
0.626 0.490 1.560 0.925 1.750 0.731 0.757 0.749 0.457 0.552 1.025 1.033 1.004 1.271 0.616 0.717 5.658 0.824 1.026 1.696 1.139 1.898 0.834 0.810 0.627 1.151 0.721
0.137 0.149 0.070 0.357 0.135 0.000 0.680 0.488 0.137 0.098 0.591 0.565 0.923 0.182 0.001 0.550 0.067 0.237 0.407 0.012 0.343 0.200 0.487 0.103 0.257 0.073 0.365
3.477 2.450 4.366 3.495 1.435 1.475 3.714 3.692 3.467 5.577 3.276 4.494 7.981 3.583 6.373 6.199 5.616 7.283 3.774 2.562 4.898 1.612 2.883 4.565 5.518 3.304 4.323
0.202 0.024 0.480 0.220 0.005 0.372 2.062 0.161 0.453 0.967 0.065 0.424 0.832 0.013 0.572 0.749 0.012 0.479 0.679 0.003 0.371 0.620 0.182 0.531 0.974 0.075 0.542 0.793 0.071 0.407 1.158 0.166 0.334 0.708 0.035 0.392 1.296 0.148 0.313 0.320 -0.083 0.396 0.131 0.005 0.275 0.376 0.025 0.414 2.406 0.165 0.275 0.638 0.044 0.301 0.758 0.010 0.351 0.078 0.375 0.834 0.023 0.336 11.941 1.029 0.072 0.376 1.100 0.079 0.469 0.494 0.011 0.339 0.645 0.045 0.362 0.920 0.051 0.327 0.797 0.032 0.275
3.597 4.063 3.214 2.190 3.716 3.446 3.162 1.233 2.807 1.805 2.705 3.576 2.519 3.110 7.608 3.936 5.170 4.917 4.973 2.055 0.835 2.598 1.862 4.847 4.570 4.707 4.448
0.000 0.192 0.214 0.000 0.473 0.345 0.449 0.000 0.286 0.181 0.009 0.554 0.385 0.000 0.027 0.000 0.128 0.187 0.585 0.190 0.000 0.645 0.375 0.125 0.375 0.394 0.342
0.384 0.417 0.365 0.245 0.587 0.438 0.303 0.487 0.442 0.446 0.485 0.414 0.314 0.325 0.468 0.256 0.319 0.200 0.315 0.266 0.275 0.474 0.483 0.215 0.395 0.449 0.358
PGI VMD VCF BBC DLG NBB DTL HTL PXS GSP VSC NKG PTB AGR ACB BMI MSN KBC HVG DCL IVS FMC PDN ITA PVT PPC KDH
210
2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015
104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 0 1 0 0 0 1 1 1 1 1
PAN PAC NSC KHP HQC HPG HBC FPT FCN EVE DQC DPM DMC DHG CTD BID BMP BSI CNG CTG MBB BCI SPM HNG KDC SBT TSC
0.085 0.072 0.101 0.066 0.100 0.137 0.011 0.104 0.052 0.102 0.139 0.109 0.143 0.176 0.094 0.008 0.238 0.042 0.185 0.010 0.012 0.089 0.017 0.00003 0.784 0.027 0.058
1.096 1.145 1.109 0.640 0.455 1.108 0.478 1.075 0.554 0.776 1.092 1.034 1.122 1.800 0.916 1.033 2.468 0.590 1.433 1.017 1.001 0.753 0.326 1.204 0.766 1.173 1.175
0.146 0.000 0.177 0.316 0.127 0.269 0.281 0.338 0.237 0.094 0.000 0.021 0.000 0.080 0.000 0.950 0.025 0.261 0.117 0.928 0.895 0.136 0.118 0.451 0.023 0.472 0.126
3.609 2.187 2.746 2.653 4.156 5.542 4.289 5.562 3.384 2.405 2.717 4.693 2.291 3.515 4.359 9.049 3.194 3.174 1.862 8.961 7.701 3.515 2.450 5.602 4.208 4.138 2.973
0.057 0.268 0.051 0.299 0.138 0.391 0.036 0.196 0.125 0.366 0.062 0.341 0.124 0.273 0.064 0.440 0.041 0.240 0.223 0.519 0.047 0.355 0.004 0.470 0.119 0.287 0.085 0.280 0.053 0.361 0.000 0.299 0.056 0.622 0.098 0.560 0.048 0.252 0.008 0.360 0.004 0.290 0.025 0.402 -1.587 0.559 0.085 0.518 0.117 0.453 0.229 0.280 0.153 0.350
0.925 1.841 1.234 0.892 0.743 1.215 1.625 0.983 0.581 1.665 0.897 0.794 1.519 0.993 0.845 0.202 1.168 0.419 0.783 0.269 0.089 0.313 0.770 0.850 1.531 1.722 1.038
2.506 3.393 2.000 2.679 3.576 4.781 3.102 2.434 3.941 1.503 2.989 4.266 1.778 2.391 5.015 7.130 4.301 4.237 3.013 8.816 7.624 3.615 2.130 2.309 3.231 2.070 1.190
0.323 0.424 0.436 0.489 0.123 0.500 0.191 0.176 0.362 0.000 0.581 0.614 0.022 0.000 0.532 0.068 0.551 0.229 0.454 0.092 0.019 0.000 0.061 0.000 0.102 0.140 0.000
0.275 0.299 0.353 0.196 0.327 0.305 0.560 0.210 0.270 0.494 0.366 0.232 0.210 0.246 0.322 0.413 0.283 0.346 0.196 0.344 0.248 0.301 0.498 0.268 0.606 0.320 0.505
TAC PNJ CLC SBA DXG HT1 VSC ELC PET COM RAL POM OPC IMP CII EIB LGC OGC PGC VCB SHB PGI JVC BBC VCF LIX ST8
211
2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2016
131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
BHS C32 DCM DGW DIG GMD HOT KHA LHG NAF NT2 SHP SKG SMC STK SVI TCM TTF CHP DBT HDO NTP PGS PVS TIG VCS HSG
0.040 0.247 0.050 0.081 0.003 0.054 0.063 0.188 0.050 0.180 0.100 0.054 0.382 0.000 0.041 0.100 0.067 0.045 0.001 0.058 0.630 0.126 0.038 0.057 0.150 0.150 0.145
0.349 0.238 0.199 0.545 0.342 0.281 0.548 0.581 0.449 0.266 0.300 0.188 0.369 0.368 0.301 0.423 0.340 0.379 0.208 0.326 0.524 0.373 0.399 0.328 0.422 0.444 0.905
0.991 0.892 0.960 1.161 0.621 0.772 0.191 0.910 0.423 1.765 1.129 1.141 4.085 0.695 1.339 0.874 1.065 1.143 1.245 0.777 0.358 1.498 0.536 0.367 0.734 1.989 1.332
0.485 0.027 0.488 0.355 0.273 0.209 0.191 0.013 0.098 0.133 0.504 0.530 0.000 0.625 0.475 0.304 0.462 0.258 0.444 0.426 0.273 0.351 0.166 0.085 0.007 0.543 0.413
3.190 1.494 4.975 2.530 3.930 4.500 0.376 1.451 2.624 1.707 4.757 3.372 1.663 3.410 2.844 2.027 3.223 3.826 3.483 1.505 1.255 3.482 3.276 5.577 2.158 3.320 4.690
LSS DLG DPR CMG HHS TLG HTL DRH NBB ABT GAS TMP SAM DTL DRC VFG SVC DSN VSH VMD DAG VNS PXS GSP ASM IJC BFC
0.015 0.381 0.012 0.420 0.046 0.285 0.095 0.370 0.164 0.458 0.145 0.398 0.306 0.521 0.044 0.470 0.011 0.267 0.118 0.317 0.156 0.337 0.129 0.391 0.015 0.308 -0.026 0.422 0.132 0.237 0.107 0.524 0.045 0.401 0.357 0.207 0.050 0.222 0.004 0.409 0.043 0.461 0.118 0.392 0.062 0.424 0.100 0.267 0.022 0.385 0.017 0.365 0.102 0.394
0.559 0.648 0.517 1.220 0.642 2.125 2.710 1.269 0.642 1.184 1.317 1.514 0.668 0.628 1.598 0.768 0.956 3.419 1.055 0.204 0.795 1.064 0.631 0.824 1.182 0.523 0.975
3.195 4.222 3.524 2.097 3.380 2.560 1.488 1.184 3.565 1.766 6.341 2.801 3.570 3.183 3.448 2.562 2.429 0.682 3.922 4.152 2.251 3.326 2.870 1.898 3.666 4.295 3.534
0.301 0.474 0.092 0.008 0.026 0.188 0.000 0.132 0.311 0.231 0.107 0.272 0.237 0.431 0.330 0.000 0.045 0.000 0.401 0.164 0.308 0.322 0.236 0.140 0.253 0.254 0.483
212
2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016
158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184
0 0 0 0 1 1 1 1 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
STB HCM BVH HAG VNM VIC VHC TRA SSI SSC SHI REE PVD PGD PDR PAN PAC NSC KHP HQC HPG HBC FPT FCN EVE DQC DPM
0.138 0.084 0.016 -0.028 0.319 0.019 0.127 0.166 0.066 0.090 0.048 0.103 0.008 0.078 0.027 0.089 0.072 0.129 0.038 0.003 0.199 0.050 0.086 0.053 0.080 0.128 0.122
0.329 0.852 0.331 1.732 2.417 0.321 2.584 2.357 0.408 1.363 0.994 0.214 1.117 0.353 0.274 0.372 0.565 1.646 0.735 0.380 2.511 0.659 0.261 0.511 0.624 0.345 0.195
0.725 1.233 0.002 0.586 6.262 0.792 1.510 2.870 1.090 1.494 0.740 0.803 0.578 1.311 0.654 1.295 1.256 1.039 0.606 0.247 1.290 0.529 1.011 0.541 0.956 1.275 0.916
0.529 0.276 0.002 0.505 0.056 0.220 0.311 0.011 0.364 0.026 0.502 0.131 0.235 0.062 0.360 0.130 0.350 0.088 0.353 0.104 0.194 0.275 0.333 0.276 0.053 0.030 0.000
4.090 3.588 6.593 6.268 5.683 7.498 3.796 2.623 4.885 1.380 3.061 4.736 5.444 3.341 4.500 3.627 2.824 2.699 2.848 4.228 5.806 4.741 5.698 3.506 2.411 2.766 4.561
1.833 0.154 0.353 0.432 -0.244 0.448 0.098 0.006 0.210 0.430 0.036 0.285 0.081 0.421 3.022 6.055 0.019 29.484 0.868 0.005 0.357 1.697 0.107 0.580 1.453 0.000 0.326 1.244 0.022 0.380 0.942 0.047 0.309 1.050 0.109 0.654 0.482 0.046 0.400 0.899 0.052 2.032 0.691 0.119 0.361 1.557 0.056 1.286 1.102 0.077 0.430 0.642 0.001 0.909 0.954 0.046 0.241 0.453 0.039 0.978 1.101 0.069 0.920 1.118 0.048 1.467 1.183 0.081 0.897 0.806 0.033 0.364 2.221 0.263 0.378 1.046 0.070 1.291 0.766 0.043 1.103
2.896 2.810 7.757 3.937 4.583 2.809 3.468 2.135 1.242 2.394 2.602 3.085 2.952 4.662 4.019 2.480 3.519 5.112 2.641 3.332 4.769 4.421 2.451 2.569 1.293 3.043 4.256
0.378 0.000 0.030 0.000 0.046 8.138 0.046 0.137 0.000 0.556 0.611 0.287 0.181 0.397 0.123 0.294 0.479 0.525 0.464 0.204 0.437 0.555 0.122 0.089 0.059 0.521 0.552
PTB AGR ACB BMI BHN NVL GTN DCL IVS DAT HTI CAV PXS PPC DXG TAC CSM HVG SBA TDH HT1 LGC ELC AMD GDT RAL POM
213
2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016
185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211
1 1 1 0 1 0 1 0 0 0 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
DMC DHG CTD BID BMP BSI CNG CTG MBB BCI SPM HNG KDC SBT TSC BHS C32 DCM DGW DIG GMD HOT KHA LHG NAF NT2 SHP
0.156 0.181 0.121 0.006 0.217 0.080 0.185 0.007 0.011 0.010 0.007 -0.029 0.134 0.043 0.001 0.049 0.169 0.048 0.051 0.011 0.044 0.072 0.096 0.108 0.097 0.084 0.037
0.485 0.327 0.412 0.305 0.282 0.362 0.312 2.136 2.296 0.190 0.867 1.795 0.365 0.522 0.512 0.337 0.460 0.171 0.462 0.348 0.483 0.825 1.561 1.855 1.609 1.609 0.406
2.162 2.255 1.197 0.183 3.041 0.828 0.509 0.136 0.155 0.759 0.296 0.681 1.054 1.254 0.200 0.822 1.069 0.871 0.640 0.608 0.727 1.689 1.283 0.357 1.748 0.965 1.219
0.000 0.090 0.000 0.135 0.037 0.173 0.073 0.076 0.061 0.115 0.096 0.547 0.208 0.568 0.035 0.529 0.113 0.455 0.262 0.296 0.248 0.056 0.012 0.047 0.234 0.365 0.514
2.383 3.675 4.766 9.217 3.364 2.671 1.872 9.158 7.849 3.423 2.492 5.871 4.483 4.225 3.146 4.090 1.710 4.865 2.570 4.073 4.617 0.385 1.542 2.726 1.825 4.866 3.276
0.102 0.301 0.088 3.302 0.057 0.694 0.002 0.991 0.108 0.707 -0.132 0.503 0.057 2.129 0.009 1.769 0.004 0.309 0.024 0.352 0.003 3.626 0.078 0.446 0.048 1.230 0.202 1.506 0.108 2.400 0.033 0.464 0.021 0.900 0.047 0.329 0.071 0.320 0.067 0.485 0.098 0.221 0.041 0.788 0.042 1.118 0.041 0.406 0.143 0.392 0.126 0.372 0.084 0.326
1.338 1.399 5.798 0.120 1.321 0.294 0.804 0.199 0.124 0.362 0.163 1.382 0.962 2.454 0.790 0.558 0.368 0.509 0.613 0.781 1.023 0.681 0.666 0.289 1.285 2.176 1.555
2.047 2.447 4.407 7.161 3.838 4.098 2.985 8.972 7.758 3.760 4.342 2.343 2.733 2.055 1.739 3.203 2.989 3.540 3.089 3.813 4.619 1.974 2.656 2.621 2.057 6.341 2.564
0.067 0.000 0.016 0.034 0.000 0.229 0.411 0.037 0.102 0.000 0.112 0.000 0.587 0.092 0.010 0.223 0.159 0.079 0.160 0.246 0.352 0.414 0.336 0.008 0.398 0.133 0.153
OPC IMP ROS EIB TCH OGC PGC VCB SHB PGI VMD BBC FMC LIX ITD LSS SC5 DPR CMG PC1 CII DAH HDC D2D CLC GAS TMP
214
2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016
212 213 214 215 216 217 218 219 220 221 222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
SKG SMC STK SVI TCM TTF CHP DBT HDO NTP PGS PVS TIG VCS PVT PNJ TCO TIP TBC NLG SRF GMC QBS KDH VNE LBM NKG
0.298 0.079 0.014 0.100 0.041 -0.361 0.084 0.045 -0.123 0.110 0.152 0.036 0.047 0.203 0.053 0.126 0.113 0.123 0.125 0.062 0.072 0.007 0.006 0.051 0.004 0.204 0.081
4.342 0.887 2.267 0.484 1.005 0.717 0.137 0.515 0.636 0.349 0.318 0.390 0.412 0.475 0.354 0.320 0.469 0.354 0.341 0.198 0.401 0.333 0.494 0.480 0.446 2.271 0.455
3.558 0.718 1.041 1.041 0.708 0.953 1.261 0.599 0.441 2.027 0.496 0.349 0.294 2.685 0.687 2.242 0.768 0.909 1.804 0.598 0.842 0.083 0.664 0.828 0.544 1.134 1.102
1.967 3.840 3.008 2.015 3.339 3.579 3.429 1.671 1.050 3.532 3.113 5.543 2.247 3.508 4.508 3.580 0.903 1.626 2.175 4.129 2.592 4.481 3.107 4.374 2.729 0.918 4.157
0.000 STG 0.583 DTL 0.515 GDT 0.281 VFG 0.456 SVC 0.736 VNG 0.416 VSH 0.371 JVC 0.327 HAS 0.342 ITA 0.143 PLC 0.062 GSP 0.014 NTL 0.377 DVP 0.327 PJT 0.420 MWG 0.000 MHC TV1 0.018 SJD 0.000 FLC 0.113 LCG 0.340 TMT 0.039 RDP 0.518 KBC 0.239 THG 0.109 MCP 0.000 KSB 0.650
0.049 1.198 0.064 0.379 0.263 0.378 0.098 0.325 0.052 0.444 0.014 3.489 0.042 0.213 -0.043 1.166 0.052 1.792 0.003 0.390 0.061 0.238 0.094 0.312 0.055 0.313 0.268 0.282 0.114 0.555 0.106 1.412 0.116 0.471 0.019 0.382 0.101 0.209 0.057 0.464 0.027 1.164 0.024 0.743 0.049 0.423 0.049 0.738 0.125 1.925 0.071 0.748 0.211 0.436
0.777 1.107 2.221 1.010 0.754 0.749 1.020 0.602 0.494 0.406 1.046 0.679 0.435 2.749 0.813 1.939 0.423 0.787 1.021 0.387 0.237 0.867 1.074 0.580 1.165 1.205 1.569
3.131 3.214 1.293 2.709 3.508 1.426 4.113 1.991 0.990 4.861 3.518 1.596 2.622 2.370 1.025 5.001 1.639 2.981 2.647 5.188 3.263 3.007 2.377 4.988 1.937 1.125 2.276
0.292 0.391 0.059 0.085 0.395 0.327 0.497 0.049 0.247 0.116 0.385 0.016 0.018 0.057 0.313 0.322 0.023 0.573 0.190 0.202 0.120 0.606 0.482 0.134 0.203 0.193 0.000
215
239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256
2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016 2016
1 1 1 1 1 1 1 1 1 0 1 1 1 1 0 0 1 1
TIE HU1 ADS BCG SAB MSN TLG ALT AMC BVS HUT L44 NAG PMC SHS VDS VTV VXB
0.019 0.005 0.028 0.014 0.243 0.052 0.173 0.026 0.150 0.055 0.043 -0.081 0.034 0.249 0.026 0.031 0.035 0.032
0.916 0.568 0.375 0.463 0.124 0.282 2.829 0.096 0.342 0.279 0.350 0.544 0.443 0.357 0.317 0.303 0.353 0.199
0.345 0.449 0.876 0.196 6.669 1.244 2.934 0.333 1.182 0.724 0.705 0.434 0.562 2.165 0.568 0.689 0.808 0.585
1.106 1.878 2.538 3.800 5.257 6.594 2.628 0.809 -0.170 2.921 4.535 1.186 1.229 1.089 3.501 2.768 2.801 0.662
0.000 0.380 0.599 0.073 0.063 0.563 0.139 0.016 0.135 0.086 0.491 0.410 0.349 0.000 0.429 0.316 0.435 0.395
CMT HU3 SFC ST8 VCF ANV VSC PIT CDO FIT BCI PXI HID DHT TVS CTS VTO BGM
0.022 0.447 0.026 0.574 0.083 0.770 0.158 1.361 0.121 1.481 0.004 0.551 0.109 0.324 0.011 0.696 0.048 0.464 0.033 0.411 0.010 0.190 -0.012 1.142 0.068 0.478 0.111 0.470 0.049 0.343 0.059 0.269 0.042 0.355 0.014 0.681
0.549 0.368 0.980 1.354 1.615 0.580 1.332 0.793 0.704 0.305 0.759 0.477 2.178 1.003 0.816 0.573 0.666 0.101
1.195 1.808 1.647 1.409 3.447 3.407 3.177 1.953 1.585 3.770 3.423 2.517 1.527 1.637 2.611 2.654 3.033 1.582
0.271 0.240 0.374 0.000 0.108 0.459 0.268 0.634 0.123 0.073 0.115 0.390 0.037 0.328 0.468 0.165 0.362 0.002
216
Phụ lục 4: Tóm tắt mô tả và phương pháp đo lường các biến sử dụng
cho nghiên cứu
Mô tả Biến
Trách nhiệm xã hội (CSR)
CSRjt
ΔCSRjt Biến trách nhiệm xã hội của công ty j trong giai đoạn t. Nó phụ thuộc vào số lượng các câu hỏi mà công ty công bố trong tổng số 23 câu hỏi thuộc 4 nhóm. Sự biến động trách nhiệm xã hội của công ty j trong giai đoạn t. Nó được tính bằng (CSR1 – CSRt-1)
Hiệu quả tài chính công ty (CFP) ROAjt
TBQjt
Suất sinh lợi/tổng tài sản của công ty trong giai đoạn t. Nó được tính bằng lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản. Giá trị thị trường tổng tài sản công ty của công ty thứ j trong giai đoạn t. Nó được tính bằng (nợ dài hạn + nợ ngắn hạn + vốn hóa thị trường)/giá trị sổ sách tổng tài sản.
Rủi ro công ty FRjt
Rủi ro công ty của công ty thứ j trong giai đoạn t. Nó được tính bằng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi ngày của 250 phiên trong năm nhân
∑
(ln
250 i=1
p1 p0
√250
) => σnăm = σngày × √250
n
σngày = √
Kiểm soát Sizejt
Levjt
Indusjt
Quy mô công ty của công ty thứ j trong giai đoạn t. nó được tính bằng Ln (tổng tài sản tính bằng trăm tỷ VND). Đòn bẩy tài chính của công ty thứ j trong giai đoạn t. Nó được tính bằng tỷ lệ nợ/tổng tài sản Ngành công nghiệp của công ty thứ j trong giai đoạn t (=0 nếu công ty thuộc ngành tài chính – bất động sản, ngược lại = 1) Sai số ngẫu nhiên của công ty thứ j trong giai đoạn t. εij
(Nguồn: tác giả tự tổng hợp)
217
Phụ lục 5: Kết quả chạy hồi quy trên Stata
. reg roa totalcsr size lev indus
SS
Source Model
.593059372 Residual 1.40011452 Total 1.99317389
df 4 251 255
MS .148264843 .005578145 .007816368
Number of obs F( 4, 251) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 256 = 26.58 = 0.0000 = 0.2975 = 0.2864 = .07469
[95% Conf. Interval]
roa totalcsr size lev indus cons
Coef. .0678135 .0077497 -.1946255 .0318484 -.1130539
Std. Err. .0348959 .0033191 .0233905 .0151931 .0992091
t 1.94 2.33 -8.32 2.10 -1.14
P>|t| 0.053 0.020 0.000 0.037 0.256
-.0009127 .001213 -.2406922 .0019262 -.3084423
.1365397 .0142865 -.1485587 .0617707 .0823345
. xtreg roa totalcsr size lev indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
256 101 1 2.5 5 106.32 0.0000
R-sq: within = 0.0267 between = 0.3895 overall = 0.2975 corr(u_i, X) = 0 (assumed)
[95% Conf. Interval]
Coef. .0678135 .0077497 -.1946255 .0318484 -.1130539
Std. Err. .0348959 .0033191 .0233905 .0151931 .0992091
z 1.94 2.33 -8.32 2.10 -1.14
P>|z| 0.052 0.020 0.000 0.036 0.254
-.0009127 .001213 -.2406922 .0019262 -.3084423
.1365397 .0142865 -.1485587 .0617707 .0823345
0 .07446063
0 (fraction of variance due to u_i)
roa totalcsr size lev indus cons sigma_u sigma_e rho . xttest0
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) =
0.00 Prob > chibar2 = 1.0000
I. Mối quan hệ giữa CSR và CFP
218
. xtreg roa totalcsr size lev indus, fe
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0666 between = 0.2397 overall = 0.1990
corr(u_i, Xb) = -0.4985
F(4,151) = Prob > chi2 =
256 101 1 2.5 5 2.69 0.0332
t
[95% Conf. Interval] 784404
Std. Err. -.0.0140243 .0113552 .0951615 .0871131 .3342677
-.0357868 -.451813 -.2264359 -.0217169
Coef. 0.765 -.0133512 -.2637931 -.0543179 6387288 .06787818 .07446063
.0467986 -1.18 -2.77 -0.62 1.91
P>|t| 0.30 0.242 0.006 0.534 0.058
.106489 .0090845 -.0757732 .1178001 1.299175
roa totalcsr size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
.45385368 (fraction of variance due to u_i) test that all u_i=0: F(100, 151) = 1.02 Prob > F = 0.4620
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 9.77
Prob>chi2 = 0.0444
. reg tbq totalcsr size lev indus
SS
Source Model Residual Total
df 4 251 255
MS 6.77168734 .652433104 .748421406
Number of obs F( 4, 251) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 256 = 10.38 = 0.0000 = 0.1419 = 0.1283 = .80773
27.0867493 163.760709 190.847459
[95% Conf. Interval]
tbq totalcsr size lev indus cons
Coef. 1.791476 .0749367 -.5703587 .3534258 -.3597854
t 4.86 2.14 -2.32 2.17 -1.20
P>|t| 0.000 0.033 0.021 0.031 0.231
1.065784 .006007 -1.054422 .0332649 -.9504044
2.517168 .1438664 -.0862951 .6735868 .2308335
Std. Err. .3684726 .0349993 .2457849 .1625628 .2998888 . xtreg tbq totalcsr size lev indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
R-sq: within = 0.0228 between = 0.0292 overall = 0.0412
avg = max =
256 101 1 2.5 5
219
corr(u_i, X) = 0 (assumed)
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
6.27 0.1796
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .2303523 .0463207 .224942 .2306373 .3237767
.0096668 -.0851985 -.1510868 -.1934412 -.1406403
z 2.00 0.12 1.29 1.12 1.53
P>|z| 0.045 0.904 0.198 0.262 0.127
.9126314 .0963755 .7306695 .7106402 1.128541
Coef. .4611491 .0055885 .2897913 .2585995 .4939503 .74712365 .36564731
.80676462 (fraction of variance due to u_i)
tbq totalcsr size lev indus cons sigma_u sigma_e rho . xttest0
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) = 143.64 Prob > chibar2 = 0.0000
. xtreg tbq totalcsr size lev indus, fe
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0541 between = 0.0297 overall = 0.0106
corr(u_i, Xb) = -0.3031
F(4,151) = Prob > chi2 =
256 101 1 2.5 5 2.16 0.0762
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .2399382 .0908671 .2513143 .428464 .5111354
P>|t| 0.141 0.313 0.008 0.772 0.023
Coef. .3550763 -.092027 .6759829 -.1242397 1.170645 .91981927 .36564731
t 1.48 -1.01 2.69 -0.29 2.29
-.1189934 -.271562 .1794364 -.9707984 .1607442
.8291459 .087508 1.172529 .722319 2.180546
tbq totalcsr size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
.86354085 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(100, 151) = 10.74 Prob > F = 0.0000
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 75.51 Prob>chi2 = 0.0000
II. Mối quan hệ giữa các khía cạnh CSR và CFP
. reg roa csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus
220
SS
.641858949 1.35131494 1.99317389
Source Model Residual Total
df 7 248 255
MS .091694136 .005448851 .007816368
Number of obs F( 4, 251) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 256 = 16.83 = 0.0000 = 0.3220 = 0.3029 = .07382
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .0256667
roa csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus cons
Coef. 0587786 -.054724 .0327495 .0282683 -.0108512 .0213248 .0390257 .003401 .0075909 .0235737 -.1841161 .0151985 .0285423 .1018753 -.072644
t 2.29 -1.67 -0.38 1.83 2.23 -7.81 1.88 -0.71
P>|t| 0.023 0.906 0.701 0.068 0.027 0.000 0.062 0.476
.0082261 -.1192265 -.0665278 -.002975 .0008924 -.2305463 -.0013924 -.2732952
.1093311 .0097786 .0448253 .0810264 .0142893 -.137686 .0584769 .1280072
. xtreg roa csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0299 between = 0.4191 overall = 0.3220 corr(u_i, X) = 0 (assumed)
256 101 1 2.5 5 117.80 0.0000
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .0256667
.0082261 -.1192265 -.0665278 -.002975 .0008924 -.2305463 -.0013924 -.2732952
Coef. 0587786 -.054724 .0327495 .0282683 -.0108512 .0213248 .0390257 .003401 .0075909 .0235737 -.1841161 .0151985 .0285423 .1018753 -.072644 0 .07496648
P>|z| 0.023 0.906 0.701 0.068 0.027 0.000 0.062 0.476
z 2.29 -1.67 -0.38 1.83 2.23 -7.81 1.88 -0.71
.1093311 .0097786 .0448253 .0810264 .0142893 -.137686 .0584769 .1280072
roa csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus cons sigma_u sigma_e 0 (fraction of variance due to u_i) rho . xttest0 Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) =
0.00 Prob > chibar2 = 1.0000
221
. xtreg roa csr_env csr_empl csr_commu csr_prod size lev indus, fe
256 101
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0727 between = 0.2512 overall = 0.2102
corr(u_i, Xb) = -0.5032
F(4,151) = Prob > chi2 =
1 2.5 5 1.66 0.1240
Coef.
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .042255 .048047 .0429887 .0300309 .0115392 .0970434 .0878986 .3393788
P>|t| 0.494 0.398 0.905 0.792 0.249 0.007 0.498 0.054
-.0545212 -.1357039 -.0797965 -.0514302 -.0361479 -.4562194 -.233435 -.0102676
0289798 -.0407572 .0051545 .0079145 -.013345 -.2644499 -.0597366 .6603864 .06745493 .07496648
t 0.69 -0.85 0.12 0.26 -1.16 -2.73 -0.68 1.95
.1124809 .0541896 .0901054 .0672593 .0094578 -.0726803 .1139618 1.331041
roa csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
.44740459 (fraction of variance due to u_i) F test that all u_i=0: F(100, 148) = 0.92 Prob > F = 0.6610
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 10.43 Prob>chi2 = 0.1653
. reg tbq csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev Indus
SS
36.9752946 153.872164 190.847459
Source Model Residual Total
df 7 248 255
MS 5.28218495 .620452274 .748421406
Number of obs F( 4, 251) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 256 = 8.51 = 0.0000 = 0.1937 = 0.1710 = .78769
222
[95% Conf. Interval]
tbq csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus cons
Coef. 1.081792 -.3331228 -.1871974 .7252227 .0867724 -.538482 .280935 .168034
Std. Err. .2721601 .349025 .3027308 .2248748 .0355402 .2416563 .1605175 .3332534
t 3.97 -0.95 -0.62 3.23 2.44 -2.23 1.75 0.50
P>|t| 0.000 0.341 0.537 0.001 0.015 0.027 0.081 0.615
.5457521 -1.020554 -.7834487 .2823148 .0167733 -1.014442 -.0352163 -.4883338
1.617832 .3543083 .4090539 1.168131 .1567714 -.0625216 .5970863 .8244019
. xtreg tbq csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
256 101 1 2.5 5 8.17 0.3183
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
[95% Conf. Interval]
R-sq: within = 0.0226 between = 0.0623 overall = 0.0841 corr(u_i, X) = 0 (assumed) Std. Err. .1983137 .2337141 .2091965 .1467581 .0465902 .227237 .2316059 .3453047
Coef. .2577799 -.1361836 .1060434 .1783351 .0037788 .2598454 .2440726 .6175579 .73924093 .36841111
z 1.30 -0.58 0.51 1.22 0.08 1.14 1.05 1.79
-.1309077 -.5942549 -.3039741 -.1093056 -.0875363 -.185531 -.2098666 -.0592269
.6464676 .3218877 .5160609 .4659758 .0950939 .7052218 .6980119 1.294343
P>|z| 0.194 0.560 0.612 0.224 0.935 0.253 0.292 0.074
.80104666 (fraction of variance due to u_i)
tbq csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
. xttest0
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) = 112.87 Prob > chibar2 = 0.0000
. xtreg tbq csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus, fe
256 101
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0588 between = 0.0303 overall = 0.0098
corr(u_i, Xb) = -0.2983
F(4,151) = Prob > chi2 =
1 2.5 5 1.32 0.2437
223
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .2090332 .238298 .2126219 .147416 .092547 .2558401 .4333461 .5359533
P>|t| 0.616 0.925 0.333 0.574 0.305 0.009 0.766 0.028
-.3079418 -.4933392 -.2134904 -.2081744 -.2781759 .1687334 -.9854895 .1327325
Coef. .1051335 -.0224332 .2066766 .0831377 -.0952917 .6743048 -.1291446 1.191842 .91931257 .36841111
t 0.50 -0.09 0.97 0.56 -1.03 2.64 -0.30 2.22
.5182088 .4484729 .6268437 .3744498 .0875924 1.179876 .7272004 2.250951
tbq csr_env csr_empl csr_com csr_prod size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
.86162508 (fraction of variance due to u_i) F test that all u_i=0: F(100, 148) = 9.86 Prob > F = 0.0000
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 30.29 Prob>chi2 = 0.0001
III. Mối quan hệ giữa CSRt-1 và CFP
. reg roa totalcsrt-1 size lev indus
SS
.499008972 .9203879 1.41939687
Source Model Residual Total
df 4 151 155
MS .124752243 .006095284 .009157399
Number of obs F( 4, 151) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 156 = 20.47 = 0.0000 = 0.3516 = 0.3344 = .07807
[95% Conf. Interval]
Coef. 0545289 .014222 -.2394848 .0380831 -.2747799
Std. Err. .0457316 .0047723 .031406 .0186357 .1413698
t 1.19 2.98 -7.63 2.04 -1.94
P>|t| 0.235 0.003 0.000 0.043 0.054
-.0358275 .0047929 -.3015367 .0012627 -.5540981
.1448853 .0236511 -.1774329 .0749036 .0045384
roa Totalcsrt-1 size lev indus cons . xtreg roa totalcsrt-1 size lev indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0539 between = 0.4985 overall = 0.3516 corr(u_i, X) = 0 (assumed)
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
156 70 1 2.2 4 81.87 0.0000
224
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .0457316 .0047723 .031406 .0186357 .1413698
z 1.19 2.98 -7.63 2.04 -1.94
P>|z| 0.235 0.003 0.000 0.043 0.054
-.0358275 .0047929 -.3015367 .0012627 -.5540981
.1448853 .0236511 -.1774329 .0749036 .0045384
Coef. 0545289 .014222 -.2394848 .0380831 -.2747799 0 .07931726
0 (fraction of variance due to u_i)
roa Totalcsrt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho . xttest0
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) =
0.00 Prob > chibar2 = 1.0000
. xtreg roa totalcsrt-1 size lev indus, fe
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.1162 between = 0.3566 overall = 0.2621
corr(u_i, Xb) = -0.6848
F(4,82) = Prob > chi2 =
156 70 1 2.2 4 2.70 0.0363
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .0722775 .0195236 .1346885 .0520598 .5660211
P>|t| 0.646 0.540 0.005 0.583 0.265
t 0.46 -0.62 -2.91 -0.55 1.12
-.1104422 -.0508589 -.6594253 -.1322586 -.4907243
.1771238 .0268186 -.1235487 .0748686 1.761268
roa Totalcsrt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
Coef. .0333408 -.0120201 -.391487 -.028695 .6352718 .07970372 .07931726 .50243023 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(69, 82) = 0.93 Prob > F = 0.6170
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 6.61
Prob>chi2 = 0.1579
. predict r, rstudent
. reg roa csr_totalt1 size lev Indus
225
SS
.253122616 .526068743 .779191359
df 4 149 153
Source Model Residual Total
MS .063280654 .003530663 .005092754
Number of obs F( 4, 149) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 154 = 17.92 = 0.0003 = 0.3249 = 0.3067 = .05942
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .0344662 .0010776 .022456
Coef. .1386621 .0006967 -.1141618 .0339779 .01252 .0041914
.0239186
t 4.02 0.65 -5.08 2.71 0.18
P>|t| 0.000 0.519 0.000 0.007 0.861
.0705565 -.0014327 -.1585352 .0092382 -.0430721
.2067676 .0028261 -.0697884 .0587177 .0514549
tbq Totalcsrt-1 size lev indus cons . reg tbq csr_totalt-1 size lev Indus
SS
15.5715178 103.476714 119.048231
df 4 151 155
Source Model Residual Total
MS 3.89287946 .685276249 .768053106
Number of obs F( 4, 151) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 156 = 5.68 = 0.0003 = 0.1308 = 0.1078 = .82781
Coef.
[95% Conf. Interval]
Std. Err. 1.685087 .4759321 .0037408 .0148662 .3050729 -.3830839 .1738957 .3026722 .3319205 .0502558
t 3.54 0.25 -1.26 1.74 0.15
P>|t| 0.001 0.802 0.211 0.084 0.880
.7447408 -.0256318 -.9858466 -.0409107 -.6055524
2.625433 .0331134 .2196788 .6462552 .706064
tbq Totalcsrt-1 size lev indus cons . xtreg tbq csr_totalt-1 size lev indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0545 between = 0.0009 overall = 0.0004 corr(u_i, X) = 0 (assumed)
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
156 70 1 2.2 4 2.60 0.6260
Coef.
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .3296294 -.1797198 .0083725 -.0054866 .1470418 .2541077 .1840706 .178396 1.023302 .2625302
z -0.55 -0.66 0.58 1.03 3.90
P>|z| 0.586 0.512 0.563 0.302 0.000
-.8257815 -.0218965 -.3510001 -.165579 .5087522
.4663419 .0109232 .6450837 .5337203 1.537852
.6024691 .35395698 .74340118 (fraction of variance due to u_i)
tbq Totalcsrt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho . xttest0
226
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) = 135.18 Prob > chibar2 = 0.0000
. xtreg tbq csr_totalt-1 size lev indus, fe
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.1215 between = 0.2129 overall = 0.1104
corr(u_i, Xb) = -0.5125
F(4,82) = Prob > chi2 =
156 70 1 2.2 4 2.83 0.0296
[95% Conf. Interval]
Coef.
1.385633 -.0244454 -.0775246 -.5823558 .9513777
.0495763 .0081976 1.050472 .3749684 2.084889
t 2.14 -0.99 1.72 -0.43 5.33
P>|t| 0.036 0.325 0.090 0.668 0.000
tbq Totalcsrt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
Std. Err. .3358078 .7176049 .0082046 -.0081239 .2835132 .4864735 .2406161 -.1036937 .2848994 1.518133 .81687753 .35395698 .84192583 (fraction of variance due to u_i) F test that all u_i=0: F(69, 82) = 10.78 Prob > F = 0.0000
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 1019.08
Prob>chi2 = 0.0000
IV. Mối quan hệ giữa các khía cạnh CSRt-1 và CFP
. reg roa csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus
SS
.376304794 1.09161587 1.46792067
Source Model Residual Total
df 7 148 155
Number of obs F( 4, 148) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 156 = 7.29 = 0.0000 = 0.2564 = 0.2212 = .08588
MS .053757828 .007375783 .009470456
227
[95% Conf. Interval]
Coef.
Std. Err. .066654 .03695 .0455769 -.0581227 .0399896 .0045706 .0317501 .0337087 .0016744 .0021671 .0319229 -.1595979 .0333682 .0188127 .0697273 .0410952
P>|t| 0.073 0.204 0.909 0.290 0.198 0.000 0.078 0.092
t 1.80 -1.28 0.11 1.06 1.29 -5.00 1.77 1.70
-.0063637 -.1481882 -.0744538 -.0290334 -.0011417 -.2226815 -.0038081 -.0114819
.1396718 .031942 .083595 .0964509 .005476 -.0965143 .0705444 .1509364
roa csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons . xtreg roa csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev Indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
156 70 1 2.1 4 51.02 0.0000
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
Coef.
[95% Conf. Interval]
R-sq: within = 0.0151 between = 0.4009 overall = 0.2564 corr(u_i, X) = 0 (assumed) Std. Err. .03695 .066654 .0455769 -.0581227 .0045706 .0399896 .0337087 .0317501 .0016744 .0021671 -.1595979 .0319229 .0333682 .0188127 .0697273 .0410952
P>|z| 0.071 0.202 0.909 0.288 0.196 0.000 0.076 0.090
z 1.80 -1.28 0.11 1.06 1.29 -5.00 1.77 1.70
0 .07909034
-.0057667 -.1474518 -.0738076 -.0285204 -.0011147 -.2221656 -.0035041 -.0108178
.1390748 .0312064 .0829488 .0959379 .0054489 -.0970301 .0702405 .1502724
0 (fraction of variance due to u_i)
roa csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho . xttest0
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) =
0.00 Prob > chibar2 = 1.0000 . xtreg roa csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev Indus, fe
156 70
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0832 between = 0.0223 overall = 0.0228
corr(u_i, Xb) = -0.2862
F(4,151) = Prob > chi2 =
1 2.2 4 1.02 0.4209
228
[95% Conf. Interval]
Coef.
-.184344 -.1636404 -.1169364 -.1209421 -.0025115 -.2706952 -.1445823 .0253313
.0509768 .1189739 .1892866 .0648991 .0055572 -.0163538 .0716866 .308547
Std. Err. .0591125 .0709925 .076923 .0466832 .0020268 .0638904 .0543266 .0711436
t -1.13 -0.31 0.47 -0.60 0.75 -2.25 -0.67 2.35
P>|t| 0.263 0.754 0.639 0.550 0.455 0.027 0.504 0.021
roa csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
-.0666836 -.0223332 .0361751 -.0280215 .0015229 -.1435245 -.0364479 .1669392 .07700929 .07909034 .48667082 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(69, 79) = 1.38 Prob > F = 0.0811
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 17.74 Prob>chi2 = 0.0132
. predict r, rstudent
SS
.235026405 .439799064 .674825469
Source Model Residual Total
df 6 145 151
MS .039171068 .003033097 .004469043
Number of obs F( 4, 148) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 152 = 12.91 = 0.0000 = 0.3483 = 0.3213 = .05507
Coef.
[95% Conf. Interval]
Std. Err. .088271 .0236806 -.0246743 .0294939 .0250544 .0032355 .0506677 .0201021 .0010614 .0004823 .0223446 -.1084802 .031063 .0128652 .029676 .028225
P>|t| 0.000 0.404 0.897 0.013 0.650 0.000 0.017 0.295
t 3.73 -0.84 0.13 2.52 0.45 -4.85 2.41 1.05
.0414673 -.0829679 -.0462834 .0109367 -.0016156 -.1526408 .0056369 -.0261063
.1350747 .0336193 .0527544 .0903988 .0025802 -.0643197 .0564891 .0854583
tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons . reg tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus
SS
22.815633 96.2325984 119.048231
Source Model Residual Total
df 7 148 155
MS 3.25937614 .650220259 .768053106
Number of obs F( 4, 148) Prob > F R-squared Adj R-squared Root MSE
= 156 = 5.01 = 0.0000 = 0.1917 = 0.1534 = .80636
229
[95% Conf. Interval]
Coef.
Std. Err. .3469293 1.15974 .4279283 -.4424418 .3754684 -.1318652 .2981068 .6644098 .0157214 .0010848 .299729 -.270884 .1766356 .1966037 .3858488 .6011673
P>|t| 0.001 0.303 0.726 0.027 0.945 0.368 0.267 0.121
t 3.34 -1.03 -0.35 2.23 0.07 -0.90 1.11 1.56
.4741649 -1.288081 -.8738367 .0753143 -.0299826 -.8631851 -.15245 -.1613172
1.845314 .403197 .6101063 1.253505 .0321522 .3214172 .5456574 1.363652
tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons . xtreg tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev Indus, re
Random-effects GLS regression Group variable: ctyGroup variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.0651 between = 0.0172 overall = 0.0466 corr(u_i, X) = 0 (assumed)
156 70 1 2.1 4 6.75 0.4550
Wald chi2(4) = Prob > chi2 =
[95% Conf. Interval]
Coef.
P>|z| 0.555 0.184 0.241 0.338 0.404 0.541 0.377 0.000
z Std. Err. 0.59 .2491368 -1.33 .3051497 -1.17 .3034373 0.96 .2019555 -0.84 .0092069 0.61 .2543216 .1794003 0.88 .2985685 4.31
-.3411426 -1.003867 -.950202 -.2024116 -.0257353 -.3431034 -.1930903 .7012669
.6354558 .1922976 .2392503 .5892394 .010355 .6538191 .5101461 1.871634
.1471566 -.4057848 -.3554758 .1934139 -.0076902 .1553579 .1585279 1.28645 .60709245 .3560916 .74402331 (fraction of variance due to u_i)
tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho . xttest0
Breusch and Pagan Lagrangian multiplier test for random effects
Test: Var(u) = 0
chibar2 (01) = 115.34 Prob > chibar2 = 0.0000 . xtreg tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev Indus, fe
156 70
Fixed-effects (within) regression Group variable: cty
Number of obs = Number of groups =
Obs per group: min =
avg = max =
R-sq: within = 0.1434 between = 0.1668 overall = 0.0669
corr(u_i, Xb) = -0.4510
F(4,151) = Prob > chi2 =
1 2.2 4 1.89 0.0824
230
Coef.
[95% Conf. Interval]
t -1.03 -1.30 -0.98 0.43 -1.31 1.61 -0.46 5.36
P>|t| 0.306 0.198 0.331 0.668 0.192 0.111 0.644 0.000
-.8038391 -1.050862 -1.028063 -.3280058 -.0301602 -.1084261 -.6003281 1.078972
.2556556 .221564 .3506569 .5087146 .0061676 1.036706 .3733879 2.354106
tbq csr_envt-1 csr_emplt-1 csr_comt-1 csr_prodt-1 size lev indus cons sigma_u sigma_e rho
Std. Err. .2661445 -.2740917 .3196326 -.4146488 .3463337 -.3387031 .2101837 .0903544 .0091255 -.0119963 .2876564 .4641397 .2445969 -.1134701 .3203129 1.716539 .81227039 .35609164 .83879512 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(69, 79) = 9.85 Prob > F = 0.0000
. hausman fe re
Test: Ho: difference in coefficients not systematic
chi2(4) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 200.49 Prob>chi2 = 0.0000