Luận án Tiến sĩ Luật học: Trách nhiệm của chính phủ truớc quốc hội theo pháp luật Việt Nam
lượt xem 6
download
Luận án tìm hiểu những vấn đề lý luận về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội; thực trạng trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam; quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Luật học: Trách nhiệm của chính phủ truớc quốc hội theo pháp luật Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ LAN TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ TRƢỚC QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 9 38 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Minh Mẫn HÀ NỘI - 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ các công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hoàng Thị Lan
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Thứ tự Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1. CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 2. CSVN Cộng sản Việt Nam 3. BMNN Bộ máy nhà nước 4. ĐBQH Đại biểu Quốc hội 5. HĐGS HĐGS 6. NNPQ Nhà nước pháp quyền 7. QLNN Quyền lực nhà nước 8. TCQH Tổ chức Quốc hội 9. TCCP Tổ chức Chính phủ 10. UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội 11. XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG....................... 9 VẤN ĐỀ ĐẶT RA LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................. 9 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................................... 9 1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài ................................................................................. 19 1.3. Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án và những vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu ....................................................................................... 23 1.4. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu .............................................................. 29 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................................... 31 CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM ............................... 32 CỦA CHÍNH PHỦ TRƢỚC QUỐC HỘI ....................................................................... 32 2.1. Chính phủ và các quan hệ trách nhiệm .......................................................................... 32 2.2. Tính tất yếu và vai trò trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam ........................................................................................................................... 50 2.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội..... 55 2.4. Nội dung, hình thức trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam 58 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................................... 66 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ TRƢỚC QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................................................................ 67 3.1. Quá trình hình thành và phát triển phát luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội ở Việt Nam .................................................................................................................. 67 3.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội............................. 76 3.3. Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội hiện nay .. 82 3.4. Đánh giá hệ thống pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội hiện nay .. 100 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................................. 111 CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ TRƢỚC QUỐC HỘI ....................................... 113 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội ...... 113 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội ....... 116 KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 .................................................................................................. 148 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 150 TÀI LIỆU THAM KHÁO ............................................................................................... 153
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội là một chế định được hình thành đồng thời với mô hình nhà nước dân chủ, trong đó có sự tồn tại của cơ quan hành pháp và lập pháp. Thông qua các nghiên cứu, các học giả trên thế giới đã làm rõ và cơ bản thống nhất cách hiểu, nội hàm nhiều vấn đề liên quan đến trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội như: Khái niệm, phạm vi, ý nghĩa, vai trò, mục đích, phương thức thực hiện... Điều này mang lại những giá trị trong xây dựng, đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của quốc hội, chính phủ. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như: lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển, thể chế chính trị, truyền thống pháp lý… mà nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội còn có cách hiểu không thống nhất. Trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội không chỉ khác nhau giữa các mô hình tổ chức QLNN, trong việc lựa chọn kỹ thuật để thể hiện mối tương quan giữa quốc hội với chính phủ mà còn có sự khác nhau về cách hiểu trong chính một quốc gia. Ví dụ hiện nay, khi đề cập đến pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội ở Việt Nam còn có nhiều quan điểm với các góc độ nghiên cứu khác nhau. Có quan điểm cho rằng, không có cơ chế bảo đảm để Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, có quan điểm phân tích trách nhiệm pháp lý đòi hỏi phải có hành vi vi phạm pháp luật, lỗi, năng lực chịu trách nhiệm pháp lý [81]; có ý kiến Chính phủ chỉ có trách nhiệm chính trị trước Quốc hội, có ý kiến trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội là trách nhiệm hiến pháp [87]. Bản thân câu trả lời Chính phủ chịu trách nhiệm gì trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam cũng còn nhiều bàn luận. Điều này thể hiện trước hết là do quy định pháp luật chưa đầy đủ, tiếp đến trong các nghiên cứu về vấn đề này cũng chưa được chú trọng. Đó chính là một trong những nguyên nhân cơ bản tưởng là tương đối rõ ràng về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội như trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm chủ động, trách nhiệm bị động… vẫn còn mới mẻ, do đó không tránh khỏi cách hiểu và diễn giải khác nhau. 1
- Nghiên cứu lịch sử hiến pháp Việt Nam cho thấy, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội phản ánh tính Nhân dân trong tổ chức QLNN. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ QLNN thông qua Quốc hội - cơ chế đại diện Nhân dân. Quốc hội thay mặt Nhân dân quyết định lựa chọn nhân sự của Chính phủ, giám sát tối cao hoạt động của Chính phủ và yêu cầu Chính phủ chịu trách nhiệm khi không thực hiện tốt nhiệm vụ, gây tác động tiêu cực đến sự phát triển quốc gia. Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trước hết thể hiện thông qua chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, được đánh giá thông qua cơ chế giám sát tối cao của Quốc hội như: xem xét các báo cáo công tác, đề án do Chính phủ trình, chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm, cách chức thành viên Chính phủ... Tại các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp UBTVQH hay nhiều diễn đàn hội nghị, hội thảo, các bộ trưởng, Phó Thủ tướng thậm chí Thủ tướng Chính phủ thường nhận trách nhiệm về kết quả hoạt động của Chính phủ. Ví dụ tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII, Thủ tướng Chính phủ phát biểu: “Tôi nhận trách nhiệm cá nhân về Vinashin”; Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, khi báo cáo, giải trình trước Quốc hội về các vấn đề liên quan đến giải ngân, phân bổ vốn đầu tư công, một Phó Thủ tướng Chính phủ phát biểu: “Dù nguyên nhân khách quan hay chủ quan, dù xảy ra ở đâu, bộ, ngành nào, địa phương nào thì chúng tôi cũng nhận thức đây thuộc trách nhiệm của Chính phủ và Chính phủ nhận trách nhiệm với Quốc hội để hứa sẽ làm tốt hơn trong thời gian tới”; nhiều bộ trưởng nhận trách nhiệm về tình trạng giáo dục, vệ sinh an toàn thực phẩm: Ví dụ: Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo nhận trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018, Bộ trưởng Bộ Nội vụ 5 lần nhận trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực quản lý (Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV). Đối với các vấn đề thuộc chức năng của Quốc hội như lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước đều thấy trách nhiệm của Chính phủ. Gần đây tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, nhiều ĐBQH đề nghị Chính phủ làm rõ trách nhiệm việc rút dự án Luật Đất đai khỏi chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021. 2
- Dưới góc nhìn từ Quốc hội, cụm từ “trách nhiệm” thường xuyên được ĐBQH sử dụng trong phát ngôn khi có các hoạt động tương tác với Chính phủ. Theo thống kê, tại phiên họp chất vấn các thành viên Chính phủ (sáng ngày 6/11/2019), có 13/37 ĐBQH đề nghị Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn làm rõ trách nhiệm tập thể của Bộ, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong lĩnh vực quản lý của Bộ. Trong buổi khai mạc phiên chất vấn tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV (sáng ngày 31/10/2018), cụm từ “trách nhiệm” xuất hiện 57 lần, con số tương ứng là 59 lần tại phiên chất vấn chiều ngày 31/10/2018 và 56 lần tại phiên chất vấn sáng ngày 01/11/2018. Như vậy, có thể nói, hoạt động nào của Quốc hội hay Chính phủ, dưới góc độ xuất phát từ phía Quốc hội hay Chính Phủ thì yêu cầu xác định/thừa nhận “trách nhiệm” của Chính phủ được đề cập như một “lời kết” để giải quyết các vấn đề thuộc quyền của Chính phủ, thậm chí thuộc chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Cơ chế nào để Chính phủ và thành viên Chính phủ nhận trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể Chính phủ; Quy trình nào được áp dụng để tập thể và cá nhân thành viên Chính phủ “chịu trách nhiệm” sau những tuyên bố đó? Giải quyết được những câu hỏi đó sẽ có hiệu quả, đóng góp gì với sự phát triển tổng thể của đất nước. Tất cả yếu tố đó tạo nên một hệ thống pháp luật “trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội” ra sao? Pháp luật đó có hợp lý, đáp ứng được yêu cầu quản lý để duy trì trật tự và phát triển đất nước? Các câu hỏi đó cần được nghiên cứu từ nguyên lý tổ chức QLNN, bối cảnh lịch sử dân tộc, các yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế đất nước để tìm lời giải. Góp phần hoàn thiện pháp luật “trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội” nhằm phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan, hướng tới mục đích phục sự Nhân dân, cần thiết nghiên cứu ở quy mô khác nhau trên cả bình diện lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Chủ đề của Luận án “Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam” được thiết kế với mong muốn góp phần giải mã một cách toàn diện và có hệ thống các nội dung trên. 3
- 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của Luận án Luận án có mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, đề xuất các quan điểm, giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ, bảo đảm các quy định trực tiếp và gián tiếp về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội được thực thi. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án Những kết quả đầu ra trên ràng buộc Luận án vào các nhiệm vụ cụ thể: Một là: Phân tích cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ như: bản chất và đặc điểm của Quốc hội, Chính phủ; tính phổ biến và đặc thù trong cơ chế trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Những yêu cầu xác định trách nhiệm của Chính phủ trong các lĩnh vực hoạt động của Quốc hội và trách nhiệm của Chính phủ với tư cách là một cơ quan chấp hành của Quốc hội; phân tích kinh nghiệm một số quốc gia về việc xác định trách nhiệm và thực tiễn trách nhiệm của cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp. Hai là: Khái quát quá trình hình thành và thực tiễn vận dụng lý luận, quy định về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội từ Hiến pháp năm 1946 đến nay (thông qua các bản Hiến pháp, các luật về tổ chức và hoạt động Quốc hội và Chính phủ); Đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội hiện nay. Từ đó, đánh giá ưu điểm, hạn chế của pháp luật và những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Ba là: Đề xuất và luận chứng quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu NCS tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội và Chính phủ, sự tác động qua lại giữa hai chủ thể để xác định mối quan hệ hai bên. Sự đáp ứng của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng với yêu cầu thực tế đặt ra. Trong đó, NCS nghiên cứu tổng quát quy 4
- định thẩm quyền của Quốc hội tác động đến Chính phủ và sự đáp ứng của Chính phủ trước yêu cầu của Quốc hội. Đồng thời, nghiên cứu lịch sử và kinh nghiệm việc xác định trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội từ năm 1945 đến nay. Trong đó tập trung vào quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật TCQH năm 2014 và Luật TCCP năm 2015. Luận án cũng đề cập đến những quan điểm lý luận và kinh nghiệm thực tiễn việc xác định trách nhiệm của cơ quan hành pháp trước cơ quan lập pháp một số nước trên thế giới, với mục đích góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội Việt Nam, lựa chọn những yếu tố hợp lý kiến nghị hoàn thiện về nhận thức và pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội và Chính phủ theo yêu cầu của Nhà nước XHCN Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận án nghiên cứu về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội dưới góc độ là một phương thức tổ chức QLNN. Do đó, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam được xác định là một loại trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý được quy định tại Hiến pháp và các văn bản pháp luật về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Cách phân tích, đánh giá thực trạng nội dung của Luận án được phân loại căn cứ vào chủ thể thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội theo chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và hệ quả pháp lý bất lợi Chính phủ phải gánh chịu trước Quốc hội. - Về thời gian: Luận án xác định phạm vi nghiên cứu gắn liền với quá trình hình thành và phát triển đất nước. Trong đó, tập trung vào giai đoạn từ năm 2013 đến nay, thời kỳ gắn liền với sự ra đời Hiến pháp năm 2013 và nhận thức về chủ trương tiếp tục đổi mới, phát triển nhà nước dân chủ. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án 4.1. Phƣơng pháp luận Luận án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin; quan điểm của Đảng CSVN và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền Nhân dân, tổ chức và thực hiện QLNN, về từng bước đổi mới tổ chức, hoạt động Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ theo yêu cầu xây 5
- dựng NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 4.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể Luận án được thực hiện bởi các phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp các công trình đã được công bố trong và ngoài nước để tạo phông kiến thức chung và giải quyết cơ sở lý luận về trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội. - Phương pháp xã hội học pháp luật để nghiên cứu trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội dưới phương diện chính trị, xã hội, từ đó phân tích yếu tố xã hội của Việt Nam đã ảnh hưởng đến trách nhiệm này. - Phương pháp lịch sử để nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển pháp luật trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Từ đó hiểu được bản chất, tư duy phát triển tự nhiên, tính chung và tính riêng trong cơ chế thực hiện trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ. - Phương pháp thống kế để thu thập số liệu, dẫn chứng nhằm phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội qua các thời kỳ, các nhiệm kỳ, các kỳ họp Quốc hội. - Phân tích định tính quy phạm và nghiên cứu trường hợp để đánh giá thực trạng điều chỉnh pháp luật cũng như các điều kiện bảo đảm thực thi trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. - Phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành: Với nhận thức mới về cách tiếp cận nghiên cứu về tổ chức QLNN dưới góc độ pháp luật, Luận án sử dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành, chú trọng cách tiếp cận pháp luật và chính trị học để nghiên cứu chuyên ngành luật hiến pháp, từ đó phân tích hiện tượng, quan điểm, quy định và thực tiễn trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội; đánh giá, kết luận và kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trong Nhà nước XHCN Việt Nam. Sự kết hợp nhiều phương pháp tiếp cận và nghiên cứu nhưng luôn tuân thủ phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử hướng tới việc bảo đảm tính hệ thống, tính logic trong bố cục của Luận án. 6
- 5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án Kế thừa và phát triển những kết quả nghiên cứu về Chính phủ và Quốc hội, cũng như mối liên hệ giữa hai cơ quan, trong đó có quan niệm Chính phủ là chủ thể chính, quan trọng trong các hoạt động của BMNN nói chung và của Quốc hội nói riêng. Trên cơ sở nhận diện đầy đủ, đúng đắn những nội dung cần tiếp tục làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận, thực tiễn về hoạt động của Chính phủ, Quốc hội, Luận án có những đóng góp mới tập trung vào các nội dung sau: Thứ nhất: Chỉ ra những nguyên lý cơ bản về trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội. Xây dựng khái niệm trách nhiệm, các yếu tố cấu thành và nội dung trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội. Từ đó đưa ra kết luận về tính tất yếu của việc đề cao trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trong Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Thứ hai: Với những hoạt động ít nhiều còn hình thức, ảnh hưởng đến hiệu quả chức năng của Quốc hội; các hạn chế trong công tác quản lý, điều hành của Chính phủ để thấy thực tế tính “chịu trách nhiệm” của Chính phủ đến đâu, tác động tiêu cực khi Chính phủ thiếu trách nhiệm trước Quốc hội đến kinh tế, xã hội đất nước. Từ đó, đặt ra vấn đề Chính phủ thực sự được (hoặc bị) chịu trách nhiệm trước Quốc hội hay không và yếu tố nào chi phối. Thứ ba: Phân tích nội dung, phương thức, các yếu tố tác động và tính tất yếu việc bảo đảm, nâng cao trách nhiệm của Chính phủ trong bối cảnh thực hiện dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, tôn trọng và quyền lợi Nhân dân. Thứ tư: Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội. Những giải pháp dựa trên quy định pháp luật và thực trạng pháp luật hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án Kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận: Luận án bổ sung cơ sở cho việc xây dựng hệ thống lý thuyết, cung cấp đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, cung cấp những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, 7
- qua đó giúp các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở khoa học để hoàn thiện cơ chế, pháp luật và các điều kiện bảo đảm để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội. Về mặt thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy với các học phần liên quan đến tổ chức QLNN, BMNN; là tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạt động tại Quốc hội, Chính phủ (đặc biệt là các ĐBQH), là tài liệu hữu ích có thể tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là trong lĩnh vực tổ chức, hoạt động của Chính phủ và Quốc hội. 7. Cấu trúc của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu có liên quan của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được kết cấu gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra liên quan đến đề tài Luận án. Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Chương 3: Thực trạng trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam. Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. 8
- CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 1.1.1. Các nghiên cứu về lý luận trách nhiệm của chính phủ trƣớc quốc hội Có thể nói, vị trí, vai trò, tính chất, tổ chức và hoạt động của quốc hội/nghị viện và chính phủ/nội các là vấn đề thu hút sự chú ý nhiều nhất của các nhà luật học và chính trị gia trên thế giới. Khi nghiên cứu về quốc hội và chính phủ, cần đặt hai chủ thể này trong tổng thể tổ chức, hoạt động của BMNN. Với các công trình nghiên cứu trong nước, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Chính phủ được các nhà khoa học, chuyên gia đề cập với tính chất là chủ thể chính, độc lập, nhưng cũng có nhiều công trình nghiên cứu về BMNN, hệ thống chính trị, ở đó Quốc hội và Chính phủ là bộ phận cấu thành. Khá nhiều bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành hoặc công bố tại các hội thảo khoa học luận bàn về vị trí, vai trò, tính chất, chức năng, thực trạng tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. Trước hết khái niệm trách nhiệm của Chính phủ được các công trình nghiên cứu đề cập với tính chất là những hậu quả bất lợi là cách tiếp cận dựa trên sự kiện cụ thể, mang tính trừng phạt hoặc gánh chịu hậu quả bất lợi khi Chính phủ (tập thể/cá nhân) vi phạm pháp luật hoặc không hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ. Đáng lưu ý, cách tiếp cận này chỉ cho thấy trách nhiệm của chủ thể là chính phủ trước pháp luật chứ không phải chịu trách nhiệm trước chủ thể khác là quốc hội. Có khá nhiều công trình được nghiên cứu theo cách tiếp cận này, trong đó có thể kể đến: “Nâng cao trách nhiệm chính trị của Chính phủ" của tác giả Võ Trí Hảo [81] khi phân tích về trách nhiệm chính trị của Chính phủ không chỉ dừng lại ở việc bỏ phiếu bất tín nhiệm cá nhân mà còn là chuyện nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Quan điểm này cũng được tác giả Bùi Ngọc Sơn đề cập trong tác phẩm “Trách nhiệm hiến pháp” [87]. Khi nói đến trách nhiệm của Chính phủ bao gồm trách nhiệm của tập thể, xảy ra khi Chính phủ bị Quốc hội bất tín nhiệm dẫn đến phê bình, giải tán Chính phủ. 9
- Các công trình nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Làm rõ cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam là chủ đề thu hút nhiều học giả Việt Nam. Các khảo cứu, tổng hợp các mô hình phương Tây, các nước XHCN trước đây, đồng thời phân tích bối cảnh Việt Nam, từ đó gợi mở xây dựng mô hình tổ chức của Quốc hội, Chính phủ cũng như thẩm quyền, vị trí, vai trò của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ [90]. Cách tiếp cận về lập trường bảo đảm quyền lực Nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật phổ biến trong các nghiên cứu, xây dựng cơ chế thực hiện QLNN[92]. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức QLNN ở Việt Nam; Các đặc điểm của Quốc hội với tính chất là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân và là cơ quan QLNN cao nhất [90], từ đó xác lập căn cứ xác định chức năng, thẩm quyền của Quốc hội trong BMNN. Các công trình nghiên cứu, các nội dung bàn luận về Quốc hội và Chính phủ thường bao hàm các luận điểm khoa học liên quan đến mối quan hệ giữa hai cơ quan, gồm mối quan hệ trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Có nhiều công trình đề cập từ cấp độ tổng quát giữa hai cơ quan thuộc hai nhánh quyền lực đến hoạt động cụ thể như nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, thẩm định dự án luật, các vấn đề quan trọng quốc gia do Chính phủ trình... Những công trình này, một cách gián tiếp đã thể hiện trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Mặc dù vậy, các công trình chủ yếu được thực hiện từ cách tiếp cận các hoạt động của Quốc hội, tức là Quốc hội có quyền gì đối với Chính phủ, từ đó hàm ý Chính phủ có bổn phận gì trước Quốc hội. Thuộc về hướng nghiên cứu này có các xuất bản và công trình tiêu biểu sau: “Hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của chính phủ và các thành viên chính phủ” của Bùi Xuân Đức [79]. Theo đó, chế độ trách nhiệm của chính phủ và các thành viên xuất phát từ nguyên lý ủy quyền. Hoạt động hành pháp không được vượt ra ngoài phạm vi ủy quyền và phải được sự tán thành của lập pháp mặc dù chúng có những khác biệt nhất định giữa các mô hình thể chế chính trị [79,tr. 30-32]. Đây cũng là quan điểm của nhóm tác giả Trần Ngọc Đường và Ngô Đăng Mạnh khi khẳng định: 10
- “Quốc hội là cơ quan QLNN cao nhất, nhưng không phải là cơ quan toàn quyền; Quốc hội nhận quyền lực từ Nhân dân và như vậy, cơ quan nhận sự ủy quyền này không thể ủy quyền tiếp cho các cơ quan nhà nước khác” [12]. Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Đăng Dung khi phân tích về những thách thức trong quá trình xây dựng và vận hành “Chính phủ kiến tạo” đã xác định phạm vi theo nghĩa rộng cho cả BMNN, nhưng trong đó có Chính phủ bao gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng là thành tố trung tâm. Tác giả đưa ra khái niệm “Chính phủ kiến tạo” thường đi đôi với sự “liêm chính”, “minh bạch” và “trong sáng”. Có rất nhiều yêu cầu, thách thức được đặt ra khi xây dựng Chính phủ kiến tạo, nhưng trên hết, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ phải dựa trên nền tảng của sự trong sạch và chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội và trước Nhân dân [85]. Khi nghiên cứu về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội không thể tách rời với kiểm soát QLNN, một vấn đề mới thể hiện sự thay đổi, phát triển vượt bậc tư duy lập pháp và chính trị, pháp lý trong xây dựng nhà nước. Điển hình trong đó có các tài liệu như tác phẩm “Sự hạn chế QLNN”của tác giả Nguyễn Đăng Dung, kiểm soát quyền lực được ghi nhận tại Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ XI (năm 2011) và trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như là một yêu cầu cần thiết, tất yếu [11]. Luận án tiến sỹ Luật học: “Kiểm soát quyền lực hành pháp trong NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Tiến sỹ Lê Thị Anh Đào [100] và Đề tài “Hoàn thiện quy định của pháp luật về kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ theo quy định của Hiến pháp năm 2013” của Viện Nghiên cứu lập pháp do PGS.TS Lê Minh Thông làm chủ nhiệm, 2019; Cuốn sách “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước” của tác giả Thái Vĩnh Thắng [30]; công trình: “Kiểm soát quyền lực nhà nước” [13]; “Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước” [12] của tác giả Nguyễn Đăng Dung (chủ biên). Các công trình trên đã luận giải tính khách quan, tất yếu của kiểm soát QLNN trong xã hội dân chủ, nhưng trong từng bối cảnh cụ thể, thể hiện mức độ và phương thức kiểm soát khác nhau giữa mỗi mô hình chính thể. Để khẳng định bản chất QLNN thuộc về Nhân dân, kiểm soát quyền lực được thể hiện không chỉ là quyền kiểm soát của cơ quan quyền lực, cơ quan đại diện (Quốc hội) trước các cơ quan phái sinh (Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát...) 11
- mà còn là quyền kiểm soát của các cơ quan hành pháp, tư pháp đối với cơ quan đại diện [94]. Sự kiềm chế, đối trọng giữa các nhánh quyền lực phiên bản Việt Nam chính là quyền lực tập trung thống nhất ở bản chất Nhân dân của nó nhưng có sự phân công, phối hợp rõ ràng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và chính sự phân công, phối hợp ấy, hình thành các mối quan hệ trách nhiệm [95] và điều này cũng làm rõ hơn “nguyên lý ủy quyền” mà tác giả Bùi Xuân Đức đã nhắc tới [79]. Tác giả Nguyễn Đăng Dung đã trình bày cơ sở lý luận và nội dung của hạn chế QLNN, sự cần thiết phải giới hạn quyền lực của nhà nước, khẳng định hiến pháp là một văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao có chức năng giới hạn QLNN, là phương thức quan trọng nhất của hạn chế QLNN bằng các phân tích lý do ra đời hiến pháp, các loại hình hiến pháp. Tác giả đưa ra mối liên hệ giữa NNPQ và chủ nghĩa hiến pháp - sự thể hiện tập trung lý thuyết về giới hạn QLNN; vấn đề bảo đảm nhân quyền không bị vi phạm, vấn đề bầu cử trong một nhiệm kỳ nhất định đối với các chức danh quan trọng của nhà nước và các phương thức hạn chế QLNN từ bên ngoài [13] … Sau khi phân tích mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, làm rõ tính khách quan của cá nhân, từ đó lý giải sự cần thiết khách quan của nhà nước đối với sự tồn tại và phát triển của cá nhân và xã hội, cũng như sự phân định giữa nhà nước, cá nhân và xã hội, tác giả Nguyễn Đăng Dung nhận định tính chịu trách nhiệm của nhà nước như một tất yếu khách quan, mà nhà nước không thể chối bỏ. Đó là cơ sở cần thiết phải thiết lập các cơ chế kiểm soát QLNN từ xã hội và cá nhân. Đồng thời, phân tích mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong tổ chức QLNN để thiết lập mối quan hệ kiểm soát quyền lực bên trong BMNN [12]. Cũng Tác giả này, khi phân tích chế định về nghị viện và chính phủ, có đề cập phần nào đến trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội như là quy luật tất yếu trong tổ chức BMNN khi có sự phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp [24]. Luận án “Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018) của tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng là công trình khoa học có giá trị tham khảo của Luận án khi nghiên cứu những vấn đề lý luận trong mối 12
- quan hệ giữa lập pháp và hành pháp xuất phát từ sự phân công và kiểm soát quyền lực trong NNPQ XHCN Việt Nam [103]. Qua các công trình nghiên cứu, NCS có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để củng cố luận điểm hiệu quả của Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội phụ thuộc rất lớn và kỹ thuật tổ chức và cơ chế kiểm soát giữa các nhánh quyền trong tổ chức QLNN. Trong ấn phẩm Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới của Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 [1] là sách chuyên khảo đề cập đến các vấn đề cơ bản về tổ chức QLNN, mối quan hệ giữa các thiết thế trong tổ chức QLNN của các mô hình chính thể khác nhau. Qua đó, giúp NCS có cái nhìn tổng quan và sự so sánh với cách thức tổ chức QLNN của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Vai trò riêng biệt của Chính phủ trên từng khía cạnh hoạt động, chức năng trong mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là chủ đề được quan tâm nhiều. Thông qua việc làm rõ vai trò của từng hoạt động của Chính phủ, trách nhiệm của Chính phủ đối với các hoạt động của Quốc hội được phác họa. Trách nhiệm của Chính phủ trong HĐGS của Quốc hội Giám sát hoạt động của Chính phủ là một chức năng quan trọng hàng đầu của Quốc hội Việt Nam. Các nghiên cứu về Quốc hội luôn đặt vấn đề làm sao để nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐGS. Khảo cứu của Luận án đối với nội dung này chủ yếu được thực hiện với những công trình: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện QLNN ở nước ta hiện nay do GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), NXB CAND (2003); Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội, của TS. Trương Thị Hồng Hà, NXB Chính trị Quốc gia (2009); Hoàng Minh Hội, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014): “Hoàn thiện pháp luật về giám sát của Nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam”; Trần Thị Tuyết Mai, Luận án tiến sỹ luật học (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả HĐGS của Quốc hội Việt Nam; Nhóm các công trình này đã làm rõ lý luận và cơ chế giám sát; các lĩnh vực, nội dung và hệ thống cơ quan giám sát đối với tổ chức và hoạt động thực hiện QLNN. Từ vị trí, vai trò của quốc hội/nghị viện, các tác giả khẳng định giám sát là 13
- chức năng quan trọng của quốc hội/nghị viện trong thế giới đương đại [104]. Qua đó đánh giá trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ đối với HĐGS của Quốc hội Việt Nam [34]. Trách nhiệm của Chính phủ trong trong HĐGS có tiền đề lý luận là quyền giám sát của Nhân dân đối với cơ quan nhà nước. HĐGS của Quốc hội đối với Chính phủ mang bản chất ấy, tức là Nhân dân giám sát các cơ quan hành chính mà đứng đầu là Chính phủ thông qua cơ quan đại diện của mình [102]. Quan hệ trách nhiệm được nhiều công trình nhìn nhận dưới góc độ chủ thể có quyền giám sát với chủ thể bị giám sát. Các cơ chế pháp lý, những yếu tố tác động đến hiệu quả giám sát của Quốc hội, thực trạng vận hành và giải pháp chủ yếu nhằm bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội được bàn luận tại tác phẩm Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội của tác giả Trương Thị Hồng Hà [16]. Trách nhiệm của Chính phủ trong quy trình lập pháp của Quốc hội Lập pháp là chức năng chính của quốc hội ở tất cả thể chế chính trị. Tuy nhiên, ý tưởng chung chủ yếu đến từ nhu cầu điều hành của hoạt động hành pháp. Do vậy, các đề xuất và việc soạn thảo thường được tiến hành bởi chính phủ và các thành viên chính phủ. Trách nhiệm giữa chính phủ và quốc hội cũng được thể hiện trong các công trình nghiên cứu về quy trình xây dựng pháp luật. Ở Việt Nam, các công trình về nội dung này như: Sách tham khảo "Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội" (2004); Hoàng Văn Tú, Luận án tiến sỹ luật học (2004): “Hoàn thiện quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay; Trần Hồng Nguyên, Luận án tiến sỹ luật học (2007): “Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; Trần Quốc Bình, Luận án tiến sỹ luật học (2011): “Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Trần Hoài Nam, Luật án tiến sỹ luật học (2018): “Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với hoạt động xây dựng dự án luật, pháp lệnh trong điều kiện xây dựng NNPQXHCN Việt Nam”; Lê Quốc Hùng, Luận án tiến sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2004): “Nguyên tắc QLNN là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt 14
- Nam”; sách chuyên khảo “Quốc hội Việt Nam trong NNPQ” (2007) và “Chính phủ trong NNPQ” (2008) của GS.TS Nguyễn Đăng Đung chủ biên của NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu trình tự, thủ tục và chất lượng hoạt động của Chính phủ nhìn từ khía cạnh quy trình lập pháp là một góc nhìn về trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội. Để điều hành, Chính phủ buộc phải đưa ra các giải pháp chính sách và kết quả của lựa chọn chính sách ấy là các đạo luật – sẽ được thông qua bởi Quốc hội. Bởi vậy, có thể khẳng định tính tất yếu về vai trò, trách nhiệm của Chính phủ khi tham gia vào hoạt động lập pháp của Quốc hội. Điều đó xuất phát từ bản chất Chính phủ là một thiết chế “hành động”, vừa mang tính hành chính, vừa mang tính chính trị trong tổ chức QLNN [105]. Các công trình này trình bày hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới quy trình lập pháp; giới thiệu toàn diện quy trình lập pháp qua các thời kỳ; phân tích nội dung đổi mới quy trình lập pháp gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội, phương thức hoạt động của các kỳ họp Quốc hội [19]. Hoạt động lập pháp được các tác giả đề cập có phạm vi rộng, không chỉ bó hẹp trong phạm vi hoạt động của riêng một chủ thể nào mà có liên quan đến các chủ thể khác trong quy trình lập pháp [101]. Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp là một tất yếu khách quan, được bắt nguồn từ chính thực tiễn quản lý, điều hành của Chính phủ đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời đưa ra quan niệm về quy trình lập pháp với tư cách là một công cụ, cơ sở nền tảng để giải quyết vấn đề lập pháp. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam. Trong đó, sự thiếu rõ ràng trong việc xác định trách nhiệm giữa cơ quan lập pháp và hành pháp là nguyên nhân chính làm hạn chế vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay [97]. Điểm chung của nhiều công trình nghiên cứu là việc khẳng định vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động lập pháp và sự cần thiết phải phối hợp giữa Quốc hội với Chính phủ, tính tất yếu của vai trò, trách nhiệm của Chính phủ trong quy trình lập pháp của Quốc hội [97],[105]. GS. TS Nguyễn Đăng Dung cũng 15
- khẳng định "Chính phủ - Hành pháp không chỉ có trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản lập pháp, mà còn là trung tâm của BMNN có trách nhiệm tạo điều kiện cho việc hoàn thành các quyền lập pháp và tư pháp" [5], [6]. 1.1.2. Những nghiên cứu về thực tiễn trách nhiệm của Chính phủ trƣớc Quốc hội Mặc dù thực tiễn trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội không phải là nội dung nghiên cứu riêng biệt, tuy nhiên trong các công trình nguyên cứu về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, nội dung mang tính thực tiễn, thực trạng thường được lồng ghép với các nghiên cứu lý luận đã khảo cứu trong mục 1.1.1 ở trên. Các công trình liên quan thường dẫn những dữ liệu thống kê để nhận định hoặc minh họa một hoạt động của Chính phủ chưa tốt hoặc việc giám sát của Quốc hội có những điểm cần hoàn thiện. Chẳng hạn tình trạng trả lời chất vấn của các bộ ngành còn lúng túng, không trọng tâm [104]. Hoặc tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn luật hoặc dự thảo các luật, pháp lệnh [105]. Trong Luận án tiến sỹ Chính trị học “Trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018), tác giả Bùi Thị Cần đã phân tích quy chế và vai trò của Quốc hội đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong quá trình chính sách còn chứa chặt chẽ [98]. Trong tác phẩm “Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước trong xây dựng luật, pháp luật” của TS. Trương Hồng Quang (Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp) đã chỉ ra ba thực trạng tính cắt khúc trong công tác xây dựng pháp luật liên quan đến kết quả thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ [86]. Khi xem xét trách nhiệm của Chính phủ trong việc tham gia vào hoạt động của Quốc hội, tác giả Trần Hoài Nam đánh giá thực trạng trách nhiệm của Chính phủ trong hoạt động lập pháp chưa chủ động trong việc đề xuất chính sách; chưa phát huy hết trách nhiệm đối với dự án luật, pháp lệnh do mình chuẩn bị và trình [105] , [106, tr. 222]. Bên cạnh phân tích các khía cạnh lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, có những nhiệm kỳ Quốc hội được lấy làm đối tượng nghiên cứu trọng tâm, chẳng hạn khóa XII được khá nhiều đề tài phân tích, đánh giá. Ví dụ Đề 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay
185 p | 639 | 179
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam
178 p | 481 | 162
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
190 p | 402 | 114
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
27 p | 248 | 41
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Giao dịch dân sự có điều kiện theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
304 p | 172 | 40
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Bảo vệ quyền tác giả qua thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
208 p | 90 | 36
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay
182 p | 84 | 33
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội dưới góc độ bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ
134 p | 199 | 30
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Nghĩa vụ con người trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
305 p | 135 | 21
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân bằng tòa án theo pháp luật Việt Nam hiện nay
174 p | 64 | 20
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay
204 p | 64 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay
179 p | 66 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
205 p | 27 | 17
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
197 p | 63 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao trong các dự án về giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam
163 p | 38 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
27 p | 57 | 7
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
23 p | 16 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn