VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ĐOÀN HẠNH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ
VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ĐOÀN HẠNH
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ
VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hữu Tráng
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là khách quan và trung thực, chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận án
Trần Đoàn Hạnh
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 7
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................................ 7
1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................................... 9
1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu .................................................................. 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 22
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG
VIỄN THÔNG ......................................................................................................... 23
2.1 Khái quát về công nghệ thông tin, mạng viễn thông và tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông ........................................... 23
2.2 Lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông ........................................................................... 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 69
Chƣơng 3: PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ............................................................................................................... 70
3.1 Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
mạng viễn thông ............................................................................................... 70
3.2 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông ........................................................................... 78
3.3 Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và mạng viễn thông ở Việt Nam .................................... 108
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ...................................................................................... 125
Chƣơng 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG
NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG .......................................................... 126
4.1. Dự báo tình hình tội phạm và các yếu tố ảnh hưởng đến phòng ngừa
ii
tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông . 126
4.2 Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông ................................................ 136
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ...................................................................................... 167
KẾT LUẬN LUẬN ÁN ......................................................................................... 168
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ Đ CÔNG B
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 170
iii
PHỤ LỤC 1 ............................................................................................................ 178
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
1 A05 Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao, Bộ công an
2 BLHS Bộ luật hình sự
3 CNTT Công nghệ thông tin
4 CNTT&MVT Công nghệ thông tin và mạng viễn thông
5 CNTT&VT Công nghệ thông tin và viễn thông
5 C50 Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao, Bộ Công an
6 PA05 Phòng An ninh mạng và phòng chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao
7 PCTP Phòng chống tội phạm
8 PC50 Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử
dụng công nghệ cao
iv
9 VT Viễn thông
DANH MỤC PHỤ LỤC TRONG LUẬN ÁN
Phụ lục 1:
Bảng 1.1: Kết quả đấu tranh chuyên án tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông từ 2010-2019
Bảng 1.2 : Kết quả khởi tố đối tượng và số vụ án trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông từ 2010-2019
Bảng 1.3: Đặc điểm nhân thân người phạm tội trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và mạng viễn thông từ 2010-2015
Phụ lục 2:
Kết quả đấu tranh chuyên án điển hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
v
thông tin và mạng viễn thông từ 2010-2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
(CNTT&MVT) là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự
do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng sự tiến bộ của CNTT&VT, sử
dụng kiến thức, kỹ năng hiểu biết của mình về CNTT&VT để phạm tội.
Việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT đã
được quan tâm từ những năm 70 của thế kỷ trước. Năm 1977, Thượng nghị sỹ
Ribikoff đã đệ trình Nghị viện Hoa Kỳ dự luật về tội phạm mạng – gọi là tội phạm
máy tính; tuy nhiên, lúc đó dự luật này chưa được chấp nhận. Năm 1983, khối OECD
lập một nhóm chuyên gia nghiên cứu về tội phạm liên quan đến máy tính để đưa ra các
đề xuất sửa đổi pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên. Năm 1989, Hội đồng
châu Âu cũng thông qua bản đề xuất danh mục các tội phạm được coi là tội phạm máy
tính. Năm 1997, nhóm các nước công nghiệp phát triển G8 cũng thể hiện mối quan
tâm của mình về vấn đề này bằng cách thông qua hệ nguyên tắc phòng, chống tội
phạm máy tính. Năm 2001, Hội đồng châu Âu thông qua công ước về tội phạm mạng.
Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định về
tội phạm mạng. Đi tiên phong trong số đó có thể kể đến các quốc gia như Mỹ, Pháp,
Đức, Anh, Bỉ, Canada, Nhật Bản...
Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tế về tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT số vụ tăng dần theo các năm. Điều này cho thấy tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, với diễn biến tăng cả
về số vụ và tính chất, mức độ, hậu quả.
Báo cáo của hãng bảo mật Kaspersky và Symantec tại Hội thảo- triển lãm quốc
gia về An ninh Bảo mật 2015 (Security World 2015) ngày 25/3/2015, cho biết, Việt
Nam được xếp đứng thứ 3 sau Nga và Ấn Độ về số người dùng di động bị mã độc tấn
công nhiều nhất trên thế giới, thứ 6 trên thế giới về số lượng địa chỉ IP trong nước
được dùng trong các mạng máy tính tấn công nước khác; thứ 7 trên thế giới về phát tán
tin nhắn rác (giảm 1 bậc so tháng 11/2013) và đứng thứ 12 trên thế giới về các hoạt
động tấn công mạng [12].
Năm 2019- 2020 các hoạt động tấn công mạng tiếp tục diễn biến phức tạp với
nhiều phương thức, thủ đoạn mới và ngày càng trở thành mối đe dọa lớn đối với người
dùng trực tuyến. Theo thống kê, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu thế giới
về tỷ lệ lây nhiễm mã độc qua thiết bị lưu trữ ngoài (USB, thẻ nhớ, ổ cứng di động) với
tỷ lệ 70.83% máy tính bị lây nhiễm; 39,95% người dùng phải đối mặt với mã độc bắt
nguồn từ không gian mạng, nhận định xu hướng chính của mã độc là mã hóa dữ liệu để
1
tống tiền (ransomware). Mã độc này có thể khóa các tập tin trên hệ thống máy tính, điện
thoại, máy tính bảng thông qua những tin nhắn, email hoặc ứng dụng độc hại. Chỉ số an
toàn thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam ở mức trung bình 50-60% [55].
Tại Việt Nam để phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này theo tinh thần của
Chỉ thị 48/TW-BCT về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới ngày 22/10/ 2010 và Kết luận số 05-KL/TW ngày
15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị 48/TW-BCT đã
xác định “ Công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách,
vừa thường xuyên, lâu dài, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; …” trong đó
cần phải“...Chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công trấn áp các loại tội phạm; nhất là
tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm hình sự, ma túy, tội phạm kinh tế, tham
nhũng, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao…” [5]. Như vậy, theo tinh thần
chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư thì việc phòng, chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao (tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT) cần được tăng cường và chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn không để hậu quả xảy ra. Bên cạnh đó, khung pháp luật về
phòng chống, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ngày càng được hoàn thiện
không ngừng trong những năm gần đây. BLHS năm 1999 quy định về 03 tội danh có
liên quan đến CNTT tại các Điều 224; Điều 225; Điều 226. BLHS năm 2009 đã bổ
sung thêm các tội danh liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bao gồm:
Điều 224, Điều 225, Điều 226, Điều 226a, Điều 226b. BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ
sung thêm quy định các nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT và mạng viễn thông tại
mục 2 Chương XXI bao gồm từ Điều 285 đến Điều 294.
Nhưng trong thực tiễn, dù có nhiều hành vi vi phạm được các cơ quan chức
năng điều tra, phát hiện thời gian qua nhưng số lượng các vụ án loại này được đưa ra
xét xử rất ít. Việt Nam hiện đang có tốc độ phát triển về công nghệ thông tin, mạng
viễn thông rất cao, vì thế loại tội phạm này cũng đang gia tăng nhanh chóng và đã có
tính quốc tế rõ rệt.Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT cũng mang tính toàn cầu. Những loại tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT xuất hiện trên thế giới cũng xảy ra ở Việt Nam và gây nguy hại cho nền
kinh tế, chính trị và xã hội như ở các nước khác.
Thủ đoạn phạm tội rất tinh vi, xảo quyệt trong khi lực lượng phòng chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn thiếu, kinh nghiệm chưa nhiều nên việc phát
hiện loại tội phạm này rất khó khăn. Hiện nay các quy định của pháp luật liên quan
đến tội phạm này vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ cũng là nguyên nhân chính khiến nhiều
cơ quan tố tụng phải lúng túng khi xử lý các tội phạm này. Về mặt lý luận vẫn còn
thiếu những công trình khoa học, đề tài, luận án, luận văn đi sâu nghiên cứu về các tội
2
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài
“Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông
ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm là hoàn toàn cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Luận án làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói
riêng; thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt
Nam trong khoảng thời gian từ năm 2010-2019. Luận án đề xuất những kiến nghị
nhằm tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT tại Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án trong và
ngoài nước để có được những cơ sở lý luận, sở cứ khoa học về phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;
- Trên cơ sở nền tảng lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm, phân tích và
làm rõ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Phân tích, làm rõ thực tiễn tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT,
trong đó đi sâu nghiên cứu làm rõ tình hình, nguyên nhân và điều kiện, các tồn tại,
thiếu sót, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án có đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói
riêng; Các quy định của pháp luật, thực tế phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT tại Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Tuy
nhiên tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT không phải là một tội danh cụ thể quy định
trong BLHS mà là một khái niệm của tội phạm học, do đó trước khi nghiên cứu về tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, tác giả luận án sẽ làm rõ những vấn đề lý luận về tội
3
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được quy định tại mục 2 chương XXI từ Điều 285 đến
Điều 294 BLHS Việt Nam năm 2015.
Về không gian: Luận án nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT của các cơ quan chức năng tại Việt Nam.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ năm 2009 đến nay, trong đó tập trung
vào các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bao gồm các tội
danh được quy định tại mục 2 chương XXI ; Thực trạng phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ năm 2010 đến năm 2019.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng
sản Việt Nam, của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam về phòng, chống tội phạm
nói chung và phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng; cơ sở lý
luận của khoa học luật hình sự, các ngành khoa học khác về tội phạm và hình phạt, cơ
sở lý luận chung về phòng ngừa tội phạm được sử dụng trong luận án như là cơ sở
phương pháp luận để luận giải các vấn đề lý luận trong phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Luận án cũng được nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu các quan
điểm khoa học của nhân loại về nhà nước, pháp luật; các quan điểm mới về tội phạm
nói chung, về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Luận án sẽ phân tích và
làm rõ các khái niệm có liên quan đến tội phạm trọng lĩnh vực CNTT&MVT được quy
định trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Trên cơ sở phân tích thực trạng phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2010-2019 để đưa ra những dự
báo về tình hình, diễn biến của tội phạm này trong thời gian tới. Qua đó đề xuất các
giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại
Việt Nam.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề hoàn thành và bảo đảm chất lượng của Luận án, trong quá trình nghiên cứu
đề tài, Nghiên cứu sinh đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp
nghiên cứu tài liệu, lịch sử, phân tích, so sánh, quy nạp, tổng hợp, hệ thống hoá…; cụ
thể là:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng trong việc tìm hiểu các văn bản
pháp luật về CNTT&MVT, các văn bản pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; nghiên cứu các báo cáo tổng kết công tác năm của
4
Bộ thông tin và truyền thông, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao C50 (nay là Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao –
A05), Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao PC50 (PA05)
Công an Tp Hà Nội; Tập đoàn công nghệ BKAV, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam VNCERT/CC, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng
quốc gia NCSC…
Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu, làm rõ quá trình hình thành,
thay đổi quan điểm của pháp luật Việt Nam và quốc tế về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (các Chương 1,2);
Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình thu thập, đối chiếu số
liệu về tình hình phát triển CNTT&MVT ở Việt Nam tại Bộ thông tin và truyền
thông cũng như tình hình tội phạm và kết quả phòng ngừa, đấu tranh xử lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT của các cơ quan chức năng từ năm 2010 - 2019;
Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp được sử dụng trong tất cả các chương
của Luận án, nhằm trình bày, làm sáng tỏ các quan điểm, quan niệm về lĩnh vực
CNTT&VT và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, pháp luật Việt Nam, pháp luật của
các quốc gia, vùng lãnh thổ và pháp luật quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, về thực tiễn áp dụng các quy định về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT trong việc định tội danh và quyết định hình phạt ở Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó, xác định bản chất, đặc điểm của các hiện tượng được nghiên cứu, sự phù
hợp và bất cập của thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về các tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT của việc định tội danh và quyết định hình phạt ở Việt Nam thời gian
qua ( các Chương 2, 3); từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị, đề
xuất hoàn thiện các quy định có liên quan của BLHS Việt Nam hiện hành (Chương 4);
Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc làm rõ tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam thời gian qua; những tích cực,tiến bộ và hạn chế
trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam
(Chương 3);
Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong toàn bộ các chương của Luận án nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong Luận án theo một trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu cầu đã được xác định cho Luận án;
Phương pháp phân tích, dự báo khoa học được sử dụng để dự báo về diễn biến của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam và trên thế giới cũng
như các yếu tố tác động đến tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (Chương 4).
5
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
5.1 Ý nghĩa lý luận
Luận án được hoàn thành có ý nghĩa trong việc làm rõ hơn các vấn đề lý luận về
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như khái niệm về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT, khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, các biện pháp phòng ngừa, nguyên tắc phòng ngừa...
5.2 Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở tìm hiểu và đánh giá về thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế thiếu sót
của hoạt động phòng ngừa Luận án đã đưa ra các dự báo có cơ sở khoa học và thực tiễn
về tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian tới cũng như xây dựng, đề
xuất các giải pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
6. Những đóng góp mới của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ làm rõ hơn các vấn đề lý luận về phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó làm phong phú thêm hệ thống lý
luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.
Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm rõ hơn thực trạng phòng ngừa
tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam giai đoạn từ năm
2010-2019, qua đó thấy rõ những ưu điểm, những hạn chế và yếu kém trong thực
trạng phòng ngừa.
Kết quả nghiên cứu của Luận án là sở cứ khoa học về lý luận, thực tiễn cung
cấp cho các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp trong việc soạn thảo các quy định của
pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là công trình khoa học có giá trị tham khảo phục
vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận án được cấu trúc thành 4 chương như sau
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Những vấn đề cơ bản về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và mạng viễn thông
- Chương 3: Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin
và mạng viễn thông ở Việt Nam hiện nay
- Chương 4: Dự báo và các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Việc nghiên cứu về tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao, tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&VT được các quốc gia và các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm trong
những năm gần đây do tính chất và hậu quả nguy hiểm cũng như quy mô xuyên quốc
gia của loại tội phạm này đòi hỏi một sự phối hợp và hợp tác không chỉ trên phạm vi
quốc gia, mà còn phối hợp hành động trên phạm vi quốc tế. Thời gian qua đã có các
công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây
- Sách chuyên khảo của Peat Marwick (2000), E-ecommerce and Cyber Crime
: New Strategies for Management the risk of exploitation ( Tạm dịch: Thương mại điện
tử và tội phạm mạng : Chiến lược mới trong quản lý và khai thác), Nhà xuất bản
KPMGLLP, Hoa Kỳ gồm 28 trang. Nội dung cuốn sách đề cập đến tính tất yếu trong
giao dịch hàng hóa, dịch vụ qua mạng, một hình thái của thương mại điện tử và trở
thành kênh giao dịch buôn bán hàng hóa phổ biến trong tương lai. Tuy nhiên đây cũng
tiềm ẩn một nguy cơ rất lớn khi tiến hành các giao dịch hàng hóa dịch vụ qua mạng
bởi đây cũng là môi trường để xuất hiện những loại tội phạm mới, tội phạm mạng.
Cuốn sách đưa ra những cảnh báo cho các doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện
tử cũng như các cá nhân khi tham gia vào các giao dịch điện tử. Cuốn sách đã bước
đầu chỉ ra các hành vi phạm tội trong lĩnh vực thương mại điện tử cho các doanh
nghiệp và các cá nhân, tổ chức khi tham gia hoạt động thương mại điện tử có thể nhận
diện. Tuy nhiên cuốn sách không đề cập đến phòng ngừa ngăn chặn các hành vi trong
lĩnh vực thương mại điện tử.
- Sách chuyên khảo của Anup K.Ghosh (2001), E-Commerce security and
privacy (Tạm dịch: An toàn trong thương mại điện tử và vấn đề bảo mật), Nhà xuất
bản Kluwer Academic Publishers, New York, Hoa kỳ gồm 163 trang. Cuốn sách tiếp
cận bằng cách đi sâu phân tích các ví dụ minh họa cụ thể từ đó đặt ra yêu cầu an toàn
trong thương mại điện tử như tốc độ phát triển của thương mại điện tử, vai trò của
thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp, sự cần thiết phải đảm bảo an toàn khi
tiến hành các giao dịch trong thương mại điện tử để phòng ngừa các hành vi lừa đảo,
chiếm đoạt tài khoản, mật mã cá nhân. Đồng thời cuốn sách cũng cung cấp một số
phương pháp bảo đảm an toàn, bảo mật trong thương mại điện tử. Tuy nhiên cuốn sách
này lại không chỉ rõ các hành vi vi phạm cũng như các biện pháp phòng ngừa ngăn
chặn đối với các hành vi và tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử.
7
- Sách chuyên khảo của Yong da (2002)
(Tạm dịch: Nghiên cứu tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử) Nhà xuất
bản Đại học Vũ Hán, Trung Quốc. Đây là cuốn sách trình bày một cách công phu về
tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử gắn với việc so sánh pháp luật hình sự của
vương quốc Anh, Đức, Mỹ và Nhật Bản dựa trên các tội phạm phổ biến trong lĩnh vực
thương mại điện tử như: gian lận thẻ tín dụng, xâm phạm quyền tác giả, vi phạm bí
mật thương mại, gian lận, bất hợp pháp hành nghề y, trộm cắp, sản xuất hàng giả, buôn
bán người, các hành vi khiêu dâm, các tội phạm về máy tính,… Nội dung cuốn sách
bao gồm : Lời nói đầu, Chương 1: Sự phát triển của thương mại điện tử và máy tính trong
thời đại thông tin; Chương 2: Tổng quan về tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử;
Chương 3: Phương thức thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử;
Chương 4: Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử. Phần
phụ lục : Quy định của pháp luật hình sự vương quốc Anh và Nhật Bản về tội phạm trong
lĩnh vực thương mại điện tử. Cuốn sách được trình bày chủ yếu phục vụ công tác nghiên
cứu so sánh về mặt pháp luật ít có tính khả thi khi áp dụng vào thực tiễn.
- Sách chuyên khảo của Graeme R.Newman và Ronald V.Clarke (2003),
Preventing E-commerce Crime ( Tạm dịch: Ngăn chặn tội phạm trong lĩnh vực thương
mại điện tử), Nhà xuất bản Willan, Vương quốc Anh. Nội dung cuốn sách gồm 7
chương, trong chương 1 các tác giả phân tích sự cần thiết phải phát triển thương mại
điện tử cũng như Internet, từ đó xuất hiện những loại tội phạm mới khác với tội phạm
truyền thống. Điều này cũng đặt ra những thay đổi trong đấu tranh chống tội phạm cho
các lực lượng chức năng. Chương 2, các tác giả tập trung phân tích các đặc điểm của
thương mại điện tử mà tội phạm có thể lợi dụng những đặc điểm này để phạm tội.
Chương 3, các tác giả chỉ rõ các mục tiêu mà tội phạm thương mại điện tử chú ý như : sở
hữu trí tuệ (ví dụ: sách, đĩa CD, DVD và phần mềm), có sở dữ liệu có chứa thông tin
khách hàng, hệ thống thông tin và dịch vụ. Đồng thời các tác giả đã chỉ ra 26 loại hành vi
vi phạm phổ biến trong lĩnh vực thương mại điện tử. Chương 4, các tác giả phân tích sự
khác biệt giữa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử với tội phạm truyền thống
thông qua các ví dụ điển hình. Từ chương 5 đến chương 7, các tác giả phân tích các kỹ
thuật để phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử. Đây là 1 công trình
nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử, tuy nhiên các tác
giả chủ yếu tập trung vào các giải pháp phòng ngừa ngăn chặn dưới góc độ kỹ thuật mà
không đề cập đến các biện pháp phòng ngừa của lực lượng chức năng.
- Báo cáo “Nghiên cứu toàn diện về Tội phạm mạng” (Comprehensive Study
on CyberCrime): Tháng 2/2013, Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội phạm
(United Nations Office on Drugs and Crime- UNODC) đã công bố Báo cáo “Nghiên
8
cứu toàn diện về Tội phạm mạng” (Comprehensive Study on CyberCrime) với 12
chương và 320 trang. Đây là một trong những nghiên cứu toàn diện nhất về tội phạm
mạng với các nội dung chính được nêu trong 8 Chương chính của Báo cáo như: Kết
nối và tội phạm mạng; Bức tranh toàn cầu về tội phạm mạng; Luật pháp và khung
pháp luật; Tội phạm toàn cầu; Thực thi Luật pháp và điều tra; Chứng cứ điện tử và tư
pháp hình sự; Hợp tác quốc tế; Phòng ngừa tội phạm mạng.
- Báo cáo của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU): “Tìm hiểu về Tội phạm
mạng: Hiện tượng, những thách thức và sự đáp ứng của luật pháp” (“Understanding
Cyber Crime: Phenomena, Challenges and Legal response”, ITU, 9/2012)
Đây là báo cáo để hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc tìm hiểu các khía
cạnh pháp lý về an ninh mạng và giúp xây dựng khung pháp lý cho vấn đề này tại các
nước. Báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về các chủ đề có liên
quan nhất liên quan đến các khía cạnh pháp lý của tội phạm mạng và tập trung vào nhu
cầu đòi hỏi hoàn thiện khung pháp luật của các nước đang phát triển. Do vấn đề xuyên
quốc gia của tội phạm mạng, các công cụ pháp lý để phòng chống là như nhau giữa
các nước phát triển và các nước đang phát triển. Bản Báo cáo bao gồm sáu chương
chính:Lời giới thiệu (Chương 1) thảo luận về hạ tầng và dịch vụ, vấn đề tội phạm
mạng và an ninh mạng, tổng quan về hợp tác và phòng ngừa và những khuyến nghị
cho các nước đang phát triển.Chương 2 của Báo cáo cung cấp một cái nhìn tổng quan
của hiện tượng của tội phạm mạng bao gồm các mô tả về cách tội phạm câu kết và giải
thích về hành vi phạm tội phổ biến nhất như tấn công mạng, trộm cắp danh tính và
chặn dịch vụ. Chương 3 và 4 thảo luận tổng quan về các thách thức của tội phạm
mạng và những vấn đề có liên quan đến việc điều tra và truy tố tội phạm
mạng.Chương 5 tóm tắt một số hoạt động được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế và
khu vực trong cuộc chiến chống tội phạm mạng. Chương 6 phân tích các phương pháp
tiếp cận pháp luật khác nhau liên quan đến pháp luật hình sự về nội dung, pháp luật tố
tụng, kỹ thuật số với bằng chứng, hợp tác quốc tế và trách nhiệm của nhà cung cấp
dịch vụ Internet,bao gồm các ví dụ về cách tiếp cận quốc tế cũng như các ví dụ thực
tiễn điển hình(good-practice examples) từ các giải pháp quốc gia.
- Sách “ Các nguyên tắc của Tội phạm mạng” của tác giả Jonathan Clough
(“Principles of Cybercrime”, Cambridge University Press, 2009): đề cập đến các
nguyên tắc, chia sẻ các bài học kinh nhiệm và hệ thống pháp luật Commonlaw của
Anh, Úc, Mỹ, Canada trong vấn đề đấu tranh, phòng ngừa và xử lý tội phạm mạng.
1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu liên quan đến hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở nước ta đã được một số
9
tác giả đề cập đến ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong những công trình
nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có các công trình nghiên
cứu như : sách chuyên khảo, giáo trình, luận án, các bài viết hội thảo khoa học… qua
nghiên cứu cho thấy có các công trình điển hình dưới đây:
1.2.1.Nhóm công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tội phạm học
- Giáo trình (2015), Tội phạm học, Trường Đại học luật Hà Nội, Nhà xuất bản
công an nhân dân. Nội dung giáo trình đã xác định tội phạm học khoa học thực nghiệm
nghiên cứu về tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm
nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm. Cuốn sách gồm 8 chương như sau: Khái niệm
và nhiệm vụ của tội phạm học; Quá trình hình thành và phát triển của tội phạm học,
các thuyết nghiên cứu về tội phạm học; Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học;
Tình hình tội phạm (những vấn đề chung, thực trạng, diễn biến); Nguyên nhân của tội
phạm; Nhân thân của người phạm tội; Nạn nhân của tội phạm; Phòng ngừa tội phạm.
Giáo trình đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm học cũng như các nội
dung có liên quan đến tội phạm, trong đó đã làm rõ về mặt lý luận vấn đề phòng ngừa
tội phạm với mục đích kìm chế sự gia tăng, hạn chế dần mức độ và tính chất nghiêm
trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra. Tài liệu là cơ sở lý luận quan trọng
trong nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung.
- Giáo trình (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, GS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa, Nhà xuất bản tư pháp. Cuốn sách gồm 331 trang, 5 chương như sau: Tội phạm –
xét về nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, các đặc điểm của tội phạm, phân
loại tội phạm, tội phạm và vi phạm pháp luật khác; Tội phạm – xét về các yếu tố cấu
thành; Tội phạm – xét về hình thức phản ánh trong luật; Tội phạm – xét về tình hình
và về nguyên nhân phát sinh, thống kê tội phạm, thực trạng, diễn biến (cả lượng và
chất), xu hướng vận động của tội phạm, nguyên nhân của tội phạm; Tội phạm – xét về
biện pháp phòng ngừa. Tác giả đã đặt phòng ngừa tội phạm trong mối liên hệ với đấu
tranh chống tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm. Tài liệu đã trình bày vấn đề
về tội phạm dưới các khía cạnh khác nhau, đặc biệt đã đề cập đến hai vấn đề lý luận
liên quan đến đề tài luận án là tình hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm, phân biệt
sự khác nhau giữa tội phạm và tình hình tội phạm là những sở cứ quan trọng trong
nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Giáo trình (2013), Tội phạm học, GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản công
an nhân dân gồm 13 chương, 298 trang. Nội dung cuốn sách đề cập đến các vấn đề lý
luận về tội phạm học như khái niệm, đối tượng, nhiệm vụ, các phương pháp nghiên
cứu, vị trí của tội phạm học với các ngành khoa học khác. Tình hình tội phạm cũng
như các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và nguyên nhân,
10
điều kiện của tội phạm cụ thể. Nhân thân người phạm tội, cuốn sách cũng trình bày và
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm, dự báo tình hình
tội phạm trong tương lai. Để phòng ngừa tình hình tội phạm trong bối cảnh toàn cầu
hóa, theo tác giả cần có sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng ngừa và chống tình
hình tội phạm. Điều này rất cần thiết đối với loại tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT vì loại tội phạm này cũng mang tính chất toàn cầu, xuyên quốc gia.
Ngoài ra, tác giả cũng giới thiệu về lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng tội
phạm học tư sản và tội phạm học xã hội chủ nghĩa. Nội dung tài liệu là những cơ sở
khoa học trong nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng
ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.
- Giáo trình (2012), Xã hội học tội phạm, Trần Đức Châm, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia gồm 7 chương, 143 trang. Nội dung cuốn sách ngoài các vấn đề lý luận
liên quan đến xã hội học tội phạm như đối tượng, phương pháp nghiên cứu, chức năng,
mối quan hệ giữa xã hội học tội phạm và các ngành khoa học khác thì cuốn sách còn
đưa ra những đặc điểm xã hội học của một số loại tội phạm cụ thể hiện nay, trong đó
có tội phạm máy tính. Tác giả đã đưa ra bốn đặc trưng cơ bản xét từ góc độ xã hội học
và tội phạm học của tội phạm máy tính, vấn đề tác giả đề cập có liên quan đến tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ở Việt
Nam trong tình hình mới trong đó nêu rõ quan điểm, mục tiêu, trách nhiệm của các cơ
quan chức năng.
- Sách chuyên khảo (2015), Tội phạm học so sánh, PGS.TS Lê Thị Sơn, Nhà xuất
bản tư pháp gồm 6 chương, 135 trang. Cuốn sách đã trình bày các vấn đề lý luận liên quan
đến tội phạm học so sánh, đặc biệt tác giả đã nghiên cứu so sánh về tội phạm với kiểm
soát tội phạm (ở phạm vi toàn cầu, một nhóm quốc gia, hai quốc gia, đối với một số loại
tội phạm, nghiên cứu về tội phạm xuyên quốc gia). Tác giả đã đưa ra khái niệm về phòng
ngừa tội phạm dưới góc độ của tội phạm học so sánh “ Phòng ngừa tội phạm là các biện
pháp của công dân, tổ chức, nhà nước, của một quốc gia, của hai hay nhiều quốc gia và
tổ chức quốc tế, làm hạn chế nguyên nhân của tội phạm từ trong cơ cấu xã hội, từ quá
trình chuyển đổi cơ cấu xã hội và nguyên nhân của tội phạm xuyên quốc gia”. Tác giả đã
đưa ra quan điểm là phòng ngừa tội phạm sẽ dẫn đến kiểm soát tội phạm. Điều này có thể
được sử dụng trong mối liên hệ giữa phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&VT nếu làm tốt sẽ giúp kiểm soát tình hình tội phạm trong lĩnh vực này.
- Sách (2012), Tội phạm ở Việt Nam năm 2011 – 2012, – GS.TS Nguyễn Xuân
Yêm, Phan Văn Vĩnh, Nhà xuất bản công an nhân dân. Nội dung cuốn sách gồm 4
phần trong đó có thống kê về tình hình, diễn biến, hậu quả của một số loại tội phạm
điển hình trong đó có tội phạm sử dụng công nghệ cao như : thực trạng diễn biến của
11
tội phạm sử dụng công nghệ cao, hậu quả, kết quả phòng chống đấu tranh, các hành vi
vi phạm điển hình cũng như dự báo xu hướng phát triển của loại tội phạm này trong
thời gian tới. Nội dung tài liệu có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT,
có thể được sử dụng làm cơ sở nghiên cứu, dự báo… về tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT.
- Sách chuyên khảo (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tội
phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và PGS.TS Nguyễn
Minh Đức chủ biên, Nhà xuất bản công an nhân dân. Cuốn sách làm rõ lý luận về tội
phạm, phương pháp nghiên cứu tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa; phân tích hệ
thống pháp luật phòng chống tội phạm; làm rõ mức độ tình trạng phạm tội; quan điểm
về tội phạm và chính sách đấu tranh phòng chống tội phạm của một số nước trên thế
giới ở khu vực châu Âu, châu Á – Thái Bình Dương và nước Mỹ. Cuốn sách cũng đề
cập đến một số quan điểm về tội phạm có liên quan đến lĩnh vực CNTT cũng như
chính sách đấu tranh với tội phạm này của một số nước nhưng chỉ mang tính liệt kê
khái quát, chưa đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực mạng viễn thông.
- Giáo trình (2014), Kiểm soát xã hội đối với tội phạm, TS Trịnh Tiến Việt, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia gồm 8 chương, 298 trang. Tác giả đã đưa ra các vấn đề lý luận
liên quan đến tình hình tội phạm và những tác động của nó đối với xã hội từ đó đặt ra mục
tiêu kiểm soát xã hội đối với tội phạm. Nội dung cuốn sách nhằm thu hút các lực lượng xã
hội tham gia kiểm soát tội phạm, phát động tinh thần trách nhiệm kiên quyết đấu tranh và
chủ động tấn công phòng chống tội phạm của các chủ thể, tăng cường khả năng phát hiện,
ngăn ngừa và xử lý tội phạm của các cơ quan chức năng. Điều này có thể được vận dụng
trong việc nghiên cứu để kiểm soát xã hội đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông tại Việt Nam
- Sách chuyên khảo (2007), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, TS
Phạm Văn Lợi chủ biên, Nhà xuất bản tư pháp. Với 246 trang, cuốn sách tập trung
phân tích khái niệm, những đặc điểm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, thực trạng và
giải pháp phòng, chống loại tội phạm này ở nước ta và một số nước trên thế giới.
Ngoài ra, tác giả còn giới thiệu nội dung Công ước của Hội đồng châu Âu năm 2001
về tội phạm mạng, Luật mẫu về tội phạm máy tính và liên quan đến máy tính của các
nước thuộc khối thịnh vượng chung (Anh và Bắc Ireland, Australia, New Zealand…).
Phạm vi nghiên cứu của cuốn sách là rất rộng, là công trình nghiên cứu sâu sắc về tội
phạm trong lĩnh vực CNTT tuy nhiên tội phạm trong lĩnh vực mạng viễn thông chưa
được đề cập tới.
12
- Sách chuyên khảo (2011), An toàn thông tin và công tác phòng chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao, TS Trần Văn Hòa chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
Cuốn sách được chia thành 5 chương, với những nội dung chủ yếu như : Lý luận chung về
tội phạm sử dụng công nghệ cao; Hình thức biểu hiện của các loại tội phạm sử dụng công
nghệ cao; Chiến thuật điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao; Phục hồi, tìm, thu thập
và phân tích dữ liệu điện tử; Phương pháp điều tra một số loại tội phạm sử dụng công
nghệ cao. Có thể thấy đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, được tác giả thực
hiện trên cơ sở khái quát các phương thức, thủ đoạn, biểu hiện cơ bản của các loại tội
phạm sử dụng công nghệ cao xảy ra ở Việt Nam và trên thế giới trong một số năm gần
đây. Tuy nhiên tội phạm trong cuốn sách này được tác giả xem xét dưới góc độ tội phạm
sử dụng công nghệ cao với phạm vi nghiên cứu rộng hơn tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Sách chuyên khảo (2013), Tội phạm học Việt Nam, tập 2, chương XXIII: Đặc
điểm tội phạm học và phòng ngừa các tội phạm sử dụng công nghệ cao, GS.TS Trần
Đại Quang và GS.TS Nguyễn Xuân Yêm chủ biên, Nhà xuất bản CAND. Nội dung
cuốn sách trình bày một cách cơ bản dưới góc độ tội phạm học về đặc điểm tội phạm
học các tội phạm sử dụng công nghệ cao như: Khái niệm và đặc trưng cơ bản của các
tội phạm sử dụng công nghệ cao; Đặc điểm tình hình các tội phạm sử dụng công nghệ
cao; Đặc điểm nhân thân người phạm tội; Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm sử dụng công nghệ cao. Đồng thời đưa ra các biện pháp phòng ngừa các tội
phạm sử dụng công nghệ cao. Do cuốn sách được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm
học nên không đề cập sâu đến các đặc điểm liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nên không phản ánh được đầy đủ các đặc điểm của tội phạm trong lĩnh
vực này .
- Giáo trình (2012), Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao,TS Trần Văn
Hòa (chủ biên) và TS Nguyễn Ngọc Cương (biên soạn), Học viện an ninh nhân dân.
Giáo trình gồm 3 nội dung lớn như: Nhận thức chung về tội phạm sử dụng công
nghệ cao; Những biểu hiện thực tế của tội phạm sử dụng công nghệ cao và một số
phương pháp chiến thuật điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao. Trong giáo trình
tập thể tác giả tập trung đi sâu phân tích 5 tội danh được quy định tại chương XIX- Bộ
luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trong các tội danh này có những tội danh
không chỉ liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mà còn liên quan đến
tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử, do vậy phạm vi điều chỉnh của tài liệu là
rất rộng.
- Giáo trình (2014), Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao, TS Nguyễn Quang Nghĩa và Th.S Phạm Hải Bình (đồng chủ biên), Học
13
viện cảnh sát nhân dân. Giáo trình gồm 3 chương gồm: Nhận thức về tội phạm sử dụng
công nghệ cao; Công tác phòng, chống tội phạm theo chức năng của Cảnh sát phòng,
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; Quan hệ phối hợp của Cảnh sát phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao. Trong giáo trình các tác giả đã đưa ra khái niệm và phân
loại tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng như các phương thức, thủ đoạn, đặc điểm và
nguyên nhân, điều kiện của loại tội phạm này. Bên cạnh đó nội dung giáo trình tập trung
nhiều vào việc phân tích và đưa ra những vấn đề cơ bản liên quan đến công tác tổ chức,
hoạt động và sự phối hợp trong hoạt động của lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao, chưa nghiên cứu đi sâu vào các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Sách chuyên khảo (2008), An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia nhập WTO,
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân. Đây là công trình
nghiên cứu một cách công phu về những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đến an ninh quốc tế trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT. Cụ thể tại chương 10, tác
giả đã đề cập đến vấn đề an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
trong thời kỳ hội nhập. Những nội dung này đã phản ánh một phần hoạt động của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT và thương mại điện tử, chưa đề cập đến tội phạm trong lĩnh
vực mạng viễn thông.
- Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3, 2009 (trang 14-20), Tội phạm công nghệ
thông tin và sự khác biệt giữa tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông
thường”, Đặng Trung Hà. Trong bài viết tác giả đã trình bày khái niệm về tội phạm
công nghệ thông tin, phân biệt tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông
thường dựa trên 4 yếu tố cấu thành của tội phạm là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ
thể và khách thể. Dựa vào đó tác giả đã phân tích, nghiên cứu sâu hơn các đặc điểm về
tội phạm công nghệ thông tin như đặc điểm về chủ thể, hậu quả thiệt hại, hành vi phạm
tội… từ đó cho thấy sự khác biệt, đặc trưng của tội phạm CNTT so với các tội phạm
thông thường khác. Tuy nhiên bài viết chỉ phân tích về mặt lý luận, chưa có vụ việc cụ
thể để chứng minh các đặc điểm của loại tội phạm này.
1.2.3.Nhóm các công trình nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm,
đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam
- Luận án tiến sĩ (2014), Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện
tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Lại Kiên Cường, Học viện cảnh sát nhân dân.
Nội dung của luận án đề cập đến các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận của việc phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân.
Luận án đã đưa ra các khái niệm về thương mại điện tử, phân loại thương mại điện tử,
đặc điểm của thương mại điện tử có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm của
14
lực lượng Cảnh sát nhân dân. Khái niệm và đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực
thương mại điện tử cũng như thực trạng đấu tranh, xử lý loại tội phạm này. Tác giả đã
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương
mại điện tử như các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên
trách thực hiện hoạt động phòng ngừa… Đây là công trình khoa học nghiên cứu, tìm
hiểu, phân tích và đánh giá về loại tội phạm có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT tuy nhiên nội dung luận án cũng chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu việc
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử.
- Luận văn Thạc sỹ (2011), Đấu tranh phòng, chống các tội phạm sử dụng công
nghệ cao qua mạng máy tính ở Việt Nam hiện nay, Đỗ Chí Tuệ, Học viện khoa học xã
hội. Luận văn bao gồm 3 nội dung lớn đó là: Trình bày lý luận về các tội phạm sử
dụng công nghệ cao qua mạng máy tính theo quy định của pháp luật; Tình hình tội
phạm và công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm sử dụng công nghệ cao qua
mạng máy tính ở Việt Nam hiện nay; Đề xuất 1 số biện pháp nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng chống các tội phạm sử dụng công nghệ cao qua mạng máy tính ở Việt
Nam hiện nay. Luận văn đã làm rõ các khái niệm liên quan đến tội phạm sử dụng công
nghệ cao qua mạng máy tính như khái niệm về tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội
phạm sử dụng công nghệ cao qua mạng máy tính và các quy định của pháp luật liên
quan đến loại tội phạm này. Tác giả đã phân tích tình hình tội phạm sử dụng công
nghệ cao qua mạng máy tính thông qua 5 điều luật được quy định tại Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 2009 (từ Điều 224 – 226b) và các hành vi vi phạm pháp luật có liên
quan như tội tuyên truyền chống Nhà nước, tội tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy…
Từ thực trạng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này tác giả đã đề xuất các biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống, phòng ngừa. Nội dung
luận văn trình bày sâu về lý luận.
- Luận văn Thạc sỹ (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao trên địa bàn
Tp Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,Trần Văn Yên, Học
viện khoa học xã hội. Luận văn phân tích về tội phạm sử dụng công nghệ cao nhưng
giới hạn phạm vi nghiên cứu tại địa bàn Tp Hồ Chí Minh cũng như kết quả đấu tranh,
xử lý loại tội phạm này chỉ trong phạm vi thành phố. Luận văn cũng trình bày các cơ
sở lý luận, các quy định của pháp luật về tội phạm sử dụng công nghệ cao và phân tích
các đặc điểm của loại tội phạm này dựa trên 5 hành vi vi phạm được thực hiện phổ
biến trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh như hành vi lợi dụng mạng Internet và các thiết bị
kỹ thuật số để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Hành vi lợi dụng mạng Internet, các thiết bị
kỹ thuật số trộm cắp tài sản; hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc có sử dụng công nghệ
15
cao; Hành vi sử dụng công nghệ cao thực hiện hành vi phạm tội bị xử lý bằng các tội
danh khác; Hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc
thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Luận văn đã đánh giá thực trạng đấu
tranh phòng chống các hành vi vi phạm kể trên và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác phòng chống, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của luận văn còn hạn chế
trong khi đặc điểm của tội phạm sử dụng công nghệ cao là không biên giới.
- Luận văn Thạc sỹ (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam:
tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Cao Anh Đức, Học viện khoa học xã
hội. Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu tội phạm sử dụng công nghệ cao trong 4
năm từ 2010 – 2014 trên phạm vi toàn quốc. Nội dung luận văn cũng trích dẫn và phân
tích các khái niệm về tội phạm sử dụng công nghệ cao, các đặc điểm của tội phạm này
so với tội phạm truyền thống, những nguyên nhân và điều kiện. Các giải pháp của luận
văn đưa ra mang tính phòng ngừa là chính, các dự báo về tình hình tội phạm sử dụng
công nghệ cao còn thiếu các sở cứ khoa học.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010), “Phòng chống tội phạm truyền thống, tội
phạm phi truyền thống trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Học viện cảnh sát nhân
dân. Kỷ yếu hội thảo tập hợp 35 bài viết tham luận của các đại biểu là đại diện Ban
chỉ đạo chương trình quốc gia phòng chống tội phạm của Chính phủ, Viện khoa học
xã hội Việt Nam, đại diện lãnh đạo Bộ công an và các Tổng cục, các Cục nghiệp vụ,
Văn phòng Interpol Việt Nam, Văn phòng thường trực phòng chống ma túy, Tạp chí
Công an nhân dân, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, các trường Công an nhân dân phía
Bắc cùng các chuyên gia, nhà nghiên cứu tội phạm học. Trong các tham luận, đáng
chú ý là tham luận của Đại tá, TS Trần Văn Hòa – Trưởng phòng 9 Cục Cảnh sát
kinh tế với chủ đề “Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế”. Trong tham luận này tác giả đã đề cập đến tình hình tội phạm
trong lĩnh vực thương mại điện tử, công nghệ thông tin trên thế giới cũng như ở Việt
Nam và xác định tội phạm trong lĩnh vực này đang có chiều hướng gia tăng và phát
triển ở Việt Nam, gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng cần được quan tâm nghiên
cứu để thống nhất nhận thức về mặt lý luận và thực tiễn trong việc đánh giá và đề ra
các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả trong thời gian tới. Tuy
nhiên nội dung này chỉ dừng lại ở dạng bài viết tham luận nên nội dung chưa thể
chuyên sâu, cũng như chưa phân tích đầy đủ đặc điểm, phương thức, thủ đoạn của tội
phạm này và chưa đưa ra được các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn loại tội phạm
nguy hiểm này.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010), “Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, đầu tư tài chính và kinh doanh trên
16
mạng internet”, Tổng cục cảnh sát, Bộ công an. Kỷ yếu hội thảo đã tập hợp được 21
bài viết của lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị Cảnh sát kinh tế và Cảnh sát phòng chống tội
phạm sử dụng CNC trực tiếp làm công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, tài chính cùng lãnh đạo và chuyên gia các
ngành tài chính, ngân hàng… Tại buổi hội thảo, 12 học giả đã trình bày các tham luận
cũng như thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm với minh chứng là các vụ án
điển hình như Colony lừa đảo thông qua hoạt động đầu tư tài chính đa cấp xảy ra ở 38
tỉnh, thành phố thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng; vụ Tan Wei Hong sinh năm 1981, quốc
tịch Malaysia đã dung thẻ tín dụng giả để thanh toán mua hàng lưu niệm đắt tiền của
Louis Vuitton 15 Ngô Quyền Hà Nội, chiếm đoạt 569.102.277 đồng …Đây là hội thảo
đầu tiên đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực có liên quan đến CNTT&VT, song do
khuôn khổ là hội thảo nên các bài viết cũng như tham luận chưa phản ánh hết được
tình hình cũng như thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm sử dụng CNTT&VT ở
giai đoạn hiện nay.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010), “Tình hình và công tác đấu tranh chống tội
phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”, Tổng cục Cảnh
sát, Bộ Công an. Kỷ yếu hội thảo đã tập hợp được 19 bài viết tham luận của lãnh đạo
Công an các địa phương trọng điểm cũng như các Cục nghiệp vụ thuộc Tổng cục Cảnh
sát PCTP, Văn phòng Interpol Việt Nam. Trong buổi hội thảo, đã có 11 tham luận
được trình bày, các tham luận của các tác giả đề thống nhất tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ cao là loại tội phạm xuyên quốc gia đang có chiều hướng phát triển ở Việt
Nam cũng như trên thế giới, các đối tượng trong nước móc nối với các đối tượng ở
nước ngoài để thực hiện các hành vi trộm cắp thẻ tín dụng, lừa đảo qua mạng với hậu
quả rất lớn đòi hỏi các cơ quan chức năng cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để
đấu tranh có hiệu quả trong thời gian tới.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học "Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao -
Những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo", Học viện Cảnh sát nhân dân tháng
11/2014. Kỷ yếu là tập hợp các bài viết của các tác giả là Giảng viên, Nghiên cứu viên
của Học viện cảnh sát nhân dân. Trên cơ sở phân tích thực trạng số liệu về các hành vi
vi phạm pháp luật liên quan đến tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam ngày
càng phát triển và diễn biến phức tạp, đòi hỏi đơn vị đào tạo là Học viện cảnh sát nhân
dân cần giải quyết một số vấn đề trong công tác đào tạo lực lượng Cảnh sát trực tiếp
điều tra, xử lý loại tội phạm này. Nội dung của kỷ yếu tập trung nhiều vào công tác
đào tạo, huấn luyện về chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng Cảnh sát phòng chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao.
17
- Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp quốc gia (2019) “Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam”, Bộ tư pháp: kỷ yếu gồm 29 tham luận của các cơ quan, tổ chức, chuyên gia luật
đánh giá về nhiều lĩnh vực chịu sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các
vấn đề pháp lý đặt ra. Trong các bài tham luận có những tham luận liên quan trực tiếp đến
việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như tham luận số 20 “An toàn
thông tin mạng trong bối cảnh công nghiệp lần thứ 4: Chính sách, pháp luật và thực tiễn”
của Cuc An toàn thông tin – Bộ TT&TT; tham luận số 23 “Thực trạng đấu tranh với tội
phạm mạng trong bối cảnh công nghiệp lần thứ tư” của Bộ Công an.
- Bài tham luận của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm tại Hội nghị
“Tăng cường hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm
phạm trật tự an toàn, xã hội”, Hà Nội 29-30/10/2014. Bài tham luận đã đưa ra tổng
quan về tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên thế giới và tại Việt Nam, đưa
ra những nhận định và dự báo về tình hình diễn biến của loại tội phạm này trong thời
gian tới. Bên cạnh đó cũng tổng kết những kết quả hợp tác quốc tế trong phòng chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế
giới do xuất phát từ đặc điểm của loại tội phạm này là không biên giới, mang tính toàn
cầu.Bài tham luận chỉ đưa ra những nhận định chung, chưa đi sâu vào việc phân tích
loại tội phạm này chỉ đề cập đến tội phạm sử dụng công nghệ cao nói chung mà không
đề cập cụ thể đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
- Báo cáo công tác đấu tranh, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, C50 và
A05 Bộ công an (2015 - 2019). Báo cáo gồm 3 nội dung lớn như : Tình hình tội phạm
sử dụng công nghệ cao; Kết quả các mặt công tác năm 2015 - 2019; Phương hướng
công tác. Đặc biệt khi tổng kết về tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt
Nam trong năm 2015 - 2019 báo cáo đã chia rõ tội phạm trong lĩnh vực thương mại
điện tử; trong hoạt động thanh toán thẻ, thanh toán điện tử; trong lĩnh vực viễn thông;
tình trạng sử dụng mạng internet để tống tiền cá nhân, doanh nghiệp; Tổ chức đánh
bạc và đánh bạc trực tuyến; Sử dụng mạng Internet để phát tán các ấn phẩm đồi trụy…
Đặc biệt đang xảy ra tình trạng các đối tượng phạm tội tiếp tục lợi dụng triệt để
CNTT&MVT nhằm tấn công, đe dọa an ninh quốc gia…Những dự báo về tình hình tội
phạm sử dụng công nghệ cao trong thời gian tới tại Việt Nam được đưa ra trong báo
cáo cho thấy loại tội phạm này còn diễn biến hết sức phức tạp với những hành vi,
phương thức, thủ đoạn phạm tội mới tinh vi hơn rất nhiều tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn
ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của đất nước.
Báo cáo là cơ sở quan trọng để đánh giá tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao nói
chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng tại Việt Nam hiện nay.
18
1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu các công trình có liên quan đến nội dung của Luận án ở cả
trong và ngoài nước đã đề cập ở trên, Nghiên cứu sinh có nhận xét, đánh giá như sau
1.3.1 Những kết quả nghiên cứu đạt được
- Các công trình, bài viết khoa học và kết quả nghiên cứu đã có những đóng góp
nhất định, xác định phương hướng cho sự phát triển về mặt lý luận phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói
riêng. Các công trình khoa học đã tập trung luận giải, phân tích về nguyên nhân, điều
kiện, đặc điểm, mục đích, phương thức hoạt động, mục tiêu , đối tượng tiến hành, hậu
quả, tác hại và xu hướng diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Từ đó có
những cơ sở khoa học và thực tiễn để dự báo một cách tương đối chính xác sự phát triển
của loại tội phạm này và có những biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn.
- Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã có một số đóng góp quan trọng
trong việc làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các công trình này thường được các nhà lý luận, chuyên
gia, các nhà thực tiễn nghiên cứu dưới các phương diện khác nhau như tội phạm học,
điều tra tội phạm, kiểm soát tội phạm, xã hội học tội phạm… cả trên phạm vi rộng và
hẹp. Các tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân, điều kiện khách quan và chủ quan để tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tồn tại và phát triển, từ đó đề xuất các biện pháp
nhằm triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện này.
- Các công trình nghiên cứu tập trung đề cập đến chính sách, quan điểm, phương
pháp, cách thức đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của cộng
đồng quốc tế, của các tổ chức quốc tế khu vực và của các quốc gia. Qua đó, nhiều tác giả
đưa ra các bình luận, minh chứng về những tích cực, hạn chế của hoạt động này trong thời
gian qua và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn,
trừng trị, xử lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian tới. Các cơ quan tiến
hành phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam có
thể tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về phương
pháp, cách thức phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm này.
- Một trong những kết quả nghiên cứu của các công trình có ý nghĩa quan trọng
đối với Luận án là đã có một số công trình đã đề cập, luận bàn chỉ ra các yếu tố cấu
thành, các đặc điểm nhận diện, các đặc trưng của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT so với các loại tội phạm truyền thống khác; đưa ra những khái niệm về
các tội phạm có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như tội phạm
mạng, tội phạm máy tính, tội phạm sử dụng công nghệ cao… một số công trình cũng
đã đề cập đến cơ sở pháp lý quốc tế, pháp luật của một số quốc gia, trong đó có pháp
19
luật Việt Nam có các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng như các
biện pháp xử lý, trừng trị các tội phạm này.
- Do mục đích và đối tượng nghiên cứu các nhau nên nhiều công trình khoa học đã
nghiên cứu về phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT dưới góc
độ quản lý nhà nước mang tầm vĩ mô thể hiện phương hướng, quan điểm chỉ đạo của các
cơ quan chức năng trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại
Việt Nam thể hiện các bản chất, đặc trưng riêng có của Nhà nước và pháp luật Việt Nam.
1.3.2 Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu hoặc tiếp tục nghiên cứu trong
Luận án
Qua khảo cứu các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề
tài của luận án, cho thấy ngoài các kết quả đã đạt được như đã phân tích ở trên mà
Luận án có thể kế thừa thì vẫn còn các vấn đề sau đây cần phải đặt ra để nghiên cứu
trong luận án, cụ thể như sau:
- Tuy đã có nhiều công trình trong và ngoài nước luận bàn về khái niệm tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng do tính chất phức tạp của vấn đề nên cho
đến nay vẫn chưa có tác giả, công trình nghiên cứu nào đưa ra được định nghĩa về tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có tính khái quát, đầy đủ được thừa nhận rộng rãi.
Các tác giả mới chỉ đưa ra được một số định nghĩa có liên quan như tội phạm sử dụng
công nghệ cao, tội phạm máy tính, tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao
qua mạng máy tính…Do vậy Luận án cần xây dựng định nghĩa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT và tiếp tục hoàn thiện một số vấn đề lý luận về phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam; làm rõ hơn những lý luận về
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, đặc biệt về phương thức, thủ đoạn hoạt động
của loại tội phạm này. Từ đó đề xuất các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
- Ở trong nước, đến nay tuy đã có một số công trình tập trung nghiên cứu về
pháp luật phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong đó có pháp luật
hình sự nhưng các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc đề xuất hoàn thiện mang tính
định hướng như cần ban hành Luật phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; sửa
đổi, bổ sung các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của BLHS, chưa
đưa ra được nội dung, mô hình pháp lý về các tội phạm này. Hơn nữa, gần đây, tại kỳ
họp thứ 10, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật an toàn thông tin mạng, sửa đổi bổ
sung 10 điều luật liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại mục 2
Chương XXI (Điều 285 – 294). So với quy định về tội trong lĩnh vực CNTT&MVT
của BLHS năm 2015 cho thấy, các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
có nội dung điều chỉnh rộng hơn, nhiều hành vi được coi là tội phạm trong lĩnh vực
20
CNTT&MVT, phương tiện điện tử theo Luật này chưa được coi là tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT theo BLHS năm 2009. Đồng thời, khi so sánh, đối chiếu các quy
định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong BLHS với các quy định của
Interpol và một số quốc gia khác về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mà Việt
Nam là thành viên cho thấy, chưa có một cách hiểu thống nhất về loại tội phạm này vì
nhiều quốc gia trên thế giới gọi đây là tội phạm mạng, tội phạm máy tính (cyber
crime). Vấn đề này cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập, đề xuất
phương hướng giải quyết để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, sự tương
thích của pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế, không để xảy ra hiện tượng xung
đột, chồng chéo mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật cả trong và ngoài nước về
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Từ thực trạng nêu trên, vấn đề đặt ra cho việc nghiên cứu Luận án là (1) Đi sâu
nghiên cứu, làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và chính sách hình sự đối với các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (2) Phân tích, so sánh, đối chiếu làm rõ quy định
của pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (3) Nghiên
cứu, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
như nhận thức của các chủ thể về mục đích, nội dung, các nguyên tắc, nội dung, biện
pháp phòng ngừa, quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa. Đồng thời
làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và những nguyên nhân của
những hạn chế, thiếu sót đó trong thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT.(4) Đề xuất các giải pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua việc tìm hiểu tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về
phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở
Việt nam nói riêng cho chúng ta một số kết luận như sau:
- Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:
Việc nghiên cứu về tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao, tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT được các quốc gia và các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm
trong những năm gần đây do tính chất và hậu quả nguy hiểm cũng như quy mô xuyên
quốc gia của loại tội phạm này đòi hỏi một sự phối hợp và hợp tác không chỉ trên
phạm vi quốc gia, mà còn phối hợp hành động trên phạm vi quốc tế. Thời gian qua đã
có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về tội phạm cũng như vấn đề phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở lý
luận quan trọng có tính chất tham khảo cho các công trình khoa học nghiên cứu trong
nước về tội phạm này.
- Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam:
Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu liên quan đến hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở nước ta đã được một số tác giả đề
cập đến ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong những công trình nghiên cứu
dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có các công trình nghiên cứu như : sách
chuyên khảo, giáo trình, luận án, các bài viết hội thảo khoa học… bao gồm:
+ Nhóm công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tội phạm học;
+ Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông tại Việt Nam;
+ Nhóm các công trình nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm, đấu tranh
phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam
- Đánh giá tình hình nghiên cứu:
Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được của các công trình nghiên cứu
trong và ngoải nước về phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tác giả đã
đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong Luận án.
22
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ
MẠNG VIỄN THÔNG
2.1 Khái quát về công nghệ thông tin, mạng viễn thông và tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
2.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin và mạng viễn thông
2.1.1.1 Khái niệm công nghệ thông tin
Công nghệ Thông tin, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là một
nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ,
bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ
thông tin được đề cập trong Nghị quyết số 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ về
phát triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những năm 90: "Công nghệ thông tin là
tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ
yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội”[39]
Đây được coi là cách hiểu chính thức về công nghệ thông tin trong hoàn cảnh
đất nước ta còn đang khó khăn, tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới
về phát triển khoa học công nghệ và đây là ngành khoa học còn rất mới tại Việt Nam.
Định nghĩa này cho thấy công nghệ thông tin được xác định rõ ràng, cụ thể “là tập
hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại”, trong
đó chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông. Mục đích phát triển công nghệ thông
tin ở nước ta thời điểm đó là “nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội”. Định nghĩa này đã liệt kê các nội dung của ngành công nghệ
thông tin, qua đó thấy được vai trò to lớn của lĩnh vực này trong sự phát triển của con
người và xã hội, đây là cơ sở cho các định nghĩa sau này về công nghệ thông tin tại
Việt Nam. Tuy nhiên cách hiểu này còn đơn giản, chưa bao hàm hết các nội dung của
ngành công nghệ thông tin, chưa tiệm cận đến các khái niệm về công nghệ thông tin
trên thế giới.
Thuật ngữ "Công nghệ thông tin" xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài viết
xuất bản tại tạp chí Harvard Business Review. Hai tác giả của bài viết, Leavitt và
Whisler đã bình luận: "Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là
công nghệ thông tin (Information Technology - IT)." Các lĩnh vực chính của công
23
nghệ thông tin bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ và phổ biến âm thanh, phim
ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và
truyền thông. Có thể kể đến một số lĩnh vực hiện đại và nổi bật của công nghệ thông
tin như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh tin, điện toán đám mây, hệ thống
thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát
triển về CNTT chủ yếu trong ngành khoa học máy tính. Thuật ngữ về công nghệ thông
tin đã làm rõ các nội dung của ngành khoa học này và xác định không phải là “kỹ thuật
máy tính” mà là “khoa học máy tính”, hiện nay cụm từ này được sử dụng tương đối
phổ biến.
Điều 4 Luật công nghệ thông tin quy định “Công nghệ thông tin là tập hợp các
phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền
đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”[72].. Đây là quy định đầu tiên,
chính thức về công nghệ thông tin được thể hiện trong một văn bản pháp luật của Nhà
nước. Điều này thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của công nghệ
thông tin trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Kế thừa và phát triển định
nghĩa về công nghệ thông tin trong Nghị quyết 49/CP, quy định tại Điều 4 Luật công
nghệ thông tin 2006 đã làm rõ hơn phương thức hoạt động của ngành công nghệ thông
tin là “sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”.Tuy
nhiên quy định này không đề cập đến vai trò của CNTT.
Như vậy, công nghệ thông tin là ngành khoa học có sử dụng máy tính và phần
mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin.Từ
những khái niệm, quy định về công nghệ thông tin như trên, có thể định nghĩa về
CNTT như sau: Công nghệ thông tin là ngành khoa học sử dụng các phương pháp,
công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ
và trao đổi thông tin số trên cơ sở kết hợp giữa máy tính và viễn thông.
2.1.1.2 Vai trò của công nghệ thông tin
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã ở một bước phát triển cao đó là số hóa tất
cả các dữ liệu thông tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất cả chúng ta lại với nhau.
Mọi loại thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về dạng kỹ thuật số để
bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người. Những
công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia
sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo phương thức hoàn toàn
mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm, các tập tục, các thói quen truyền
thống, và thậm chí cả cách nhìn nhận các giá trị trong cuộc sống. Đặc biệt thế giới
đang chứng kiến sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (còn gọi là
24
Cuộc cách mạng 4.0), nội dung diễn ra trên 3 lĩnh vực chính là công nghệ sinh học, kỹ
thuật số và vật lý. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ
nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
Hiện Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu
Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng
đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt. Với ngành công nghệ thông tin
cùng với sự phát triển vượt bậc đem đến cho con người một cuộc sống tiện nghi, hoàn
hảo thì bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con
người vào nhiều rủi ro về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo
vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ luỵ khôn lường. CNTT đã phát huy và thể
hiện những vai trò vô cùng to lớn đối với các lĩnh vực trong cuộc sống, vai trò đó được
thể hiện ở những điểm sau đây:
+. Giải phóng sức mạnh vật chất, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp
Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển
ở nước ta, nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn
dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh
tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo
an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [3].
+. Thay đổi cơ cấu kinh tế, phương thức lao động sản xuất
Tác động của CNTT đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ
thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong
phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người Trong nền kinh
tế tri thức, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá. Máy móc không chỉ thay thế
con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế con người ở những khâu phức tạp
của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao tác lao động của con người mà cả
thao tác tư duy.
+. Tăng cường kết nối, thu hẹp khoảng cách địa lý
Công nghệ thông tin là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri
thức. Mạng thông tin là môi trường lý tưởng cho sự sáng tạo, là phương tiện quan
trọng để quảng bá và nhân rộng nhanh vốn tri thức, động lực của sự phát triển, thúc
đẩy phát triển dân chủ trong xã hội, phát triển năng lực của con người…công nghệ
thông tin sẽ nhanh chóng thay đổi thế giới một cách mạnh mẽ, sự chuyển đổi này có vị
thế trong lịch sử như một cuộc cách mạng kinh tế - xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến
25
đời sống con người. Mạng thông tin lớn và mạnh có thể nối các cơ quan quản lý với
đối tượng quản lý, giúp cho quá trình ra quyết định được thực hiện nhanh chóng, kịp
thời và chính xác và tiết kiệm thông qua các hoạt động giao ban trực tuyến từ Trung
ương đến cơ sở theo định kỳ hoặc khi có sự vụ đột biến xảy ra. Thương mại điện tử
xuất hiện, khách hàng có thể tiếp xúc và tìm hiểu mọi thông tin về doanh nghiệp dễ
dàng ở bất cứ nơi nào, thời gian nào. Doanh nghiệp sẽ nhận được phản hồi của khách
hàng nhanh chóng về chiến lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hoá của các doanh
nghiệp để từ đó có những thay đổi về chiến lược kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu
của thị trường. An ninh quốc phòng cũng có những thay đổi cơ bản, công nghệ thông
tin đã tạo ra những thế hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh "thông minh", từ đó xuất
hiện hình thái chiến tranh, phương thức tác chiến mới, làm thay đổi sâu sắc học thuyết
quân sự của nhiều quốc gia.
Như vậy, với sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm thay đổi cơ bản cơ
cấu kinh tế, phương thức tổ chức và sản xuất, cách tiếp cận của từng người tới tri thức,
giải trí, phương pháp tư duy và giải quyết công việc và các mối quan hệ trong xã hội.
Sáng tạo ra những giá trị mới và các việc làm mới, cuộc cách mạng này sẽ mang lại
những thị trường mới và những nghề nghiệp mới với những đột phá công nghệ có tính
thách thức đối với toàn thế giới. Hơn nữa, chính bản thân công nghệ thông tin đã trực
tiếp tạo ra sự biến đổi lớn lao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội loài người.
Bên cạnh đó, mặt trái của công nghệ thông tin, của nền kinh tế tri thức đang đặt ra
những thách thức rất lớn, đó là sự cách biệt giàu nghèo, sự phân hoá giữa một bên là
các quốc gia, dân tộc biết nắm bắt và khai phá những nguồn lợi từ công nghệ thông tin,
hạn chế những mặt tiêu cực mà nó đưa lại với các quốc gia dân tộc không có hoặc
chưa phát triển những công nghệ đó. Vì vậy với sự phát triển như vũ bão của CNTT
hiện nay, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được CNTT thì
sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình.
2.1.1.3 Khái niệm mạng viễn thông
Theo từ điển Tiếng Việt, viễn thông là việc truyền dẫn thông tin giao tiếp qua
một khoảng cách đáng kể về địa lý [47]. Vào thời xưa, viễn thông gồm việc dùng các
tín hiệu hình ảnh, chẳng hạn như đèn hiệu, tín hiệu khói, điện báo semaphore, tín hiệu
cờ, quang báo, hoặc tin nhắn âm thanh như tiếng trống, tiếng tù và, tiếng còi. Thời
hiện đại, viễn thông là việc dùng các thiết bị điện như máy điện báo, điện thoại, máy
telex, cũng như dùng thông tin liên lạc vi ba, vô tuyến, sợi quang và kết hợp với vệ
tinh thông tin và Internet.
Cuộc cách mạng trong ngành viễn thông không dây bắt đầu vào thập niên 1900 với
những phát triển tiên phong trong lĩnh vực vô tuyến và thông tin liên lạc không dây nhờ
26
Nikola Tesla và Guglielmo Marconi. Marconi đã giành giải Nobel Vật lý năm 1909 cho
những nỗ lực của ông. Các nhà phát minh và phát triển tiên phong đáng chú ý khác trong
lĩnh vực điện và điện tử gồm Charles Wheatstone và Samuel Morse (điện báo), Alexander
Graham Bell (điện thoại), Edwin Armstrong, và Lee de Forest (vô tuyến), cũng như John
Logie Baird và Philo Farnsworth (truyền hình).
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật viễn thông “Mạng viễn thông là tập hợp
thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn
thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông” [77]
2.1.1.4 Vai trò của mạng viễn thông
+. Vận chuyển tri thức, dữ liệu
Có thể nói mạng viễn thông đã làm thay đổi và hiện thực hóa khả năng liên kết của
mỗi người, của mỗi quốc gia, gắn kết mọi người với nhau nhờ một mạng lưới viễn thông
vô hình và hữu hình trên khắp trái đất . Sự hội tụ trong lĩnh vực viễn thông cùng với sự
phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng và truyền dữ liệu của con người cũng tăng lên
nhanh chóng. Ngành viễn thông đang đóng góp vai trò to lớn trong việc vận chuyển đưa
tri thức của loài người đến mỗi người, thúc đẩy quá trình sáng tạo đưa thông tin khắp nơi
về các ngành lĩnh vực khoa học, các thông tin giải trí cũng như thời sự khác.
+. Thay đổi phương thức kết nối
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng viễn thông giúp người sử
dụng có thể gọi điện thoại qua mạng Internet, có thể xem hình ảnh của bạn bè trên
khắp thế giới, có thể chia sẻ nguồn dữ liệu, có thể thực hiện những giao dịch mua bán
tới mọi nơi trên thế giới một cách đơn giản. Mạng viễn thông ngày càng tạo nên một
thế giới gần hơn cho tất cả mọi người, xóa đi mọi trở ngại về khoảng cách địa lý và tạo
ra nhiều cơ hội giao lưu hợp tác văn hoá, xã hội, kinh tế. Mặt khác, mạng viễn thông
còn góp phần thay đổi đáng kể phương thức, cách thức làm việc, kinh doanh, vui chơi,
tìm kiếm thông tin… của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
+. Đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin
Với sự phát triển lớn mạnh của các phương tiện, thiết bị mạng viễn thông đã
giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin, rút ngắn thời gian giao dịch thương mại,
hỗ trợ hiệu quả cho việc quản lý, giảm chi phí vận chuyển. Là kênh quan trọng nhất
trong việc cảnh báo, thông báo với người dân về bệnh dịch và các hiểm họa thiên
nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần… đẩy mạnh hoặc duy trì sự quản lý liên quan
đến các dịch vụ và chương trình của Chính phủ bằng cách chia sẻ thông tin một cách
nhanh nhất và hiệu quả nhất.
27
2.1.2 Khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin
và mạng viễn thông
2.1.2.1 Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Hiện nay trên thế giới chưa có một khái niệm chung nhất về tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT. Trong khuôn khổ cuộc họp lần thứ 10 của Đại hội đồng liên hợp
quốc về ngăn chặn và xử lý tội phạm được tổ chức tại thành phố Viên (Áo) từ ngày 10-
17/10/2000, một cuộc hội thảo được tổ chức để bàn về vấn đề tội phạm trong lĩnh vực
CNTT và việc định nghĩa về tội phạm này được đưa ra thành hai quan điểm.
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
mạng viễn thông là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với
mục đích xâm phạm đến an toàn của hệ thống máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu
của hệ thống đó [64]. Loại tội phạm theo định nghĩa này có thể được hiểu là loại
tội phạm mới, có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính, làm ảnh hưởng và
gây thiệt hại cho người sử dụng.
Thứ hai, theo nghĩa rộng, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng
viễn thông là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có
liên quan đến máy tính, mạng máy tính, bao gồm các loại tội phạm như chiếm giữ bất
hợp pháp và đe dọa hoặc làm sai lệch thông tin bằng phương pháp sử dụng mạng máy
tính [64]. Loại tội phạm theo định nghĩa này là rất rộng, bao gồm nhiều loại hành vi
của tội phạm truyền thống được thực hiện với sự trợ giúp của công cụ máy tính mà
phổ biến hiện nay như các hành vi lừa đảo, trốn lậu cước viễn thông,...
Theo định nghĩa trên thì tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là những tội
phạm liên quan đến máy tính và các mạng thông tin. Định nghĩa này đã thừa nhận tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bao gồm cả các tội phạm mới hình thành trong môi
trường mới của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống nhưng được
thực hiện với sự giúp đỡ của các phương tiện CNTT&MVT mới.
Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được phân biệt với một số
khái niệm về các tội phạm có liên quan như
+ Tội phạm công nghệ cao (high-tech crime), là bất kỳ hành động phi pháp nào
liên quan đến một máy tính hoặc một mạng máy tính [85]. Máy vi tính ở đây có thể
được dùng như một phương tiện để thực hiện một tội phạm hay có thể là mục tiêu của
hành vi phạm tội (điều này giống với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT), tuy
nhiên lại có phạm vi hẹp hơn so với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vì tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ sử dụng máy tính mà còn sử dụng các thiết bị
viễn thông làm phương tiện hoặc mục đích phạm tội.
28
+ Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, theo Bộ tư pháp Mỹ “Tội phạm trong lĩnh
vực CNTT là bất cứ hành vi vi phạm pháp luật hình sự nào có liên quan đến việc sử
dụng các hiểu biết về công nghệ máy tính trong việc phạm tội, điều tra hoặc xét xử
[85]. Loại tội này chỉ giới hạn trong lĩnh vực CNTT chưa mở rộng như các tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT.
+ Tội phạm sử dụng công nghệ cao, được hiểu là tội phạm được thực hiện trình
độ cao tác động trái pháp luật đến thông tin số được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ
thống máy tính, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà
nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân [85]. Khái niệm tội
phạm này đã làm rõ nội hàm của tội phạm sử dụng công nghệ cao, tuy nhiên nó vẫn
chỉ đề cập đến tội phạm liên quan đến CNTT, liên quan đến mạng viễn thông chưa
được đề cập một cách đầy đủ.
+ Tội phạm máy tính (computer crime) là hành vi vi phạm pháp luật hình sự do
người có năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng máy tính một cách cố ý hoặc vô ý để thực
hiện hành vi phạm tội, lưu trữ thông tin phạm tội hoặc xâm phạm đến hoạt động bình
thường và an toàn của máy tính, hệ thống mạng máy tính [85]. Khái niệm này đã chỉ rất
rõ, cụ thể về một loại tội phạm trong đó bao gồm đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm,
tuy nhiên loại tội phạm này vẫn chỉ liên quan đến máy tính, mạng máy tính.
+ Tội phạm mạng (cyber crime) là hành vi vi phạm pháp luật hình sự được thực
hiện trên mạng máy tính, mạng internet [85]. Khái niệm về loại tội phạm này còn
chung chung, chưa mang tính cụ thể như tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
+ Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc
phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự [85]. Khái
niệm này gần giống với khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, tuy nhiên lĩnh
vực viễn thông chưa được đề cập đến.
Như vậy có rất nhiều định nghĩa có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về
loại tội phạm này. Còn có nhiều quan niệm khác nhau về việc có nên coi đây là loại
tội phạm hoàn toàn mới so với các tội phạm truyền thống hay không, và tương ứng
với nó là một hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự riêng để điều chỉnh. Dựa trên
những dấu hiệu của tội phạm trong pháp luật hình sự và quan niệm về tội phạm mạng
ở một số nước trên thế giới, có thể thấy: trước hết, xét về bản chất thì tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT cũng có đầy đủ các tính chất, đặc điểm như mọi tội phạm
truyền thống khác, nghĩa là cũng được coi là những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
gồm 4 yếu tố cấu thành cơ bản. Điểm khác biệt với những tội phạm khác là, đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì công nghệ thông tin như máy tính, mạng
29
máy tính và các thiết bị viễn thông có vai trò, mức độ nhất định trong việc thực hiện,
che giấu và gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội [55]. Các
thiết bị phần cứng như máy tính, thiết bị số, các thiết bị truyền dẫn, kết cấu hạ tầng
mạng và các chương trình máy tính đóng vai trò là công cụ thiết yếu trong quá trình
thực hiện tội phạm mà nếu thiếu CNTT&MVT thì tội phạm này không thể thực hiện
được. Đánh giá một cách tổng thể có thể thấy rằng, đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT thì các thiết bị công nghệ thông tin và viễn thông có thể được thể hiện
dưới nhiều góc độ khác nhau như có thể là khách thể của tội phạm, có thể là công cụ
phạm tội...
Dưới góc độ là một bộ phận của khách thể của tội phạm, hiểu theo nghĩa đơn
giản nhất, máy tính và các các thiết bị viễn thông khác là một loại tài sản có giá trị. Do
vậy, nó có thể trở thành đối tượng xâm hại của các tội xâm phạm sở hữu như trộm cắp
tài sản. Hiểu theo một góc độ phức tạp hơn, máy tính và các thiết bị viễn thông với vai
trò như là một bộ phận của khách thể của tội phạm còn được thể hiện trong việc tội
phạm cố tình phá hoại hay trộm cắp, nhằm xóa bỏ hoặc lấy cắp các thông tin mà nó
chứa đựng.
Dưới góc độ là công cụ phạm tội, máy tính và các thiết bị viễn thông khác ngày
càng được các loại tội phạm khác nhau sử dụng vì những khả năng ưu việt của chúng.
Việc sử dụng máy tính và các thiết bị viễn thông làm công cụ phạm tội cũng được chia
làm hai loại: thứ nhất, máy tính và các thiết bị viễn thông được sử dụng như là công cụ
để thực hiện các tội phạm truyền thống như tội đánh bạc, tội trộm cắp cước viễn
thông... thứ hai, máy tính và các thiết bị viễn thông cùng những thông tin được lưu giữ
trong đó được người phạm tội sử dụng để thực hiện tội phạm như đánh cắp tài khoản,
thông tin cá nhân...
Từ những phân tích trên cho thấy, có thể định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do
người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng CNTT&MVT, sử dụng kiến thức,
kỹ năng hiểu biết của mình về CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội. Các tội
phạm này được quy định tại mục 2 chương XXI, từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 2015.
2.1.2.2 Các yếu tố cấu thành của các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và mạng viễn thông
a. Khách thể của tội phạm
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được xếp vào Chương các tội phạm xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của Bộ luật hình sự. Do đó, nhóm tội phạm
này xâm phạm đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực an toàn trật tự xã hội. Nói một
30
cách cụ thể, loại tội này xâm hại đến an toàn trong hoạt động viễn thông và công nghệ
thông tin, gây ra những những ách tắc, rối loạn và thiệt hại về nhiều mặt cho đời sống
xã hội. Trên cơ sở khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được nêu ở
phần trên, chúng ta có thể chia khách thể của các tội phạm này thành hai loại:
Thứ nhất, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT xâm phạm, làm ảnh hưởng
đến hoạt động bình thường của mạng viễn thông, hệ thống máy tính, mạng máy tính và
thiết bị liên quan. Sự xâm phạm ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là từ các việc
làm hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệnh thông tin của mạng viễn thông, máy tính, mạng
máy tính, các thiết bị liên quan cũng như các thông tin trong hệ thống máy tính và
mạng máy tính. Các đối tượng này rất đa dạng, từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị
của mạng máy tính, mạng viễn thông... đến các chương trình máy tính, các thông tin
chứa đựng trong hệ thống máy tính và hệ thống mạng. Đây là nhóm khách thể của 03
tội danh về tin học trong Bộ luật hình sự năm 1999 của Việt Nam (quy định tại Điều
224, Điều 225, Điều 226).
Thứ hai, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã sử dụng máy tính và
mạng máy tính, mạng viễn thông như là công cụ để xâm phạm đến lợi ích chính đáng
của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Cụ thể các tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT đã gây hại đến hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet, thiết bị số [46] ; an toàn thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân
[46]; sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân [46]. Đây là những khách thể rất
rộng và có liên quan đến các tội phạm truyền thống đã sử dụng các thành tựu của
CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội, được quy định tại mục 2 chương XXI Bộ
luật hình sự 2015 từ Điều 285 – Điều 294. Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật mới,
các tội phạm này có thể gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng về nhiều mặt cho
hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và đời sống xã hội
không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia.
b. Mặt khách quan của tội phạm
Căn cứ vào Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 và hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC về hướng
dẫn áp dụng quy định của BLHS về một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, thì
chúng ta có thể nhận thấy mặt khách quan của các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT thể hiện như sau:
- Hành vi thể hiện ở việc phát tán (cố ý lan truyền) vi rút, chương trình tin học
có tính năng gây hại (gây rối loạn hoạt động, phong tỏa, sao chép, làm biến dạng, huỷ
hoại các dữ liệu cho mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số. Quy
định tại Điều 224 BLHS sửa đổi năm 2009 và Điều 6 Thông tư.
31
- Cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị
số quy định tại Điều 225 BLHS sửa đổi năm 2009.
- Truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet
hoặc thiết bị số của người khác quy định tại Điều 226a BLHS sửa đổi năm 2009.
- Sử dụng CNTT nhằm chiếm đoạt tài sản bao gồm những hành vi lừa đảo, gian
lận nhằm chiếm đoạt tài sản thông qua sử dụng máy tính, mạng máy tính, mạng viễn
thông quy định tại Điều 226b BLHS sửa đổi năm 2009.
Theo Bộ luật hình sự năm 2015 mặt khách quan của các tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT được bổ sung bằng các điều luật sau:
- Hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm
để sử dụng vào mục đích trái pháp luật quy định tại Điều 285 BLHS năm 2015;
- Hành vi thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin
về tài khoản ngân hàng quy định tại Điều 291 BLHS năm 2015;
- Hành vi sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp
cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh quy định tại Điều 293
BLHS năm 2015;
- Hành vi cố ý gây nhiễu có hại, cản trở hoạt động bình thường của hệ thống
thông tin vô tuyến điện quy định tại Điều 294 BLHS năm 2015.
Trong mặt khách quan của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ngoài
hành vi vi phạm còn có các yếu tố về hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả. Tuy nhiên, các hành vi phạm tội của nhóm tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT cần phải gây ra hậu quả thiệt hại nhất định thì mới bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Điều 224 BLHS sửa đổi năm 2009, Điều 286 BLHS năm 2015 quy
định nếu chỉ tạo ra các chương trình vi-rút nhưng không lan truyền hoặc phát tán
chúng, không gây ra hậu quả thiệt hại thì không cấu thành tội phạm; tội phạm hoàn
thành từ thời điểm xảy ra các thiệt hại. Trong trường hợp tuy hành vi phạm tội chưa
gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm thì hành vi vẫn cấu thành tội phạm.
Hậu quả của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ gây thiệt hại
lớn về kinh tế mà còn tác động tiêu cực đến an ninh, an toàn thông tin của quốc gia,
của cơ quan tổ chức và cá nhân.
c. Chủ thể của tội phạm
Cũng giống như các tội phạm truyền thống khác, chủ thể của các tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT là những cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, các chủ thể này có điểm đặc thù khác với chủ thể của các tội phạm khác ở chỗ
họ thường là những người có hiểu biết về mạng viễn thông, công nghệ máy tính, công
32
nghệ mạng và đã lợi dụng những hiểu biết này để thực hiện hành vi phạm tội. Tuy
nhiên, cũng có trường hợp chủ thể là những người không hiểu biết đầy đủ về các quy
định liên quan đến vận hành, khai thác và sử dụng mạng viễn thông, mạng máy tính
điện tử dẫn đến những thiệt hại (ví dụ Điều 225 Bộ luật hình sự 1999 về tội vi phạm
các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử).
Theo quy định của BLHS năm 2015 chủ thể của tội phạm đã được mở rộng bao
gồm cá nhân và pháp nhân thương mại. Đây là quy định rất mới được thể hiện trong
BLHS về chủ thể của tội phạm, tuy nhiên đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
thì chủ thể của tội phạm này chỉ là cá nhân và phải có những hiểu biết nhất định về
CNTT&MVT; đã lợi dụng những hiểu biết này để thực hiện hành vi phạm tội.
d. Mặt chủ quan của tội phạm
Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, thông thường được thực
hiện do lỗi cố ý. Trong 3 tội danh có liên quan đến tội phạm tin học trong BLHS sửa
đổi năm 2009 có một tội danh được thực hiện do lỗi vô ý do cẩu thả hoặc quá tự tin là
tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử
quy định tại Điều 225 BLHS sửa đổi năm 2009. Tuy nhiên, trong trường hợp lỗi vô ý, thì
thường là những hành vi gây ra hậu quả thiệt hại nghiêm trọng. Theo BLHS năm 2015
các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT đều là lỗi cố ý, không có lỗi vô ý.
Động cơ, mục đích của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đa phần là vì
vụ lợi. Tuy nhiên, trong thực tế, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có thể được
thực hiện do vụ lợi hoặc vì lợi ích trong cạnh tranh hay giải quyết mâu thuẫn, trả thù
cá nhân... hoặc cũng có thể là sự tò mò, thử nghiệm, muốn chứng tỏ khả năng của bản
thân. Các yếu tố về động cơ, mục đích phạm tội của các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT thường không phải là dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này.
2.1.2.3 Phân biệt tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn
thông với các tội phạm khác
Qua phân tích những đặc điểm của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở
phần trên chúng ta cũng đã thấy được phần nào sự khác biệt giữa các tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT với các loại tội phạm khác.
Nhìn chung có thể thấy 4 đặc điểm khác biệt cơ bản giữa chúng như sau:
a. Khác biệt về vai trò của máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông và các
thiết bị công nghệ thông tin có liên quan
Một điểm khác biệt cơ bản giữa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với
tội phạm thông thường chính là ở vai trò của máy tính, mạng viễn thông, mạng máy
tính cũng như các thiết bị CNTT khác có liên quan đến quá trình thực hiện hành vi
phạm tội. Tất cả các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đều có liên quan đến máy
33
tính, mạng viễn thông, mạng máy tính và các thiết bị CNTT có liên quan. Máy tính,
mạng máy tính, mạng viễn thông vừa có thể là đối tượng của tội phạm lại vừa có thể là
môi trường và là phương tiện, công cụ chủ yếu để thực hiện hành vi phạm tội.
b. Khác biệt về đặc điểm chủ thể
Chủ thể thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hầu hết là những
người thông minh, những người có tri thức và am hiểu về công nghệ mới. Phần lớn
những người phạm tội là những người có hiểu biết sâu về công nghệ kỹ thuật số, thiết
bị viễn thông, máy tính và có kỹ năng khai thác sử dụng chúng thành thạo. Vì vậy, họ
luôn thành công trong việc thực hiện hành vi phạm tội và gây rất nhiều khó khăn cho
các cơ quan tiến hành tố tụng, thường họ là những người trẻ tuổi, chưa từng bị pháp
luật trừng trị và không hề có tiền án.
c. Khác biệt về hậu quả thiệt hại
Hậu quả của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thường hết sức nghiêm
trọng. Một khi các hoạt động quản lý xã hội được “tin học hóa”, hệ thống mạng, hệ
thống thông tin được phổ biến rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
thì hậu quả do vi phạm này gây ra sẽ nhanh chóng ảnh hưởng tới hầu hết các lĩnh vực
của đời sống với tốc độ chóng mặt gây ra các hậu quả khôn lường về kinh tế - xã hội.
Theo thống kê của các chuyên gia an ninh mạng của Mỹ thì nước này mỗi năm thiệt
hại khoảng từ 550 triệu đến 13 tỷ đô la do các tội phạm công nghệ thông tin gây ra.
Các chuyên gia của EU cũng chỉ ra trong vài năm gần đây, những nhóm hacker có tổ
chức chuyên phá hoại và thay đổi các trang thông tin ngày càng hoạt động mạnh mẽ.
Chúng không chỉ gây tổn thất về tài chính tới hàng tỉ đô la mỗi năm mà trong một số
trường hợp, còn gây hại đến tính mạng con người, chẳng hạn như việc tấn công vào
các hệ thống điều khiển bệnh viện và không lưu [109].. Ở Việt Nam loại tội phạm đã
và đang phát triển với rất nhiều thủ đoạn phạm tội tinh vi, khó phát hiện và khó xử lý
nhưng cũng đã gây ra thiệt hại rất lớn, đe dọa trực tiếp đến an toàn thông tin quốc gia.
d. Khác biệt về tính chất hành vi phạm tội
Các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thường rất tinh vi, khó phát hiện.
Tính chất này được quy định do các đặc điểm sau
- Thứ nhất, hành vi phạm tội khi sử dụng các thiết bị CNTT&MVT phá huỷ
hoạt động của các đối tượng tồn tại dưới dạng vật thể, như chương trình máy tính hoặc
dữ liệu, mà không phá huỷ máy tính hoặc mạng máy tính, mạng thông tin hay các linh
kiện của chúng, nên sự phá huỷ này không để lại các dấu vết tồn tại dưới dạng vật thể.
- Thứ hai, chủ thể tội phạm chỉ thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian rất
ngắn, chúng có thể thực hiện hành vi phạm tội chỉ trong vòng một phần nghìn, thậm
chí một phần triệu giây bằng các máy tính có tốc độ xử lý siêu tốc.
34
- Thứ ba, người phạm tội không bị hạn chế về thời gian, không gian, chúng có
thể thực hiện hành vi phạm tội bất cứ khi nào, ở bất cứ nơi đâu thậm chí rất từ một nơi
rất xa hiện trường hoặc từ nước ngoài. Đây là hành vi phạm tội xuyên quốc gia, không
biên giới.
- Cuối cùng có thể thấy đối với loại tội phạm này là việc điều tra thu thập dấu
vết cực kỳ khó khăn. Bởi người phạm tội có thể xoá bỏ hoàn toàn các dấu vết của hành
vi phạm tội với một chương trình xoá dấu vết đã được đặt sẵn khi các lệnh phạm tội
được thực hiện.
Ngoài bốn đặc điểm khác biệt cơ bản kể trên, chúng ta cũng có thể thấy một số
dấu hiệu khác biệt khác so với các nhóm các hành vi vi phạm pháp luật thông thường
như tính không biên giới của loại tội phạm này, tính chất ngày càng tăng về số lượng
và hậu quả, tinh vi về cách thức tiến hành cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng
công nghệ thông tin... Nhận biết các dấu hiệu này giúp chúng ta dễ dàng hơn trong
việc xác định đúng các loại tội danh thuộc tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT để có
những biện pháp ngăn ngừa và xử lý có hiệu quả.
2.2 Lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông
2.2.1 Khái niệm, mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
2.2.1.1 Khái niệm tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
mạng viễn thông
Theo “Đại từ điển tiếng Việt” thì “tình hình” được hiểu là “Trạng thái, xu
thế phát triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi ở
trong đó”[47]. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế
vận động của tội phạm. Khi nói tình hình tội phạm có thể hiểu là tình hình của tội
phạm nói chung hoặc của nhóm tội như nhóm tội xâm phạm sở hữu hoặc của tội cụ
thể như tội giết người. Đồng thời khi nói tình hình tội phạm bao giờ cũng phải gắn
với không gian và khoảng thời gian nhất định, vì tội phạm luôn xảy ra trong không
gian và thời gian xác định. Do vậy, có thể định nghĩa về tình hình tội phạm như
sau: Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm (hoặc
nhóm tội phạm hoặc loại tội phạm) đã xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị
thời gian xác định [47].
Trong các công trình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam, có công trình đưa ra
định nghĩa về tình hình tội phạm, có công trình chỉ trình bày nội dung của khái niệm
này mà không rút ra định nghĩa Giáo trình Tội phạm học của Đại học quốc gia Hà Nội,
2015; Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017; Giáo trình Tội
35
phạm học của Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2013; sách Tội phạm học, luật hình sự
và luật tố tụng hình sự Việt Nam, 1994; sách Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm của PGS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, 2001 là các công trình có định nghĩa tình hình
tội phạm; sách “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, Nhà
xuất bản CAND, 2000 là công trình không có định nghĩa về tình hình tội phạm. Các
định nghĩa về tình hình tội phạm trong những công trình nghiên cứu hiện nay có thể
chia thành hai loại.
Một loại định nghĩa được xây dựng trên cơ sở phân biệt rõ giữa tội phạm và tình
hình tội phạm. Định nghĩa về tình hình tội phạm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa tương
đối phù hợp với định nghĩa của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn “Tội phạm học
hiện đại và phòng ngừa tội phạm”: “Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu,
động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn
nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực
hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định” [50]. Định nghĩa về tình hình
tội phạm đã có sự phân biệt giữa tội phạm và tình hình tội phạm.
Định nghĩa về tình hình tội phạm của GS.TS Võ Khánh Vinh: “Tình hình tội
phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý hình sự có thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai
cấp, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm đã xảy ra trong xã hội
(quốc gia; địa giới cấp tỉnh; cấp huyện) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định
[53]. Định nghĩa này đã chỉ rõ các đặc điểm của tình hình tội phạm như là một hiện
tượng xã hội, pháp lý hình sự, tính giai cấp... và các tội phạm này phải xảy ra trong
một không gian và thời gian xác định.
Như vậy từ các định nghĩa, cách hiểu về tình hình tội phạm nói chung tác giả có
thể đưa ra định nghĩa về tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT dựa trên quan
điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh như sau: Tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là một hiện tượng xã hội, pháp lý tiêu cực bao gồm tổng thể các tội phạm
đã xảy ra, được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam và trong khoảng thời gian
nhất định.
2.2.1.2 Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông
Phòng ngừa tình hình tội phạm (Situational Crime Prevention – tiếng Anh viết
tắt là SCP) là một thuật ngữ chuyên ngành của tội phạm học và cũng là một nội dung
nghiên cứu quan trọng của tội phạm học [42].
Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực và nguy hiểm nhất, nó gây ra thiệt hại
rất lớn cho xã hội trên nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy, lý luận về phòng ngừa tình hình
tội phạm đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới. Nhìn chung các khái niệm về phòng
36
ngừa tình hình tội phạm được nêu ra và thực tế áp dụng các biện pháp phòng ngừa ở
mỗi quốc gia, mỗi chế độ xã hội đều có những đặc điểm khác nhau. Cụ thể:
Các nhà tội phạm học tư sản trước đây quan niệm về phòng ngừa tội phạm dưới
nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên qua các thời kỳ lịch sử thì tội phạm học tư sản có ba
hướng tiếp cận chính như: tiếp cận theo thuyết Nhân chủng học (bao gồm thuyết Thần
kinh tội phạm và thuyết Tâm lý học tội phạm); tiếp cận theo thuyết Xã hội quyết định
và tiếp cận Luật học [42] nhằm tìm ra các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm
từ đó có các biện pháp phòng ngừa phù hợp.
Khác với quan niệm của các nhà tội phạm học tư sản, tội phạm học XHCN (tội
phạm học mác xít) tiếp cận hiện tượng tội phạm và phòng ngừa tội phạm theo hướng
khác, họ đã đi từ bản chất con người đến nguyên nhân tội phạm. C.Mác, Ph.Ăng-ghen
cho rằng “Phòng ngừa tội phạm là phương hướng cơ bản nhất của công tác đấu tranh
với tội phạm. Pháp luật không bao giờ lại có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát
triển văn hóa xã hội do chế độ kinh tế đó tạo nên. Để quy định một hành vi nguy hiểm
cho xã hội là phạm tội còn phải tính đến các yếu tố khác mà trước hết là yếu tố kinh
tế, văn hóa, xã hội và ý thức pháp luật. Một khi ý thức pháp luật của số đông chưa
thừa nhận một hành vi nào đó phải bị trừng trị bằng pháp luật hình sự thì chưa thể
quy định hành vi đó là tội phạm. Cùng với biện pháp pháp luật thì trước hết hãy phòng
ngừa và hãy dùng đến các biện pháp phòng ngừa xã hội khác; nếu không trong trường
hợp ấy dân chúng chỉ nhìn thấy hình phạt mà không nhìn thấy tội phạm” [31].
Tại Việt Nam, khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm đã được dùng thống
nhất trong hầu hết các công trình nghiên cứu về tội phạm học ở Việt Nam, từ các giáo
trình đại học đến các sách chuyên khảo và tham khảo. Phòng ngừa tình hình tội phạm, xét
về mặt ngôn ngữ được hiểu là hoạt động nhằm ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra.
Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm không phải là hoạt động hướng tới tội phạm đã
xảy ra - tội phạm hiện thực mà là nhằm ngăn ngừa, không cho tội phạm xảy ra.
Các giáo trình tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà nội - Nhà xuất bản
Công an nhân dân năm 2004, của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội - Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999; Các sách Tội phạm học, luật hình sự và luật tố
tụng hình sự của Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật -Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia năm 1994, Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật - Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2000; Tội
phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm - Nhà xuất bản Công an nhân dân năm
2001; Tội phạm học- Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2013 đều có đề cập đến
khái niệm về phòng ngừa tình hình tội phạm.
37
Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia năm 2010 thì "Phòng ngừa là phòng không cho điều bất lợi, tác hại xảy ra
;“Phòng là tìm cách ngăn ngừa, đối phó với điểu không hay có thế xảy ra, gây tác hại
cho mình" [47]
Từ điển Bách khoa công an nhân dân định nghĩa “Phòng ngừa tội phạm là hệ
thống các biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm chủ động ngăn chặn không để cho
tội phạm xảy ra, không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu những hậu
quả tiêu cực do hành vi phạm tội xảy ra. Nếu có tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát
hiện, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tiến hành giáo dục, cải tạo người
phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Phòng ngừa tội phạm mang tính hệ
thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân. Chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa tội phạm là các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và cá nhân từng công dân. Ở Việt Nam
phòng ngừa tội phạm mang tính kế hoạch, có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan nhà
nước cũng như của các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng” [20]
Giáo trình Tội phạm học – Nhà xuất bản Công an nhân dân đưa ra định nghĩa
“Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân bằng nhiều biện pháp hướng tới thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm nhằm ngăn chặn, kiềm chế, làm giảm và từng bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội” [52].
Các định nghĩa trên đã bao quát được những vấn đề trọng tâm mang tính cốt lõi
của phòng ngừa tình hình tội phạm gồm
- Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc sử dụng hệ thống các biện pháp có mối
quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau;
- Phòng ngừa tình hình tội phạm được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau
gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể;
Tuy nhiên, các định nghĩa trên đều nhấn mạnh chung một mục đích là đẩy lùi,
loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội không để cho tội phạm tồn tại và phát triển.
Như vậy phòng ngừa tình hình tội phạm phải loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm
qua việc chủ động tác động đến các thành tố hợp thành nguyên nhân đó theo hướng
giảm thiểu, triệt tiêu các thành tố này hoặc hạn chế tác dụng của nó. Hoạt động này
không thể là hoạt động đơn lẻ mà đòi hỏi phải là hoạt động có tính tổng hợp của Nhà
nước, của cả xã hội và của mọi công dân. Như vậy, có thể định nghĩa Phòng ngừa tình
hình tội phạm là hoạt động có tính chủ động và tổng hợp của Nhà nước, của xã hội và
của mọi công dân hướng tới việc hạn chế, ngăn ngừa sự hình thành các yếu tố tạo
38
thành nguyên nhân của tội phạm hoặc làm cho các yếu tố này không phát huy được
tác dụng để loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm, ngăn ngừa tội phạm xảy ra [42].
Với cách hiểu này, phòng ngừa tình hình tội phạm khác với chống tội phạm và
cũng khác với kiểm soát tội phạm. Nhưng chống tội phạm cũng như kiểm soát tội
phạm không phải độc lập hoàn toàn với phòng ngừa tình hình tội phạm vì chống tội
phạm và kiểm soát tội phạm cũng có mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm và trong
phạm vi nhất định, hoạt động cụ thể của chống tội phạm hay kiểm soát tội phạm cũng
là hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.
Từ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, những
đặc điểm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam có thể xác định
“Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là hoạt động có tính chủ
động của các chủ thể trong việc sử dụng nhiều biện pháp nhằm hạn chế, ngăn ngừa
các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT”.
Như vậy phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được hiểu
là sử dụng tổng hợp các biện pháp phòng ngừa theo hướng như sau
Thứ nhất, hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan có thể tác động tiêu cực đến việc phát sinh, phát triển tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như trong môi trường kinh tế, trong môi trường văn hóa
xã hội, trong gia đình, nhà trường,... cần được hạn chế dần và đi đến vô hiệu hóa những hiện
tượng kinh tế, xã hội tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm này.
Thứ hai, hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố chủ quan
Các yếu tố chủ quan có tác động tiêu cực tồn tại trong chính người phạm tội. Cần
phải sử dụng các biện pháp để tuyên truyền, phổ biến, giải thích để loại trừ các tác động
tiêu cực này để nó không là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Ngoài ra cần tuyên truyền, nâng cao ý thức của chính người bị hại.
Với khái niệm trên cho thấy phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT có những đặc điểm cơ bản sau
- Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần thiết phải có
sự tham gia của nhiều chủ thể. Qua đó phát huy được sức mạnh của mỗi ngành, mỗi
cấp tạo nên thế trận vững chắc trong phòng ngừa tình hình loại tội phạm này;
- Không gian, thời gian thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT khó xác định hơn các loại tội phạm truyền thống khác do đặc điểm của
nó mang tính xuyên quốc gia, phi biên giới. Chính vì vậy phòng ngừa tình hình tội
phạm này cũng phải được xem xét phù hợp với đặc điểm trên.
- Các chủ thể khi tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nhất thiết phải có sự hiểu biết nhất định về CNTT&MVT. Bởi đặc điểm
39
về chủ thể của loại tội phạm này rất đặc biệt, phần nhiều đối tượng phạm tội là những
người giỏi, có kiến thức chuyên sâu về CNTT&MVT đã sử dụng, khai thác các thiết bị
máy tính và viễn thông để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, bên cạnh việc nắm vững
các quy định của pháp luật, nghiệp vụ của ngành thì yêu cầu đặt ra là phải có kiến thức
về CNTT&MVT, sử dụng thành thạo các biện pháp kỹ thuật mới có thể phát hiện ra
được những sơ hở, thiếu sót trong quản lý nhà nước về CNTT&MVT, tìm ra những
phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng phạm tội.
2.2.1.3. Mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Phòng ngừa tình hình tội phạm nhằm mục đích kìm chế sự gia tăng, hạn chế
dần mức độ và tính chất nghiêm trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
Theo đó, mục đích của phòng ngừa tình hình tội phạm có các mức độ khác nhau từ
kìm chế sự gia tăng của tội phạm, hạn chế dần mức độ và tính chất nghiêm trọng của
tội phạm đến ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhằm khắc phục, thủ
tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm
từng bước tiến tới loại trừ các tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
Để có thể đạt được mục đích này đòi hỏi phải đưa ra được hệ thống các biện
pháp phòng ngừa phù hợp với thực trạng và diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT và có tính khả thi cũng như phải tổ chức triển khai thực hiện được các
biện pháp phòng ngừa này một cách đồng bộ và hợp lý. Bao gồm:
Một là, loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, xóa bỏ các
tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh ra tội phạm.
Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình – nhà trường – xã hội) xung
quanh các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và người phạm tội, qua đó hạn chế, ngăn
ngừa những hiện tượng có ảnh hưởng bất lợi và không đúng đến việc hình thành các
phẩm chất cá nhân tiêu cực chống đối xã hội của bản thân người phạm tội.
Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có hệ thống phòng ngừa
các hiện tượng tiêu cực và tội phạm, các tác nhân ảnh hưởng và những thiếu sót trong cơ
chế quản lý về các mặt (như: kinh tế, xã hội, công tác tổ chức cán bộ…), cũng như kiến
nghị hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác.
Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đem lại nhiều ý
nghĩa, nó thể hiện trên các khía cạnh như sau:
- Về mặt chính trị: Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
là hoạt động để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng, văn bản
của Nhà nước và Chính phủ, để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, triển khai các kết
40
quả nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là
vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm. Các văn bản đã được ban hành có liên quan đến
việc phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng như: Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 của Bộ Chính trị năm 2005 ; Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới của Bộ
Chính trị năm 2010. Nghị định số 25/NĐ-CP quy định về Phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày
14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội
phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030.
Ngoài ra, phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mang ý
nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc
gia, an toàn thông tin, trật tự an toàn xã hội trong các lĩnh vực liên quan đến
CNTT&MVT, bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức và cá nhân, danh dự, nhân phẩm
của mọi người dân.
Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với ý nghĩa về mặt
chính trị sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác đấu tranh có hiệu quả
với các loại tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng,
phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, trách nhiệm của các
ngành, các cấp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm
- Về mặt kinh tế, phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ hạn chế đến mức thấp nhất
những thiệt hại về kinh tế mà tội phạm gây ra trong xã hội kể cả những thiệt hại trực
tiếp và gián tiếp mà nhà nước, xã hội phải chi phí để khắc phục hậu quả do tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra.
Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiệm một khoản rất lớn về chi phí cho ngân sách
Nhà nước, tiền của và sức lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các hoạt
động điều tra truy tố xét xử, trong việc khắc phục hậu quả của tội phạm gây ra cho xã
hội, trong công tác cải tạo, giáo dục và thi hành án đối với người phạm tội. cũng như
trong việc giải quyết các hậu quả có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Về mặt xã hội, thông qua phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, Nhà nước có thể kiểm soát được các hiện tượng tiêu cực của đời sống
xã hội là tình hình tội phạm, qua đó nâng cao tính hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước, đồng thời tăng cường hiệu quả trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các
cơ quan bảo vệ pháp luật. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
41
góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, qua đó góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, ngăn ngừa sự xâm phạm vào các lợi ích hợp pháp đã
được Nhà nước xác lập và bảo vệ.
Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thể hiện bản chất
nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại
cũng như tránh được nguy cơ một số người bị xử lý trước pháp luật do thực hiện các hành
vi phạm tội. Trong trường hợp nếu vẫn có tội phạm xảy ra trong xã hội thì bảo đảm không
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội, giải quyết nhanh chóng,
chính xác và đúng pháp luật đối với trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân.
- Về mặt khoa học, phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức và cũng không phải của một ngành
khoa học nào trong lĩnh vực tư pháp hình sự, mà nó chính là nhiệm vụ chung của toàn
xã hội, mà trong đó ngành khoa học về tội phạm học phải có nhiệm vụ thực hiện chức
năng phòng ngừa tội phạm. Dựa trên cơ sở chức năng này, phải xây dựng được cơ sở
và các nguyên tắc trong hoạt động phòng ngừa, xác định chủ thể phòng ngừa, lập và
xây dựng kế hoạch phòng ngừa đầy đủ và khoa học và có hệ thống các biện pháp
phòng ngừa. Do đó, nếu thực hiện tốt chức năng này mới có thể từng bước ngăn chặn
tội phạm và tình hình tội phạm trong xã hội, không cho tội phạm phát triển, qua đó
từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Phòng ngừa tình
hình tội phạm chính là mục tiêu cuối cùng sau khi làm tốt các chức năng mô tả, giải
thích và dự báo thì mới có thể tìm ra được những biện pháp tác động vào quy luật phát
sinh, tồn tại và phát triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được các nguyên nhân và
điều kiện phạm tội cũng như những tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
nhằm từng bước kiểm soát và loại trừ tội phạm.
Cần xây dựng kế hoạch phòng ngừa, nhận diện những diễn biến tội phạm và
tình hình tội phạm trong tương lai, khả năng xuất hiện, thay đổi của tội phạm cũ và tội
phạm mới, diễn biến và quy luật của quá trình tội phạm hóa – phi tội phạm hóa, hình
sự hóa – phi hình sự hóa, cũng như những biến đổi của đời sống xã hội khác nói chung
và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Cần đưa ra những giải pháp mang
tính chủ động hơn, tích cực hơn và có hiệu quả hơn trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm, hỗ trợ cho các ngành luật khác trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Hơn
nữa, chính những giải pháp của ngành khoa học này là tiền đề rất quan trọng để thực
hiện tốt đường lối xử lý về hình sự, cũng như trong công tác đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của Nhà nước
42
2.2.1.4. Các nguyên tắc trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ở Việt nam
- Nguyên tắc dân chủ: Nhà nước thống nhất quản lý phòng ngừa tình hình
các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều tham
gia vào phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Hoạt động phòng ngừa này được dựa
trên nguyên tắc dân chủ cụ thể như: Nhà nước tạo mọi điều kiện khuyến khích các
chủ thể bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tham gia tích
cực, chủ động trong phòng ngừa nhưng phải dựa trên giá trị thượng tôn của pháp
luật. Nhà nước phát huy các nguồn lực về chính trị, kinh tế, xã hội... cho phòng
ngừa. Tuy nhiên nguyên tắc dân chủ cũng yêu cầu trong phòng ngừa, các chủ thể
cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật bảo đảm pháp chế XHCN, các cơ quan
chức năng cấp trên trong phạm vi quyền hạn của mình thường xuyên kiểm tra, chỉ
đạo, đôn đốc, nhắc nhở các cơ quan cấp dưới trong phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Nguyên tắc phối hợp: trong phòng ngừa tình hình các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong phạm vi và nhiệm
vụ phòng ngừa ở từng địa phương, từng ngành mà mình quản lý đồng thời có sự phối
hợp chặt chẽ với các chủ thể khác để có thể thực hiện một cách tốt nhất phòng ngừa
tình hình tội phạm. Giữa các chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình các tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT cần có sự phối hợp và cụ thể, kiểm soát và đối trọng lẫn
nhau; Phòng ngừa tình hình các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần kết hợp giữa
chủ động phòng ngừa với chủ động liên tục tiến công tội phạm;
- Nguyên tắc pháp chế: các chủ thể khi thực hiện phòng ngừa tình hình các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật,
tôn trọng giá trị thượng tôn của pháp luật. Khi tiến hành phòng ngừa tình hình các tội
phạm này các chủ thể cần thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn đã
được phân công, phân nhiệm tránh tình trạng chồng chéo, xung đột. Không được vì lợi
ích của tập thể mà vi phạm vào các lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận.
- Nguyên tắc nhân đạo, khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa tình hình các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam. Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa
là không được hạ thấp danh dự nhân phẩm con người mà phải nhằm khôi phục con người
và tạo điều kiện để con người phát triển, tôn trọng quyền con người, quyền công dân.
Nguyên tắc khoa học và tiến bộ là các biện pháp phòng ngừa phải được xây
dựng trên cơ sở khoa học, phải ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ
trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm. Các biện pháp
43
phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi người có cơ hội phát triển bình đẳng,
không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, thái độ chính trị.
- Nguyên tắc phân hóa trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT thể hiện ở chỗ hệ thống phòng ngừa phải được tổ chức tương
ứng với các quy luật và đặc điểm của tình hình tội phạm và người phạm tội, các biện
pháp phòng ngừa phải phù hợp với từng lĩnh vực phòng ngừa, đối tượng và địa điểm
phòng ngừa; việc phòng ngừa đối với cá nhân phải được tiến hành trên cơ sở có sự
hiểu biết đầy đủ về cá nhân đó.
- Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời: Nói chung tất cả các các hành vi vi phạm
pháp luật đều phải được tiến hành phòng, chống một cách nhanh chóng kịp thời đặc biệt
là có các biện pháp ngăn chặn hiệu quả không để cho nó xảy ra trong đó có tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể phòng ngừa cần khẩn trương,
nhanh chóng, kịp thời trong công tác dự báo tình hình tội phạm; dự báo được các nguyên
nhân, điều kiện là cơ sở để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có điều kiện phát sinh,
phát triển từ đó có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
- Nguyên tắc đề cao trách nhiệm phòng ngừa của người sử dụng CNTT&MVT.
Với đặc điểm của tội phạm học trong lĩnh vực CNTT&MVT thì vai trò phòng ngừa
tình hình tội phạm của cá nhân, tổ chức sử dụng CNTT&MVT rất quan trọng. Nếu
người sử dụng có ý thức chủ động phòng ngừa, có các biện pháp ngăn chặn thì sẽ
không tạo điều kiện cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phạm tội.
Nguyên tắc này đòi hỏi người sử dụng cần có những kỹ năng và sự hiểu biết cần thiết,
có những biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Tất cả các nguyên tắc trên tạo thành một hệ thống tư tưởng vững chắc cho tổ
chức và hoạt động của việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Việc tuân thủ nghiêm
khắc, nhất quán các nguyên tắc đó trong thực tiễn sẽ đảm bảo hiệu quả cao của hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng.
2.2.2. Cơ sở phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một loại tội phạm sử dụng những
thành tựu khoa học công nghệ để phạm tội bao gồm tất cả những hành vi phạm tội liên
quan đến máy tính, có sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông,
xâm phạm bất kỳ khách thể nào được luật hình sự bảo vệ.
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trực tiếp đe dọa và xâm hại vào trật tự
an toàn thông tin, gây tổn hại cho lợi ích của nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp
khác của các tổ chức, cá nhân. Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là loại tội phạm
44
mới xuất hiện do sự phát triển của khoa học công nghệ nhưng tuy nhiên đó lại là loại
tội phạm nguy hiểm. Theo đánh giá của tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL
cho rằng loại tội phạm này chỉ nguy hiểm sau tội phạm về ma túy và khủng bố [14].
Đặc biệt đây là loại tội phạm không có giới hạn về không gian, thời gian mang tính
xuyên quốc gia và toàn cầu, hậu quả mà nó gây ra đặc biệt nguy hại trực tiếp đe dọa
đến an toàn thông tin của quốc gia, tổ chức và cá nhân. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ, với tiến trình toàn cầu hóa thế giới “mở” loại tội
phạm này theo dự báo sẽ ngày càng phát triển, tính chất và hành vi phạm tội sẽ ngày
càng tinh vi, thủ đoạn và xảo quyệt hơn. Việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT là hoạt động hết sức cần thiết, được tiến hành trên các cơ sở
sau đây:
2.2.2.1 Cơ sở chính trị
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại
Việt Nam được tiến hành theo nội dung trong các văn bản, nghị quyết của Đảng
như sau:
- Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
Nội dung Chỉ thị đã yêu cầu “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tội phạm; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết
hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội. Công tác phòng, chống tội phạm phải được thực hiện trong tiến trình cải cách tư
pháp, phải tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công
dân và phải lấy chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn công
trấn áp tội phạm; Thường xuyên tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tội phạm để mỗi người thấy
được quyền lợi, nghĩa vụ, tích cực tham gia công tác này; Nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống tội phạm của các cơ quan chuyên môn; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chuyên môn với các cơ quan khác, các tổ chức quần chúng trong phòng, chống
tội phạm.”[5].
Để hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có
hiệu quả, Chỉ thị đã giao nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm cho các chủ thể như
các cấp ủy Đảng, chính quyền và người đứng đầu các cấp ủy Đảng, chính quyền phải
chịu trách nhiệm trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra tại ngành, địa phương mình phụ trách. Huy động được sự tham gia rộng rãi, tích
cực của các tổ chức quần chúng và nhân dân vào công tác phòng, chống tội phạm.
Nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhân rộng các điển
45
hình tiên tiến trong công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao năng lực cho đội ngũ
cán bộ, cơ quan thực hiện công tác phòng, chống tội phạm.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác phòng, chống tội phạm cũng
như tăng cường quan hệ phối hợp, hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm với các quốc gia trong việc phòng ngừa tinh hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Trong bản Kết luận số 05 của Ban Bí thư đã xác định công tác phòng ngừa
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian qua đã được chỉ đạo và tiến hành
quyết liệt; cơ bản đạt được các chỉ tiêu, nhiệm vụ về phòng, chống tội phạm đề ra, góp
phần bảo đảm an ninh quốc gia và gìn giữ trật tự, an toàn xã hội, phục vụ có hiệu quả
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới [1]. Tuy nhiên tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vẫn còn những diễn biến hết sức phức tạp, việc
phòng ngừa tình hình tội phạm này chưa đạt hiệu quả cao.
Để tăng cường việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, Kết luận 05 đã chỉ rõ “Công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm
vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài, cùng với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và thường xuyên của cấp ủy,
tổ chức đảng các cấp bằng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể; nâng cao
hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và toàn dân tham gia”[1]. Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần tích cực, chủ động phòng ngừa; tăng cường và
đổi mới công tác tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, phát huy sức mạnh của toàn
dân trong phòng, chống tội phạm.
2.2.2.2 Cơ sở pháp lý
Tại Việt Nam, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã gây ra những hậu quả
rất lớn về kinh tế, an toàn thông tin của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Thủ đoạn phạm
tội của các đối tượng ngày càng tinh vi rất khó phát hiện và xử lý. Do vậy việc phòng
ngừa tình hình loại tội phạm này là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện
nay. Việc tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được
các chủ thể tiến hành dựa trên các cơ sở pháp lý sau đây
- Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [68].
46
Như vậy, Hiến pháp là cơ sở pháp lý để mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
cơ quan chức năng và mọi công dân phải chấp hành pháp luật, đồng thời có trách
nhiệm đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Từ đạo luật gốc này đã tạo điều kiện cho các văn bản pháp luật khác có
các quy định cụ thể hơn về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 xác định những hành vi nào là tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT, từ đó có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả; quy định
về trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm thuộc về các cơ quan Công
an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra. Các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm
thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn giúp đỡ các cơ
quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng [65].
- Bộ luật hình sự năm 2015 là cơ sở để xác định hành vi nào là hành vi phạm tội
trong lĩnh vực CNTT&VT để có các biện pháp phòng ngừa phù hợp [66]. Ngoài ra
trong BLHS quy định về trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm của cơ
quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu quan
khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng
thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà
nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó nêu rõ
“Trong phạm vi trách nhiệm của mình, cơ quan nhà , tổ chức và cá nhân phải áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm…” [67].
- Luật an toàn thông tin mạng quy định về việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn và xử lý phần mềm độc hại, nội dung bao gồm việc xác định các chủ thể có trách
nhiệm thực hiện việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý phần mềm độc hại.
Các chủ thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân, đơn vị chủ quản hệ thống thông tin quan
trọng của quốc gia như Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an,
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông và Internet. Việc phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn và xử lý phần mềm độc hại nhằm hạn chế, xóa bỏ hoặc thủ tiêu các nguyên
nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đáp ứng hiệu quả của
phòng ngừa tình hình hình các tội phạm này tại Việt Nam [70].
- Luật An ninh mạng quy định việc Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn
chặn, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an
47
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân; sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ đe dọa an ninh mạng [69].
- Luật viễn thông quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về viễn thông trong
đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về viễn thông; Bộ Thông tin và Truyền
thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về
viễn thông có các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong luật trong đó có nhiệm vụ
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thuộc thẩm quyền của
mình. Ngoài ra Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về
CNTT&MVT nhằm hạn chế tối đa các cơ hội, điều kiện để các đối tượng có thể lợi
dụng thực hiện các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT [77].
- Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định trách nhiệm của lực lượng Công
an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia
và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lý về bảo vệ an ninh quốc
gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của
các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội [71].
- Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong đó có quy định về trách nhiệm phối hợp
của Viện kiểm sát với các chủ thể khác trong hoạt động phòng ngừa tội phạm nói
chung và các vi phạm pháp luật khác [76].
- Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức của cơ quan Tòa án, trong đó có quy định về trách nhiệm của Tòa
án với tư cách là cơ quan xét xử trong việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác
giáo dục, nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong
trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định, Tòa án nhân dân kiến nghị
yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát
sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ chức đó [75].
- Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ quy định về
trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thông tin và an ninh thông tin. Muốn giữ an
toàn thông tin và an ninh thông tin của quốc gia, cơ quan, tổ chức và cá nhân đòi hỏi
các cơ quan là Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ-Bộ
Quốc phòng, Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ lao động thương binh và xã hội, Ủy ban nhân
dân các địa phương cùng có trách nhiệm đảm bảo, giữ vững an toàn thông tin và an
ninh thông tin bằng nhiều hoạt động khác nhau như đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
48
hợp tác quốc tế, tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong việc sử dụng
các thiết bị công nghệ thông tin và viễn thông; nâng cao tính bảo mật thông tin của cá
nhân.... Giữ an toàn thông tin và an ninh thông tin cũng là một trong những nội dung
quan trọng nâng cao hiệu quả của việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT [36].
- Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 7 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy
định về phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ
cao. Trong đó có quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
trong phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Nội
dung của quy định bao gồm [38]:
+ Hoạt động phòng ngừa của Cơ quan chuyên trách : Tổ chức, triển khai các
biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật để thu thập thông tin, tài liệu về tình
hình có liên quan tại các địa bàn, lĩnh vực phụ trách nhằm phục vụ việc phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao;Tổng hợp,
phân tích, đánh giá, dự báo tình hình, đề xuất các chủ trương, biện pháp phòng, chống
tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; Hướng dẫn các cơ
quan, đơn vị có liên quan thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và
vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao;Thông tin, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao.
+ Hoạt động của cá nhân tham gia phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật
khác có sử dụng công nghệ cao khi tham gia các hoạt động phòng ngừa; tự trang bị
cho mình các kiến thức để phòng ngừa tội phạm sử dụng công nghệ cao như bảo vệ
mật khẩu, khóa mật khẩu cơ sở dữ liệu, thông tin cá nhân, thông tin tài khoản… Phát
hiện, kịp thời tố giác tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao
với cơ quan Công an hoặc chính quyền cơ sở gần nhất; phối hợp chặt chẽ với Cơ quan
chuyên trách trong quá trình xác minh làm rõ tội phạm và vi phạm pháp luật khác có
sử dụng công nghệ cao, cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan cho Cơ
quan chuyên trách khi được yêu cầu theo quy định của pháp luật.
+ Hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tham gia phòng ngừa tội phạm
và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao phải thực hiện quy định của pháp
luật về thời hạn bảo quản, lưu trữ, cung cấp thông tin, dữ liệu điện tử phục vụ công tác
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Phối hợp
chặt chẽ với Cơ quan chuyên trách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công
nghệ cao.
49
+ Hoạt động của cơ quan thông tin đại chúng tham gia phòng ngừa tội phạm và
vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Theo quy định của pháp luật các cơ
quan này có nhiệm vụ đưa tin kịp thời, chính xác chủ trương, chính sách, pháp luật về
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; phản ánh
tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử
dụng công nghệ cao; nêu gương các điển hình tiên tiến, mô hình có hiệu quả trong
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Lồng
ghép nội dung phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công
nghệ cao với các chương trình thông tin, tuyên truyền khác
- Quyết định số 450/2010/QĐ-BCA ngày 4/2/2010 của Bộ trưởng Bộ công an
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục cảnh sát
phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tại khoản 6, điều 2 quy định “Tổ chức
nắm tình hình, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, thương mại điện tử, thanh toán điện tử,
bản quyền phần mềm máy tính… và các lĩnh vực công nghệ cao khác theo quy định
của pháp luật”. Như vậy, muốn phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT thì lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao cần có sự phối kết hợp với các lực lượng khác, đặc biệt là với các cơ quan quản lý
nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT [13].
- Quyết định số 623/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng phòng,
chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 của Thủ tướng
Chính phủ ngày 14/4/2016. Quyết định đã chỉ rõ: Phòng, chống tội phạm là một trong
những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm thực hiện
Hiến pháp, pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để
phòng ngừa hiệu quả cần tập trung lực lượng, sử dụng tổng hợp các biện pháp, chủ
động phòng ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn tội phạm, trong đó lấy phòng ngừa là
chính; kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ; kịp thời
khắc phục những tồn tại hạn chế, làm rõ nguyên nhân, Điều kiện phát sinh tội phạm;
coi trọng công tác phòng ngừa xã hội từ cộng đồng, gia đình và ngay từ cơ sở; tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao cảnh giác, ý thức trách nhiệm
chấp hành pháp luật, tích cực, tự giác tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm [76].
- Thông tư số 18,19,20,21,22/TT-BCA ngày 1/4/2013 quy định về công tác điều
tra cơ bản, sưu tra, xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án, xây dựng và sử dụng công
tác nghiệp vụ bí mật của lực lượng cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tội phạm. Các
thông tư đã xác định nội dung, biện pháp, trình tự tiến hành các hoạt động phòng ngừa,
50
các chủ thể phòng ngừa và quan hệ phối hợp trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam [18].
Các văn bản pháp luật nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với các quy định của
Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nội dung các văn bản
đều có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc chủ động
phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT nói riêng. Đây chính là các văn bản trực tiếp quy định về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT, là những cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
2.2.2.3 Cơ sở thực tiễn
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang gây ra những hậu quả vô
cùng lớn về kinh tế, trực tiếp đe dọa đến an ninh an toàn thông tin quốc gia; xâm
hại đến quyền lợi hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ.
Theo thống kê của tập đoàn công nghệ BKAV, năm 2019 thiệt hại do virus
máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam là 20.892 tỉ đồng, năm 2018 là 14.900 tỉ
đồng. Tổng số lượt máy tính bị nhiễm mã độc được ghi nhận trong năm 2019 là 85,2
triệu lượt, tăng 3,5% so với năm 2018. Số lượng máy tính bị mất dữ liệu trong năm
2019 là 1,8 triệu lượt, tăng 12% so với năm 2018. Nghiêm trọng hơn, trong số này có
rất nhiều máy chủ (server) chứa dữ liệu của các cơ quan doanh nghiệp. Không chỉ gây
thiệt hại lớn, việc các máy chủ bị xóa dữ liệu cũng gây đình trệ hoạt động của nhiều
doanh nghiệp trong nhiều ngày, thậm chí đến cả tháng.
Thời gian qua tại Việt Nam các lực lượng chức năng đã điều tra, xử lý hàng
loạt vụ đánh bạc trực tuyến với số tiền lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng; các vụ lừa
đảo nhằm chiếm đoạt tài sản qua mạng viễn thông, mạng xã hội ngày càng gia tăng
với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó lường…
Như vậy thực tế cho thấy tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đang có
những diễn biến phức tạp và phát triển theo sự tăng trưởng nhanh chóng của khoa
học công nghệ, của CNTT&MVT và tội phạm này cũng mang tính toàn cầu. Do
vậy việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn dẫn tới thủ tiêu các nguyên nhân đều
kiện không cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát sinh, phát
triển là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2.2.3. Chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và mạng viễn thông
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng là nhiệm vụ chung của Nhà nước, xã hội và toàn thể công
51
dân. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm
trước hết phải là Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan nhà nước có chuyên môn và
thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng quốc
gia khác nhau mà cơ quan chuyên môn phòng ngừa tình hình tội phạm có thể khác
nhau. Những cơ quan này đóng vai trò nòng cốt, trực tiếp tiến hành phòng ngừa
bằng các hoạt động nghiệp vụ và tổ chức các lực lượng xã hội tham gia phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm. Xuất phát từ những luận điểm nêu trên có thể xác định
chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là Nhà nước
mà cụ thể là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ chức và tiến hành
phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Trong hệ thống cơ quan nhà nước ở Việt Nam, mỗi cơ quan có chức
năng, nhiệm vụ nhất định và đều có trách nhiệm tham gia phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Có thể xác định chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT bao gồm ba nhóm sau:
- Chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật phục vụ phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là những cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm
quyền đề ra chủ trương, đường lối, hoạch định chiến lược, chính sách, pháp luật phục
vụ hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; tổ chức xây
dựng và chỉ đạo các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT; thanh tra, kiểm tra, xử lý những vi phạm của các tổ chức, cá nhân
trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
- Chủ thể trực tiếp triển khai phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là những lực lượng có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp tiến hành phòng
ngừa, phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Ở Việt Nam,
theo các quy định hiện hành có thể xác định lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao là chủ thể chuyên trách phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT (nay là Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao – Bộ Công an); Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp,
các cơ quan tổ chức cung cấp các giải pháp phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT như tập đoàn BKAV, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng
Việt Nam VNCERT, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia NCSC…
- Chủ thể phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là những lực lượng tuy không trực tiếp tiến hành các hoạt động chính
của phòng ngừa tình hình tội phạm nhưng trong quá trình tiến hành những hoạt động
theo chức năng, các cơ quan, tổ chức này có tác động hỗ trợ, phối hợp cho các chủ thể
chuyên trách trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như:
52
Cơ quan quản lý nhà nước về CNTT&MVT, Thanh tra chuyên ngành về
CNTT&MVT, Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ
CNTT&MVT, các tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp, cá nhân công dân… đều là các
chủ thể phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt
Nam được tiến hành bởi nhiều chủ thể, lực lượng khác nhau. Cụ thể bao gồm
- Nhóm chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật phục vụ hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
+ Đảng cộng sản Việt Nam và tổ chức Đảng các cấp
Thực hiện vai trò chỉ đạo các hoạt động nói chung, trong đó có hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là tiếp tục thực hiện
nội dung Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Bên cạnh đó xác
định công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa
thường xuyên, lâu dài, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm sự lãnh
đạo trực tiếp, toàn diện và thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp bằng các
chương trình, kế hoạch hành động cụ thể; nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của
chính quyền, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham
gia. Tại Kết luận số 05 ngày 15/07/2016 của Ban bí thư Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã chỉ đạo tổ chức Đảng các cấp thực hiện các nội dung như sau:
Mọi cán bộ, đảng viên phải phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong
phòng, chống tội phạm ngay từ trong gia đình, địa bàn nơi cư trú và tại cơ quan, đơn vị
công tác
Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, hướng
mạnh hơn về cơ sở, chú trọng các địa bàn trọng điểm, phức tạp, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, công nhân…
Chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công trấn áp các loại tội phạm; nhất là tội
phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm hình sự, ma túy, tội phạm kinh tế, tham
nhũng, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mua bán người và các
vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp,
như các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng biên giới…
Củng cố, nâng cao trách nhiệm, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan
chuyên trách phòng, chống tội phạm; các cơ quan tiến hành hoạt động tư pháp, nâng
cao đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm, thái độ ứng
xử, với tinh thần vì nhân dân phục vụ, thật sự là chỗ dựa và niềm tin của nhân dân
trong phòng, chống tội phạm.
53
Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho các cơ quan thực
hành quyền tư pháp, các đơn vị trực tiếp đấu tranh với các loại tội phạm nguy hiểm,
ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm tham nhũng, tội phạm về môi
trường đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
+ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&VT trên các phương diện sau
Chủ động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lý về
phòng chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm:
Thành lập các uỷ ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành các
văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung (uỷ
ban sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, uỷ ban quốc phòng an ninh).
Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng ngừa
tội phạm nói riêng của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội.
Hội đồng nhân dân địa phương ra các Nghị quyết về phòng ngừa tội phạm ở địa
phương mình.
+ Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp
Chức năng chính của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trong phòng ngừa tội
phạm là quản lý, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết, thể hiện:
Cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp qui
hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng ngừa tội phạm.
Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiến hành phòng ngừa tình
hình tội phạm: Công an, Toà án, Viện kiểm sát.
Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc cấp
mình quản lý theo kế hoạch thống nhất.
Đảm bảo các điều kiện vật chất cho phòng ngừa tình hình tội phạm: ngân sách,
phương tiện, điều kiện làm việc.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phối hợp điều chỉnh phòng
ngừa tình hình tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Đề ra các biên pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh của toàn xã hội tham gia
phòng ngừa tình hình tội phạm: khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến.
54
- Nhóm chủ thể trực tiếp triển khai thực hiện phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
+ Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Toà án, Viện kiểm sát
Nghiên cứu, phân tích tình trạng phạm tội, xác định chính xác những nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm, soạn thảo đề xuất các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Sử dụng các biện pháp luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo
chức năng, trực tiếp tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm.
Đối với lực lượng Công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai phòng ngừa tình
hình tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và
trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội phạm. Lực
lượng Công an bao gồm ở cấp Bộ là Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao (mật hiệu là C50) gồm 5 phòng nay là Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng
công nghệ cao (A05). Ở cấp tỉnh riêng Công an Tp Hà Nội thí điểm thành lập phòng
Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PC50) vào tháng 8/2013 theo
quyết định số 7467/QĐ-X11 ngày 23/7/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục xây dựng
lực lượng Công an nhân dân về việc quy định tạm thời chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao thuộc Công an Tp Hà Nội, nay là Phòng An ninh mạng và pCTP sử dụng công
nghệ cao (PA05). Cục C50 (nay là A05) có nhiệm vụ nắm tình hình hoạt động của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Trực tiếp thực hiện và chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao tiến hành các
biện pháp nghiệp vụ phòng ngừa , đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Tiến hành điều tra ban đầu các vụ việc liên quan đến tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT và phối hợp với các đơn vị trong công tác phòng ngừa, điều tra
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng.
Vai trò của Cục an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao là rất
quan trọng, có thể nói đây là lực lượng chủ công quyết định đến việc phòng ngừa và
kiểm soát tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp : Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt
động điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền công tố
đối với các tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.
Toà án nhân dân các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm bảo công
minh, đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để Chính
Phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ các loại tội phạm nói
chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.
55
- Nhóm chủ thể phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
+ Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội
phạm; cảm hóa giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư.
Thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức trách nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm: Kết hợp nhiều hình
thức tuyên truyền, vừa rộng rãi, vừa mở đợt tập trung, vừa tuyên truyền cá biệt; tuyên
truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc họp của tổ chức Đảng, cơ
quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị, trường học, tổ dân
phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên truyền, vận động cá biệt đối với các đối
tượng có nguy cơ phạm tội, tái phạm và tại các địa bàn trọng Điểm về trật tự, an toàn
xã hội. Thành lập trang thông tin điện tử phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.
Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các
mô hình tổ chức quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh, trật
tự ngay từ gia đình, cộng đồng dân cư, trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và
nhà trường; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình
có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình đặc
Điểm từng địa bàn. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên
ký cam kết xây dựng khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường “An
toàn về an ninh, trật tự”. Kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất
sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
+ Các cơ quan quản lý nhà nước về tư pháp, kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch
vụ, du lịch trong phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn
Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm
thuộc lĩnh vực mình quản lý.
Đề ra những quy định thích hợp, tham mưu cho Nhà nước ban hành các chủ trương,
chính sách đúng đắn góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tình hình tội phạm
trong phạm vi cơ quan có hiệu quả.
Phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, làm tốt công tác phòng ngừa tội
phạm trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ. Cụ thể
Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có
liên quan đến công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm, khắc phục những sơ
hở thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
56
Bộ thông tin và truyền thông quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động thông tin và truyền thông vi phạm pháp luật.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm:a) Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn
pháp luật về Internet cho học sinh, sinh viên; hướng dẫn, tạo điều kiện, định hướng
học sinh, sinh viên sử dụng Internet vào các hoạt động có ích, thiết thực trong học tập,
cuộc sống của bản thân và gia đình; Triển khai các biện pháp cảnh báo, giám sát học
sinh, sinh viên để tránh khỏi các tác động tiêu cực của nội dung thông tin, ứng dụng có
hại trên Internet; Tổ chức đào tạo về an toàn thông tin trong hệ thống các trường đại
học, cao đẳng thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện các
biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên tránh khỏi những nội dung thông tin,
ứng dụng có hại trên Internet.
+ Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thực
hiện hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Tập đoàn BKAV là Tập đoàn công nghệ hoạt động trong các lĩnh vực an ninh
mạng, phần mềm, chính phủ điện tử… với sản phẩm phần mềm diệt virut BKAV được
bình chọn là “Sản phẩm an toàn thông tin được người dùng ưa chuộng nhất” tại Việt
Nam. Tập đoàn bao gồm các chuyên gia máy tính, kỹ sư công nghệ thông tin tin có
trình độ cao cùng phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết các sự cố liên quan
đến máy tính, cảnh báo và có các biện pháp phòng ngừa cho người dùng, nâng cao tính
bảo mật và an toàn thông tin cá nhân. BKAV đã phát hiện và công bố các lỗ hổng
trong công nghệ nhận diện khuôn mặt trên laptop, trên iPhone X, trên trình duyệt web
Google Chrome…
Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính VNCERT Việt Nam (nay là Trung
tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam – VNCERT/CC) thuộc Cục an
toàn thông tin - Bộ thông tin và truyền thông là đơn vị có nhiệm vụ ứng cứu các sự
cố và kiểm định an toàn thông tin, phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn
thông tin… [27]. Trong thời gian qua, đơn vị đã đưa ra các biện pháp phòng ngừa
có hiệu quả đối với người dùng nhằm ngăn chặn tội phạm sử dụng CNTT&MVT
gây thiệt hại cho người dùng như: Cảnh báo lây nhiễm mã độc do sử dụng phần
mềm không rõ nguồn gốc, Cảnh báo về một số mã độc nguy hiểm có thể lây lan qua
mạng máy tính, mạng Internet; Đưa ra giải pháp về hệ thống giám sát an toàn
mạng,...
Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia có các nhiệm vụ: Thực
hiện giám sát an toàn thông tin trên toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập
57
mạng lưới giám sát an toàn thông tin mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên
thông, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa giám sát tập trung của Trung tâm Giám sát an
toàn không gian mạng quốc gia với giám sát của Trung tâm VNCERT, giám sát của
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản
các hệ thống thông tin; triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo
đảm an toàn thông tin mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng,
Nhà nước và đô thị thông minh. Định kỳ thực hiện kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ
an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các
điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc
trên không gian mạng Việt Nam; tổ chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã
độc trên diện rộng với sự tham gia của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông,
Internet (ISP) và các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và an toàn thông tin. Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, theo dõi và dự báo,
cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không gian mạng Việt Nam.
Hiện nay Trung tâm đang thực hiện chiến dịch rà soát và bóc gỡ mã độc trên phạm vi
toàn quốc năm 2020 với mục đích cung cấp các công cụ kiểm tra, xử lý và bóc gỡ mã
độc nhằm đảm bảo an toàn cho người dùng trên không gian mạng Việt Nam, thúc đẩy
chuyển đổi số quốc gia [28].
+ Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản
Các tổ chức đoàn thể giữ vị trí vô cùng quan trọng trong phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, cụ thể:
Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn thảo,
tham gia kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Tuyên truyền cho thành viên thấy được tính chất, thủ đoạn hoạt động của tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT để nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động phòng ngừa.
Trực tiếp huy động các thành viên tham gia chương trình phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng của Chính phủ trong
phạm vi địa phương, nội bộ tổ chức của mình.
Đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc phù hợp và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong
từng thời kỳ; tập trung xây dựng và củng cố phong trào ở các địa bàn trọng Điểm,
chiến lược, vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, vùng biên giới, biển đảo, khu công
nghiệp và các thành phố lớn; lồng ghép với các cuộc vận động, phong trào thi đua,
chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, Ban, ngành, đoàn thể và địa phương; gắn kết thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ
sở, kịp thời phát hiện, giải quyết ngay tại cơ sở các vấn đề có liên quan đến lợi ích
58
chính đáng của người dân, hạn chế không để xảy ra “Điểm nóng” trong cộng đồng dân
cư, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan
bảo vệ pháp luật [80].
+ Công dân
Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự và an
toàn xã hội nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
nói riêng. Công dân với tư cách là chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm phải
quán triệt:
- Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong Hiến
pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.
- Tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT để thông báo cho các cơ quan chức năng.
- Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hoá các đối tượng có liên quan
đến hoạt động phạm tội nói chung tại cộng đồng dân cư.
Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện tốt
chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào: "Toàn
dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục người phạm
tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hoà nhập cộng đồng cho
người phạm tội khi trở về địa phương.
- Trực tiếp làm tốt hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ngay trong phạm vi gia đình mình để các thành viên luôn có ý thức chủ
động phòng ngừa tội phạm này.
2.2.4 Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
2.2.4.1 Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông
a. Khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
- Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp
nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT
Tuỳ thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT để đề xuất các giải pháp đấu tranh xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện
của tội phạm cho phù hợp, bao gồm:
+ Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân là mặt trái của việc phát triển
kinh tế, phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng khoa học công nghệ.
59
+ Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân bắt nguồn từ hệ thống pháp luật.
Hiện nay các văn bản pháp luật quy định về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT còn chưa đầy đủ, đặc biệt Bộ luật hình sự năm 2015 đã
có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện.
+ Các giải pháp khắc phục những sơ hở, thiếu sót, nhược điểm… trong công tác
quản lý nhà nước về CNTT&MVT và các lĩnh vực khác đã tồn tại trong thời gian qua.
+ Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân là những hạn chế từ nền văn
hóa, xã hội, bên cạnh việc khuyến khích phát triển việc bảo tồn văn hóa dân tộc thì
cũng cần chú trọng, phát huy nền văn hóa “mở” giao lưu với các quốc gia nhưng phải
kiểm soát được các hiện tượng tiêu cực từ nó mang lại.
+ Các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, giữa các cơ quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trên cơ sở các quy định của pháp
luật trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
+ Các giải pháp khắc phục các hạn chế trong ý thức, tư tưởng, đạo đức, nhân cách
của con người khuyến khích, phát huy những giá trị nhân văn tốt đẹp, hướng thiện. Xóa
bỏ những môi trường không thuận lợi cho sự hình thành nhân cách con người như trong
việc giáo dục các thành viên trong gia đình, những yếu kém trong nhà trường, những
khuyết điểm trong lĩnh vực văn hóa giáo dục con người…
+ Giáo dục ý thức tự phòng ngừa tội phạm cho mọi công dân, cơ quan, tổ chức…
Mỗi cá nhân cần có ý thức tự bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản và các lợi ích
hợp pháp khác của mình.
- Xác định đúng các nguyên nhân, điều kiện chủ quan, khách quan dẫn đến sự
phát triển gia tăng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Bất kỳ loại tội phạm nào phát triển đều có các nguyên nhân, điều kiện chủ quan,
khách quan theo đặc thù của loại tội phạm đó. Một trong các nội dung chủ yếu được
các nhà tội phạm học chỉ rõ: xác định đúng các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội
phạm là những yếu tố quan trọng để áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả. Việc xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội đồng nghĩa với việc xóa bỏ các môi trường thuận lợi cho tội phạm loại này phát sinh. Cũng như những loại tội phạm khác, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một hiện tượng xã hội tiêu cực, cũng cũng có những nguyên nhân điều kiện riêng có, đan xen tổng hợp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, chịu sự tác động bởi các yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Nhận thức đầy đủ, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện, phát hiện, đúc kết quy luật phát sinh, phát triển của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT là những yêu cầu hết
sức cần thiết. Chỉ như vậy, các biện pháp phòng ngừa về mặt xã hội cũng như các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn mới thực sự mang tính khả thi, đánh đúng, đánh trúng vào các đối tượng, góp phần phòng ngừa có hiệu quả nhất loại tội phạm này.
60
Để giải quyết được các yêu cầu nói trên đòi hỏi cần có sự đầu tư của Nhà nước
về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và con người trong các cơ quan bảo vệ pháp
luật có đủ khả năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá nguyên nhân, điều kiện của loại
tội phạm này ở từng thời điểm, từng thời gian khác nhau. Từ đó rút ra các đặc điểm
nguyên nhân điều kiện đặc thù, áp dụng các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn cho phù
hợp nhất.
- Triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT
Trên cơ sở các chủ trương, chính sách và xác định các nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh phát triển tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể
thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
tiến hành triển khai các biện pháp phòng ngừa bao gồm biện pháp phòng ngừa
nghiệp vụ (biện pháp phòng ngừa riêng) và phòng ngừa xã hội (biện pháp phòng
ngừa chung). Các biện pháp phòng ngừa được triển khai theo từng nhóm chủ thể
như chủ thể quản lý hoạt động phòng ngừa; chủ thể triển khai hoạt động phòng
ngừa; chủ thể phối hợp trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT với mục đích nhằm ngăn ngừa, hạn chế dẫn đến loại trừ các
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Các biện pháp phòng ngừa được áp dụng phải phù hợp với các
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó mục đích
ngăn chặn, loại trừ các tội phạm này mới đạt hiệu quả cao.
b. Phát huy các ưu điểm và khắc phục các hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa
tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT
- Nắm tình hình, xác định đúng thực trạng tình hình, diễn biến cơ cấu, tính chất,
phương thức, thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Việc nắm tình hình, xác định đúng tình hình cũng như làm rõ thực trạng tình
hình, diễn biến cơ cấu, tính chất, phương thức, thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là nội dung quan trọng cho việc tổ chức có hiệu quả hoạt động phòng ngừa.
Trên cơ sở thực trạng tình hình, là cơ sở để các chủ thể, theo chức năng nhiệm vụ của
mình áp dụng các phương tiện, biện pháp phòng ngừa phù hợp với đặc điểm loại tội phạm
này. Thực tiễn tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT diễn biến ngày một gia
tăng, cơ cấu, tính chất phức tạp; phương thức thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi xảo
quyệt. Xác định thực trạng tình hình; phân loại, thống kê làm rõ tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT trên các phương diện diễn biến, cơ cấu, động thái, các khâu
thường xảy ra tội phạm, tính chất, thủ đoạn là những tiêu chí quan trọng, cần thiết trong
việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
61
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, có
đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ trong xã hội, đảm bảo cho công tác quản lý ở mọi
lĩnh vực bằng pháp luật.
Hoàn thiện các văn bản xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật, hình phạt
thật nghiêm khắc có sức răn đe, giáo dục người phạm tội; nếu cần thiết phải nâng cao
mức hình phạt và các biện pháp xử lý khác, tăng cường phạt tiền… từ đó mới có ý
nghĩa trong phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
nói riêng.
Tổ chức các cơ quan bảo vệ pháp luật đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm theo hướng chuyên môn hóa cao, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật tiên tiến vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm.
Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ quản lý
hữu hiệu trong quản lý nhà nước và xã hội.
Tăng cường thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội.
- Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
xảy ra và cảm hóa, giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng vẫn xảy ra. Trong trường hợp này, các cơ quan theo chức năng,
nhiệm vụ của mình phải nhanh chóng phát hiện, xác minh làm rõ hành vi phạm tội và xử
lý thật nghiêm minh trước pháp luật. Là bài học cảnh tỉnh báo động cho các đối tượng
khác đang có ý định phạm tội, mặt khác thông qua các hoạt động giáo dục cảm hóa sẽ
giúp người phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT nhận thức được hành vi phạm tội của
mình, tích cực rèn luyện cải tạo để sớm được trở về với gia đình, xã hội.
2.2.4.2 Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin & mạng viễn thông và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT
+ Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Để phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT việc
quan trọng là cần xác định những nguyên nhân và điều kiện là cơ sở làm phát sinh, phát
triển tội phạm.
Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chính là
toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực làm phát sinh, phát triển các tội
phạm này. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh "Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã
hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình"
62
và "Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm
nhiều bộ phận cấu thành nó”[57]. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT được lý giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối
quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả của cặp phạm trù nguyên nhân và kết
quả trong triết học Mác-Lênin.
Ở mức độ toàn xã hội, tội phạm phải được coi là một bộ phận, một yếu tố được
đặt trong mối liên hệ mật thiết với các quá trình và các hiện tượng khác, trong đó có cả
hiện tượng tích cực và tiêu cực. Ở những tầng nấc xã hội đều có những cơ chế ở những
mức độ khác nhau của quá trình phát sinh nhân - quả của tội phạm. Tội phạm học Việt
Nam cũng như các khoa học pháp lý hình sự khác, không có lý luận riêng về quan hệ
nhân - quả, mà chỉ cụ thể hóa nội dung cặp phạm trù nhân - quả của triết học Mác-xít
vào lĩnh vực nghiên cứu của mình. Vận dụng quan điểm này, tác giả cho rằng việc
nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT phải dựa trên nền tảng cơ sở lý luận về nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm nói chung và đặc thù tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một hiện
tượng xã hội tiêu cực, sẽ bị đẩy lùi và tiến tới bị triệt tiêu khi mà các nguyên nhân và
điều kiện làm phát sinh ra nó bị hạn chế hoặc không còn tồn tại. Qua nghiên cứu và
khảo sát số liệu thực tiễn, cho phép rút ra những nguyên nhân, điều kiện cơ bản của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như sau
- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về sự chưa hoàn thiện của các văn bản pháp
luật về phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều
bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm, thiếu đồng bộ,
có nhiều điểm chưa rõ ràng. Do vậy trong thời gian tới để công tác phòng, chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả cần thiết có văn bản hướng dẫn cụ thể.
- Nguyên nhân và điều kiện thuộc về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
CNTT&MVT
Trong công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT vẫn còn nhiều thiếu sót và bất
cập, để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát triển và có điều kiện để
thực hiện. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực CNTT&MVT chưa nghiêm, thiếu triệt để, chủ yếu mang tính hình thức thậm chí
còn có hành vi dung túng bao che cho các vi phạm, các hình thức xử phạt chưa mang
tính răn đe, nhiều hoạt động vi phạm diễn ra trong thời gian dài mà không bị các cơ
quan chức năng kiểm tra phát hiện.
63
Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về CNTT&MVT chưa hiệu
quả, sự phân công quyền hạn, trách nhiệm chưa rõ ràng, chưa cụ thể và thẩm quyền
thực thi còn chồng chéo, chưa đầy đủ thiếu “uy lực”. Công tác phối hợp giữa các lực
lượng nhiều lúc, nhiều nơi còn mang nặng tính hành chính, lãnh đạo các ngành chỉ đạo
tạo điều kiện phối hợp nhưng cán bộ thực hiện chưa thực sự phát huy được vai trò, đôi
khi còn gây khó khăn.
- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về các cơ quan bảo vệ pháp luật
Với vai trò là nòng cốt trong phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT các cơ quan bảo vệ pháp luật thời gian qua đã có những kết quả đáng
ghi nhận trong việc phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy nhiên
hoạt động phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn tồn tại một số vấn
đề như: Do phải kiêm nhiệm nhiều chức năng khác nên chưa tập trung sâu vào hoạt động
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Chưa thực sự chủ động trong hoạt
động phòng ngừa, có những vụ án liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã
xảy ra, đã gây hậu quả rồi mới bị phát hiện và xử lý, nghĩa là chưa ngăn chặn được mà để
cho tội phạm xảy ra. Công tác phối hợp công tác giữa các lực lượng chưa kịp thời, đồng
bộ. Nhận thức cụ thể về các biện pháp phòng ngừa chưa đồng đều…
- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về người bị hại
Ý thức phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp còn chưa chủ động, thiếu việc đầu tư kinh
phí cho hệ thống bảo mật thiết bị máy tính và viễn thông tạo điều kiện cho tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát triển. Với các doanh nghiệp, tổ chức xã
hội có các trang web hoặc hoạt động kinh doanh trên mạng chưa quan tâm đúng mức
đến các giải pháp bảo mật một cách tổng thể. Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân
lực về CNTT&MVT còn nhiều bất cập như chỉ chú ý về số lượng đào tạo, chưa giáo
dục cho đội ngũ này về đạo đức, ý thức nghề nghiệp.
Ý thức của công dân về công tác bảo mật, đảm bảo an ninh, an toàn mạng của
người sử dụng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên dễ bị hacker tấn công.
- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về sự ảnh hưởng của tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT trên thế giới
Trong bối cảnh sự phát triển của CNTT&MVT rất mạnh mẽ ở Việt Nam cũng
như trên thế giới, cơ sở hạ tầng mạng và viễn thông ngày càng được hoàn thiện, số
lượng người dùng gia tăng, nguồn nhân lực về CNTT&MVT không ngừng được bổ
sung, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh,... đã tạo những cơ
hội và điều kiện thuận lợi để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trên thế giới thâm
nhập vào nước ta.
64
Hơn nữa, môi trường mạng đã tạo điều kiện để các đối tượng trong và ngoài
nước cấu kết với nhau hình thành các đường dây hoạt động phạm tội. Bên cạnh đó các
đối tượng người nước ngoài cũng tấn công vào các mục tiêu ở Việt Nam và thâm nhập
trực tiếp vào nước ta để thực hiện hành vi phạm tội [79].
+ Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một
hệ thống các hoạt động phòng ngừa nhằm hạn chế, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện
khách quan và chủ quan làm nảy sinh tội phạm, từ đó làm giảm, đẩy lùi loại tội phạm
này ra khỏi đời sống xã hội. Như vậy, để đạt được mục đích này, thì hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT sẽ được thực hiện thông qua hệ
thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm bao gồm:
- Biện pháp phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung)
Biện pháp phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, hành
chính, pháp luật, tổ chức, giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân nhằm
góp phần hạn chế hoặc loại trừ những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện
thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như các biện pháp tuyên truyền, giáo
dục nhằm nâng cao ý thức bảo mật của người sử dụng các thiết bị CNTT&MVT. Đây
là các biện pháp phòng ngừa có tính chiến lược và lâu dài, nó hướng vào giải quyết
những nhiệm vụ chung của xã hội để loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực. Biện
pháp phòng ngừa này được thực hiện với sự tham gia của toàn xã hội trong đó bao
gồm các chủ thể quản lý nhà nước về CNTT&MVT; các cơ quan bảo vệ pháp luật là
cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Tòa án; các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và mọi
công dân, đặc biệt giữa các chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa cần phải có sự bổ
sung, hỗ trợ và tác động lẫn nhau tạo nên hiệu quả chung của hoạt động phòng ngừa.
Chính vì thế hoạt động phòng ngừa xã hội đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT phải được tiến hành thông qua các chương trình, kế hoạch đồng bộ.
Biện pháp phòng ngừa xã hội không thể do một cấp, một ngành, một lực lượng
nào đảm nhiệm mà nó được tiến hành đồng bộ bằng sự phối hợp giữa các cấp, các
ngành đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý thống nhất của
chính quyền các cấp. Các cơ quan chức năng trực tiếp quản lý nhà nước trong lĩnh vực
CNTT&MVT như Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công thương, … cùng tham gia
và hỗ trợ tích cực. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
Tòa án cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự hiểu biết chuyên
sâu về CNTT&MVT cho một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Các
doanh nghiệp, tổ chức xã hội và công dân cần nâng cao ý thức bảo mật, thay đổi
những hành vi và thói quen khi sử dụng CNTT&MVT không an toàn. Giữa các chủ
65
thể cần có sự phối hợp bởi đây là quá trình mà toàn xã hội phải tham gia nhằm khắc
phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội
phạm và cũng nhằm mục đích hạn chế, loại trừ các yếu tố khách quan và chủ quan có
tác động tiêu cực đến tình hình các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Các biện pháp phòng ngừa xã hội bao gồm:
+ Biện pháp kinh tế: Đây là biện pháp sử dụng sức mạnh kinh tế nhằm thủ tiêu
nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Các biện pháp kinh tế được thực hiện như: phát
triển nền kinh tế đất nước, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về đời sống vật chất cho nhân
dân. Đây là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp khác.
+ Biện pháp chính trị tư tưởng: Biện pháp này có nội dung phong phú như nâng
cao ý thức cho mọi người dân thấy được trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước; giáo dục, nâng cao nhận thức của công dân, cơ quan, tổ chức
về tầm quan trọng của việc phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng để họ tự nguyện, tự giác, chủ động tham gia.
Vận động toàn thể nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
+ Biện pháp quản lý: Biện pháp này được thể hiện trong hoạt động của bộ máy
nhà nước nhằm quản lý đất nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Biện pháp này được
thực hiện nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà nước về
CNTT&MVT.
+ Biện pháp văn hóa, giáo dục: Biện pháp này được thực hiện nhằm không
ngừng nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho mọi công dân. Phổ cập giáo dục phổ
thông, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; giáo dục lòng yêu Tổ
quốc, lòng tự hào tự tôn dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật và các nội quy, quy tắc của
cuộc sống…
+ Biện pháp pháp luật: Biện pháp này giữ vai trò quan trọng trong các biện
pháp phòng ngừa chung. Nội dung của biện pháp này là trước tiên Nhà nước cần xây
dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đảm bảo mọi hoạt động trong xã hội phải tuân
theo sự điều chỉnh của pháp luật. Thông qua pháp luật để quản lý đất nước theo một
trật tự thống nhất. Giáo dục pháp luật cho công dân để mọi người hiểu được và tự giác
làm theo những điều pháp luật quy định. Cần thiết phải áp dụng các biện pháp xử lý
nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
- Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (phòng ngừa riêng)
Là việc áp dụng các biện pháp mang tính đặc trưng, chuyên môn của từng
ngành, từng lực lượng. Biện pháp này nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế các yếu tố
khách quan và chủ quan là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
66
+ Biện pháp phòng ngừa của cơ quan Công an nhân dân gồm các công tác:
Công tác điều tra cơ bản: là hoạt động điều tra nghiên cứu, thu thập rộng rãi, có
hệ thống thông tin, tài liệu về tình hình có liên quan ở địa bàn, mục tiêu, đối tượng,
phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
Công tác này sẽ xác định được những đối tượng, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm về tội
phạm trong CNTT&VT từ đó xây dựng, triển khai các chủ trương, chiến lược, chương
trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa một cách hiệu quả.
Công tác sưu tra là quá trình điều tra, nghiên cứu về những người đang có điều
kiện, khả năng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt
động phạm tội này. Đây là khâu mở đầu, quan trọng nhằm mục đích nắm tình hình diễn
biến hoạt động của các loại đối tượng, phát hiện tội phạm để chủ động phòng ngừa, đấu
tranh, ngăn chặn. Đồng thời tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; những
sơ hở, thiếu sót trong quản lý CNTT&MVT, đề xuất những biện pháp tích cực, góp phần
nâng cao hiệu quả các mặt công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT.
Công tác xác minh hiềm nghi là hoạt động thu thập, kiểm tra, xác minh làm rõ
bản chất của hiềm nghi và đi đến kết luận có hay không có hoạt động phạm tội trong
lĩnh vực CNTT&MVT nhằm kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Công tác đấu tranh chuyên án là việc sử dụng đồng bộ các biện pháp, phương
tiện kỹ thuật, chiến thuật nghiệp vụ để điều tra, xác minh, đấu tranh trực tiếp với các
đối tượng nguy hiểm nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, khám phá truy bắt tội phạm, đảm
bảo chủ động, kịp thời, có hiệu quả. Tổ chức phát hiện tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là một hướng của hoạt động phòng ngừa, trong điều kiện chưa thể loại
trừ hết nguyên nhân, điều kiện của tội phạm thì bằng mọi cách để kịp thời phát hiện,
ngăn chặn không để chúng gây ra hậu quả xấu cho xã hội.
+ Biện pháp phòng ngừa của cơ quan Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử và
đưa ra phán quyết hoặc hình phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật. TRong khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan Tòa án các cấp có thể thực hiện hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng như thông qua hoạt động xét xử đặc biệt là xét xử lưu động
bằng các bản án, quyết định được tuyên án công khai có thể tuyên truyền, giáo dục ý
thức tuân thủ pháp luật của công dân nhằm ngăn ngừa tội phạm.
+ Biện pháp phòng ngừa của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình
như nhiệm vụ kiểm sát chung việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ
67
chức xã hội và thực hành quyền công tố có thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm. Kịp thời phát hiện các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội
phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng, đề xuất hoặc phối
hợp với các cơ quan liên quan tiến hành các biện pháp phòng ngừa, xóa bỏ các nguyên
nhân điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm.
+ Biện pháp phòng ngừa của các cơ quan tư pháp khác trong việc phòng ngừa
tình hình tội phạm là xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hoàn thiện; đảm bảo
công tác thi hành án được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật; tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và công dân…
Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần chú trọng tăng cường hoạt động hợp tác quốc
tế để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
+ Biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực quản lý về CNTT&MVT như Trung tâm giám sát an toàn mạng quốc gia, Trung
tâm ứng cứu khẩn cấp sự cố máy tính… có các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để ngăn
chặn kịp thời hành vi phạm tội của các đối tượng hoặc phối hợp với các lực lượng
chức năng khác nhằm kịp thời phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn hành vi của các đối
tượng sử dụng CNTT&MVT để phạm tội.
Như vậy để phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể có
thể sử dụng, vận dụng nhiều biện pháp khác nhau. Các biện pháp cần được sử dụng
đồng bộ, linh hoạt, kết hợp với nhau hướng tới mục tiêu cơ bản là làm tốt phòng ngừa
tình hình tội phạm, ngăn chặn các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT góp phần bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực này.
68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Nghiên cứu lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông, cho chúng ta các kết luận sau
1. Dù có nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung : Phòng
ngừa tình hình tội phạm là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp hướng tới thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm nhằm ngăn chặn, kiềm chế, làm giảm và từng bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
2. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT việc sử dụng
tổng hợp các biện pháp nhằm phát hiện đấu tranh triệt xóa hoặc hạn chế các tác động tiêu cực của các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, đồng thời nhanh chóng phát hiện xử lý nghiêm minh nếu tội phạm xảy
ra theo quy định của pháp luật.
3. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có mục đích là khắc
phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế,
làm giảm từng bước tiến tới loại trừ các tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
4. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có ý nghĩa chính
trị, kinh tế xã hội sâu sắc
5. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần tuân theo các
nguyên tắc cơ bản như pháp chế, dân chủ, nhân đạo, khoa học và tiến bộ... 6. Cơ sở phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Việc tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được
dựa trên các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn
7. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
- Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp
nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm;
- Xác định đúng các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm;
- Nắm tình hình, xác định đúng thực trạng tình hình tội phạm; - Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất - Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
8. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT - Chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách pháp luật - Chủ thể trực tiếp triển khai hoạt động phòng ngừa - Chủ thể phối hợp trong hoạt động phòng ngừa
9. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT - Biện pháp phòng ngừa xã hội - Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ.
69
Chƣơng 3
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1 Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
mạng viễn thông
Công nghệ thông tin và viễn thông đã trở thành một phần không thể thiếu trong
nền kinh tế toàn cầu và hội nhập hiện nay, nó chi phối rất nhiều hoạt động của đời
sống xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, của việc ứng dụng CNTT&VT vào trong các lĩnh vực thì tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã hình thành và ngày càng phát triển, đe dọa trực
tiếp đến an toàn an ninh thông tin quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt
động kinh tế, xã hội. Thống kê của Bộ Công an cho thấy tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT năm sau luôn cao hơn năm trước cụ thể, trong 5 năm (2010-2015) thành
lập Cục Cảnh sát PCTP sử dụng Công nghệ cao (C50) đã phối hợp với các đơn vị chức
năng phát hiện, điều tra, xử lý gần 1.500 vụ án, vụ việc vi phạm pháp luật liên quan
đến công nghệ cao (tăng khoảng 7%/năm) [9], trong đó có 1200 vụ tập trung vào
nhóm đối tượng sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị
số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (theo Điều 226b BLHS2009) với 1807 đối
tượng, thiệt hại trung bình 500 tỷ đồng/năm. Trung bình mỗi năm ở Việt Nam xảy ra
240 vụ án với 361 đối tượng sử dụng CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội. Kết
quả nghiên cứu cũng cho thấy, cứ 1.000 bị cáo Tòa án xét xử thì có 01 bị cáo là tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&VT[9];
Năm 2016 đã phát hiện, khởi tố điều tra 217 vụ, 493 bị can phạm tội sử dụng
công nghệ cao (nhiều hơn 75% số vụ và 129,3% số bị can so với năm 2015). Năm
2017, đã phát hiện, khởi tố điều tra 197 vụ, 359 bị can (ít hơn 9,22% số vụ và 27,18%
số bị can so với năm 2016). Năm 2018 đã khởi tố điều tra 117 vụ, 196 bị can (giảm
13,97% vụ, tăng 4,26% bị can so với cùng kỳ năm 2017). Trong đó đã phát hiện, triệt
phá nhiều vụ án lớn như: vụ án công ty CNC tổ chức đánh bạc, đánh bạc trực tuyến
trên mạng Internet bằng hình thức game bài với gần 43 triệu tài khoản tham gia đánh
bạc; 25 đại lý cấp 1 và 5.877 đại lý cấp 2 trên phạm vi toàn quốc để giao dịch mua,
bán Rik (tiền ảo) với tổng số tiền thu lợi bất chính trên 9.853 tỷ đồng, thu giữ trên
1.760 tỷ đồng; khởi tố điều tra, làm rõ 105 bị can về các tội danh liên quan [10], [11].
Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trên không gian mạng, năm 2019, A05
đã khởi tố 10 vụ với 116 bị can; bắt giữ và bàn giao cảnh sát các nước 555 đối tượng;
70
phối hợp xử phạt hành chính và trục xuất 254 đối tượng. Điều này cho thấy tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, với
diễn biến tăng cả về số vụ và tính chất, mức độ, hậu quả. Đây mới chỉ là số vụ việc
được phát hiện, còn theo đánh giá của cơ quan chức năng và các chuyên gia, thì số vụ
còn ẩn là vô cùng lớn, bởi tính đặc thù hoạt động trong thế giới “ảo” của loại tội phạm
này. Điều này cũng chỉ ra rằng, thực tế số vụ vi phạm pháp luật hình sự phát hiện
tương đối nhiều, nhưng số vụ khởi tố và truy tố rất thấp, bởi chủ thể tội phạm thực
hiện trên không gian mạng, có thể ở một nơi nhưng lại gây ra hậu quả toàn cầu, do đó
rất khó xác định chủ thể để truy nguyên và bắt giữ, do rào cản về không gian mạng và
lãnh thổ.
Báo cáo tổng kết an ninh mạng năm 2015 do Tập đoàn Bkav công bố cho biết,
trong năm 2015, virus máy tính gây thiệt hại đối với người dùng Việt Nam có giá trị
lên tới 8.700 tỷ đồng, cao hơn so với mức 8.500 tỷ đồng năm 2014. Năm 2015, có
62.863 dòng virus máy tính mới xuất hiện tại Việt Nam. 61,7 triệu lượt máy tính đã bị
lây nhiễm virus.Virus lây nhiều nhất là W32.Sality.PE, lây nhiễm trên 5,8 triệu lượt
máy tính, 5.226 website của các cơ quan, doanh nghiệp tại Việt Nam bị hacker xâm
nhập, trong đó có 340 website của cơ quan chính phủ và tổ chức giáo dục. Đáng chú ý,
theo Bkav, mạng xã hội bị ô nhiễm nặng với 93% người sử dụng Facebook tại Việt
Nam cho biết thường xuyên gặp phiền toái với tin nhắn rác, nội dung đồi trụy hay liên
kết giả mạo có cài mã độc trên Facebook. Thống kê mỗi tháng lại có thêm hơn 1.000
trang giả mạo Facebook được lập ra nhằm đánh cắp tài khoản của người sử dụng. Sau
đó tài khoản bị đánh cắp sẽ được sử dụng để tiếp tục phát tán mã độc hoặc để lừa đảo,
phổ biến nhất là chat với bạn bè của nạn nhân lừa nạp thẻ điện thoại hoặc nhờ chuyển
khoản với lý do tài khoản hiện tại không sử dụng được. Ngoài ra, trong lĩnh vực an
ninh mạng thống kê cho thấy gần 14 triệu tin nhắn rác được phát tán mỗi ngày; 30%
website các ngân hàng có lỗ hổng; có ít nhất gần 4.000 website của các cơ quan doanh
nghiệp ở Việt Nam bị hacker xâm nhập chiếm quyền điều khiển. Số lượng các cuộc
tấn công mạng vào Việt Nam ngày càng gia tăng [100].Năm 2016, các hoạt động tấn
công mạng tiếp tục diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn mới và ngày
càng trở thành mối đe dọa lớn đối với người dùng trực tuyến. Theo thống kê, Việt
Nam vẫn là một trong các quốc gia phải đối mặt nhiều nhất với mã độc và là một trong
những nước đứng đầu thế giới về tỷ lệ lây nhiễm mã độc qua thiết bị lưu trữ ngoài
(USB, thẻ nhớ, ổ cứng di động) với tỷ lệ 70.83% máy tính bị lây nhiễm;39,95% người
dùng phải đối mặt với mã độc bắt nguồn từ không gian mạng, nhận định xu hướng
chính của mã độc là mã hóa dữ liệu để tống tiền (ransomware). Mã độc này có thể
khóa các tập tin trên hệ thống máy tính, điện thoại, máy tính bảng thông qua những tin
71
nhắn, email hoặc ứng dụng độc hại [16]. Năm 2017, thiệt hại do virus máy tính gây ra
đối với người dùng Việt Nam lên tới 12.300 tỷ đồng, tương đương 540 triệu USD,
vượt xa mốc 10.400 tỷ đồng của năm ngoái. Ở các nền kinh tế khổng lồ như Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản và Đức, tội phạm mạng gây ra tổng thiệt hại lên tới 200 tỷ
USD mỗi năm. Năm 2018, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt
Nam đã lên mức kỷ lục 14.900 tỷ đồng, tương đương 642 triệu USD, nhiều hơn 21%
so với mức thiệt hại của năm 2017. Mức thiệt hại tại Việt Nam đã đạt kỷ lục trong
nhiều năm trở lại đây. Đây là kết quả được đưa ra từ chương trình đánh giá an ninh
mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện tháng 12/2018.Trên phạm vi toàn cầu,
tội phạm mạng gây thiệt hại lên tới khoảng 600 tỷ USD mỗi năm, tương đương 0,8%
GDP toàn cầu. Trong đó, khu vực Đông Á thiệt hại ước tính từ 120 – 200 tỷ USD,
tương đương 0,53 – 0,89% GDP khu vực. Mức thiệt hại 642 triệu USD tương đương
0,26% GDP của Việt Nam tuy chưa phải cao so với khu vực và thế giới, nhưng cũng là
những con số đáng báo động. Năm 2019, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với
người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỷ đồng (902 triệu USD), vượt xa con số
14.900 tỷ đồng của năm 2018. Theo báo cáo tổng kết an ninh mạng năm 2019 và dự
báo 2020 mà Tập đoàn Bkav vừa công bố, sự gia tăng các máy tính bị nhiễm mã độc
mã hóa dữ liệu và mã độc tấn công có chủ đích là nguyên nhân chính gây ra những
thiệt hại khổng lồ này. Tổng số lượt máy tính bị nhiễm mã độc được ghi nhận trong
năm 2019 lên tới 85,2 triệu lượt, tăng 3,5% so với năm 2018. Tại Hà Nội, chỉ tính từ
đầu năm 2019 đến nay, Công an TP. Hà Nội đã nhận được đơn thư tố giác từ 18 nạn
nhân, với tổng số tiền bị chiếm đoạt lên đến gần 33 tỷ đồng. Các đối tượng lừa đảo sử
dụng mạng Internet, mạng viễn thông, giả danh công an, cán bộ tòa án để đe dọa, bắt
người dân chuyển tiền vào tài khoản rồi chiếm giữ. Tại nhiều địa phương khác như Đà
Nẵng, TP.HCM, Đồng Nai, Cần Thơ, Nghệ An, Quảng Ninh… cũng xuất hiện các vụ
lừa đảo với phương thức phạm tội tương tự. Trên phạm vi toàn quốc gia tăng các tội
phạm đánh bạc trực tuyến, cá độ trực tuyến… cả về số vụ và quy mô, như vụ đánh bạc
trực tuyến với số tiền đã giao dịch là 10.000 tỷ đồng tại khu đô thị Our City Hải Phòng
với 395 đối tượng phạm tội là người Trung Quốc; vụ đánh bạc trực tuyến 4.000 tỷ tại
Thanh Hóa…[8].
Đặc biệt, có những hành vi tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT lần đầu xuất
hiện như lập website để tổ chức huy động vốn trả lãi suất cao, lừa đảo bán hàng qua
mạng, nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tấn công ví điện tử lấy tiền của khách hàng…
Điển hình như do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 lợi dụng nhu cầu về các sản
phẩm, thiết bị y tế phòng dịch các đối tượng người Việt đã lừa 7000 người Mỹ mua
nước rửa tay khô với tổng số tiền gần 1 triệu USD. Những người bị lừa ở 50 bang của
72
Mỹ đã đặt mua nước rửa tay khô và khăn ướt diệt khuẩn từ các trang web ở Việt Nam.
Các nghi phạm đã điều hành hơn 300 trang web với mục đích lừa đảo bán các sản
phẩm khan hiếm trong thời đại dịch. Các đối tượng đã tạo ra hàng trăm tài khoản email
và tài khoản người dùng với phương thức thanh toán tại Mỹ nhằm thực hiện hoạt động
lừa đảo và để trốn tránh cơ quan thực thi pháp luật. Đồng thời cung cấp thông tin sai
lệch về địa chỉ và số điện thoại liên lạc lên trang web, dẫn đến hiểu lầm cho cá nhân và
doanh nghiệp không liên quan đến vụ việc phải nhận các cuộc gọi phản ánh và than
phiền từ khách hàng phát sinh do hoạt động lừa đảo này. Giới chức thành phố Tampa,
bang Florida bắt đầu tiến hành điều tra vào tháng 3/2020. Sau đó, các điều tra viên của
Văn phòng Cục Điều tra An ninh nội địa Mỹ (HSI), thuộc Bộ An ninh nội địa Mỹ,
phát hiện gần 40.000 giao dịch lừa đảo trị giá xấp xỉ 975.000 USD. HSI tại TP HCM
đã chuyển thông tin cho Bộ Công an Việt Nam. Sau khi hoàn tất điều tra, Việt Nam
hồi giữa tháng 7 bắt ba nghi phạm là Phan Đình Thư, Trần Quốc Khánh và Nguyễn
Duy Toản, đều là công dân Việt Nam. [8]
Từ những số liệu thực tế về diễn biến của tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT trong thời gian qua cho thấy tính chất nguy hiểm của các tội phạm nảy. Nó
đã và đang gây ra những hậu quả thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế, trực tiếp đe dọa đến an
ninh an toàn thông tin quốc gia, đến quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Việc
phân tích tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như trên cho phép chúng ta có
thể đánh giá kết quả phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã đạt
được những gì, chỉ ra được những thiếu sót và tồn tại trong hoạt động phòng ngừa và từ
đó có những giải pháp khắc phục, tăng cường hoạt động phòng ngừa.
Qua việc phân tích tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có thể đưa ra
cơ cấu về tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT qua một số thông số sau đây:
Thông số về cơ cấu của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là
thông số phản ánh mối tương quan giữa các bộ phận của tội phạm trong một chỉnh thể
chung thống nhất của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã xảy ra trong
xã hội ở những thời điểm nhất định.
- Về cơ cấu tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo loại tội: Từ
năm 2010 đến năm 2015, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã phát hiện, xử lý 1200 vụ xảy
ra trong lĩnh vực thương mại điện tử, trong đó lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 519 vụ
chiếm 43,25%, 437 vụ sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc
thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chiếm 36,45% (Điều 226b BLHS sửa
đổi năm 2009), các hành vi khác là 244 vụ chiếm 20,3%.
- Về cơ cấu tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo ngành: theo
thống kê, các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như: Giao dịch trực tuyến, Ngân hàng, Tài
73
chính, Bưu chính viễn thông chiếm 94% về số vụ và 97% về thiệt hại do các tội phạm
này gây ra; các vụ án khác chiếm 6% số vụ và 3% thiệt hại.
Về cơ cấu theo địa bàn xảy ra: tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng rất
đa dạng: Nếu trước đây tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chủ yếu xảy ra ở các
thành phố, đô thị lớn nơi tập trung nhiều tập đoàn, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng,
ngân hàng như tại Hà Nội, từ năm 2010 đến 2015 PC50 công an Hà Nội đã phát hiện,
xử lý 244 vụ việc tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chiếm 20,3% số vụ. PC50
công an Tp Hồ Chí Minh đã phát hiện, xử lý 225 vụ chiếm 18,75% , PC50 Công an Tp
Hải Phòng đã phát hiện, xử lý 14 vụ chiếm 1,16% thì nay các tội phạm này có chiều
hướng phát triển ở địa bàn cấp huyện. Do CNTT&MVT không bị giới hạn về không
gian và thời gian nên tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có thể xảy ra ở bất kỳ địa
bàn nào mà ở đó tồn tại những công cụ có thể phục vụ cho quá trình thực hiện hành vi
phạm tội như: máy tính, điện thoại có kết nối mạng, thiết bị số... Vì vậy đối tượng có
thể ngồi ở bất kỳ nơi đâu có thể tại nhà riêng, điểm Internet công cộng, cơ quan tổ
chức để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đặc biệt hiện nay với việc kết nối mạng
Internet không dây (wifi) và công nghệ 4G, 5G đã phát triển trên diện rộng có thể chỉ
bằng máy tính xách tay (laptop) hoặc điện thoại di động (smartphone), điện thoại bàn
không dây (telecom) đối tượng có thể bất cứ ở đâu truy cập mạng Internet và thực hiện
các hành vi phạm tội.
Đặc điểm nhân thân của người phạm tội
+ Về độ tuổi: trong số 1807 đối tượng phạm tội trong lĩnh vực thương mại điện
tử nói chung và lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng, theo thống kê của Tổng cục VI Bộ
công an độ tuổi của các đối tượng phạm tội như sau: từ 16-35 tuổi là 1069 đối tượng
(chiếm 59,16%), từ 35-50 tuổi là 457 đối tượng (chiếm 25,28%); trên 50 tuổi là 281
đối tượng (chiếm 15,67%) [9].Qua thống kê đặc điểm về lứa tuổi, cho thấy lứa tuổi từ
16-35 chiếm tỷ lệ cao nhất vì đặc trưng ở độ tuổi này thích tò mò, khám phá, thích
phiêu lưu mạo hiểm lại không được kịp thời phát hiện do đó dễ dàng phạm tội.
+ Về trình độ học vấn: Đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT phần lớn
có trình độ hiểu biết về CNTT&MVT. Họ có khả năng và sự hiểu biết để giao tiếp với
máy tính, làm việc với các chương trình, hệ thống, mạng lưới thông tin, các thiết bị viễn
thông; hiểu biết về lập trình và xử lý các vấn đề phần cứng cũng như phần mềm của hệ
thống máy tính. Chính kỹ năng về CNTT&MVT đã được họ sử dụng để thực hiện các
hành vi phạm tội.Thống kê 1807 đối tượng cho thấy: 834 đối tượng có trình độ Đại học và
sau Đại học về CNTT (chiếm tỷ lệ 46,15%); có 714 đối tượng có trình độ Trung cấp
chuyên nghiệp, Cao đẳng về CNTT (chiếm tỷ lệ 39,51%), còn 269 đối tượng chỉ tốt
nghiệp trung học phổ thông và chưa tốt nghiệp phổ thông chiếm 14,34% [9].
74
+ Về nghề nghiệp: phần lớn các đối tượng đã hoặc đang là sinh viên các trường
Đại học, cao đẳng có đào tạo chuyên ngành CNTT&VT như Đại học Bách khoa Hà
Nội, Đại học Bách khoa Tp Hồ Chí Minh, Học viện công nghệ bưu chính viễn thông...
Trong 1807 đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT thì đối tượng phạm tội là
sinh viên có 1050 (chiếm 58,11%), cán bộ công nhân viên có 481 (chiếm 26,62%), đối
tượng khác có 276 (chiếm 15,27%) [9].
+ Về giới tính: Nam giới có 1306 đối tượng (chiếm 72,27%) trong đó có 377
nam giới là người nước ngoài (chiếm 28,87%); Nữ giới là 501 đối tượng (chiếm
27,73%), trong đó nữ giới là người nước ngoài là 104 (chiếm 20,76%). Điều này thể
hiện rõ ở chuyên ngành thương mại điện tử, CNTT&VT nam giới chiếm 2/3 số lượng
do đặc trưng của nam giới là thích tìm tòi, am hiểu thông tin, nhạy bén thông tin, xử lý
tốt các bài toán kỹ thuật [9].
+ Về quốc tịch: có 1227 người có quốc tịch Việt Nam (chiếm 67,90%); 178 người
có quốc tịch Trung Quốc (chiếm 9,85%); 91 người có quốc tịch Đài Loan (chiếm
5,03%);89 người có quốc tịch Hồng Kong (chiếm 4,93%); 78 người có quốc tịch
Malaysia (chiếm 4,32%); 144 người có quốc tịch khác (chiếm 7,97%). Qua số liệu trên
cho thấy, người có quốc tịch Việt nam là phạm tội nhiều nhất (kể cả Việt kiều vì trong số
họ nhiều người vẫn giữ quốc tịch Việt nam). Nguyên nhân là do họ am hiểu pháp luật, văn
hóa, phong tục tập quán, nắm được những tồn tại sơ hở trong công tác quản lý nhà nước
về thương mại điện tử, CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội [9].
Thực trạng cho thấy tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang có
những diễn biến phức tạp, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế trực tiếp ảnh hưởng đến an
ninh an toàn thông tin quốc gia, đến quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân. Tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT giai đoạn 2010-2019 gia tăng được lý giải bởi
những nguyên nhân và điều kiện như sau:
- Nguyên nhân, điều kiện về việc chưa hoàn thiện các văn bản pháp luật
Hệ thống pháp luật của nước ta trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT chưa đầy đủ và chưa theo kịp diễn biến tình hình thực tế. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 chưa quy định chứng cứ điện tử, cách thu thập và giá trị của
chứng cứ điện tử. Việc phát hiện, bảo quản, đánh giá và sử dụng loại chứng cứ này rất
khó khăn vì khi bị phát hiện, tội phạm có thể xóa, sửa nhanh chóng để tiêu hủy dẫn
đến rất khó thu thập, phục hồi chứng cứ. Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 đã có hiệu lực thi hành tuy nhiên đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ
thể để có cách hiểu thống nhất về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với tội phạm
sử dụng công nghệ cao. Điều này gây ra những khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan
chức năng trong việc phòng, chống các tội phạm này.
75
- Nguyên nhân, điều kiện về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
CNTT&MVT
Thực tế công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT được giao cho
Bộ thông tin và truyền thông trong đó các cơ quan trực thuộc bộ là Cục an toàn thông
tin, Cục viễn thông, Cục tin học hóa có chức năng tham mưu, giúp Bộ quản lý nhà
nước và tổ chức thực thi pháp luật về an toàn thông tin, mạng viễn thông. Trong quá
trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, các cơ quan tổ chức trên đã thực hiện
khá tốt bảo đảm an toàn thông tin, kịp thời khắc phục xử lý các sự cố về an toàn thông
tin. Tuy nhiên đây là lĩnh vực rất rộng, khó có ranh giới phân định do lĩnh vực này có
tính quốc tế cao. Sự gia tăng của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thường
gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ tuy nhiên trong thực tế sự
phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này với các cơ quan chức
năng, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ
Công thương, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn VNPT, Tập đoàn BKAV… chưa được chặt
chẽ, việc phối hợp còn mang tính bị động, chưa chủ động phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nguyên nhân có thể vì ảnh hưởng đến lợi ích,
quyền lợi của các cơ quan tổ chức và doanh nghiệp.
- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về các cơ quan bảo vệ pháp luật
Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
còn chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và trình độ nghiệp vụ trong khi các tội phạm
này có trình độ hiểu biết về khoa học công nghệ ngày càng cao, trang thiết bị, phương
tiện sử dụng để phạm tội ngày càng hiện đại.
Trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho các lực lượng mặc dù đã được quan
tâm đầu tư, nhưng vẫn còn thiếu, lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ.Đặc
biệt là các phương tiện, phần mềm chuyên dụng để khôi phục dữ liệu từ ổ đĩa cứng
máy tính, dữ liệu trên điện thoại thông minh, máy tính đã bị các đối tượng xóa trước
khi bị phát hiện thu giữ. Ngoài ra, các đối tượng thường sử dụng nickname, địa chỉ
email (hộp thư điện tử) để giao tiếp, sau một thời gian hành vi phạm tội mới bị phát
hiện, khi đó việc phục hồi các dữ liệu trong email cũng như xác định người lập email
rất khó khăn, nhiều trường hợp không phục hồi dữ liệu mà chỉ căn cứ trên lời khai để
xử lý. Năm 2019 Trung tâm phục hồi dữ liệu và chứng cứ điện tử Indra Gahdi do
Chính phủ Ấn Độ tài trợ đã đi vào hoạt động tại Hà nội nhưng quy mô còn nhỏ nên
hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa kể các biến động về cơ cấu tổ chức do việc sát nhập
Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao (C50) với Cục An ninh mạng (A68) thành
Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao A05 năm 2018.
76
Đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có trình độ về CNTT&MVT
cũng như sự hiểu biết về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn nhiều, chưa đáp
ứng với thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh, xử lý với các tội phạm này.
- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về người bị hại
Bên cạnh các nguyên nhân, điều kiện trên để tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&VT gia tăng thì nguyên nhân, điều kiện thuộc về người bị hại cũng là vấn đề
cần quan tâm nghiên cứu để đề xuất các giải pháp khắc phục. Thực tế cho thấy các
ngân hàng, sàn giao dịch chứng khoán có sử dụng giao dịch điện tử qua mạng còn chủ
quan trong việc bảo vệ dữ liệu thông tin. Đã có các trường hợp nhân viên của Công ty
lợi dụng nhiệm vụ được giao vào hệ thống đơn vị thực hiện giao dịch nộp tiền, chuyển
tiền sau đó rút tiền ra chiếm đoạt; ăn cắp thông tin của khách hàng rồi làm giả thẻ ngân
hàng. Tại Việt Nam chỉ trong 2 năm 2017, 2018 đã xẩy ra hàng loạt vụ án nghiêm
trọng liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Điển hình như việc hơn
400 tài khoản ngân hàng Agribank bị xâm nhập và có hơn 10 tài khoản bị mất từ 10-24
triệu đồng dù đã báo khóa thẻ ATM xảy ra vào tối muộn ngày 25/4/2018; Nhiều đối
tượng phạm tội lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các chủ tài khoản thực hiện các hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua các mạng xã hội. Đặc biệt với ảnh hưởng của đại
dịch Covid 19 khi các giao dịch trực tuyến, thanh toán điện tử ngày càng phát triển thì
số lượng người bị hại do các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng không ngừng
tăng lên.
- Nguyên nhân, điều kiện về sự ảnh hưởng của tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT trên thế giới
Trên thế giới, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang có những diễn
biến phức tạp, theo thống kê trung bình cứ 14 giây trôi qua lại xảy ra một vụ phạm
pháp trên mạng. Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL xếp tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT chỉ đứng sau tội phạm ma túy và khủng bố xét về tính chất nguy
hiểm. Theo sự phát triển của khoa học công nghệ với sự ứng dụng rộng rãi CNTT vào
các lĩnh vực thì tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng gia tăng. Tính chất tội
phạm đã thay đổi sang hướng tội phạm có tổ chức tạo thành các mạng lưới tội phạm
toàn cầu, động cơ phạm tội chủ yếu vì kinh tế. Hành vi phạm tội ngày càng tinh vi,
khó phát hiện thủ đoạn liên tục thay đổi như mô hình hóa hoạt động của chúng dưới
dạng các quy trình nghiệp vụ phổ biến gây nhầm lẫn cho người sử dụng nhằm đánh
cắp các thông tin cá nhân quan trọng. Ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 trên toàn cầu
cũng là một trong những nguyên nhân, điều kiện để tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT phát triển.
77
Do tính chất của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mang tính quốc tế,
không biên giới nên sự phát triển của các tội phạm này có ảnh hưởng nhất định tới sự
gia tăng của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam. Nhiều hành
vi diễn ra trên thế giới đã có tại Việt Nam như tấn công DDDOS từ chối dịch vụ, tấn
công lừa đảo, phán tán mã độc, ăn cắp thông tin cá nhân để làm giả thẻ tín dụng nhằm
chiếm đoạt tài sản, đánh bạc trực tuyến…
3.2 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông
3.2.1 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và mạng viễn thông của các chủ thể
Tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT có ba nhóm chủ thể khác nhau bao gồm
Chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật phục vụ hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;
Chủ thể trực tiếp triển khai hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT;
Chủ thể phối hợp trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
Trên thực tế các nhóm chủ thể trên đã thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bằng việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa theo
chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm hạn chế, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện, từ đó
làm giảm, đẩy lùi tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các biện pháp phòng
ngừa đã được các chủ thể thực hiện bao gồm:
3.2.1.1 Các biện pháp phòng ngừa xã hội
Trong thời gian qua, các chủ thể đã tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; trong đó đặc biệt chú ý đến việc sử dụng
các biện pháp phòng ngừa xã hội như các biện pháp về pháp luật, tuyên truyền, giáo
dục, kinh tế... Đó là các biện pháp mang tính chiến lược và lâu dài nhằm đến mục tiêu
xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ở Việt Nam. Cụ thể là:
- Biện pháp chính trị tư tưởng
Ban bí thư trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị
để chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức Đảng các cấp trong việc thực hiện hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như Chỉ thị số 48-CT/TW về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình
hình mới; Kết luận số 05-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-
78
CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm
trong tình hình mới;Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020... Đây là những văn bản quan trọng thể hiện tinh thần, đường lối, chủ trương và
chính sách của Đảng trong việc đề cao vai trò của hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung và tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Tuy
nhiên nội dung về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa
được đề cập một cách cụ thể, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được gọi với tên
”tội phạm sử dụng công nghệ cao”[5]
- Biện pháp quản lý
- Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT xây dựng chính
sách phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển về CNTT&MVT, phát triển các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin.
Trong những năm qua, CNTT&MVT ở nước ta đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển hạ tầng và dịch vụ CNTT&MVT việc phát triển các tổ
chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh
mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ, phù hợp với đặc điểm sử
dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá thành hợp lý hơn như các sản phẩm
diệt virut máy tính của tập đoàn BKAV, vì vậy môi trường mạng của nước ta cũng sẽ
an toàn hơn.
Ngày 10/10/2019 Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam
được thành lập theo Quyết định số 1671/Bộ TTTT. Theo Quyết định, Trung tâm Ứng
cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục
An toàn thông tin thực hiện chức năng làm đầu mối kỹ thuật điều phối ứng cứu sự cố
an toàn không gian mạng và kiểm định an toàn thông tin trên phạm vi toàn quốc; quản
lý, vận hành các hệ thống số liệu, cơ sở dữ liệu, hệ thống kỹ thuật về điều phối ứng
cứu sự cố, kiểm định và phòng, chống thư điện tử rác, tin nhắn rác phục vụ công tác
quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về an toàn thông tin; là đầu mối hợp tác quốc tế
với các cơ quan, tổ chức có chức năng ứng cứu sự cố và kiểm định an toàn thông tin.
Ngày 5/10/2018, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1616/QĐ-BTTTT thành
lập Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục an toàn
thông tin. Trung tâm có các nhiệm vụ như: Thực hiện giám sát an toàn thông tin trên
toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin
mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, giám sát của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản các hệ thống thông tin;
triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin
mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đô thị
79
thông minh. Kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ
tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an
toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc trên không gian mạng Việt Nam; tổ
chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã độc trên diện rộng với sự tham gia
của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích,
theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không
gian mạng Việt Nam; tổ chức diễn tập phòng thủ, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng
cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Với sự ra đời của nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý, duy trì
hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua là
những biện pháp có tính chiến lược và lâu dài, có khả năng xử lý, ngăn chặn những
yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy
nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch
vụ do các doanh nghiệp CNTT&MVT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ
sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT trong nước được
sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn thông trong
nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý, giúp cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
chủ động hơn
- Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT xây dựng chính
sách phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển về CNTT&MVT, phát triển các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin.
Trong những năm qua, CNTT&MVT ở nước ta đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển hạ tầng và dịch vụ CNTT&MVT việc phát triển các tổ
chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh
mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ, phù hợp với đặc điểm sử
dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá thành hợp lý hơn như các sản phẩm
diệt virut máy tính của tập đoàn BKAV, vì vậy môi trường mạng của nước ta cũng sẽ
an toàn hơn.
Ngày 10/10/2019 Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam
được thành lập theo Quyết định số 1671/Bộ TTTT. Theo Quyết định, Trung tâm Ứng
cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục
An toàn thông tin thực hiện chức năng làm đầu mối kỹ thuật điều phối ứng cứu sự cố
an toàn không gian mạng và kiểm định an toàn thông tin trên phạm vi toàn quốc; quản
lý, vận hành các hệ thống số liệu, cơ sở dữ liệu, hệ thống kỹ thuật về điều phối ứng
80
cứu sự cố, kiểm định và phòng, chống thư điện tử rác, tin nhắn rác phục vụ công tác
quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về an toàn thông tin; là đầu mối hợp tác quốc tế
với các cơ quan, tổ chức có chức năng ứng cứu sự cố và kiểm định an toàn thông tin.
Ngày 5/10/2018, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1616/QĐ-BTTTT thành
lập Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục an toàn
thông tin. Trung tâm có các nhiệm vụ như: Thực hiện giám sát an toàn thông tin trên
toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin
mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, giám sát của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản các hệ thống thông tin;
triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin
mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đô thị
thông minh. Kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ
tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an
toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc trên không gian mạng Việt Nam; tổ
chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã độc trên diện rộng với sự tham gia
của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích,
theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không
gian mạng Việt Nam; tổ chức diễn tập phòng thủ, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng
cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Với sự ra đời của nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý, duy trì
hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua là
những biện pháp có tính chiến lược và lâu dài, có khả năng xử lý, ngăn chặn những
yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy
nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch
vụ do các doanh nghiệp CNTT&MVT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ
sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT trong nước được
sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn thông trong
nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý, giúp cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
chủ động hơn
- Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT xây dựng chính
sách phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển về CNTT&MVT, phát triển các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin.
Trong những năm qua, CNTT&MVT ở nước ta đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển hạ tầng và dịch vụ CNTT&MVT việc phát triển các tổ
81
chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh
mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ, phù hợp với đặc điểm sử
dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá thành hợp lý hơn như các sản phẩm
diệt virut máy tính của tập đoàn BKAV, vì vậy môi trường mạng của nước ta cũng sẽ
an toàn hơn.
Ngày 10/10/2019 Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam
được thành lập theo Quyết định số 1671/Bộ TTTT. Theo Quyết định, Trung tâm Ứng
cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục
An toàn thông tin thực hiện chức năng làm đầu mối kỹ thuật điều phối ứng cứu sự cố
an toàn không gian mạng và kiểm định an toàn thông tin trên phạm vi toàn quốc; quản
lý, vận hành các hệ thống số liệu, cơ sở dữ liệu, hệ thống kỹ thuật về điều phối ứng
cứu sự cố, kiểm định và phòng, chống thư điện tử rác, tin nhắn rác phục vụ công tác
quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về an toàn thông tin; là đầu mối hợp tác quốc tế
với các cơ quan, tổ chức có chức năng ứng cứu sự cố và kiểm định an toàn thông tin.
Ngày 5/10/2018, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1616/QĐ-BTTTT thành
lập Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục an toàn
thông tin. Trung tâm có các nhiệm vụ như: Thực hiện giám sát an toàn thông tin trên
toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin
mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, giám sát của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản các hệ thống thông tin;
triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin
mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đô thị
thông minh. Kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ
tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an
toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc trên không gian mạng Việt Nam; tổ
chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã độc trên diện rộng với sự tham gia
của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các tổ chức, doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích,
theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không
gian mạng Việt Nam; tổ chức diễn tập phòng thủ, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng
cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Với sự ra đời của nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý, duy trì
hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua là
những biện pháp có tính chiến lược và lâu dài, có khả năng xử lý, ngăn chặn những
yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy
nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch
82
vụ do các doanh nghiệp CNTT&MVT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ
sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT trong nước được
sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn thông trong
nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý, giúp cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
chủ động hơn
- Biện pháp văn hóa, giáo dục
+ Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia phòng ngừa,
đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Nhận thức rõ vai trò của nhân dân, của xã hội đối với công tác đấu tranh phòng
ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.
Các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội khi thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT luôn xác định công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng nhân dân tham gia đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
là một trong những biện pháp có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở, nền tảng cho việc tiến
hành các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này. Mục đích của công tác tuyên
truyền, vận động là làm cho quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về
hậu quả, tác hại do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra, từ đó tích cực thực
hiện và chủ động phòng ngừa tội phạm này.
Trong thời gian qua, Bộ Thông tin và truyền thông đã phối hợp với cơ quan
chức năng liên quan định kỳ tổ chức một số hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp
luật, nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các hội nghị, hội thảo và trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Bộ Thông tin và truyền thông cùng phối hợp với
một số các cơ quan trung ương và địa phương xây dựng kế hoạch triển khai công tác
tuyên truyền, phổ biến về an toàn thông tin. Đặc biệt, Bộ cũng phối hợp với Hiệp hội
An toàn thông tin Việt Nam tổ chức chuỗi sự kiện thường niên Ngày An toàn thông tin
Việt Nam. Trong khuôn khổ sự kiện này, nhiều hoạt động hữu ích được tổ chức như:
Cuộc thi Sinh viên với an toàn thông tin đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi của dư
luận xã hội; Hội nghị quốc tế về phòng chống mã độc toàn cầu lần thứ 18 - AVAR
2015 (tháng 12/2015) với sự bảo trợ của Cục An toàn thông tin và nhiều hội nghị, hội
thảo khác trên khắp đất nước.Tháng 1/2016, Cục An toàn thông tin đã xuất bản bộ tài
liệu tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về an toàn thông tin và
phát hành tới toàn bộ 63 Tỉnh, Thành phố trong cả nước, các Bộ, ban, ngành nhằm
trang bị cho cán bộ, công chức, viên chức một số kiến thức cơ bản để có thể tự bảo vệ
trước nguy cơ mất an toàn thông tin. Ngày 3/8/2017 Bộ thông tin và truyền thông đã
ký ban hành Đề án “Tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp
83
luật và tội phạm trên mạng Internet”. Đề án này góp phần cụ thể hóa Chiến lược quốc
gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030 nhằm
tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên
mạng Internet, góp phần kéo giảm tội phạm, vi phạm pháp luật trên mạng Internet.
Trong năm 2018 Bộ thông tin và truyền thông đã tổ chức các đoàn công tác làm việc
với 20 cơ quan chuyên trách về CNTT của Bộ, ngành, địa phương để kiểm tra, đánh
giá, giám sát an toàn thông tin và triển khai các nhiệm vụ đã được Thủ tướng chính
phủ phê duyệt tại các Quyết định: Quyết định 1622/QĐ-TTg ngày 25/10/2017 về việc
phê duyệt Đề án đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố, tăng cường năng
lực cho các cán bộ, bộ phận chuyên trách ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng đến
năm 2020, định hướng đến 2025; Quyết định số 898/QĐ-TTg ngày 27/5/2016 phê
duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin mạng giai đoạn
2016-2020; Quyết định số 99/QĐ-TTg ngày 14/1/2014 phê duyệt Đề án đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin đến năm 2020; Quyết định số
893/QĐ-TTg ngày 19/6/2015 phê duyệt Đề án tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận
thức và trách nhiệm về an toàn thông tin đến năm 2020…Năm 2019 Bộ thông tin và
truyền thông đang xây dựng Đề án bảo vệ thông tin cá nhân và sẽ ban hành trong thời
gian tới. Bên cạnh đó Bộ thông tin và truyền thông đã thúc đẩy phát triển nguồn nhân
lực đào tạo, tập huấn, diễn tập; tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức và kỹ năng
bảo đảm an toàn thông tin cho cộng đồng [23].
Trong đấu tranh và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
thì công tác tuyên truyền giáo dục được xác định là giải pháp lâu dài, bền vững.
Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, trong những năm qua các chủ thể tiến hành hoạt
động phòng ngừa đã chủ động tổ chức công tác tuyên truyền giáo dục về pháp luật
kinh tế, pháp luật về CNTT&MVT liên doanh liên kết với các chủ thể khác ở quy mô
rộng trên toàn quốc, ở hầu hết các địa bàn, tuyến, lĩnh vực trọng điểm. Hình thức, nội
dung, biện pháp tương đối phong phú. Lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử
dụng công nghệ cao đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông, đài
phát thanh, truyền hình như Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam,
Thông tấn xã Việt Nam... để phục vụ công tác tuyên truyền, vận động. Trong đó chú
trọng công tác tuyên truyền các thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT để
các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước nắm bắt kịp thời phát hiện cũng như
có các biện pháp phòng ngừa, nâng cao tính bảo mật trong việc sử dụng máy tính,
mạng máy tính, mạng viễn thông để không trở thành nạn nhân của tội phạm. Các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông như Viettel, Mobifone, Vinafone... thường
xuyên đưa ra những cảnh báo cho người dùng về các thủ đoạn, phương thức thực
84
hiện hành vi phạm tội của các đối tượng qua tin nhắn, e-mail. Các cơ quan nhà nước
và các tổ chức xã hội đã nâng cao nhận thức trong việc chủ động phòng ngừa tình
hình các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT, kịp thời vá các lỗ hổng trong bảo mật
an toàn thông tin. Mỗi người dân khi sử dụng CNTT&MVT đều có ý thức phòng
ngừa, chủ động nâng cao sự hiểu biết về các phương thức, thủ đoạn của các đối
tượng phạm tội.
Từ năm 2010 đến nay, cán bộ chiến sỹ lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công
nghệ cao đã tham gia viết hàng trăm tin, bài hoặc cung cấp các thông tin, tài liệu về
công tác đấu tranh và phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho các
cơ quan báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình phục vụ công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân trong đấu tranh và phòng ngừa tội phạm này ở Việt Nam. Đặc biệt là
đưa ra các cảnh báo về thủ đoạn, phương thức thực hiện hành vi của các đối tượng
bằng điện thoại, qua mạng Internet và mạng xã hội. Mặc dù chưa có hình thức tuyên
truyền riêng cho công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, song nhìn chung công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng
nhân dân đã được thực hiện một cách chủ động, tích cực và đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Qua công tác tuyên truyền đã giúp nâng cao nhận thức về tác hại, hậu
quả do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra, người sử dụng các thiết bị
CNTT&VT đã từng bước nhận diện được một số thủ đoạn của hành vi phạm tội để
nâng cao cảnh giác. Tuy nhiên hoạt động tuyên truyền, phổ biến chưa được tiến hành
thường xuyên, hình thức tuyên truyền còn mang tính khẩu hiệu và hình thức và chỉ
được tiến hành tại các thành phố lớn, nhiều địa bàn chưa được quan tâm.
+ Công dân đã có trách nhiệm tham gia phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp
luật khác trong lĩnh vực CNTT&MVT bằng cách bảo vệ mật khẩu, khóa mật khẩu, cơ
sở dữ liệu, thông tin cá nhân, thông tin tài khoản và hệ thống thiết bị CNTT&MVT của
mình; phát hiện, kịp thời tố giác tội phạm và vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực
CNTT&MVT với cơ quan Công an hoặc chính quyền cơ sở gần nhất; phối hợp chặt
chẽ với Cơ quan chuyên trách trong quá trình xác minh làm rõ tội phạm và vi phạm
pháp luật khác trong lĩnh vực CNTT&MVT, cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết
có liên quan cho Cơ quan chuyên trách khi được yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Nhưng do nhận thức về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn hạn chế, sự hiểu biết
về CNTT&MVT chưa đồng đều nên việc chủ động cung cấp thông tin, kịp thời phát hiện
các hành vi, thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn hạn chế.
- Biện pháp pháp luật
Các quy định của pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từng bước
đang được xây dựng và hoàn thiện, đặc biệt là các quy định về tội phạm trong lĩnh vực
85
này được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh khi so sánh quy
định của Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 với Bộ luật hình sự năm 2015.
Bên cạnh các quy định của Bộ luật hình sự, các văn bản pháp luật trong quản lý
lĩnh vực CNTT&MVT được ban hành nhiều hơn, nội dung phản ánh các vấn đề của
thực tế như Luật an toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2017, Đề
án về tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm
trên mạng Internet năm 2017 của Bộ thông tin truyền thông; Chỉ thị 82/CT-BTTTT về
việc ngăn chặn tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo và tăng cường quản lý thông tin trên
mạng năm 2014 của Bộ thông tin truyền thông…
Các văn bản pháp luật này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực hiện hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và xử lý tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy nhiên nhiều văn bản pháp luật chưa có quy định
hướng dẫn thực hiện dẫn đến lúng túng, khó khăn cho các cơ quan chức năng trong
phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như cần có cách hiểu thống nhất
về “tội phạm sử dụng công nghệ cao” và “tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT”
được quy định trong BLHS năm 2015.
Tham mưu, hướng dẫn phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT của các cơ quan bảo vệ pháp luật
Là lực lượng chuyên trách trong đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao đã làm tốt công tác
tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, lãnh đạo
Bộ công an về xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về kinh
tế, về hoạt động liên quan đến lĩnh vực CNTT&MVT; khắc phục những sơ hở hạn chế
trong quản lý nhà nước về lĩnh vực CNTT&MVT; về đấu tranh phòng chống tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT như sau:
+ Tham mưu cho Tổng cục cảnh sát phòng chống tội phạm, Bộ công an xây
dựng dự án 3 “Phòng chống các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao” trình Thủ tướng
Chính phủ. Ngày 06/09/2012 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình mục
tiêu quốc gia, trong đó có Dự án 3 với tổng mức đầu tư là 124 tỷ đồng và đã được triển
khai thực hiện trong giai đoạn 2012-2015.
+ Tham mưu cho lãnh đạo Tổng cục tổ chức Hội nghị “Sơ kết 03 năm công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã
hội tại 1 số địa bàn trọng điểm”, năm 2015.
+ Tham mưu cho lãnh đạo Tổng cục, Bộ công an xây dựng và triển khai thực
hiện một số Đề án nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao như Đề án “Thiết lập hệ thống đảm bảo an ninh thông tin mạng”, Đề án
86
“Đảm bảo nhân lực đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm đến năm 2020
của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao C50 và hệ lực lượng
Công an địa phương...”
+ Phối hợp với V19 nghiên cứu, đề xuất bổ sung thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính cho lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao vào
dự án Luật xử lý vi phạm hành chính. Hiện nay Luật xử lý vi phạm hành chính đã
được Quốc hội khóa XVIII thông qua tháng 6/2012, có hiệu lực tháng 7/2013 trong đó
đã quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của lực lượng Cảnh sát phòng
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Khoản 6, Điều 39).
+ Tham mưu cho lãnh đạo Bộ công an xây dựng, sửa đổi, bổ sung một số văn
bản quy phạm pháp luật quan trọng tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điều tra, xử lý
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT ở Việt Nam như (1) Nghị định “Quy định về công
tác phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực sử dụng công
nghệ cao” được Chính phủ thông qua vào tháng 4/2014; (2) Thông tư liên tịch số
10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTT-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thực hiện
5 điều về tội phạm sử dụng công nghệ cao của Bộ luật hình sự 2009 (các Điều
224,225,226,226a,226b) đã được các Bộ, ngành ký ban hành ngày 10/9/2012; (3) Đề
xuất xây dựng Luật tổ chức điều tra hình sự theo hướng giao C50 là cơ quan khác trong
Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (4) Giao
C50 là đầu mối: yêu cầu chặn truy cập Internet đối với các Website có nội dung xấu
xâm phạm trật tự an toàn xã hội và phối hợp với Bộ thông tin và truyền thông thực hiện
công tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực trò chơi trực tuyến (game online) từ khâu
cấp phép hoạt động, phát hành và công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
+ Phối hợp với các Bộ, ngành chức năng xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật, quy chế phối hợp... phục vụ công tác phối hợp đấu tranh và phòng ngừa tình hình
các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT như báo cáo Bộ công an kiến nghị Ngân hàng
nhà nước có biện pháp tăng cường an ninh bảo mật, chống sao chép dữ liệu tại các
điểm rút tiền tự động ATM; Phối hợp với Ngân hàng nhà nước nghiên cứu, xây dựng
các quy định về đảm bảo an toàn, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các vi phạm trong
hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt,...
+ Tiếp tục tham mưu lãnh đạo Bộ triển khai thành lập các Đội cảnh sát phòng
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Phòng Cảnh sát kinh tế, Công an 12 tỉnh,
thành phố trọng điểm.
+ Tham gia ý kiến vào dự thảo nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật
hình sự năm 2015, Luật an toàn thông tin mạng năm 2015...
87
+ Đối với Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan tư pháp đã tiến hành các biện
pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thông qua công tác
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án về các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
Các biện pháp tham mưu, hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có
tác động trực tiếp trong việc phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT làm
giảm bớt sự gia tăng của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nhưng do
nhận thức về phòng ngừa còn chưa đồng đều giữa các chủ thể nên đã ảnh hưởng đến
hiệu quả của hoạt động phòng ngừa, hiện nay chưa có văn bản tổng kết và hướng dẫn
hoạt động xét xử đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của Tòa án nhân dân
tối cao đã dẫn đến những khó khăn trong việc xét xử các tội phạm này.
3.2.1.2. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
Phòng ngừa nghiệp vụ là việc các đơn vị sử dụng các hoạt động nghiệp vụ trong
phạm vi quyền hạn của mình, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi sử
dụng các thiết bị CNTT&MVT để phạm tội nhằm hạn chế hậu quả do tội phạm có thể
gây ra cho xã hội.
Trong phòng ngừa nghiệp vụ, các đơn vị Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao
đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của mình chủ động nắm bắt các ý đồ, sự chuẩn bị
thực hiện tội phạm và tổ chức ngăn chặn trước khi hoạt động phạm tội xảy ra. Trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình khi thực hiện các biện pháp phòng
ngừa nghiệp vụ các đơn vị cần tiến hành công tác điều tra cơ bản, sưu tra, xây dựng
cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm.
Để phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tổ chức cho cán bộ chiến sỹ trong ngành
và các chủ thể khác ngoài ngành nghiên cứu học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ thông qua các văn bản pháp luật, nghiệp vụ của ngành Công an
áp dụng trong thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT như: Quyết định số 151/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy
định về các biện pháp nghiệp vụ trong phòng chống tội phạm và giữ gìn trật tự an toàn
xã hội của lực lượng Cảnh sát nhân dân; Các thông tư số 18, 19, 20, 21, 22 ngày
1/4/2013 của Bộ trưởng Bộ công an quy định về công tác nghiệp vụ cơ bản của lực
lượng Cảnh sát nhân dân; Thông tư số 32 ngày 12/6/2013 của Bộ trưởng Bộ công an
quy định về công tác hồ sơ nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát nhân dân. Ngoài ra lực
lượng Cảnh sát nhân dân còn tổ chức trao đổi, tọa đàm các kinh nghiệm hay giữa các lực
lượng thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT để từng
chủ thể có thể hiểu và vận dụng vào thực tiễn đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này.
88
Thực tiễn trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tiến hành các
biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thông
qua các hoạt động sau đây
- Công tác điều tra cơ bản
Trên cơ sở Quyết định số 360/2003/QĐ-BCA (C11) ngày 6/6/2003 cũng như
Thông tư số 18/2013/TT-BCA-C41 ngày 1/4/2013 về công tác điều tra cơ bản của lực
lượng Cảnh sát nhân dân, các lực lượng chuyên trách đã tiến hành thu thập rộng rãi có
hệ thống các thông tin, tài liệu về tình hình có liên quan ở một địa bàn, lĩnh vực, hệ
loại đối tượng... phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên tất cả
các tuyến, địa bàn, lĩnh vực. Đối với công tác điều tra cơ bản phục vụ công tác phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, lực lượng Cảnh sát nhân dân tập trung
vào việc thu thập rộng rãi các thông tin, tài liệu về bộ phận, khâu, địa bàn trọng điểm,
phức tạp về CNTT&MVT như trong :
+ Lĩnh vực an ninh, an toàn mạng: Đã rà soát, lập danh sách, điều tra cơ bản đối
với hàng trăm Website có liên quan nhiều đến công tác an ninh, an toàn mạng như:
diễn đàn, Website của các nhóm tội phạm mạng, tin tặc,... Kết quả kịp thời phát hiện,
ngăn chặn một số Website cung cấp những thông tin sai lệch với chủ trương, đường lối
của Đảng và nhà nước. Trong năm 2019, Cục A05 đã kịp thời phản bác có hiệu quả
thông tin xấu, độc, tin giả, tin sai sự thật; triển khai công tác bảo vệ an ninh hệ thống
mạng thông tin quốc gia tại 30 bộ, ngành, địa phương; phát hiện, xử lý 40 vụ lộ bí mật
Nhà nước qua mạng Internet; phục hồi dữ liệu, chứng cứ điện tử của hơn 1.000 thiết
bị, phục vụ đắc lực cho công tác điều tra, khám phá các vụ án của Công an các đơn vi,
địa phương [8].
+ Lĩnh vực cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trực tuyến (game online) và các
hoạt động có thưởng trên mạng Internet và các thiết bị viễn thông: đã xác định được 25
công ty phát hành trò chơi trực tuyến với 95 trò chơi được cấp phép, hiện đang tồn tại
khoảng 100 trò chơi không được cấp phép hoạt động của các cơ quan chức năng.
+ Lĩnh vực cung cấp dịch vụ nội dung trên mạng Internet và các thiết bị viễn
thông: đã rà soát, xác định, điều tra cơ bản được khoảng 150 công ty cung cấp dịch vụ
nội dung trên điện thoại di động với khoảng 500 đầu số (nhắn tin, thoại) đã đăng ký
với các nhà mạng viễn thông; đã lập danh sách, thu thập tài liệu về hơn 200 doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ tin nhắn và các nội dung khác...[9]
Nhìn chung lực lượng Cảnh sát nhân dân đã làm tốt công tác điều tra cơ bản
trên tất cả các địa bàn, khâu, bộ phận, lĩnh vực trọng điểm. Thông tin, tài liệu thu được
đã giúp các lực lượng nắm được tổng quan tình hình hoạt động của tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT ở Việt Nam cũng như các đặc điểm về địa bàn, khâu, bộ phận hoạt
89
động của chúng. Tài liệu thu được từ công tác điều tra cơ bản đã có giá trị thiết thực
cho công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi và lập án đấu tranh phòng ngừa và phòng
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tuy nhiên hoạt động điều tra cơ bản mới
chỉ được diễn ra ở lĩnh vực và địa bàn trọng điểm, chưa được tiến hành trên phạm vi
rộng có nguy cơ xảy ra tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
- Công tác sưu tra
Năm 2015 C50 lập mới 16 hồ sơ sưu tra, kết thúc 04 hồ sơ hiện đang quản lý 12
hồ sơ. Công an các địa phương lập mới 100 hồ sơ sưu tra, kết thúc 65 hồ sơ hiện đang
quản lý 86 hồ sơ [9] .
Kết quả công tác sưu tra đối tượng sử dụng CNTT&VT để thực hiện hành vi
phạm tội còn quá ít, chưa đem lại được hiệu quả thiết thực cho công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT ở Việt Nam. Nhiều địa phương
còn lúng túng trong công tác sưu tra, nhất là đối với người nước ngoài, Việt kiều đang
hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội;
công tác quản lý đối tượng sưu tra thuộc danh mục này còn lỏng lẻo, hình thức, không
nắm được di biến động và các biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội của đối tượng.
- Công tác xác minh hiềm nghi
Công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng Cảnh sát nhân dân được thực hiện
nghiêm túc, đúng đối tượng, được lãnh đạo Cục cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao
phê duyệt. Việc lập thẻ, tổ chức lấy lý lịch cá nhân của đối tượng hiềm nghi về kinh tế
cũng như công tác xác minh hiềm nghi đã đảm bảo tính kế hoạch. Kết thúc xác minh
hiềm nghi được thực hiện theo quy định tại Quyết định 361/QĐ-BCA (C11) và Thông
tư số 20/2013/TT-BCA-C41 quy định về công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng
Cảnh sát nhân dân.
Trong thời gian từ năm 2015 đến 2019, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã xác lập
được 13 hiềm nghi về người và 38 hiềm nghi về vụ việc hiện tượng có liên quan đến
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT. Công an các địa phương tiến hành xác minh 81
hiềm nghi về người và vụ việc [9].
Kết quả này còn khá khiêm tốn, tuy nhiên về cơ bản các đơn vị Cảnh sát nhân
dân đã tiến hành xác lập hồ sơ hiềm nghi đúng căn cứ, đáp ứng các yêu cầu bí mật, áp
dụng các biện pháp nghiệp vụ tiến hành xác minh nhanh, kết luận kịp thời, chính xác
có tác dụng thiết thực trong việc phát hiện, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
- Công tác đấu tranh chuyên án
Thực hiện Quyết định số 362/2003/QĐ-BCA (C11) ngày 06/06/2003 của Bộ
trưởng Bộ Công an và Thông tư số 21/2013/TT-BCA-C41 về công tác đấu tranh
90
chuyên án của lực lượng CSND, trong những năm qua công tác đấu tranh chuyên án
của lực lượng CSND đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hiệu quả
trong tổ chức thực hiện; cán bộ, chiến sỹ đã nhận thức rõ vị trí, nhiệm vụ, nguyên tắc
căn cứ xác lập chuyên án từ đó vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn tổ chức đấu tranh
chuyên án. Đã tập trung xác lập đấu tranh, khám phá thành công nhiều chuyên án lớn
đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT, đặc biệt trong giai đoạn từ 2010-
2015. Cụ thể xem [9] và phụ lục.
Về cơ bản công tác đấu tranh chuyên án đã đảm bảo các yêu cầu về chính trị, pháp
luật và nghiệp vụ. Đã huy động được nhiều lực lượng, phương tiện tham gia với sự chỉ
đạo tập trung thống nhất của Ban chuyên án; Chuyên án được thực hiện đúng căn cứ, có
kế hoạch, việc tổ chức thực hiện tương đối đồng bộ, kết thúc chuyên án đảm bảo các yêu
cầu nghiệp vụ đề ra. Kết thúc chuyên án đều làm rõ được tính chất vi phạm, đối tượng vi
phạm và kiến nghị xử lý theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, số lượng chuyên án
được xác lập còn quá ít do đó hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&VT chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
- Công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, theo lĩnh
vực trọng điểm
Mạng lưới cộng tác viên bí mật về cơ bản được xây dựng và sử dụng trên
nhiều địa bàn, tuyến, lĩnh vực trong đó có địa bàn, lĩnh vực liên quan đến tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Trong những năm qua mạng lưới cộng tác viên bí mật đã cung cấp hàng trăm
tin báo mỗi năm, trong đó đa phần tin có giá trị được sử dụng trong các công tác
nghiệp vụ. Các cơ sở bí mật đã cung cấp nhiều thông tin, tài liệu có giá trị phục vụ
công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Qua
những nguồn tin này, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã phát hiện, điều tra khám phá
nhiều vụ án lớn liên quan đến loại tội phạm này.
Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy mạng lưới cộng tác viên bí mật phục vụ công
tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn mỏng, chất
lượng chưa cao. Nhiều địa phương còn chưa có cộng tác viên bí mật phục vụ công tác
đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này (đặc biệt là ở địa bàn miền núi, biên giới) dẫn
đến hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện nguồn tin, vụ việc để tổ chức đấu tranh
không cao.
- Sử dụng các biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa tội phạm
Trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao bên cạnh việc phối hợp với các lực lượng kỹ thuật ngoại tuyến, Kỹ thuật
nghiệp vụ I, Kỹ thuật nghiệp vụ II đã chủ động nghiên cứu sử dụng các công cụ kỹ
91
thuật để ngăn chặn truy cập trái phép, xây dựng hệ thống bảo mật thông tin một cách
tổng thể gồm: hệ thống bảo vệ vòng ngoài như tường lửa (fire wall), phần mềm bảo vệ
dữ liệu (như sử dụng mã hóa, mạng riêng ảo VPN – Virtual Private Network), thẻ
thông minh, mật khẩu dùng một lần, hệ thống quản lý mật khẩu đặc quyền) và hệ
thống phát hiện, tấn công chống virut, mã độc (như hệ thống ngăn chặn DDOS, hệ
thống phát hiện xâm nhập, bộ lọc thư rác, lọc nội dung trang web...).
Đặc biệt, bước đầu đã áp dụng thành công bẫy nghiệp vụ honeypot – honeynet.
Đây là biện pháp phòng ngừa kỹ thuật, là một trong những công cụ có thể sử dụng để
phát hiện và thu giữ những thông tin ban đầu về tội phạm sử dụng CNTT&VT. Các
bẫy thông tin được sử dụng để phát hiện các tội phạm trong lĩnh vực này là các
honeypots (mắt ong) hoặc honeynets (tổ ong). Với các hệ thống thông tin được ngụy
trang này, khi các đối tượng phạm tội tấn công vào hệ thống, nó sẽ tương tác trực tiếp
với tin tặc và tìm cách khai thác thông tin về tin tặc. Hệ thống honeypot giúp các lực
lượng ghi nhận được thông tin các phiên giao dịch, các mã độc và các công cụ được
đối tượng sử dụng khi thâm nhập và tấn công vào hệ thống. Các dữ liệu này không chỉ
là nguồn thông tin ban đầu giúp phát hiện ra tội phạm mà còn giúp các chủ thể phòng
ngừa có cơ sở xác định đối tượng, làm rõ thủ đoạn, mục đích của các đối tượng thâm
nhập hoặc tấn công các hệ thống thông tin. Tuy nhiên những thông tin thu thập được
từ hệ thống honeypot thường cho phép xác định ngay danh tính đối tượng, cần tiếp tục
tiến hành các hoạt động kỹ thuật và nghiệp vụ để xác định được đối tượng cụ thể.
Bên cạnh đó, lực lượng cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao còn nghiên cứu,
ứng dụng các giải pháp, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ chuyên dụng để phòng chống
tội phạm sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông như tiến hành phân tích, phục hồi
dữ liệu đối với hơn 900 thiết bị gồm 107 ổ cứng máy tính, 26 laptop, 03 máy chủ, 05
camera, 374 điện thoại di động, 372 sim điện thoại, 16 USB và nhiều loại thiết bị điện
tử khác phục vụ điều tra hơn 65 vụ án [11].
Chủ động nghiên cứu, áp dụng những biện pháp kỹ thuật phục vụ có hiệu quả
công tác nghiệp vụ của đơn vị. Điển hình như đã chủ động nghiên cứu, tìm ra cách
thức giải mã các gói tin giao thức RTP và SIP của dịch vụ cuộc gọi thoại trên nền
Internet (VOIP), từ đó củng cố tài liệu, chứng cứ phá thành công một số chuyên án lớn
như chuyên án T123 “Đấu tranh với ổ nhóm đối tượng người Đài Loan, Trung Quốc
sử dụng mạng Internet để lừa đảo công dân Trung Quốc” năm 2013 [11].
Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam trong thời gian qua
đã phát cảnh báo tới người dùng và các đơn vị liên quan về theo dõi ngăn chặn xử
lý khẩn cấp mã độc trong hệ thống mạng với nội dung đã phát hiện những mẫu mã
độc nguy hiểm có thể tấn công vào hệ thống máy tính của người dùng từ đó có
92
những biện pháp ngăn chặn. Năm 2019, tình hình an toàn thông tin trong nước có
nhiều diễn biến rất phức tạp, các loại sự cố xảy ra với mạng máy tính trong nước đã
tăng gấp nhiều so với các năm trước Các hình thức tấn công mạng đối với doanh
nghiệp, người dùng cũng như các cơ quan và tổ chức trên toàn quốc như lừa đảo
thẻ cào, lừa đảo để chiếm đoạt tài khoản trên mạng xã hội, thông tin cá nhân, mã
hóa dữ liệu người dùng… ngày càng gia tăng. Trước tình hình đó, năm qua Trung
tâm luôn đề cao và triển khai tốt công tác điều phối và cảnh báo sự cố tới các cơ
quan, tổ chức trong cả nước. Trực tiếp hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn, ứng cứu, khôi phục nhằm đối phó
với các loại tấn công phá hoại trên môi trường mạng.
Bên cạnh đó, Trung tâm còn tổ chức nhiều đợt diễn tập trong nước và quốc tế
về ứng cứu, phòng chống tấn công mạng để rèn luyện kỹ năng phản ứng, đối phó, cảnh
giác với các kiểu tấn công mạng có thể xảy ra như cuộc diễn tập ứng cứu sự cố an toàn
thông tin khu vực miền Trung-Tây nguyên năm 2019; Diễn tập quốc gia về ứng cứu sự
cố an toàn thông tin mạng năm 2019 của cả 3 miền Bắc, Trung và Nam. VNCERT
cũng tham gia hỗ trợ công tác chống tội phạm, chống khủng bố mạng trong phạm vi
quốc gia và trong khuôn khổ hợp tác quốc tế; phối hợp với các cơ quan liên quan điều
tra, phát hiện các vụ tấn công mạng; quản lý và vận hành các hệ thống kỹ thuật hỗ trợ
công tác điều phối, ứng cứu sự cố. Trong năm 2019, hệ thống theo dõi và cảnh báo của
trung tâm đã phát hiện 7015 sự cố tấn công mạng gồm 3289 vụ Phishing (tấn công sử
dụng website, email lừa đảo), 2425 vụ Deface (tấn công thay đổi giao diện) và 125
Malware (phát tán mã độc); trong số đó có 7 trường hợp trang thông tin điện tử
(website) có tên miền ".gov" bị ảnh hưởng. Từ năm 2015-2019 Trung tâm đã xử lý
16.837 sự cố Malware, đã cảnh báo và khắc phục được 3885 sự cố (trong đó có 87 sự
cố liên quan đến các tên miền “gov.vn”) [113]. Nhìn chung mã độc đa số là các liên
kết ẩn được nhúng vào website thực hiện các thao tác không mong muốn. Ví dụ: Like
fanpage facebook, ẩn link. Ghi nhận 1.451.997 lượt địa chỉ IP cả nước bị nhiễm mã
độc và nằm trong các mạng Botnet (tăng 1,6 lần so với năm ngoái) trong đó gửi cảnh
báo cho 3779 lượt địa chỉ IP của các cơ quan nhà nước; điều phối, yêu cầu ngăn chặn
7.540 địa chỉ máy chủ C&C server điều khiển mạng Botnet và bóc gỡ mã độc tại
1.200.000 địa chỉ IP tại các máy bị nhiễm thuộc quản lý của các doanh nghiệp ISP.
Phối hợp với Cert quốc tế xử lý và ngăn chặn 200 website giả mạo (giả mạo giấy phép
do Bộ TTTT cấp, giả mạo webmail của VNN, VDC,... [113].
Trung tâm đã điều phối xử lý các website bị tin tặc Trung Quốc tấn công Trung
tâm VNCERT theo dõi và ghi nhận trên các diễn đàn có 1597 trường hợp của nhiều
nhóm Hacker Trung Quốc tấn công thay đổi giao diện các trang web đặt tại Việt Nam.
93
Qua công tác kiểm tra kỹ thuật có 424 trường hợp trang web có địa chỉ IP đặt tại Việt
Nam bị tấn công (bao gồm 09 trang của cơ quan nhà nước). Trước tình hình đó, Trung
tâm VNCERT đã nhanh chóng gửi yêu cầu thu thập thông tin phục vụ công tác phân
tích và điều phối đến các đơn vị liên quan và các doanh nghiệp ISP chủ quản để khắc
phục sự cố. Qua quá trình phân tích sự cố, TT VNCERT nhận định đa phần các
website bị tấn công chạy hệ điều hành Windows Server và sử dụng ứng dụng web
Microsoft - IIS/6.0 trở về trước. Hai lỗ hổng tin tặc lợi dụng để khai thác chủ yếu là lỗ
hổng trong Pluging hỗ trợ soạn thảo trên Web (FCKeditor) và lỗ hổng trong module
mở rộng cho giao thức HTTP (WebDAV) của IIS. Lỗ hổng của FCKEditor từ năm
2006 đến năm 2010 liên tục được cảnh bảo từ nhiều công ty bảo mật về lỗi upload tệp
tin đưa lên có thể được khai thác, Plugin đã dừng hỗ trợ và phát triển từ năm 2010
nhưng ở thời điểm hiện tại có nhiều ứng dụng web của các đơn vị vẫn tiếp tục sử dụng.
Để phòng chống và khắc phục triệt để lỗ hổng này quản trị cần loại bỏ và thay thế
bằng bộ soạn thảo mới CKEditor. WebDAV là một tập hợp các mở rộng cho giao thức
HTTP dùng để cung cấp một cách thức chuẩn cho việc biên tập và quản lý tập tin giữa
các máy tính trên Internet. Lỗ hổng trên WebDAV cho phép kẻ tấn công vượt qua các
cơ chế xác thực để thực hiện các thao tác như một người quản trị thông qua các
phương thức PUT, DELETE. Lỗ hổng này cũng đã được Microsoft xác nhận và cung
cấp các bản vá từ năm 2009 (MS09-020). Trung tâm VNCERT nhận định đợt tấn công
thay đổi giao diện vào các trang web đặt ở Việt Nam thực sự nghiêm trọng - có mục
đích gây ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh cơ quan, doanh nghiệp và gây mất mát dữ
liệu. Trước những diễn biến phức tạp khó lường về an toàn – an ninh thông tin trong
thời gian tới các cơ quan đơn vị cần cấu hình hệ thống an toàn, cập nhật bản vá lỗ
hổng cho các ứng dụng dịch vụ chạy trên hệ thống, giám sát hệ thống thông tin chặt
chẽ để phát hiện kịp thời các cuộc tấn công mới [95]. Hiện nay Trung tâm đang đưa ra
cảnh báo khẩn cấp về lỗ hổng bảo mật vô cùng nghiêm trọng trên ứng dụng Jenkins.
Lỗ hổng này có thể ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp Việt Nam, cho phép hacker
xâm nhập dữ liệu quan trọng của người dùng từ đó chiếm quyền điều khiển hệ thống.
Theo đánh giá lỗ hổng này đạt mức độ nghiêm trọng lên đến 9,4/10 theo thang điểm
CVSS 3.1 (là hệ thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ bảo mật).
- Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC) thuộc Cục An
toàn thông tin, Bộ thông tin và truyền thông vừa có cảnh báo về nguy cơ tấn công
mạng vào hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức, của các bọ , ngành, địa phu o ng;
các tập đoàn, tổng co ng ty nhà nu ớc và các ngân hàng, tổ chức tài chính sử dụng thiết
t bị F5 có bị F5 BIG-IP. Trung tâm đã phát hiẹ n nhiều hẹ thống thông tin sử dụng thie
t bị F5 BIG-IP Traffic Management khả năng bị tấn công thông qua lỗ hổng trong thie
94
User Interface (TMUI) (CVE-2020-5902). Đây là lỗ hổng bảo mật đặc biệt nghiêm
t trọng, đu o c phát hiẹ n trong giao diẹ n ngu ời dùng quản lý lu u lu o ng truy cạ p của thie
bị 5F BIG-IP. Khai thác thành co ng lỗ hổng này, đối tu o ng tấn công có the thu thạ p
thông tin, có khả năng tạo hoạ c xóa tẹ p, vô hiẹ u hóa các dịch vụ, chạy các lệnh hẹ
thống với mã Java tùy ý, chie m quye n kie m soát hẹ thống mục tie u. Theo thống ke ,
tính đe n tháng 6/2020, có ho n 8.000 thie t bị tre n Internet đang có nguy co bị ta n co ng
bởi lỗ hổng bảo mật này, trong tổng số 621.257 host/địa chỉ IP public đang sử dụng F5
BIG-IP.
n bảo đảm an Đe đảm bảo an toàn thông tin cho các hẹ tho ng thông tin, góp pha
toàn cho kho ng gian mạng Viẹ t Nam, Trung ta m NCSC đe nghị các co quan, đo n vị,
i lỗ doanh nghiệp kie m tra, rà soát hẹ tho ng tho ng tin có khả năng bị ảnh hu ởng bo
ho ng “CVE-2020-5902” và có phu o ng án xu lý, kha c phục. Các co quan, đo n vị cũng
m tra, đu o c đe nghị rà soát lại toàn bọ hẹ tho ng tho ng tin của mình, thu ờng xuye n kie
đánh giá đe chủ động phát hiẹ n và xử lý kịp thời những lỗ hổng bảo mật. Ta ng cường
giám sát hẹ tho ng, thu o ng xuye n theo dõi ke nh cảnh báo của các co quan chu c na ng và
tổ chức lớn ve an toàn đe phát hiẹ n kịp thời nguy co tấn công mạng.
Phục vụ mục tiêu thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số quốc gia hiện nay Trung
tâm đang triển khai chiến dịch rà soát và bóc gỡ mã độc trên phạm vi toàn quốc. Đây
là chiến dịch vì cộng đồng hướng tới đối tượng là cá nhân, doanh nghiệp cung cấp các
công cụ kiểm tra và bóc gỡ mã độc bị nhiễm trên máy tính để đảm bảo cho người dùng
một không gian mạng an toàn.
- Tập đoàn công nghệ BKAV đã nghiên cứu, tư vấn, thiết kế, triển khai phần
mềm và giải pháp trong lĩnh vực an ninh mạng, phòng chống virus máy tính. Hỗ trợ
chuyên môn cho các cơ quan chức năng trong công tác phòng chống, đảm bảo an toàn
thông tin mạng. Tham gia các hoạt động phòng chống tấn công phá hoại bằng CNTT.
Với các sản phẩm phần mềm diệt virut nổi tiếng BKAV giúp người dùng tránh được
sự tấn công của virut máy tính, đảm bảo an ninh an toàn thông tin cá nhân.
Các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật được các chủ thể tiến hành đã có tác động
trực tiếp, nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Tuy nhiên các biện pháp kỹ thuật này đòi hỏi cần có sự đầu tư về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, tiền của nên người sử dụng các thiết bị CNTT&VT còn e ngại,
chưa chủ động áp dụng thậm chí có thể tìm các biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa
thiếu an toàn như sử dụng các phần mềm diệt virut không rõ nguồn gốc, không cập
nhật các bản vá lỗ hổng bảo mật…
95
3.2.2 Thực trạng quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
3.2.2.1 Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là mối liên hệ chức năng được thiết lập giữa các đơn vị với các cơ quan,
tổ chức, các lực lượng xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phòng ngừa,
phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Sự liên kết chức năng này có thể biểu hiện bới sự tương đồng về mục tiêu hoạt
động, yêu cầu của pháp luật hay sự liên quan của đối tượng đấu tranh với đối tượng
đấu tranh, đối tượng quản lý, theo dõi của các cơ quan, tổ chức khác. Các cơ quan, tổ
chức tham gia vào công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong mối
quan hệ đó, các chủ thể phải nghiên cứu, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình và xác định vai trò trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT; chủ động xác định nội dung và hình thức phối hợp cho phù hợp và đạt
được hiệu quả cao nhất.
Với đặc trưng của lĩnh vực CNTT&MVT có liên quan tới nhiều ngành, lĩnh vực
khác với phạm vi hoạt động rộng lớn, do đó để phòng ngừa có hiệu quả đối với loại tội
phạm này đòi hỏi các chủ thể như Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao
(Bộ Công an), Bộ thông tin và truyền thông, Bộ tài chính, Bộ công thương, Ngân hàng
Nhà nước, Sở thông tin truyền thông các địa phương, Hiệp hội công nghệ thông tin Việt
Nam, Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam, Trung tâm phần mềm và giải pháp an ninh
mạng thuộc Đại học Bách khoa, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng quốc gia
VNCERT, Tập đoàn BKAV, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia...
phải thường xuyên và chủ động trong quan hệ phối hợp phòng ngừa tội phạm.
Trong thời gian qua giữa các chủ thể đã chú trọng đến công tác phối hợp trong
đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, bước đầu đã thu
được những kết quả đáng khích lệ, cụ thể:
- Phối hợp xây dựng các văn bản pháp luật
Cục C50(A05) đã phối hợp với Thanh tra Bộ thông tin và truyền thông xây
dựng Quy chế phối hợp trong phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; tiến
hành thanh tra, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cung cấp
trò chơi điện tử trực tuyến, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nội dung số về chống thư
rác theo Nghị định 83/2011/NĐ-CP; phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ hàng trăm Website tổ
chức cá độ bóng đá qua mạng,...[9].
96
Bộ Công an phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội Ngân hàng, Hiệp hội
thẻ xây dựng Thông tư liên ngành Bộ Công an – Ngân hàng nhà nước về phối hợp
phòng, chống tội phạm trong hoạt động thanh toán thẻ; Kiến nghị Ngân hàng nhà nước
chỉ đạo các Ngân hàng thương mại kiểm tra, rà soát, phối hợp, phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn tội phạm lắp đặt thiết bị lấy trộm dữ liệu, thông tin thẻ để làm giả thẻ, thanh
toán khống qua điểm chấp nhận thẻ (POS); thiết lập kênh trao đổi thông tin về phương
thức, thủ đoạn mới của tội phạm thẻ giữa lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử
dụng công nghệ cao và các Ngân hàng, Hội thẻ, Tổ chức thẻ quốc tế VISA, MASTER,
WESTION UNION để có biện pháp ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, rủi ro [9].
Bộ Công an phối hợp với một số cơ quan, ban ngành quản lý nhà nước trong
lĩnh vực CNTT&MVT ban hành một số văn bản liên tịch, liên ngành như sau
+ Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BTTT-BCA ngày 28/11/2008 giữa Bộ
Công an và Bộ thông tin truyền thông về bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng và an ninh
thông tin trong hoạt động bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin;
+ Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và
truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp
dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
+ Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 7 tháng 4 năm 2014 về phòng chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Nghị định này
đã xác định trách nhiệm của các cơ quan, lực lượng phải tham gia đấu tranh chống tội
phạm có sử dụng công nghệ cao nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói
riêng. Đây là cơ sở quan trọng để lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao tổ
chức quan hệ phối hợp với các lực lượng khác trong phòng ngừa đấu tranh chống loại
tội phạm này.
+ Bộ Công an chủ trì tổ chức thành công hội nghị “Tổng kết 05 năm công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội”.
Qua Hội nghị đã đánh giá toàn diện những kết quả đã đạt được, làm rõ những khó khăn,
vướng mắc và đề ra nhiều giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong thời gian tới. Năm 2015, phối hợp với
công an các đơn vị tổ chức các Hội thảo về công tác PCTP sử dụng công nghệ cao
như: (1) Phối hợp với V21 tổ chức Hội thảo “Phòng chống tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và viễn thông – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; (2) Phối hợp
với Học viện cảnh sát nhân dân tổ chức Hội thảo khoa học “Bài học kinh nghiệm rút
ra qua đấu tranh một số chuyên án”;(3) Phối hợp với các đơn vị thuộc Ngân hàng nhà
97
nước và các Ngân hàng thương mại tổ chức Hội thảo “Tham gia ý kiến vào dự thảo Bộ
luật hình sự sửa đổi...”.
- Bộ công an tham mưu cho Chính phủ trong việc xây dựng, sửa đổi, ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Nổi bật là: (1) Tham gia dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự
(đã xây dựng, sửa đổi 10 điều thuộc mục B chương XXI về tội phạm sử dụng công nghệ
thông tin, mạng viễn thông); (2) Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (đã xây dựng, bổ sung
các điều về chứng cứ điện tử và quy trình thu thập, bảo quản, phục hồi, phân tích chứng
cứ điện tử); Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự (đã đề xuất quy định C50 là Cơ
quan điều tra trong Công an nhân dân); (4) Chủ trì xây dựng dự thảo 03 thông tư nhằm
hướng dẫn thi hành Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 07/04/2014 quy định về công tác
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao
- Bộ thông tin truyền thông đã ký ban hành Quyết định 1278/QĐ-BTTT phê duyệt
Đề án tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm
trên mạng Internet ngày 3/8/2017. Nội dung Đề án đã chỉ rõ để nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng ngừa giữa các cơ quan có liên quan cần phải có sự phối hợp như Bộ thông tin
truyền thông với Bộ Công an, Bộ tài chính, Bộ văn hóa thể thao và du lịch, Bộ giáo dục
và đào tạo, Ủy ban nhân dân các cấp… và Đề án cũng đã chỉ rõ trách nhiệm của các cơ
quan, đơn vị trong phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan
trong công tác thông tin, tuyên truyền và chỉ đạo các cơ quan báo chí đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục làm cho các cấp, các ngành, các địa phương, lực lượng vũ
trang và toàn xã hội nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tình hình, những thuận lợi, khó
khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về nguyên nhân, sự nguy hiểm, tác
hại và ảnh hưởng do vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet gây ra đối với
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong phòng
ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet cho toàn dân, chủ động
đấu tranh chống lại các thông tin xuyên tạc, chống phá từ các thế lực thù địch, phản
động; xây dựng lòng tin của nhân dân, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội, đoàn kết một
lòng xung quanh sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành, quản lý của Nhà nước [24].
- Thanh tra Bộ thông tin truyền thông trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh
tra, kiểm tra phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trên mạng Internet, cơ quan thanh
tra chuyển ngay hồ sơ vụ việc tới cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét, xử lý
theo đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-
BQP ngày 22/3/2012 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ
Công an, Bộ quốc phòng quy định về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, Cơ
98
quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu
hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố.
Các văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể tiến hành
các hoạt động phối hợp, thực hiện có hiệu quả phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ở Việt Nam.
- Phối hợp trao đổi cung cấp thông tin
Từ năm 2010 đến nay các chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT đã tiến hành trao đổi về công tác nắm tình hình cũng như
các thông tin có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Cụ thể:
+ Năm 2010: Cục C50 đã trao đổi 398 tin có liên quan đến tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT cho Bộ Công thương (trong đó phần lớn là trao đổi với Cục thương
mại điện tử và Công nghệ thông tin);
Trao đổi 208 tin có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT liên
quan đến hoạt động của Bộ thông tin và truyền thông.
C50 đã nhận được 469 thông tin liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT của các đơn vị cung cấp như các đơn vị thuộc Bộ Thông tin và truyền
thông, các đơn vị thuộc Bộ Công thương, Bộ Tài chính và các đơn vị khác [9].
Điều đáng chú ý, thông qua kiểm tra xác minh thông tin do các lực lượng cung
cấp cho thấy phần lớn trong số các thông tin trên đều có tác dụng phòng ngừa tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Điều này giúp nắm được tình hình, các nguyên nhân và
điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó có những biện pháp phòng
ngừa phù hợp.
- Phối hợp xác minh thông tin, phối hợp lực lượng trong kiểm tra xử lý các
hành vi vi phạm về CNTT&MVT
Từ năm 2010 đến 2019 các chủ thể đã tiến hành xác minh thông tin về đối
tượng, vụ việc có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và đã thu được
những kết quả nhất định như :
+ C50 (A05) đề nghị Phòng khoa học hình sự (trực tiếp là Phòng giám định kỹ
thuật pháp lý) giám định 143 tài liệu chứng cứ được thu thập từ dữ liệu máy tính,
mạng Internet, các phương tiện điện tử có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT;
Đề nghị Văn phòng Interpol Việt Nam trước đây (nay là Cục đối ngoại) xác
minh 273 lượt thông tin liên quan đến đối tượng là người nước ngoài, các doanh
nghiệp ở nước ngoài, người bị hại, người có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT (trong đó chủ yếu là các hacker Trung Quốc);
99
+ Thanh tra Bộ thông tin và truyền thông phối hợp với Thanh tra Sở thông tin
và truyền thông tiến hành thanh tra và kiểm tra, xử lý các doanh nghiệp có hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực CNTT&MVT ở địa bàn Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Phục hồi dữ liệu trên các máy chủ, phục vụ công an Tp Hà nội điều tra vụ công ty Việt
Hồng kinh doanh trái phép phần mềm nghe lén điện thoại Ptracker...
+ Ngày 17/4/2019 Cục An toàn thông tin tổ chức hội thảo “An toàn, an ninh
mạng trong hành trình chuyển đổi số”. Tại Hội thảo đã diễn ra Lễ ký kết, ra mắt Liên
minh “Xử lý mã độc và phòng, chống tấn công mạng” giữa Cục An toàn thông tin,
Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA), Viettel, VNPT, BKAV, FPT, CMC.
Nhiều chủ đề hướng dẫn cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thiết lập hệ thống kỹ
thuật, triển khai phương án giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh mạng và phòng ngừa
mã độc, lộ lọt thông tin, dữ liệu.
+ C50 (A05) cùng Thanh tra Bộ cũng đã phối hợp với Thanh tra các Bộ, ngành
chức năng tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực sử dụng
công nghệ cao. Trong đó đã phối hợp với Thanh tra Bộ văn hóa thể thao và du lịch
tiến hành thanh tra, kiểm tra hơn 76 doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm bản quyền
phần mềm máy tính trên toàn quốc. Qua kiểm tra phát hiện hơn 3.700 máy tính vi
phạm bản quyền phần mềm, đã xử phạt vi phạm hành chính với số tiền hơn 02 tỷ
đồng, buộc các doanh nghiệp khắc phục, mua bản quyền phần mềm với tổng số tiền
hơn 05 tỷ đồng. Phối hợp kiểm tra, thu thập, chuyển hóa tài liệu phục vụ yêu cầu
điều tra đối với các vụ án về công nghệ cao “Vụ công ty Diamond Holiday Việt Nam
tổ chức du lịch lữ hành quốc tế trái phép” [9].
Hiện nay A05 đang tiếp tục tích cực phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo
chí tuyên truyền về những phương thức, thủ đoạn phạm tội mới của tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT để người dân nâng cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa tội
phạm như các tội phạm giả danh cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện hành vi lừa đảo
qua điện thoại, qua các mạng xã hội nhằm trục lợi. Đẩy mạnh thực hiện phong trào
toàn dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc, nhằm nâng cao nhận thức và động viên quần
chúng nhân dân tích cực, chủ động tham gia cung cấp các nguồn tin báo tố giác tội
phạm. Thường xuyên thông báo những lỗ hổng, sơ hở, thiếu sót của các doanh nghiệp,
tổ chức bị tội phạm lợi dụng để có biện pháp khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác nắm
tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao, kịp thời phát hiện những vấn đề nổi, những
địa bàn, lĩnh vực trọng điểm có dấu hiệu tội phạm này và những phương thức, thủ
đoạn mới để chủ động báo cáo lãnh đạo các cấp chỉ đạo.
Như vậy trong thời gian từ năm 2010 đến nay quan hệ phối hợp giữa các chủ
thể trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã thu được
100
nhiều kết quả tốt, góp phần có hiệu quả vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó quan hệ phối hợp
vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như sau:
+ Sự phối hợp trong việc nắm tình hình chưa thường xuyên, liên tục, thiếu trọng
tâm, trọng điểm, chủ yếu được thực hiện vào thời gian có các đợt cao điểm tấn công
tội phạm hoặc trong đấu tranh với các vụ án cụ thể;
+ Sự phối hợp để nắm tình hình trong nhiều trường hợp không kịp thời, ít có
hiệu quả trong việc lập kế hoạch xây dựng phương án phát hiện đấu tranh;
+ Trong nhiều trường hợp sự phối hợp còn mang tính hình thức, ngẫu hứng mà
chưa có chiều sâu và chưa có một chương trình, kế hoạch cụ thể;
+ Điều kiện vật chất, kinh phí, phương tiện phục vụ cho quan hệ phối hợp giữa
hai lực lượng để nắm tình hình tội phạm còn rất hạn chế;
+ Công tác giao ban, sơ kết theo định kỳ đã được tổ chức, thực hiện ở một số
đơn vị, địa phương nhưng việc sơ kết, tổng kết nhìn chung chưa kịp thời, nội dung còn
nghèo nàn, hình thức. Có trường hợp, đơn vị phối hợp chưa phát huy được vai trò chủ thể
tiến hành, thiếu chủ động, phân công nhiệm vụ chưa rõ ràng, không cụ thể trong việc xác định phạm vi, mức độ phối hợp,... dẫn đến tình trạng chồng chéo, hiệu quả thấp...
3.2.2.2 Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một loại tội phạm xuyên quốc gia, phi
truyền thống, được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Vì vậy, phối
hợp và hợp tác quốc tế là một nhu cầu tự thân của công tác đấu tranh phòng, chống
loại tội phạm này. Các chủ thể phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT tất yếu phải thiết lập hoặc tham gia vào mạng lưới các chủ thể đấu tranh
PCTP trong lĩnh vực CNTT&MVT trên phạm vi toàn cầu. Thực tế đã cho thấy nhiều
hoạt động phối hợp quốc tế đã được triển khai và có những kết quả nhất định góp phần
vào phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam.
Thông qua các mối quan hệ quốc tế, trước hết chúng ta huy động được sự hỗ trợ về tiềm lực, trang thiết bị kỹ thuật và kinh nghiệm của lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các nước phát triển trước nước ta trong khu vực và trên thế giới. Bằng việc chia sẻ thông tin giữa các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với các nước, các chủ thể có thể nắm sâu hơn tình hình hoạt động của các loại tội phạm sử dụng
công nghệ cao trên thế giới trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; đặc biệt là những công cụ, phương tiện, phương thức, thủ đoạn mới trong hoạt động của tội phạm.
Điều này giúp các lực lượng tiến hành phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
dự báo và chủ động đối phó khi các hành vi này xuất hiện tại Việt Nam.
101
Để thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT, thời gian qua các chủ thể như C50 (A05) thực hiện chủ yếu thông
qua kênh hợp tác của văn phòng Interpol Việt nam trước đây (nay là Cục đối ngoại) và
thu được những kết quả sau đây:
Kết quả phối hợp, xác minh điều tra án
Từ năm 2010 đến nay, Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm đã chỉ đạo
Cục cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao phối hợp với các cơ quan thực thi pháp luật
ở nước ngoài xác minh, trao đổi thông tin, phối hợp điều tra gần 100 vụ án, vụ việc đạt
kết quả tốt, chiếm gần 10% tổng số vụ án, vụ việc của đơn vị đã thụ lý , trong đó đáng
chú ý [12].
- Với Mỹ, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã phối
hợp trao đổi thông tin 19 vụ việc, qua đó xác lập và điều tra 18 vụ án, điển hình là 02
vụ án sau:
+ Tháng 3/2011 đơn vị đã phối hợp với Bộ an ninh nội địa Mỹ xác minh các đối
tượng sử dụng thông tin thẻ tín dụng để trộm cắp trong chuyên án eMule do phía Mỹ
điều tra. Kết quả đã bắt đối tượng Vương Huy Long và đồng bọn, thu giữ cơ sở dữ liệu
khoảng 29.000 thông tin thẻ tín dụng. Số tiền các đối tượng chiếm đoạt khoảng
150.000 đô la.
+ Ngày 18/8/2020, Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam thông tin, Mỹ và Việt Nam đã
hợp tác điều tra vụ lừa đảo liên quan đến đại dịch COVID-19 và bắt giữ 3 nghi phạm.
Cuộc điều tra này bắt nguồn từ thành phố Tampa, Florida vào tháng 3 năm nay. Sau
đó, Văn phòng Cục Điều tra An ninh nội địa Mỹ (HSI) thuộc Bộ An ninh nội địa Mỹ
tại Tp Hồ Chí Minh chuyển thông tin cho Bộ Công an Việt Nam.Từ những thông tin
do Cục Điều tra An ninh nội địa Mỹ cung cấp, Việt Nam đã tiến hành cuộc điều tra
riêng và bắt giữ 3 bị can gồm Phan Đình Thư, Trần Quốc Khánh và Nguyễn Duy
Toản, đều là công dân Việt Nam, bị cáo buộc đã tham gia vào kế hoạch lừa đảo với
7000 nạn nhân đến từ 50 bang của Mỹ, 40.000 giao dịch lừa đảo với giá trị gần
975.000 đô la Mỹ.
- Với vương quốc Anh, C50 (A05) đã phối hợp trao đổi thông tin 03 vụ việc,
trong đó xác lập và điều tra 02 vụ án điển hình là
+ Năm 2010, đơn vị đã phối hợp với cơ quan phòng, chống tội phạm nghiêm
trong có tổ chức (SOCA) điều tra, làm rõ và bắt giữ đối tượng Nguyễn Ngọc Lâm và
Nguyễn Ngọc Thành có hành vi trộm cắp và mua bán thông tin thẻ tín dụng để chiếm
đoạt tài sản, tạm giữ số tiền khoảng 230.000 đô la Mỹ;
+ Tháng 5/2013, đơn vị đã phối hợp với SOCA (Anh) và FBI (Mỹ) điều tra tổ
chức tội phạm “Mattfeuter” chuyên sử dụng thông tin thẻ tín dụng trộm cắp, bắt đối
102
tượng Văn Tiến Tú và đồng bọn, thu giữ nhiều tài sản giá trị, riêng tiền mặt bị thu giữ
trị giá khoảng 50.000 đô la Mỹ. Ước tính thiệt hại do nhóm tội phạm này gây ra từ
năm 2005 đến khi bị triệt phá là khoảng 300 triệu đô la Mỹ.
- Với Australia, C50 (A05) đã phối hợp trao đổi thông tin 05 vụ việc, trong đó
đã xác lập và điều tra 04 vụ án, điển hình là 02 vụ án sau
+ Tháng 06/2010 đơn vị phối hợp với Cảnh sát liên bang Australia điều tra vụ
nhóm đối tượng trộm cắp và buôn lậu hàng hóa từ Australia về Việt Nam tiêu thụ. Kết
quả đã bắt đối tượng Đỗ Thanh Lâm và đồng bọn có hành vi tổ chức vận chuyển về Việt
Nam và tiêu thụ 820 máy tính xách tay và linh kiện điện tử, số tiền các đối tượng chuyển
từ Việt Nam sang cho các đối tượng ở Australia khoảng 1 triệu đô la Úc.
+ Năm 2012, đơn vị đã phối hợp với Cảnh sát liên bang Australia triệt phá
chuyên án “Trove” đấu tranh với nhóm hacker chuyên xây dựng các hệ thống máy chủ
(gọi là CrimeIRC) tạo thành dịch vụ trộm cắp, trao đổi mua bán thẻ ngân hàng của tội
phạm trên toàn thế giới. Kết quả điều tra cho thấy trong vòng 3 tháng từ tháng 7/2012
đến tháng 10/2012 các đối tượng đã trao đổi, mua bán khoảng 35.000 thông tin thẻ tín
dụng. Thông tin do phía Việt Nam trao đổi đã giúp Cảnh sát Australia ngăn chặn kịp
thời việc bọn tội phạm có thể chiếm đoạt khoảng 80 triệu đô la Úc từ các thông tin thẻ
nói trên.
- Với Trung Quốc, C50 (A05) đã phối hợp điều tra 03 vụ án dưới đây
+ Tháng 12/2012, đơn vị đã phối hợp điều tra chuyên án “12.3” của Bộ công an
Trung Quốc đấu tranh với ổ nhóm tội phạm người Trung Quốc, Đài Loan Trung Quốc
nhập cảnh vào Việt nam, sử dụng công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tiền của công dân
Trung Quốc. Kết quả, Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã
bắt và bàn giao 12 đối tượng cùng toàn bộ tang vật cho Cục điều tra hình sự Trung
Quốc và Tổng cục cảnh sát Đài Loan Trung Quốc.
+ Tháng 12/2013, đơn vị đã phối hợp triệt phá nhóm đối tượng người Trung
Quốc nhập cảnh vào Việt Nam quản trị Website www.cm688.com tổ chức cho công
dân Trung Quốc đánh bạc trực tuyến. Căn cứ thông tin do Cục Cảnh sát phòng, chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao cung cấp, Bộ công an Trung Quốc bắt giữ 11 đối
tượng do Tiêu Phúc Hoa cầm đầu, thu giữ nhiều máy chủ và tang vật tại thành phố
Phật Sơn, Trung Quốc.
+ Tháng 9/2014, đơn vị đã phối hợp triệt phá nhóm đối tượng người Trung
Quốc sang Việt nam thiết lập, điều hành website www.game670.com để tổ chức cho
công dân Trung Quốc đánh bạc. Kết quả phía Trung Quốc đã bắt giữ hàng trăm đối
tượng, phía Việt Nam bắt giữ 28 đối tượng người nước ngoài và tang vật tại tỉnh
Quảng Ninh bàn giao cho phía Trung Quốc xử lý.
103
+ Ngày 29/7/2019 A05 phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ của Công an TP Hải
Phòng phát hiện tại đây có hơn 380 người Trung Quốc đã tham gia tổ chức điều hành
các website cho công dân Trung Quốc đánh bạc trực tuyến với các hình thức như cá
cược thể thao, dự đoán kết quả xổ số, đánh số lô đề…bước đầu xác định số tiền đã
giao dịch trên hệ thống mạng đánh bạc là hơn 3 tỷ Nhân dân tệ (khoảng hơn 10.000 tỷ
đồng Việt Nam). Hiện vụ án đang được A05 phối hợp với Công an Trung Quốc điều
tra, xử lý các đối tượng phạm tội.
+ Vụ truy tìm, bắt giữ và bàn giao đối tượng Chu Chấn Đông (là đối tượng
người Trung Quốc có lệnh truy nã đỏ của Interpol) theo đề nghị của Cục bảo vệ an
ninh mạng, Bộ Công an Trung Quốc... năm 2015.
Đặc biệt, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Công an Trung Quốc, được sự đồng ý của
lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Tổng cục ngày 16/4/2015 C50 đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác
PCTP sử dụng công nghệ cao với Cục bảo vệ an ninh mạng, Bộ Công an Trung Quốc.
Theo đó, hai bên thống nhất sẽ báo cáo lãnh đạo hai Bộ cho thiết lập đường dây nóng
để trao đổi thông tin tội phạm giữa hai quốc gia, thiết lập các cuộc gặp gỡ luân phiên
thường niên để trao đổi kinh nghiệm đấu tranh, phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao, đồng thời phía Trung Quốc sẽ hỗ trợ trang thiết bị và đào tạo nâng cao năng
lực cán bộ cho phía Việt Nam. Tháng 5/2015, được sự đồng ý của lãnh đạo Bộ Công
an, C50 đã cử đoàn công tác sang thăm, dự Hội nghị thường niên lần thứ nhất với Cục
Bảo vệ an ninh mạng, Bộ Công an Trung Quốc theo chương trình hợp tác giữa hai đơn
vị [9].
- Thường xuyên phối hợp với cảnh sát các nước trong việc đào tạo, tập huấn,
nâng cao trình độ cán bộ và tham dự các Hội nghị, hội thảo về phòng chống tội phạm
sử dụng công nghệ cao. Phối hợp với V12 và UNODC tổ chức Hội thảo hợp tác Công
– Tư và điều phối quốc gia về tội phạm sử dụng công nghệ cao. Cử 12 đoàn với 33
lượt cán bộ đi công tác nước ngoài; tiếp và làm việc với 05 đoàn cảnh sát các nước,
đáng chú ý là làm việc với Đoàn khảo sát của Interpol về việc chuẩn bị triển khai dự
án “Nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm mạng khu vực ASEAN”.
Phối hợp với các lực lượng như Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra, Cục
Cảnh sát truy nã tội phạm, cục Quản lý xuất nhập cảnh – Tổng cục An ninh 1 phát
hiện, bắt giữ, bàn giao đối tượng truy nã có liên quan đến lĩnh vực CNTT&VT bỏ trốn
từ nước ngoài vào Việt Nam cho các cơ quan chức năng của nước ngoài. Trong đó tập
trung chủ yếu là các đối tượng mang quốc tịch Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ.
Phía nước ngoài đánh giá rất cao sự phối hợp này.
104
Năm 2018 Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện một số hoạt động hợp tác quốc
tế như tổ chức các chuyến thăm, làm việc tại nước ngoài hoặc đón tiếp các Đoàn đại
biểu cấp cao của Tòa án nước ngoài nhằm trao đổi kinh nghiệm xét xử và các biện
pháp phòng ngừa các tội phạm trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Điểm nổi bật trong công tác hợp tác quốc tế của Tòa án nhân dân tối cao là đã chú
trọng nghiên cứu luật pháp quốc tế về những vấn đề có liên quan để học tập kinh
nghiệm và triển khai thực hiện cho phù hợp với điều kiện và khung pháp lý của Việt
Nam; tích cực góp ý, bổ sung, ký kết, gia nhập và hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp
thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế. Chủ động tham gia hội thảo và trình bày
tham luận tại các hội nghị quốc tế về tội phạm mạng để tham khảo kinh nghiệm của
các nước trong lĩnh vực tư pháp, đồng thời cũng giới thiệu về hệ thống tư pháp Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới [87].
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng thường xuyên triển khai thực hiện các
Thỏa thuận hợp tác đã ký bảo đảm hiệu quả, thiết thực, bền vững; đẩy mạnh ký kết các
Thỏa thuận hợp tác với các nước, đối tác mới có tiềm năng, thiện chí. Các hoạt động
hợp tác tập trung vào lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho
cán bộ Kiểm sát; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng, tội phạm trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường thúc đẩy, mở rộng
hiệu quả hợp tác song phương từ các diễn đàn hợp tác quốc tế đa phương. Năm 2019
đã tổ chức thành công Hội nghị Viện trưởng Viện kiểm sát, Viện Công tố các nước
ASEAN – Trung Quốc lần thứ 13 tại Hà Nội, nội dung Hội nghị cũng đề cập đến việc
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Thực hiện các hoạt động tương trợ
tư pháp hình sự với các nước chung đường biên giới như Lào và Trung Quốc, hoạt
động ủy thác tư pháp hình sự với nước ngoài ngày càng tăng [88].
Công tác phối hợp trong hỗ trợ trang thiết bị, đào tạo, tập huấn, nâng cao năng
lực [9] [10] [11].
- Trong thời gian qua, Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ về trang thiết bị phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm sử
dụng công nghệ cao. Cảnh sát liên bang Australia đã hỗ trợ thành lập Trung tâm dữ
liệu của đơn vị và nhiều trang thiết bị phần cứng, phần mềm chuyên dụng để thu thập,
phục hồi dữ liệu điện tử từ máy tính và thiết bị di động. Bộ nội vụ Ấn Độ đang tài trợ
thiết bị để thành lập Trung tâm phục hồi, phân tích chứng cứ, dữ liệu điện tử Indira
Gandhi tại Hà Nội.
Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao cũng phối hợp với nước ngoài đào
tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ, cụ thể:
105
- Về phối hợp tổ chức tập huấn kỹ năng thu thập, bảo quản, phục hồi và phân
tích dữ liệu, chứng cứ điện tử tại Việt Nam: đơn vị đã phối hợp với Cảnh sát liên bang
Úc tổ chức 02 lớp tập huấn, phối hợp với Cảnh sát Singapore tổ chức 02 lớp tập huấn,
với Ấn Độ tổ chức 02 lớp tập huấn. Vừa qua một số cán bộ của đơn vị đã được mời
sang Ấn Độ đào tạo để làm việc tại Trung tâm phục hồi dữ liệu điện tử Indira Gandhi
tại Hà Nội.
- Về kỹ năng điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao: FBI Mỹ thường xuyên
mời cán bộ của đơn vị tham gia tập huấn tại ILEA Bangkok (Thái Lan) hàng năm, Bộ
Công an Trung Quốc đã mời tham gia 02 lớp tập huấn tại Trung Quốc.
- Cơ quan hợp tác quốc tế của Hàn Quốc (KOICA) đã mời cán bộ của đơn vị
tham gia 02 lớp tập huấn về kỹ năng tổ chức và điều tra tội phạm sử dụng công nghệ
cao tại Hàn Quốc.
- Cơ quan phòng, chống tội phạm quốc gia vương quốc Anh và cảnh sát Pháp
đã phối hợp tổ chức 02 lớp tập huấn kỹ năng điều tra tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
qua mạng.
- Năm 2013, Ban Tổng thư ký Interpol đã mời một số cán bộ của đơn vị đến
Hàn Quốc tham dự Khóa tập huấn lần thứ 11 của Interpol về kỹ năng điều tra tội phạm
máy tính và Khóa tập huấn giảng viên về điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao của
Interpol khu vực Á-Âu lần thứ nhất, năm 2014.
Về hợp tác chia sẻ thông tin, trao đổi kinh nghiệm [12]
Trong những năm qua, Tổng cục Cảnh sát PCTP đã chỉ đạo Cục Cảnh sát PCTP
sử dụng công nghệ cao thường xuyên cử đại diện tham gia các Hội nghị, Hội thảo
quốc tế về an ninh mạng, xây dựng năng lực và lòng tin trong lĩnh vực này. Cục cảnh
sát PCTP sử dụng công nghệ cao cũng đã gia nhập “Mạng lưới liên lạc G8” về phòng,
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao gồm 67 quốc gia và thiết lập đường dây nóng
với một số cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài khác.
- C50 (A05) đã đề nghị lực lượng Cảnh sát Úc (AFP) tổ chức một số lớp tập
huấn về phân tích, khôi phục dữ liệu, lớp học ngoại ngữ (tiếng Anh) cho lực lượng
Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao Việt Nam; mời cán bộ Cục C50 tham gia khóa
Đào tạo về Quản lý thực thi pháp luật khu vực châu Á (ARLEMP) do Ôxtraylia phối
hợp với Việt Nam tổ chức. Tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Trung tâm phòng, chống tội
phạm xuyên quốc gia Việt Nam - Úc, bổ sung một số cán bộ của Cục C50 công tác
cho Trung tâm này.
Năm 2019 Bộ trưởng Bộ Công an tham gia Hội nghị lãnh đạo các cơ quan đặc
biệt, thực thi pháp luật lần thứ 18 tại Liên bang Nga từ 15-18/10. Tại đây đại diện Bộ
Công an đã trình bày tham luận “Phát triển quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt
106
Nam với các cơ quan đặc biệt nước ngoài trong lĩnh vực đảm bảo an toàn không gian
thông tin” với nội dung để đối phó hiệu quả với tội phạm mạng, Việt Nam đề nghị các
quốc gia cần thống nhất cách hành xử trên không gian mạng dưới hình thức các nghị
định thư, công ước và điều luật quốc tế; Tăng cường đa dạng hoá quan hệ đối tác và
xây dựng sự đồng thuận trên phạm vi toàn cầu; Tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin,
thành lập các nhóm tác chiến trên không gian mạng; Hỗ trợ, nâng cao năng lực đảm
bảo an ninh mạng, phòng chống tội phạm mạng... khẳng định Việt Nam mong muốn
tiếp tục học hỏi kinh nghiệm của bạn bè quốc tế; sẵn sàng họp tác, chia sẻ kinh nghiệm
với các cơ quan thực thi pháp luật, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này.
- Đối với các nước khác, Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao đã phối
hợp với các cơ quan thực thi pháp luật của Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỹ,
Cộng hòa Séc, Thụy Sỹ... trao đổi thông tin, xác minh hàng chục vụ việc khác qua
kênh Interpol hoặc trao đổi qua Cục đối ngoại của Công an Việt Nam.
- Ngoài việc hợp tác quốc tế thông qua kênh văn phòng Interpol Việt Nam trước
đây (nay là Cục đối ngoại), trong thời gian qua lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công
nghệ cao còn phối hợp với các công ty, hiệp hội Công nghệ thông tin ở châu Á, châu
Âu để xác minh các địa chỉ, sever ở nước ngoài, xác minh các tài khoản của cá nhân
nước ngoài bị đối tượng là người Việt Nam đánh cắp.
Tập đoàn công nghệ BKAV trong thời gian qua đã tích cực hợp tác với các tổ
chức An ninh mạng và Cứu hộ các sự cố máy tính của các nước trên thế giới và trong
khu vực trong việc khắc phục sự cố máy tính, chia sẻ thông tin về an ninh thông tin
(Hiện nay Trung tâm là đồng sáng lập hiệp hội các tổ chức Cứu hộ máy tính của khu
vực Châu á Thái Bình Dương - APCERT - Asia Pacific Computer Emergency
Response Teams).
Năm 2019 Bộ thông tin truyền thông (Cục An toàn thông tin) đã phối hợp với
Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao A05 (Bộ Công
an), Hiệp hội Internet Việt Nam và Tập đoàn IEC tổ chức Hội thảo và Triển lãm quốc
tế về an toàn, an ninh mạng Việt Nam 2019 (VietNam Security Summit 2019) với chủ
đề “An toàn, an ninh mạng trong hành trình chuyển đổi số”. Triển lãm các công nghệ,
sản phẩm, dịch vụ lĩnh vực an toàn, an ninh mạng với sự tham gia của 26 doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài như (Viettel, BKAV, FPT, Netnam, Vnetwork, VSEC, RSA,
Fortinet, Checkpoint, HPE, Samsung, NIPA, One Identify, Huawei, Parasoft, Ahnlap,
Keysight, Bizsecure, Techdata,...) và Chương trình Trình diễn trực tiếp công nghệ bảo mật
(Security Live Demo) về các tình huống an toàn, an ninh mạng.
107
Từ năm 2017-2019 Bộ Công an, Bộ Thông tin truyền thông đều cử các đoàn đại
biểu tham gia Tuần lễ quốc tế về an ninh mạng tại Singapore và tham gia các Hội nghị,
Hội thảo, trình bày tham luận về phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
nhằm đảm bảo an toàn cho không gian mạng.
Năm 2019 Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đã ký Biên
bản ghi nhớ với Công ty an ninh mạng toàn cầu Kaspersky Lab nhằm đưa ra các giải
pháp cho những thách thức về an ninh thông tin trong nước cũng như hỗ trợ nâng cao
năng lực bảo mật mạng của chính phủ Việt Nam. Thông qua bản ghi nhớ, giữa Trung
tâm và Công ty Kaspersky Lab mong muốn chia sẻ chuyên môn về kinh nghiệm về
bảo mật đã tích lũy giúp Việt Nam trở thành đất nước an toàn khi tham gia vào không
gian mạng. Hai bên cam kết chia sẻ thông tin và dữ liệu có liên quan đến các hành vi
vi phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong việc tiến
hành phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể tiếp tục thực hiện
nội dung các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và Cu Ba năm
2018; giữa Việt Nam và Kazakhstan với Việt Nam năm 2017; Hiệp định về phòng
chống tội phạm giữa Việt Nam và Séc năm 2017; Hiệp định về dẫn độ tội phạm giữa
Việt Nam và Pháp năm 2016; Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
năm 2012 của Bộ ngoại giao…
Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT đã được các chủ thể chủ động thực hiện tuy nhiên hoạt động này chưa
được tiến hành thường xuyên và chủ động từ phía các cơ quan chức năng của Việt Nam.
3.3 Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và mạng viễn thông ở Việt Nam
Qua nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ở Việt Nam trong thời gian từ 2010 đến 2019 có thể rút ra những nhận
xét, đánh giá trên các nội dung sau:
3.3.1 Những kết quả đã đạt được
Nghiên cứu, phân tích thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT của các chủ thể cho thấy, các lực lượng đã làm tốt công tác phòng ngừa,
góp phần đáng kể trong nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự trên lĩnh vực CNTT&MVT,
kết quả đó được thể hiện qua một số điểm nổi bật sau đây
- Từ thực tiễn công tác trong phạm vi chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của
mình, các chủ thể đã phát hiện được những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý nhà
nước về CNTT&MVT. Đã chủ động tham mưu cho Đảng và Nhà nước nhiều nội
dung, nhiều vấn đề trọng tâm, chiến lược, vĩ mô, nhiều chủ trương, giải pháp mang
108
tính định hướng đối với phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
như trong việc ban hành các Văn kiện, các văn bản pháp luật về phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Khắc phục được những hạn chế, thiếu sót trong
quản lý nhà nước về CNTT&MVT; Bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật liên
quan đến phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như : BLHS sửa đổi năm
2009; BLHS năm 2015; Luật an toàn thông tin mạng 2015; Luật An ninh mạng năm
2018; Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông
tin và truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về hướng
dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&VT,..
- Chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng tổ chức tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về CNTT&MVT, nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ trương phát
triển CNTT&MVT của Đảng và Nhà nước. Nâng cao ý thức bảo mật an toàn thông tin
trong các giao dịch về CNTT&MVT của các tổ chức, cá nhân. Các doanh nghiệp Việt
Nam cũng đã ý thức được tầm quan trọng và quan tâm tới vấn đề bảo vệ thông tin cá
nhân. Theo kết quả khảo sát 132 doanh nghiệp về quy chế bảo mật thông tin năm 2018
của Cục thương mại điện tử và Cục CNTT Bộ công thương cho thấy, có 18% doanh
nghiệp có quy chế bảo vệ thông tin cá nhân, 40% doanh nghiệp khác sẽ xây dựng quy
chế trong tương lai gần. Tuy chưa có quy định cụ thể đối với việc thu thập và sử dụng
thông tin cá nhân của khách hàng nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bước
đầu kết hợp các biện pháp về quản lý và công nghệ để bảo vệ thông tin của khách
hàng. Mặt khác có 67% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết có triển khai cả hai
nhóm giải pháp công nghệ và quản lý để bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng
[22]. Theo Hiệp hội an toàn thông tin , chỉ số an toàn thông tin của các doanh nghiệp
Việt nam hiện nay là 50% [104]. Qua đó đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các
chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam
- Đã xác định được những đặc điểm, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; xác định rõ các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm mà
đối tượng thường hoạt động để từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa. Bước đầu
đã rút ra được những bài học kinh nghiệm trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT góp phần quan trọng trong quá trình thúc
đẩy sự phát triển về CNTT&MVT tại Việt nam nói riêng , cũng như phát triển kinh tế
xã hội, ổn định an ninh chính trị, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.
- Đội ngũ cán bộ tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT có tâm huyết, nhiệt tình trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Mặc dù đây
109
là một lĩnh vực mới, với đặc điểm là loại tội phạm phi truyền thống xuyên quốc gia nhưng
phần lớn các cán bộ, chiến sỹ đều vừa tự làm, tự học bổ sung trang bị những kiến thức
mới về CNTT&MVT, ngoại ngữ góp phần quan trọng và công tác đấu tranh, phòng ngừa
các tội phạm trong lĩnh vực mới này. Góp phần nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân
dân trong tiến hành các hoạt động giao dịch về CNTT&MVT.
- Khi tiến hành phòng ngừa, các lực lượng đã triển khai thực hiện tốt các biện pháp
nghiệp vụ, nhất là các biện pháp điều tra, đấu tranh chuyên án và các biện pháp kỹ thuật.
Qua đó đã rút ra được những kinh nghiệm trong hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, góp phần
nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
- Trong công tác đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, các
lực lượng đã triển khai quyết liệt các kế hoạch, biện pháp đấu tranh phòng chống tội
phạm, qua đó đã điều tra, khám phá và xử lý được một số vụ án trong lĩnh vực
CNTT&MVT rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng như: năm 2015, tình trạng
các đối tượng người nước ngoài (chủ yếu là người Trung Quốc, Đài Loan) móc nối với
các đối tượng người Việt Nam sử dụng mạng viễn thông, lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Phương thức thủ đoạn là mạo danh các cơ quan thực thi pháp luật Trung Quốc, liên hệ
với nhiều công dân Trung Quốc, đe dọa những người này có liên quan đến các vụ án
đang được điều tra hoặc mạo danh các doanh nghiệp viễn thông thông báo nợ cước
điện thoại, sau đó yêu cầu bị hại cung cấp thông tin cá nhân, số tài khoản và chuyển
tiền vào các tài khoản do chúng tạo ra để chiếm đoạt. Năm 2019 đấu tranh chuyên án 3
đối tượng người Việt Nam lập các trang web giả mạo lừa 7000 người Mỹ mua các sản
phẩm phòng chống dịch Covid-19.
- Các lực lượng đã chủ động nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả các giải
pháp, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ chuyên dụng để phòng ngừa tội phạm sử
dụng công nghệ cao nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng
như: Giải pháp giám sát đường truyền Internet; Giải pháp chặn thu và giải mã các
gói tin sử dụng giao thức VOIP; Phần mềm thiết bị chuyên dụng phục hồi, phân
tích dữ liệu điện tử,… Các loại trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác đấu tranh,
phòng ngừa được quan tâm đầu tư, mua sắm. Kết quả đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm sử dụng CNTT&VT đã bước đầu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức
của các ngành, các cấp, doanh nghiệp và người dân, làm giảm thiểu các nguy cơ đe
dọa về an toàn, an ninh thông tin số, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và cuộc sống bình yên,
hạnh phúc của nhân dân.
- Công tác phối hợp với các lực lượng chức năng, các Bộ, cơ quan quản lý nhà
nước ngành và lĩnh vực ngày càng được củng cố, hoàn thiện hơn. Đã xây dựng và
110
hoàn thiện, đưa vào thực hiện các quy chế phối hợp giữa các lực lượng như giữa Cục
An ninh mạng và PCTP công nghệ cao Bộ Công an A05 với Bộ thông tin và truyền
thông, với Cục an toàn thông tin, Cục Viễn thông… C50 (A05) đã tham mưu cho lãnh
đạo Tổng cục cảnh sát phối hợp với Bộ thông tin truyền thông thực hiện Chỉ thị
11/CT-BTTTT ngày 18/3/2016 về tăng cường bảo vệ bí mật thông tin cá nhân của
người sử dụng dịch vụ và ngăn chặn việc mua bán, lưu thông tin sim sai quy định.Qua
đó đã huy động được cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở; phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn xã hội, của quần chúng nhân dân trong việc hỗ trợ các lực lượng
tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả.
- Quan hệ hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT đã đạt được những kết quả nhất định như: tổ chức hội thảo, triển lãm;
các cuộc diễn tập đối phó với các sự cố về an ninh mạng có sự tham gia của các quốc
gia trong khu vực; thường xuyên cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở các nước phát
triển; mời chuyên gia nước ngoài về CNTT&MVT sang Việt Nam tập huấn cũng như
hướng dẫn việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật mới phục vụ công tác đấu tranh,
phòng ngừa loại tội phạm này. Đã tranh thủ được sự giúp đỡ về nhiều mặt của các lực
lượng trong khu vực và trên thế giới như Interpol, Aseanpol và Tổ chức Cảnh sát của
nhiều quốc gia khác để trao đổi thông tin, kinh nghiệm đấu tranh và phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. C50 (A05) đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác PCTP sử
dụng công nghệ cao với Cục Bảo vệ an ninh mạng, Bộ công an Trung Quốc và thiết
lập đường dây nóng với Cục Điều tra hình sự, Bộ Công an Trung Quốc; tham gia
“Mạng lưới liên lạc G8 27/7” gồm 70 quốc gia về PCTP sử dụng CNTT&MVT.
Năm 2015, đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về “Tăng cường hợp tác
quốc tế về phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã
hội” với sự tham gia của 45 đại biểu thuộc 20 đoàn đại biểu nước ngoài, các tổ chức
quốc tế và gần 100 đại biểu trong nước. Điều này giúp tăng cường và mở rộng mối
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT.
3.3.2 Những hạn chế và tồn tại trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong phòng ngừa tình hình các tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam còn bộc lộ một số tồn tại, thiếu sót. Cụ thể như:
3.3.2.1 Những hạn chế trong nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các chủ thể
Việc nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc trong phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn hạn chế. Nhiều chủ thể tiến hành chưa
111
nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong hoạt động phòng ngừa. Để phòng ngừa
tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả đòi hỏi sự tham gia của
nhiều chủ thể khác nhau, tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên,
nhận thức giữa các chủ thể chưa đồng đều về trách nhiệm trong hoạt động phòng ngừa
của mình. Ngay trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm
sát, Tòa án vẫn cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
là việc của cơ quan Công an (mà cụ thể là lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công
nghệ cao), Tòa án và Viện kiểm sát chỉ là cơ quan có trách nhiệm xử lý, đưa ra hình
phạt đối với người phạm tội. Trong thực tế giữa các cơ quan này còn thiếu sự phối hợp
trong thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là các biện pháp phòng ngừa
nghiệp vụ. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ là
việc của lực lượng Công an mà còn là nhiệm vụ của nhiều cơ quan, tổ chức khác như
Bộ thông tin và truyền thông, Sở thông tin và truyền thông các địa phương, Bộ tư
pháp, Sở tư pháp, Bộ công thương, Ngân hàng nhà nước… và toàn thể công dân. Tuy
nhiên nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của
các cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực này còn chưa đồng đều, làm chưa hết
trách nhiệm. Nhiều nơi, nhiều chỗ chỉ tiến hành các hoạt động phòng ngừa mang tính
hình thức, khẩu hiệu không đi sâu, đi sát. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, doanh
nghiệp và người sử dụng chưa chủ động trong việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT, chưa có ý thức bảo mật trong các giao dịch CNTT&MVT...
3.3.2.2 Hạn chế trong công tác xây dựng văn bản pháp luật
Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&VT đã được triển khai nhưng còn chậm, kéo dài ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng ngừa cũng như việc xác minh, điều tra,
xử lý tội phạm. Bộ luật hình sự năm 2015 các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
được quy định thành một mục riêng (mục 2 chương XXI) trong đó đã quy định chi tiết
các tội danh, là cơ sở pháp lý trong việc phòng ngừa, đấu tranh, xử lý với tội phạm
này. Tuy nhiên hiện nay Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự vừa mới có hiệu lực
đầu năm 2018, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên đã gây khó khăn cho các
cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phòng ngừa, đấu tranh, xử lý với các tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Luật an ninh mạng năm 2018 còn nhiều quy định mang
tính bất cập, chồng chéo với quy định của nhiều văn bản luật khác có liên quan như
Luật doanh nghiệp, Luật giao dịch điện tử, Luật viễn thông...
Hiện nay Tòa án nhân dân tối cao vẫn chưa có Văn bản hướng dẫn xét xử các
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho các Tòa án nhân dân cấp dưới.
112
3.3.2.3 Hạn chế trong công tác tổ chức, xây dựng và trang thiết bị cho lực
lượng phòng ngừa
Công tác tổ chức, xây dựng lực lượng phòng ngừa còn nhiều tồn tại. Mặc dù đã
được Bộ Công an cho phép thành lập hệ lực lượng chuyên trách phòng chống tội phạm sử
dụng công nghệ cao tại Công an một số địa phương trọng điểm chưa triển khai nhưng đến
nay có địa phương vẫn chưa thực hiện (như Công an thành phố Hồ Chí Minh). Một số địa
phương đã thành lập Phòng, Đội an ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao nhưng
hiệu quả công tác còn hạn chế. Hoạt động phối hợp giữa các lực lượng trong việc tiến
hành phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa được chú trọng, nặng về
hình thức chưa thực sự hiệu quả. Nhận thức về hậu quả, tác hại của loại tội phạm này
chưa thống nhất. Còn thiếu nhiều văn bản liên tịch thể hiện sự phối hợp trong phòng ngừa
tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT giữa các cơ quan, tổ chức xã hội. Nhiều
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet chỉ nghiêng về lợi nhuận đã
vô tình tạo ra những kẽ hở, lỗ hổng trong hoạt động của mình tạo điều kiện cho người
phạm tội thực hiện các hành vi. Hiện nay Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-
BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&VT vẫn là văn bản duy nhất thể hiện sự phối hợp giữa các cơ
quan trong phòng ngừa các tội phạm này.
- Các loại trang thiết bị phục vụ công tác đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn
thiếu và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tế đặt ra. Việc trang bị các phương tiện kỹ
thuật cũng chưa theo kịp sự phát triển liên tục, nhanh chóng của khoa học công nghệ dẫn
đến gặp nhiều khó khăn ở hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Bản ghi nhớ giữa Tổng cục Cảnh sát Việt Nam với chính phủ Ấn Độ về
việc thành lập “Phòng thí nghiệm phục hồi dữ liệu điện tử Indira Gandhi” từ năm 2014
mới đây đã được triển khai đi vào hoạt động (giữa năm 2019) tuy nhiên quy mô còn nhỏ
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong khi đó công tác nghiên cứu, ứng dụng phương
tiện, thiết bị chuyên dụng tại một số lĩnh vực mới chưa đạt hiệu quả như: Giải mã các gói
tin sử dụng giao thức HTTPS; Giải mã mật khẩu truy cập của các loại thiết bị; Giám sát,
thu thập dữ liệu trên đường truyền Internet di động…[9]
3.3.2.4 Hạn chế trong triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và đấu
tranh xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Việc khai thác, quản lý, cập nhật tình hình, rút ra những vấn đề cần tham mưu,
chỉ đạo, tổ chức phòng ngừa, đấu tranh xử lý từ kết quả điều tra cơ bản còn hạn chế.
Công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi (biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ) chưa đạt yêu
113
cầu, đối tượng sưu tra, xác minh hiềm nghi chủ yếu là việc, hiện tượng, nguồn tin từ
sưu tra, hiềm nghi để phát triển thành chuyên án còn thấp. Thời gian qua, hầu như các
lực lượng chỉ tập trung nắm tình hình, thu thập tích lũy tài liệu. Trong báo cáo tổng kết
tại Hội nghị 05 năm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
xâm phạm trật tự an toàn xã hội (2010 – 2015) của Tổng cục cảnh sát, Bộ công an đã
chỉ rõ thực trạng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là do cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao C50 chưa được quy
định trong hệ thống cơ quan điều tra cũng như các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trong Công an nhân dân. Mặt khác, theo quy định tại
Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/08/2013 hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 Cục C50 (A05) cũng không có thẩm quyền tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm nên sau khi tiếp nhận đều phải chuyển cho cơ quan
điều tra xử lý. Do đó công tác phát hiện, xác minh, điều tra các vụ án trong lĩnh vực
CNTT&MVT còn chậm trễ, khiến tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
ngày càng diễn biến phức tạp. Trong nhiều trường hợp việc chậm xử lý đơn thư, tin
báo tố giác về tội phạm đã gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.
- Công tác xác lập, đấu tranh chuyên án còn nhiều bất cập, nguồn tài liệu xác
lập, đấu tranh chuyên án án còn hạn chế. Các chuyên án phát triển từ công tác sưu tra,
hiềm nghi chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu từ các hoạt động trinh sát. Phần lớn các chuyên án
sau khi kết thúc là đề nghị xử lý vi phạm hành chính. Năm 2014 Cục Cảnh sát PCTP
sử dụng công nghệ cao C50 đã phát hiện, xác minh, điều tra 210 đầu mối vụ việc, kết
quả chuyển cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp khởi tố 39 vụ, 272 bị can gồm 23 chuyên
án 152 bị can và 16 vụ án, 120 bị can; chuyển cảnh sát các nước : 2 vụ, 39 đối tượng;
Chuyển thanh tra các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng xử lý hành chính 12 vụ [9].
- Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vẫn
còn một số khó khăn, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay,
chưa phát huy được lợi thế trong tấn công, khám phá tội phạm, chưa đấu tranh triệt để
với các tổ chức, băng nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Một số loại tội
phạm như : Tấn công, xâm nhập trái phép hệ thống mạng máy tính; Trộm cắp cước
viễn thông quốc tế… hiệu quả đấu tranh còn thấp. Kết quả đấu tranh chưa phản ánh
đúng thực trạng tình hình phức tạp của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong
thực tế. Các vụ án trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra thiệt hại lớn về kinh tế, tuy
nhiên số tài sản được thu hồi còn quá ít so với số bị chiếm đoạt, phần lớn bị hại là
người nước ngoài nên không xác định hoặc làm rõ được dẫn đến khó xử lý.
114
3.3.2.5 Hạn chế trong công tác phối hợp, xác minh
Công tác phối hợp, trao đổi thông tin, xác minh vụ việc với các Bộ, ngành chức
năng vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu
tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Một số doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ Internet, viễn thông vì lợi nhuận hoặc vì một số lý do khác, các ngân hàng thương
mại cung cấp không kịp thời, đầy đủ các nội dung yêu cầu xác minh về thông tin thuê
bao điện thoại, chủ tài khoản mạng Internet, chủ tài khoản ngân hàng..., thậm chí có
trường hợp không cung cấp thông tin gây khó khăn trong quá trình xác minh, điều tra
[9] [10] [11].
3.3.2.6 Hạn chế trong việc hợp tác quốc tế
Công tác phối hợp trong phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT với nước ngoài chủ yếu là phía Việt Nam thực hiện các yêu cầu của các
cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài, còn việc các cơ quan thực thi pháp luật nước
ngoài phối hợp theo yêu cầu của phía Việt Nam còn rất hạn chế. Trong khi đó đặc
điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là phi biên giới và xuyên quốc gia,
mang tính toàn cầu nên việc hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, đấu tranh với các tội
phạm này là hết sức cần thiết. Đơn cử, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao trong 5 năm từ 2010-2015 đã phối hợp điều tra gần 100 vụ án liên quan
đến tội phạm sử dụng CNTT&MVT theo đề nghị của Cảnh sát Anh, Mỹ, Australia,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore...[9][10] [11].
3.3.2.7 Hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT; trong việc
thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội
Trong công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT còn có hiện tượng chồng
chéo hoặc bỏ sót như trong Quyết định 2036/QĐ-BTTTT ngày 27/11/2019 quy định
về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Cục an toàn thông tin còn thiếu chức năng đảm
bảo an toàn thông tin mạng Internet (Điều 2) vì đây là một nhiệm vụ rất quan trọng
góp phần đảm bảo an toàn thông tin nói chung; nhiều cơ quan chức năng chưa làm
tròn nhiệm vụ và quyền hạn của mình hoặc có nhận thức chưa chính xác về trách
nhiệm của cơ quan, đơn vị mình trong phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Đơn cử như trong lực lượng Cảnh sát PCTP sử
dụng công nghệ cao, tại các địa phương không tổ chức riêng lực lượng phòng, chống
các tội phạm này mà lại giao quyền điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT cho lực lượng Cảnh sát kinh tế… [9]
Trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) có
công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức pháp luật nói chung và ý thức phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của người sử dụng mạng máy tính, thiết bị
115
và dịch vụ viễn thông. Tuy nhiên công tác việc triển khai còn hạn chế; trách nhiệm xã
hội và đạo đức nghề nghiệp của sinh viên chuyên ngành CNTT&VT còn chưa được
chú trọng. Nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phù hợp với tình hình thực tế.
Việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật trong lĩnh vực CNTT&MVT đối với
nhân dân, nhất là trong trường phổ thông và trong các trường đại học, cao đẳng còn
hạn chế mang nặng tính lý thuyết. Việc trang bị cho học sinh, sinh viên kiến thức
pháp luật, hiểu được những hành vi nào là vi phạm pháp luật, mức độ nguy hại, chế tài
xử lý và học tập ý thức bảo vệ pháp luật ngay từ trên ghế nhà trường (nhất là đối với
học sinh, sinh viên trong lĩnh vực CNTT, VT cũng là những “hacker” tiềm tàng) là
một điều hết sức cần thiết, tuy nhiên vẫn chưa được chú trọng. Thực tế cho thấy nhiều
vụ án có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT như lây lan virut, mã độc...
ở Việt Nam là do học sinh, sinh viên có hiểu biết hoặc được đào tạo cơ bản về
CNTT&MVT thực hiện [10]. Nhiều người dân khi thực hiện các giao dịch về
CNTT&MVT hoặc sử dụng các thiết bị CNTT&VT còn thiếu ý thức bảo mật, thiếu
những hiểu biết cần thiết trong phòng ngừa tội phạm ở lĩnh vực này.
3.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Từ việc phân tích thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT cho thấy còn những tồn tại, hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Những tồn
tại, hạn chế, thiếu sót này xuất phát từ những điều kiện, nguyên nhân sau đây
Thứ nhất, do chưa nhận thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng
và nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Trách nhiệm phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng không chỉ là trách nhiệm thuộc về một cơ quan
hay tổ chức mà là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó có lực lượng phòng ngừa
chuyên trách và phối hợp. Mặc dù phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên hiệu quả
phòng ngừa chưa cao. Điều này có một phần nguyên nhân từ sự nhận thức về mục
đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung phòng ngừa của các chủ thể chưa được đầy
đủ. Trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chủ thể phòng
ngừa chuyên trách là C50 (nay là A05) , chủ thể phối hợp là các cơ quan quản lý nhà
nước về CNTT&MVT, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ CNTT&MVT, các cơ quan
bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan nhưng sự nhận thức về
phòng ngừa các tội phạm này lại không đồng nhất nơi thực hiện cương quyết, nơi lại
triển khai mang tính đối phó hình thức. Thực tế phòng, chống các tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT cho thấy chỉ ở các trung tâm kinh tế xã hội, các đô thị lớn như Hà
Nội, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế… thì hoạt động đấu tranh, phòng ngừa các tội
116
phạm về CNTT&MVT được thực hiện một cách chủ động và quyết liệt; trong khi đó
nhiều địa phương khác cho rằng ở địa bàn mình sẽ không có tội phạm này xảy ra do
điều kiện kinh tế xã hội, hạ tầng công nghệ chưa phát triển. Tuy nhiên, do tính chất
của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là không có biên giới, không có khoảng
cách về địa lý nên nhận thức như trên mang tính chủ quan, dẫn tới bị động trong việc
thực hiện nội dung phòng ngừa các tội phạm này. Nhiều cơ quan bảo vệ pháp luật coi
nhẹ hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chỉ làm
tròn trách nhiệm xử lý khi các tội phạm này đã xảy ra như của các cơ quan Viện kiểm
sát, Tòa án... Người sử dụng các dịch vụ CNTT&MVT lại không nhận được những
cảnh báo cần thiết từ phía các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ về phương thức, thủ
đoạn của các đối tượng từ đó chưa chủ động phòng ngừa...
Thứ hai, từ thực tiễn PCTP đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho
thấy hệ thống pháp luật quy định về các tội phạm này còn chưa hoàn thiện, đầy đủ
Do CNTT&MVT là một lĩnh vực khá mới ở nước ta nên hệ thống các văn
bản pháp luật quy định về lĩnh vực này chưa bao quát hết, còn bộc lộ nhiều sơ hở,
thiếu sót cũng như nảy sinh nhiều hạn chế, bất cập đã làm ảnh hưởng tới việc thực
hiện nhiệm vụ của các cơ quan chức năng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hiện còn thiếu và không đồng
bộ: (1) Nhiều hành vi có tính chất nguy hiểm cao trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa
được quy định trong BLHS hoặc đã được quy định trong BLHS có hiệu lực thi hành
nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện dẫn đến tình trạng có tội phạm xảy ra
nhưng không có căn cứ xử lý; (2) Chứng cứ điện tử và trình tự, thủ tục thu thập,
bảo quản, phân tích, phục hồi, giám định loại chứng cứ này chưa được quy định rõ
ràng trong Bộ luật tố tụng hình sự; (3) Các chế tài xử phạt chưa nghiêm đã tạo ra
những sơ hở để các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT lợi dụng thực hiện hoạt
động phạm tội. Bộ luật hình sự năm 2009 có sửa đổi, bổ sung các quy định về một
số tội danh liên quan đến lĩnh vực CNTT&MVT nhưng chưa bao quát được hết các
hành vi trong lĩnh vực này. Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-
BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và truyền thông, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một
số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT cũng đã được ban hành nhưng các chế tài xử
lý còn nhẹ, chưa đạt hiệu quả răn đe và phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm [53].
BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và tăng hình phạt với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì lại chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện.
Luật an ninh mạng năm 2018 đã ban hành tuy nhiên nhiều quy định còn mang tính
117
bất cập gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
CNTT&MVT như quy định các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp các dịch vụ
viễn thông, Internet bắt buộc phải đặt máy chủ tại Việt Nam vì việc này không khả
thi và không thiết thực với đặc thù dịch vụ không gian trên mạng. Nhiều chuyên gia
cho rằng việc đặt máy chủ dữ liệu ở đâu không quan trọng bằng việc quản lý việc
sử dụng dữ liệu đó ra sao. Vì thế, thay vì việc bắt buộc phải đặt máy chủ dữ liệu
của doanh nghiệp nước ngoài ở đâu, chỉ cần buộc họ phải hợp tác cung cấp dữ liệu
khi cần thiết. Ngoài ra, Luật An ninh mạng cũng có những quy định chồng chéo
hay trái với những luật định hiện hành. Hiện nay, việc quản lý không gian mạng ở
Việt Nam đang chịu sự chi phối bởi các văn bản pháp lý như Luật An toàn thông
tin mạng; Luật Viễn thông; Luật Giao dịch điện tử; Nghị định 72/2013/NĐ-CP về
quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet,… Vì thế, có những ý kiến cho rằng tốt
nhất là tích hợp các nội dung của Luật An ninh mạng vào Luật An toàn thông tin
mạng [103].
Liên quan đến vụ án đánh bạc qua mạng đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của
dư luận vào đầu năm 2018, Bộ Công an đã chỉ ra "lỗ hổng lớn trong quản lý thẻ cào
điện thoại, thẻ game" của các doanh nghiệp viễn thông. Trong Luật viễn thông hiện
hành không có điều khoản quy định về thẻ cào viễn thông, hoạt động thanh toán qua
thẻ cào viễn thông không được Ngân hàng Nhà nước coi là hoạt động trung gian thanh
toán để quản lý, trong khi Bộ Thông tin và Truyền thông không quản lý hoạt động
thanh toán bằng thẻ cào viễn thông.
Cụ thể, tại khoản 1, Điều 3, Thông tư 14/2012/TT-BTTTT quy định, "thẻ thanh
toán thông tin di động là thẻ được nạp sẵn tiền dùng để thanh toán giá cước khi sử
dụng dịch vụ thông tin di động. Mệnh giá thẻ thanh toán bằng số tiền có sẵn trong
thẻ." Đồng thời, tại khoản 1, Điều 10, Nghị định 25/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật viễn thông, thẻ thanh toán dịch vụ viễn thông (hay thẻ thanh
toán thông tin di động và thường gọi là thẻ cào) được coi là thẻ hàng hóa viễn thông
chuyên dùng và gắn liền với việc cung cấp dịch vụ viễn thông chuyên dùng được
doanh nghiệp viễn thông phát hành. Quy định này chỉ rõ thẻ thanh toán thông tin di
động là phương tiện tài chính (một dạng tiền kỹ thuật số) sử dụng trong dịch vụ viễn
thông. Tuy nhiên, đơn vị chủ quản là Bộ Thông tin và Truyền thông đến nay chưa có
bất cứ văn bản nào kiểm soát sự lưu thông của loại phương tiện tài chính này (từ lúc
phát hành thẻ cho đến khi tiêu dùng cuối cùng). Tại khoản 4, Điều 3, Thông tư số
05/2012/TT-BTTTT về phân loại dịch vụ viễn thông, "Dịch vụ viễn thông cộng thêm
là dịch vụ tăng thêm tính năng, tiện ích cho người sử dụng dịch vụ viễn thông, là một
phần không tách rời và được cung cấp cùng với các dịch vụ viễn thông cơ bản và giá
118
trị gia tăng." Game trực tuyến là dịch vụ gia tăng thêm tính năng, tiện ích cho người
sử dụng dịch vụ viễn thông, nên được các nhà mạng coi là dịch vụ cộng thêm, là một
trong những dịch vụ viễn thông. Như vậy, việc dùng thẻ thanh toán thông tin di động
(thẻ cào) để thanh toán cho dịch vụ viễn thông cộng thêm có thể coi là phù hợp với
quy định pháp luật. Do vậy đây chính là một kẽ hở lớn cho các đối tượng lợi dụng để
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Theo quy định tại Thông tư 49/VBHD-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian
thanh toán và Nghị định 80/2016/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, điều kiện
cần và đủ của các loại hình trung gian thanh toán là hệ thống dịch vụ phải kết nối với
hệ thống tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, dịch vụ thanh toán Game (cổng trung gian
thanh toán hay ví điện tử...) lại không ký hợp đồng ba bên giữa ngân hàng - đơn vị hỗ
trợ thanh toán - nhà mạng. Người dùng chỉ cần thanh toán bằng thẻ cào di động, không
thanh toán bằng tài khoản ngân hàng. Do đó, Ngân hàng Nhà nước không coi đây là
trung gian thanh toán để quản lý. Với sự phát triển công nghệ, thông tin gửi/nhận qua
mạng di động rất đa dạng, phong phú, việc sử dụng thẻ cào viễn thông làm kênh thanh
toán trung gian trong một số hoạt động như trò chơi (game online), nội dung
multimelia (nghe nhạc, video...), thương mại điện tử (mua bán sản phẩm, dịch vụ qua
web...) là nhu cầu tự phát của thị trường.
Trong khi khung pháp lý hiện nay chưa theo kịp thực tế, nếu các cơ quan quản
lý như Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước không khẩn trương có
biện pháp siết chặt các hoạt động thanh toán, phát hành, đảm bảo kiểm soát dòng tiền
lưu thông từ lúc phát hành đến khâu tiêu dùng thẻ cào, những hoạt động phi pháp như
đánh bạc, rửa tiền với con số hàng nghìn tỷ như đường dây đánh bạc nghìn tỷ này sẽ
chưa thể dừng lại. Qua điều tra đã cho thấy, hoạt động tổ chức đánh bạc qua game bài
trên mạng khó có thể thực hiện được với quy mô lớn như Rikvip, Tip.club nếu không
có các cổng trung gian thanh toán và các loại thẻ cào điện thoại, game. Cụ thể, tiền
chơi bạc từ thẻ cào chiếm tới 97% tổng lượng tiền chơi bạc qua các cổng trung gian
thanh toán, trong đó, các doanh nghiệp viễn thông được hưởng từ 15,5 - 16,3%. Các
cổng trung gian thanh toán đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tổ chức đánh
bạc trực tuyến nhưng việc quản lý còn rất lỏng lẻo, khiến các doanh nghiệp trung gian
thanh toán như VNPT EPAY, Ngân Lượng, Home Direct, Giải trí số... dễ dàng cung
cấp dịch vụ cho game bài Rikvip/Tip.club để con bạc tham gia đánh trong thời gian
dài. Việc quản lý hoạt động phát hành và sử dụng thẻ cào viễn thông lỏng lẻo khiến
các thẻ cào dễ dàng trở thành phương tiện thanh toán cho các dịch vụ ngoài viễn
thông, tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng để xây dựng hệ thống thanh toán cho
hoạt động đánh bạc trực tuyến.
119
Thứ ba, chủ thể thực hiện phòng ngừa còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình
độ chuyên môn, thiếu các phương tiện thiết bị hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả phòng ngừa [9] [10]
Lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao được thành lập vào tháng 2/
2010 (C50), năm 2018 được sáp nhập và đổi tên thành Cục An ninh mạng và PCTP sử
dụng công nghệ cao (A05) đội ngũ cán bộ chiến sĩ được điều động từ nhiều đơn vị
khác nhau, nên trình độ nhận thức chưa đồng đều.Trình độ, năng lực của một bộ phận
cán bộ, chiến sỹ thuộc các lực lượng tiến hành phòng ngừa hiện chưa đáp ứng kịp so
với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Số cán bộ có kinh nghiệm trong công tác trinh sát, điều
tra còn ít dẫn đến kết quả công tác phát hiện, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT
còn hạn chế so với diễn biến của tình hình tội phạm đã và đang xảy ra. Theo thống kê
đến tháng 6/2014 tổng quân số của lực lượng Cảnh sát PCTS sử dụng công nghệ cao
có 265 đồng chí, trong đó C50 là 128 đồng chí, PC50 Công an Hà nội là 85 đồng chí,
các Đội cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao là 52 đồng chí. So với số lượng các vụ
án liên quan đến tội phạm sử dụng CNTT&VT thì số lượng cán bộ chiến sỹ trực tiếp
đấu tranh, xử lý là quá ít như năm 2013 số vụ án là 314 vụ trung bình mỗi cán bộ xử lý
2 vụ. Về trình độ ngoại ngữ, tin học tại C50 qua khảo sát cho thấy trong 128 đồng chí
có 87 người biết ngoại ngữ (chiếm 67,97%) tuy nhiên trình độ không đồng đều, trong
số các Điều tra viên biết ngoại ngữ thì rất hiếm có cán bộ nào có thể trực tiếp xét hỏi
đối tượng là người nước ngoài mà không cần đến người phiên dịch [9] [10]. Qua trao
đổi với một số cán bộ thực tiễn đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT ở
C50, PC50 công an Hà Nội cho thấy hạn chế và khó khăn lớn nhất trong đấu tranh,
phòng ngừa các tội phạm này là có kiến thức về tin học, ngoại ngữ, phong tục tập quán
của người nước ngoài, các điều ước và tập quán quốc tế còn hạn chế do vậy khi được
giao nhiệm vụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT nhiều cán
bộ, chiến sỹ có tư tưởng và tâm lý e ngại, né tránh. Đây cũng là một trở ngại dẫn đến
hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội phạm này chưa đạt kết quả cao.
Việc triển khai thành lập hệ lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao tại Công an các địa phương còn chậm vì: (1) Việc tuyển dụng cán bộ có
trình độ CNTT còn gặp nhiều khó khăn do chưa có chính sách, chế độ đãi ngộ đặc thù.
(2). Theo Chương trình mục tiêu quốc gia PCTP giai đoạn 2012 – 2015 do Chính phủ
phê duyệt thì kinh phí cấp cho công tác phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
là một trong sáu dự án thành phần, với tổng kinh phí được cấp là 124 tỷ đồng từ ngân
sách Trung ương và nguồn khác. Tuy nhiên hoạt động này chưa tranh thủ được nguồn
kinh phí của địa phương để đầu tư các loại thiết bị máy móc phục vụ công tác mà chủ
yếu phụ thuộc vào trang bị của Bộ, trong khi đó dự án mua sắm trang thiết bị của C50
120
không đủ kinh phí để cấp phát cho tất cả các địa phương vì ngân sách Nhà nước có hạn.
Mặt khác, hiện nay các Đội cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao được đặt tại các
Phòng nghiệp vụ (PC44, PC45, PC46), ngoài công tác PCTP sử dụng công nghệ cao còn
phải thực hiện các công việc theo chức năng, nhiệm vụ của Phòng, do đó hiệu quả xác
minh, điều tra, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT còn hạn chế. Phương
tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu đồi hỏi của thực
tiễn, do đó trong nhiều trường hợp không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của
đối tượng. Ví dụ như vụ án Huỳnh Thái Học, lợi dụng là trưởng phòng cấp cao của
Công ty Chứng khoán Đại Việt, đối tượng đã đột nhập vào hệ thống mạng máy tính của
công ty để thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán khống, sau đó xóa, sửa file bút
toán các giao dịch trên chiếm đoạt 7,4 tỷ đồng. Vụ Võ Nguyễn Hoàng Sơn - Công ty
L.T. Việt Nam, đối tượng bị tố cáo nhập điểm khống chiếm đoạt trên 1 tỷ đồng. Tuy
nhiên, quá trình xác minh kiểm tra hệ thống phần mềm không xác định được người nào
nhập điểm khống, không xác định nhập từ máy tính nào, nhập vào thời gian nào nên
không thể xử lý đối tượng này [103].
Bên cạnh đó cơ sở vật chất phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa trong lĩnh
vực này còn thiếu thốn, vấn đề tài chính còn khó khăn và đặc biệt các kỹ thuật PCTP
trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Lực lượng Cảnh sát
nhân dân và các đơn vị chức năng khác không có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để lưu giữ,
phục hồi, bảo quản tang vật vi phạm (các dữ liệu điện tử, phần cứng, phần mềm máy
tính…); kinh phí hỗ trợ cho việc bảo quản, khôi phục lưu giữ các dữ liệu điện tử còn
eo hẹp. Dự án thành lập Trung tâm phục hồi, phân tích chứng cứ, dữ liệu điện tử Indira
Gandhi tại Hà Nội do Bộ nội vụ Ấn Độ tài trợ từ năm 2014 đã đi vào hoạt động năm
2019 nhưng quy mô còn nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Với Tòa án và Viện kiểm sát đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm
sát, xét xử các vụ án về CNTT&MVT có trình độ, sự am hiểu về CNTT&MVT chưa
sâu đặc biệt ở cấp huyện. Điều này là khó khăn, trở ngại trong việc thực hiện các biện
pháp phòng ngừa đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Thứ tư, khó khăn trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và
đấu tranh xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT [9] [10]
Việc triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng phòng ngừa
mặc dù đã được chú trọng, quan tâm nhưng trên thực tế nhiều nơi, nhiều lúc còn mang
tính hình thức, kém hiệu quả. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, lực lượng nào phát hiện
vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì lực lượng đó tổ chức điều tra, xử
lý. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với
các tội phạm này chưa đạt kết quả cao nhất. Tình trạng giao khoán chỉ tiêu công tác
121
nghiệp vụ cơ bản đến các đội nghiệp vụ, đến từng trinh sát vẫn diễn ra thường xuyên,
trong đó yêu cầu thực tiễn và khả năng đáp ứng các điều kiện thực hiện là khó khăn,
nên dẫn đến tình trạng chạy đua với số lượng, chỉ tiêu mà không quan tâm đến chất
lượng. Công tác tổ chức nắm tình hình, xây dựng và sử dụng mạng lưới cộng tác viên
bí mật còn yếu. Về cơ bản công tác đấu tranh chuyên án đảm bảo các yêu cầu về chính
trị, pháp luật, nghiệp vụ, đã huy động được nhiều lực lượng, phương tiện tham gia với
sự chỉ đạo thống nhất của Ban chuyên án; kết thúc chuyên án đều làm rõ được tính
chất vi phạm, đối tượng vi phạm và đề xuất hình thức xử lý theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên số lượng chuyên án được xác lập còn quá ít, do đó hiệu quả phòng
ngừa, đấu tranh với các tội phạm này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn .
Việc triển khai các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật còn hạn chế do khó khăn về
cơ sở vật chất, trang thiết bị…
Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
chưa làm tốt việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ năm, sự phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT giữa các chủ thể còn chưa hiệu quả
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các
chủ thể còn tồn tại các vấn đề như: các lực lượng chưa thực sự chủ động trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Chưa kịp thời cập
nhật và hệ thống những phương thức, thủ đoạn mới để phổ biến, tuyên truyền, cảnh
báo cho nhân dân biết. Trong phòng ngừa vẫn nặng về việc đấu tranh, xử lý hơn phòng
ngừa các loại tội phạm này. Cụ thể, có những vụ án xảy ra trong thời gian qua đã gây
ra hậu quả rồi mới bị phát hiện và xử lý, nghĩa là chưa ngăn chặn được không cho tội
phạm xảy ra. Quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chuyên trách đấu tranh PCTP trong
lĩnh vực CNTT&MVT với các lực lượng trong và ngoài ngành Công an còn chưa chặt
chẽ, đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Việc phối hợp giữa các lực lượng chưa được tiến
hành thường xuyên, liên tục, còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, chủ yếu được thực hiện
vào thời gian có các đợt cao điểm tấn công tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hoặc
trong đấu tranh với các vụ án cụ thể như vụ án lây nhiễm các mã độc máy tính trong
thời gian gần đây. Thậm chí nhiều trường hợp sự phối hợp còn mang tính hình thức,
ngẫu hứng và chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể.
Lãnh đạo một số đơn vị, địa phương còn coi nhẹ, chưa nhận thức đầy đủ, đúng
đắn và sâu sắc tầm quan trọng của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa thường xuyên, kịp
thời. Các cơ quan chức năng cũng như chính quyền địa phương chưa thực sự đủ mạnh,
122
chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh, xử lý với các hành vi phạm tội trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Vẫn còn nhiều bất cập trong vấn đề trao đổi thông tin, hỗ trợ,
trong quản lý, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động giao dịch qua mạng máy tính, mạng
VT… Việc phối kết hợp giữa các lực lượng chức năng có liên quan từ Trung ương
xuống địa phương không phải lúc nào cũng trôi chảy và có hiệu quả, phần lớn vẫn dựa
trên hệ thống văn bản, giấy tờ, phân công nhiệm vụ chưa rõ ràng, không cụ thể trong
việc xác định phạm vi, mức độ phối hợp,... dẫn đến tình trạng chồng chéo, hiệu quả
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn thấp. Một số doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, viễn thông cung cấp không kịp thời, đầy đủ nội dung
các yêu cầu xác minh về thông tin thuê bao điện thoại, chủ tài khoản mạng Internet,…
(thậm chí có trường hợp không cung cấp thông tin), gây khó khăn cho các cơ quan
chức năng trong quá trình xác minh, điều tra từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Thứ sáu, hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT chưa được tiến hành chủ động, thường xuyên
Đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là mang tính xuyên quốc
gia và phi biên giới trong không gian mạng, nên để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu
quả với các tội phạm này hoạt động hợp tác quốc tế giữa nước ta với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới là một nhu cầu tất yếu, tự thân. Thực tế trong thời gian
qua chúng ta đã học tập được kinh nghiệm của một số quốc gia, vùng lãnh thổ về
phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT như tại Nhật Bản, Phần
Lan, Singapore, liên minh châu Âu (EU)... Chúng ta đã có những thỏa thuận, hiệp định
tương trợ với tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL, ASEANPOL và Công an
các nước nhằm trao đổi thông tin, xác minh đối tượng có liên quan đến tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Rất nhiều cán bộ trực tiếp đấu tranh với loại tội phạm này
được cử đi học các lớp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bắt kịp
với sự phát triển của CNTT&MVT cũng như những phương thức, thủ đoạn mới của
người phạm tội.Tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa được tiến hành thường xuyên, chủ động mang
tính “một chiều”, thường chúng ta chỉ hợp tác khi xảy ra các vụ án có liên quan đến tội
phạm này và phía nước ngoài có yêu cầu chúng ta điều tra, xác minh. Ngoài ra hoạt
động hợp tác quốc tế cũng gặp khó khăn bởi các rào cản về ngôn ngữ, văn hóa, sự
xung đột không đồng nhất về pháp luật... Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến hiệu quả
của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
123
Thứ bảy, công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT còn nhiều bất cập; công
tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của người sử dụng trong
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa được chú trọng
Công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT đã được Nhà nước giao cho nhiều
cơ quan chức năng trong đó quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn trong lĩnh vực mình
quản lý như Bộ thông tin truyền thông, Cục An toàn thông tin, Cục viễn thông, Ngân
hàng Nhà nước…tuy nhiên thực tế còn nhiều thiếu sót trong công tác quản lý ở lĩnh
vực này tạo điều kiện để đối tượng phạm tội lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm.
Trong nhận thức của quần chúng nhân dân, của doanh nghiệp và các tổ chức có
sử dụng các dịch vụ viễn thông, dịch vụ mạng và các hoạt động khác còn chưa chú ý
đến vấn đề bảo mật, đảm bảo an ninh, an toàn mạng của cơ sở dữ liệu, tài khoản cá
nhân trong quá trình tiến hành các hoạt động giao dịch. Các chủ thể chưa ý thức việc
tự bảo vệ cũng như tuyên truyền cho những người khác trong việc bảo vệ thông tin dữ
liệu cá nhân, chưa nắm được các phương thức thủ đoạn của các đối tượng phạm tội
trong lĩnh vực CNTT&MVT nên dễ dàng trở thành nạn nhân. Ý thức của quần chúng
nhân dân, của các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước về công tác bảo mật, đảm bảo an
toàn, an ninh mạng của nhiều trang web, báo điện tử, cơ sở dữ liệu của một số lĩnh vực
kinh tế quan trọng như Ngân hàng, Hàng không, Tài chính, Viễn thông... chưa được
quan tâm đầu tư đúng mức nên dễ bị hacker tấn công. Trong đó ý thức bảo mật của
người dùng còn hạn chế là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT có cơ hội và điều kiện phát triển. Phần lớn người dùng lâm vào hoàn cảnh
thất thoát dữ liệu đều không chuyên hoặc ít có sự hiểu biết về an ninh mạng, và đây cũng
chính là một trong những nguyên nhân lớn khiến họ trở thành nạn nhân của hacker. Một
điều rất rõ ràng là nếu chúng ta ít có kiến thức về công nghệ nhưng luôn có ý thức bảo
mật, thì sẽ giảm thiểu đi rất nhiều khả năng tấn công của Hacker, vì các phần mềm, ứng
dụng bảo mật đã được tự động hóa để đối mặt với các nguy cơ gây hại.
124
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Qua nghiên cứu về thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ở Việt nam cho chúng ta một số kết luận như sau
1. Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hiện nay: qua các
số liệu thống kê và phân tích cơ cấu tình hình tội phạm cho thấy sự gia tăng về số
lượng, tính chất, thủ đoạn và hậu quả của loại tội phạm này.
2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và mạng viễn thông
- Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa xã hội và các biện pháp
phòng ngừa nghiệp vụ của các chủ thể ;
- Thực trạng quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT tại Việt Nam
- Những kết quả đã đạt được về công tác xây dựng văn bản pháp luật điều
chỉnh, về hoạt động phối hợp giữa các chủ thể, về việc triển khai các biện pháp phòng
ngừa, về hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng ngừa.
- Những tồn tại, hạn chế trong nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các chủ thể; trong
công tác xây dựng văn bản pháp luật; trong công tác tổ chức, xây dựng và trang thiết
bị cho lực lượng phòng ngừa; trong triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và
đấu tranh xử lý; trong công tác phối hợp, xác minh;trong việc hợp tác quốc tế; trong
việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội.
- Phân tích nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại trong phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
Việc đưa ra được các tồn tại, thiếu sót cũng như phân tích các nguyên nhân
của những tồn tại trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa, đảm
bảo hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đạt hiệu quả cao.
125
Chƣơng 4
DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
VÀ MẠNG VIỄN THÔNG
4.1. Dự báo tình hình tội phạm và các yếu tố ảnh hƣởng đến phòng ngừa
tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
4.1.1 Dự báo tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng
viễn thông
Theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ 2011-2020 tại nội dung
số 10 Nhà nước ta xác định phát triển khoa học và công nghệ là động lực then chốt
của quá trình phát triển nhanh và bền vững, trong đó có đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng CNTT. Điều này cũng đã được cụ thể hóa thành mục tiêu cần đạt được trong Đề
án đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/9/2010. Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa
học công nghệ nói chung và CNTT nói riêng đã đem lại rất nhiều thành tựu cho sự
phát triển về mọi mặt ra đời sống kinh tế xã hội nhưng bên cạnh đó tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường.
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam trong những năm tới, không
chỉ giới hạn ở cơ số hành vi phạm tội là 10 [11] với 10 tội danh đã thực hiện trong giai
đoạn 2010-2019, mà sẽ mở rộng đến nhiều hành vi khác; không chỉ giới hạn tập trung vì
động cơ vụ lợi mà sẽ mở rộng sang nhiều động cơ, mục đích khác nhau như sử dụng
CNTT&MVT để lấy cắp bí mật nhà nước sử dụng cho các mục đích chính trị trực tiếp
đe dọa đến an ninh quốc gia. Theo các chuyên gia, với thực trạng nhiều cơ quan, doanh
nghiệp đã bị nhiễm mã độc gián điệp nằm vùng, những năm tiếp theo sẽ còn tiếp tục
chứng kiến nhiều cuộc tấn công có chủ đích APT với quy mô từ nhỏ tới lớn. Mã độc mã
hóa tống tiền tiếp tục bùng nổ, xuất hiện nhiều hình thức phát tán tinh vi và biến thể
mới. Mã độc trên di động tiếp tục tăng với nhiều dòng mã độc khai thác lỗ hổng nhằm
chiếm quyền root, kiểm soát toàn bộ điện thoại [11].
Diễn biến của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam sẽ
ngày càng phức tạp cả về số vụ, số đối tượng phạm tội; số vụ án sẽ tăng liên tục hàng
năm (trên 50% mỗi năm). Về cơ cấu tình hình tội phạm theo đơn vị hành chính, không
chỉ xuất hiện, tập trung tại các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội mà sẽ còn
rộng ra nhiều tỉnh, thành phố khác (giai đoạn 2010-2014 chỉ xuất hiện ở 26 tỉnh, thành
phố) [8][9][11], và trên quy mô cả nước, trong khu vực và trên thế giới do đặc điểm
của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là không có biên giới, không có khoảng
126
cách về địa lý. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ 4.0 sẽ làm xuất hiện, gia tăng,
phát triển của tội phạm có sử dụng công nghệ cao để phạm tội, theo quy luật: Ở đâu có
hạ tầng CNTT phát triển, sự gia tăng mật độ dân cư, có tốc độ tăng trưởng về kinh tế,
có số lượng người sử dụng Internet gia tăng, độ phân hóa giàu nghèo cao... nơi ấy sẽ
xuất hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và sẽ có sự gia tăng nhanh đối với loại
tội phạm này. Về cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn phạm tội: số vụ án do tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT thực hiện dưới hình thức đồng phạm và đồng phạm có tổ
chức sẽ gia tăng trong thời gian tới. Hầu hết các vụ án thực hiện dưới hình thức đồng
phạm, phạm tội có tổ chức; xu thế hình thành ổ nhóm tội phạm sử dụng CNTT&MVT
để phạm tội sẽ mang tính quốc tế, có sự phân công vai trò cụ thể, chặt chẽ sẽ ngày
càng phổ biến.
Đặc biệt các chuyên gia của Bkav dự báo, mã độc sử dụng trí tuệ nhân tạo AI
có thể sẽ xuất hiện trong năm tới, ban đầu dưới hình thức những mẫu thử nghiệm PoC
(Proof of Concept). Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất của người dùng Internet đến từ mã
độc mã hóa tống tiền, mã độc xóa dữ liệu, mã độc đào tiền ảo và tấn công APT. Các
loại mã độc này có thể kết hợp nhiều con đường lây nhiễm khác nhau để tăng tối đa
khả năng phát tán, trong đó phổ biến nhất là khai thác lỗ hổng phần mềm, hệ điều hành
và qua email giả mạo. Tình trạng spam lừa đảo trên Facebook sẽ có nhiều biến tướng,
không chỉ với hình thức comment dạo, kẻ xấu có thể sẽ sử dụng triệt để các hình thức
khác như chat messenger, mời kết bạn hay tag vào các bài viết, xem chung… Hình
thức tung tin đồn thất thiệt về tấn công mạng như vụ việc của Thế giới di động, FPT
Shop, tin giả về tình hình dịch bệnh Covid-19… nhằm gây hoang mang, trục lợi có thể
sẽ gia tăng. Người dùng mạng xã hội cần đề cao cảnh giác hơn nữa với những hình
thức lừa đảo ngày càng tinh vi của các đối tượng xấu.
Hệ thống mạng máy tính, có sở dữ liệu thông tin số, hạ tầng thông tin quốc gia
tiếp tục phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức mới từ tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT trong nước và quốc tế. Tình trạng phát tán virut, phần mềm gián điệp để
truy cập, xâm nhập, trộm cắp thông tin tài khoản, thông tin cá nhân, tài liệu bí mật nhà
nước tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật
tự an toàn xã hội của đất nước. Đặc biệt các loại tội phạm liên quan đến ứng dụng điện
thoại thông minh (như phát tán mã độc, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bôi nhọ danh dự,
nhân phẩm, vu khống,...) sẽ gia tăng rất nhanh chóng. Số lượng phần mềm mã độc
nhắm vào dịch vụ ngân hàng trên nền tảng di động (mobile banking malware) cũng sẽ
tăng mạnh do người dùng có xu hướng thanh toán trực tuyến trên thiết bị này. Các loại
tội phạm truyền thống sẽ tăng cường sử dụng CNTT&MVT trong hoạt động phạm tội
của mình, đặt ra những thách thức lớn đối với công tác đấu tranh chống tội phạm như
127
trong thời gian qua các tội phạm đánh bạc, cá độ trực tuyến ngày càng phát triển về
quy mô, số vụ và số tiền giao dịch.
Những thiết bị, phương tiện điện tử, ứng dụng công nghệ mới tiếp tục bị tội
phạm lợi dụng triệt để trong hoạt động phạm tội. Đặc biệt, trong những năm tới hình
thức thanh toán thẻ ngân hàng (thanh toán trực tiếp bằng hình thức quẹt thẻ qua thiết bị
thanh toán) sẽ dần được thay thế bằng hình thức thanh toán qua thông tin tài khoản lưu
trên các phương tiện thiết bị di động thông minh (việc thanh toán chỉ cần thông qua sự
kết nối giữa thiết bị di động của người bán và người mua), đây chính là điều kiện
thuận lợi để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hoạt động. Các đường dây, ổ nhóm
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng trong
và ngoài nước sẽ tiếp tục được hình thành với quy mô, tính chất ngày càng phức tạp;
tăng cường kết hợp tấn công, sử dụng công nghệ mới và liên tục thay đổi phương thức,
thủ đoạn để tránh bị phát hiện như: tấn công mục tiêu qua trung gian, sử dụng phần
mềm, công nghệ tạo địa chỉ IP giả để che giấu nguồn gốc truy cập, sử dụng robotcall
để thực hiện các cuộc gọi tự động với mục đích lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc
đe dọa tống tiền; sử dụng hòm thư điện tử miễn phí hoặc lấy cắp của người khác; lợi
dụng sơ hở, lỗ hổng bảo mật từ nội bộ,...Việc này đặt ra khó khăn, thách thức lớn đối
với phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đòi hỏi lực lượng
phòng, chống tội phạm phải không ngừng nỗ lực nghiên cứu tìm ra những giải pháp
tháo gỡ và phối hợp chặt chẽ trong phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này.
- Về thủ đoạn phạm tội: Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT sẽ sử dụng một
số thủ đoạn chính sau để thực hiện hành vi phạm tội
+ Phát triển mạng Botnet để lấy cắp thông tin, tấn công các website của Chính
phủ, ngân hàng, hàng không, lưới điện quốc gia; phát tán tin nhắn rác, quảng cáo.
+ Sử dụng phần mềm gián điệp, điều khiển từ xa để tấn công có mục đích chính
trị và kinh tế vào các cơ quan chính phủ, ngân hàng và các doanh nghiệp lớn, với mục
đích lấy cắp và phá hoại dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu liên quan đến an ninh quốc gia,
quốc phòng.
+ Sử dụng blog cá nhân, mạng xã hội để hoạt động phạm pháp, như xâm
phạm an ninh quốc gia, thành lập băng nhóm tội phạm, xâm phạm quyền riêng tư,
phát tán virus...
+ Khai thác lỗ hổng bảo mật, ứng dụng điện toán đám mây (file sharing) để tấn
công, lấy cắp thông tin, thay đổi, phá hoại thông tin, lấy cắp dữ liệu và thông tin thẻ tín
dụng (Ví dụ: nhóm Anonymous lợi dụng điện toán đám mây của Amazon, khai thác lỗ
hổng máy chủ, truy cập cơ sở dữ liệu, tấn công game trực tuyến Playstation Network;
lấy cắp dữ liệu và thông tin thẻ tín dụng).
128
+ Lấy cắp thông tin dữ liệu cá nhân của smartphone để sử dụng cho các mục
đích phạm tội khác nhau. DroidCleaner và SuperClean là các dòng virus đầu tiên đã có
thể thực hiện hành vi lây chéo giữa máy tính và smartphone, xu hướng này sẽ tiếp diễn
mạnh mẽ, thậm chí bùng nổ bởi thị trường smartphone đang tăng lên nhanh chóng; xu
hướng giả mạo phần mềm, ứng dụng để lây nhiễm virus trên điện thoại di động sẽ còn
tiếp tục trong những năm tới. Tội phạm có thể cài đặt phần mềm theo dõi trên điện
thoại để theo dõi hành vi của người sử dụng, điều này có thể tạo ra được các gian lận
như email để lừa nạn nhân down load các tệp chứa mã độc. Người dùng cần nhận thức
rõ hơn về sự nguy hiểm của các cuộc tấn công giám sát di động và các bước để chống
lại nó.
+ Tấn công qua truy cập qua VPN (Virtual Private Network, hệ thống mạng
riêng ảo nhằm đáp ứng nhu cầu chia sẻ thông tin, truy cập từ xa và tiết kiệm chi phí)
để lấy cắp thông tin doanh nghiệp, thông tin cá nhân khi gia tăng ứng dụng truy cập
qua VPN do các nhân viên thường xuyên phải làm việc ở ngoài văn phòng.
+ Sử dụng thông tin thẻ ATM để thanh toán dịch vụ, mua hàng hóa, rút tiền
ngân hàng; mua bán thông tin thẻ ATM để hưởng lợi bất chính; tấn công email của cá
nhân, doanh nghiệp lấy thông tin để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; truy cập trái
phép mạng viễn thông để ăn cắp cước phí viễn thông.
+ Lập trang web mua bán hàng hóa trực tuyến, bán sản phẩm ảo để lừa đảo
chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chat để thực hiện các hành vi đồi bại, lừa đảo, cưỡng đoạt
tài sản, mại dâm, mua bán người.
+ Sử dụng mạng máy tính, mạng Internet, mạng xã hội đưa thông tin lên mạng
với mục đích truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy; mua bán mại dâm; mua bán chất ma
túy; mua bán phụ nữ, trẻ em; bán giấy tờ giả; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đánh bạc; tài
trợ cho khủng bố, rửa tiền; tống tiền; xâm phạm nhân phẩm, tự do cá nhân; tuyên
truyền tư tưởng chống phá Nhà nước, chính quyền nhân dân...
+ Deep fakes – video giả và ghi âm thanh giống với thực tế tạo ra các sản phẩm
mang mục đích xấu như một chính trị gia có thể bị giả mạo đưa ra một bình luận gây
mất phiếu trước cuộc tranh cử; một bản ghi âm giả của Giám đốc điều hành cấp cao có
thể ra lệnh cho bộ phận kế toán thực hiện giao dịch tài chính vào tài khoản ngân hàng
của tội phạm...
+ Robotcall: các đối tượng phạm tội sử dụng robotcall để thực hiện các cuộc gọi
giả danh cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án, Công an, Viện kiểm sát... nhằm đe dọa
tống tiền hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi này đã được các cơ quan chức năng
thường xuyên cảnh báo, tuy nhiên thực tế trong thời gian qua vẫn có rất nhiều người bị
lừa đảo hoặc bị đe dọa nên đã chuyển tiền cho các đối tượng lên tới hàng tỷ đồng.
129
Ngoài phương thức nêu trên, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT sẽ thường
xuyên thay đổi phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thủ đoạn càng ngày càng tinh vi, đa
dạng hơn nhằm che giấu, đối phó với sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Theo
đánh giá của các chuyên gia về An ninh mạng, trong năm tiếp theo tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT có tổ chức, tội phạm hoạt động xuyên quốc gia ở nước ta
sẽ còn diễn biến phức tạp. Các tổ chức tội phạm tiếp tục hoạt động với những vỏ bọc
đa dạng, phương thức hoạt động và hành vi che giấu tội phạm tinh vi xảo quyệt hơn,
gây khó khăn cho công tác phát hiện điều tra. Dự báo hành vi của tội phạm có tổ chức
sử dụng CNTT&MVT để phạm tội như xâm nhập trộm cắp phá hoại dữ liệu làm tê liệt
hệ thống mạng Internet của các cơ quan doanh nghiệp với mục đích kinh tế và phi kinh
tế; sử dụng công nghệ cao trộm cắp tài sản, sử dụng trái phép hoặc làm giả thẻ tín
dụng để mua hàng từ nước ngoài rồi chuyển về Việt Nam… sẽ có chiều hướng gia
tăng. Đặc biệt là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hoạt động kinh doanh đa
cấp, bán hàng trực tuyến dự báo sẽ tiếp tục phát triển. Năm 2017 cũng chứng kiến sự
bùng nổ của các ransomware lợi dụng lỗ hổng hệ điều hành để phát tán với tốc độ
chóng mặt. Điển hình là mã độc WannaCry, lây nhiễm trên hàng trăm máy tính tại hơn
90 nước chỉ trong vài giờ. Tại Việt Nam, hơn 1.900 máy tính có chứa WannaCry và
hơn 52% máy tính tồn tại lỗ hổng có thể bị tấn công bởi mã độc này. Sau đó là sự xuất
hiện của mã độc tống tiền Petya làm tê liệt hàng loạt ngân hàng, sân bay, máy ATM và
nhiều doanh nghiệp lớn tại châu Âu. Tương tự, mã độc Bad Rabbit đã lan rộng trong
hệ thống của ít nhất 200 tổ chức trên thế giới. Số tiền chuộc khổng lồ hacker kiếm
được chính là nguyên nhân dẫn tới sự bùng nổ của loại mã độc nguy hiểm này.
Năm 2018, 2019 tiếp tục chứng kiến sự bùng nổ các cuộc tấn công phát tán mã
độc nhằm thu lợi bất chính như mã độc mã hóa tống tiền ransomware, mã độc đào tiền
ảo… Chuyên gia Bkav dự đoán, bên cạnh việc phát tán mã độc để tạo ra mạng lưới
botnet đào tiền ảo, hacker cũng sẽ nhắm mục tiêu tấn công trực tiếp vào các sàn giao
dịch tiền ảo. Hiện nay hầu hết các sàn giao dịch tiền ảo đều không có sự bảo đảm từ
các chính phủ, do vậy nếu xảy ra tấn công, người tham gia sàn giao dịch sẽ chịu mọi
rủi ro, mất tiền [108].
Trong năm 2020, Bkav dự báo mã độc tấn công có chủ đích sẽ tinh vi hơn, cùng
với đó là các mã độc giả mạo các phần mềm, chương trình chuẩn thông qua kỹ thuật
DLL Side-Loading để qua mặt phần mềm diệt virus. Tấn công mã hóa tống tiền sẽ còn
tiếp tục gia tăng do nguồn lợi trực tiếp nó mang lại cho hacker ngày càng lớn. Các
thiết bị IoT như Router, Wi-Fi, Camera giám sát, thiết bị đầu cuối… cũng sẽ là điểm
nóng về an ninh mạng khi các thiết bị này ngày càng trở nên phổ biến và kết nối rộng.
Tấn công lừa đảo chiếm đoạt tài khoản ngân hàng sẽ tiếp tục gia tăng khó lường.Tin
130
tức giả mạo (fake news) sẽ tiếp tục là vấn đề cần giải quyết đối với cộng đồng và các
cơ quan quản lý nhà nước. Sẽ xuất hiện những tin giả mạo, clip giả mạo với mục đích
xấu, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo AI như deepfake hoặc các cuộc gọi giả mạo
tự động qua robotcall…
Tính chất nghiêm trọng của hành vi do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
thực hiện chủ yếu là hành vi nghiêm trọng (đến 7 năm tù), sẽ có xu hướng gia tăng,
chuyển dần sang rất nghiêm trọng (đến 15 năm tù) và đặc biệt nghiêm trọng (trên 15
năm tù), điều này được lý giải do sự thay đổi, điều chỉnh khung hình phạt của BLHS
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuổi của người phạm tội có sử dụng
CNTT&MVT để phạm tội có xu hướng trẻ hóa nhanh, hiện tập trung ở lứa tuổi từ 18
đến 30 tuổi, sẽ chuyển dần sang từ 18 đến 25 tuổi. Điều này được lý giải bởi theo
nghiên cứu tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở lứa
tuổi từ 18 đến 30 (chiếm 54,23%). So sánh với số liệu thống kê của Liên hiệp quốc thì
các đối tượng phạm tội CNTT&MVT trên thế giới lại tập trung chủ yếu ở độ tuổi dưới
25 chiếm 45% tổng số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT[7] [9][11].
Như vậy, so với thế giới, tuổi của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
của Việt Nam cao hơn với mặt bằng chung của thế giới từ 5 đến 10 tuổi, theo xu thế
hội nhập và phát triển số tuổi của người vi phạm sẽ bị trẻ hóa vì đây là tội phạm xuyên
quốc gia, phi truyền thống. Người phạm tội có trình độ hiểu biết về CNTT&MVT
chiếm đa số và tập trung ở các đối tượng làm việc trong các công ty kinh doanh dịch
vụ CNTT&MVT, các nhân viên ngân hàng; sinh viên các trường đại học, cao đẳng,
một số đã tốt nghiệp nhưng chưa có việc làm, việc làm không ổn định sẽ là những đối
tượng phạm tội tiềm năng. Đối tượng sử dụng CNTT&MVT để phạm tội có xu hướng
gia tăng về số lượng, trong đó đối tượng là người nước ngoài sẽ tăng và chiếm tỷ lệ
cao hơn so với hiện nay. Xu thế hình thành ổ nhóm tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT hoạt động mang tính quốc tế, có sự phân công vai trò cụ thể, chặt chẽ sẽ
ngày càng phổ biến [7][8][12].
4.1.2 Dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Để phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT những năm tới
đạt hiệu quả thì công tác dự báo các yếu tố tác động đóng vai trò quan trọng, là thước
đo để đưa ra các giải pháp mang tính khả thi. Do vậy, việc dự báo các yếu tố tác động
đến phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT phải dựa trên các cơ sở
khoa học và thực tiễn.
Thực tiễn trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI cho thấy lợi ích từ
CNTT&VT đem đến cho từng quốc gia, doanh nghiệp và người dân những lợi ích to lớn.
131
Trong đó, CNTT&VT được coi là chìa khóa để mỗi quốc gia phát triển kinh tế nhanh nhất
góp phần hội nhập nền kinh tế thế giới một cách sâu rộng. Chính vì vậy, phát triển
CNTT&VT là chiến lược ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia trong thế kỷ XXI.
Với tốc độ phát triển như vũ bão của CNTT và Internet hiện nay cũng như trong
những năm tiếp theo, đặc biệt khi cả thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư ( còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0) sẽ là động lực để phát triển
CNTT&VT trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các
quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu phát triển nhanh chóng. Xu hướng toàn cầu hóa
nền kinh tế thế giới ngày càng được đẩy mạnh, quan hệ quốc tế diễn ra trong xu thế vừa
hợp tác vừa đấu tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế của các quốc gia đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế về
kinh tế cũng làm phát sinh nhiều tiêu cực, trong đó tội phạm sử dụng CNTT&MVT như
một công cụ, phương tiện mới để thực hiện các hành vi vi phạm như lừa đảo, buôn bán
hàng cấm, phát tán virut, lây lan mã độc để đe dọa tống tiền...
Trong ba năm 2017- 2019, số lượng lỗ hổng an ninh trong các phần mềm, ứng
dụng được công bố tăng đột biến với hơn 15.700 lỗ hổng, gấp khoảng 2,5 lần
những năm trước đó. Đặc biệt, nhiều lỗ hổng nghiêm trọng xuất hiện trên các phần
mềm phổ biến như Adobe Flash Player, Microsoft Windows… và cả trong nhiều
dòng CPU của Intel, Apple, AMD... Mặc dù bản vá an ninh đều nhanh chóng được
các nhà sản xuất công bố sau khi lỗ hổng xuất hiện, nhưng việc cập nhật bản vá lại
chưa kịp thời, thậm chí nhiều năm sau đó vẫn chưa được cập nhật. Điển hình như lỗ
hổng SMB, sau 2 năm vẫn có tới hơn 50% máy tính tại Việt Nam chưa được vá lỗ
hổng này. Đây là lỗ hổng từng bị khai thác bởi mã độc mã hóa tống tiền WannaCry,
lây nhiễm hơn 300.000 máy tính trên thế giới trong vài giờ. Việc cập nhật bản vá
chưa kịp thời tạo điều kiện cho hacker lợi dụng lỗ hổng để tấn công hệ thống mạng,
từ đó lây nhiễm virus, cài cắm phần mềm gián điệp, thực hiện tấn công có chủ đích
APT.
Bkav khuyến cáo, bên cạnh giải pháp phòng chống mã độc tổng thế, các cơ
quan, doanh nghiệp cần trang bị giải pháp kiểm soát chính sách an ninh, đảm bảo các
máy tính trong hệ thống cập nhật đầy đủ bản vá lỗ hổng phần mềm để tránh nguy cơ bị
khai thác. Người dùng nên bật chế độ tự động update và thực hiện kiểm tra, cài đặt các
bản vá cho máy tính của mình.
Ngoài ra hội nhập kinh tế quốc tế là quy luật và xu thế tất yếu của mọi quốc gia
trong thế kỷ XXI và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Điều này thể hiện
rõ trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI “Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế và khu vực“ [42]. Sau quá trình đàm phán thành công Việt Nam đã trở thành
132
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO và tham gia vào một số Hiệp
định, Điều ước quốc tế về thương mại khác như Hiệp định thương mại tự do và Hiệp
định bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và liên minh châu Âu (EVFTA và IPA) ký vào ngày
30/6/2019, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) ký
ngày 8/3/2018...
CNTT đã trở thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, bền vững, doanh
thu cao, có giá trị xuất khẩu lớn. Việt Nam đủ khả năng phát triển, sản xuất các sản
phẩm, dịch vụ CNTT đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, tạo nền
tảng để phát triển kinh tế tri thức, góp phần làm chủ các hệ thống thông tin, bảo đảm
an toàn thông tin và chủ quyền số quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới còn
nhiều khó khăn và phục hồi chậm nhưng nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn tiếp tục đầu
tư, mở rộng sản xuất tại Việt Nam như: Samsung, LG, Panasonic, Canon, Intel... Các
doanh nghiệp phần mềm tiếp tục giữ vững thị trường xuất khẩu, dịch vụ CNTT phát
triển khá, đa dạng các loại hình dịch vụ. Tổng doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục
đạt mức cao, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, đóng góp ngày càng tăng vào tăng
trưởng GDP cũng như xuất khẩu của cả nước. Về ứng dụng CNTT, 100% cơ quan nhà
nước có Trang/Cổng thông tin điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến
các loại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Có 52% dân số số sử dụng dịch vụ
Internet Hệ thống đào tạo nhân lực CNTT tiếp tục được duy trì ổn định với khoảng
290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo nghề về CNTT-TT [22].
Về viễn thông cũng đã có sự phát triển nhanh chóng, theo kịp với sự phát
triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đến nay số lượng các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia thiết lập cơ sở hạ tầng viễn thông và
cung cấp các dịch vụ viễn thông ngày càng nhiều. Tính đến năm 2015, tổng số
doanh nghiệp đã được cấp giấy phép thiết lập hạ tầng mạng viễn thông công cộng
có 26 doanh nghiệp, tổng số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông là 72 doanh
nghiệp, có 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động với tổng số thuê
bao di động phát sinh lưu lượng là 120.607.206 thuê bao. Đối với thị trường
Internet, có 38 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet với tổng số thuê bao
Internet là 27.303.648 thuê bao [23]. Theo số liệu của Bộ thông tin và truyền thông
tính đến hết tháng 6/2019, tổng số máy điện thoại di động của Việt Nam là 134,5 triệu
thuê bao, bằng 112,3% so với cùng kỳ năm 2018, có 75 doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ viễn thông. Số người sử dụng Internet là 64 triệu người chiếm 2/3 dân số Việt
Nam hiện nay, tăng 28% so với năm 2017. Có 58 triệu người dùng mạng xã hội
trên thiết bị di động tính đến đầu năm 2019. Trong năm 2020 đã triển khai cung cấp
dịch vụ 5G tại Việt Nam [23].
133
Ngày 22/9/2010 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Đƣa Việt Nam sớm
trở thành nƣớc mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông“ đã xác định Công
nghệ thông tin và truyền thông là động lực quan trọng góp phần bảo đảm sự phát triển
và tăng trưởng bền vững của đất nước, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của
các cơ quan nhà nước, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp và người dân. Đề án cũng đặt ra mục tiêu cho sự phát triển của ngành CNTT và
truyền thông ở nước ta là Tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm đạt từ 2-3 lần tốc độ
tăng trưởng GDP trở lên. Đến năm 2020 tỷ trọng công nghệ thông tin và truyền thông
đóng góp vào GDP đạt từ 8-10%.
Đề án đã đưa ra 6 mục tiêu cần đạt được cho 2 giai đoạn là 2015 và 2020 như
sau: Về nguồn nhân lực CNTT phải đáp ứng được yêu cầu quốc tế phấn đấu đến năm
2020 có 70% dân số sử dụng Internet; Về công nghiệp CNTT Việt Nam phấn đấu là 1
trong 10 nước dẫn đầu về cung cấp dịch vụ gia công phần mềm và nội dung số; Về hạ
tầng viễn thông băng rộng, đến năm 2020 phủ sóng di động đến 95% dân số; Về phổ
cập thông tin, hầu hết các gia đình sử dụng các dịch vụ số, 50% hộ gia đình có máy
tính và truy cập Internet băng rộng; Về ứng dụng CNTT Việt Nam xây dựng và vận
hành Chính phủ điện tử ở mức độ khá, phấn đấu 100% các doanh nghiệp ở những
ngành, lĩnh vực then chốt, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có ứng dụng CNTT
trong quản lý, điều hành, sản xuất kinh doanh; Về xây dựng doanh nghiệp và phát triển
thị trường CNTT và truyền thông tiếp tục phát triển và mở rộng các doanh nghiệp hiện
có, nâng cao tỷ trọng doanh thu đóng góp vào ngân sách nhà nước (Điều 1 Đề án). Sau
gần 7 năm thực hiện, đến nay cơ bản các mục tiêu đề ra cho năm 2015 đều đạt được.
Kết quả này khẳng định chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông là đúng hướng, đúng xu thế và quy luật phát triển. Năm 2020
được xác định là năm “ Chuyển đổi số quốc gia“ đánh dấu sự thay đổi từ phương thức
hoạt động truyền thống của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sang doanh nghiệp số
bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật
(IoT), điện toán đám mây (Cloud)... Đây được coi là cơ sở thực tiễn để CNTT&VT
tiếp tục phát triển ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Trên thế giới cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, giữa
các quốc gia trên thế giới đã và đang bước vào giai đoạn „„thế giới phẳng„ không có
khoảng cách và với tính chất của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là xuyên quốc
gia thì nó lại càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Thời gian qua tội phạm mạng đã và
đang gây ra những thiệt hại to lớn về kinh tế cho các quốc gia, tổ chức Cảnh sát hình
sự quốc tế INTERPOL đã xếp tội phạm này về tính chất nguy hiểm chỉ đứng sau tội phạm ma túy và khủng bố. Chỉ riêng với tình hình an ninh mạng website theo thống kê
134
trong 3 quý đầu năm 2019, có 454,599 website bị hack trên toàn thế giới, riêng quý 3
là 137,512 website, tăng hơn so với cùng quý năm ngoái. Con số này thể hiện tình
hình an ninh mạng đang diễn ra ngày càng phức tạp và nguy hiểm. Các đối tượng
phạm tội có thể thu được lợi nhuận từ các vụ tấn công mạng lên tới 1.5000 tỷ USD.
Các hình thức tấn công mạng phổ biến là : Tấn công DoS và DDoS; tấn công phần
mềm độc hại như các mã độc, phần mềm gián điệp; tấn công trung gian; tấn công lừa
đảo nhằm chiếm đoạt tài sản; tấn công vào lỗ hổng ứng dụng web…
Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 cùng với sự gia tăng liên tục của các ca
nhiễm, Công ty an ninh mạng Kaspersky đã liên tục phát hiện nhiều công cụ tấn công
mới liên quan đến COVID-19 đang được sử dụng bởi tội phạm mạng. Chúng đã gửi
các e-mail tới khách hàng chứa các tệp pdf, mp4 và docx độc hại được ngụy trang
thành các tài liệu liên quan đến virus Corona chủng mới và cách phòng tránh. Tôi
phạm mạng đã mạo danh Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) của
Mỹ để gửi email với nội dung khuyến nghị về COVID-19. Khi người dùng nhấp vào
tên miền cdc-gov.org và được chuyển đến trang đăng nhập Outlook. Lúc này, người
dùng sẽ bị đánh cắp thông tin đăng nhập email. Gần đây nhất, Kaspersky cũng phát
hiện các email lừa đảo chào bán sản phẩm và phương thức tấn công này được sử dụng
phổ biến hơn trong các email spam tại Nigeria. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy các
email lừa đảo với nhiều liên kết lừa đảo cũng như tệp đính kèm chứa mã độc.Một
trong những chiến dịch spam mới nhất giả mạo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho
thấy tin tặc đã lợi dụng uy tín của WHO trong việc thường xuyên cập nhật thông tin về
COVID-19 để tấn công mạng.Người dùng khi nhấp vào liên kết nhúng trong email
được gửi từ “WHO” sẽ được chuyển hướng đến một trang web lừa đảo yêu cầu nhập
thông tin cá nhân. Sau đó, những thông tin này sẽ đến tay tội phạm mạng.
Phương thức lừa đảo này đã được các chuyên gia của Kaspersky cảnh báo gần
đây, như lời mời cho vay tiền từ WB (Ngân hàng Thế giới) hoặc IMF (Quỹ tiền tệ
Quốc tế). Kaspersky cũng đã tìm thấy các tệp độc hại được ngụy trang thành những tài
liệu liên quan đến virus. Các tệp độc hại được ẩn dưới vỏ bọc của tệp pdf, mp4 và
docx về virus Corona. Tên của tệp thể hiện rằng chúng chứa các hướng dẫn bằng video
về cách bảo vệ người dùng khỏi virus, cập nhật về các mối nguy hại và quy trình phát
hiện virus. Tuy nhiên trên thực tế, các tệp này chứa một loạt các mối đe dọa mạng, từ
Trojan đến Worm, có khả năng phá hủy, chặn, sửa đổi hoặc sao chép dữ liệu, cũng như
can thiệp vào hoạt động của máy tính hoặc mạng máy tính. Một số tệp chứa mã độc
được phát tán qua email. Ví dụ, tệp có định dạng excel gồm danh sách các nạn nhân
nhiễm COVID-19 được đính kèm trong email gửi từ “WHO” nhưng trên thực tế là một
trình tải xuống Trojan có khả năng tải xuống và cài đặt tệp chứa mã độc lên máy người
135
dùng. Tệp thứ hai này là một Trojan-Spy được thiết kế để thu thập nhiều dữ liệu khác
nhau, bao gồm cả mật khẩu, từ thiết bị của nạn nhân và gửi cho tin tặc. Kaspersky đã
phát hiện 93 phần mềm độc hại liên quan đến COVID-19 ở Bangladesh, 53 ở
Philippines, 40 ở Trung Quốc, 23 ở Việt Nam, 22 ở Ấn Độ và 20 ở Malaysia. Tại
Singapore, Nhật Bản, Indonesia, Hồng Kông, Myanmar và Thái Lan, số phần mềm
độc hại ở mức dưới 10.
Như vậy cùng với các yếu tố tác động là sự phát triển của CNTT&MVT trong
nước thì tình hình gia tăng các hành vi tấn công mạng với phương thức ngày càng tinh
vi của các đối tượng phạm tội trên thế giới đã phần nhiều ảnh hưởng đến tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam. Thực tế cho thấy nhiều hành vi tấn
công mạng trên thế giới đã và đang diễn ra tại Việt Nam, gây ra những thiệt hại to lớn
về kinh tế mà như hành vi tấn công chiếm quyền điều khiển thiết bị, phát tán mã độc,
lừa đảo qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản... Để công tác phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả việc dự báo các yếu tố tác động đến tình hình tội
phạm trong lĩnh vực này là rất quan trọng, nó là cơ sở cần thiết cho việc đề xuất các
biện pháp phòng ngừa.
4.2 Các giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
4.2.1 Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung phòng
ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được các chủ thể
tiến hành với mục đích ngăn ngừa không để cho tội phạm xảy ra. Hoạt động này có rất
nhiều ý nghĩa về mặt kinh tế, pháp lý và thực tiễn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều chủ thể
khi tiến hành phòng ngừa chưa nhận thức được sâu sắc mục đích, ý nghĩa của hoạt động
này. Nhiều nơi, nhiều chỗ còn không làm hoặc làm chưa hết trách nhiệm của mình, thực
hiện các hoạt động mang tính hình thức đối phó, hoặc để tội phạm xảy ra gây thiệt hại
lớn về kinh tế rồi mới có khuyến cáo cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhiều cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp ngại đầu tư hoặc không đầu tư chi phí cho hệ thống bảo
mật thông tin tạo ra những kẽ hở, lỗ hổng bảo mật tạo điều kiện để tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT lợi dung thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Do vậy cần nâng cao nhận thức hơn nữa về mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Phải xác định đây không chỉ là trách
nhiệm của các chủ thể chuyên trách phòng ngừa mà là trách nhiệm của toàn xã hội tiến
tới ngăn chặn, hạn chế và dần loại bỏ tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ra khỏi
đời sống xã hội. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân cần nhận thức sâu sắc trách nhiệm của
bản thân, trách nhiệm đối với xã hội từ đó nâng cao ý thức phòng ngừa, ngăn chặn
136
không để cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT xảy ra vì thiệt hại cho mỗi cá
nhân, mỗi cơ quan tổ chức cũng là gây thiệt hại chung cho cả xã hội. Với các cơ quan
bảo vệ pháp luật như Công an, Tòa án, Viện kiểm sát cần quán triệt sâu sắc vai trò của
phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói
riêng. Có thể thông qua các buổi hội thảo, tọa đàm, tổng kết trao đổi kinh nghiệm giữa
các lực lượng qua đó nhằm nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Với các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức và công dân có
thể tổ chức các lớp tập huấn, các cuộc thi, các lớp bồi dưỡng kiến thức về phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT qua đó phân tích rõ những hậu quả, tác hại mà tội
phạm này gây ra cũng như cảnh báo những phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT để các cá nhân, tổ chức có ý thức chủ động phòng
ngừa. Đẩy mạnh thực hiện phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc, nhằm
nâng cao nhận thức và động viên quần chúng nhân dân tích cực, chủ động tham gia cung
cấp các nguồn tin báo tố giác tội phạm nói chung và các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng. Thường xuyên thông báo những lỗ hổng, sơ hở, thiếu sót của các
doanh nghiệp, tổ chức bị tội phạm lợi dụng để có biện pháp khắc phục kịp thời.
4.2.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Để phát triển CNTT&VT, trong thời gian qua Nhà nước đã ban hành các văn
bản pháp luật như: Luật công nghệ thông tin, Luật viễn thông, Luật giao dịch điện tử,
Luật an toàn thông tin mạng, Luật an ninh mạng ,... Việc ban hành các văn bản pháp
luật này đã góp phần khắc phục cơ bản những nhược điểm trong quản lý nhà nước về
CNTT&MVT. Tuy nhiên hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vẫn còn nhiều bất cập và cần phải sửa đổi,
bổ sung để phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật liên quan đến đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một
trong những kiến nghị quan trọng và cấp bách.
+ Hoàn thiện các quy định của luật chuyên ngành về CNTT&VT
Năm 2006 đánh dấu sự ra đời của Luật công nghệ thông tin và năm 2009 là
Luật viễn thông đã đặt nền tảng đầu tiên về mặt pháp lý cho sự hình thành và phát
triển CNTT&VT tại Việt Nam.
Để đưa Luật công nghệ thông tin và Luật viễn thông vào thực thi, các cơ
quan chức năng đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn như Nghị định số
71/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng 05 năm 2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật CNTT; Nghị định số 63/2007/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 10 tháng 04 năm 2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính
137
trong lĩnh vực CNTT; Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet ngày 28/8/2008; Nghị định số
25/2011/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật viễn thông; Nghi định số 28/2009/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 20 tháng 03 năm 2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet;
Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 10/9/2012 hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một
số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT; Nghị định 25/2014/NĐ-CP quy định về
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao... Các
văn bản hướng dẫn trên đã làm rõ một số nội dung các quy định trong Luật CNTT
và Luật VT như giải thích thuật ngữ được sử dụng trong luật, chỉ rõ trách nhiệm
quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&VT cũng như đưa ra các biện pháp xử lý,
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Trong tình hình hiện nay để
đáp ứng với yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT và đặc biệt để các văn bản pháp luật này có sự tương thích, thống
nhất với các văn bản pháp luật khác mới được sửa đổi, bổ sung như BLHS năm
2015 hoặc được ban hành mới như Luật an toàn thông tin mạng 2015 thì cần phải
có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Năm 2015 Luật an toàn thông tin mạng được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ
họp thứ 10 thông qua và có hiệu lực thi hành từ năm 2016. Đây là văn bản pháp luật
đầu tiên, tập trung giải quyết vào các nhóm vấn đề chính hiện vẫn đang thiếu các quy
định pháp lý là tấn công mạng, phát tán thư rác, mã độc, lưu hành phần cứng, phần
mềm, rao bán thông tin cá nhân trên mạng bất hợp pháp, bảo vệ lợi ích quốc gia trên
mạng,... Luật an toàn thông tin mạng sẽ là cơ sở pháp lý cho việc triển khai công tác
đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và đấu tranh phòng chống tội phạm mạng trong
thời gian tới.
Luật An ninh mạng đã được ban hành năm 2017 trong đó khái niệm về“tội
phạm mạng” được quy định tại khoản 3, Điều 3. Theo đó tội phạm mạng là hành vi sử
dụng không gian mạng, CNTT hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được
quy định tại Bộ luật hình sự 2015. Đây là một văn bản luật quan trọng có liên quan
trực tiếp đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Nhưng cho đến nay Luật an toàn thông tin mạng và Luật An ninh mạng vẫn
chưa được các cơ quan chức năng ban hành văn bản hướng dẫn. Do vậy cần khẩn
trương tiếp thu ý kiến tham gia của các cơ quan, doanh nghiệp để hoàn thiện dự thảo
các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản luật này.
138
Cần thiết phải bổ sung các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng thẻ cào
viễn thông trong Luật viễn thông hoặc Luật an ninh mạng. Trong vụ án “Sử dụng
mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, đánh bạc, mua
bán trái phép hóa đơn và rửa tiền xảy ra tại Phú Thọ và một số tỉnh, thành phố”, cơ
quan cảnh sát điều tra cho biết, hiện nay đang tồn tại một lỗ hổng lớn trong công tác
quản lý thanh toán bằng thẻ cào viễn thông. Việc quản lý thẻ cào viễn thông được quy
định tại Nghị định 25 hướng dẫn Luật Viễn thông. Tuy nhiên, Nghị định này chỉ quy
định thẻ cào viễn thông là một loại hàng hóa chuyên dụng mà không quy định thẻ cào
viễn thông được phép dùng vào mục đích gì. Cũng chưa có quy định về trách nhiệm
của nhà mạng trong việc cung cấp thẻ cào viễn thông làm trung gian thanh toán; Ngân
hàng nhà nước cũng không thừa nhận thẻ cào viễn thông là trung gian thanh toán.
Trong khi đó, ngoài việc dùng để nạp tiền điện thoại, thẻ cào viễn thông đang được sử
dụng là một kênh thanh toán trung gian cho nhiều hoạt động khác như thanh toán qua
ví điện tử, nạp thẻ game, trong đó chủ yếu là dùng để nạp thẻ game.
Thông tư 24 về Quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng
quy định, doanh nghiệp viễn thông phải chủ động từ chối, tạm ngừng hoặc ngừng kết
nối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử chưa được cấp quyết định
phê duyệt nội dung, kịch bản hoặc chưa thông báo cung cấp dịch vụ (các game online
đánh bài không được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép). Tuy nhiên, nhà mạng
có thể dùng lý lẽ họ không biết thẻ cào của mình dùng cho thanh toán game vì họ
không ký hợp đồng trực tiếp với công ty game mà qua một đơn vị trung gian. Vì thế,
nếu không chứng minh được việc nhà mạng biết thẻ cào được sử dụng cho thanh toán
game không phép thì không xử lý được. Theo đánh giá của các chuyên gia, cơ quan
quản lý nhà nước hoàn toàn có thể kiểm tra các hợp đồng cung cấp dịch vụ của nhà
mạng, để xác định các đơn vị hợp tác về dịch vụ hỗ trợ thanh toán game hoặc cung cấp
trò chơi điện tử (game) đã được Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cấp phép hay
không (vì các game online đánh bài trong đường dây đánh bạc nghìn tỷ không được
cấp phép). Từ đó, có thể xác định rõ vai trò, trách nhiệm, quy mô từng nhà mạng cung
cấp thẻ cào thanh toán cho đường dây đánh bạc online này. Lãnh đạo một đơn vị có
chức năng của Bộ Thông tin truyền thông cũng thừa nhận, việc thanh toán bằng thẻ
cào viễn thông tồn tại một lỗ hổng lớn về hành lang pháp lý. Việc sử dụng thẻ cào viễn
thông làm kênh thanh toán trung gian trong một số hoạt động là nhu cầu tự phát của thị
trường những năm gần đây. Khung pháp lý hiện chưa theo kịp thực tế này.
139
+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT
Hiện nay để đấu tranh, xử lý cũng như phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT các cơ quan thực thi pháp luật đang dựa chủ yếu vào các quy định của
BLHS năm 2009, trong đó đã quy định các nhóm tội phạm sử dụng công nghệ cao bao
gồm: Tội phán tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số (Điều 224); Tội cản trở
hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết
bị số (Điều 225); Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng Internet (Điều 226); Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số của người khác (Điều 226a); Tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản (Điều 226b). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng dùng để đấu tranh, xử
lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng tới năm 2012 mới có văn bản
hướng dẫn thi hành. Vì vậy chuyện hiểu điều luật chưa thống nhất và bỏ lọt tội phạm
là điều rất dễ xảy ra [98].
Hiện Thông tư số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 10/9/2012 đã có những hướng dẫn chi tiết áp dụng quy định của Bộ luật hình sự
về một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, làm căn cứ giúp các cơ quan chức
năng xác định rõ hành vi vi phạm, mức độ thiệt hại và biện pháp xử lý. Nhưng đây là
văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của BLHS năm 2009, do vậy với BLHS năm
2015 không còn phù hợp vì trong BLHS năm 2015 và Luật sửa đổi một số điều của
Bộ luật hình sự năm 2015 nhóm các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được quy
định bổ sung với nhiều tội danh cụ thể bao gồm: Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc
tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều
285); Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286); Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287); Tội đưa
hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288); Tội
xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của
người khác (Điều 289); Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290); Tội thu thập, tàng trữ, trao
đổi, mua bán,công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291);Tội
sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293); Tội cố ý gây nhiễu có hại
(Điều 294). Việc quy định bổ sung và cụ thể hóa 5 tội danh mới về Tội phạm trong
140
lĩnh vực CNTT&MVT trong BLHS năm 2015 xuất phát từ thực tiễn công tác đấu
tranh, chống và phòng ngừa các tội phạm thời gian qua. Những tội danh mới bổ sung
này được quy định một cách rõ ràng, cụ thể về dấu hiệu hành vi, hậu quả thiệt hại tính
toán được cũng như chế tài xử lý tương xứng với tính chất và hậu quả gây thiệt hại của
người phạm tội.
Hệ thống văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh, xử lý và
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của Việt Nam không phải là ít, tuy
nhiên vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định trong các văn bản pháp
luật. Điều này dẫn đến sự hiểu nhầm, không thống nhất trước hết về tội danh như trong
Bộ luật hình sự năm 2015 sử dụng cụm từ “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, mạng viễn thông”, các văn bản pháp luật khác lại sử dụng cụm từ “Tội phạm sử
dụng công nghệ cao”, ngay cả lực lượng đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này
cũng là “ Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao” (nay là Cục An
ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao) hay “Phòng Cảnh sát
phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao”cần thống nhất sử dụng cụm từ “Tội
phạm sử dụng công nghệ cao” để có cách hiểu thống nhất giữa các văn bản pháp luật.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã nhóm các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vào một
mục trong chương XXI, do vậy khi BLHS năm 2015 đã có hiệu lực thì cần thiết phải
có văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 10/2012; Nghị định
25/2014 cho phù hợp không chỉ với quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT mà còn thống nhất với các quy định của Luật an toàn thông tin mạng
2015. Điều này dẫn đến thực trạng trong thực tế đã xảy ra nhiều tội phạm sử dụng
CNTT&MVT để phạm tội nhưng chưa được định tội danh cụ thể, từ đó không hoặc
khó có căn cứ để xử lý. Điều này cũng góp phần hạn chế hiệu quả của công tác đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm.
Ngoài ra, cần nâng mức hình phạt đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT cho phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta trong xử lý đối với
các hành vi phạm tội nguy hiểm. Bởi người phạm tội đã lợi dụng những thành tựu
khoa học – công nghệ hiện đại nhất, mới nhất để xâm hại đến khách thể được pháp
luật hình sự bảo vệ. Hơn nữa CNTT&MVT ngày nay là một yếu tố không thể thiếu
trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Lợi ích do
CNTT&VT mang lại cho con người vô cùng to lớn, nhưng nếu nó bị tội phạm lợi dụng
thì tác hại nhân lên gấp nhiều lần so với thủ đoạn thông thường. Mặt khác, tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người
khác mà nó còn xâm phạm đến an ninh thông tin quốc gia, an toàn công cộng, trật tự
công cộng; gây hậu quả tác hại rất nhanh chóng, trên phạm vi rộng lớn khó lường.
141
Việc chứng minh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng khó khăn, phức tạp hơn
nhiều so với các hành vi phạm tội thông thường khác. Theo đó, Điều 290 BLHS năm
2015 quy định về “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” với mức hình phạt thuộc khung cơ bản thấp hơn
so với các tội có sử dụng bạo lực xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác
và cao hơn so với các hành vi tương ứng khác như trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Chương XVI Bộ luật hình sự đã thể hiện rõ tinh
thần đó. Tuy nhiên, ở các khung tăng nặng thì mức hình phạt của Điều 290 lại chỉ
ngang bằng như các tội xâm phạm sở hữu tương ứng ở Chương XVI Bộ luật hình sự là
chưa hợp lý, cần được sửa đổi theo hướng nâng mức hình phạt ở các khung này cho
đồng bộ với quy định ở khung cơ bản, phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta
trong xử lý đối với các tội phạm nguy hiểm (phù hợp với nội dung Chương trình quốc
gia PCTP ngày 14/2/2017 của Chính phủ, trong đó có “Đấu tranh PCTP sử dụng
công nghệ cao”). Điều này chưa đảm bảo tính răn đe đối với các tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT nói chung, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Ngoài ra, cần bổ sung tình tiết “sử dụng công nghệ cao để phạm tội” là một
trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó các tội phạm truyền
thống có sử dụng công nghệ cao phải bị xử lý theo khung tăng nặng với tình tiết này
(khoản 1, Điều 52 BLHS năm 2015).
Cần nghiên cứu pháp luật hình sự của các nước có nền CNTT&VT phát triển và
các quốc gia có tình hình tội phạm trong lĩnh vực này phức tạp để hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Hiện so sánh quy
định của pháp luật hình sự nước ta với một số nước vẫn còn một số hành vi chưa được
xác định một cách rõ ràng là tội phạm như hành vi thu thập thông tin riêng không qua
các phần mềm hoặc thâm nhập trái phép, hay các hành vi sử dụng mạng thông tin để bôi
nhọ, phỉ báng, đe dọa người khác... Cùng với việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự
cần ban hành hệ thống văn bản đồng bộ để giải thích, hướng dẫn thực hiện các tình tiết
được quy định trong Bộ luật hình sự như xác định các mức độ hậu quả của tội phạm...
+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khóa XI thông qua năm 2005 đã thừa
nhận giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử theo xu hướng chung đã được thừa nhận
rộng rãi trên thế giới. Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, văn bản điện tử cũng
có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 35 Nghị định số
64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 7/4/2014
142
quy định về phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ
cao đã cho phép lực lượng chuyên trách khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật
được tiến hành các biện pháp “... sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để kiểm tra,
giám sát, phát hiện, thu thập, phục hồi và phân tích thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử
phục vụ phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật khác có sử dụng
công nghệ cao...”(Điều 14 Nghị định). Trong khi đó Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
chưa có quy định về nguồn chứng cứ này, mà đây lại là một nguồn phổ biến mang
thông tin của tội phạm trong các vụ án sử dụng CTT&MVT để phạm tội.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa “chứng cứ điện tử” vào trong các quy
định của Bộ luật và xác định giá trị của chứng cứ điện tử được thu thập từ mạng máy
tính, mạng viễn thông bằng với giá trị của chứng cứ được thu thập từ các nguồn khác
(Điều 87). Tuy nhiên hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự cùng với Bộ luật hình sự năm
2015 đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện. Điều này
sẽ gây khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật trong việc thu thập, bảo quản, sử
dụng chứng cứ từ nguồn điện tử như là một căn cứ để chứng minh tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT. Do vậy yêu cầu về việc sớm ban hành văn bản hướng dẫn Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 là hết sức cần thiết và cấp bách đảm bảo hiệu quả của công
tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Tòa án nhân dân tối cao hàng năm cần có văn bản Tổng kết thực tiễn xét xử các
vụ án trong lĩnh vực CNTT&MVT làm cơ sở hướng dẫn các Tòa án các cấp trong việc
xét xử tội phạm trong lĩnh vực này.
Ngoài ra để bảo đảm giá trị pháp lý thì cũng cần có những quy định cụ thể về
thủ tục tố tụng hình sự đối với việc thu thập, bảo quản, phục hồi và giám định chứng
cứ điện tử cũng như quy định tính pháp lý của những giải pháp kỹ thuật thu thập, phục
hồi, giám định dấu vết điện tử để có thể sử dụng chứng cứ điện tử làm bằng chứng
chứng minh tội phạm. Theo đó, có thể cho phép cơ quan điều tra được sử dụng các kỹ
thuật đặc biệt để thu thập chứng cứ (sử dụng kỹ thuật để phục hồi lại các dữ liệu đã bị
xóa...); mở rộng quyền hạn hoạt động thu thập chứng cứ (quyền yêu cầu các nhà cung
cấp dịch vụ mạng cung cấp thông tin, quyền truy cập máy tính lấy dữ liệu,...). Tại Viện
khoa học hình sự Bộ Công an cần sớm thành lập một Phòng giám định điện tử tiến tới
thành lập Đội giám định điện tử thuộc Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, thành phố.
Cũng có thể tham khảo Luật mẫu về chứng cứ điện tử của các nước thuộc khối thịnh
vượng chung (như Anh, Australia, New Zealand...) để xây dựng một đạo luật riêng về
chứng cứ điện tử của Việt Nam (được sử dụng trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân
sự, hành chính, kinh tế...). Đồng thời phải luôn cập nhập, đón đầu xu hướng công
nghệ, tìm hiểu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm, chính sách của các quốc gia để đề
143
xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trước hết cần tổng kết thực tiễn, đánh
giá những công nghệ mới đang và sẽ tác động đến an ninh, trật tự để đề xuất ban hành
chính sách, pháp luật nhằm quản lý kịp thời như tiền “ảo”, tài sản “ảo”, kinh doanh đa
cấp qua mạng Internet...
Như vậy, có thể thấy để phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần
thiết phải hoàn thiện nhiều quy định pháp luật có liên quan. Với vai trò của mình, các
lực lượng tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần
thông qua các hoạt động của mình, kịp thời phát hiện những bất cập, vướng mắc trong
thực thi pháp luật để đề xuất với các cơ quan chức năng kịp thời hoàn thiện, sửa đổi,
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phòng ngừa tội phạm này.
4.2.3 Nâng cao năng lực cho lực lượng phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Các đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT đều có chung đặc điểm là
có những trình độ và sự hiểu biết nhất định về CNTT&MVT, thủ đoạn hoạt động của
các đối tượng luôn gắn liền với những kiến thức chuyên môn về mạng internet, mạng
máy tính, thiết bị viễn thông... Chính vì vậy, để phòng ngừa có hiệu quả với các tội
phạm nay đòi hỏi lực lượng phòng ngừa không chỉ giỏi về pháp luật, nghiệp vụ mà còn
phải có những hiểu biết, chuyên môn sâu về lĩnh vực CNTT&MVT, đặc biệt là lực
lượng chuyên trách làm công tác phòng ngừa, đấu tranh trực tiếp với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT.
Qua khảo sát tại các đơn vị thuộc Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng
công nghệ cao C50 (nay là Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng
CNC- A05), Bộ Công an cho thấy số cán bộ có trình độ về CNTT&MVT chưa nhiều,
chủ yếu được đào tạo từ các trường Công an (đặc biệt ở các địa phương). Vì vậy đang
tồn tại tình trạng số cán bộ được tuyển từ ngành ngoài vào lại chưa được đào tạo cơ
bản về nghiệp vụ Cảnh sát, trong khi số cán bộ tốt nghiệp từ các trường trong ngành
Công an thì thiếu và yếu về kiến thức công nghệ thông tin cũng như kiến thức về mạng
viễn thông.
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống các tội phạm sử
dụng CNTT&MVT trong thời gian tới cần khẩn trương hoàn thiện tổ chức cũng như
xây dựng được đội ngũ cán bộ đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể cần tập
trung vào một số vấn đề như sau:
- Thứ nhất, về tổ chức bộ máy cần nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện bộ
máy chuyên trách đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho
phù hợp với yêu cầu thực tiễn từng giai đoạn như thống nhất một đầu mối đấu tranh
chống loại tội phạm này ở Bộ Công an và các tỉnh, thành phố phức tạp về tội phạm
144
trong lĩnh vực CNTT&MVT [12]; Năm 2014, Cục An ninh mạng A68 trực thuộc Bộ
công an đã được thành lập với chức năng “ Cục An ninh mạng có trách nhiệm giúp Bộ
trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh quốc gia trên lĩnh vực viễn
thông Internet; đảm bảo an ninh hệ thống mạng thông tin quốc gia; tổ chức các biện
pháp kỹ thuật chuyên biệt thu thập thông tin trên không gian mạng; đấu tranh với hoạt
động của đối phương và phương thức, thủ đoạn xâm phạm an ninh quốc gia của đối
tượng trên không gian mạng..” Như vậy chức năng bảo đảm an ninh thông tin của A68
được xác định thuộc phạm vi lĩnh vực an ninh quốc gia. Do đó, việc bổ sung cơ quan
chuyên trách đảm bảo an ninh thông tin trên lĩnh vực trật tự an toàn xã hội là rất
quan trọng và C50 đã được sáp nhập với cơ quan này (nay gọi chung là Cục An ninh
mạng và phòng chống tội phạm sử dụng CNC- A05 ra đời năm 2018) trực thuộc Bộ
Công an.
- Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ chiến sỹ chuyên trách hoạt động phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đảm bảo cả về số lượng
và chất lượng, nắm vững pháp luật và nghiệp vụ của ngành, có chuyên môn sâu về
CNTT&MVT, sử dụng thành thạo ngoại ngữ (trong đó tiếng Anh là bắt buộc) [15];
Hiện nay đội ngũ cán bộ chuyên trách trực tiếp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực này đã được kiện toàn tại Cục A05 và các PA05 của các tỉnh, thành phố lớn;
tuy nhiên tại các địa phương vẫn còn chưa được kiện toàn nhiều nơi vẫn còn tổ chức
chung với các lực lượng đấu tranh loại tội phạm khác.
Cần xác định nguồn tuyển chọn đội ngũ cán bộ chất lượng cao về CNTT&MVT
cho lực lượng chuyên trách phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT bằng nhiều hình thức đa dạng như: điều động trong nội bộ ngành Công
an những cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT, có đam mê và khả năng nắm bắt nhanh các kiến thức về
CNTT&MVT, ngoại ngữ. Khuyến khích và ưu tiên những sinh viên tốt nghiệp chuyên
ngành PCTP sử dụng công nghệ cao thuộc Học viện cảnh sát nhân dân và các trường
Công an về công tác tại các đơn vị chuyên trách. Bên cạnh đó cần có các chính sách
hợp lý để tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành CNTT&VT có phẩm chất,
năng lực vào công tác lâu dài trong lực lượng Cảnh sát nhân dân. Đây là những giải
pháp nhằm xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng ngừa.
- Thứ ba, xây dựng kế hoạch thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên
trách phòng ngừa, đấu tranh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT về nghiệp vụ, pháp
luật, công nghệ thông tin, viễn thông, ngoại ngữ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
cán bộ chiến sỹ công an, Thẩm phán, Kiểm sát viên. Trong đó cần kết hợp đào tạo, bồi
145
dưỡng cho các cán bộ tốt nghiệp các trường Công an nhân dân, Học viện Tòa án, Đại
học Kiểm sát những kiến thức cơ bản, cần thiết về CNTT&MVT, ngoại ngữ. Còn
những cán bộ được tuyển dụng từ ngành ngoài cần nhanh chóng được đào tạo bồi
dưỡng về pháp luật, nghiệp vụ. Được thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, các
khóa đào tạo nhằm nâng cao nghiệp vụ, cập nhật các kiến thức mới nhất về
CNTT&MVT, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho lực lượng chuyên trách đảm bảo đáp
ứng được yêu cầu hợp tác, trao đổi thông tin với các lực lượng chuyên trách phòng
ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong khu vực và trên thế
giới. Trong đó chú trọng hợp tác với Cảnh sát các nước tiên tiến tổ chức thường xuyên
các khóa đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm về phòng ngừa, đấu
tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;
- Thứ tư, triển khai thành lập hệ lực lượng An ninh mạng và PCTP sử dụng
công nghệ cao tại tất cả Công an các địa phương trên toàn quốc. Hiện nay lực lượng
này chỉ được tổ chức tại các thành phố, vùng kinh tế lớn. Trọng tâm là đảm bảo xây
dựng tổ chức, bộ máy cho phù hợp với yêu cầu và bổ sung biên chế, nâng cao chất
lượng cán bộ [12];
- Thứ năm, tổng kết đề án “Phòng, chống các loại tội phạm sử dụng công nghệ
cao”; Nghiên cứu đề xuất xây dựng Chiến lược và Đề án về “Phòng, chống các loại tội
phạm sử dụng công nghệ cao trong giai đoạn 2015 – 2025, tầm nhìn 2030 thuộc
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, trong đó ưu tiên các nguồn vốn phục
vụ mua sắm trang thiết bị hiện đại, đáp ứng tốt yêu cầu công tác. Tăng cường đầu tư
trang thiết bị, phương tiện cho lực lượng phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao đảm bảo nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, điều tra, xử lý vi phạm và tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT [12].
Ngoài lực lượng chuyên trách hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì còn có các lực lượng khác cùng phối hợp
như các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực CNTT&MVT như Bộ thông tin và
truyền thông (đặc biệt là Cục công nghệ thông tin, Cục viễn thông, Cục An toàn
thông tin), Hiệp hội công nghệ thông tin; Hiệp hội an toàn thông tin; các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công nghệ thông tin và viễn thông như
Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam VINCERT, Trung tâm
giám sát an toàn không gian mạng quốc gia NCSC, Tập đoàn công nghệ BKAV,
các nhà mạng cung cấp dịch vụ viễn thông và Intenet như Tập đoàn bưu chính viễn
thông Việt Nam VNPT, Tập đoàn FPT, Tập đoàn công nghiệp - viễn thông quân
đội Viettel... cũng cần phải được kiện toàn về tổ chức bộ máy, tái cơ cấu, sắp xếp
lại nhân sự, xác định rõ nhiệm vụ và quyền hạn, nâng cao nhận thức về vị trí, vai
146
trò, tầm quan trọng của hoạt động phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT. Các cơ quan thông tin đại chúng cần kịp thời đưa ra những cảnh
báo về thủ đoạn, phương thức phạm tội của các đối tượng tới quần chúng nhân dân
để nâng cao tinh thần cảnh giác, kịp thời nhận diện và phát hiện các hành vi phạm tội
trong lĩnh vực này [24]
Đối với Viện kiểm sát và Tòa án cũng cần hình thành đội ngũ Kiểm sát viên,
Thẩm phán chuyên trách kiểm sát, xét xử các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Trước mắt cần tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ CNTT&MVT cho
một bộ phận Kiểm sát viên, Thẩm phán. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan điều
tra với Viện kiểm sát trong quá trình điều tra các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT vừa để tích lũy kinh nghiệm, vừa nâng cao nhận thức của đội ngũ cán
bộ thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.
4.2.4 Đẩy mạnh công tác tham mưu và phòng ngừa nghiệp vụ trong phòng
ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Với chức năng và nhiệm vụ được giao, từ thực tiễn công tác lực lượng Công an
nhân dân đặc biệt là Cục an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao cần làm tốt công tác tham mưu cho Bộ công an, cho Chính phủ và các Bộ ngành
liên quan trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT [15],cụ thể:
- Chủ động tham mưu cho các Bộ, ngành, doanh nghiệp tăng cường quản lý nhà
nước về CNTT&MVT, tổ chức có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao;
Thực tế qua công tác đấu tranh, PCTP trong lĩnh vực CNTT&MVT những năm
qua cho thấy công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT của các Bộ, ngành, doanh
nghiệp còn nhiều bất cập, sơ hở tạo điều kiện cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Chính vì vậy thông qua hoạt động phòng ngừa
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao
phải phát hiện kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong cơ chế, chính sách về quản lý
CNTT&MVT để tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an báo cáo Chính phủ chỉ đạo các
Bộ, ngành, doanh nghiệp có giải pháp khắc phục không để tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT có cơ hội và điều kiện phát sinh, phát triển. Trong đó cần quy định cụ thể
hóa trách nhiệm người đứng đầu của các Bộ, ngành, cơ quan chủ quản và doanh nghiệp
khi để xảy ra tội phạm.
- Tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện pháp luật có liên quan
đến công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như: hoàn
thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực CNTT&MVT. Hiện nay Luật an toàn thông
tin mạng, Luật an ninh mạng đã có hiệu lực thi hành tuy nhiên chưa có văn bản hướng
147
dẫn do vậy trong thời gian tới các cơ quan chức năng cần phối hợp ban hành để đảm bảo
an toàn, an ninh thông tin. Cũng cần tham mưu để hoàn thiện các quy định pháp luật về
bảo vệ bí mật thông tin riêng làm cơ sở để xử lý những hành vi thu thập, phát tán, tiết lộ
thông tin riêng thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin.Phối hợp cùng với Bộ thông
tin truyền thông sớm ban hành Đề án bảo vệ thông tin cá nhân.
- Chủ động tham mưu cho Chính phủ xây dựng và ký kết các Hiệp định, nghị định
tương trợ tư pháp hình sự với các quốc gia mà tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT diễn
ra phức tạp, đặc biệt là các đối tượng ở các quốc gia đó có quan hệ với các đối tượng ở
Việt Nam. Trong đó cần cụ thể hóa các nội dung, nhất là việc phối hợp xác minh, trao đổi
thông tin, truy bắt tội phạm bỏ trốn, thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội trong
lĩnh vực CNTT&MVT đối với các đối tượng có quốc tịch của các quốc gia chưa gia nhập
tổ chức Interpol hoặc chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước ta.
Hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ (phòng ngừa riêng) của lực lượng PCTP sử
dụng công nghệ cao là việc các đơn vị sử dụng các hoạt động nghiệp vụ trong phạm vi
quyền hạn của mình, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội trong
lĩnh vực CNTT&MVT nhằm hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra cho xã hội, chủ động
nắm bắt các ý đồ, sự chuẩn bị thực hiện tội phạm và tổ chức ngăn chặn trước khi hoạt
động phạm tội diễn ra.
Trong hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ các đơn vị thuộc lực lượng PCTP sử
dụng công nghệ cao cần tiến hành công tác điều tra cơ bản, sưu tra, xây dựng cộng tác
viên bí mật trên các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm.
Đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ trong phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&VT là một yêu cầu cấp bách, cần tập trung vào các công
tác như sau:
- Công tác điều tra cơ bản
Công tác điều tra cơ bản là hoạt động điều tra nghiên cứu, tức là thu thập thông
tin, nghiên cứu nắm tình hình một cách rộng rãi. Để chủ động đấu tranh, phòng ngừa
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể cần phải nắm được tình hình địa
bàn, lĩnh vực, hệ loại có liên quan đến hoạt động của loại tội phạm này, từ đó sàng lọc,
xác định được các đối tượng, là cơ sở triển khai các công tác nghiệp vụ đúng trọng
tâm, trọng điểm góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa các loại tội phạm nói chung
và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT nói riêng.
+ Về đối tượng điều tra cơ bản: theo sự phân công của Bộ Công an, lực lượng
PCTP sử dụng công nghệ cao “... điều tra cơ bản các vấn đề liên quan đến công tác
phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp;
148
lĩnh vực; hệ loại đối tượng” [8]. Như vậy, có thể xác định cần tiến hành điều tra cơ bản
đối với:
Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến lĩnh vực
CNTT&MVT, như các cơ quan quản lý nhà nước về công nghệ thông tin , truyền
thông; những cơ quan nhà nước đã triển khai dịch vụ chính phủ điện tử; các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; các tổ chức, cơ sở nghiên cứu đào tạo,
phát triển CNTT&MVT; các hiệp hội hoạt động có liên quan đến công nghệ thông tin
và mạng viễn thông;
Các lĩnh vực có ứng dụng CNTT ở mức độ cao, dễ bị các đối tượng phạm tội lợi
dụng hoạt động như: lĩnh vực thẻ ngân hàng và thanh toán điện tử; lĩnh vực cung cấp dịch
vụ nội dung; lĩnh vực cơ sở hạ tầng mạng thông tin; lĩnh vực an toàn, an ninh mạng...
Phân loại các đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT gồm: đối tượng
xâm phạm an toàn, an ninh thông tin; đối tượng sử dụng CNTT&MVT để chiếm đoạt tài
sản; đối tượng sử dụng CNTT&VT để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Công tác điều tra cơ bản mặc dù không trực tiếp tác động đến đối tượng phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng kết quả điều tra cơ bản lại có vai
trò rất quan trọng đối với toàn bộ tiến trình đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Thông qua đó các lực lượng nắm chắc được tình hình các đối tượng được điều tra cơ
bản, là cơ sở quan trọng để xác định những hệ loại đối tượng, địa bàn, lĩnh vực trọng
điểm trong phòng ngừa tội phạm. Kết quả của công tác này cũng là cơ sở để các đơn vị
xây dựng, triển khai các kế hoạch, biện pháp công tác trên các địa bàn, lĩnh vực và đối
với từng loại hệ đối tượng. Hơn nữa qua công tác điều tra cơ bản, các đơn vị có thể
phát hiện sự việc, hiện tượng, con người liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT phục vụ cho việc tiến hành sưu tra, xác minh hiềm nghi và đấu tranh
chuyên án. Ngoài ra, qua điều tra cơ bản còn có thể phát hiện những bất cập, sơ hở,
thiếu sót và đề xuất các biện pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về CNTT&MVT nói riêng, về an ninh trật tự nói chung.
- Về công tác sưu tra
Công tác sưu tra là quá trình thu thập thông tin, tìm hiểu một cách rộng rãi về
con người có khả năng, điều kiện, biểu hiện liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Về mức độ phát triển nghiệp vụ, công tác sưu tra về đối tượng trong
lĩnh vực CNTT&MVT là một hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, một hoạt động phát
hiện tội phạm một cách chủ động. Đối tượng sưu tra là những cá nhân cụ thể có khả
năng, điều kiện hoặc có biểu hiện nghi vấn thực hiện tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Các đối tượng bao gồm:
149
+ Người có tiền án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, hiện đang hoạt
động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến CNTT&MVT; hoặc đã chấp hành xong
hình phạt nhưng có nhận xét, đánh giá của cơ quan thi hành án thể hiện quá trình cải
tạo yếu, kém; hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội trong lĩnh vực này;
+ Người đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật do vi phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, hiện đang đảm nhận những chức vụ, vị trí quan trọng trong các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến
CNTT&MVT; hoặc đang có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội có sử dụng
CNTT&MVT;
+ Người không có quá khứ phạm pháp về CNTT&MVT nhưng thường xuyên
có quan hệ với các đối tượng có tiền án, tiền sự do vi phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, nghi vấn cấu kết để hoạt động phạm tội; hoặc đang hoạt động trong các
lĩnh vực liên quan trực tiếp đến CNTT&MVT, có biểu hiện gian dối, vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực CNTT&MVT; hoặc có nhiều đơn thư tố giác, tố cáo hoặc có thông
tin trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như các thông tin, tài liệu khác phản
ánh liên quan đến các hành vi vi phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng chưa đủ cơ
sở, điều kiện để xác minh làm rõ; hoặc có bất minh về thu nhập của bản thân và gia
đình, nghi do hoạt động phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT mà có;
+ Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang cư trú, làm
việc, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có quá khứ phạm pháp trong lĩnh vực
CNTT&MVT, hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến
CNTT&MVT; hoặc có mối quan hệ nghi vấn với các đối tượng liên quan đến tội phạm
trong lĩnh vực CCNTT&MVT; hoặc có thông tin, tài liệu nghi vấn phạm tội trong lĩnh
vực CNTT&MVT do phía nước ngoài cung cấp nhưng chưa đủ điều kiện làm rõ và
chưa đủ căn cứ xác lập hiềm nghi, chuyên án; hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động
phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Trong quá trình thu thập thông tin, theo dõi, quản lý và tác động ngăn ngừa các
hoạt động vi phạm của các đối tượng sưu tra trong lĩnh vực CNTT&MVT, chủ thể có
thể tiến hành nhiều hoạt động khác nhau song cần chú ý nắm và theo dõi được quá
trình sử dụng các công cụ, thiết bị CNTT&MVT của các đối tượng sưu tra; nắm được
tài khoản mạng xã hội đối tượng sử dụng, các diễn đàn đối tượng tham gia. Chủ động
theo dõi, nghiên cứu và cập nhật những thông tin thể hiện khả năng, biểu hiện liên
quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của đối tượng sưu tra để đưa vào hồ
sơ. Ngoài ra, cần chú ý đến các mối quan hệ cả “thực” và “ảo” trên không gian mạng
để phát hiện, thu thập và cập nhật các thông tin liên quan đến khả năng bị lôi kéo, cấu
kết, chia sẻ tài nguyên, tạo nhóm, đường dây thực hiện tội phạm trong lĩnh vực
150
CNTT&MVT. Cần chủ động nắm bắt ý đồ, các biểu hiện về việc chuẩn bị và tiến hành
phạm tội của đối tượng. Khi phát hiện các biểu hiện trên ở đối tượng, tùy theo mức độ
biểu hiện, đặc điểm tâm lý cá nhân và mối quan hệ của đối tượng, các lực lượng sử
dụng các biện pháp phù hợp tác động đến đối tượng thông qua người thân, bạn bè,
cộng tác viên bí mật... có mối quan hệ với đối tượng để gửi đến đối tượng những cảnh
báo, giáo dục, thuyết phục đối tượng thay đổi nhận thức, từ bỏ ý định phạm tội, cảm
hóa đối tượng hoặc loại bỏ điều kiện thực hiện tội phạm của các đối tượng sưu tra.
- Về công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, theo lĩnh
vực trọng điểm
Xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, lĩnh vực là một mặt
hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ quan trọng của lực lượng PCTP đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nhờ có hệ thống cộng tác viên bí mật, với hệ thống đầu
mối thông tin đủ mạnh, đảm bảo quán xuyến địa bàn, lĩnh vực giúp các lực lượng chủ
động xác định và nắm tình hình có chiều sâu đối với các cơ quan, tổ chức, lĩnh vực
được điều tra, nghiên cứu. Giúp các đơn vị đánh giá được tình hình, xác định nguyên
nhân, điều kiện của tội phạm (nhất là ở khía cạnh kỹ thuật) cũng như các giải pháp,
biện pháp khắc phục những lỗ hổng bảo mật, xử lý hậu quả của tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT. Hơn nữa cộng tác viên bí mật còn có thể tiếp cận đối tượng, nắm ý
đồ và biểu hiện hành động, giúp các lực lượng chủ động có kế hoạch tác động, ngăn
chặn. Trong một số trường hợp, cộng tác viên bí mật có thể được sử dụng để truyền tải
những tác động, ngăn chặn từ Cảnh sát phòng chống tội phạm đến các đối tượng có ý
định phạm tội.
Khi sử dụng các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ cần chú ý tới đặc điểm của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là sử dụng CNTT&MVT như là một công cụ,
phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó để phòng ngừa có hiệu quả đối với
tội phạm trong lĩnh vực này cần chú ý tới các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật. Trong
thời gian qua các lực lượng như A05, Tập đoàn BKAV, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp
sự cố không gian mạng Việt Nam, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc
gia, Hiệp hội an toàn thông tin, Tập đoàn VNPT, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn FPT…
đã có những sáng kiến, phát minh ra các sản phẩm, dịch vụ nhằm đảm bảo an toàn
thông tin, an toàn trong giao dịch điện tử, an toàn không gian mạng. Điển hình là các
sản phẩm phần mềm diệt virut của BKAV, Chiến dịch bóc gỡ mã độc trên không gian
mạng của NCSC, Các cuộc diễn tập ứng phó sự cố về an toàn thông tin của
VNCERT… và các sản phẩm mang tính kỹ thuật như các bẫy nghiệp vụ của
C50(A05), các thiết bị nhằm phục hồi chứng cứ, dữ liệu điện tử, các thiết bị giám sát
cuộc gọi nhằm loại trừ những cuộc gọi từ sim “rác” với mục đích lừa đảo, đe dọa tống
151
tiền… tuy nhiên do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ngày càng gia tăng tỷ lệ
thuận với sự phát triển của khoa học công nghệ do vậy các biện pháp kỹ thuật nhằm
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực này cũng cần được nghiên cứu và cho ứng dụng
trong thực tế nhiều hơn nữa. Điều này góp phần ngăn chặn, thủ tiêu những nguyên nhân,
điều kiện để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát sinh,phát triển.
4.2.5 Tăng cường quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Trong những năm qua, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã có những diễn
biến hết sức phức tạp, nhất là khi nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế
thế giới, xu thế toàn cầu hóa là tất yếu. Phương thức, thủ đoạn phạm tội của các đối
tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng những sơ hở trong các chính sách quản lý
nói chung và các chính sách quản lý về CNTT&MVT nói riêng để thực hiện hành vi
phạm tội. Tuy nhiên, nhờ sự phối hợp giữa các lực lượng, sự giúp đỡ của các cơ quan
ban ngành trong hoạt động phòng ngừa tội phạm đã thu được những kết quả đáng ghi
nhận. Những vụ án lớn xảy ra liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bị
phát hiện, điều tra và xử lý đã có tác dụng răn đe tội phạm, góp phần bảo đảm trật tự
an toàn xã hội. Do đó, việc mở rộng và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các lực
lượng trong hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một yêu
cầu thực tiễn và tất yếu. Chính vì vậy cần tích cực chủ động tổ chức quan hệ phối hợp
giữa các lực lượng trong phòng ngừa đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT ở những nội dung sau:
- Giữa các lực lượng tiến hành phòng ngừa cần tăng cường trao đổi những chủ
trương, chính sách mới của Nhà nước về phát triển CNTT&MVT; chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của mỗi lực lượng liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT. Kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xây dựng chính sách
phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực CNTT&MVT, phát triển các tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh thông tin trong nước.
Trong những năm qua, CNTT&VT đã có sự phát triển hết sức mạnh mẽ ở nước ta, tuy
nhiên sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch
vụ do các doanh nghiệp CNTT&VT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ
sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT&VT trong
nước được sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn
thông trong nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho công tác quản lý, giúp cho phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
chủ động và hiệu quả hơn. Cùng với sự phát triển về hạ tầng và dịch vụ CNTT cũng
như viễn thông, việc phát triển các tổ chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
152
đảm bảo an toàn, an ninh mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ,
phù hợp với đặc điểm sử dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá cả hợp lý
hơn và vì vậy môi trường mạng ở nước ta sẽ an toàn hơn. Khuyến khích người sử dụng
các thiết bị về CNTT&MVT sử dụng các sản phẩm, ứng dụng đảm bảo an toàn thông
tin do các doanh nghiệp trong nước cung cấp. Đây là giải pháp về mặt kinh tế, có tính
chiến lược lâu dài, có khả năng giải quyết nhiều yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
- Tăng cường trao đổi, cung cấp thông tin về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT như: tình hình tội phạm, số vụ án, thủ đoạn thực hiện, che giấu hành vi
phạm tội, nguyên nhân, điều kiện nảy sinh tội phạm, những hạn chế, thiếu sót, kinh
nghiệm đấu tranh với loại tội phạm này;
- Xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, chủ động và thường xuyên giữa lực
lượng chuyên trách với các cơ quan, ban ngành chức năng như Bộ Thông tin và truyền
thông, Cục viễn thông, Cục an toàn thông tin, Ngân hàng nhà nước...Trong đó tập
trung làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các lực
lượng trong lĩnh vực này. Xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành để tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả phối hợp trong hoạt động phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
+ Việc phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về CNTT&MVT có thể theo
các nội dung như: trao đổi thông tin về chủ trương, chính sách phát triển, các quy định
pháp lý về CNTT&MVT; Phối hợp để cùng xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp
luật vê quản lý CNTT&MVT; quản lý dịch vụ mạng thông tin, góp phần khắc phục
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; Phối hợp trong
tuyên truyền, vận động các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng nâng cao
ý thức bảo mật, chủ động bảo vệ và tích cực tham gia phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT. Cùng với các cơ quan quản lý nhà nước ngành CNTT&VT giám
sát, thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp kinh doanh hoặc cung cấp các dịch vụ
CNTT&MVT đang hoạt động ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài; nắm tình hình phát
triển, hoạt động của các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp hoạt đông trong lĩnh vực
CNTT&MVT. Hỗ trợ về lực lượng chuyên gia, phương tiện, thiết bị trong quá trình
phát hiện, điều tra các vụ việc về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, diễn tập ứng
cứu, xử lý khẩn cấp sự cố hệ thống thông tin quan trọng...
+ Phối hợp với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ sở đào tạo
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các lực lượng chuyên trách cũng cần tổ chức mối quan
hệ phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức lớn hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Các doanh nghiệp, tổ chức lớn hoạt động cung cấp dịch vụ CNTT&MVT thường là
153
các tổ chức được đầu tư tiềm lực lớn, tập hợp được đội ngũ chuyên gia về
CNTT&MVT có trình độ cao, có những phương tiện, thiết bị hiện đại, cấu hình mạnh,
đa dạng. Các tổ chức này thường có những nghiên cứu, tìm hiểu nắm tình hình rất sâu
về những khía cạnh liên quan trực tiếp đến hoạt động của họ, nhất là thông tin về các
đối thủ cạnh tranh. Bởi vậy, qua phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức lớn hoạt động
trong lĩnh vực CNTT&MVT nhất là những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo
an toàn, an ninh mạng như VINCERT, NCSC, BKAV... qua đó các lực lượng chuyên
trách có thể thu thập được nhiều thông tin có tính chất chuyên môn sâu về tình hình
phát triển của CNTT&MVT tại Việt Nam và thế giới, tình hình và thủ đoạn hoạt động
của các loại đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật về CNTT&MVT, từ đó đề xuất
các giải pháp về mặt kỹ thuật để ngăn chặn, phòng ngừa và khắc phục các hậu quả của
hành vi phạm tội trong lĩnh vực này. Cần tiếp tục phối hợp với Thanh tra các Bộ,
ngành tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
như phối hợp với Thanh tra Bộ văn hóa thể thao và du lịch tiến hành thanh tra, kiểm
tra một số doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm bản quyền phần mềm máy tính trên toàn
quốc. Xây dựng quy chế phối hợp về quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực sử dụng
CNTT&MVT tại các địa phương.
Ngoài ra các lực lượng cần phối hợp với các doanh nghiệp là đầu mối cung cấp
các dịch vụ CNTT&MVT để khai thác, thu thập dữ liệu điện tử cần thiết được lưu trữ
trong hệ thống máy chủ, chặn bắt đường truyền thu thập dữ liệu về các giao dịch của đối
tượng nghi vấn. Phối hợp tốt với các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực
CNTT&MVT có thể giúp các lực lượng chuyên trách huy động được đội ngũ chuyên gia
và phương tiện, thiết bị của họ cho các công tác nghiệp vụ của mình. Bên cạnh đó cũng
cần xây dựng và phát triển các mối quan hệ phối hợp với các cơ sở đào tạo, các cơ sở
nghiên cứu về công nghệ thông tin, viễn thông trong nắm tình hình, quản lý sinh viên; trợ
giúp về mặt tri thức, công cụ cho các cơ quan chức năng trong việc phân tích thủ đoạn,
nguyên nhân điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Về hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ: giữa các lực lượng cần thường xuyên trao
đổi thông tin về tình hình, diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT,
phương thức thủ đoạn phạm tội, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp phát hiện, điều tra
thu thập tài liệu chứng cứ về hoạt động phạm tội trong lĩnh vực này. Phối hợp xác
minh hoặc thanh tra, kiểm tra để nhanh chóng kết luận về những căn cứ, dấu hiệu của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhằm kịp thời xử lý theo quy định của pháp
luật. Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân để xác định tính chất,
mức độ vi phạm, thống nhất quan điểm xử lý các hành vi phạm tội trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
154
Trong quá trình phối hợp tổ chức thực hiện giữa các lực lượng, các ngành trong
phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần thường xuyên tổ chức sơ kết,
tổng kết thực tiễn, rút ra những ưu điểm, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, nguyên
nhân từ đó có các kiến nghị, đề xuất với cấp có thẩm quyền tăng cường hoạt động phối
hợp để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.
4.2.6 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một loại tội phạm xuyên quốc gia, phi
truyền thống được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Vì vậy, việc
phối hợp và hợp tác quốc tế là một nhu cầu tự thân của công tác đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm. Các lực lượng tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT tất yếu phải thiết lập hoặc tham gia vào mạng lưới các lực lượng đấu
tranh phòng, chống các loại tội phạm này trên toàn cầu.Thực tế đã cho thấy có nhiều
hoạt động phối hợp và hợp tác quốc tế được triển khai trong thời gian qua. Hàng loạt
các Hiệp định, nghị định tương trợ tư pháp hình sự đã được ký kết. Tuy nhiên việc
tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn, phân công, kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác này
còn nhiều bất cập. Để khắc phục những hạn chế nêu trên và nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, các lực
lượng cần chú trọng và đẩy mạnh các hoạt động sau đây:
- Rà soát các Hiệp định, nghị định tương trợ tư pháp hình sự, từ đó đề xuất sửa
đổi bổ sung, điều chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT cho phù hợp với tình hình hiện nay. Đồng thời xây dựng và
hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động hợp tác quốc tế trong công tác phòng
ngừa tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Đối với các
Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký với các nước châu Âu trước đây trong hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa cần phải rà soát lại, nếu không còn phù hợp thì tham mưu ký
Hiệp định mới, đồng thời phải nghiên cứu đề xuất ký các Hiệp định, nghị định tương
trợ tư pháp hình sự với các quốc gia mà tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT thường xảy ra có liên quan tới Việt Nam;
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả các điều ước quốc tế đa phương, song phương,
các hiệp định, nghị định tương trợ tư pháp hình sự, các văn bản pháp quy đã ký kết về
hợp tác đấu tranh chống tội phạm giữa Việt Nam với các quốc gia cũng như các văn
bản thỏa thuận đã ký kết giữa Bộ Công an với Bộ Nội vụ nước ngoài. Đây là một nội
dung hợp tác hết sức quan trọng vì trên cơ sở pháp lý vững chắc mới có thể đảm bảo
cho mối quan hệ phối hợp được thực thi hiệu quả trên thực tế. Cùng với đó là phải xây
dựng một thiết chế điều phối quan hệ phối hợp chịu trách nhiệm liên kết lực lượng
155
chuyên trách phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao giữa các quốc gia khác
nhau. Đây là đầu mối Cảnh sát các nước có thể thường xuyên, nhanh chóng tạo ra
được sự liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Thiết lập mạng lưới sĩ quan Cảnh sát liên lạc ở một số nước đã ký kết Hiệp
định hoặc nghị định tương trợ tư pháp hình sự. Trong xu hướng hợp tác và phá triển,
hoạt động phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chỉ có
thể đạt được hiệu quả cao nếu chúng ta có lực lượng Cảnh sát hoạt động công khai tại
các quốc gia mà chúng ta đã ký Hiệp định hoặc Nghị định tương trợ tư pháp hình sự.
Tuy nhiên, do điều kiện về kinh tế, trình độ năng lực của cán bộ chưa cho phép chúng
ta bố trí lực lượng sĩ quan liên lạc ở tất cả các quốc gia mà nước ta đã đặt quan hệ
ngoại giao, nhưng chúng ta có thể bố trí ở một số nước mà tình hình hoạt động của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hoặc liên quan đến người Việt Nam có những diễn
biến phức tạp như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Hàn Quốc, Australia,
Singapore, Thái Lan, một số nước châu Âu và Mỹ. Có mạng lưới sĩ quan liên lạc ở các
nước nêu trên cùng với sự hợp tác chặt chẽ của Cảnh sát nước sở tại để tiếp nhận, xử
lý thông tin liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm trong
lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng;
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, pháp luật của Việt
Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế cho cán bộ chuyên trách hợp tác quốc tế của lực lượng
chuyên trách phòng ngừa tội phạm, đặc biệt về trình độ ngoại ngữ để có thể trực tiếp đấu
tranh với các đối tượng phạm tội là người nước ngoài. Có thể hợp tác với các nước trong
nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực thực thi pháp luật, nghiệp
vụ phòng chống tội phạm, trong việc triển khai các dự án nghiên cứu khoa học có sự tham
gia của Cảnh sát các nước để nâng cao năng lực, trình độ của mình.
- Tham khảo kinh nghiệm quốc tế về xử lý, ngăn chặn và phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như tại Nhật Bản, trước nguy cơ tội phạm sử
dụng công nghệ cao tăng rất nhanh cùng với sự phát triển của CNTT&VT, vào năm
1999 Nhật Bản đã thành lập lực lượng Cyber Force. Cyber Force, tiền thân là đơn vị
phòng chống tội phạm tin học thuộc Cục CNTT (Bộ An ninh), được giao nhiệm vụ
điều tra, ngăn chặn và chống lại loại tội phạm nguy hiểm này. Cyber Force được ví
như đơn vị tinh nhuệ nhất của Cảnh sát Nhật Bản trong đấu tranh và bảo vệ người
dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và Chính phủ trước tội phạm sử dụng công nghệ
cao hoạt động xuyên biên giới với thủ đoạn khó lường. Cyber Force chính là công cụ
trợ giúp đắc lực cho công tác điều tra tội phạm tin học. Trung tâm xử lý thông tin của
Cyber Force có nhiệm vụ thu thập và phân tích dữ liệu, các thành viên của đội Cyber
Force được đào tạo, huấn luyện thường xuyên về nghiệp vụ tin học tại phân viện đào
156
tạo riêng (Cyber Force Training System) nhằm đảm bảo bắt kịp đà gia tăng của tội
phạm công nghệ cao cũng như có thể thích ứng với mọi tình huống thực tế. Cyber
Force có bộ phận dò mạng được coi là nòng cốt của đơn vị. Nhờ vào một hệ thống có
kỹ thuật công nghệ tiên tiến mà cảnh sát Nhận Bản có thể phân tích thông tin, qua đó
phát hiện kịp thời những thủ đoạn tấn công của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT, đồng thời chia sẻ thông tin, kinh nghiệm với các đơn vị cảnh sát khác
có liên quan. Hệ thống cũng có một máy chủ tổng hợp và phân tích nguồn thông tin
được phát tán qua mạng Internet.
Liên minh châu Âu (EU) đã đưa ra các điều luật trừng phạt cứng rắn hơn đối với
tội phạm mạng và tin tặc. Theo đó, ngày 4/7/2013, với đa số phiếu tán thành EU đã
quyết định tăng hình phạt tù đối với người bị kết tội tấn công, vi phạm dữ liệu mạng.
Theo đó, đáng chú ý là EU quyết định tăng thêm ít nhất 02 năm tù cho “tội truy cập bất
hợp pháp hệ thống thông tin” và ít nhất là 05 năm tù đối với “tội tấn công mạng” gây hại
tới các cơ sở hạ tầng như nhà máy điện, hệ thống nước và mạng lưới giao thông. Các
nhà lập pháp EU cho rằng, các tội phạm mạng nghiêm trọng nhất là những đối tượng
xâm phạm vào mạng lưới hạ tầng của các quốc gia và các hành vi trộm cắp dữ liệu nhạy
cảm từ hệ thống máy tính. Các loại tội phạm tin học khác cũng bị tăng hình phạt như
“tội ngăn chặn trái phép hoạt động thông tin liên lạc hoặc tạo ra các công cụ cho mục
đích này”. Ngoài ra bất kỳ công ty nào sử dụng các công cụ hoặc thuê tin tặc để ăn cắp
dữ liệu cũng sẽ chịu trách nhiệm theo luật mới. Hiện nay, mức hình phạt đối với tội
phạm mạng có sự khác nhau giữa các quốc gia EU, nhưng hầu hết các bản án cao nhất ở
mức 5 năm tù và các quốc gia EU có hai năm để đưa luật mới vào thực hiện. Đây không
phải là lần đầu tiên EU bỏ phiếu về việc thắt chặt các hình phạt đối với tội phạm mạng.
Trong năm 2011, các nhà lập pháp EU đã đồng ý tăng hình phạt đối với tội phạm tin
học, bao gồm cả hình phạt mới cho người sáng tạo các bonet (virut độc hại xâm nhập,
khống chế hệ thống máy tính). Từ việc tham khảo kinh nghiệm trong phòng ngừa, đấu
tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao của các quốc gia trên thế giới các lực lượng
tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam có
những tham mưu, đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để đề ra các chính sách,
pháp luật phục vụ cho hoạt động đấu tranh, phòng ngừa với các tội phạm trong lĩnh vực
này phù hợp với thực tiễn của nước ta. Việc tham khảo kinh nghiệm, trao đổi thông tin
giữa Việt Nam với các quốc gia và tổ chức quốc tế có thể thông qua công tác phối hợp
và hợp tác quốc tế nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT.
157
4.2.7 Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về công nghệ thông tin và viễn
thông; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông
Thực tế cho thấy công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT còn
nhiều bất cập, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn. Việc này chính là những nguyên nhân,
điều kiện để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát sinh và phát triển.
Do vậy để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm trong lĩnh vực này, công tác quản lý nhà
nước về CNTT&MVT cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
- Bộ thông tin truyền thông cần có biện pháp chỉ đạo quyết liệt nhằm siết chặt
việc quản lý sim điện thoại. Trong thời gian qua đã có rất nhiều vụ án đối tượng phạm
tội lợi dụng những kẽ hở trong quản lý sim điện thoại, dùng sim rác thực hiện các cuộc
gọi lừa đảo mạo danh các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Tòa án, Viện kiểm
sát… đe dọa một số người dân để tống tiền nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Hiện
nay Cục viễn thông đã phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông
triển khai việc quản lý sim điện thoại, khóa một chiều các sim điện thoại thực hiện các
cuộc gọi “rác”, phát tán tin nhắn “rác”. Hoạt động này cần được tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng và phát triển môi trường
viễn thông an toàn.
- Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các Ngân hàng thương mại chú trọng hoạt
động mở tài khoản ngân hàng cho các đối tượng. Chính việc dễ dàng mở tài khoản tại
các Ngân hàng thương mại, thậm chí có đối tượng sử dụng chứng minh thư, thẻ căn
cước giả hoặc ăn cắp của người khác để mở tài khoản tại Ngân hàng với mục đích xấu
hoặc tạo điều kiện để tội phạm đánh bạc qua mạng phát triển. Cần có chính sách bảo
mật, đảm bảo an toàn thông tin cá nhân trong các giao dịch điện tử.
- Thanh tra Bộ thông tin truyền thông cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về CNTT&MVT; xây dựng quy chế phối
hợp với các ban ngành, địa phương về quản lý các đại lý dịch vụ Internet, đại lý dịch
vụ viễn thông đảm bảo an toàn thông tin và phòng ngừa tội phạm.
Quản lý chặt chẽ các tài khoản và người dùng mạng xã hội, thường xuyên
khuyến cáo người dùng mạng xã hội nâng cao tính bảo mật, an toàn thông tin. Năm
2018 đã có 50 triệu tài khoản người dùng Facebook tại Việt Nam bị rò rỉ thông tin cá
nhân, nhiều tài khoản cá nhân bị hack và đối tượng phạm tội đã sử dụng tài khoản cá
nhân đó thực hiện các hành vi lừa đảo như nhờ chuyển tiền qua tài khoản sau đó chiếm
dụng luôn.
Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT thì một trong những nhiệm vụ cơ bản của các chủ thể phòng ngừa là
158
phải làm tốt công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về CNTT&MVT cho mọi tầng
lớp nhân dân giúp họ hiểu và tuân thủ pháp luật, góp phần quan trọng vào việc ngăn
chặn cũng như phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Thực tiễn phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian qua cho
thấy ý thức của người sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng thông tin ở Việt Nam đối
với việc đảm bảo an toàn cho các thiết bị và hệ thống thông tin còn thấp. Điều này thể
hiện ở một số hiện tượng như:
+ Tình trạng sử dụng các phần mềm không có bản quyền, phần mềm đã được
“bẻ khóa” rất phổ biến ở Việt Nam, làm cho nguy cơ mất an toàn đối với các thiết bị
và hệ thống thông tin của chính người sử dụng. Các phần mềm phổ biến như
Windows, bộ phần mềm văn phòng office của Microsoft và nhiều phần mềm thông
dụng khác khi được cài đặt trên các máy tính người dùng ở nước ta hầu hết đều không
có bản quyền hợp pháp. Với lý do số tiền phải trả cho các phần mềm có bản quyền
thường cao hơn rất nhiều so với phần mềm được sao chép lậu, phần mềm đã được bẻ
khóa. Việc sử dụng các phần mềm không có bản quyền sẽ dẫn đến nguy cơ các máy
tính bị nhiễm các chương trình máy tính độc hại ngay từ khi cài đặt hoặc khi tải phần
mềm này từ trên mạng về máy. Hơn nữa, vì không có bản quyền hợp pháp nên các nhà
cung cấp chính hãng không cho phép các thiết bị người dùng cập nhật các bản vá lỗi
trong đó có những bản vá các lỗ hổng bảo mật do đó nguy cơ các thiết bị này bị mất an
toàn là rất cao.
+ Phần lớn các máy tính, thiết bị số không cài đặt, sử dụng các phần mềm bảo
vệ (thường được gọi là phần mềm diệt virut) hoặc thiết lập tường lửa (fire wall) để bảo
vệ. Chi phí cho việc mua và sử dụng các phần mềm bảo vệ thường không lớn nhưng
do ý thức bảo mật kém nên số lượng người sử dụng vẫn thấp. Đây là nguyên nhân dẫn
đến việc lây lan các phần mềm độc hại trở nên nhanh chóng, là tiền đề để đối tượng
phạm tội thực hiện các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đa số người
dùng lâm vào hoàn cảnh thất thoát dữ liệu đều không chuyên hoặc ít có sự hiểu biết về
an ninh mạng, và đây cũng chính là một trong những nguyên nhân lớn khiến họ trở
thành nạn nhân của hacker. Một điều rất rõ ràng là nếu chúng ta ít có kiến thức về
công nghệ nhưng luôn có ý thức bảo mật, thì sẽ giảm thiểu đi rất nhiều khả năng tấn
công của Hacker, vì các phần mềm, ứng dụng bảo mật đã được tự động hóa để đối mặt
với các nguy cơ gây hại.
+ Người sử dụng internet ở Việt Nam còn thiếu kiến thức và kỹ năng về an toàn
trực tuyến. Theo kết quả khảo sát hành vi người sử dụng internet của nhiều đơn vị hoạt
động trong lĩnh vực an toàn thông tin, đa số người dùng ở Việt Nam khi được khảo sát
đều sử dụng chung một mật khẩu cho các tài khoản trực tuyến của mình; lưu mật khẩu
159
trên các giấy tờ tài liệu, ghi chép tại các quán cafe internet, nơi kết nối internet công
cộng thường không đảm bảo an toàn,... Nhiều người dùng cho rằng họ sẽ an toàn nếu
click vào các đường liên kết (đường link) được gửi từ bạn bè, và nhiều người tin rằng
nếu chỉ đọc nội dung trên các trang web thì không có gì nguy hiểm...
Việc thiếu kỹ năng và kiến thức về an toàn mạng như đã nêu ở trên thì máy
tính, thiết bị viễn thông của người dùng ở Việt Nam dễ bị nhiễm các phần mềm độc
hại và rất dễ bị các đối tượng phạm tội thâm nhập lấy cắp dữ liệu hoặc bị đối tượng
phạm tội chiếm quyền điều khiển để thực hiện các hành vi phạm tội...
+ Các tổ chức, doanh nghiệp có các trang mạng hoặc hoạt động kinh doanh trên
mạng chưa quan tâm đúng mức đến giải pháp bảo mật một cách tổng thể. Ở nhiều đơn
vị chưa xây dựng được các chính sách đảm bảo an toàn, an ninh mạng như: các tiêu
chuẩn về nền tảng công nghệ, các quy định về lưu trữ dữ liệu dự phòng, chính sách
phân quyền truy nhập, các quy định chống truy nhập trái phép, bảo vệ dữ liệu, lưu giữ
thông tin về các giao dịch... Đầu tư thiếu đồng bộ hạ tầng công nghệ thông tin liên
quan đến vấn đề bảo mật, chưa chú trọng đến nguồn nhân lực đảm bảo an toàn thông
tin như thiếu nhân viên chuyên trách đảm bảo an toàn thông tin, trình độ về công nghệ
thông tin của đội ngũ này còn yếu... Theo báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, đánh giá
thực trạng an toàn thông tin (ATTT) tại Việt Nam năm 2016 của Hiệp hội An toàn
thông tin Việt Nam (VNISA), Chỉ số ATTT Việt Nam (Vietnam Information Security
Index) 2016 là 59,9% - tăng 12,5% so với mức 47,4% năm 2015 (chỉ số này các năm
2014 và 2013 lần lượt là 39% và 37,3%) và lần đầu tiên vượt mức trung bình 50% của
thế giới. Năm 2019, Việt Nam xếp thứ 50/175 quốc gia và vũng lãnh thổ về chỉ số an
toàn thông tin (tăng 50 hạng so với chỉ số năm 2017). Chỉ số này có xu hướng tăng bền
vững qua các năm, thể hiện định hướng kiên định của Nhà nước và cộng đồng trong
phát triển an toàn thông tin.
Bên cạnh đó, tình hình an toàn thông tin của Việt Nam trong những năm qua
còn có nhiều diễn biến phức tạp, vẫn xảy ra nhiều vụ tấn công có chủ đích vào hệ
thống thông tin của tổ chức, doanh nghiệp lớn, lượng mã độc phát tán vẫn còn
nhiều...Đơn cử, trong hai ngày 8-9/3/2016, website của nhiều cảng hàng không tại
Việt Nam như Tân Sơn Nhất (TP.HCM), Rạch Giá (Kiên Giang), Tuy Hòa (Phú Yên)
bị hacker tấn công. Tình trạng chung của các website này là hacker xâm nhập, để lại
lời nhắn cảnh báo. Việc website của các cảng hàng không tê liệt, dù trong thời gian
ngắn, khiến nhiều người lo lắng.Tuy nhiên, đại diện Bkav khẳng định đây không phải
một vụ tấn công có chủ đích mà đơn thuần là động thái khai thác lỗ hổng website.
Trong khi đó, vụ hack website các cảng hàng không chủ yếu khai thác các lỗ hổng,
xuất phát từ việc thiếu quy trình kiểm tra cũng như kinh nghiệm về lập trình an toàn
160
của lập trình viên. Sự cố vừa xảy ra cho thấy việc đảm bảo an ninh mạng cho ngành
hàng không còn yếu kém, đầu tư chưa tương xứng với tầm quan trọng của hệ thống, để
tránh xảy ra sự cố tương tự, người quản trị hệ thống website nên có quy trình kiểm tra
đánh giá trước khi đưa vào sử dụng, kiểm tra định kỳ để khắc phục lỗ hồng. Khi code
website, các kỹ sư cần lường trước các tình huống để tránh tạo ra lỗ hổng website [103].
+ Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực về CNTT&VT còn có nhiều bất
cập. Chỉ trong một vài năm gần đây, khi vấn đề an ninh mạng, an toàn mạng trở nên nóng bỏng do sự phức tạp của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, một số
trung tâm đào tạo lớn mới mở chuyên ngành đào tạo an ninh mạng hoặc an toàn thông
tin. Mặt khác, trong nội dung đào tạo của nhiều trường, trung tâm đào tạo về
CNTT&MVT mới chỉ chú trọng đào tạo nghề chứ chưa chú ý đúng mức đến việc giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ chuyên gia về CNTT&MVT tương lai. Do sức ép về nguồn nhân lực cho sự phát triển nóng của ngành CNTT&MVT, nhiều cơ sở đào
tạo mới chỉ tập trung đào tạo kỹ năng. Nhiều sinh viên các ngành CNTT&VT lấy khả
năng thâm nhập, bẻ khóa, kiểm soát thông tin làm thước đo trình độ chuyên môn. Họ
cố gắng mày mò, tìm hiểu các “chiêu trò” của giới tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT và thử thực hiện. Vô hình chung, chúng ta đang tạo ra các chuyên gia bẻ
khóa, lập trình virut, thâm nhập,... hơn là các chuyên gia CNTT&VT đúng nghĩa. Việc
thiếu giáo dục về pháp luật và đạo đức nghề nghiệp đã cho ra đời một bộ phận chuyên
gia CNTT&MVT có thể rất tốt về chuyên môn nhưng thiếu trách nhiệm với xã hội đã
lợi dụng sự hiểu biết của mình về CNTT&MVT để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế số sinh viên chuyên ngành CNTT&MVT chiếm tỷ lệ cao trong
thành phần chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong thời gian qua đã
minh chứng phần nào cho nhận định đó. Đối tượng phạm tội trong lĩnh vực
CNTT&MVT phần lớn là người có trình độ hiểu biết về CNTT&MVT. Họ hiểu biết
và có khả năng giao tiếp với máy tính, làm việc với các chương trình, hệ thống, mạng
lưới thông tin; hiểu biết về lập trình và xử lý các vấn đề phần cứng cũng như phần
mềm của hệ thống máy tính. Chính kỹ năng và sự hiểu biết về CNTT&MVT đã được họ sử dụng để thực hiện các hành vi phạm tội.
Thống kê 1807 đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&VT cho thấy có 830 đối tượng có trình độ Đại học hoặc trên Đại học về CNTT&VT (chiếm tỷ lệ 46,1%), có 710 đối tượng có trình độ Trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng về CNTT&VT (chiếm tỷ lệ 39%), còn lại 267 đối tượng chỉ tốt nghiệp Trung học phổ thông và chưa tốt nghiệp phổ thông. Phần lớn các đối tượng đã và đang là sinh viên các trường được
đào tạo cơ bản, chuyên sâu và CNTT&VT như sinh viên các trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa Tp Hồ Chí Minh, Học viện công nghệ bưu chính
viễn thông...[9].
161
Như vậy xuất phát từ những lý do trên cho thấy công tác tuyên truyền nhằm
nâng cao ý thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân, các cơ quan tổ chức trong việc
phát hiện, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, nâng cao khả năng điều
kiện tham gia phòng ngừa các loại tội phạm này là hết sức cần thiết và cấp bách. Công
tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, phải có nội dung, hình thức và biện pháp phù hợp
với từng đối tượng cụ thể. Hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật phải
đa dạng, phong phú, tranh thủ khai thác ưu thế của mạng xã hội và các loại hình nghệ
thuật để đưa nội dung truyền tải đến người nhận.
- Về đối tượng, nội dung tuyên truyền
Đối với ngƣời sử dụng máy tính, thiết bị số nói chung
Để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các đơn vị, các doanh nghiệp và
quần chúng nhân dân trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, cần
chú ý cần tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác và thay đổi hành vi, những thói quen sử
dụng không an toàn. Những nội dung tuyên truyền cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về CNTT&MVT
như Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 25/1/2018 về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trên
không gian mạng; Nghị quyết số 30/NQ-TW ngày 25/7/2018 về Chiến lược An ninh
mạng quốc gia, Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng...;
+ Thông tin về các hiện tượng mất an toàn trong khai thác, sử dụng công nghệ
thông tin, về những dạng thức hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và
hậu quả của những hành vi phạm tội trong lĩnh vực này;
+ Qua các vụ án đã được phát hiện và xử lý, phải nhanh chóng tuyên truyền cho
các tổ chức, doanh nghiệp và quần chúng nhân dân nắm bắt được các phương thức, thủ
đoạn để người sử dụng tự phòng ngừa và tự phát hiện các nguy cơ mất an toàn thông
tin riêng, các biện pháp chống lại sự tấn công, lừa đảo của các đối tượng phạm tội
trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đặc biệt hướng dẫn người sử dụng các thói quen sử
dụng máy tính, thiết bị số, mạng thông tin một cách an toàn. Chẳng hạn như khuyến
khích người sử dụng nên sử dụng các chương trình phần mềm máy tính có bản quyền
hợp pháp, sử dụng các chương trình bảo vệ an toàn thông tin, cập nhật thường xuyên
các bản vá lỗi, các phần mềm nâng cấp của các nhà cung cấp, hạn chế sử dụng các
phần mềm được tải xuống miễn phí từ các trang mạng không đáng tin cậy,... Có thói
quen sao lưu dự phòng các thông tin, đề phòng và hạn chế việc mất mát dữ liệu do sự
tấn công của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;
+ Xây dựng các công cụ hỗ trợ người dùng như phát hành các phần mềm phát
hiện các chương trình máy tính độc hại, các chương trình tự động báo cáo các hiện
162
tượng bất bình thường trong hoạt động máy tính, cung cấp các dịch vụ xác nhận giao
dịch chặt chẽ hơn... giúp người sử dụng tự phát hiện các nguy cơ mất an toàn thông
tin, đồng thời hướng dẫn họ cách tự xử lý các trường hợp máy tính, thiết bị, hộp thư...
bị mất an toàn. Hiện nay các phần mềm diệt virut do các doanh nghiệp, tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực an ninh mạng, xử lý sự cố máy tính như BKAV, VNCERT...có
chất lượng tốt, được tải về miễn phí hoặc có giá thành hợp lý tiện lợi cho người sử
dụng. Tuy nhiên, khi có sự cố an toàn thông tin xảy ra, đa số các tổ chức/ doanh
nghiệp chỉ xử lý, báo cáo trong nội bộ, mà chưa kịp thời thông báo cho các cơ quan
chuyên trách. Vai trò của nhà cung cấp dịch vụ viễn thông ít được chú ý khi xảy ra sự
cố. Đó là một vấn đề cần thay đổi vì các nhà cung cấp dịch vụ có lợi thế rất lớn về vị
trí kết nối trong mạng, cùng lực lượng nhân sự có thể tham gia xử lý sự cố an toàn
thông tin. Đây là một vùng trắng mà các nhà cung cấp dịch vụ Internet cần chú ý trong
kế hoạch phát triển kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh dịch vụ an toàn thông tin, bên
cạnh các dịch vụ đã khá phổ biến là Trung tâm dữ liệu. Đứng trước sự đe dọa và gây
thiệt hại đáng kể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, Nhà nước cần quan tâm
đúng mức và cấp kinh phí cho các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ, phần mềm diệt virut, phát hiện mã độc và các lỗ hổng bảo mật để người
sử dụng máy tính và viễn thông tại Việt Nam được bảo đảm an toàn, từ đó bảo đảm an
toàn an ninh thông tin của quốc gia. Đầu mối thực hiện và chỉ đạo công việc này nên
giao cho Bộ thông tin và truyền thông phối hợp với các cơ quan trong Bộ như Cục An
toàn thông tin, Cục Viễn thông, Trung tâm ứng cứu sự cố khẩn cấp không gian mạng
Việt nam, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia...
+ Kiến thức pháp luật về phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT
bao gồm: quy định của Hiến pháp 2013 về xây dựng Nhà nước pháp quyền, quyền và
lợi ích của công dân, của doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT&MVT; chính sách hình
sự đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự nói chung, tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT nói riêng; Đồng thời hướng dẫn người sử dụng biết sử dụng các công cụ
pháp luật để xử lý các tình huống quyền lợi bị xâm phạm bởi tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT;
+ Nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội của công dân trong phòng ngừa tội phạm
nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Điều này được thực hiện
như sau:
Đối với thanh thiếu niên
Đối với thanh, thiếu niên nhất là đội ngũ sinh viên chuyên ngành CNTT&MVT
của các cơ sở đào tạo trong toàn quốc, cần tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức và trách nhiệm xã hội. Các nội dung cần tập trung tuyên truyền, phổ biến là:
163
+ Các quy định pháp luật về phát triển, khai thác, ứng dụng CNTT&MVT; các quy
định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; các quy định về quản
lý, xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến CNTT&MVT;
+ Tuyên truyền về hậu quả tác hại của những hành vi phạm tội và vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đặc biệt nhấn mạnh đến hậu quả pháp lý đối
với những người phạm tội, người vi phạm pháp luật;
+ Tăng cường giáo dục tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, ý thức đạo đức
nghề nghiệp của những lập trình viên, quản trị mạng...
Đối với các cơ quan, tổ chức
+ Đối với các cơ quan, tổ chức đặc biệt là các đơn vị có cung cấp các dịch vụ
trực tuyến cần tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp và giải pháp chủ động phòng ngừa
và bảo vệ hệ thống thông tin của mình, hạn chế nguy cơ bị tấn công hoặc lợi dụng bởi tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đối với các tổ chức này cần tuyên truyền, nâng cao
nhận thức và hiểu biết của những người đứng đầu, người quản lý các đơn vị trong việc
đảm bảo an toàn thông tin. Các đơn vị phải chủ động tăng cường dự báo định mức rủi ro
và các nguy cơ tiềm tàng để từ đó có ý thức đầu tư bảo mật cho hệ thống ngay từ khi bắt
đầu xây dựng; chấp nhận và chấp hành các quy định pháp luật về an toàn thông tin. Ngay
từ khi xây dựng các hệ thống thông tin cần sử dụng các dịch vụ an ninh mạng để đánh giá
độ an toàn, kịp thời phát hiện và chỉnh các lỗ hổng bảo mật. Thường xuyên cập nhật hoặc
yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ cho thuê máy chủ các bản vá lỗi hệ điều hành trên máy chủ.
Chủ động áp dụng bộ cản lọc, kiểm soát các gói tin ra vào để phát hiện và ngăn chặn kịp
thời các giao dịch nghi ngờ.
+ Đối với các đơn vị có hệ thống thông tin lớn, các ngân hàng, tổ chức tài chính,
các doanh nghiệp có nhiều giao dịch điện tử cần tổ chức bộ phận chuyên trách về an ninh
mạng. Cần xây dựng hệ thống tường lửa nhằm ngăn chặn các thủ đoạn xâm nhập, mục
đích của việc xây dựng hệ thống tường lửa là bảo vệ tài nguyên, dữ liệu và mạng. Chúng
sẽ làm giảm bớt những mối đe dọa tấn công bằng việc loại bỏ những lưu lượng mạng có
hại hay có ác ý trong khi vẫn cho phép các hoạt động hợp pháp tiếp tục. Tường lửa cần
ngăn những ứng dụng không mong muốn và những cuộc tấn công nhằm vào các mạng và
các ứng dụng cá nhân, qua việc sử dụng các nguyên tắc xác định và các danh sách điều
khiển truy nhập (access control lists); sử dụng các bộ lọc gói tốc độ cao để loại bỏ các gói
tin tấn công; sử dụng thuật toán lọc dựa trên cơ sở ngưỡng để chống lại các cuộc tấn công
từ chối dịch vụ (DOS/DDOS);...
+ Tư vấn cho các đơn vị, doanh nghiệp quản lý chặt chẽ đội ngũ nhân viên công
nghệ thông tin kể cả đội ngũ nhân viên từ các doanh nghiệp bên ngoài được cử đến để
xây dựng, bảo hành, sửa chữa hệ thống thông tin của đơn vị. Bởi theo như phân tích
164
của các chuyên gia an ninh thông tin trong các nguy cơ mất an toàn thông tin, thì các
nguy cơ từ trong nội bộ của các đơn vị chiếm tỷ lệ chủ yếu. Bởi vậy, cần tư vấn cho
các đơn vị, tăng cường các biện pháp bảo mật nội bộ, đặc biệt lựa chọn tuyển dụng
chặt chẽ, giáo dục, quản lý chặt đội ngũ nhân viên của mình. Trường hợp sử dụng dịch
vụ của các đơn vị bên ngoài, cần lựa chọn kỹ lưỡng những đơn vị cung cấp dịch vụ có
uy tín để tránh bị lợi dụng. Các đơn vị cần áp dụng các hệ thống quản lý giám sát
người sử dụng để kịp thời nắm bắt những hoạt động mà họ đã tiến hành trên hệ thống
thông tin, kịp thời phát hiện, cảnh báo những trường hợp vượt quyền. Các thiết bị hết
hạn sử dụng phải được xóa sạch dữ liệu đảm bảo chống việc phục hồi sau khi được
thanh lý, bán ra bên ngoài.
- Về hình thức tuyên truyền
Người sử dụng máy tính, thiết bị số, dịch vụ viễn thông rất đa dạng vì vậy cần
có nhiều hình thức và phương pháp tuyên truyền. Tuy nhiên phương pháp phù hợp
nhất là sử dụng chính các công cụ thông tin, truyền thông để truyền tải các nội dung
tuyên truyền đến quần chúng. Có nhiều hình thức cụ thể có thể sử dụng, như:
+ Phối hợp với các cơ quan thông tin như Đài truyền hình Việt Nam, Đài
tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam... đăng tải các tin bài phản ánh tình
hình và các vụ việc điển hình về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trên các
phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên các trang thông tin điện tử hoặc các
trang mạng xã hội;
+ Lập các trang mạng, các diễn đàn về an toàn thông tin trên trang mạng của các
lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, của các Bộ quản lý
ngành như Bộ thông tin và truyền thông, của các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực an ninh mạng như BKAV, VINCERT, Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam...
để đưa thông tin và khuyến khích người dùng trao đổi thông tin về đảm bảo an toàn
mạng. Đồng thời lập các chuyên mục để thu nhận các phản ánh, khiếu nại của người
dùng về các tội phạm và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Đối với nhóm đối tượng là người trẻ (thanh, thiếu niên, sinh viên) cần phối hợp
và phát huy vai trò của trường học, các trung tâm đào tạo, các tổ chức Đoàn thanh
niên, hội sinh viên, các câu lạc bộ sinh viên. Cụ thể như:
+ Lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao cần chủ động phối hợp
với các trường học, các Học viện, trường Đại học, các Trung tâm đào tạo
CNTT&MVT tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về phòng ngừa tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT cho sinh viên, học viên; kiến nghị và phối hợp với
các nhà trường trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, nâng cao ý thức trách
nhiệm xã hội cho sinh viên;
165
+ Kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin yêu cầu các tổ chức
quản lý các trang mạng, ban quản trị các diễn đàn trên mạng có sinh viên, học sinh
tham gia truy cập nhiều cần xây dựng các chuyên mục, bố trí các ban-nơ, dành một
phần không gian trên các trang mạng để tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Mở các
chuyên mục, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, hỏi đáp về pháp luật trên các trang mạng
cho sinh viên, học sinh;
+ Phối hợp với tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cùng với các cơ quan
chức năng tổ chức các nhóm sinh viên công nghệ thông tin xây dựng các diễn đàn, tổ
chức các câu lạc bộ có những hoạt động tuyên truyền trên mạng cũng như các hoạt
động thực tế (offline) phong phú, đa dạng, thích hợp với sinh viên, học sinh để thu hút
họ tham gia.
Ngoài ra cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hoặc ban hành quy định để đưa các
kiến thức, pháp luật về bảo đảm an ninh mạng; phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT vào chương trình giáo dục cho phù hợp với từng cấp học, bậc học nhằm
trang bị kiến thức, văn hóa ứng xử khi tham gia môi trường mạng cho toàn xã hội để
mỗi người dân có thể tự bảo vệ mình trước các thủ đoạn tinh vi của tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT; chấp hành pháp luật, không tiếp tay cho tội phạm và tích cực tham
gia phòng ngừa, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
Trên đây là những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, có những giải pháp mang tính cấp bách, giải
pháp mang tính lâu dài cần được đầu tư kinh phí dài hạn. Có những giải pháp đã thực
hiện nhưng chưa hiệu quả cần được hoàn thiện, tăng cường và đẩy mạnh trong thời
gian tới.
166
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 đến 2019,
chương 4 có những kết luận như sau:
1. CNTT&MVT là những lĩnh vực đang có những bước phát triển rất nhanh tại
Việt Nam và những năm tiếp theo. Trong khi đó hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh
lĩnh vực này lại chưa hoàn thiện, công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT của các
cơ quan chức năng còn nhiều hạn chế.
2. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở nước ta trong thời gian
qua đã có những diễn biến hết sức phức tạp, và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ,
tính chất, quy mô, địa bàn và lĩnh vực hoạt động.
3. Dự báo các yếu tố tác động trong và ngoài nước đối với sự phát triển của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa phù hợp
nhằm thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến triệt xóa tội phạm này.
4. Để tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&MVT tại Việt Nam, các chủ thể cần thực hiện các giải pháp sau đây:
- Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, nội dung hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; Tăng cường việc phòng
ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo chức năng, nhiệm vụ;
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&VT bao gồm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, luật chuyên ngành điều chỉnh
lĩnh vực CNTT&MVT;
- Nâng cao năng lực cho lực lượng phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực
CNTT&;
- Đẩy mạnh công tác tham mưu và phòng ngừa nghiệp vụ, phòng ngừa kỹ thuật
trong phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;
- Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các lực lượng, giữa các cơ quan tổ chức,
ban ngành, chính quyền địa phương trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT;
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh
vực CNTT&MVT;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.
167
KẾT LUẬN LUẬN ÁN
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng
sự tiến bộ của CNTT&MVT, sử dụng kiến thức và kỹ năng hiểu biết của mình về CNTT&MVT để phạm tội. Đây là một loại tội phạm phi truyền thống, nó được phát
sinh, phát triển trên cơ sở sự ra đời và tiến bộ không ngừng của CNTT&MVT. Tội
phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang gây ra những hậu quả rất nghiêm
trọng về kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, quyền và nghĩa vụ
của cơ quan, tổ chức và mọi công dân; đe dọa đến an ninh an toàn thông tin quốc gia. Do vậy việc phòng, chống loại tội phạm này là hết sức cần thiết đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi CNTT&VT đang được ứng dụng ngày càng sâu rộng vào nhiều
lĩnh vực của đời sống. Bên cạnh những ưu điểm do CNTT&VT mang lại thì nó cũng tạo những điều kiện thuận lợi cho tội phạm trong lĩnh vực này ngày càng gia tăng về
quy mô, số vụ và số tiền thu lợi bất hợp pháp. Trong việc phòng chống, đấu tranh với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì việc phòng ngừa tình hình tội phạm không
để nó xảy ra bằng nhiều biện pháp hướng tới việc thủ tiêu những nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm và ngăn chặn, kiềm chế, làm giảm và từng bước đẩy lùi tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT ra khỏi đời sống xã hội là rất quan trọng.
Để hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có
hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ các vấn đề như: khái niệm và đặc điểm
của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và các tội phạm có liên quan; khái niệm
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể, các nguyên tắc và các biện
pháp phòng ngừa. Tìm hiểu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra những đánh giá,
nhận xét cần thiết làm cơ sở đề xuất các giải pháp để khắc phục các tồn tại, hạn chế
trong hoạt động phòng ngừa. Từ đó góp phần tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.
Đi theo trình tự trên, Luận án đã có sự tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích sâu về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng song do đây là loại tội phạm mới, phi truyền thống cộng với sự hiểu biết còn hạn chế nên kết quả nghiên cứu chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các chuyên gia, nhà làm luật, thầy cô và
các bạn quan tâm đến đề tài Luận án.
168
Xin trân trọng cảm ơn!
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
1. Trần Đoàn Hạnh (2013): “Vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực công nghệ
CỦA TÁC GIẢ Đ CÔNG B LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
thông tin và truyền thông: Thực trạng và giải pháp phòng ngừa”, Tạp chí
Công nghệ thông tin và truyền thông (Số 460/tháng 11/2013), tr. 44-50.
2. Trần Đoàn Hạnh (2014): “Nhận diện hành vi tội phạm công nghệ cao và giải pháp
phòng ngừa theo quy đinh mới của pháp luật”, Tạp chí Công nghệ thông tin
và truyền thông (Số 475/ tháng 7/2014),
tr. 38-43.
3. Trần Đoàn Hạnh (2016): “Những vướng mắc trong đấu tranh xử lý vi phạm pháp
luật về tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Số
306+307/tháng 2/2016), tr. 103-111.
4. Trần Đoàn Hạnh (2016): “Yêu cầu hoàn thiện khung khổ pháp lý xử phạt tội phạm
công nghệ thông tin, mạng viễn thông”, Tạp chí Tài chính (Số 639/tháng
8/2016), tr. 21-23.
5. Trần Đoàn Hạnh (2017): “Phòng ngừa tội phạm sử dụng công nghệ thông tin và
viễn thông”, Tạp chí Quản lý nhà nước (Số 256/tháng /2017), tr. 80-84.
6. Trần Đoàn Hạnh (2018): “Quản lý thẻ cào viễn thông, những bất cập và giải pháp
khắc phục”, Tạp chí Quản lý nhà nước (Số 275/tháng 12/2018), tr. 70-72.
7. Trần Đoàn Hạnh (2019): “Bảo đảm an toàn thông tin cá nhân trong giao dịch
thương mại điện tử tạ Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước (Số 281/tháng
169
6/2019), tr. 98- 100.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Ban Bí thư (2016), Kết luận số 05-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
2. Bộ Bưu chính viễn thông (Bộ thông tin truyền thông) (2005), Chỉ thị số
03/2005/CT-BBCVT về đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và tham
nhũng trong lĩnh vực bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
6. Bộ Công an, (2015), Chỉ thị về việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong tình hình mới, Hà Nội.
7. Bộ Công an, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao 2019 và phương hướng nhiệm vụ năm 2020, Hà Nội
8. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(2013), Báo cáo tổng kết 3 năm công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội, Hà Nội.
9. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(2015), Báo cáo tổng kết 5 năm công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ
cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội 2010 - 2015, Hà Nội.
10. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(2016), Báo cáo sơ kết công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm
phạm trật tự an toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2016, Hà Nội.
11. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(2017- 2018), Báo cáo công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm
170
phạm trật tự an toàn xã hội năm 2017- 2018, Hà Nội.
12. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
(2014), Hội nghị tăng cường hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội, Hà Nội.
13. Bộ Công an, Tổng cục VI (2010), Quyết định số 450/2010/QĐ-BCA ngày
4/2/2010 của Bộ trưởng Bộ công an quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức bộ máy của Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Hà
Nội
14. Bộ Công an, Tổng cục VI (2010), Quyết định số 4356/QĐ-C41-C43 về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của phòng tham mưu tổng hợp
thuộc C50, Hà Nội.
15. Bộ Công an, Tổng cục VI (2013), Quyết định số 4357/QĐ-C41-C43 về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng phòng chống tội
phạm mạng máy tính thuộc C50, Hà Nội.
16. Bộ Công an – Bộ thông tin và truyền thông (2008), Thông tư liên tịch số
06/2008/TTLT-BTTTT-BCA về bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng và an ninh thông tin
traong hoạt động bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin, Hà Nội.
17. Bộ Công an-Bộ Quốc phòng-Bộ tư pháp-Bộ thông tin truyền thông-Viện
kiểm sát nhân dân tối cao-Tòa án nhân dân tối cao (2012), Thông tư liên tịch số
10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định
của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông, Hà Nội.
18. Bộ Công an (2013), Thông tư số 18,19,20,21,22/2013/TT-BCA-C41 về
công tác điều tra cơ bản, xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án và xây dựng lực
lượng Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Bộ Công an, Tổng cục VI (2010 – 6/2014), Thống kê số liệu tội phạm sử
dụng công nghệ cao, Hà Nội.
20. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Bộ công thương (2014), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn
2004-2014, Hà Nội.
22. Bộ công thương (2019), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn
171
2015-2019, Hà Nội.
23. Bộ thông tin và truyền thông (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết nhiệm vụ
công tác năm 2015- 2019, Hà nội.
24. Bộ thông tin và truyền thông (2017), Đề án tăng cường hiệu quả công tác
phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet, Hà Nội.
25.Bộ thông tin và truyền thông (2016), Hội nghị sơ kết đánh giá thi hành
Luật viễn thông và Luật tần số vô tuyến điện, Hà nội.
26. Bộ thông tin và truyền thông (2014), Quyết định số 1765/QĐ-BTTTT về
quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ
TTTT, Hà nội.
27. Bộ thông tin và truyền thông (2015), Quyết định số 1778/QĐ-BTTTT về
quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm ứng cứu
khẩn cấp máy tính Việt Nam, Hà nội.
28. Bộ thông tin truyền thông (2018), Quyết định 1616/QĐ-BTTTT năm 2018
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Giám
sát an toàn không gian mạng quốc gia, Hà Nội.
29. Bộ thông tin và truyền thông (2013), Sách trắng công nghệ thông tin và
truyền thông Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013, Hà Nội.
30. Bộ tư pháp (2019), Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp quốc gia ”Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam”, Hà Nội
31. C.Mác-Ăng-ghen (1984), Tuyển tập: tập 6, Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội.
32. Cao Anh Đức (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam:
tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa
học xã hội.
33. Chính phủ (2007), Nghị định số 71/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật công
nghệ thông tin.
34. Chính phủ (2011), Nghị định số 25/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật viễn thông.
35. Chính phủ (2013), Nghị định số 170/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật
giao dịch điện tử.
36. Chính phủ (2013), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP quy định về trách nhiệm
quản lý nhà nước về an toàn thông tin và an ninh thông tin
37. Chính phủ (2013), Nghị định 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
172
hành chính trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, CNTT&và tần số vô tuyến điện.
38. Chính phủ (2014), Nghị định số 25/NĐ-CP quy định về phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao.
39. Chính phủ (1993), Nghị quyết số 49/CP về phát triển công nghệ thông tin
ở Việt nam.
40. Công an thành phố Hà nội (2003-tháng 6/2014), Báo cáo tổng kết công tác
của PC50.
41. Chuyên đề (2010), Một số lý luận, thực tiến và giải pháp đấu tranh phòng
chống tội phạm liên quan đến sử dụng công nghệ cao, Mai Anh Thông – Cao Anh
Đức – Nguyễn Việt Dũng, Hội đồng khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
42. Dương Tuyết Miên (2008), Phòng ngừa tình hình tội phạm, Tạp chí Tòa
án nhân dân.
43. Đảng cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ XII của Đảng cộng sản Việt
Nam.
44. Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Bài giảng Tội phạm học. Khoa Luật.
45. Đại học Luật Hà nội (2012), Giáo trình Tội phạm học, Nhà xuất bản Công
an nhân dân.
46. Đặng Trung Hà (2009), Tội phạm công nghệ thông tin và sự khác biệt
giữa tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông thường, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật.
47. Đại từ điển Tiếng Việt (2010), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Tp Hồ Chí
Minh
48. Đỗ Chí Tuệ (2011), Đấu tranh phòng, chống các tội phạm sử dụng công
nghệ cao qua mạng máy tính ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa
học xã hội
49. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2009), Các khái niệm về tội phạm và tình hình
tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí Luật học.
50. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nhà
xuất bản tư pháp
51. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2008), An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia
nhập WTO, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
52. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa
173
tội phạm, Nhà xuất bản công an nhân dân.
53. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Phan Văn Vĩnh (2012), Tội phạm ở Việt Nam
năm 2011-2012, Nhà xuất bản Công an nhân dân
54. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm – PGS.TS Nguyễn Minh Đức (2011), Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nhà
xuất bản công an nhân dân.
55. GS.TS Trần Đại Quang – GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm
học Việt Nam tập 2 chương XXIII : Đặc điểm tội phạm học và phòng ngừa các tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Nhà xuất bản công an nhân dân.
56. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013), Tội phạm học, Nhà xuất bản công an nhân dân.
57. Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam (2015), Báo cáo.
58. Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam (2019), Báo cáo.
59. Học viện cảnh sát nhân dân (2010), Phòng chống tội phạm truyền thống, tội
phạm phi truyền thống trong điều kiện hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học.
60. Học viện cảnh sát nhân dân (2014), Phòng chống tội phạm sử dụng công
nghệ cao – Những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo”, Kỷ yếu hội thảo khoa học.
61. Học viện cảnh sát nhân dân (2014), Các văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực công nghệ cao, quyển 1-2.
62. Nguyễn Mạnh Toàn (2002), Đặc điểm và các dạng hành vi cơ bản của tội
phạm tin học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
63. Nguyễn Quốc Nhật – Bùi Văn Thịnh – Hoàng Thị Bích Ngọc (2006), Tâm
lý xã hội và hoạt động phòng ngừa tội phạm, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
64. Lại Kiên Cường (2014), Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại
điện tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sỹ, Học viện cảnh sát nhân dân.
65. Quốc hội Việt Nam (2009), Bộ luật hình sự sửa đổi, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia.
66. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự sửa đổi, NXB chính trị quốc gia
67. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, NXB chính trị
quốc gia
68. Quốc hội Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
69. Quốc hội Việt Nam (2018) , Luật An ninh mạng, NXB Chính trị quốc gia
70. Quốc hội Việt Nam (2015), Luật an toàn thông tin mạng, NXB chính trị
174
quốc gia.
71. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật Công an nhân dân, NXB chính trị quốc gia
72. Quốc hội Việt Nam (2006), Luật công nghệ thông tin , Nhà xuất bản chính
trị quốc gia.
73. Quốc hội Việt Nam (2005), Luật giao dịch điện tử, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia
74. Quốc hội Việt Nam (2011), Luật tần số vô tuyến điện, NXB chính trị quốc gia.
75. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, NXB chính trị
quốc gia
76. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, NXB
chính trị quốc gia
77. Quốc hội Việt Nam (2011), Luật viễn thông, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
78. PGS.TS Lê Thị Sơn (2015), Tội phạm học so sánh, Nhà xuất bản tư pháp
79. Thủ tướng Chính phủ (2011), Chỉ thị số 897/CT-TTg về việc tăng cường
triển khai các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin số, Hà Nội.
80. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg phê duyệt Chiến
lược quốc gia phòng phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến
năm 2030.
81. Tổng cục Cảnh sát (2010), Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế
trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, đầu tư tài chính và kinh doanh trên mạng
Inernet, Kỷ yếu hội thảo khoa học.
82. Tổng cục Cảnh sát (2010), “Tình hình và công tác đấu tranh chống tội
phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học
83. Trần Đức Châm (2012), Xã hội học tội phạm, NXB chính trị quốc gia
84. TS Phạm Văn Lợi (2007), Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, NXB tư pháp.
85. TS Nguyễn Quang Nghĩa – Th.S Phạm Hải Bình (2014), Những vấn đề cơ
bản về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Học viện cảnh sát nhân dân.
86. TS Nguyễn Thanh Hóa – Th.S Phạm Hải Bình (2014), Tổ chức và hoạt
động của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Học
viện cảnh sát nhân dân.
87. TS Lê Minh Toàn (2013), Vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và viễn thông – Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, Tạp chí công
175
nghệ thông tin và truyền thông.
88. TS Trần Văn Hòa (2009), Phòng chống tội phạm công nghệ cao và biện
pháp quản lý của Chính phủ, Tạp chí An toàn thông tin.
89. TS Trần Văn Hòa (2011), An toàn thông tin và công tác phòng chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
90. TS Trần Văn Hòa – TS Nguyễn Ngọc Cương (2012) , Phòng chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Học viện an ninh nhân dân.
91. TS Trần Văn Luyện (2013), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999
sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
92. TS Trịnh Tiến Việt (2014), Kiểm soát xã hội đối với tội phạm, Nhà xuất
bản chính trị quốc gia
93. Trần Văn Yên (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn
Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội.
94. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 1999-2019
và phương hướng nhiệm vụ năm 2020
95. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm
2010-2019
Tiếng Anh
96. Peat Marwick (2000), E-ecommerce and Cyber Crime : New Strategies for
Management the risk of exploitation.
97. K.Ghosh (2001) , E-Commerce security and privacy.
98. R.Newman và Ronald V.Clarke (2003), Preventing E-commerce Crime.
99. Moore, R.(2005), Cybercrime : Investigating High-Technology computer crime.
100. Mohamed Chawki (2005), A Citical look at the regulation of cybercrime.
101. David S. Wall (2010), Cyber Crime, Polity Press.
102. K. Jaishankar(2010),Cyber Criminology, CRC Press, Taylor and Franics
Group.
103. Nina Godbole, Sunit Belapure (2012), Cyber Security: Understanding
Cyber Crimes, Computer Forensics And Legal Perspectives, Oxford University Press.
104. Thomas J. Holt (2012), Online Crime, Carolina Academic Press.
105. ITU (2012), Understanding Cyber Crime: Phenomena, Challenges and
176
Legal response.
106. Jonathan Clough (2013), Principles of Cybercrime. Cambridges
University Press.
107. United Nations Office on Drugs and Crime- UNODC (2013)
,Comprehensive Study on CyberCrime.
108. Frank Schmalleger and Michael Pittaro (2014), Crimes of the Internet,
Pearson Publisher.
Các website của cơ quan tổ chức có liên quan
109. Website chuyên về phòng chống Tội phạm công nghệ cao của Tổ chức
cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol): http://www.interpol.int/Crime-areas/Cybercrime
110. Website Bộ công an www.mps.gov.vn
111. Website Bộ thông tin truyền thông www.mic.gov.vn
112. Website Tòa án nhân dân tối cao www.toaan.gov.vn
113. Website Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam, Cục
an toàn thông tin www.vncert.gov.vn
114. Website Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia, Cục an
toàn thông tin www.khonggianmang.vn
177
115. Website Tập đoàn công nghệ BKAV www.bkav.com.vn
PHỤ LỤC 1
BẢNG 1.1: KẾT QUẢ ĐẤU TRANH CHUYÊN ÁN TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG
TỪ 2010-2019
----------
NĂM S CHUYÊN ÁN STT
2010 7 1
2011 11 2
2012 44 3
2013 42 4
2014 64 5
2015 75 6
2016 77 7
2017 87 8
2018 57 9
2019 68 10
(Nguồn: Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao C50
178
Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao A05)
BẢNG 1.2: KẾT QUẢ KHỞI T Đ I TƢỢNG VÀ S VỤ ÁN
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG
TỪ 2010-2019
--------------------------
STT NĂM S Đ I TƢỢNG S VỤ
10 1 2010 14
23 2 2011 32
54 3 2012 210
48 4 2013 201
130 5 2014 384
148 6 2015 682
155 7 2016 552
220 8 2017 429
150 9 2018 435
165 10 2019 509
(Nguồn: Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao C50
179
Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao A05)
BẢNG 1.3 : ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG
TỪ NĂM 2010 - 2015
--------------------------
Đặc điểm Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Nam 1306 72,27 Giới tính
Nữ 501 27,73
Từ 16-35 tuổi 1069 59,16
Độ tuổi Từ 35-50 tuổi 457 25,28
Trên 50 tuổi 281 15,56
Đại học, trên ĐH 834 46,15
Trình độ Cao đẳng, Trung cấp 714 39,51
Tốt nghiệp THPT và chưa tốt nghiệp 259 14,34
Lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp 276 15,27
Thành phần Cán bộ, công nhân viên 481 26,62
Sinh viên 1050 58,11
Đã có tiền án, tiền sự 247 13,67 Quá khứ
phạm pháp Chưa có tiền án, tiền sự 1560 86,33
180
(Nguồn: C50 – Bộ Công an)
PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ ĐẤU TRANH CHUYÊN ÁN ĐIỂN HÌNH TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ
MẠNG VIỄN THÔNG TỪ 2010 – 2019
--------------------
- Năm 2010: Vụ nhóm đối tượng người Trung Quốc móc nối với đối tượng
người Việt Nam sử dụng thẻ tín dụng giả, thanh toán khống tại Vinh, Nghệ An chiếm
đoạt hơn 1,3 tỷ đồng. PC45 công an tỉnh Nghệ An đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị
can về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009.
- Năm 2011: Vụ Nguyễn Quý Phúc và Phùng Ngọc Tuấn sử dụng mạng
Internet cài đặt phần mềm gián điệp keylogger trộm cắp mật khẩu tài khoản chat
yahoo, mạo danh chủ tài khoản lừa đảo chiếm đoạt hơn 400 triệu đồng của hàng chục
bị hại. Công an Tp Hà Nội đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can về tội “Sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009.
- Năm 2012: Vụ nhóm đối tượng người Trung Quốc sử dụng thẻ tín dụng giả,
thực hiện hơn 300 lượt thanh toán khống qua máy POS trong vòng 12 ngày, chiếm
đoạt hơn 17 tỷ đồng của Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội tại Tp Hà Nội.
Công an Tp Hà Nội đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can về tội “Sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009.
- Năm 2013: Đấu tranh triệt phá đường dây tội phạm chuyên tổ chức đánh bạc
và đánh bạc qua mạng Internet tại website http://M88.com có máy chủ đặt tại
Philippine, với số tiền giao dịch ước tính hàng nghìn tỷ đồng. C45 đã khởi tố vụ án,
khởi tố các bị can về tội “Đánh bạc” theo Điều 248 và tội “Tổ chức đánh bạc” theo
Điều 249 BLHS 2009. Trong đó đối tượng Cù Thị Thanh Hải (sinh năm 1973, trú tại
quận Đống Đa, Tp Hà Nội), Cù Huy Giáp (sinh năm 1982, trú tại quận Hai Bà Trưng
Tp Hà nội) là những đối tượng cầm đầu đường dây ở khu vực phía Bắc và đối tượng
Nguyễn Lê Giang (sinh năm 1963, trú tại Tp Hồ Chí Minh) là đối tượng cầm đầu
đường dây ở khu vực phía Nam.
- Năm 2014: Đấu tranh làm rõ diễn đàn tội phạm hkvfamily.info với hơn
181
1.900 thành viên, chuyên trộm cắp, trao đổi, mua bán thông tin thẻ tín dụng của
người nước ngoài và sử dụng những thông tin thẻ tín dụng này mua hàng hóa trực
tuyến chuyển về Việt Nam tiêu thụ. C45 đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can về tội
“Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009. Trong đó có 2 đối
tượng là người quản trị diễn đàn tên Phạm Thái Thành (sinh năm 1983 trú tại Ngọc
Thụy, Long Biên-Hà Nội) và Lê Văn Hào Hoa trú tại phường 14 quận Bình Thạnh
Tp Hồ Chí Minh.
- Năm 2015: Vụ nhóm đối tượng do Lê Duy Mạnh (sinh năm 1988 trú tại
Thạch Thành-Thanh Hóa) cầm đầu đã gửi thư điện tử, đe dọa tống tiền Công ty cổ
phần sữa Việt Nam Vinamilk 300 triệu đồng. PC46 Công an tỉnh Thanh hóa đã khởi
tố vụ án, khởi tố các bị can về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo Điều 135 BLHS 2009.
+ Vụ đối tượng Nguyễn Lê Hoàng Phúc, sinh năm 1990 trú tại Vĩnh Long tấn
công vào website của VNPT Sóc Trăng, trộm cắp và phán tán hơn 50.000 thông tin
khách hàng trên mạng Internet.
- Năm 2016: Cục cảnh sát phòng chống tội phạm Công nghệ cao (C50) và
Công an tỉnh Đồng Nai đã triệt phá một đường dây lừa đảo huy động vốn công nghệ
cao, chiếm đoạt trên 140 tỷ đồng của rất nhiều người.
Công an bắt giữ 3 nghi can có vai trò cầm đầu đường dây gồm: Nguyễn Thị
Minh Phương, Phạm Thanh Toàn và Hồ Đình Phú. Phương cùng đồng bọn góp vốn
thành lập Công ty Cổ phần Phương Thái An, có trụ sở giao dịch ở phường Tân Hòa,
TP Biên Hòa, rồi thuê người lập trang web hero8.org để huy động nguồn vốn mở
rộng kinh doanh bất động sản, mua bán vàng, sửa chữa ô tô… trong khu đô thị
Phương Thái An.Những người tham gia góp vốn kinh doanh qua trang web
hero8.org sẽ được hưởng lãi suất cao. Phương cùng đồng bọn đưa ra giải pháp đầu tư
theo mã pin ID (mã tiền ảo), người có nhu cầu góp vốn đầu tư phải mua mã pin ID
với mức tiền 10,16 trệu đồng, trong đó phí mã pin ID 2,16 triệu đồng, vốn góp 8 triệu
đồng sẽ được hưởng lợi nhuận.
Sau 5 ngày góp vốn, mỗi mã pin ID sẽ nhận được 39,6 triệu đồng tiền lãi,
trường hợp giới thiệu người tham gia hệ thống góp vốn đầu tư qua trang web
hero8.org theo hình thức đa cấp sẽ được hưởng hoa hồng.Với chiêu thức lừa đảo nêu
trên, chỉ sau một thời gian ngắn hệ thống trang web hero8.org đã huy động được
21.405 khách hàng ở nhiều tỉnh, thành phố đăng ký mã tiền ảo, thế nhưng những
182
người đầu tư qua trang web đó không hề nhận được tiền lãi và hoa hồng.
Công an xác định Nguyễn Thị Minh Phương và đồng bọn đã chiếm đoạt gần
140 tỷ đồng bằng chiêu thức huy động vốn thông qua trang web hero8.org. Hệ thống
của các đối tượng có 21.405 mã khách hàng, trong số đó 14.637 mã đã kích hoạt.
- Năm 2017: Tháng 5/2017, C50 phối hợp Công an tỉnh An Giang đã thi hành
lệnh bắt khẩn cấp, khám xét nơi làm việc và nhà ở của bà Nguyễn Thị Khéo (34 tuổi,
quê tỉnh An Giang, Phó giám đốc Công ty TNHH dịch vụ phần mềm Asian Livetech,
phường Tân Phú, Quận 7, TP. HCM) để điều tra về hành vi tổ chức đánh bạc qua
mạng. Khám xét nơi ở, nơi làm việc của các nghi phạm nói trên tại TP. HCM, An
Giang, TP. Hà Nội, C50 thu giữ 1 server, 6 máy tính, 10 điện thoại, 2 két sắt... và rất
nhiều giấy tờ, thẻ ATM liên quan đến hoạt động điều hành đánh bạc qua mạng, C50
xác định số tiền giao dịch đánh bạc qua trang web này là hơn 1.200 tỷ đồng.
Theo điều tra, trang web www.ibet789.com có máy chủ tại Hồng Kông và
một số nước khác trong khu vực châu Á. Tên miền khởi tạo vào ngày 17/12/2010,
giao diện thể hiện trên web có nhiều ngôn ngữ khác nhau trong đó có tiếng Việt.
- Năm 2018: Công an tỉnh Phú Yên phối hợp với Cục Cảnh sát phòng chống
tội phạm công nghệ cao (C50) đã triệt phá đường dây tổ chức đánh bạc và đánh bạc
dưới hình thức cá độ bóng đá qua mạng Internet. Số tiền giao dịch đánh bạc của các
đối tượng thông qua tài khoản trên mạng internet tính từ tháng 6/2017 đến nay là
khoảng 5 triệu điểm, tương đương 200 tỷ đồng (trung bình 1 điểm = 40.000 đồng).
Trong đó, có đối tượng cá độ trong một trận đấu bóng đá lên đến 2,2 tỷ đồng; nhiều
trận đấu của đội tuyển U23 Việt Nam ở giải U23 châu Á vừa qua đã được cá độ tiền
tỷ. Đường dây tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua
Internet do Nguyễn Tấn Thành và Trần Thanh Tín cầm đầu.
- Năm 2019: Phan Đình Thư, Trần Quốc Khánh và Nguyễn Duy Toản, đều là
công dân Việt Nam, bị cáo buộc đã tham gia vào kế hoạch lừa đảo nhằm thu lợi bất
chính lợi dụng đại dịch COVID-19.
Các bị can đã điều hành hơn 300 trang web lừa đảo bán các sản phẩm đang trở
nên khan hiếm trong thời gian diễn ra đại dịch, trong đó có nước rửa tay khô và khăn
ướt diệt khuẩn. Hơn 7.000 nạn nhân đến từ tất cả 50 bang của Mỹ đã đặt mua những
sản phẩm này từ các trang web của các bị can. Các nạn nhân đã trả tiền cho các sản
phẩm được cho là bán qua các trang web này nhưng chưa bao giờ nhận được các sản
183
phẩm đã đặt hàng.
Các bị can đã tạo ra hàng trăm tài khoản email và tài khoản người dùng với
phương thức thanh toán tại Mỹ nhằm thực hiện hoạt động lừa đảo và để trốn tránh
các cơ quan thực thi pháp luật. Các bị can đồng thời cung cấp các thông tin sai lệch
về địa chỉ và số điện thoại liên lạc lên trang web của mình, đã thực hiện gần 40.000
giao dịch lừa đảo trị giá xấp xỉ 975.000 USD.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
184
xâm phạm trật tự an toàn xã hội 2010-2015, 2016- 2019 của C50-A05, Bộ công an)