VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐOÀN HẠNH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ

VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐOÀN HẠNH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ

VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 9.38.01.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hữu Tráng

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là khách quan và trung thực, chưa từng được công

bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận án

Trần Đoàn Hạnh

i

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 7

1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................................ 7

1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................................... 9

1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu .................................................................. 19

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 22

Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG

VIỄN THÔNG ......................................................................................................... 23

2.1 Khái quát về công nghệ thông tin, mạng viễn thông và tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông ........................................... 23

2.2 Lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông ........................................................................... 35

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 69

Chƣơng 3: PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY ............................................................................................................... 70

3.1 Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và

mạng viễn thông ............................................................................................... 70

3.2 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông ........................................................................... 78

3.3 Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và mạng viễn thông ở Việt Nam .................................... 108

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ...................................................................................... 125

Chƣơng 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG

NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ

THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG .......................................................... 126

4.1. Dự báo tình hình tội phạm và các yếu tố ảnh hưởng đến phòng ngừa

ii

tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông . 126

4.2 Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông ................................................ 136

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ...................................................................................... 167

KẾT LUẬN LUẬN ÁN ......................................................................................... 168

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ Đ CÔNG B

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 169

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 170

iii

PHỤ LỤC 1 ............................................................................................................ 178

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI

1 A05 Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm

sử dụng công nghệ cao, Bộ công an

2 BLHS Bộ luật hình sự

3 CNTT Công nghệ thông tin

4 CNTT&MVT Công nghệ thông tin và mạng viễn thông

5 CNTT&VT Công nghệ thông tin và viễn thông

5 C50 Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao, Bộ Công an

6 PA05 Phòng An ninh mạng và phòng chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao

7 PCTP Phòng chống tội phạm

8 PC50 Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử

dụng công nghệ cao

iv

9 VT Viễn thông

DANH MỤC PHỤ LỤC TRONG LUẬN ÁN

Phụ lục 1:

Bảng 1.1: Kết quả đấu tranh chuyên án tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông từ 2010-2019

Bảng 1.2 : Kết quả khởi tố đối tượng và số vụ án trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông từ 2010-2019

Bảng 1.3: Đặc điểm nhân thân người phạm tội trong lĩnh vực công nghệ thông

tin và mạng viễn thông từ 2010-2015

Phụ lục 2:

Kết quả đấu tranh chuyên án điển hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

v

thông tin và mạng viễn thông từ 2010-2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

(CNTT&MVT) là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự

do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng sự tiến bộ của CNTT&VT, sử

dụng kiến thức, kỹ năng hiểu biết của mình về CNTT&VT để phạm tội.

Việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT đã

được quan tâm từ những năm 70 của thế kỷ trước. Năm 1977, Thượng nghị sỹ

Ribikoff đã đệ trình Nghị viện Hoa Kỳ dự luật về tội phạm mạng – gọi là tội phạm

máy tính; tuy nhiên, lúc đó dự luật này chưa được chấp nhận. Năm 1983, khối OECD

lập một nhóm chuyên gia nghiên cứu về tội phạm liên quan đến máy tính để đưa ra các

đề xuất sửa đổi pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên. Năm 1989, Hội đồng

châu Âu cũng thông qua bản đề xuất danh mục các tội phạm được coi là tội phạm máy

tính. Năm 1997, nhóm các nước công nghiệp phát triển G8 cũng thể hiện mối quan

tâm của mình về vấn đề này bằng cách thông qua hệ nguyên tắc phòng, chống tội

phạm máy tính. Năm 2001, Hội đồng châu Âu thông qua công ước về tội phạm mạng.

Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định về

tội phạm mạng. Đi tiên phong trong số đó có thể kể đến các quốc gia như Mỹ, Pháp,

Đức, Anh, Bỉ, Canada, Nhật Bản...

Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tế về tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT số vụ tăng dần theo các năm. Điều này cho thấy tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, với diễn biến tăng cả

về số vụ và tính chất, mức độ, hậu quả.

Báo cáo của hãng bảo mật Kaspersky và Symantec tại Hội thảo- triển lãm quốc

gia về An ninh Bảo mật 2015 (Security World 2015) ngày 25/3/2015, cho biết, Việt

Nam được xếp đứng thứ 3 sau Nga và Ấn Độ về số người dùng di động bị mã độc tấn

công nhiều nhất trên thế giới, thứ 6 trên thế giới về số lượng địa chỉ IP trong nước

được dùng trong các mạng máy tính tấn công nước khác; thứ 7 trên thế giới về phát tán

tin nhắn rác (giảm 1 bậc so tháng 11/2013) và đứng thứ 12 trên thế giới về các hoạt

động tấn công mạng [12].

Năm 2019- 2020 các hoạt động tấn công mạng tiếp tục diễn biến phức tạp với

nhiều phương thức, thủ đoạn mới và ngày càng trở thành mối đe dọa lớn đối với người

dùng trực tuyến. Theo thống kê, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu thế giới

về tỷ lệ lây nhiễm mã độc qua thiết bị lưu trữ ngoài (USB, thẻ nhớ, ổ cứng di động) với

tỷ lệ 70.83% máy tính bị lây nhiễm; 39,95% người dùng phải đối mặt với mã độc bắt

nguồn từ không gian mạng, nhận định xu hướng chính của mã độc là mã hóa dữ liệu để

1

tống tiền (ransomware). Mã độc này có thể khóa các tập tin trên hệ thống máy tính, điện

thoại, máy tính bảng thông qua những tin nhắn, email hoặc ứng dụng độc hại. Chỉ số an

toàn thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam ở mức trung bình 50-60% [55].

Tại Việt Nam để phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này theo tinh thần của

Chỉ thị 48/TW-BCT về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,

chống tội phạm trong tình hình mới ngày 22/10/ 2010 và Kết luận số 05-KL/TW ngày

15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị 48/TW-BCT đã

xác định “ Công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách,

vừa thường xuyên, lâu dài, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; …” trong đó

cần phải“...Chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công trấn áp các loại tội phạm; nhất là

tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm hình sự, ma túy, tội phạm kinh tế, tham

nhũng, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao…” [5]. Như vậy, theo tinh thần

chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư thì việc phòng, chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao (tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT) cần được tăng cường và chủ động

phòng ngừa, ngăn chặn không để hậu quả xảy ra. Bên cạnh đó, khung pháp luật về

phòng chống, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ngày càng được hoàn thiện

không ngừng trong những năm gần đây. BLHS năm 1999 quy định về 03 tội danh có

liên quan đến CNTT tại các Điều 224; Điều 225; Điều 226. BLHS năm 2009 đã bổ

sung thêm các tội danh liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bao gồm:

Điều 224, Điều 225, Điều 226, Điều 226a, Điều 226b. BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ

sung thêm quy định các nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT và mạng viễn thông tại

mục 2 Chương XXI bao gồm từ Điều 285 đến Điều 294.

Nhưng trong thực tiễn, dù có nhiều hành vi vi phạm được các cơ quan chức

năng điều tra, phát hiện thời gian qua nhưng số lượng các vụ án loại này được đưa ra

xét xử rất ít. Việt Nam hiện đang có tốc độ phát triển về công nghệ thông tin, mạng

viễn thông rất cao, vì thế loại tội phạm này cũng đang gia tăng nhanh chóng và đã có

tính quốc tế rõ rệt.Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT cũng mang tính toàn cầu. Những loại tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT xuất hiện trên thế giới cũng xảy ra ở Việt Nam và gây nguy hại cho nền

kinh tế, chính trị và xã hội như ở các nước khác.

Thủ đoạn phạm tội rất tinh vi, xảo quyệt trong khi lực lượng phòng chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn thiếu, kinh nghiệm chưa nhiều nên việc phát

hiện loại tội phạm này rất khó khăn. Hiện nay các quy định của pháp luật liên quan

đến tội phạm này vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ cũng là nguyên nhân chính khiến nhiều

cơ quan tố tụng phải lúng túng khi xử lý các tội phạm này. Về mặt lý luận vẫn còn

thiếu những công trình khoa học, đề tài, luận án, luận văn đi sâu nghiên cứu về các tội

2

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài

“Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông

ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Tội phạm học và

phòng ngừa tội phạm là hoàn toàn cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích nghiên cứu

Luận án làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về phòng ngừa tình hình tội

phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói

riêng; thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt

Nam trong khoảng thời gian từ năm 2010-2019. Luận án đề xuất những kiến nghị

nhằm tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT tại Việt Nam.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án trong và

ngoài nước để có được những cơ sở lý luận, sở cứ khoa học về phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;

- Trên cơ sở nền tảng lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm, phân tích và

làm rõ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Phân tích, làm rõ thực tiễn tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT,

trong đó đi sâu nghiên cứu làm rõ tình hình, nguyên nhân và điều kiện, các tồn tại,

thiếu sót, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận án có đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói

riêng; Các quy định của pháp luật, thực tế phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT tại Việt Nam.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Tuy

nhiên tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT không phải là một tội danh cụ thể quy định

trong BLHS mà là một khái niệm của tội phạm học, do đó trước khi nghiên cứu về tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, tác giả luận án sẽ làm rõ những vấn đề lý luận về tội

3

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được quy định tại mục 2 chương XXI từ Điều 285 đến

Điều 294 BLHS Việt Nam năm 2015.

Về không gian: Luận án nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT của các cơ quan chức năng tại Việt Nam.

Về thời gian: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ năm 2009 đến nay, trong đó tập trung

vào các quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bao gồm các tội

danh được quy định tại mục 2 chương XXI ; Thực trạng phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ năm 2010 đến năm 2019.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1 Phương pháp luận

Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư

tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng

sản Việt Nam, của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam về phòng, chống tội phạm

nói chung và phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng; cơ sở lý

luận của khoa học luật hình sự, các ngành khoa học khác về tội phạm và hình phạt, cơ

sở lý luận chung về phòng ngừa tội phạm được sử dụng trong luận án như là cơ sở

phương pháp luận để luận giải các vấn đề lý luận trong phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Luận án cũng được nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu các quan

điểm khoa học của nhân loại về nhà nước, pháp luật; các quan điểm mới về tội phạm

nói chung, về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Luận án sẽ phân tích và

làm rõ các khái niệm có liên quan đến tội phạm trọng lĩnh vực CNTT&MVT được quy

định trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.

Trên cơ sở phân tích thực trạng phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2010-2019 để đưa ra những dự

báo về tình hình, diễn biến của tội phạm này trong thời gian tới. Qua đó đề xuất các

giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại

Việt Nam.

4.2 Phương pháp nghiên cứu

Đề hoàn thành và bảo đảm chất lượng của Luận án, trong quá trình nghiên cứu

đề tài, Nghiên cứu sinh đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp

nghiên cứu tài liệu, lịch sử, phân tích, so sánh, quy nạp, tổng hợp, hệ thống hoá…; cụ

thể là:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng trong việc tìm hiểu các văn bản

pháp luật về CNTT&MVT, các văn bản pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; nghiên cứu các báo cáo tổng kết công tác năm của

4

Bộ thông tin và truyền thông, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao C50 (nay là Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao –

A05), Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao PC50 (PA05)

Công an Tp Hà Nội; Tập đoàn công nghệ BKAV, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam VNCERT/CC, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng

quốc gia NCSC…

Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu, làm rõ quá trình hình thành,

thay đổi quan điểm của pháp luật Việt Nam và quốc tế về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (các Chương 1,2);

Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình thu thập, đối chiếu số

liệu về tình hình phát triển CNTT&MVT ở Việt Nam tại Bộ thông tin và truyền

thông cũng như tình hình tội phạm và kết quả phòng ngừa, đấu tranh xử lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT của các cơ quan chức năng từ năm 2010 - 2019;

Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp được sử dụng trong tất cả các chương

của Luận án, nhằm trình bày, làm sáng tỏ các quan điểm, quan niệm về lĩnh vực

CNTT&VT và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, pháp luật Việt Nam, pháp luật của

các quốc gia, vùng lãnh thổ và pháp luật quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, về thực tiễn áp dụng các quy định về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT trong việc định tội danh và quyết định hình phạt ở Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó, xác định bản chất, đặc điểm của các hiện tượng được nghiên cứu, sự phù

hợp và bất cập của thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về các tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT của việc định tội danh và quyết định hình phạt ở Việt Nam thời gian

qua ( các Chương 2, 3); từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị, đề

xuất hoàn thiện các quy định có liên quan của BLHS Việt Nam hiện hành (Chương 4);

Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc làm rõ tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam thời gian qua; những tích cực,tiến bộ và hạn chế

trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam

(Chương 3);

Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong toàn bộ các chương của Luận án nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong Luận án theo một trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu cầu đã được xác định cho Luận án;

Phương pháp phân tích, dự báo khoa học được sử dụng để dự báo về diễn biến của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam và trên thế giới cũng

như các yếu tố tác động đến tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (Chương 4).

5

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

5.1 Ý nghĩa lý luận

Luận án được hoàn thành có ý nghĩa trong việc làm rõ hơn các vấn đề lý luận về

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như khái niệm về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT, khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, các biện pháp phòng ngừa, nguyên tắc phòng ngừa...

5.2 Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở tìm hiểu và đánh giá về thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế thiếu sót

của hoạt động phòng ngừa Luận án đã đưa ra các dự báo có cơ sở khoa học và thực tiễn

về tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian tới cũng như xây dựng, đề

xuất các giải pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

6. Những đóng góp mới của Luận án

Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ làm rõ hơn các vấn đề lý luận về phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó làm phong phú thêm hệ thống lý

luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.

Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần làm rõ hơn thực trạng phòng ngừa

tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam giai đoạn từ năm

2010-2019, qua đó thấy rõ những ưu điểm, những hạn chế và yếu kém trong thực

trạng phòng ngừa.

Kết quả nghiên cứu của Luận án là sở cứ khoa học về lý luận, thực tiễn cung

cấp cho các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp trong việc soạn thảo các quy định của

pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;

Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ là công trình khoa học có giá trị tham khảo phục

vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,

luận án được cấu trúc thành 4 chương như sau

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

- Chương 2: Những vấn đề cơ bản về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và mạng viễn thông

- Chương 3: Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin

và mạng viễn thông ở Việt Nam hiện nay

- Chương 4: Dự báo và các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài

Việc nghiên cứu về tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao, tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&VT được các quốc gia và các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm trong

những năm gần đây do tính chất và hậu quả nguy hiểm cũng như quy mô xuyên quốc

gia của loại tội phạm này đòi hỏi một sự phối hợp và hợp tác không chỉ trên phạm vi

quốc gia, mà còn phối hợp hành động trên phạm vi quốc tế. Thời gian qua đã có các

công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây

- Sách chuyên khảo của Peat Marwick (2000), E-ecommerce and Cyber Crime

: New Strategies for Management the risk of exploitation ( Tạm dịch: Thương mại điện

tử và tội phạm mạng : Chiến lược mới trong quản lý và khai thác), Nhà xuất bản

KPMGLLP, Hoa Kỳ gồm 28 trang. Nội dung cuốn sách đề cập đến tính tất yếu trong

giao dịch hàng hóa, dịch vụ qua mạng, một hình thái của thương mại điện tử và trở

thành kênh giao dịch buôn bán hàng hóa phổ biến trong tương lai. Tuy nhiên đây cũng

tiềm ẩn một nguy cơ rất lớn khi tiến hành các giao dịch hàng hóa dịch vụ qua mạng

bởi đây cũng là môi trường để xuất hiện những loại tội phạm mới, tội phạm mạng.

Cuốn sách đưa ra những cảnh báo cho các doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện

tử cũng như các cá nhân khi tham gia vào các giao dịch điện tử. Cuốn sách đã bước

đầu chỉ ra các hành vi phạm tội trong lĩnh vực thương mại điện tử cho các doanh

nghiệp và các cá nhân, tổ chức khi tham gia hoạt động thương mại điện tử có thể nhận

diện. Tuy nhiên cuốn sách không đề cập đến phòng ngừa ngăn chặn các hành vi trong

lĩnh vực thương mại điện tử.

- Sách chuyên khảo của Anup K.Ghosh (2001), E-Commerce security and

privacy (Tạm dịch: An toàn trong thương mại điện tử và vấn đề bảo mật), Nhà xuất

bản Kluwer Academic Publishers, New York, Hoa kỳ gồm 163 trang. Cuốn sách tiếp

cận bằng cách đi sâu phân tích các ví dụ minh họa cụ thể từ đó đặt ra yêu cầu an toàn

trong thương mại điện tử như tốc độ phát triển của thương mại điện tử, vai trò của

thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp, sự cần thiết phải đảm bảo an toàn khi

tiến hành các giao dịch trong thương mại điện tử để phòng ngừa các hành vi lừa đảo,

chiếm đoạt tài khoản, mật mã cá nhân. Đồng thời cuốn sách cũng cung cấp một số

phương pháp bảo đảm an toàn, bảo mật trong thương mại điện tử. Tuy nhiên cuốn sách

này lại không chỉ rõ các hành vi vi phạm cũng như các biện pháp phòng ngừa ngăn

chặn đối với các hành vi và tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử.

7

- Sách chuyên khảo của Yong da (2002)

(Tạm dịch: Nghiên cứu tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử) Nhà xuất

bản Đại học Vũ Hán, Trung Quốc. Đây là cuốn sách trình bày một cách công phu về

tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử gắn với việc so sánh pháp luật hình sự của

vương quốc Anh, Đức, Mỹ và Nhật Bản dựa trên các tội phạm phổ biến trong lĩnh vực

thương mại điện tử như: gian lận thẻ tín dụng, xâm phạm quyền tác giả, vi phạm bí

mật thương mại, gian lận, bất hợp pháp hành nghề y, trộm cắp, sản xuất hàng giả, buôn

bán người, các hành vi khiêu dâm, các tội phạm về máy tính,… Nội dung cuốn sách

bao gồm : Lời nói đầu, Chương 1: Sự phát triển của thương mại điện tử và máy tính trong

thời đại thông tin; Chương 2: Tổng quan về tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử;

Chương 3: Phương thức thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử;

Chương 4: Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử. Phần

phụ lục : Quy định của pháp luật hình sự vương quốc Anh và Nhật Bản về tội phạm trong

lĩnh vực thương mại điện tử. Cuốn sách được trình bày chủ yếu phục vụ công tác nghiên

cứu so sánh về mặt pháp luật ít có tính khả thi khi áp dụng vào thực tiễn.

- Sách chuyên khảo của Graeme R.Newman và Ronald V.Clarke (2003),

Preventing E-commerce Crime ( Tạm dịch: Ngăn chặn tội phạm trong lĩnh vực thương

mại điện tử), Nhà xuất bản Willan, Vương quốc Anh. Nội dung cuốn sách gồm 7

chương, trong chương 1 các tác giả phân tích sự cần thiết phải phát triển thương mại

điện tử cũng như Internet, từ đó xuất hiện những loại tội phạm mới khác với tội phạm

truyền thống. Điều này cũng đặt ra những thay đổi trong đấu tranh chống tội phạm cho

các lực lượng chức năng. Chương 2, các tác giả tập trung phân tích các đặc điểm của

thương mại điện tử mà tội phạm có thể lợi dụng những đặc điểm này để phạm tội.

Chương 3, các tác giả chỉ rõ các mục tiêu mà tội phạm thương mại điện tử chú ý như : sở

hữu trí tuệ (ví dụ: sách, đĩa CD, DVD và phần mềm), có sở dữ liệu có chứa thông tin

khách hàng, hệ thống thông tin và dịch vụ. Đồng thời các tác giả đã chỉ ra 26 loại hành vi

vi phạm phổ biến trong lĩnh vực thương mại điện tử. Chương 4, các tác giả phân tích sự

khác biệt giữa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử với tội phạm truyền thống

thông qua các ví dụ điển hình. Từ chương 5 đến chương 7, các tác giả phân tích các kỹ

thuật để phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử. Đây là 1 công trình

nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử, tuy nhiên các tác

giả chủ yếu tập trung vào các giải pháp phòng ngừa ngăn chặn dưới góc độ kỹ thuật mà

không đề cập đến các biện pháp phòng ngừa của lực lượng chức năng.

- Báo cáo “Nghiên cứu toàn diện về Tội phạm mạng” (Comprehensive Study

on CyberCrime): Tháng 2/2013, Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội phạm

(United Nations Office on Drugs and Crime- UNODC) đã công bố Báo cáo “Nghiên

8

cứu toàn diện về Tội phạm mạng” (Comprehensive Study on CyberCrime) với 12

chương và 320 trang. Đây là một trong những nghiên cứu toàn diện nhất về tội phạm

mạng với các nội dung chính được nêu trong 8 Chương chính của Báo cáo như: Kết

nối và tội phạm mạng; Bức tranh toàn cầu về tội phạm mạng; Luật pháp và khung

pháp luật; Tội phạm toàn cầu; Thực thi Luật pháp và điều tra; Chứng cứ điện tử và tư

pháp hình sự; Hợp tác quốc tế; Phòng ngừa tội phạm mạng.

- Báo cáo của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU): “Tìm hiểu về Tội phạm

mạng: Hiện tượng, những thách thức và sự đáp ứng của luật pháp” (“Understanding

Cyber Crime: Phenomena, Challenges and Legal response”, ITU, 9/2012)

Đây là báo cáo để hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc tìm hiểu các khía

cạnh pháp lý về an ninh mạng và giúp xây dựng khung pháp lý cho vấn đề này tại các

nước. Báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về các chủ đề có liên

quan nhất liên quan đến các khía cạnh pháp lý của tội phạm mạng và tập trung vào nhu

cầu đòi hỏi hoàn thiện khung pháp luật của các nước đang phát triển. Do vấn đề xuyên

quốc gia của tội phạm mạng, các công cụ pháp lý để phòng chống là như nhau giữa

các nước phát triển và các nước đang phát triển. Bản Báo cáo bao gồm sáu chương

chính:Lời giới thiệu (Chương 1) thảo luận về hạ tầng và dịch vụ, vấn đề tội phạm

mạng và an ninh mạng, tổng quan về hợp tác và phòng ngừa và những khuyến nghị

cho các nước đang phát triển.Chương 2 của Báo cáo cung cấp một cái nhìn tổng quan

của hiện tượng của tội phạm mạng bao gồm các mô tả về cách tội phạm câu kết và giải

thích về hành vi phạm tội phổ biến nhất như tấn công mạng, trộm cắp danh tính và

chặn dịch vụ. Chương 3 và 4 thảo luận tổng quan về các thách thức của tội phạm

mạng và những vấn đề có liên quan đến việc điều tra và truy tố tội phạm

mạng.Chương 5 tóm tắt một số hoạt động được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế và

khu vực trong cuộc chiến chống tội phạm mạng. Chương 6 phân tích các phương pháp

tiếp cận pháp luật khác nhau liên quan đến pháp luật hình sự về nội dung, pháp luật tố

tụng, kỹ thuật số với bằng chứng, hợp tác quốc tế và trách nhiệm của nhà cung cấp

dịch vụ Internet,bao gồm các ví dụ về cách tiếp cận quốc tế cũng như các ví dụ thực

tiễn điển hình(good-practice examples) từ các giải pháp quốc gia.

- Sách “ Các nguyên tắc của Tội phạm mạng” của tác giả Jonathan Clough

(“Principles of Cybercrime”, Cambridge University Press, 2009): đề cập đến các

nguyên tắc, chia sẻ các bài học kinh nhiệm và hệ thống pháp luật Commonlaw của

Anh, Úc, Mỹ, Canada trong vấn đề đấu tranh, phòng ngừa và xử lý tội phạm mạng.

1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu liên quan đến hoạt động đấu

tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở nước ta đã được một số

9

tác giả đề cập đến ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong những công trình

nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có các công trình nghiên

cứu như : sách chuyên khảo, giáo trình, luận án, các bài viết hội thảo khoa học… qua

nghiên cứu cho thấy có các công trình điển hình dưới đây:

1.2.1.Nhóm công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tội phạm học

- Giáo trình (2015), Tội phạm học, Trường Đại học luật Hà Nội, Nhà xuất bản

công an nhân dân. Nội dung giáo trình đã xác định tội phạm học khoa học thực nghiệm

nghiên cứu về tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm

nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm. Cuốn sách gồm 8 chương như sau: Khái niệm

và nhiệm vụ của tội phạm học; Quá trình hình thành và phát triển của tội phạm học,

các thuyết nghiên cứu về tội phạm học; Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học;

Tình hình tội phạm (những vấn đề chung, thực trạng, diễn biến); Nguyên nhân của tội

phạm; Nhân thân của người phạm tội; Nạn nhân của tội phạm; Phòng ngừa tội phạm.

Giáo trình đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm học cũng như các nội

dung có liên quan đến tội phạm, trong đó đã làm rõ về mặt lý luận vấn đề phòng ngừa

tội phạm với mục đích kìm chế sự gia tăng, hạn chế dần mức độ và tính chất nghiêm

trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra. Tài liệu là cơ sở lý luận quan trọng

trong nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung.

- Giáo trình (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, GS.TS Nguyễn Ngọc

Hòa, Nhà xuất bản tư pháp. Cuốn sách gồm 331 trang, 5 chương như sau: Tội phạm –

xét về nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, các đặc điểm của tội phạm, phân

loại tội phạm, tội phạm và vi phạm pháp luật khác; Tội phạm – xét về các yếu tố cấu

thành; Tội phạm – xét về hình thức phản ánh trong luật; Tội phạm – xét về tình hình

và về nguyên nhân phát sinh, thống kê tội phạm, thực trạng, diễn biến (cả lượng và

chất), xu hướng vận động của tội phạm, nguyên nhân của tội phạm; Tội phạm – xét về

biện pháp phòng ngừa. Tác giả đã đặt phòng ngừa tội phạm trong mối liên hệ với đấu

tranh chống tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm. Tài liệu đã trình bày vấn đề

về tội phạm dưới các khía cạnh khác nhau, đặc biệt đã đề cập đến hai vấn đề lý luận

liên quan đến đề tài luận án là tình hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm, phân biệt

sự khác nhau giữa tội phạm và tình hình tội phạm là những sở cứ quan trọng trong

nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm.

- Giáo trình (2013), Tội phạm học, GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản công

an nhân dân gồm 13 chương, 298 trang. Nội dung cuốn sách đề cập đến các vấn đề lý

luận về tội phạm học như khái niệm, đối tượng, nhiệm vụ, các phương pháp nghiên

cứu, vị trí của tội phạm học với các ngành khoa học khác. Tình hình tội phạm cũng

như các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm nói chung và nguyên nhân,

10

điều kiện của tội phạm cụ thể. Nhân thân người phạm tội, cuốn sách cũng trình bày và

nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm, dự báo tình hình

tội phạm trong tương lai. Để phòng ngừa tình hình tội phạm trong bối cảnh toàn cầu

hóa, theo tác giả cần có sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng ngừa và chống tình

hình tội phạm. Điều này rất cần thiết đối với loại tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT vì loại tội phạm này cũng mang tính chất toàn cầu, xuyên quốc gia.

Ngoài ra, tác giả cũng giới thiệu về lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng tội

phạm học tư sản và tội phạm học xã hội chủ nghĩa. Nội dung tài liệu là những cơ sở

khoa học trong nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng

ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.

- Giáo trình (2012), Xã hội học tội phạm, Trần Đức Châm, Nhà xuất bản chính

trị quốc gia gồm 7 chương, 143 trang. Nội dung cuốn sách ngoài các vấn đề lý luận

liên quan đến xã hội học tội phạm như đối tượng, phương pháp nghiên cứu, chức năng,

mối quan hệ giữa xã hội học tội phạm và các ngành khoa học khác thì cuốn sách còn

đưa ra những đặc điểm xã hội học của một số loại tội phạm cụ thể hiện nay, trong đó

có tội phạm máy tính. Tác giả đã đưa ra bốn đặc trưng cơ bản xét từ góc độ xã hội học

và tội phạm học của tội phạm máy tính, vấn đề tác giả đề cập có liên quan đến tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ở Việt

Nam trong tình hình mới trong đó nêu rõ quan điểm, mục tiêu, trách nhiệm của các cơ

quan chức năng.

- Sách chuyên khảo (2015), Tội phạm học so sánh, PGS.TS Lê Thị Sơn, Nhà xuất

bản tư pháp gồm 6 chương, 135 trang. Cuốn sách đã trình bày các vấn đề lý luận liên quan

đến tội phạm học so sánh, đặc biệt tác giả đã nghiên cứu so sánh về tội phạm với kiểm

soát tội phạm (ở phạm vi toàn cầu, một nhóm quốc gia, hai quốc gia, đối với một số loại

tội phạm, nghiên cứu về tội phạm xuyên quốc gia). Tác giả đã đưa ra khái niệm về phòng

ngừa tội phạm dưới góc độ của tội phạm học so sánh “ Phòng ngừa tội phạm là các biện

pháp của công dân, tổ chức, nhà nước, của một quốc gia, của hai hay nhiều quốc gia và

tổ chức quốc tế, làm hạn chế nguyên nhân của tội phạm từ trong cơ cấu xã hội, từ quá

trình chuyển đổi cơ cấu xã hội và nguyên nhân của tội phạm xuyên quốc gia”. Tác giả đã

đưa ra quan điểm là phòng ngừa tội phạm sẽ dẫn đến kiểm soát tội phạm. Điều này có thể

được sử dụng trong mối liên hệ giữa phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&VT nếu làm tốt sẽ giúp kiểm soát tình hình tội phạm trong lĩnh vực này.

- Sách (2012), Tội phạm ở Việt Nam năm 2011 – 2012, – GS.TS Nguyễn Xuân

Yêm, Phan Văn Vĩnh, Nhà xuất bản công an nhân dân. Nội dung cuốn sách gồm 4

phần trong đó có thống kê về tình hình, diễn biến, hậu quả của một số loại tội phạm

điển hình trong đó có tội phạm sử dụng công nghệ cao như : thực trạng diễn biến của

11

tội phạm sử dụng công nghệ cao, hậu quả, kết quả phòng chống đấu tranh, các hành vi

vi phạm điển hình cũng như dự báo xu hướng phát triển của loại tội phạm này trong

thời gian tới. Nội dung tài liệu có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT,

có thể được sử dụng làm cơ sở nghiên cứu, dự báo… về tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT.

- Sách chuyên khảo (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tội

phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và PGS.TS Nguyễn

Minh Đức chủ biên, Nhà xuất bản công an nhân dân. Cuốn sách làm rõ lý luận về tội

phạm, phương pháp nghiên cứu tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa; phân tích hệ

thống pháp luật phòng chống tội phạm; làm rõ mức độ tình trạng phạm tội; quan điểm

về tội phạm và chính sách đấu tranh phòng chống tội phạm của một số nước trên thế

giới ở khu vực châu Âu, châu Á – Thái Bình Dương và nước Mỹ. Cuốn sách cũng đề

cập đến một số quan điểm về tội phạm có liên quan đến lĩnh vực CNTT cũng như

chính sách đấu tranh với tội phạm này của một số nước nhưng chỉ mang tính liệt kê

khái quát, chưa đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực mạng viễn thông.

- Giáo trình (2014), Kiểm soát xã hội đối với tội phạm, TS Trịnh Tiến Việt, Nhà

xuất bản chính trị quốc gia gồm 8 chương, 298 trang. Tác giả đã đưa ra các vấn đề lý luận

liên quan đến tình hình tội phạm và những tác động của nó đối với xã hội từ đó đặt ra mục

tiêu kiểm soát xã hội đối với tội phạm. Nội dung cuốn sách nhằm thu hút các lực lượng xã

hội tham gia kiểm soát tội phạm, phát động tinh thần trách nhiệm kiên quyết đấu tranh và

chủ động tấn công phòng chống tội phạm của các chủ thể, tăng cường khả năng phát hiện,

ngăn ngừa và xử lý tội phạm của các cơ quan chức năng. Điều này có thể được vận dụng

trong việc nghiên cứu để kiểm soát xã hội đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông tại Việt Nam

- Sách chuyên khảo (2007), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, TS

Phạm Văn Lợi chủ biên, Nhà xuất bản tư pháp. Với 246 trang, cuốn sách tập trung

phân tích khái niệm, những đặc điểm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, thực trạng và

giải pháp phòng, chống loại tội phạm này ở nước ta và một số nước trên thế giới.

Ngoài ra, tác giả còn giới thiệu nội dung Công ước của Hội đồng châu Âu năm 2001

về tội phạm mạng, Luật mẫu về tội phạm máy tính và liên quan đến máy tính của các

nước thuộc khối thịnh vượng chung (Anh và Bắc Ireland, Australia, New Zealand…).

Phạm vi nghiên cứu của cuốn sách là rất rộng, là công trình nghiên cứu sâu sắc về tội

phạm trong lĩnh vực CNTT tuy nhiên tội phạm trong lĩnh vực mạng viễn thông chưa

được đề cập tới.

12

- Sách chuyên khảo (2011), An toàn thông tin và công tác phòng chống tội phạm

sử dụng công nghệ cao, TS Trần Văn Hòa chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

Cuốn sách được chia thành 5 chương, với những nội dung chủ yếu như : Lý luận chung về

tội phạm sử dụng công nghệ cao; Hình thức biểu hiện của các loại tội phạm sử dụng công

nghệ cao; Chiến thuật điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao; Phục hồi, tìm, thu thập

và phân tích dữ liệu điện tử; Phương pháp điều tra một số loại tội phạm sử dụng công

nghệ cao. Có thể thấy đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, được tác giả thực

hiện trên cơ sở khái quát các phương thức, thủ đoạn, biểu hiện cơ bản của các loại tội

phạm sử dụng công nghệ cao xảy ra ở Việt Nam và trên thế giới trong một số năm gần

đây. Tuy nhiên tội phạm trong cuốn sách này được tác giả xem xét dưới góc độ tội phạm

sử dụng công nghệ cao với phạm vi nghiên cứu rộng hơn tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Sách chuyên khảo (2013), Tội phạm học Việt Nam, tập 2, chương XXIII: Đặc

điểm tội phạm học và phòng ngừa các tội phạm sử dụng công nghệ cao, GS.TS Trần

Đại Quang và GS.TS Nguyễn Xuân Yêm chủ biên, Nhà xuất bản CAND. Nội dung

cuốn sách trình bày một cách cơ bản dưới góc độ tội phạm học về đặc điểm tội phạm

học các tội phạm sử dụng công nghệ cao như: Khái niệm và đặc trưng cơ bản của các

tội phạm sử dụng công nghệ cao; Đặc điểm tình hình các tội phạm sử dụng công nghệ

cao; Đặc điểm nhân thân người phạm tội; Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm sử dụng công nghệ cao. Đồng thời đưa ra các biện pháp phòng ngừa các tội

phạm sử dụng công nghệ cao. Do cuốn sách được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm

học nên không đề cập sâu đến các đặc điểm liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nên không phản ánh được đầy đủ các đặc điểm của tội phạm trong lĩnh

vực này .

- Giáo trình (2012), Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao,TS Trần Văn

Hòa (chủ biên) và TS Nguyễn Ngọc Cương (biên soạn), Học viện an ninh nhân dân.

Giáo trình gồm 3 nội dung lớn như: Nhận thức chung về tội phạm sử dụng công

nghệ cao; Những biểu hiện thực tế của tội phạm sử dụng công nghệ cao và một số

phương pháp chiến thuật điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao. Trong giáo trình

tập thể tác giả tập trung đi sâu phân tích 5 tội danh được quy định tại chương XIX- Bộ

luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trong các tội danh này có những tội danh

không chỉ liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mà còn liên quan đến

tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử, do vậy phạm vi điều chỉnh của tài liệu là

rất rộng.

- Giáo trình (2014), Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao, TS Nguyễn Quang Nghĩa và Th.S Phạm Hải Bình (đồng chủ biên), Học

13

viện cảnh sát nhân dân. Giáo trình gồm 3 chương gồm: Nhận thức về tội phạm sử dụng

công nghệ cao; Công tác phòng, chống tội phạm theo chức năng của Cảnh sát phòng,

chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; Quan hệ phối hợp của Cảnh sát phòng, chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao. Trong giáo trình các tác giả đã đưa ra khái niệm và phân

loại tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng như các phương thức, thủ đoạn, đặc điểm và

nguyên nhân, điều kiện của loại tội phạm này. Bên cạnh đó nội dung giáo trình tập trung

nhiều vào việc phân tích và đưa ra những vấn đề cơ bản liên quan đến công tác tổ chức,

hoạt động và sự phối hợp trong hoạt động của lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm

sử dụng công nghệ cao, chưa nghiên cứu đi sâu vào các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Sách chuyên khảo (2008), An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia nhập WTO,

GS.TS Nguyễn Xuân Yêm chủ biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân. Đây là công trình

nghiên cứu một cách công phu về những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

đến an ninh quốc tế trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT. Cụ thể tại chương 10, tác

giả đã đề cập đến vấn đề an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

trong thời kỳ hội nhập. Những nội dung này đã phản ánh một phần hoạt động của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT và thương mại điện tử, chưa đề cập đến tội phạm trong lĩnh

vực mạng viễn thông.

- Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3, 2009 (trang 14-20), Tội phạm công nghệ

thông tin và sự khác biệt giữa tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông

thường”, Đặng Trung Hà. Trong bài viết tác giả đã trình bày khái niệm về tội phạm

công nghệ thông tin, phân biệt tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông

thường dựa trên 4 yếu tố cấu thành của tội phạm là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ

thể và khách thể. Dựa vào đó tác giả đã phân tích, nghiên cứu sâu hơn các đặc điểm về

tội phạm công nghệ thông tin như đặc điểm về chủ thể, hậu quả thiệt hại, hành vi phạm

tội… từ đó cho thấy sự khác biệt, đặc trưng của tội phạm CNTT so với các tội phạm

thông thường khác. Tuy nhiên bài viết chỉ phân tích về mặt lý luận, chưa có vụ việc cụ

thể để chứng minh các đặc điểm của loại tội phạm này.

1.2.3.Nhóm các công trình nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm,

đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam

- Luận án tiến sĩ (2014), Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện

tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Lại Kiên Cường, Học viện cảnh sát nhân dân.

Nội dung của luận án đề cập đến các vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận của việc phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân.

Luận án đã đưa ra các khái niệm về thương mại điện tử, phân loại thương mại điện tử,

đặc điểm của thương mại điện tử có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm của

14

lực lượng Cảnh sát nhân dân. Khái niệm và đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực

thương mại điện tử cũng như thực trạng đấu tranh, xử lý loại tội phạm này. Tác giả đã

đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương

mại điện tử như các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tội

phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên

trách thực hiện hoạt động phòng ngừa… Đây là công trình khoa học nghiên cứu, tìm

hiểu, phân tích và đánh giá về loại tội phạm có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT tuy nhiên nội dung luận án cũng chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu việc

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử.

- Luận văn Thạc sỹ (2011), Đấu tranh phòng, chống các tội phạm sử dụng công

nghệ cao qua mạng máy tính ở Việt Nam hiện nay, Đỗ Chí Tuệ, Học viện khoa học xã

hội. Luận văn bao gồm 3 nội dung lớn đó là: Trình bày lý luận về các tội phạm sử

dụng công nghệ cao qua mạng máy tính theo quy định của pháp luật; Tình hình tội

phạm và công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm sử dụng công nghệ cao qua

mạng máy tính ở Việt Nam hiện nay; Đề xuất 1 số biện pháp nâng cao hiệu quả đấu

tranh phòng chống các tội phạm sử dụng công nghệ cao qua mạng máy tính ở Việt

Nam hiện nay. Luận văn đã làm rõ các khái niệm liên quan đến tội phạm sử dụng công

nghệ cao qua mạng máy tính như khái niệm về tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội

phạm sử dụng công nghệ cao qua mạng máy tính và các quy định của pháp luật liên

quan đến loại tội phạm này. Tác giả đã phân tích tình hình tội phạm sử dụng công

nghệ cao qua mạng máy tính thông qua 5 điều luật được quy định tại Bộ luật hình sự

Việt Nam năm 2009 (từ Điều 224 – 226b) và các hành vi vi phạm pháp luật có liên

quan như tội tuyên truyền chống Nhà nước, tội tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy…

Từ thực trạng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này tác giả đã đề xuất các biện

pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống, phòng ngừa. Nội dung

luận văn trình bày sâu về lý luận.

- Luận văn Thạc sỹ (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao trên địa bàn

Tp Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa,Trần Văn Yên, Học

viện khoa học xã hội. Luận văn phân tích về tội phạm sử dụng công nghệ cao nhưng

giới hạn phạm vi nghiên cứu tại địa bàn Tp Hồ Chí Minh cũng như kết quả đấu tranh,

xử lý loại tội phạm này chỉ trong phạm vi thành phố. Luận văn cũng trình bày các cơ

sở lý luận, các quy định của pháp luật về tội phạm sử dụng công nghệ cao và phân tích

các đặc điểm của loại tội phạm này dựa trên 5 hành vi vi phạm được thực hiện phổ

biến trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh như hành vi lợi dụng mạng Internet và các thiết bị

kỹ thuật số để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Hành vi lợi dụng mạng Internet, các thiết bị

kỹ thuật số trộm cắp tài sản; hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc có sử dụng công nghệ

15

cao; Hành vi sử dụng công nghệ cao thực hiện hành vi phạm tội bị xử lý bằng các tội

danh khác; Hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc

thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Luận văn đã đánh giá thực trạng đấu

tranh phòng chống các hành vi vi phạm kể trên và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu

quả công tác phòng chống, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của luận văn còn hạn chế

trong khi đặc điểm của tội phạm sử dụng công nghệ cao là không biên giới.

- Luận văn Thạc sỹ (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam:

tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Cao Anh Đức, Học viện khoa học xã

hội. Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu tội phạm sử dụng công nghệ cao trong 4

năm từ 2010 – 2014 trên phạm vi toàn quốc. Nội dung luận văn cũng trích dẫn và phân

tích các khái niệm về tội phạm sử dụng công nghệ cao, các đặc điểm của tội phạm này

so với tội phạm truyền thống, những nguyên nhân và điều kiện. Các giải pháp của luận

văn đưa ra mang tính phòng ngừa là chính, các dự báo về tình hình tội phạm sử dụng

công nghệ cao còn thiếu các sở cứ khoa học.

- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010), “Phòng chống tội phạm truyền thống, tội

phạm phi truyền thống trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Học viện cảnh sát nhân

dân. Kỷ yếu hội thảo tập hợp 35 bài viết tham luận của các đại biểu là đại diện Ban

chỉ đạo chương trình quốc gia phòng chống tội phạm của Chính phủ, Viện khoa học

xã hội Việt Nam, đại diện lãnh đạo Bộ công an và các Tổng cục, các Cục nghiệp vụ,

Văn phòng Interpol Việt Nam, Văn phòng thường trực phòng chống ma túy, Tạp chí

Công an nhân dân, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, các trường Công an nhân dân phía

Bắc cùng các chuyên gia, nhà nghiên cứu tội phạm học. Trong các tham luận, đáng

chú ý là tham luận của Đại tá, TS Trần Văn Hòa – Trưởng phòng 9 Cục Cảnh sát

kinh tế với chủ đề “Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong điều kiện

hội nhập quốc tế”. Trong tham luận này tác giả đã đề cập đến tình hình tội phạm

trong lĩnh vực thương mại điện tử, công nghệ thông tin trên thế giới cũng như ở Việt

Nam và xác định tội phạm trong lĩnh vực này đang có chiều hướng gia tăng và phát

triển ở Việt Nam, gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng cần được quan tâm nghiên

cứu để thống nhất nhận thức về mặt lý luận và thực tiễn trong việc đánh giá và đề ra

các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả trong thời gian tới. Tuy

nhiên nội dung này chỉ dừng lại ở dạng bài viết tham luận nên nội dung chưa thể

chuyên sâu, cũng như chưa phân tích đầy đủ đặc điểm, phương thức, thủ đoạn của tội

phạm này và chưa đưa ra được các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn loại tội phạm

nguy hiểm này.

- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010), “Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm

kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, đầu tư tài chính và kinh doanh trên

16

mạng internet”, Tổng cục cảnh sát, Bộ công an. Kỷ yếu hội thảo đã tập hợp được 21

bài viết của lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị Cảnh sát kinh tế và Cảnh sát phòng chống tội

phạm sử dụng CNC trực tiếp làm công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm

trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, tài chính cùng lãnh đạo và chuyên gia các

ngành tài chính, ngân hàng… Tại buổi hội thảo, 12 học giả đã trình bày các tham luận

cũng như thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm với minh chứng là các vụ án

điển hình như Colony lừa đảo thông qua hoạt động đầu tư tài chính đa cấp xảy ra ở 38

tỉnh, thành phố thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng; vụ Tan Wei Hong sinh năm 1981, quốc

tịch Malaysia đã dung thẻ tín dụng giả để thanh toán mua hàng lưu niệm đắt tiền của

Louis Vuitton 15 Ngô Quyền Hà Nội, chiếm đoạt 569.102.277 đồng …Đây là hội thảo

đầu tiên đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực có liên quan đến CNTT&VT, song do

khuôn khổ là hội thảo nên các bài viết cũng như tham luận chưa phản ánh hết được

tình hình cũng như thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm sử dụng CNTT&VT ở

giai đoạn hiện nay.

- Kỷ yếu hội thảo khoa học (2010), “Tình hình và công tác đấu tranh chống tội

phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”, Tổng cục Cảnh

sát, Bộ Công an. Kỷ yếu hội thảo đã tập hợp được 19 bài viết tham luận của lãnh đạo

Công an các địa phương trọng điểm cũng như các Cục nghiệp vụ thuộc Tổng cục Cảnh

sát PCTP, Văn phòng Interpol Việt Nam. Trong buổi hội thảo, đã có 11 tham luận

được trình bày, các tham luận của các tác giả đề thống nhất tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ cao là loại tội phạm xuyên quốc gia đang có chiều hướng phát triển ở Việt

Nam cũng như trên thế giới, các đối tượng trong nước móc nối với các đối tượng ở

nước ngoài để thực hiện các hành vi trộm cắp thẻ tín dụng, lừa đảo qua mạng với hậu

quả rất lớn đòi hỏi các cơ quan chức năng cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để

đấu tranh có hiệu quả trong thời gian tới.

- Kỷ yếu hội thảo khoa học "Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao -

Những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo", Học viện Cảnh sát nhân dân tháng

11/2014. Kỷ yếu là tập hợp các bài viết của các tác giả là Giảng viên, Nghiên cứu viên

của Học viện cảnh sát nhân dân. Trên cơ sở phân tích thực trạng số liệu về các hành vi

vi phạm pháp luật liên quan đến tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam ngày

càng phát triển và diễn biến phức tạp, đòi hỏi đơn vị đào tạo là Học viện cảnh sát nhân

dân cần giải quyết một số vấn đề trong công tác đào tạo lực lượng Cảnh sát trực tiếp

điều tra, xử lý loại tội phạm này. Nội dung của kỷ yếu tập trung nhiều vào công tác

đào tạo, huấn luyện về chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng Cảnh sát phòng chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao.

17

- Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp quốc gia (2019) “Cách mạng công nghiệp lần thứ

tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam”, Bộ tư pháp: kỷ yếu gồm 29 tham luận của các cơ quan, tổ chức, chuyên gia luật

đánh giá về nhiều lĩnh vực chịu sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các

vấn đề pháp lý đặt ra. Trong các bài tham luận có những tham luận liên quan trực tiếp đến

việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như tham luận số 20 “An toàn

thông tin mạng trong bối cảnh công nghiệp lần thứ 4: Chính sách, pháp luật và thực tiễn”

của Cuc An toàn thông tin – Bộ TT&TT; tham luận số 23 “Thực trạng đấu tranh với tội

phạm mạng trong bối cảnh công nghiệp lần thứ tư” của Bộ Công an.

- Bài tham luận của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm tại Hội nghị

“Tăng cường hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm

phạm trật tự an toàn, xã hội”, Hà Nội 29-30/10/2014. Bài tham luận đã đưa ra tổng

quan về tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên thế giới và tại Việt Nam, đưa

ra những nhận định và dự báo về tình hình diễn biến của loại tội phạm này trong thời

gian tới. Bên cạnh đó cũng tổng kết những kết quả hợp tác quốc tế trong phòng chống

tội phạm sử dụng công nghệ cao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế

giới do xuất phát từ đặc điểm của loại tội phạm này là không biên giới, mang tính toàn

cầu.Bài tham luận chỉ đưa ra những nhận định chung, chưa đi sâu vào việc phân tích

loại tội phạm này chỉ đề cập đến tội phạm sử dụng công nghệ cao nói chung mà không

đề cập cụ thể đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

- Báo cáo công tác đấu tranh, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, C50 và

A05 Bộ công an (2015 - 2019). Báo cáo gồm 3 nội dung lớn như : Tình hình tội phạm

sử dụng công nghệ cao; Kết quả các mặt công tác năm 2015 - 2019; Phương hướng

công tác. Đặc biệt khi tổng kết về tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt

Nam trong năm 2015 - 2019 báo cáo đã chia rõ tội phạm trong lĩnh vực thương mại

điện tử; trong hoạt động thanh toán thẻ, thanh toán điện tử; trong lĩnh vực viễn thông;

tình trạng sử dụng mạng internet để tống tiền cá nhân, doanh nghiệp; Tổ chức đánh

bạc và đánh bạc trực tuyến; Sử dụng mạng Internet để phát tán các ấn phẩm đồi trụy…

Đặc biệt đang xảy ra tình trạng các đối tượng phạm tội tiếp tục lợi dụng triệt để

CNTT&MVT nhằm tấn công, đe dọa an ninh quốc gia…Những dự báo về tình hình tội

phạm sử dụng công nghệ cao trong thời gian tới tại Việt Nam được đưa ra trong báo

cáo cho thấy loại tội phạm này còn diễn biến hết sức phức tạp với những hành vi,

phương thức, thủ đoạn phạm tội mới tinh vi hơn rất nhiều tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn

ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của đất nước.

Báo cáo là cơ sở quan trọng để đánh giá tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao nói

chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng tại Việt Nam hiện nay.

18

1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu

Qua nghiên cứu các công trình có liên quan đến nội dung của Luận án ở cả

trong và ngoài nước đã đề cập ở trên, Nghiên cứu sinh có nhận xét, đánh giá như sau

1.3.1 Những kết quả nghiên cứu đạt được

- Các công trình, bài viết khoa học và kết quả nghiên cứu đã có những đóng góp

nhất định, xác định phương hướng cho sự phát triển về mặt lý luận phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói

riêng. Các công trình khoa học đã tập trung luận giải, phân tích về nguyên nhân, điều

kiện, đặc điểm, mục đích, phương thức hoạt động, mục tiêu , đối tượng tiến hành, hậu

quả, tác hại và xu hướng diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Từ đó có

những cơ sở khoa học và thực tiễn để dự báo một cách tương đối chính xác sự phát triển

của loại tội phạm này và có những biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn.

- Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã có một số đóng góp quan trọng

trong việc làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các công trình này thường được các nhà lý luận, chuyên

gia, các nhà thực tiễn nghiên cứu dưới các phương diện khác nhau như tội phạm học,

điều tra tội phạm, kiểm soát tội phạm, xã hội học tội phạm… cả trên phạm vi rộng và

hẹp. Các tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân, điều kiện khách quan và chủ quan để tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tồn tại và phát triển, từ đó đề xuất các biện pháp

nhằm triệt tiêu những nguyên nhân và điều kiện này.

- Các công trình nghiên cứu tập trung đề cập đến chính sách, quan điểm, phương

pháp, cách thức đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của cộng

đồng quốc tế, của các tổ chức quốc tế khu vực và của các quốc gia. Qua đó, nhiều tác giả

đưa ra các bình luận, minh chứng về những tích cực, hạn chế của hoạt động này trong thời

gian qua và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn,

trừng trị, xử lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian tới. Các cơ quan tiến

hành phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam có

thể tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới về phương

pháp, cách thức phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm này.

- Một trong những kết quả nghiên cứu của các công trình có ý nghĩa quan trọng

đối với Luận án là đã có một số công trình đã đề cập, luận bàn chỉ ra các yếu tố cấu

thành, các đặc điểm nhận diện, các đặc trưng của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT so với các loại tội phạm truyền thống khác; đưa ra những khái niệm về

các tội phạm có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như tội phạm

mạng, tội phạm máy tính, tội phạm sử dụng công nghệ cao… một số công trình cũng

đã đề cập đến cơ sở pháp lý quốc tế, pháp luật của một số quốc gia, trong đó có pháp

19

luật Việt Nam có các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng như các

biện pháp xử lý, trừng trị các tội phạm này.

- Do mục đích và đối tượng nghiên cứu các nhau nên nhiều công trình khoa học đã

nghiên cứu về phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT dưới góc

độ quản lý nhà nước mang tầm vĩ mô thể hiện phương hướng, quan điểm chỉ đạo của các

cơ quan chức năng trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại

Việt Nam thể hiện các bản chất, đặc trưng riêng có của Nhà nước và pháp luật Việt Nam.

1.3.2 Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu hoặc tiếp tục nghiên cứu trong

Luận án

Qua khảo cứu các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề

tài của luận án, cho thấy ngoài các kết quả đã đạt được như đã phân tích ở trên mà

Luận án có thể kế thừa thì vẫn còn các vấn đề sau đây cần phải đặt ra để nghiên cứu

trong luận án, cụ thể như sau:

- Tuy đã có nhiều công trình trong và ngoài nước luận bàn về khái niệm tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng do tính chất phức tạp của vấn đề nên cho

đến nay vẫn chưa có tác giả, công trình nghiên cứu nào đưa ra được định nghĩa về tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có tính khái quát, đầy đủ được thừa nhận rộng rãi.

Các tác giả mới chỉ đưa ra được một số định nghĩa có liên quan như tội phạm sử dụng

công nghệ cao, tội phạm máy tính, tội phạm mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao

qua mạng máy tính…Do vậy Luận án cần xây dựng định nghĩa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT và tiếp tục hoàn thiện một số vấn đề lý luận về phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam; làm rõ hơn những lý luận về

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, đặc biệt về phương thức, thủ đoạn hoạt động

của loại tội phạm này. Từ đó đề xuất các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

- Ở trong nước, đến nay tuy đã có một số công trình tập trung nghiên cứu về

pháp luật phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong đó có pháp luật

hình sự nhưng các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc đề xuất hoàn thiện mang tính

định hướng như cần ban hành Luật phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; sửa

đổi, bổ sung các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của BLHS, chưa

đưa ra được nội dung, mô hình pháp lý về các tội phạm này. Hơn nữa, gần đây, tại kỳ

họp thứ 10, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật an toàn thông tin mạng, sửa đổi bổ

sung 10 điều luật liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại mục 2

Chương XXI (Điều 285 – 294). So với quy định về tội trong lĩnh vực CNTT&MVT

của BLHS năm 2015 cho thấy, các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

có nội dung điều chỉnh rộng hơn, nhiều hành vi được coi là tội phạm trong lĩnh vực

20

CNTT&MVT, phương tiện điện tử theo Luật này chưa được coi là tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT theo BLHS năm 2009. Đồng thời, khi so sánh, đối chiếu các quy

định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong BLHS với các quy định của

Interpol và một số quốc gia khác về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mà Việt

Nam là thành viên cho thấy, chưa có một cách hiểu thống nhất về loại tội phạm này vì

nhiều quốc gia trên thế giới gọi đây là tội phạm mạng, tội phạm máy tính (cyber

crime). Vấn đề này cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập, đề xuất

phương hướng giải quyết để bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, sự tương

thích của pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế, không để xảy ra hiện tượng xung

đột, chồng chéo mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật cả trong và ngoài nước về

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Từ thực trạng nêu trên, vấn đề đặt ra cho việc nghiên cứu Luận án là (1) Đi sâu

nghiên cứu, làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và chính sách hình sự đối với các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (2) Phân tích, so sánh, đối chiếu làm rõ quy định

của pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT (3) Nghiên

cứu, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

như nhận thức của các chủ thể về mục đích, nội dung, các nguyên tắc, nội dung, biện

pháp phòng ngừa, quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa. Đồng thời

làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và những nguyên nhân của

những hạn chế, thiếu sót đó trong thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT.(4) Đề xuất các giải pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

21

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Qua việc tìm hiểu tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về

phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở

Việt nam nói riêng cho chúng ta một số kết luận như sau:

- Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:

Việc nghiên cứu về tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao, tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT được các quốc gia và các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm

trong những năm gần đây do tính chất và hậu quả nguy hiểm cũng như quy mô xuyên

quốc gia của loại tội phạm này đòi hỏi một sự phối hợp và hợp tác không chỉ trên

phạm vi quốc gia, mà còn phối hợp hành động trên phạm vi quốc tế. Thời gian qua đã

có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về tội phạm cũng như vấn đề phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở lý

luận quan trọng có tính chất tham khảo cho các công trình khoa học nghiên cứu trong

nước về tội phạm này.

- Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam:

Trong những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu liên quan đến hoạt động đấu tranh

phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở nước ta đã được một số tác giả đề

cập đến ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong những công trình nghiên cứu

dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có các công trình nghiên cứu như : sách

chuyên khảo, giáo trình, luận án, các bài viết hội thảo khoa học… bao gồm:

+ Nhóm công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tội phạm học;

+ Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông tại Việt Nam;

+ Nhóm các công trình nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm, đấu tranh

phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam

- Đánh giá tình hình nghiên cứu:

Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đã đạt được của các công trình nghiên cứu

trong và ngoải nước về phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tác giả đã

đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong Luận án.

22

Chƣơng 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH

TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ

MẠNG VIỄN THÔNG

2.1 Khái quát về công nghệ thông tin, mạng viễn thông và tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

2.1.1. Khái niệm công nghệ thông tin và mạng viễn thông

2.1.1.1 Khái niệm công nghệ thông tin

Công nghệ Thông tin, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là một

nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ,

bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ

thông tin được đề cập trong Nghị quyết số 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ về

phát triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những năm 90: "Công nghệ thông tin là

tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ

yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả

các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt

động của con người và xã hội”[39]

Đây được coi là cách hiểu chính thức về công nghệ thông tin trong hoàn cảnh

đất nước ta còn đang khó khăn, tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới

về phát triển khoa học công nghệ và đây là ngành khoa học còn rất mới tại Việt Nam.

Định nghĩa này cho thấy công nghệ thông tin được xác định rõ ràng, cụ thể “là tập

hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại”, trong

đó chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông. Mục đích phát triển công nghệ thông

tin ở nước ta thời điểm đó là “nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các

nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động

của con người và xã hội”. Định nghĩa này đã liệt kê các nội dung của ngành công nghệ

thông tin, qua đó thấy được vai trò to lớn của lĩnh vực này trong sự phát triển của con

người và xã hội, đây là cơ sở cho các định nghĩa sau này về công nghệ thông tin tại

Việt Nam. Tuy nhiên cách hiểu này còn đơn giản, chưa bao hàm hết các nội dung của

ngành công nghệ thông tin, chưa tiệm cận đến các khái niệm về công nghệ thông tin

trên thế giới.

Thuật ngữ "Công nghệ thông tin" xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài viết

xuất bản tại tạp chí Harvard Business Review. Hai tác giả của bài viết, Leavitt và

Whisler đã bình luận: "Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là

công nghệ thông tin (Information Technology - IT)." Các lĩnh vực chính của công

23

nghệ thông tin bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ và phổ biến âm thanh, phim

ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và

truyền thông. Có thể kể đến một số lĩnh vực hiện đại và nổi bật của công nghệ thông

tin như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh tin, điện toán đám mây, hệ thống

thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát

triển về CNTT chủ yếu trong ngành khoa học máy tính. Thuật ngữ về công nghệ thông

tin đã làm rõ các nội dung của ngành khoa học này và xác định không phải là “kỹ thuật

máy tính” mà là “khoa học máy tính”, hiện nay cụm từ này được sử dụng tương đối

phổ biến.

Điều 4 Luật công nghệ thông tin quy định “Công nghệ thông tin là tập hợp các

phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền

đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”[72].. Đây là quy định đầu tiên,

chính thức về công nghệ thông tin được thể hiện trong một văn bản pháp luật của Nhà

nước. Điều này thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của công nghệ

thông tin trong sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Kế thừa và phát triển định

nghĩa về công nghệ thông tin trong Nghị quyết 49/CP, quy định tại Điều 4 Luật công

nghệ thông tin 2006 đã làm rõ hơn phương thức hoạt động của ngành công nghệ thông

tin là “sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”.Tuy

nhiên quy định này không đề cập đến vai trò của CNTT.

Như vậy, công nghệ thông tin là ngành khoa học có sử dụng máy tính và phần

mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin.Từ

những khái niệm, quy định về công nghệ thông tin như trên, có thể định nghĩa về

CNTT như sau: Công nghệ thông tin là ngành khoa học sử dụng các phương pháp,

công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ

và trao đổi thông tin số trên cơ sở kết hợp giữa máy tính và viễn thông.

2.1.1.2 Vai trò của công nghệ thông tin

Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển mạnh mẽ của

công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã ở một bước phát triển cao đó là số hóa tất

cả các dữ liệu thông tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất cả chúng ta lại với nhau.

Mọi loại thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về dạng kỹ thuật số để

bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người. Những

công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia

sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo phương thức hoàn toàn

mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm, các tập tục, các thói quen truyền

thống, và thậm chí cả cách nhìn nhận các giá trị trong cuộc sống. Đặc biệt thế giới

đang chứng kiến sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (còn gọi là

24

Cuộc cách mạng 4.0), nội dung diễn ra trên 3 lĩnh vực chính là công nghệ sinh học, kỹ

thuật số và vật lý. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ

nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).

Hiện Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu

Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng

đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt. Với ngành công nghệ thông tin

cùng với sự phát triển vượt bậc đem đến cho con người một cuộc sống tiện nghi, hoàn

hảo thì bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con

người vào nhiều rủi ro về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo

vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ luỵ khôn lường. CNTT đã phát huy và thể

hiện những vai trò vô cùng to lớn đối với các lĩnh vực trong cuộc sống, vai trò đó được

thể hiện ở những điểm sau đây:

+. Giải phóng sức mạnh vật chất, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các

doanh nghiệp

Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển

ở nước ta, nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn

dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh

tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo

an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa [3].

+. Thay đổi cơ cấu kinh tế, phương thức lao động sản xuất

Tác động của CNTT đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ

thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong

phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người Trong nền kinh

tế tri thức, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá. Máy móc không chỉ thay thế

con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế con người ở những khâu phức tạp

của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao tác lao động của con người mà cả

thao tác tư duy.

+. Tăng cường kết nối, thu hẹp khoảng cách địa lý

Công nghệ thông tin là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri

thức. Mạng thông tin là môi trường lý tưởng cho sự sáng tạo, là phương tiện quan

trọng để quảng bá và nhân rộng nhanh vốn tri thức, động lực của sự phát triển, thúc

đẩy phát triển dân chủ trong xã hội, phát triển năng lực của con người…công nghệ

thông tin sẽ nhanh chóng thay đổi thế giới một cách mạnh mẽ, sự chuyển đổi này có vị

thế trong lịch sử như một cuộc cách mạng kinh tế - xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến

25

đời sống con người. Mạng thông tin lớn và mạnh có thể nối các cơ quan quản lý với

đối tượng quản lý, giúp cho quá trình ra quyết định được thực hiện nhanh chóng, kịp

thời và chính xác và tiết kiệm thông qua các hoạt động giao ban trực tuyến từ Trung

ương đến cơ sở theo định kỳ hoặc khi có sự vụ đột biến xảy ra. Thương mại điện tử

xuất hiện, khách hàng có thể tiếp xúc và tìm hiểu mọi thông tin về doanh nghiệp dễ

dàng ở bất cứ nơi nào, thời gian nào. Doanh nghiệp sẽ nhận được phản hồi của khách

hàng nhanh chóng về chiến lược tiếp thị hoặc danh mục hàng hoá của các doanh

nghiệp để từ đó có những thay đổi về chiến lược kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu

của thị trường. An ninh quốc phòng cũng có những thay đổi cơ bản, công nghệ thông

tin đã tạo ra những thế hệ vũ khí, phương tiện chiến tranh "thông minh", từ đó xuất

hiện hình thái chiến tranh, phương thức tác chiến mới, làm thay đổi sâu sắc học thuyết

quân sự của nhiều quốc gia.

Như vậy, với sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm thay đổi cơ bản cơ

cấu kinh tế, phương thức tổ chức và sản xuất, cách tiếp cận của từng người tới tri thức,

giải trí, phương pháp tư duy và giải quyết công việc và các mối quan hệ trong xã hội.

Sáng tạo ra những giá trị mới và các việc làm mới, cuộc cách mạng này sẽ mang lại

những thị trường mới và những nghề nghiệp mới với những đột phá công nghệ có tính

thách thức đối với toàn thế giới. Hơn nữa, chính bản thân công nghệ thông tin đã trực

tiếp tạo ra sự biến đổi lớn lao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội loài người.

Bên cạnh đó, mặt trái của công nghệ thông tin, của nền kinh tế tri thức đang đặt ra

những thách thức rất lớn, đó là sự cách biệt giàu nghèo, sự phân hoá giữa một bên là

các quốc gia, dân tộc biết nắm bắt và khai phá những nguồn lợi từ công nghệ thông tin,

hạn chế những mặt tiêu cực mà nó đưa lại với các quốc gia dân tộc không có hoặc

chưa phát triển những công nghệ đó. Vì vậy với sự phát triển như vũ bão của CNTT

hiện nay, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được CNTT thì

sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình.

2.1.1.3 Khái niệm mạng viễn thông

Theo từ điển Tiếng Việt, viễn thông là việc truyền dẫn thông tin giao tiếp qua

một khoảng cách đáng kể về địa lý [47]. Vào thời xưa, viễn thông gồm việc dùng các

tín hiệu hình ảnh, chẳng hạn như đèn hiệu, tín hiệu khói, điện báo semaphore, tín hiệu

cờ, quang báo, hoặc tin nhắn âm thanh như tiếng trống, tiếng tù và, tiếng còi. Thời

hiện đại, viễn thông là việc dùng các thiết bị điện như máy điện báo, điện thoại, máy

telex, cũng như dùng thông tin liên lạc vi ba, vô tuyến, sợi quang và kết hợp với vệ

tinh thông tin và Internet.

Cuộc cách mạng trong ngành viễn thông không dây bắt đầu vào thập niên 1900 với

những phát triển tiên phong trong lĩnh vực vô tuyến và thông tin liên lạc không dây nhờ

26

Nikola Tesla và Guglielmo Marconi. Marconi đã giành giải Nobel Vật lý năm 1909 cho

những nỗ lực của ông. Các nhà phát minh và phát triển tiên phong đáng chú ý khác trong

lĩnh vực điện và điện tử gồm Charles Wheatstone và Samuel Morse (điện báo), Alexander

Graham Bell (điện thoại), Edwin Armstrong, và Lee de Forest (vô tuyến), cũng như John

Logie Baird và Philo Farnsworth (truyền hình).

Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật viễn thông “Mạng viễn thông là tập hợp

thiết bị viễn thông được liên kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn

thông, dịch vụ ứng dụng viễn thông” [77]

2.1.1.4 Vai trò của mạng viễn thông

+. Vận chuyển tri thức, dữ liệu

Có thể nói mạng viễn thông đã làm thay đổi và hiện thực hóa khả năng liên kết của

mỗi người, của mỗi quốc gia, gắn kết mọi người với nhau nhờ một mạng lưới viễn thông

vô hình và hữu hình trên khắp trái đất . Sự hội tụ trong lĩnh vực viễn thông cùng với sự

phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng và truyền dữ liệu của con người cũng tăng lên

nhanh chóng. Ngành viễn thông đang đóng góp vai trò to lớn trong việc vận chuyển đưa

tri thức của loài người đến mỗi người, thúc đẩy quá trình sáng tạo đưa thông tin khắp nơi

về các ngành lĩnh vực khoa học, các thông tin giải trí cũng như thời sự khác.

+. Thay đổi phương thức kết nối

Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng viễn thông giúp người sử

dụng có thể gọi điện thoại qua mạng Internet, có thể xem hình ảnh của bạn bè trên

khắp thế giới, có thể chia sẻ nguồn dữ liệu, có thể thực hiện những giao dịch mua bán

tới mọi nơi trên thế giới một cách đơn giản. Mạng viễn thông ngày càng tạo nên một

thế giới gần hơn cho tất cả mọi người, xóa đi mọi trở ngại về khoảng cách địa lý và tạo

ra nhiều cơ hội giao lưu hợp tác văn hoá, xã hội, kinh tế. Mặt khác, mạng viễn thông

còn góp phần thay đổi đáng kể phương thức, cách thức làm việc, kinh doanh, vui chơi,

tìm kiếm thông tin… của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

+. Đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin

Với sự phát triển lớn mạnh của các phương tiện, thiết bị mạng viễn thông đã

giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin, rút ngắn thời gian giao dịch thương mại,

hỗ trợ hiệu quả cho việc quản lý, giảm chi phí vận chuyển. Là kênh quan trọng nhất

trong việc cảnh báo, thông báo với người dân về bệnh dịch và các hiểm họa thiên

nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần… đẩy mạnh hoặc duy trì sự quản lý liên quan

đến các dịch vụ và chương trình của Chính phủ bằng cách chia sẻ thông tin một cách

nhanh nhất và hiệu quả nhất.

27

2.1.2 Khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin

và mạng viễn thông

2.1.2.1 Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Hiện nay trên thế giới chưa có một khái niệm chung nhất về tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT. Trong khuôn khổ cuộc họp lần thứ 10 của Đại hội đồng liên hợp

quốc về ngăn chặn và xử lý tội phạm được tổ chức tại thành phố Viên (Áo) từ ngày 10-

17/10/2000, một cuộc hội thảo được tổ chức để bàn về vấn đề tội phạm trong lĩnh vực

CNTT và việc định nghĩa về tội phạm này được đưa ra thành hai quan điểm.

Thứ nhất, theo nghĩa hẹp tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và

mạng viễn thông là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với

mục đích xâm phạm đến an toàn của hệ thống máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu

của hệ thống đó [64]. Loại tội phạm theo định nghĩa này có thể được hiểu là loại

tội phạm mới, có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính, làm ảnh hưởng và

gây thiệt hại cho người sử dụng.

Thứ hai, theo nghĩa rộng, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng

viễn thông là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có

liên quan đến máy tính, mạng máy tính, bao gồm các loại tội phạm như chiếm giữ bất

hợp pháp và đe dọa hoặc làm sai lệch thông tin bằng phương pháp sử dụng mạng máy

tính [64]. Loại tội phạm theo định nghĩa này là rất rộng, bao gồm nhiều loại hành vi

của tội phạm truyền thống được thực hiện với sự trợ giúp của công cụ máy tính mà

phổ biến hiện nay như các hành vi lừa đảo, trốn lậu cước viễn thông,...

Theo định nghĩa trên thì tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là những tội

phạm liên quan đến máy tính và các mạng thông tin. Định nghĩa này đã thừa nhận tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bao gồm cả các tội phạm mới hình thành trong môi

trường mới của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống nhưng được

thực hiện với sự giúp đỡ của các phương tiện CNTT&MVT mới.

Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được phân biệt với một số

khái niệm về các tội phạm có liên quan như

+ Tội phạm công nghệ cao (high-tech crime), là bất kỳ hành động phi pháp nào

liên quan đến một máy tính hoặc một mạng máy tính [85]. Máy vi tính ở đây có thể

được dùng như một phương tiện để thực hiện một tội phạm hay có thể là mục tiêu của

hành vi phạm tội (điều này giống với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT), tuy

nhiên lại có phạm vi hẹp hơn so với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vì tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ sử dụng máy tính mà còn sử dụng các thiết bị

viễn thông làm phương tiện hoặc mục đích phạm tội.

28

+ Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, theo Bộ tư pháp Mỹ “Tội phạm trong lĩnh

vực CNTT là bất cứ hành vi vi phạm pháp luật hình sự nào có liên quan đến việc sử

dụng các hiểu biết về công nghệ máy tính trong việc phạm tội, điều tra hoặc xét xử

[85]. Loại tội này chỉ giới hạn trong lĩnh vực CNTT chưa mở rộng như các tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT.

+ Tội phạm sử dụng công nghệ cao, được hiểu là tội phạm được thực hiện trình

độ cao tác động trái pháp luật đến thông tin số được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ

thống máy tính, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà

nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân [85]. Khái niệm tội

phạm này đã làm rõ nội hàm của tội phạm sử dụng công nghệ cao, tuy nhiên nó vẫn

chỉ đề cập đến tội phạm liên quan đến CNTT, liên quan đến mạng viễn thông chưa

được đề cập một cách đầy đủ.

+ Tội phạm máy tính (computer crime) là hành vi vi phạm pháp luật hình sự do

người có năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng máy tính một cách cố ý hoặc vô ý để thực

hiện hành vi phạm tội, lưu trữ thông tin phạm tội hoặc xâm phạm đến hoạt động bình

thường và an toàn của máy tính, hệ thống mạng máy tính [85]. Khái niệm này đã chỉ rất

rõ, cụ thể về một loại tội phạm trong đó bao gồm đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm,

tuy nhiên loại tội phạm này vẫn chỉ liên quan đến máy tính, mạng máy tính.

+ Tội phạm mạng (cyber crime) là hành vi vi phạm pháp luật hình sự được thực

hiện trên mạng máy tính, mạng internet [85]. Khái niệm về loại tội phạm này còn

chung chung, chưa mang tính cụ thể như tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

+ Tội phạm mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc

phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự [85]. Khái

niệm này gần giống với khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, tuy nhiên lĩnh

vực viễn thông chưa được đề cập đến.

Như vậy có rất nhiều định nghĩa có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về

loại tội phạm này. Còn có nhiều quan niệm khác nhau về việc có nên coi đây là loại

tội phạm hoàn toàn mới so với các tội phạm truyền thống hay không, và tương ứng

với nó là một hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự riêng để điều chỉnh. Dựa trên

những dấu hiệu của tội phạm trong pháp luật hình sự và quan niệm về tội phạm mạng

ở một số nước trên thế giới, có thể thấy: trước hết, xét về bản chất thì tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT cũng có đầy đủ các tính chất, đặc điểm như mọi tội phạm

truyền thống khác, nghĩa là cũng được coi là những hành vi nguy hiểm cho xã hội,

gồm 4 yếu tố cấu thành cơ bản. Điểm khác biệt với những tội phạm khác là, đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì công nghệ thông tin như máy tính, mạng

29

máy tính và các thiết bị viễn thông có vai trò, mức độ nhất định trong việc thực hiện,

che giấu và gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội [55]. Các

thiết bị phần cứng như máy tính, thiết bị số, các thiết bị truyền dẫn, kết cấu hạ tầng

mạng và các chương trình máy tính đóng vai trò là công cụ thiết yếu trong quá trình

thực hiện tội phạm mà nếu thiếu CNTT&MVT thì tội phạm này không thể thực hiện

được. Đánh giá một cách tổng thể có thể thấy rằng, đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT thì các thiết bị công nghệ thông tin và viễn thông có thể được thể hiện

dưới nhiều góc độ khác nhau như có thể là khách thể của tội phạm, có thể là công cụ

phạm tội...

Dưới góc độ là một bộ phận của khách thể của tội phạm, hiểu theo nghĩa đơn

giản nhất, máy tính và các các thiết bị viễn thông khác là một loại tài sản có giá trị. Do

vậy, nó có thể trở thành đối tượng xâm hại của các tội xâm phạm sở hữu như trộm cắp

tài sản. Hiểu theo một góc độ phức tạp hơn, máy tính và các thiết bị viễn thông với vai

trò như là một bộ phận của khách thể của tội phạm còn được thể hiện trong việc tội

phạm cố tình phá hoại hay trộm cắp, nhằm xóa bỏ hoặc lấy cắp các thông tin mà nó

chứa đựng.

Dưới góc độ là công cụ phạm tội, máy tính và các thiết bị viễn thông khác ngày

càng được các loại tội phạm khác nhau sử dụng vì những khả năng ưu việt của chúng.

Việc sử dụng máy tính và các thiết bị viễn thông làm công cụ phạm tội cũng được chia

làm hai loại: thứ nhất, máy tính và các thiết bị viễn thông được sử dụng như là công cụ

để thực hiện các tội phạm truyền thống như tội đánh bạc, tội trộm cắp cước viễn

thông... thứ hai, máy tính và các thiết bị viễn thông cùng những thông tin được lưu giữ

trong đó được người phạm tội sử dụng để thực hiện tội phạm như đánh cắp tài khoản,

thông tin cá nhân...

Từ những phân tích trên cho thấy, có thể định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do

người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng CNTT&MVT, sử dụng kiến thức,

kỹ năng hiểu biết của mình về CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội. Các tội

phạm này được quy định tại mục 2 chương XXI, từ Điều 285 đến Điều 294 Bộ luật

hình sự Việt Nam năm 2015.

2.1.2.2 Các yếu tố cấu thành của các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin và mạng viễn thông

a. Khách thể của tội phạm

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được xếp vào Chương các tội phạm xâm

phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của Bộ luật hình sự. Do đó, nhóm tội phạm

này xâm phạm đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực an toàn trật tự xã hội. Nói một

30

cách cụ thể, loại tội này xâm hại đến an toàn trong hoạt động viễn thông và công nghệ

thông tin, gây ra những những ách tắc, rối loạn và thiệt hại về nhiều mặt cho đời sống

xã hội. Trên cơ sở khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được nêu ở

phần trên, chúng ta có thể chia khách thể của các tội phạm này thành hai loại:

Thứ nhất, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT xâm phạm, làm ảnh hưởng

đến hoạt động bình thường của mạng viễn thông, hệ thống máy tính, mạng máy tính và

thiết bị liên quan. Sự xâm phạm ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là từ các việc

làm hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệnh thông tin của mạng viễn thông, máy tính, mạng

máy tính, các thiết bị liên quan cũng như các thông tin trong hệ thống máy tính và

mạng máy tính. Các đối tượng này rất đa dạng, từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị

của mạng máy tính, mạng viễn thông... đến các chương trình máy tính, các thông tin

chứa đựng trong hệ thống máy tính và hệ thống mạng. Đây là nhóm khách thể của 03

tội danh về tin học trong Bộ luật hình sự năm 1999 của Việt Nam (quy định tại Điều

224, Điều 225, Điều 226).

Thứ hai, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã sử dụng máy tính và

mạng máy tính, mạng viễn thông như là công cụ để xâm phạm đến lợi ích chính đáng

của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Cụ thể các tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT đã gây hại đến hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn

thông, mạng Internet, thiết bị số [46] ; an toàn thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân

[46]; sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân [46]. Đây là những khách thể rất

rộng và có liên quan đến các tội phạm truyền thống đã sử dụng các thành tựu của

CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội, được quy định tại mục 2 chương XXI Bộ

luật hình sự 2015 từ Điều 285 – Điều 294. Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật mới,

các tội phạm này có thể gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng về nhiều mặt cho

hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và đời sống xã hội

không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia.

b. Mặt khách quan của tội phạm

Căn cứ vào Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 và hướng dẫn tại Thông tư liên

tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC về hướng

dẫn áp dụng quy định của BLHS về một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, thì

chúng ta có thể nhận thấy mặt khách quan của các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT thể hiện như sau:

- Hành vi thể hiện ở việc phát tán (cố ý lan truyền) vi rút, chương trình tin học

có tính năng gây hại (gây rối loạn hoạt động, phong tỏa, sao chép, làm biến dạng, huỷ

hoại các dữ liệu cho mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số. Quy

định tại Điều 224 BLHS sửa đổi năm 2009 và Điều 6 Thông tư.

31

- Cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị

số quy định tại Điều 225 BLHS sửa đổi năm 2009.

- Truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet

hoặc thiết bị số của người khác quy định tại Điều 226a BLHS sửa đổi năm 2009.

- Sử dụng CNTT nhằm chiếm đoạt tài sản bao gồm những hành vi lừa đảo, gian

lận nhằm chiếm đoạt tài sản thông qua sử dụng máy tính, mạng máy tính, mạng viễn

thông quy định tại Điều 226b BLHS sửa đổi năm 2009.

Theo Bộ luật hình sự năm 2015 mặt khách quan của các tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT được bổ sung bằng các điều luật sau:

- Hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm

để sử dụng vào mục đích trái pháp luật quy định tại Điều 285 BLHS năm 2015;

- Hành vi thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin

về tài khoản ngân hàng quy định tại Điều 291 BLHS năm 2015;

- Hành vi sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp

cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh quy định tại Điều 293

BLHS năm 2015;

- Hành vi cố ý gây nhiễu có hại, cản trở hoạt động bình thường của hệ thống

thông tin vô tuyến điện quy định tại Điều 294 BLHS năm 2015.

Trong mặt khách quan của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ngoài

hành vi vi phạm còn có các yếu tố về hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và

hậu quả. Tuy nhiên, các hành vi phạm tội của nhóm tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT cần phải gây ra hậu quả thiệt hại nhất định thì mới bị truy cứu trách

nhiệm hình sự. Điều 224 BLHS sửa đổi năm 2009, Điều 286 BLHS năm 2015 quy

định nếu chỉ tạo ra các chương trình vi-rút nhưng không lan truyền hoặc phát tán

chúng, không gây ra hậu quả thiệt hại thì không cấu thành tội phạm; tội phạm hoàn

thành từ thời điểm xảy ra các thiệt hại. Trong trường hợp tuy hành vi phạm tội chưa

gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này

mà còn vi phạm thì hành vi vẫn cấu thành tội phạm.

Hậu quả của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ gây thiệt hại

lớn về kinh tế mà còn tác động tiêu cực đến an ninh, an toàn thông tin của quốc gia,

của cơ quan tổ chức và cá nhân.

c. Chủ thể của tội phạm

Cũng giống như các tội phạm truyền thống khác, chủ thể của các tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT là những cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy

nhiên, các chủ thể này có điểm đặc thù khác với chủ thể của các tội phạm khác ở chỗ

họ thường là những người có hiểu biết về mạng viễn thông, công nghệ máy tính, công

32

nghệ mạng và đã lợi dụng những hiểu biết này để thực hiện hành vi phạm tội. Tuy

nhiên, cũng có trường hợp chủ thể là những người không hiểu biết đầy đủ về các quy

định liên quan đến vận hành, khai thác và sử dụng mạng viễn thông, mạng máy tính

điện tử dẫn đến những thiệt hại (ví dụ Điều 225 Bộ luật hình sự 1999 về tội vi phạm

các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử).

Theo quy định của BLHS năm 2015 chủ thể của tội phạm đã được mở rộng bao

gồm cá nhân và pháp nhân thương mại. Đây là quy định rất mới được thể hiện trong

BLHS về chủ thể của tội phạm, tuy nhiên đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

thì chủ thể của tội phạm này chỉ là cá nhân và phải có những hiểu biết nhất định về

CNTT&MVT; đã lợi dụng những hiểu biết này để thực hiện hành vi phạm tội.

d. Mặt chủ quan của tội phạm

Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, thông thường được thực

hiện do lỗi cố ý. Trong 3 tội danh có liên quan đến tội phạm tin học trong BLHS sửa

đổi năm 2009 có một tội danh được thực hiện do lỗi vô ý do cẩu thả hoặc quá tự tin là

tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử

quy định tại Điều 225 BLHS sửa đổi năm 2009. Tuy nhiên, trong trường hợp lỗi vô ý, thì

thường là những hành vi gây ra hậu quả thiệt hại nghiêm trọng. Theo BLHS năm 2015

các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT đều là lỗi cố ý, không có lỗi vô ý.

Động cơ, mục đích của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đa phần là vì

vụ lợi. Tuy nhiên, trong thực tế, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có thể được

thực hiện do vụ lợi hoặc vì lợi ích trong cạnh tranh hay giải quyết mâu thuẫn, trả thù

cá nhân... hoặc cũng có thể là sự tò mò, thử nghiệm, muốn chứng tỏ khả năng của bản

thân. Các yếu tố về động cơ, mục đích phạm tội của các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT thường không phải là dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này.

2.1.2.3 Phân biệt tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn

thông với các tội phạm khác

Qua phân tích những đặc điểm của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở

phần trên chúng ta cũng đã thấy được phần nào sự khác biệt giữa các tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT với các loại tội phạm khác.

Nhìn chung có thể thấy 4 đặc điểm khác biệt cơ bản giữa chúng như sau:

a. Khác biệt về vai trò của máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông và các

thiết bị công nghệ thông tin có liên quan

Một điểm khác biệt cơ bản giữa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với

tội phạm thông thường chính là ở vai trò của máy tính, mạng viễn thông, mạng máy

tính cũng như các thiết bị CNTT khác có liên quan đến quá trình thực hiện hành vi

phạm tội. Tất cả các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đều có liên quan đến máy

33

tính, mạng viễn thông, mạng máy tính và các thiết bị CNTT có liên quan. Máy tính,

mạng máy tính, mạng viễn thông vừa có thể là đối tượng của tội phạm lại vừa có thể là

môi trường và là phương tiện, công cụ chủ yếu để thực hiện hành vi phạm tội.

b. Khác biệt về đặc điểm chủ thể

Chủ thể thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hầu hết là những

người thông minh, những người có tri thức và am hiểu về công nghệ mới. Phần lớn

những người phạm tội là những người có hiểu biết sâu về công nghệ kỹ thuật số, thiết

bị viễn thông, máy tính và có kỹ năng khai thác sử dụng chúng thành thạo. Vì vậy, họ

luôn thành công trong việc thực hiện hành vi phạm tội và gây rất nhiều khó khăn cho

các cơ quan tiến hành tố tụng, thường họ là những người trẻ tuổi, chưa từng bị pháp

luật trừng trị và không hề có tiền án.

c. Khác biệt về hậu quả thiệt hại

Hậu quả của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thường hết sức nghiêm

trọng. Một khi các hoạt động quản lý xã hội được “tin học hóa”, hệ thống mạng, hệ

thống thông tin được phổ biến rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,

thì hậu quả do vi phạm này gây ra sẽ nhanh chóng ảnh hưởng tới hầu hết các lĩnh vực

của đời sống với tốc độ chóng mặt gây ra các hậu quả khôn lường về kinh tế - xã hội.

Theo thống kê của các chuyên gia an ninh mạng của Mỹ thì nước này mỗi năm thiệt

hại khoảng từ 550 triệu đến 13 tỷ đô la do các tội phạm công nghệ thông tin gây ra.

Các chuyên gia của EU cũng chỉ ra trong vài năm gần đây, những nhóm hacker có tổ

chức chuyên phá hoại và thay đổi các trang thông tin ngày càng hoạt động mạnh mẽ.

Chúng không chỉ gây tổn thất về tài chính tới hàng tỉ đô la mỗi năm mà trong một số

trường hợp, còn gây hại đến tính mạng con người, chẳng hạn như việc tấn công vào

các hệ thống điều khiển bệnh viện và không lưu [109].. Ở Việt Nam loại tội phạm đã

và đang phát triển với rất nhiều thủ đoạn phạm tội tinh vi, khó phát hiện và khó xử lý

nhưng cũng đã gây ra thiệt hại rất lớn, đe dọa trực tiếp đến an toàn thông tin quốc gia.

d. Khác biệt về tính chất hành vi phạm tội

Các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thường rất tinh vi, khó phát hiện.

Tính chất này được quy định do các đặc điểm sau

- Thứ nhất, hành vi phạm tội khi sử dụng các thiết bị CNTT&MVT phá huỷ

hoạt động của các đối tượng tồn tại dưới dạng vật thể, như chương trình máy tính hoặc

dữ liệu, mà không phá huỷ máy tính hoặc mạng máy tính, mạng thông tin hay các linh

kiện của chúng, nên sự phá huỷ này không để lại các dấu vết tồn tại dưới dạng vật thể.

- Thứ hai, chủ thể tội phạm chỉ thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian rất

ngắn, chúng có thể thực hiện hành vi phạm tội chỉ trong vòng một phần nghìn, thậm

chí một phần triệu giây bằng các máy tính có tốc độ xử lý siêu tốc.

34

- Thứ ba, người phạm tội không bị hạn chế về thời gian, không gian, chúng có

thể thực hiện hành vi phạm tội bất cứ khi nào, ở bất cứ nơi đâu thậm chí rất từ một nơi

rất xa hiện trường hoặc từ nước ngoài. Đây là hành vi phạm tội xuyên quốc gia, không

biên giới.

- Cuối cùng có thể thấy đối với loại tội phạm này là việc điều tra thu thập dấu

vết cực kỳ khó khăn. Bởi người phạm tội có thể xoá bỏ hoàn toàn các dấu vết của hành

vi phạm tội với một chương trình xoá dấu vết đã được đặt sẵn khi các lệnh phạm tội

được thực hiện.

Ngoài bốn đặc điểm khác biệt cơ bản kể trên, chúng ta cũng có thể thấy một số

dấu hiệu khác biệt khác so với các nhóm các hành vi vi phạm pháp luật thông thường

như tính không biên giới của loại tội phạm này, tính chất ngày càng tăng về số lượng

và hậu quả, tinh vi về cách thức tiến hành cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng

công nghệ thông tin... Nhận biết các dấu hiệu này giúp chúng ta dễ dàng hơn trong

việc xác định đúng các loại tội danh thuộc tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT để có

những biện pháp ngăn ngừa và xử lý có hiệu quả.

2.2 Lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông

2.2.1 Khái niệm, mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

2.2.1.1 Khái niệm tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và

mạng viễn thông

Theo “Đại từ điển tiếng Việt” thì “tình hình” được hiểu là “Trạng thái, xu

thế phát triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi ở

trong đó”[47]. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế

vận động của tội phạm. Khi nói tình hình tội phạm có thể hiểu là tình hình của tội

phạm nói chung hoặc của nhóm tội như nhóm tội xâm phạm sở hữu hoặc của tội cụ

thể như tội giết người. Đồng thời khi nói tình hình tội phạm bao giờ cũng phải gắn

với không gian và khoảng thời gian nhất định, vì tội phạm luôn xảy ra trong không

gian và thời gian xác định. Do vậy, có thể định nghĩa về tình hình tội phạm như

sau: Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm (hoặc

nhóm tội phạm hoặc loại tội phạm) đã xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị

thời gian xác định [47].

Trong các công trình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam, có công trình đưa ra

định nghĩa về tình hình tội phạm, có công trình chỉ trình bày nội dung của khái niệm

này mà không rút ra định nghĩa Giáo trình Tội phạm học của Đại học quốc gia Hà Nội,

2015; Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017; Giáo trình Tội

35

phạm học của Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2013; sách Tội phạm học, luật hình sự

và luật tố tụng hình sự Việt Nam, 1994; sách Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội

phạm của PGS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, 2001 là các công trình có định nghĩa tình hình

tội phạm; sách “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, Nhà

xuất bản CAND, 2000 là công trình không có định nghĩa về tình hình tội phạm. Các

định nghĩa về tình hình tội phạm trong những công trình nghiên cứu hiện nay có thể

chia thành hai loại.

Một loại định nghĩa được xây dựng trên cơ sở phân biệt rõ giữa tội phạm và tình

hình tội phạm. Định nghĩa về tình hình tội phạm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa tương

đối phù hợp với định nghĩa của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn “Tội phạm học

hiện đại và phòng ngừa tội phạm”: “Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu,

động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn

nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực

hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định” [50]. Định nghĩa về tình hình

tội phạm đã có sự phân biệt giữa tội phạm và tình hình tội phạm.

Định nghĩa về tình hình tội phạm của GS.TS Võ Khánh Vinh: “Tình hình tội

phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý hình sự có thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai

cấp, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm đã xảy ra trong xã hội

(quốc gia; địa giới cấp tỉnh; cấp huyện) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định

[53]. Định nghĩa này đã chỉ rõ các đặc điểm của tình hình tội phạm như là một hiện

tượng xã hội, pháp lý hình sự, tính giai cấp... và các tội phạm này phải xảy ra trong

một không gian và thời gian xác định.

Như vậy từ các định nghĩa, cách hiểu về tình hình tội phạm nói chung tác giả có

thể đưa ra định nghĩa về tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT dựa trên quan

điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh như sau: Tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là một hiện tượng xã hội, pháp lý tiêu cực bao gồm tổng thể các tội phạm

đã xảy ra, được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam và trong khoảng thời gian

nhất định.

2.2.1.2 Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông

Phòng ngừa tình hình tội phạm (Situational Crime Prevention – tiếng Anh viết

tắt là SCP) là một thuật ngữ chuyên ngành của tội phạm học và cũng là một nội dung

nghiên cứu quan trọng của tội phạm học [42].

Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực và nguy hiểm nhất, nó gây ra thiệt hại

rất lớn cho xã hội trên nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy, lý luận về phòng ngừa tình hình

tội phạm đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới. Nhìn chung các khái niệm về phòng

36

ngừa tình hình tội phạm được nêu ra và thực tế áp dụng các biện pháp phòng ngừa ở

mỗi quốc gia, mỗi chế độ xã hội đều có những đặc điểm khác nhau. Cụ thể:

Các nhà tội phạm học tư sản trước đây quan niệm về phòng ngừa tội phạm dưới

nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên qua các thời kỳ lịch sử thì tội phạm học tư sản có ba

hướng tiếp cận chính như: tiếp cận theo thuyết Nhân chủng học (bao gồm thuyết Thần

kinh tội phạm và thuyết Tâm lý học tội phạm); tiếp cận theo thuyết Xã hội quyết định

và tiếp cận Luật học [42] nhằm tìm ra các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm

từ đó có các biện pháp phòng ngừa phù hợp.

Khác với quan niệm của các nhà tội phạm học tư sản, tội phạm học XHCN (tội

phạm học mác xít) tiếp cận hiện tượng tội phạm và phòng ngừa tội phạm theo hướng

khác, họ đã đi từ bản chất con người đến nguyên nhân tội phạm. C.Mác, Ph.Ăng-ghen

cho rằng “Phòng ngừa tội phạm là phương hướng cơ bản nhất của công tác đấu tranh

với tội phạm. Pháp luật không bao giờ lại có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát

triển văn hóa xã hội do chế độ kinh tế đó tạo nên. Để quy định một hành vi nguy hiểm

cho xã hội là phạm tội còn phải tính đến các yếu tố khác mà trước hết là yếu tố kinh

tế, văn hóa, xã hội và ý thức pháp luật. Một khi ý thức pháp luật của số đông chưa

thừa nhận một hành vi nào đó phải bị trừng trị bằng pháp luật hình sự thì chưa thể

quy định hành vi đó là tội phạm. Cùng với biện pháp pháp luật thì trước hết hãy phòng

ngừa và hãy dùng đến các biện pháp phòng ngừa xã hội khác; nếu không trong trường

hợp ấy dân chúng chỉ nhìn thấy hình phạt mà không nhìn thấy tội phạm” [31].

Tại Việt Nam, khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm đã được dùng thống

nhất trong hầu hết các công trình nghiên cứu về tội phạm học ở Việt Nam, từ các giáo

trình đại học đến các sách chuyên khảo và tham khảo. Phòng ngừa tình hình tội phạm, xét

về mặt ngôn ngữ được hiểu là hoạt động nhằm ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra.

Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm không phải là hoạt động hướng tới tội phạm đã

xảy ra - tội phạm hiện thực mà là nhằm ngăn ngừa, không cho tội phạm xảy ra.

Các giáo trình tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà nội - Nhà xuất bản

Công an nhân dân năm 2004, của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội - Nhà xuất bản

Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999; Các sách Tội phạm học, luật hình sự và luật tố

tụng hình sự của Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật -Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia năm 1994, Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của Viện

nghiên cứu nhà nước và pháp luật - Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2000; Tội

phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm - Nhà xuất bản Công an nhân dân năm

2001; Tội phạm học- Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2013 đều có đề cập đến

khái niệm về phòng ngừa tình hình tội phạm.

37

Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Đại học

quốc gia năm 2010 thì "Phòng ngừa là phòng không cho điều bất lợi, tác hại xảy ra

;“Phòng là tìm cách ngăn ngừa, đối phó với điểu không hay có thế xảy ra, gây tác hại

cho mình" [47]

Từ điển Bách khoa công an nhân dân định nghĩa “Phòng ngừa tội phạm là hệ

thống các biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm chủ động ngăn chặn không để cho

tội phạm xảy ra, không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu những hậu

quả tiêu cực do hành vi phạm tội xảy ra. Nếu có tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát

hiện, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tiến hành giáo dục, cải tạo người

phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Phòng ngừa tội phạm mang tính hệ

thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội

và công dân. Chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa tội phạm là các cơ quan nhà

nước, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và cá nhân từng công dân. Ở Việt Nam

phòng ngừa tội phạm mang tính kế hoạch, có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan nhà

nước cũng như của các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng” [20]

Giáo trình Tội phạm học – Nhà xuất bản Công an nhân dân đưa ra định nghĩa

“Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và

công dân bằng nhiều biện pháp hướng tới thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của

tội phạm nhằm ngăn chặn, kiềm chế, làm giảm và từng bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi

đời sống xã hội” [52].

Các định nghĩa trên đã bao quát được những vấn đề trọng tâm mang tính cốt lõi

của phòng ngừa tình hình tội phạm gồm

- Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc sử dụng hệ thống các biện pháp có mối

quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau;

- Phòng ngừa tình hình tội phạm được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau

gắn với chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể;

Tuy nhiên, các định nghĩa trên đều nhấn mạnh chung một mục đích là đẩy lùi,

loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội không để cho tội phạm tồn tại và phát triển.

Như vậy phòng ngừa tình hình tội phạm phải loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm

qua việc chủ động tác động đến các thành tố hợp thành nguyên nhân đó theo hướng

giảm thiểu, triệt tiêu các thành tố này hoặc hạn chế tác dụng của nó. Hoạt động này

không thể là hoạt động đơn lẻ mà đòi hỏi phải là hoạt động có tính tổng hợp của Nhà

nước, của cả xã hội và của mọi công dân. Như vậy, có thể định nghĩa Phòng ngừa tình

hình tội phạm là hoạt động có tính chủ động và tổng hợp của Nhà nước, của xã hội và

của mọi công dân hướng tới việc hạn chế, ngăn ngừa sự hình thành các yếu tố tạo

38

thành nguyên nhân của tội phạm hoặc làm cho các yếu tố này không phát huy được

tác dụng để loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm, ngăn ngừa tội phạm xảy ra [42].

Với cách hiểu này, phòng ngừa tình hình tội phạm khác với chống tội phạm và

cũng khác với kiểm soát tội phạm. Nhưng chống tội phạm cũng như kiểm soát tội

phạm không phải độc lập hoàn toàn với phòng ngừa tình hình tội phạm vì chống tội

phạm và kiểm soát tội phạm cũng có mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm và trong

phạm vi nhất định, hoạt động cụ thể của chống tội phạm hay kiểm soát tội phạm cũng

là hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.

Từ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, những

đặc điểm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam có thể xác định

“Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là hoạt động có tính chủ

động của các chủ thể trong việc sử dụng nhiều biện pháp nhằm hạn chế, ngăn ngừa

các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT”.

Như vậy phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được hiểu

là sử dụng tổng hợp các biện pháp phòng ngừa theo hướng như sau

Thứ nhất, hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố khách quan

Các yếu tố khách quan có thể tác động tiêu cực đến việc phát sinh, phát triển tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như trong môi trường kinh tế, trong môi trường văn hóa

xã hội, trong gia đình, nhà trường,... cần được hạn chế dần và đi đến vô hiệu hóa những hiện

tượng kinh tế, xã hội tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm này.

Thứ hai, hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố chủ quan

Các yếu tố chủ quan có tác động tiêu cực tồn tại trong chính người phạm tội. Cần

phải sử dụng các biện pháp để tuyên truyền, phổ biến, giải thích để loại trừ các tác động

tiêu cực này để nó không là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Ngoài ra cần tuyên truyền, nâng cao ý thức của chính người bị hại.

Với khái niệm trên cho thấy phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT có những đặc điểm cơ bản sau

- Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần thiết phải có

sự tham gia của nhiều chủ thể. Qua đó phát huy được sức mạnh của mỗi ngành, mỗi

cấp tạo nên thế trận vững chắc trong phòng ngừa tình hình loại tội phạm này;

- Không gian, thời gian thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT khó xác định hơn các loại tội phạm truyền thống khác do đặc điểm của

nó mang tính xuyên quốc gia, phi biên giới. Chính vì vậy phòng ngừa tình hình tội

phạm này cũng phải được xem xét phù hợp với đặc điểm trên.

- Các chủ thể khi tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nhất thiết phải có sự hiểu biết nhất định về CNTT&MVT. Bởi đặc điểm

39

về chủ thể của loại tội phạm này rất đặc biệt, phần nhiều đối tượng phạm tội là những

người giỏi, có kiến thức chuyên sâu về CNTT&MVT đã sử dụng, khai thác các thiết bị

máy tính và viễn thông để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, bên cạnh việc nắm vững

các quy định của pháp luật, nghiệp vụ của ngành thì yêu cầu đặt ra là phải có kiến thức

về CNTT&MVT, sử dụng thành thạo các biện pháp kỹ thuật mới có thể phát hiện ra

được những sơ hở, thiếu sót trong quản lý nhà nước về CNTT&MVT, tìm ra những

phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng phạm tội.

2.2.1.3. Mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Phòng ngừa tình hình tội phạm nhằm mục đích kìm chế sự gia tăng, hạn chế

dần mức độ và tính chất nghiêm trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra.

Theo đó, mục đích của phòng ngừa tình hình tội phạm có các mức độ khác nhau từ

kìm chế sự gia tăng của tội phạm, hạn chế dần mức độ và tính chất nghiêm trọng của

tội phạm đến ngăn ngừa tội phạm xảy ra.

Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhằm khắc phục, thủ

tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm

từng bước tiến tới loại trừ các tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.

Để có thể đạt được mục đích này đòi hỏi phải đưa ra được hệ thống các biện

pháp phòng ngừa phù hợp với thực trạng và diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT và có tính khả thi cũng như phải tổ chức triển khai thực hiện được các

biện pháp phòng ngừa này một cách đồng bộ và hợp lý. Bao gồm:

Một là, loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, xóa bỏ các

tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh ra tội phạm.

Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình – nhà trường – xã hội) xung

quanh các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và người phạm tội, qua đó hạn chế, ngăn

ngừa những hiện tượng có ảnh hưởng bất lợi và không đúng đến việc hình thành các

phẩm chất cá nhân tiêu cực chống đối xã hội của bản thân người phạm tội.

Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có hệ thống phòng ngừa

các hiện tượng tiêu cực và tội phạm, các tác nhân ảnh hưởng và những thiếu sót trong cơ

chế quản lý về các mặt (như: kinh tế, xã hội, công tác tổ chức cán bộ…), cũng như kiến

nghị hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác.

Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đem lại nhiều ý

nghĩa, nó thể hiện trên các khía cạnh như sau:

- Về mặt chính trị: Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

là hoạt động để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng, văn bản

của Nhà nước và Chính phủ, để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, triển khai các kết

40

quả nghiên cứu và hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là

vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm. Các văn bản đã được ban hành có liên quan đến

việc phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng như: Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 của Bộ Chính trị năm 2005 ; Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới của Bộ

Chính trị năm 2010. Nghị định số 25/NĐ-CP quy định về Phòng, chống tội phạm và vi

phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày

14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội

phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030.

Ngoài ra, phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mang ý

nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc

gia, an toàn thông tin, trật tự an toàn xã hội trong các lĩnh vực liên quan đến

CNTT&MVT, bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức và cá nhân, danh dự, nhân phẩm

của mọi người dân.

Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với ý nghĩa về mặt

chính trị sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác đấu tranh có hiệu quả

với các loại tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng,

phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, trách nhiệm của các

ngành, các cấp trong phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm

- Về mặt kinh tế, phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ hạn chế đến mức thấp nhất

những thiệt hại về kinh tế mà tội phạm gây ra trong xã hội kể cả những thiệt hại trực

tiếp và gián tiếp mà nhà nước, xã hội phải chi phí để khắc phục hậu quả do tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra.

Làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiệm một khoản rất lớn về chi phí cho ngân sách

Nhà nước, tiền của và sức lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các hoạt

động điều tra truy tố xét xử, trong việc khắc phục hậu quả của tội phạm gây ra cho xã

hội, trong công tác cải tạo, giáo dục và thi hành án đối với người phạm tội. cũng như

trong việc giải quyết các hậu quả có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Về mặt xã hội, thông qua phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, Nhà nước có thể kiểm soát được các hiện tượng tiêu cực của đời sống

xã hội là tình hình tội phạm, qua đó nâng cao tính hiệu quả của hoạt động quản lý nhà

nước, đồng thời tăng cường hiệu quả trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các

cơ quan bảo vệ pháp luật. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

41

góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, qua đó góp

phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân và vì nhân dân, ngăn ngừa sự xâm phạm vào các lợi ích hợp pháp đã

được Nhà nước xác lập và bảo vệ.

Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thể hiện bản chất

nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại

cũng như tránh được nguy cơ một số người bị xử lý trước pháp luật do thực hiện các hành

vi phạm tội. Trong trường hợp nếu vẫn có tội phạm xảy ra trong xã hội thì bảo đảm không

bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội, giải quyết nhanh chóng,

chính xác và đúng pháp luật đối với trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội,

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân.

- Về mặt khoa học, phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức và cũng không phải của một ngành

khoa học nào trong lĩnh vực tư pháp hình sự, mà nó chính là nhiệm vụ chung của toàn

xã hội, mà trong đó ngành khoa học về tội phạm học phải có nhiệm vụ thực hiện chức

năng phòng ngừa tội phạm. Dựa trên cơ sở chức năng này, phải xây dựng được cơ sở

và các nguyên tắc trong hoạt động phòng ngừa, xác định chủ thể phòng ngừa, lập và

xây dựng kế hoạch phòng ngừa đầy đủ và khoa học và có hệ thống các biện pháp

phòng ngừa. Do đó, nếu thực hiện tốt chức năng này mới có thể từng bước ngăn chặn

tội phạm và tình hình tội phạm trong xã hội, không cho tội phạm phát triển, qua đó

từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Phòng ngừa tình

hình tội phạm chính là mục tiêu cuối cùng sau khi làm tốt các chức năng mô tả, giải

thích và dự báo thì mới có thể tìm ra được những biện pháp tác động vào quy luật phát

sinh, tồn tại và phát triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được các nguyên nhân và

điều kiện phạm tội cũng như những tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

nhằm từng bước kiểm soát và loại trừ tội phạm.

Cần xây dựng kế hoạch phòng ngừa, nhận diện những diễn biến tội phạm và

tình hình tội phạm trong tương lai, khả năng xuất hiện, thay đổi của tội phạm cũ và tội

phạm mới, diễn biến và quy luật của quá trình tội phạm hóa – phi tội phạm hóa, hình

sự hóa – phi hình sự hóa, cũng như những biến đổi của đời sống xã hội khác nói chung

và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Cần đưa ra những giải pháp mang

tính chủ động hơn, tích cực hơn và có hiệu quả hơn trong công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm, hỗ trợ cho các ngành luật khác trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Hơn

nữa, chính những giải pháp của ngành khoa học này là tiền đề rất quan trọng để thực

hiện tốt đường lối xử lý về hình sự, cũng như trong công tác đấu tranh phòng ngừa và

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của Nhà nước

42

2.2.1.4. Các nguyên tắc trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ở Việt nam

- Nguyên tắc dân chủ: Nhà nước thống nhất quản lý phòng ngừa tình hình

các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều tham

gia vào phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Hoạt động phòng ngừa này được dựa

trên nguyên tắc dân chủ cụ thể như: Nhà nước tạo mọi điều kiện khuyến khích các

chủ thể bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân tham gia tích

cực, chủ động trong phòng ngừa nhưng phải dựa trên giá trị thượng tôn của pháp

luật. Nhà nước phát huy các nguồn lực về chính trị, kinh tế, xã hội... cho phòng

ngừa. Tuy nhiên nguyên tắc dân chủ cũng yêu cầu trong phòng ngừa, các chủ thể

cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật bảo đảm pháp chế XHCN, các cơ quan

chức năng cấp trên trong phạm vi quyền hạn của mình thường xuyên kiểm tra, chỉ

đạo, đôn đốc, nhắc nhở các cơ quan cấp dưới trong phòng ngừa tình hình tội phạm.

- Nguyên tắc phối hợp: trong phòng ngừa tình hình các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể trong phạm vi và nhiệm

vụ phòng ngừa ở từng địa phương, từng ngành mà mình quản lý đồng thời có sự phối

hợp chặt chẽ với các chủ thể khác để có thể thực hiện một cách tốt nhất phòng ngừa

tình hình tội phạm. Giữa các chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình các tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT cần có sự phối hợp và cụ thể, kiểm soát và đối trọng lẫn

nhau; Phòng ngừa tình hình các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần kết hợp giữa

chủ động phòng ngừa với chủ động liên tục tiến công tội phạm;

- Nguyên tắc pháp chế: các chủ thể khi thực hiện phòng ngừa tình hình các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật,

tôn trọng giá trị thượng tôn của pháp luật. Khi tiến hành phòng ngừa tình hình các tội

phạm này các chủ thể cần thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn đã

được phân công, phân nhiệm tránh tình trạng chồng chéo, xung đột. Không được vì lợi

ích của tập thể mà vi phạm vào các lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận.

- Nguyên tắc nhân đạo, khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa tình hình các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam. Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa

là không được hạ thấp danh dự nhân phẩm con người mà phải nhằm khôi phục con người

và tạo điều kiện để con người phát triển, tôn trọng quyền con người, quyền công dân.

Nguyên tắc khoa học và tiến bộ là các biện pháp phòng ngừa phải được xây

dựng trên cơ sở khoa học, phải ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ

trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm. Các biện pháp

43

phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi người có cơ hội phát triển bình đẳng,

không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, thái độ chính trị.

- Nguyên tắc phân hóa trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT thể hiện ở chỗ hệ thống phòng ngừa phải được tổ chức tương

ứng với các quy luật và đặc điểm của tình hình tội phạm và người phạm tội, các biện

pháp phòng ngừa phải phù hợp với từng lĩnh vực phòng ngừa, đối tượng và địa điểm

phòng ngừa; việc phòng ngừa đối với cá nhân phải được tiến hành trên cơ sở có sự

hiểu biết đầy đủ về cá nhân đó.

- Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời: Nói chung tất cả các các hành vi vi phạm

pháp luật đều phải được tiến hành phòng, chống một cách nhanh chóng kịp thời đặc biệt

là có các biện pháp ngăn chặn hiệu quả không để cho nó xảy ra trong đó có tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể phòng ngừa cần khẩn trương,

nhanh chóng, kịp thời trong công tác dự báo tình hình tội phạm; dự báo được các nguyên

nhân, điều kiện là cơ sở để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có điều kiện phát sinh,

phát triển từ đó có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.

- Nguyên tắc đề cao trách nhiệm phòng ngừa của người sử dụng CNTT&MVT.

Với đặc điểm của tội phạm học trong lĩnh vực CNTT&MVT thì vai trò phòng ngừa

tình hình tội phạm của cá nhân, tổ chức sử dụng CNTT&MVT rất quan trọng. Nếu

người sử dụng có ý thức chủ động phòng ngừa, có các biện pháp ngăn chặn thì sẽ

không tạo điều kiện cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phạm tội.

Nguyên tắc này đòi hỏi người sử dụng cần có những kỹ năng và sự hiểu biết cần thiết,

có những biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Tất cả các nguyên tắc trên tạo thành một hệ thống tư tưởng vững chắc cho tổ

chức và hoạt động của việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Việc tuân thủ nghiêm

khắc, nhất quán các nguyên tắc đó trong thực tiễn sẽ đảm bảo hiệu quả cao của hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng.

2.2.2. Cơ sở phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một loại tội phạm sử dụng những

thành tựu khoa học công nghệ để phạm tội bao gồm tất cả những hành vi phạm tội liên

quan đến máy tính, có sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông,

xâm phạm bất kỳ khách thể nào được luật hình sự bảo vệ.

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trực tiếp đe dọa và xâm hại vào trật tự

an toàn thông tin, gây tổn hại cho lợi ích của nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp

khác của các tổ chức, cá nhân. Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là loại tội phạm

44

mới xuất hiện do sự phát triển của khoa học công nghệ nhưng tuy nhiên đó lại là loại

tội phạm nguy hiểm. Theo đánh giá của tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL

cho rằng loại tội phạm này chỉ nguy hiểm sau tội phạm về ma túy và khủng bố [14].

Đặc biệt đây là loại tội phạm không có giới hạn về không gian, thời gian mang tính

xuyên quốc gia và toàn cầu, hậu quả mà nó gây ra đặc biệt nguy hại trực tiếp đe dọa

đến an toàn thông tin của quốc gia, tổ chức và cá nhân. Cùng với sự phát triển nhanh

chóng của khoa học và công nghệ, với tiến trình toàn cầu hóa thế giới “mở” loại tội

phạm này theo dự báo sẽ ngày càng phát triển, tính chất và hành vi phạm tội sẽ ngày

càng tinh vi, thủ đoạn và xảo quyệt hơn. Việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT là hoạt động hết sức cần thiết, được tiến hành trên các cơ sở

sau đây:

2.2.2.1 Cơ sở chính trị

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại

Việt Nam được tiến hành theo nội dung trong các văn bản, nghị quyết của Đảng

như sau:

- Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

Nội dung Chỉ thị đã yêu cầu “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác phòng, chống tội phạm; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết

hợp chặt chẽ giữa công tác phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội. Công tác phòng, chống tội phạm phải được thực hiện trong tiến trình cải cách tư

pháp, phải tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công

dân và phải lấy chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn công

trấn áp tội phạm; Thường xuyên tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, trách

nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tội phạm để mỗi người thấy

được quyền lợi, nghĩa vụ, tích cực tham gia công tác này; Nâng cao hiệu quả công tác

phòng, chống tội phạm của các cơ quan chuyên môn; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ

quan chuyên môn với các cơ quan khác, các tổ chức quần chúng trong phòng, chống

tội phạm.”[5].

Để hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có

hiệu quả, Chỉ thị đã giao nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm cho các chủ thể như

các cấp ủy Đảng, chính quyền và người đứng đầu các cấp ủy Đảng, chính quyền phải

chịu trách nhiệm trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm, không để cho tội phạm xảy ra tại ngành, địa phương mình phụ trách. Huy động được sự tham gia rộng rãi, tích

cực của các tổ chức quần chúng và nhân dân vào công tác phòng, chống tội phạm.

Nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhân rộng các điển

45

hình tiên tiến trong công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao năng lực cho đội ngũ

cán bộ, cơ quan thực hiện công tác phòng, chống tội phạm.

Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác phòng, chống tội phạm cũng

như tăng cường quan hệ phối hợp, hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, chia sẻ kinh

nghiệm với các quốc gia trong việc phòng ngừa tinh hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy

mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

Trong bản Kết luận số 05 của Ban Bí thư đã xác định công tác phòng ngừa

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian qua đã được chỉ đạo và tiến hành

quyết liệt; cơ bản đạt được các chỉ tiêu, nhiệm vụ về phòng, chống tội phạm đề ra, góp

phần bảo đảm an ninh quốc gia và gìn giữ trật tự, an toàn xã hội, phục vụ có hiệu quả

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới [1]. Tuy nhiên tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vẫn còn những diễn biến hết sức phức tạp, việc

phòng ngừa tình hình tội phạm này chưa đạt hiệu quả cao.

Để tăng cường việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, Kết luận 05 đã chỉ rõ “Công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm

vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài, cùng với nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và thường xuyên của cấp ủy,

tổ chức đảng các cấp bằng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể; nâng cao

hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị và toàn dân tham gia”[1]. Trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần tích cực, chủ động phòng ngừa; tăng cường và

đổi mới công tác tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, phát huy sức mạnh của toàn

dân trong phòng, chống tội phạm.

2.2.2.2 Cơ sở pháp lý

Tại Việt Nam, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã gây ra những hậu quả

rất lớn về kinh tế, an toàn thông tin của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Thủ đoạn phạm

tội của các đối tượng ngày càng tinh vi rất khó phát hiện và xử lý. Do vậy việc phòng

ngừa tình hình loại tội phạm này là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện

nay. Việc tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được

các chủ thể tiến hành dựa trên các cơ sở pháp lý sau đây

- Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt

động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [68].

46

Như vậy, Hiến pháp là cơ sở pháp lý để mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,

cơ quan chức năng và mọi công dân phải chấp hành pháp luật, đồng thời có trách

nhiệm đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Từ đạo luật gốc này đã tạo điều kiện cho các văn bản pháp luật khác có

các quy định cụ thể hơn về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 xác định những hành vi nào là tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT, từ đó có các biện pháp phòng ngừa hiệu quả; quy định

về trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm thuộc về các cơ quan Công

an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra. Các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm

thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn giúp đỡ các cơ

quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,

giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng [65].

- Bộ luật hình sự năm 2015 là cơ sở để xác định hành vi nào là hành vi phạm tội

trong lĩnh vực CNTT&VT để có các biện pháp phòng ngừa phù hợp [66]. Ngoài ra

trong BLHS quy định về trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm của cơ

quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu quan

khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng

thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa

và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.

- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà

nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó nêu rõ

“Trong phạm vi trách nhiệm của mình, cơ quan nhà , tổ chức và cá nhân phải áp dụng

các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm…” [67].

- Luật an toàn thông tin mạng quy định về việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn

chặn và xử lý phần mềm độc hại, nội dung bao gồm việc xác định các chủ thể có trách

nhiệm thực hiện việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý phần mềm độc hại.

Các chủ thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân, đơn vị chủ quản hệ thống thông tin quan

trọng của quốc gia như Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an,

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông và Internet. Việc phòng ngừa, phát hiện,

ngăn chặn và xử lý phần mềm độc hại nhằm hạn chế, xóa bỏ hoặc thủ tiêu các nguyên

nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đáp ứng hiệu quả của

phòng ngừa tình hình hình các tội phạm này tại Việt Nam [70].

- Luật An ninh mạng quy định việc Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn

chặn, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an

47

ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,

cá nhân; sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ đe dọa an ninh mạng [69].

- Luật viễn thông quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về viễn thông trong

đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về viễn thông; Bộ Thông tin và Truyền

thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về

viễn thông có các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong luật trong đó có nhiệm vụ

phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thuộc thẩm quyền của

mình. Ngoài ra Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn có trách

nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về

CNTT&MVT nhằm hạn chế tối đa các cơ hội, điều kiện để các đối tượng có thể lợi

dụng thực hiện các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT [77].

- Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định trách nhiệm của lực lượng Công

an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia

và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lý về bảo vệ an ninh quốc

gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của

các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia,

trật tự, an toàn xã hội [71].

- Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong đó có quy định về trách nhiệm phối hợp

của Viện kiểm sát với các chủ thể khác trong hoạt động phòng ngừa tội phạm nói

chung và các vi phạm pháp luật khác [76].

- Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, tổ chức của cơ quan Tòa án, trong đó có quy định về trách nhiệm của Tòa

án với tư cách là cơ quan xét xử trong việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác

giáo dục, nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống vi

phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong

trường hợp cần thiết, cùng với việc ra bản án, quyết định, Tòa án nhân dân kiến nghị

yêu cầu cơ quan, tổ chức áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát

sinh tội phạm hoặc vi phạm pháp luật tại cơ quan, tổ chức đó [75].

- Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ quy định về

trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thông tin và an ninh thông tin. Muốn giữ an

toàn thông tin và an ninh thông tin của quốc gia, cơ quan, tổ chức và cá nhân đòi hỏi

các cơ quan là Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ-Bộ

Quốc phòng, Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ lao động thương binh và xã hội, Ủy ban nhân

dân các địa phương cùng có trách nhiệm đảm bảo, giữ vững an toàn thông tin và an

ninh thông tin bằng nhiều hoạt động khác nhau như đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,

48

hợp tác quốc tế, tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong việc sử dụng

các thiết bị công nghệ thông tin và viễn thông; nâng cao tính bảo mật thông tin của cá

nhân.... Giữ an toàn thông tin và an ninh thông tin cũng là một trong những nội dung

quan trọng nâng cao hiệu quả của việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT [36].

- Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 7 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy

định về phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ

cao. Trong đó có quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân

trong phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Nội

dung của quy định bao gồm [38]:

+ Hoạt động phòng ngừa của Cơ quan chuyên trách : Tổ chức, triển khai các

biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật để thu thập thông tin, tài liệu về tình

hình có liên quan tại các địa bàn, lĩnh vực phụ trách nhằm phục vụ việc phòng ngừa,

ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao;Tổng hợp,

phân tích, đánh giá, dự báo tình hình, đề xuất các chủ trương, biện pháp phòng, chống

tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; Hướng dẫn các cơ

quan, đơn vị có liên quan thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và

vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao;Thông tin, tuyên truyền, giáo dục

pháp luật phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao.

+ Hoạt động của cá nhân tham gia phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật

khác có sử dụng công nghệ cao khi tham gia các hoạt động phòng ngừa; tự trang bị

cho mình các kiến thức để phòng ngừa tội phạm sử dụng công nghệ cao như bảo vệ

mật khẩu, khóa mật khẩu cơ sở dữ liệu, thông tin cá nhân, thông tin tài khoản… Phát

hiện, kịp thời tố giác tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao

với cơ quan Công an hoặc chính quyền cơ sở gần nhất; phối hợp chặt chẽ với Cơ quan

chuyên trách trong quá trình xác minh làm rõ tội phạm và vi phạm pháp luật khác có

sử dụng công nghệ cao, cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan cho Cơ

quan chuyên trách khi được yêu cầu theo quy định của pháp luật.

+ Hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tham gia phòng ngừa tội phạm

và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao phải thực hiện quy định của pháp

luật về thời hạn bảo quản, lưu trữ, cung cấp thông tin, dữ liệu điện tử phục vụ công tác

phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Phối hợp

chặt chẽ với Cơ quan chuyên trách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc

phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công

nghệ cao.

49

+ Hoạt động của cơ quan thông tin đại chúng tham gia phòng ngừa tội phạm và

vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Theo quy định của pháp luật các cơ

quan này có nhiệm vụ đưa tin kịp thời, chính xác chủ trương, chính sách, pháp luật về

phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; phản ánh

tình hình, kết quả công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử

dụng công nghệ cao; nêu gương các điển hình tiên tiến, mô hình có hiệu quả trong

phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Lồng

ghép nội dung phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công

nghệ cao với các chương trình thông tin, tuyên truyền khác

- Quyết định số 450/2010/QĐ-BCA ngày 4/2/2010 của Bộ trưởng Bộ công an

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục cảnh sát

phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tại khoản 6, điều 2 quy định “Tổ chức

nắm tình hình, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, thương mại điện tử, thanh toán điện tử,

bản quyền phần mềm máy tính… và các lĩnh vực công nghệ cao khác theo quy định

của pháp luật”. Như vậy, muốn phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT thì lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao cần có sự phối kết hợp với các lực lượng khác, đặc biệt là với các cơ quan quản lý

nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT [13].

- Quyết định số 623/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng phòng,

chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 của Thủ tướng

Chính phủ ngày 14/4/2016. Quyết định đã chỉ rõ: Phòng, chống tội phạm là một trong

những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm thực hiện

Hiến pháp, pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để

phòng ngừa hiệu quả cần tập trung lực lượng, sử dụng tổng hợp các biện pháp, chủ

động phòng ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn tội phạm, trong đó lấy phòng ngừa là

chính; kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa xã hội với phòng ngừa nghiệp vụ; kịp thời

khắc phục những tồn tại hạn chế, làm rõ nguyên nhân, Điều kiện phát sinh tội phạm;

coi trọng công tác phòng ngừa xã hội từ cộng đồng, gia đình và ngay từ cơ sở; tuyên

truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao cảnh giác, ý thức trách nhiệm

chấp hành pháp luật, tích cực, tự giác tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm [76].

- Thông tư số 18,19,20,21,22/TT-BCA ngày 1/4/2013 quy định về công tác điều

tra cơ bản, sưu tra, xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án, xây dựng và sử dụng công

tác nghiệp vụ bí mật của lực lượng cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa tội phạm. Các

thông tư đã xác định nội dung, biện pháp, trình tự tiến hành các hoạt động phòng ngừa,

50

các chủ thể phòng ngừa và quan hệ phối hợp trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm nói chung, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam [18].

Các văn bản pháp luật nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với các quy định của

Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nội dung các văn bản

đều có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc chủ động

phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT nói riêng. Đây chính là các văn bản trực tiếp quy định về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT, là những cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động phòng

ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

2.2.2.3 Cơ sở thực tiễn

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang gây ra những hậu quả vô

cùng lớn về kinh tế, trực tiếp đe dọa đến an ninh an toàn thông tin quốc gia; xâm

hại đến quyền lợi hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân được pháp luật ghi

nhận và bảo vệ.

Theo thống kê của tập đoàn công nghệ BKAV, năm 2019 thiệt hại do virus

máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam là 20.892 tỉ đồng, năm 2018 là 14.900 tỉ

đồng. Tổng số lượt máy tính bị nhiễm mã độc được ghi nhận trong năm 2019 là 85,2

triệu lượt, tăng 3,5% so với năm 2018. Số lượng máy tính bị mất dữ liệu trong năm

2019 là 1,8 triệu lượt, tăng 12% so với năm 2018. Nghiêm trọng hơn, trong số này có

rất nhiều máy chủ (server) chứa dữ liệu của các cơ quan doanh nghiệp. Không chỉ gây

thiệt hại lớn, việc các máy chủ bị xóa dữ liệu cũng gây đình trệ hoạt động của nhiều

doanh nghiệp trong nhiều ngày, thậm chí đến cả tháng.

Thời gian qua tại Việt Nam các lực lượng chức năng đã điều tra, xử lý hàng

loạt vụ đánh bạc trực tuyến với số tiền lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng; các vụ lừa

đảo nhằm chiếm đoạt tài sản qua mạng viễn thông, mạng xã hội ngày càng gia tăng

với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó lường…

Như vậy thực tế cho thấy tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đang có

những diễn biến phức tạp và phát triển theo sự tăng trưởng nhanh chóng của khoa

học công nghệ, của CNTT&MVT và tội phạm này cũng mang tính toàn cầu. Do

vậy việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn dẫn tới thủ tiêu các nguyên nhân đều

kiện không cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát sinh, phát

triển là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

2.2.3. Chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin và mạng viễn thông

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng là nhiệm vụ chung của Nhà nước, xã hội và toàn thể công

51

dân. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm

trước hết phải là Nhà nước mà cụ thể là các cơ quan nhà nước có chuyên môn và

thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng quốc

gia khác nhau mà cơ quan chuyên môn phòng ngừa tình hình tội phạm có thể khác

nhau. Những cơ quan này đóng vai trò nòng cốt, trực tiếp tiến hành phòng ngừa

bằng các hoạt động nghiệp vụ và tổ chức các lực lượng xã hội tham gia phòng ngừa

và đấu tranh chống tội phạm. Xuất phát từ những luận điểm nêu trên có thể xác định

chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là Nhà nước

mà cụ thể là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ chức và tiến hành

phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Trong hệ thống cơ quan nhà nước ở Việt Nam, mỗi cơ quan có chức

năng, nhiệm vụ nhất định và đều có trách nhiệm tham gia phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Có thể xác định chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT bao gồm ba nhóm sau:

- Chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật phục vụ phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là những cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm

quyền đề ra chủ trương, đường lối, hoạch định chiến lược, chính sách, pháp luật phục

vụ hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; tổ chức xây

dựng và chỉ đạo các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT; thanh tra, kiểm tra, xử lý những vi phạm của các tổ chức, cá nhân

trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

- Chủ thể trực tiếp triển khai phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là những lực lượng có chức năng, nhiệm vụ trực tiếp tiến hành phòng

ngừa, phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Ở Việt Nam,

theo các quy định hiện hành có thể xác định lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm

sử dụng công nghệ cao là chủ thể chuyên trách phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT (nay là Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao – Bộ Công an); Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp,

các cơ quan tổ chức cung cấp các giải pháp phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT như tập đoàn BKAV, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng

Việt Nam VNCERT, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia NCSC…

- Chủ thể phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là những lực lượng tuy không trực tiếp tiến hành các hoạt động chính

của phòng ngừa tình hình tội phạm nhưng trong quá trình tiến hành những hoạt động

theo chức năng, các cơ quan, tổ chức này có tác động hỗ trợ, phối hợp cho các chủ thể

chuyên trách trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như:

52

Cơ quan quản lý nhà nước về CNTT&MVT, Thanh tra chuyên ngành về

CNTT&MVT, Ngân hàng nhà nước, các doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ

CNTT&MVT, các tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp, cá nhân công dân… đều là các

chủ thể phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt

Nam được tiến hành bởi nhiều chủ thể, lực lượng khác nhau. Cụ thể bao gồm

- Nhóm chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật phục vụ hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

+ Đảng cộng sản Việt Nam và tổ chức Đảng các cấp

Thực hiện vai trò chỉ đạo các hoạt động nói chung, trong đó có hoạt động phòng

ngừa tình hình tội phạm quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam là tiếp tục thực hiện

nội dung Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Bên cạnh đó xác

định công tác phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa

thường xuyên, lâu dài, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm sự lãnh

đạo trực tiếp, toàn diện và thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp bằng các

chương trình, kế hoạch hành động cụ thể; nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của

chính quyền, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham

gia. Tại Kết luận số 05 ngày 15/07/2016 của Ban bí thư Ban chấp hành Trung ương

Đảng đã chỉ đạo tổ chức Đảng các cấp thực hiện các nội dung như sau:

Mọi cán bộ, đảng viên phải phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong

phòng, chống tội phạm ngay từ trong gia đình, địa bàn nơi cư trú và tại cơ quan, đơn vị

công tác

Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền về phòng, chống tội phạm, hướng

mạnh hơn về cơ sở, chú trọng các địa bàn trọng điểm, phức tạp, vùng sâu, vùng xa,

vùng biên giới, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, công nhân…

Chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công trấn áp các loại tội phạm; nhất là tội

phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm hình sự, ma túy, tội phạm kinh tế, tham

nhũng, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mua bán người và các

vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp,

như các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng biên giới…

Củng cố, nâng cao trách nhiệm, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan

chuyên trách phòng, chống tội phạm; các cơ quan tiến hành hoạt động tư pháp, nâng

cao đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm, thái độ ứng

xử, với tinh thần vì nhân dân phục vụ, thật sự là chỗ dựa và niềm tin của nhân dân

trong phòng, chống tội phạm.

53

Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho các cơ quan thực

hành quyền tư pháp, các đơn vị trực tiếp đấu tranh với các loại tội phạm nguy hiểm,

ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm tham nhũng, tội phạm về môi

trường đáp ứng yêu cầu tình hình mới.

+ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&VT trên các phương diện sau

Chủ động, kịp thời ban hành các đạo luật, nghị quyết, các văn bản pháp lý về

phòng chống tội phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật, làm cơ sở cho các cơ quan Nhà

nước, tổ chức xã hội, mỗi công dân làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm:

Thành lập các uỷ ban, các tiểu ban giúp cho Quốc hội soạn thảo ban hành các

văn bản pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh chống tội phạm nói chung (uỷ

ban sửa đổi Hiến pháp, pháp luật, uỷ ban quốc phòng an ninh).

Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong công tác đấu tranh phòng ngừa

tội phạm nói riêng của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội.

Hội đồng nhân dân địa phương ra các Nghị quyết về phòng ngừa tội phạm ở địa

phương mình.

+ Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp

Chức năng chính của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trong phòng ngừa tội

phạm là quản lý, điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết, thể hiện:

Cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp qui

hướng dẫn, tổ chức các lực lượng phòng ngừa tội phạm.

Sử dụng các cơ quan chuyên trách của Chính phủ tiến hành phòng ngừa tình

hình tội phạm: Công an, Toà án, Viện kiểm sát.

Phối hợp tiến hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc cấp

mình quản lý theo kế hoạch thống nhất.

Đảm bảo các điều kiện vật chất cho phòng ngừa tình hình tội phạm: ngân sách,

phương tiện, điều kiện làm việc.

Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phối hợp điều chỉnh phòng

ngừa tình hình tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Đề ra các biên pháp nhằm động viên, huy động sức mạnh của toàn xã hội tham gia

phòng ngừa tình hình tội phạm: khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến.

54

- Nhóm chủ thể trực tiếp triển khai thực hiện phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

+ Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Toà án, Viện kiểm sát

Nghiên cứu, phân tích tình trạng phạm tội, xác định chính xác những nguyên

nhân, điều kiện của tội phạm, soạn thảo đề xuất các biện pháp phòng ngừa thích hợp.

Sử dụng các biện pháp luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo

chức năng, trực tiếp tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm.

Đối với lực lượng Công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai phòng ngừa tình

hình tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và

trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều tra tội phạm. Lực

lượng Công an bao gồm ở cấp Bộ là Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao (mật hiệu là C50) gồm 5 phòng nay là Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng

công nghệ cao (A05). Ở cấp tỉnh riêng Công an Tp Hà Nội thí điểm thành lập phòng

Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PC50) vào tháng 8/2013 theo

quyết định số 7467/QĐ-X11 ngày 23/7/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục xây dựng

lực lượng Công an nhân dân về việc quy định tạm thời chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và tổ chức bộ máy của Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao thuộc Công an Tp Hà Nội, nay là Phòng An ninh mạng và pCTP sử dụng công

nghệ cao (PA05). Cục C50 (nay là A05) có nhiệm vụ nắm tình hình hoạt động của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Trực tiếp thực hiện và chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm

tra lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao tiến hành các

biện pháp nghiệp vụ phòng ngừa , đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Tiến hành điều tra ban đầu các vụ việc liên quan đến tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT và phối hợp với các đơn vị trong công tác phòng ngừa, điều tra

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng.

Vai trò của Cục an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao là rất

quan trọng, có thể nói đây là lực lượng chủ công quyết định đến việc phòng ngừa và

kiểm soát tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Viện kiểm sát nhân dân các cấp : Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt

động điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền công tố

đối với các tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.

Toà án nhân dân các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm bảo công

minh, đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để Chính

Phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ các loại tội phạm nói

chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.

55

- Nhóm chủ thể phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

+ Ủy ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam

Phát động phong trào toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội

phạm; cảm hóa giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư.

Thường xuyên cải tiến hình thức, phương pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao

nhận thức trách nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm: Kết hợp nhiều hình

thức tuyên truyền, vừa rộng rãi, vừa mở đợt tập trung, vừa tuyên truyền cá biệt; tuyên

truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc họp của tổ chức Đảng, cơ

quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị, trường học, tổ dân

phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên truyền, vận động cá biệt đối với các đối

tượng có nguy cơ phạm tội, tái phạm và tại các địa bàn trọng Điểm về trật tự, an toàn

xã hội. Thành lập trang thông tin điện tử phong trào toàn dân bảo vệ an ninh, trật tự.

Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong

trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các

mô hình tổ chức quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh, trật

tự ngay từ gia đình, cộng đồng dân cư, trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và

nhà trường; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình

có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp với tình hình đặc

Điểm từng địa bàn. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên

ký cam kết xây dựng khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường “An

toàn về an ninh, trật tự”. Kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất

sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

+ Các cơ quan quản lý nhà nước về tư pháp, kinh tế, văn hoá, giáo dục, dịch

vụ, du lịch trong phạm vi tổ chức hoạt động chuyên môn

Phát hiện những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm

thuộc lĩnh vực mình quản lý.

Đề ra những quy định thích hợp, tham mưu cho Nhà nước ban hành các chủ trương,

chính sách đúng đắn góp phần khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án phòng ngừa tình hình tội phạm

trong phạm vi cơ quan có hiệu quả.

Phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp, làm tốt công tác phòng ngừa tội

phạm trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của Chính phủ. Cụ thể

Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có

liên quan đến công tác đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm, khắc phục những sơ

hở thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.

56

Bộ thông tin và truyền thông quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp

phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động thông tin và truyền thông vi phạm pháp luật.

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm:a) Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn

pháp luật về Internet cho học sinh, sinh viên; hướng dẫn, tạo điều kiện, định hướng

học sinh, sinh viên sử dụng Internet vào các hoạt động có ích, thiết thực trong học tập,

cuộc sống của bản thân và gia đình; Triển khai các biện pháp cảnh báo, giám sát học

sinh, sinh viên để tránh khỏi các tác động tiêu cực của nội dung thông tin, ứng dụng có

hại trên Internet; Tổ chức đào tạo về an toàn thông tin trong hệ thống các trường đại

học, cao đẳng thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện các

biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên tránh khỏi những nội dung thông tin,

ứng dụng có hại trên Internet.

+ Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thực

hiện hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Tập đoàn BKAV là Tập đoàn công nghệ hoạt động trong các lĩnh vực an ninh

mạng, phần mềm, chính phủ điện tử… với sản phẩm phần mềm diệt virut BKAV được

bình chọn là “Sản phẩm an toàn thông tin được người dùng ưa chuộng nhất” tại Việt

Nam. Tập đoàn bao gồm các chuyên gia máy tính, kỹ sư công nghệ thông tin tin có

trình độ cao cùng phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết các sự cố liên quan

đến máy tính, cảnh báo và có các biện pháp phòng ngừa cho người dùng, nâng cao tính

bảo mật và an toàn thông tin cá nhân. BKAV đã phát hiện và công bố các lỗ hổng

trong công nghệ nhận diện khuôn mặt trên laptop, trên iPhone X, trên trình duyệt web

Google Chrome…

Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính VNCERT Việt Nam (nay là Trung

tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam – VNCERT/CC) thuộc Cục an

toàn thông tin - Bộ thông tin và truyền thông là đơn vị có nhiệm vụ ứng cứu các sự

cố và kiểm định an toàn thông tin, phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn

thông tin… [27]. Trong thời gian qua, đơn vị đã đưa ra các biện pháp phòng ngừa

có hiệu quả đối với người dùng nhằm ngăn chặn tội phạm sử dụng CNTT&MVT

gây thiệt hại cho người dùng như: Cảnh báo lây nhiễm mã độc do sử dụng phần

mềm không rõ nguồn gốc, Cảnh báo về một số mã độc nguy hiểm có thể lây lan qua

mạng máy tính, mạng Internet; Đưa ra giải pháp về hệ thống giám sát an toàn

mạng,...

Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia có các nhiệm vụ: Thực

hiện giám sát an toàn thông tin trên toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập

57

mạng lưới giám sát an toàn thông tin mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên

thông, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa giám sát tập trung của Trung tâm Giám sát an

toàn không gian mạng quốc gia với giám sát của Trung tâm VNCERT, giám sát của

các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản

các hệ thống thông tin; triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo

đảm an toàn thông tin mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng,

Nhà nước và đô thị thông minh. Định kỳ thực hiện kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ

an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các

điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc

trên không gian mạng Việt Nam; tổ chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã

độc trên diện rộng với sự tham gia của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông,

Internet (ISP) và các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông

tin và an toàn thông tin. Thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, theo dõi và dự báo,

cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không gian mạng Việt Nam.

Hiện nay Trung tâm đang thực hiện chiến dịch rà soát và bóc gỡ mã độc trên phạm vi

toàn quốc năm 2020 với mục đích cung cấp các công cụ kiểm tra, xử lý và bóc gỡ mã

độc nhằm đảm bảo an toàn cho người dùng trên không gian mạng Việt Nam, thúc đẩy

chuyển đổi số quốc gia [28].

+ Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản

Các tổ chức đoàn thể giữ vị trí vô cùng quan trọng trong phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, cụ thể:

Phối hợp, hỗ trợ chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn soạn thảo,

tham gia kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Tuyên truyền cho thành viên thấy được tính chất, thủ đoạn hoạt động của tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT để nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động phòng ngừa.

Trực tiếp huy động các thành viên tham gia chương trình phòng ngừa tình hình tội

phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng của Chính phủ trong

phạm vi địa phương, nội bộ tổ chức của mình.

Đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ

an ninh Tổ quốc phù hợp và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong

từng thời kỳ; tập trung xây dựng và củng cố phong trào ở các địa bàn trọng Điểm,

chiến lược, vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, vùng biên giới, biển đảo, khu công

nghiệp và các thành phố lớn; lồng ghép với các cuộc vận động, phong trào thi đua,

chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ

quốc, Ban, ngành, đoàn thể và địa phương; gắn kết thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ

sở, kịp thời phát hiện, giải quyết ngay tại cơ sở các vấn đề có liên quan đến lợi ích

58

chính đáng của người dân, hạn chế không để xảy ra “Điểm nóng” trong cộng đồng dân

cư, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan

bảo vệ pháp luật [80].

+ Công dân

Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự và an

toàn xã hội nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

nói riêng. Công dân với tư cách là chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm phải

quán triệt:

- Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong Hiến

pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.

- Tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT để thông báo cho các cơ quan chức năng.

- Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hoá các đối tượng có liên quan

đến hoạt động phạm tội nói chung tại cộng đồng dân cư.

Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện tốt

chương trình “Quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong trào: "Toàn

dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục người phạm

tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hoà nhập cộng đồng cho

người phạm tội khi trở về địa phương.

- Trực tiếp làm tốt hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ngay trong phạm vi gia đình mình để các thành viên luôn có ý thức chủ

động phòng ngừa tội phạm này.

2.2.4 Nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

2.2.4.1 Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông

a. Khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

- Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp

nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT

Tuỳ thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT để đề xuất các giải pháp đấu tranh xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện

của tội phạm cho phù hợp, bao gồm:

+ Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân là mặt trái của việc phát triển

kinh tế, phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng khoa học công nghệ.

59

+ Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân bắt nguồn từ hệ thống pháp luật.

Hiện nay các văn bản pháp luật quy định về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT còn chưa đầy đủ, đặc biệt Bộ luật hình sự năm 2015 đã

có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện.

+ Các giải pháp khắc phục những sơ hở, thiếu sót, nhược điểm… trong công tác

quản lý nhà nước về CNTT&MVT và các lĩnh vực khác đã tồn tại trong thời gian qua.

+ Các giải pháp khắc phục những nguyên nhân là những hạn chế từ nền văn

hóa, xã hội, bên cạnh việc khuyến khích phát triển việc bảo tồn văn hóa dân tộc thì

cũng cần chú trọng, phát huy nền văn hóa “mở” giao lưu với các quốc gia nhưng phải

kiểm soát được các hiện tượng tiêu cực từ nó mang lại.

+ Các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp

luật, giữa các cơ quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trên cơ sở các quy định của pháp

luật trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

+ Các giải pháp khắc phục các hạn chế trong ý thức, tư tưởng, đạo đức, nhân cách

của con người khuyến khích, phát huy những giá trị nhân văn tốt đẹp, hướng thiện. Xóa

bỏ những môi trường không thuận lợi cho sự hình thành nhân cách con người như trong

việc giáo dục các thành viên trong gia đình, những yếu kém trong nhà trường, những

khuyết điểm trong lĩnh vực văn hóa giáo dục con người…

+ Giáo dục ý thức tự phòng ngừa tội phạm cho mọi công dân, cơ quan, tổ chức…

Mỗi cá nhân cần có ý thức tự bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản và các lợi ích

hợp pháp khác của mình.

- Xác định đúng các nguyên nhân, điều kiện chủ quan, khách quan dẫn đến sự

phát triển gia tăng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Bất kỳ loại tội phạm nào phát triển đều có các nguyên nhân, điều kiện chủ quan,

khách quan theo đặc thù của loại tội phạm đó. Một trong các nội dung chủ yếu được

các nhà tội phạm học chỉ rõ: xác định đúng các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội

phạm là những yếu tố quan trọng để áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả. Việc xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội đồng nghĩa với việc xóa bỏ các môi trường thuận lợi cho tội phạm loại này phát sinh. Cũng như những loại tội phạm khác, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một hiện tượng xã hội tiêu cực, cũng cũng có những nguyên nhân điều kiện riêng có, đan xen tổng hợp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, chịu sự tác động bởi các yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Nhận thức đầy đủ, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện, phát hiện, đúc kết quy luật phát sinh, phát triển của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT là những yêu cầu hết

sức cần thiết. Chỉ như vậy, các biện pháp phòng ngừa về mặt xã hội cũng như các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn mới thực sự mang tính khả thi, đánh đúng, đánh trúng vào các đối tượng, góp phần phòng ngừa có hiệu quả nhất loại tội phạm này.

60

Để giải quyết được các yêu cầu nói trên đòi hỏi cần có sự đầu tư của Nhà nước

về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và con người trong các cơ quan bảo vệ pháp

luật có đủ khả năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá nguyên nhân, điều kiện của loại

tội phạm này ở từng thời điểm, từng thời gian khác nhau. Từ đó rút ra các đặc điểm

nguyên nhân điều kiện đặc thù, áp dụng các biện pháp phòng ngừa ngăn chặn cho phù

hợp nhất.

- Triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT

Trên cơ sở các chủ trương, chính sách và xác định các nguyên nhân, điều

kiện làm phát sinh phát triển tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể

thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

tiến hành triển khai các biện pháp phòng ngừa bao gồm biện pháp phòng ngừa

nghiệp vụ (biện pháp phòng ngừa riêng) và phòng ngừa xã hội (biện pháp phòng

ngừa chung). Các biện pháp phòng ngừa được triển khai theo từng nhóm chủ thể

như chủ thể quản lý hoạt động phòng ngừa; chủ thể triển khai hoạt động phòng

ngừa; chủ thể phối hợp trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT với mục đích nhằm ngăn ngừa, hạn chế dẫn đến loại trừ các

nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Các biện pháp phòng ngừa được áp dụng phải phù hợp với các

nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó mục đích

ngăn chặn, loại trừ các tội phạm này mới đạt hiệu quả cao.

b. Phát huy các ưu điểm và khắc phục các hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa

tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT

- Nắm tình hình, xác định đúng thực trạng tình hình, diễn biến cơ cấu, tính chất,

phương thức, thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Việc nắm tình hình, xác định đúng tình hình cũng như làm rõ thực trạng tình

hình, diễn biến cơ cấu, tính chất, phương thức, thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là nội dung quan trọng cho việc tổ chức có hiệu quả hoạt động phòng ngừa.

Trên cơ sở thực trạng tình hình, là cơ sở để các chủ thể, theo chức năng nhiệm vụ của

mình áp dụng các phương tiện, biện pháp phòng ngừa phù hợp với đặc điểm loại tội phạm

này. Thực tiễn tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT diễn biến ngày một gia

tăng, cơ cấu, tính chất phức tạp; phương thức thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi xảo

quyệt. Xác định thực trạng tình hình; phân loại, thống kê làm rõ tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT trên các phương diện diễn biến, cơ cấu, động thái, các khâu

thường xảy ra tội phạm, tính chất, thủ đoạn là những tiêu chí quan trọng, cần thiết trong

việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

61

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, có

đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ trong xã hội, đảm bảo cho công tác quản lý ở mọi

lĩnh vực bằng pháp luật.

Hoàn thiện các văn bản xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật, hình phạt

thật nghiêm khắc có sức răn đe, giáo dục người phạm tội; nếu cần thiết phải nâng cao

mức hình phạt và các biện pháp xử lý khác, tăng cường phạt tiền… từ đó mới có ý

nghĩa trong phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

nói riêng.

Tổ chức các cơ quan bảo vệ pháp luật đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm theo hướng chuyên môn hóa cao, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ

thuật tiên tiến vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm.

Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ quản lý

hữu hiệu trong quản lý nhà nước và xã hội.

Tăng cường thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội.

- Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

xảy ra và cảm hóa, giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng vẫn xảy ra. Trong trường hợp này, các cơ quan theo chức năng,

nhiệm vụ của mình phải nhanh chóng phát hiện, xác minh làm rõ hành vi phạm tội và xử

lý thật nghiêm minh trước pháp luật. Là bài học cảnh tỉnh báo động cho các đối tượng

khác đang có ý định phạm tội, mặt khác thông qua các hoạt động giáo dục cảm hóa sẽ

giúp người phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT nhận thức được hành vi phạm tội của

mình, tích cực rèn luyện cải tạo để sớm được trở về với gia đình, xã hội.

2.2.4.2 Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin & mạng viễn thông và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT

+ Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Để phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT việc

quan trọng là cần xác định những nguyên nhân và điều kiện là cơ sở làm phát sinh, phát

triển tội phạm.

Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chính là

toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực làm phát sinh, phát triển các tội

phạm này. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh "Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã

hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình"

62

và "Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm

nhiều bộ phận cấu thành nó”[57]. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT được lý giải trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận về mối

quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả của cặp phạm trù nguyên nhân và kết

quả trong triết học Mác-Lênin.

Ở mức độ toàn xã hội, tội phạm phải được coi là một bộ phận, một yếu tố được

đặt trong mối liên hệ mật thiết với các quá trình và các hiện tượng khác, trong đó có cả

hiện tượng tích cực và tiêu cực. Ở những tầng nấc xã hội đều có những cơ chế ở những

mức độ khác nhau của quá trình phát sinh nhân - quả của tội phạm. Tội phạm học Việt

Nam cũng như các khoa học pháp lý hình sự khác, không có lý luận riêng về quan hệ

nhân - quả, mà chỉ cụ thể hóa nội dung cặp phạm trù nhân - quả của triết học Mác-xít

vào lĩnh vực nghiên cứu của mình. Vận dụng quan điểm này, tác giả cho rằng việc

nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT phải dựa trên nền tảng cơ sở lý luận về nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm nói chung và đặc thù tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một hiện

tượng xã hội tiêu cực, sẽ bị đẩy lùi và tiến tới bị triệt tiêu khi mà các nguyên nhân và

điều kiện làm phát sinh ra nó bị hạn chế hoặc không còn tồn tại. Qua nghiên cứu và

khảo sát số liệu thực tiễn, cho phép rút ra những nguyên nhân, điều kiện cơ bản của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như sau

- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về sự chưa hoàn thiện của các văn bản pháp

luật về phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Hệ thống các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng, chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều

bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm, thiếu đồng bộ,

có nhiều điểm chưa rõ ràng. Do vậy trong thời gian tới để công tác phòng, chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả cần thiết có văn bản hướng dẫn cụ thể.

- Nguyên nhân và điều kiện thuộc về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực

CNTT&MVT

Trong công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT vẫn còn nhiều thiếu sót và bất

cập, để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát triển và có điều kiện để

thực hiện. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực CNTT&MVT chưa nghiêm, thiếu triệt để, chủ yếu mang tính hình thức thậm chí

còn có hành vi dung túng bao che cho các vi phạm, các hình thức xử phạt chưa mang

tính răn đe, nhiều hoạt động vi phạm diễn ra trong thời gian dài mà không bị các cơ

quan chức năng kiểm tra phát hiện.

63

Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về CNTT&MVT chưa hiệu

quả, sự phân công quyền hạn, trách nhiệm chưa rõ ràng, chưa cụ thể và thẩm quyền

thực thi còn chồng chéo, chưa đầy đủ thiếu “uy lực”. Công tác phối hợp giữa các lực

lượng nhiều lúc, nhiều nơi còn mang nặng tính hành chính, lãnh đạo các ngành chỉ đạo

tạo điều kiện phối hợp nhưng cán bộ thực hiện chưa thực sự phát huy được vai trò, đôi

khi còn gây khó khăn.

- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về các cơ quan bảo vệ pháp luật

Với vai trò là nòng cốt trong phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT các cơ quan bảo vệ pháp luật thời gian qua đã có những kết quả đáng

ghi nhận trong việc phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy nhiên

hoạt động phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn tồn tại một số vấn

đề như: Do phải kiêm nhiệm nhiều chức năng khác nên chưa tập trung sâu vào hoạt động

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Chưa thực sự chủ động trong hoạt

động phòng ngừa, có những vụ án liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã

xảy ra, đã gây hậu quả rồi mới bị phát hiện và xử lý, nghĩa là chưa ngăn chặn được mà để

cho tội phạm xảy ra. Công tác phối hợp công tác giữa các lực lượng chưa kịp thời, đồng

bộ. Nhận thức cụ thể về các biện pháp phòng ngừa chưa đồng đều…

- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về người bị hại

Ý thức phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các cơ quan Nhà

nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp còn chưa chủ động, thiếu việc đầu tư kinh

phí cho hệ thống bảo mật thiết bị máy tính và viễn thông tạo điều kiện cho tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát triển. Với các doanh nghiệp, tổ chức xã

hội có các trang web hoặc hoạt động kinh doanh trên mạng chưa quan tâm đúng mức

đến các giải pháp bảo mật một cách tổng thể. Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân

lực về CNTT&MVT còn nhiều bất cập như chỉ chú ý về số lượng đào tạo, chưa giáo

dục cho đội ngũ này về đạo đức, ý thức nghề nghiệp.

Ý thức của công dân về công tác bảo mật, đảm bảo an ninh, an toàn mạng của

người sử dụng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên dễ bị hacker tấn công.

- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về sự ảnh hưởng của tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT trên thế giới

Trong bối cảnh sự phát triển của CNTT&MVT rất mạnh mẽ ở Việt Nam cũng

như trên thế giới, cơ sở hạ tầng mạng và viễn thông ngày càng được hoàn thiện, số

lượng người dùng gia tăng, nguồn nhân lực về CNTT&MVT không ngừng được bổ

sung, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh,... đã tạo những cơ

hội và điều kiện thuận lợi để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trên thế giới thâm

nhập vào nước ta.

64

Hơn nữa, môi trường mạng đã tạo điều kiện để các đối tượng trong và ngoài

nước cấu kết với nhau hình thành các đường dây hoạt động phạm tội. Bên cạnh đó các

đối tượng người nước ngoài cũng tấn công vào các mục tiêu ở Việt Nam và thâm nhập

trực tiếp vào nước ta để thực hiện hành vi phạm tội [79].

+ Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một

hệ thống các hoạt động phòng ngừa nhằm hạn chế, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện

khách quan và chủ quan làm nảy sinh tội phạm, từ đó làm giảm, đẩy lùi loại tội phạm

này ra khỏi đời sống xã hội. Như vậy, để đạt được mục đích này, thì hoạt động phòng

ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT sẽ được thực hiện thông qua hệ

thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm bao gồm:

- Biện pháp phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung)

Biện pháp phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, hành

chính, pháp luật, tổ chức, giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân nhằm

góp phần hạn chế hoặc loại trừ những yếu tố có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện

thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như các biện pháp tuyên truyền, giáo

dục nhằm nâng cao ý thức bảo mật của người sử dụng các thiết bị CNTT&MVT. Đây

là các biện pháp phòng ngừa có tính chiến lược và lâu dài, nó hướng vào giải quyết

những nhiệm vụ chung của xã hội để loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực. Biện

pháp phòng ngừa này được thực hiện với sự tham gia của toàn xã hội trong đó bao

gồm các chủ thể quản lý nhà nước về CNTT&MVT; các cơ quan bảo vệ pháp luật là

cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Tòa án; các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và mọi

công dân, đặc biệt giữa các chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa cần phải có sự bổ

sung, hỗ trợ và tác động lẫn nhau tạo nên hiệu quả chung của hoạt động phòng ngừa.

Chính vì thế hoạt động phòng ngừa xã hội đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT phải được tiến hành thông qua các chương trình, kế hoạch đồng bộ.

Biện pháp phòng ngừa xã hội không thể do một cấp, một ngành, một lực lượng

nào đảm nhiệm mà nó được tiến hành đồng bộ bằng sự phối hợp giữa các cấp, các

ngành đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý thống nhất của

chính quyền các cấp. Các cơ quan chức năng trực tiếp quản lý nhà nước trong lĩnh vực

CNTT&MVT như Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công thương, … cùng tham gia

và hỗ trợ tích cực. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như cơ quan Công an, Viện kiểm sát,

Tòa án cần không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sự hiểu biết chuyên

sâu về CNTT&MVT cho một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Các

doanh nghiệp, tổ chức xã hội và công dân cần nâng cao ý thức bảo mật, thay đổi

những hành vi và thói quen khi sử dụng CNTT&MVT không an toàn. Giữa các chủ

65

thể cần có sự phối hợp bởi đây là quá trình mà toàn xã hội phải tham gia nhằm khắc

phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội

phạm và cũng nhằm mục đích hạn chế, loại trừ các yếu tố khách quan và chủ quan có

tác động tiêu cực đến tình hình các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Các biện pháp phòng ngừa xã hội bao gồm:

+ Biện pháp kinh tế: Đây là biện pháp sử dụng sức mạnh kinh tế nhằm thủ tiêu

nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Các biện pháp kinh tế được thực hiện như: phát

triển nền kinh tế đất nước, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về đời sống vật chất cho nhân

dân. Đây là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp khác.

+ Biện pháp chính trị tư tưởng: Biện pháp này có nội dung phong phú như nâng

cao ý thức cho mọi người dân thấy được trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ đất nước; giáo dục, nâng cao nhận thức của công dân, cơ quan, tổ chức

về tầm quan trọng của việc phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng để họ tự nguyện, tự giác, chủ động tham gia.

Vận động toàn thể nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

+ Biện pháp quản lý: Biện pháp này được thể hiện trong hoạt động của bộ máy

nhà nước nhằm quản lý đất nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Biện pháp này được

thực hiện nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà nước về

CNTT&MVT.

+ Biện pháp văn hóa, giáo dục: Biện pháp này được thực hiện nhằm không

ngừng nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho mọi công dân. Phổ cập giáo dục phổ

thông, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; giáo dục lòng yêu Tổ

quốc, lòng tự hào tự tôn dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật và các nội quy, quy tắc của

cuộc sống…

+ Biện pháp pháp luật: Biện pháp này giữ vai trò quan trọng trong các biện

pháp phòng ngừa chung. Nội dung của biện pháp này là trước tiên Nhà nước cần xây

dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đảm bảo mọi hoạt động trong xã hội phải tuân

theo sự điều chỉnh của pháp luật. Thông qua pháp luật để quản lý đất nước theo một

trật tự thống nhất. Giáo dục pháp luật cho công dân để mọi người hiểu được và tự giác

làm theo những điều pháp luật quy định. Cần thiết phải áp dụng các biện pháp xử lý

nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật.

- Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ (phòng ngừa riêng)

Là việc áp dụng các biện pháp mang tính đặc trưng, chuyên môn của từng

ngành, từng lực lượng. Biện pháp này nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế các yếu tố

khách quan và chủ quan là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

66

+ Biện pháp phòng ngừa của cơ quan Công an nhân dân gồm các công tác:

Công tác điều tra cơ bản: là hoạt động điều tra nghiên cứu, thu thập rộng rãi, có

hệ thống thông tin, tài liệu về tình hình có liên quan ở địa bàn, mục tiêu, đối tượng,

phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội

Công tác này sẽ xác định được những đối tượng, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm về tội

phạm trong CNTT&VT từ đó xây dựng, triển khai các chủ trương, chiến lược, chương

trình, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa một cách hiệu quả.

Công tác sưu tra là quá trình điều tra, nghiên cứu về những người đang có điều

kiện, khả năng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt

động phạm tội này. Đây là khâu mở đầu, quan trọng nhằm mục đích nắm tình hình diễn

biến hoạt động của các loại đối tượng, phát hiện tội phạm để chủ động phòng ngừa, đấu

tranh, ngăn chặn. Đồng thời tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; những

sơ hở, thiếu sót trong quản lý CNTT&MVT, đề xuất những biện pháp tích cực, góp phần

nâng cao hiệu quả các mặt công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT.

Công tác xác minh hiềm nghi là hoạt động thu thập, kiểm tra, xác minh làm rõ

bản chất của hiềm nghi và đi đến kết luận có hay không có hoạt động phạm tội trong

lĩnh vực CNTT&MVT nhằm kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Công tác đấu tranh chuyên án là việc sử dụng đồng bộ các biện pháp, phương

tiện kỹ thuật, chiến thuật nghiệp vụ để điều tra, xác minh, đấu tranh trực tiếp với các

đối tượng nguy hiểm nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, khám phá truy bắt tội phạm, đảm

bảo chủ động, kịp thời, có hiệu quả. Tổ chức phát hiện tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là một hướng của hoạt động phòng ngừa, trong điều kiện chưa thể loại

trừ hết nguyên nhân, điều kiện của tội phạm thì bằng mọi cách để kịp thời phát hiện,

ngăn chặn không để chúng gây ra hậu quả xấu cho xã hội.

+ Biện pháp phòng ngừa của cơ quan Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử và

đưa ra phán quyết hoặc hình phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật. TRong khi

thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan Tòa án các cấp có thể thực hiện hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng như thông qua hoạt động xét xử đặc biệt là xét xử lưu động

bằng các bản án, quyết định được tuyên án công khai có thể tuyên truyền, giáo dục ý

thức tuân thủ pháp luật của công dân nhằm ngăn ngừa tội phạm.

+ Biện pháp phòng ngừa của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình

như nhiệm vụ kiểm sát chung việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ

67

chức xã hội và thực hành quyền công tố có thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm. Kịp thời phát hiện các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội

phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng, đề xuất hoặc phối

hợp với các cơ quan liên quan tiến hành các biện pháp phòng ngừa, xóa bỏ các nguyên

nhân điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm.

+ Biện pháp phòng ngừa của các cơ quan tư pháp khác trong việc phòng ngừa

tình hình tội phạm là xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hoàn thiện; đảm bảo

công tác thi hành án được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật; tuyên

truyền giáo dục pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và công dân…

Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần chú trọng tăng cường hoạt động hợp tác quốc

tế để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

+ Biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ của các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh

vực quản lý về CNTT&MVT như Trung tâm giám sát an toàn mạng quốc gia, Trung

tâm ứng cứu khẩn cấp sự cố máy tính… có các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để ngăn

chặn kịp thời hành vi phạm tội của các đối tượng hoặc phối hợp với các lực lượng

chức năng khác nhằm kịp thời phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn hành vi của các đối

tượng sử dụng CNTT&MVT để phạm tội.

Như vậy để phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể có

thể sử dụng, vận dụng nhiều biện pháp khác nhau. Các biện pháp cần được sử dụng

đồng bộ, linh hoạt, kết hợp với nhau hướng tới mục tiêu cơ bản là làm tốt phòng ngừa

tình hình tội phạm, ngăn chặn các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT góp phần bảo

đảm trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực này.

68

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Nghiên cứu lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông, cho chúng ta các kết luận sau

1. Dù có nhiều quan điểm và khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung : Phòng

ngừa tình hình tội phạm là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp hướng tới thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của

tội phạm nhằm ngăn chặn, kiềm chế, làm giảm và từng bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi

đời sống xã hội.

2. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT việc sử dụng

tổng hợp các biện pháp nhằm phát hiện đấu tranh triệt xóa hoặc hạn chế các tác động tiêu cực của các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, đồng thời nhanh chóng phát hiện xử lý nghiêm minh nếu tội phạm xảy

ra theo quy định của pháp luật.

3. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có mục đích là khắc

phục, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế,

làm giảm từng bước tiến tới loại trừ các tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.

4. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có ý nghĩa chính

trị, kinh tế xã hội sâu sắc

5. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần tuân theo các

nguyên tắc cơ bản như pháp chế, dân chủ, nhân đạo, khoa học và tiến bộ... 6. Cơ sở phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Việc tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được

dựa trên các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn

7. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

- Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp

nhằm từng bước xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm;

- Xác định đúng các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm;

- Nắm tình hình, xác định đúng thực trạng tình hình tội phạm; - Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất - Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

8. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT - Chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách pháp luật - Chủ thể trực tiếp triển khai hoạt động phòng ngừa - Chủ thể phối hợp trong hoạt động phòng ngừa

9. Biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT - Biện pháp phòng ngừa xã hội - Biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ.

69

Chƣơng 3

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

3.1 Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và

mạng viễn thông

Công nghệ thông tin và viễn thông đã trở thành một phần không thể thiếu trong

nền kinh tế toàn cầu và hội nhập hiện nay, nó chi phối rất nhiều hoạt động của đời

sống xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0, của việc ứng dụng CNTT&VT vào trong các lĩnh vực thì tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã hình thành và ngày càng phát triển, đe dọa trực

tiếp đến an toàn an ninh thông tin quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt

động kinh tế, xã hội. Thống kê của Bộ Công an cho thấy tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT năm sau luôn cao hơn năm trước cụ thể, trong 5 năm (2010-2015) thành

lập Cục Cảnh sát PCTP sử dụng Công nghệ cao (C50) đã phối hợp với các đơn vị chức

năng phát hiện, điều tra, xử lý gần 1.500 vụ án, vụ việc vi phạm pháp luật liên quan

đến công nghệ cao (tăng khoảng 7%/năm) [9], trong đó có 1200 vụ tập trung vào

nhóm đối tượng sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị

số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (theo Điều 226b BLHS2009) với 1807 đối

tượng, thiệt hại trung bình 500 tỷ đồng/năm. Trung bình mỗi năm ở Việt Nam xảy ra

240 vụ án với 361 đối tượng sử dụng CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội. Kết

quả nghiên cứu cũng cho thấy, cứ 1.000 bị cáo Tòa án xét xử thì có 01 bị cáo là tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&VT[9];

Năm 2016 đã phát hiện, khởi tố điều tra 217 vụ, 493 bị can phạm tội sử dụng

công nghệ cao (nhiều hơn 75% số vụ và 129,3% số bị can so với năm 2015). Năm

2017, đã phát hiện, khởi tố điều tra 197 vụ, 359 bị can (ít hơn 9,22% số vụ và 27,18%

số bị can so với năm 2016). Năm 2018 đã khởi tố điều tra 117 vụ, 196 bị can (giảm

13,97% vụ, tăng 4,26% bị can so với cùng kỳ năm 2017). Trong đó đã phát hiện, triệt

phá nhiều vụ án lớn như: vụ án công ty CNC tổ chức đánh bạc, đánh bạc trực tuyến

trên mạng Internet bằng hình thức game bài với gần 43 triệu tài khoản tham gia đánh

bạc; 25 đại lý cấp 1 và 5.877 đại lý cấp 2 trên phạm vi toàn quốc để giao dịch mua,

bán Rik (tiền ảo) với tổng số tiền thu lợi bất chính trên 9.853 tỷ đồng, thu giữ trên

1.760 tỷ đồng; khởi tố điều tra, làm rõ 105 bị can về các tội danh liên quan [10], [11].

Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trên không gian mạng, năm 2019, A05

đã khởi tố 10 vụ với 116 bị can; bắt giữ và bàn giao cảnh sát các nước 555 đối tượng;

70

phối hợp xử phạt hành chính và trục xuất 254 đối tượng. Điều này cho thấy tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, với

diễn biến tăng cả về số vụ và tính chất, mức độ, hậu quả. Đây mới chỉ là số vụ việc

được phát hiện, còn theo đánh giá của cơ quan chức năng và các chuyên gia, thì số vụ

còn ẩn là vô cùng lớn, bởi tính đặc thù hoạt động trong thế giới “ảo” của loại tội phạm

này. Điều này cũng chỉ ra rằng, thực tế số vụ vi phạm pháp luật hình sự phát hiện

tương đối nhiều, nhưng số vụ khởi tố và truy tố rất thấp, bởi chủ thể tội phạm thực

hiện trên không gian mạng, có thể ở một nơi nhưng lại gây ra hậu quả toàn cầu, do đó

rất khó xác định chủ thể để truy nguyên và bắt giữ, do rào cản về không gian mạng và

lãnh thổ.

Báo cáo tổng kết an ninh mạng năm 2015 do Tập đoàn Bkav công bố cho biết,

trong năm 2015, virus máy tính gây thiệt hại đối với người dùng Việt Nam có giá trị

lên tới 8.700 tỷ đồng, cao hơn so với mức 8.500 tỷ đồng năm 2014. Năm 2015, có

62.863 dòng virus máy tính mới xuất hiện tại Việt Nam. 61,7 triệu lượt máy tính đã bị

lây nhiễm virus.Virus lây nhiều nhất là W32.Sality.PE, lây nhiễm trên 5,8 triệu lượt

máy tính, 5.226 website của các cơ quan, doanh nghiệp tại Việt Nam bị hacker xâm

nhập, trong đó có 340 website của cơ quan chính phủ và tổ chức giáo dục. Đáng chú ý,

theo Bkav, mạng xã hội bị ô nhiễm nặng với 93% người sử dụng Facebook tại Việt

Nam cho biết thường xuyên gặp phiền toái với tin nhắn rác, nội dung đồi trụy hay liên

kết giả mạo có cài mã độc trên Facebook. Thống kê mỗi tháng lại có thêm hơn 1.000

trang giả mạo Facebook được lập ra nhằm đánh cắp tài khoản của người sử dụng. Sau

đó tài khoản bị đánh cắp sẽ được sử dụng để tiếp tục phát tán mã độc hoặc để lừa đảo,

phổ biến nhất là chat với bạn bè của nạn nhân lừa nạp thẻ điện thoại hoặc nhờ chuyển

khoản với lý do tài khoản hiện tại không sử dụng được. Ngoài ra, trong lĩnh vực an

ninh mạng thống kê cho thấy gần 14 triệu tin nhắn rác được phát tán mỗi ngày; 30%

website các ngân hàng có lỗ hổng; có ít nhất gần 4.000 website của các cơ quan doanh

nghiệp ở Việt Nam bị hacker xâm nhập chiếm quyền điều khiển. Số lượng các cuộc

tấn công mạng vào Việt Nam ngày càng gia tăng [100].Năm 2016, các hoạt động tấn

công mạng tiếp tục diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn mới và ngày

càng trở thành mối đe dọa lớn đối với người dùng trực tuyến. Theo thống kê, Việt

Nam vẫn là một trong các quốc gia phải đối mặt nhiều nhất với mã độc và là một trong

những nước đứng đầu thế giới về tỷ lệ lây nhiễm mã độc qua thiết bị lưu trữ ngoài

(USB, thẻ nhớ, ổ cứng di động) với tỷ lệ 70.83% máy tính bị lây nhiễm;39,95% người

dùng phải đối mặt với mã độc bắt nguồn từ không gian mạng, nhận định xu hướng

chính của mã độc là mã hóa dữ liệu để tống tiền (ransomware). Mã độc này có thể

khóa các tập tin trên hệ thống máy tính, điện thoại, máy tính bảng thông qua những tin

71

nhắn, email hoặc ứng dụng độc hại [16]. Năm 2017, thiệt hại do virus máy tính gây ra

đối với người dùng Việt Nam lên tới 12.300 tỷ đồng, tương đương 540 triệu USD,

vượt xa mốc 10.400 tỷ đồng của năm ngoái. Ở các nền kinh tế khổng lồ như Mỹ,

Trung Quốc, Nhật Bản và Đức, tội phạm mạng gây ra tổng thiệt hại lên tới 200 tỷ

USD mỗi năm. Năm 2018, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt

Nam đã lên mức kỷ lục 14.900 tỷ đồng, tương đương 642 triệu USD, nhiều hơn 21%

so với mức thiệt hại của năm 2017. Mức thiệt hại tại Việt Nam đã đạt kỷ lục trong

nhiều năm trở lại đây. Đây là kết quả được đưa ra từ chương trình đánh giá an ninh

mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện tháng 12/2018.Trên phạm vi toàn cầu,

tội phạm mạng gây thiệt hại lên tới khoảng 600 tỷ USD mỗi năm, tương đương 0,8%

GDP toàn cầu. Trong đó, khu vực Đông Á thiệt hại ước tính từ 120 – 200 tỷ USD,

tương đương 0,53 – 0,89% GDP khu vực. Mức thiệt hại 642 triệu USD tương đương

0,26% GDP của Việt Nam tuy chưa phải cao so với khu vực và thế giới, nhưng cũng là

những con số đáng báo động. Năm 2019, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với

người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỷ đồng (902 triệu USD), vượt xa con số

14.900 tỷ đồng của năm 2018. Theo báo cáo tổng kết an ninh mạng năm 2019 và dự

báo 2020 mà Tập đoàn Bkav vừa công bố, sự gia tăng các máy tính bị nhiễm mã độc

mã hóa dữ liệu và mã độc tấn công có chủ đích là nguyên nhân chính gây ra những

thiệt hại khổng lồ này. Tổng số lượt máy tính bị nhiễm mã độc được ghi nhận trong

năm 2019 lên tới 85,2 triệu lượt, tăng 3,5% so với năm 2018. Tại Hà Nội, chỉ tính từ

đầu năm 2019 đến nay, Công an TP. Hà Nội đã nhận được đơn thư tố giác từ 18 nạn

nhân, với tổng số tiền bị chiếm đoạt lên đến gần 33 tỷ đồng. Các đối tượng lừa đảo sử

dụng mạng Internet, mạng viễn thông, giả danh công an, cán bộ tòa án để đe dọa, bắt

người dân chuyển tiền vào tài khoản rồi chiếm giữ. Tại nhiều địa phương khác như Đà

Nẵng, TP.HCM, Đồng Nai, Cần Thơ, Nghệ An, Quảng Ninh… cũng xuất hiện các vụ

lừa đảo với phương thức phạm tội tương tự. Trên phạm vi toàn quốc gia tăng các tội

phạm đánh bạc trực tuyến, cá độ trực tuyến… cả về số vụ và quy mô, như vụ đánh bạc

trực tuyến với số tiền đã giao dịch là 10.000 tỷ đồng tại khu đô thị Our City Hải Phòng

với 395 đối tượng phạm tội là người Trung Quốc; vụ đánh bạc trực tuyến 4.000 tỷ tại

Thanh Hóa…[8].

Đặc biệt, có những hành vi tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT lần đầu xuất

hiện như lập website để tổ chức huy động vốn trả lãi suất cao, lừa đảo bán hàng qua

mạng, nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tấn công ví điện tử lấy tiền của khách hàng…

Điển hình như do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 lợi dụng nhu cầu về các sản

phẩm, thiết bị y tế phòng dịch các đối tượng người Việt đã lừa 7000 người Mỹ mua

nước rửa tay khô với tổng số tiền gần 1 triệu USD. Những người bị lừa ở 50 bang của

72

Mỹ đã đặt mua nước rửa tay khô và khăn ướt diệt khuẩn từ các trang web ở Việt Nam.

Các nghi phạm đã điều hành hơn 300 trang web với mục đích lừa đảo bán các sản

phẩm khan hiếm trong thời đại dịch. Các đối tượng đã tạo ra hàng trăm tài khoản email

và tài khoản người dùng với phương thức thanh toán tại Mỹ nhằm thực hiện hoạt động

lừa đảo và để trốn tránh cơ quan thực thi pháp luật. Đồng thời cung cấp thông tin sai

lệch về địa chỉ và số điện thoại liên lạc lên trang web, dẫn đến hiểu lầm cho cá nhân và

doanh nghiệp không liên quan đến vụ việc phải nhận các cuộc gọi phản ánh và than

phiền từ khách hàng phát sinh do hoạt động lừa đảo này. Giới chức thành phố Tampa,

bang Florida bắt đầu tiến hành điều tra vào tháng 3/2020. Sau đó, các điều tra viên của

Văn phòng Cục Điều tra An ninh nội địa Mỹ (HSI), thuộc Bộ An ninh nội địa Mỹ,

phát hiện gần 40.000 giao dịch lừa đảo trị giá xấp xỉ 975.000 USD. HSI tại TP HCM

đã chuyển thông tin cho Bộ Công an Việt Nam. Sau khi hoàn tất điều tra, Việt Nam

hồi giữa tháng 7 bắt ba nghi phạm là Phan Đình Thư, Trần Quốc Khánh và Nguyễn

Duy Toản, đều là công dân Việt Nam. [8]

Từ những số liệu thực tế về diễn biến của tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT trong thời gian qua cho thấy tính chất nguy hiểm của các tội phạm nảy. Nó

đã và đang gây ra những hậu quả thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế, trực tiếp đe dọa đến an

ninh an toàn thông tin quốc gia, đến quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Việc

phân tích tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như trên cho phép chúng ta có

thể đánh giá kết quả phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã đạt

được những gì, chỉ ra được những thiếu sót và tồn tại trong hoạt động phòng ngừa và từ

đó có những giải pháp khắc phục, tăng cường hoạt động phòng ngừa.

Qua việc phân tích tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có thể đưa ra

cơ cấu về tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT qua một số thông số sau đây:

Thông số về cơ cấu của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là

thông số phản ánh mối tương quan giữa các bộ phận của tội phạm trong một chỉnh thể

chung thống nhất của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã xảy ra trong

xã hội ở những thời điểm nhất định.

- Về cơ cấu tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo loại tội: Từ

năm 2010 đến năm 2015, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã phát hiện, xử lý 1200 vụ xảy

ra trong lĩnh vực thương mại điện tử, trong đó lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 519 vụ

chiếm 43,25%, 437 vụ sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc

thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản chiếm 36,45% (Điều 226b BLHS sửa

đổi năm 2009), các hành vi khác là 244 vụ chiếm 20,3%.

- Về cơ cấu tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo ngành: theo

thống kê, các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như: Giao dịch trực tuyến, Ngân hàng, Tài

73

chính, Bưu chính viễn thông chiếm 94% về số vụ và 97% về thiệt hại do các tội phạm

này gây ra; các vụ án khác chiếm 6% số vụ và 3% thiệt hại.

Về cơ cấu theo địa bàn xảy ra: tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng rất

đa dạng: Nếu trước đây tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chủ yếu xảy ra ở các

thành phố, đô thị lớn nơi tập trung nhiều tập đoàn, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng,

ngân hàng như tại Hà Nội, từ năm 2010 đến 2015 PC50 công an Hà Nội đã phát hiện,

xử lý 244 vụ việc tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chiếm 20,3% số vụ. PC50

công an Tp Hồ Chí Minh đã phát hiện, xử lý 225 vụ chiếm 18,75% , PC50 Công an Tp

Hải Phòng đã phát hiện, xử lý 14 vụ chiếm 1,16% thì nay các tội phạm này có chiều

hướng phát triển ở địa bàn cấp huyện. Do CNTT&MVT không bị giới hạn về không

gian và thời gian nên tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có thể xảy ra ở bất kỳ địa

bàn nào mà ở đó tồn tại những công cụ có thể phục vụ cho quá trình thực hiện hành vi

phạm tội như: máy tính, điện thoại có kết nối mạng, thiết bị số... Vì vậy đối tượng có

thể ngồi ở bất kỳ nơi đâu có thể tại nhà riêng, điểm Internet công cộng, cơ quan tổ

chức để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đặc biệt hiện nay với việc kết nối mạng

Internet không dây (wifi) và công nghệ 4G, 5G đã phát triển trên diện rộng có thể chỉ

bằng máy tính xách tay (laptop) hoặc điện thoại di động (smartphone), điện thoại bàn

không dây (telecom) đối tượng có thể bất cứ ở đâu truy cập mạng Internet và thực hiện

các hành vi phạm tội.

Đặc điểm nhân thân của người phạm tội

+ Về độ tuổi: trong số 1807 đối tượng phạm tội trong lĩnh vực thương mại điện

tử nói chung và lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng, theo thống kê của Tổng cục VI Bộ

công an độ tuổi của các đối tượng phạm tội như sau: từ 16-35 tuổi là 1069 đối tượng

(chiếm 59,16%), từ 35-50 tuổi là 457 đối tượng (chiếm 25,28%); trên 50 tuổi là 281

đối tượng (chiếm 15,67%) [9].Qua thống kê đặc điểm về lứa tuổi, cho thấy lứa tuổi từ

16-35 chiếm tỷ lệ cao nhất vì đặc trưng ở độ tuổi này thích tò mò, khám phá, thích

phiêu lưu mạo hiểm lại không được kịp thời phát hiện do đó dễ dàng phạm tội.

+ Về trình độ học vấn: Đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT phần lớn

có trình độ hiểu biết về CNTT&MVT. Họ có khả năng và sự hiểu biết để giao tiếp với

máy tính, làm việc với các chương trình, hệ thống, mạng lưới thông tin, các thiết bị viễn

thông; hiểu biết về lập trình và xử lý các vấn đề phần cứng cũng như phần mềm của hệ

thống máy tính. Chính kỹ năng về CNTT&MVT đã được họ sử dụng để thực hiện các

hành vi phạm tội.Thống kê 1807 đối tượng cho thấy: 834 đối tượng có trình độ Đại học và

sau Đại học về CNTT (chiếm tỷ lệ 46,15%); có 714 đối tượng có trình độ Trung cấp

chuyên nghiệp, Cao đẳng về CNTT (chiếm tỷ lệ 39,51%), còn 269 đối tượng chỉ tốt

nghiệp trung học phổ thông và chưa tốt nghiệp phổ thông chiếm 14,34% [9].

74

+ Về nghề nghiệp: phần lớn các đối tượng đã hoặc đang là sinh viên các trường

Đại học, cao đẳng có đào tạo chuyên ngành CNTT&VT như Đại học Bách khoa Hà

Nội, Đại học Bách khoa Tp Hồ Chí Minh, Học viện công nghệ bưu chính viễn thông...

Trong 1807 đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT thì đối tượng phạm tội là

sinh viên có 1050 (chiếm 58,11%), cán bộ công nhân viên có 481 (chiếm 26,62%), đối

tượng khác có 276 (chiếm 15,27%) [9].

+ Về giới tính: Nam giới có 1306 đối tượng (chiếm 72,27%) trong đó có 377

nam giới là người nước ngoài (chiếm 28,87%); Nữ giới là 501 đối tượng (chiếm

27,73%), trong đó nữ giới là người nước ngoài là 104 (chiếm 20,76%). Điều này thể

hiện rõ ở chuyên ngành thương mại điện tử, CNTT&VT nam giới chiếm 2/3 số lượng

do đặc trưng của nam giới là thích tìm tòi, am hiểu thông tin, nhạy bén thông tin, xử lý

tốt các bài toán kỹ thuật [9].

+ Về quốc tịch: có 1227 người có quốc tịch Việt Nam (chiếm 67,90%); 178 người

có quốc tịch Trung Quốc (chiếm 9,85%); 91 người có quốc tịch Đài Loan (chiếm

5,03%);89 người có quốc tịch Hồng Kong (chiếm 4,93%); 78 người có quốc tịch

Malaysia (chiếm 4,32%); 144 người có quốc tịch khác (chiếm 7,97%). Qua số liệu trên

cho thấy, người có quốc tịch Việt nam là phạm tội nhiều nhất (kể cả Việt kiều vì trong số

họ nhiều người vẫn giữ quốc tịch Việt nam). Nguyên nhân là do họ am hiểu pháp luật, văn

hóa, phong tục tập quán, nắm được những tồn tại sơ hở trong công tác quản lý nhà nước

về thương mại điện tử, CNTT&MVT để thực hiện hành vi phạm tội [9].

Thực trạng cho thấy tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang có

những diễn biến phức tạp, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế trực tiếp ảnh hưởng đến an

ninh an toàn thông tin quốc gia, đến quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân. Tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT giai đoạn 2010-2019 gia tăng được lý giải bởi

những nguyên nhân và điều kiện như sau:

- Nguyên nhân, điều kiện về việc chưa hoàn thiện các văn bản pháp luật

Hệ thống pháp luật của nước ta trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT chưa đầy đủ và chưa theo kịp diễn biến tình hình thực tế. Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 chưa quy định chứng cứ điện tử, cách thu thập và giá trị của

chứng cứ điện tử. Việc phát hiện, bảo quản, đánh giá và sử dụng loại chứng cứ này rất

khó khăn vì khi bị phát hiện, tội phạm có thể xóa, sửa nhanh chóng để tiêu hủy dẫn

đến rất khó thu thập, phục hồi chứng cứ. Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng

hình sự 2015 đã có hiệu lực thi hành tuy nhiên đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ

thể để có cách hiểu thống nhất về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với tội phạm

sử dụng công nghệ cao. Điều này gây ra những khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan

chức năng trong việc phòng, chống các tội phạm này.

75

- Nguyên nhân, điều kiện về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực

CNTT&MVT

Thực tế công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT được giao cho

Bộ thông tin và truyền thông trong đó các cơ quan trực thuộc bộ là Cục an toàn thông

tin, Cục viễn thông, Cục tin học hóa có chức năng tham mưu, giúp Bộ quản lý nhà

nước và tổ chức thực thi pháp luật về an toàn thông tin, mạng viễn thông. Trong quá

trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, các cơ quan tổ chức trên đã thực hiện

khá tốt bảo đảm an toàn thông tin, kịp thời khắc phục xử lý các sự cố về an toàn thông

tin. Tuy nhiên đây là lĩnh vực rất rộng, khó có ranh giới phân định do lĩnh vực này có

tính quốc tế cao. Sự gia tăng của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thường

gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ tuy nhiên trong thực tế sự

phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này với các cơ quan chức

năng, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an, Bộ

Công thương, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn VNPT, Tập đoàn BKAV… chưa được chặt

chẽ, việc phối hợp còn mang tính bị động, chưa chủ động phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nguyên nhân có thể vì ảnh hưởng đến lợi ích,

quyền lợi của các cơ quan tổ chức và doanh nghiệp.

- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về các cơ quan bảo vệ pháp luật

Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

còn chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và trình độ nghiệp vụ trong khi các tội phạm

này có trình độ hiểu biết về khoa học công nghệ ngày càng cao, trang thiết bị, phương

tiện sử dụng để phạm tội ngày càng hiện đại.

Trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho các lực lượng mặc dù đã được quan

tâm đầu tư, nhưng vẫn còn thiếu, lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ.Đặc

biệt là các phương tiện, phần mềm chuyên dụng để khôi phục dữ liệu từ ổ đĩa cứng

máy tính, dữ liệu trên điện thoại thông minh, máy tính đã bị các đối tượng xóa trước

khi bị phát hiện thu giữ. Ngoài ra, các đối tượng thường sử dụng nickname, địa chỉ

email (hộp thư điện tử) để giao tiếp, sau một thời gian hành vi phạm tội mới bị phát

hiện, khi đó việc phục hồi các dữ liệu trong email cũng như xác định người lập email

rất khó khăn, nhiều trường hợp không phục hồi dữ liệu mà chỉ căn cứ trên lời khai để

xử lý. Năm 2019 Trung tâm phục hồi dữ liệu và chứng cứ điện tử Indra Gahdi do

Chính phủ Ấn Độ tài trợ đã đi vào hoạt động tại Hà nội nhưng quy mô còn nhỏ nên

hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa kể các biến động về cơ cấu tổ chức do việc sát nhập

Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao (C50) với Cục An ninh mạng (A68) thành

Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao A05 năm 2018.

76

Đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có trình độ về CNTT&MVT

cũng như sự hiểu biết về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn nhiều, chưa đáp

ứng với thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh, xử lý với các tội phạm này.

- Nguyên nhân, điều kiện thuộc về người bị hại

Bên cạnh các nguyên nhân, điều kiện trên để tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&VT gia tăng thì nguyên nhân, điều kiện thuộc về người bị hại cũng là vấn đề

cần quan tâm nghiên cứu để đề xuất các giải pháp khắc phục. Thực tế cho thấy các

ngân hàng, sàn giao dịch chứng khoán có sử dụng giao dịch điện tử qua mạng còn chủ

quan trong việc bảo vệ dữ liệu thông tin. Đã có các trường hợp nhân viên của Công ty

lợi dụng nhiệm vụ được giao vào hệ thống đơn vị thực hiện giao dịch nộp tiền, chuyển

tiền sau đó rút tiền ra chiếm đoạt; ăn cắp thông tin của khách hàng rồi làm giả thẻ ngân

hàng. Tại Việt Nam chỉ trong 2 năm 2017, 2018 đã xẩy ra hàng loạt vụ án nghiêm

trọng liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Điển hình như việc hơn

400 tài khoản ngân hàng Agribank bị xâm nhập và có hơn 10 tài khoản bị mất từ 10-24

triệu đồng dù đã báo khóa thẻ ATM xảy ra vào tối muộn ngày 25/4/2018; Nhiều đối

tượng phạm tội lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các chủ tài khoản thực hiện các hành vi

lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua các mạng xã hội. Đặc biệt với ảnh hưởng của đại

dịch Covid 19 khi các giao dịch trực tuyến, thanh toán điện tử ngày càng phát triển thì

số lượng người bị hại do các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng không ngừng

tăng lên.

- Nguyên nhân, điều kiện về sự ảnh hưởng của tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT trên thế giới

Trên thế giới, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang có những diễn

biến phức tạp, theo thống kê trung bình cứ 14 giây trôi qua lại xảy ra một vụ phạm

pháp trên mạng. Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL xếp tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT chỉ đứng sau tội phạm ma túy và khủng bố xét về tính chất nguy

hiểm. Theo sự phát triển của khoa học công nghệ với sự ứng dụng rộng rãi CNTT vào

các lĩnh vực thì tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng gia tăng. Tính chất tội

phạm đã thay đổi sang hướng tội phạm có tổ chức tạo thành các mạng lưới tội phạm

toàn cầu, động cơ phạm tội chủ yếu vì kinh tế. Hành vi phạm tội ngày càng tinh vi,

khó phát hiện thủ đoạn liên tục thay đổi như mô hình hóa hoạt động của chúng dưới

dạng các quy trình nghiệp vụ phổ biến gây nhầm lẫn cho người sử dụng nhằm đánh

cắp các thông tin cá nhân quan trọng. Ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 trên toàn cầu

cũng là một trong những nguyên nhân, điều kiện để tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT phát triển.

77

Do tính chất của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT mang tính quốc tế,

không biên giới nên sự phát triển của các tội phạm này có ảnh hưởng nhất định tới sự

gia tăng của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam. Nhiều hành

vi diễn ra trên thế giới đã có tại Việt Nam như tấn công DDDOS từ chối dịch vụ, tấn

công lừa đảo, phán tán mã độc, ăn cắp thông tin cá nhân để làm giả thẻ tín dụng nhằm

chiếm đoạt tài sản, đánh bạc trực tuyến…

3.2 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông

3.2.1 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và mạng viễn thông của các chủ thể

Tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT có ba nhóm chủ thể khác nhau bao gồm

Chủ thể chỉ đạo, xây dựng chính sách, pháp luật phục vụ hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;

Chủ thể trực tiếp triển khai hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT;

Chủ thể phối hợp trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

Trên thực tế các nhóm chủ thể trên đã thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bằng việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa theo

chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm hạn chế, loại trừ các nguyên nhân, điều kiện, từ đó

làm giảm, đẩy lùi tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các biện pháp phòng

ngừa đã được các chủ thể thực hiện bao gồm:

3.2.1.1 Các biện pháp phòng ngừa xã hội

Trong thời gian qua, các chủ thể đã tiến hành các biện pháp phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; trong đó đặc biệt chú ý đến việc sử dụng

các biện pháp phòng ngừa xã hội như các biện pháp về pháp luật, tuyên truyền, giáo

dục, kinh tế... Đó là các biện pháp mang tính chiến lược và lâu dài nhằm đến mục tiêu

xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ở Việt Nam. Cụ thể là:

- Biện pháp chính trị tư tưởng

Ban bí thư trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị

để chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức Đảng các cấp trong việc thực hiện hoạt động phòng

ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như Chỉ thị số 48-CT/TW về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình

hình mới; Kết luận số 05-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 48-

78

CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm

trong tình hình mới;Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020... Đây là những văn bản quan trọng thể hiện tinh thần, đường lối, chủ trương và

chính sách của Đảng trong việc đề cao vai trò của hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm nói chung và tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Tuy

nhiên nội dung về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa

được đề cập một cách cụ thể, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được gọi với tên

”tội phạm sử dụng công nghệ cao”[5]

- Biện pháp quản lý

- Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT xây dựng chính

sách phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển về CNTT&MVT, phát triển các tổ chức

hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin.

Trong những năm qua, CNTT&MVT ở nước ta đã có những bước phát triển

mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển hạ tầng và dịch vụ CNTT&MVT việc phát triển các tổ

chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh

mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ, phù hợp với đặc điểm sử

dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá thành hợp lý hơn như các sản phẩm

diệt virut máy tính của tập đoàn BKAV, vì vậy môi trường mạng của nước ta cũng sẽ

an toàn hơn.

Ngày 10/10/2019 Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam

được thành lập theo Quyết định số 1671/Bộ TTTT. Theo Quyết định, Trung tâm Ứng

cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục

An toàn thông tin thực hiện chức năng làm đầu mối kỹ thuật điều phối ứng cứu sự cố

an toàn không gian mạng và kiểm định an toàn thông tin trên phạm vi toàn quốc; quản

lý, vận hành các hệ thống số liệu, cơ sở dữ liệu, hệ thống kỹ thuật về điều phối ứng

cứu sự cố, kiểm định và phòng, chống thư điện tử rác, tin nhắn rác phục vụ công tác

quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về an toàn thông tin; là đầu mối hợp tác quốc tế

với các cơ quan, tổ chức có chức năng ứng cứu sự cố và kiểm định an toàn thông tin.

Ngày 5/10/2018, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1616/QĐ-BTTTT thành

lập Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục an toàn

thông tin. Trung tâm có các nhiệm vụ như: Thực hiện giám sát an toàn thông tin trên

toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin

mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, giám sát của các doanh nghiệp cung

cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản các hệ thống thông tin;

triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin

mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đô thị

79

thông minh. Kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ

tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an

toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc trên không gian mạng Việt Nam; tổ

chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã độc trên diện rộng với sự tham gia

của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các tổ chức, doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích,

theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không

gian mạng Việt Nam; tổ chức diễn tập phòng thủ, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng

cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Với sự ra đời của nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý, duy trì

hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua là

những biện pháp có tính chiến lược và lâu dài, có khả năng xử lý, ngăn chặn những

yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy

nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch

vụ do các doanh nghiệp CNTT&MVT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ

sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT trong nước được

sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn thông trong

nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công

tác quản lý, giúp cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

chủ động hơn

- Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT xây dựng chính

sách phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển về CNTT&MVT, phát triển các tổ chức

hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin.

Trong những năm qua, CNTT&MVT ở nước ta đã có những bước phát triển

mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển hạ tầng và dịch vụ CNTT&MVT việc phát triển các tổ

chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh

mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ, phù hợp với đặc điểm sử

dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá thành hợp lý hơn như các sản phẩm

diệt virut máy tính của tập đoàn BKAV, vì vậy môi trường mạng của nước ta cũng sẽ

an toàn hơn.

Ngày 10/10/2019 Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam

được thành lập theo Quyết định số 1671/Bộ TTTT. Theo Quyết định, Trung tâm Ứng

cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục

An toàn thông tin thực hiện chức năng làm đầu mối kỹ thuật điều phối ứng cứu sự cố

an toàn không gian mạng và kiểm định an toàn thông tin trên phạm vi toàn quốc; quản

lý, vận hành các hệ thống số liệu, cơ sở dữ liệu, hệ thống kỹ thuật về điều phối ứng

80

cứu sự cố, kiểm định và phòng, chống thư điện tử rác, tin nhắn rác phục vụ công tác

quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về an toàn thông tin; là đầu mối hợp tác quốc tế

với các cơ quan, tổ chức có chức năng ứng cứu sự cố và kiểm định an toàn thông tin.

Ngày 5/10/2018, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1616/QĐ-BTTTT thành

lập Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục an toàn

thông tin. Trung tâm có các nhiệm vụ như: Thực hiện giám sát an toàn thông tin trên

toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin

mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, giám sát của các doanh nghiệp cung

cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản các hệ thống thông tin;

triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin

mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đô thị

thông minh. Kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ

tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an

toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc trên không gian mạng Việt Nam; tổ

chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã độc trên diện rộng với sự tham gia

của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các tổ chức, doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích,

theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không

gian mạng Việt Nam; tổ chức diễn tập phòng thủ, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng

cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Với sự ra đời của nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý, duy trì

hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua là

những biện pháp có tính chiến lược và lâu dài, có khả năng xử lý, ngăn chặn những

yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy

nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch

vụ do các doanh nghiệp CNTT&MVT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ

sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT trong nước được

sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn thông trong

nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công

tác quản lý, giúp cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

chủ động hơn

- Các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT xây dựng chính

sách phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển về CNTT&MVT, phát triển các tổ chức

hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin.

Trong những năm qua, CNTT&MVT ở nước ta đã có những bước phát triển

mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển hạ tầng và dịch vụ CNTT&MVT việc phát triển các tổ

81

chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh

mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ, phù hợp với đặc điểm sử

dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá thành hợp lý hơn như các sản phẩm

diệt virut máy tính của tập đoàn BKAV, vì vậy môi trường mạng của nước ta cũng sẽ

an toàn hơn.

Ngày 10/10/2019 Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam

được thành lập theo Quyết định số 1671/Bộ TTTT. Theo Quyết định, Trung tâm Ứng

cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Cục

An toàn thông tin thực hiện chức năng làm đầu mối kỹ thuật điều phối ứng cứu sự cố

an toàn không gian mạng và kiểm định an toàn thông tin trên phạm vi toàn quốc; quản

lý, vận hành các hệ thống số liệu, cơ sở dữ liệu, hệ thống kỹ thuật về điều phối ứng

cứu sự cố, kiểm định và phòng, chống thư điện tử rác, tin nhắn rác phục vụ công tác

quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về an toàn thông tin; là đầu mối hợp tác quốc tế

với các cơ quan, tổ chức có chức năng ứng cứu sự cố và kiểm định an toàn thông tin.

Ngày 5/10/2018, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1616/QĐ-BTTTT thành

lập Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia trực thuộc Cục an toàn

thông tin. Trung tâm có các nhiệm vụ như: Thực hiện giám sát an toàn thông tin trên

toàn bộ không gian mạng Việt Nam; thiết lập mạng lưới giám sát an toàn thông tin

mạng trên toàn quốc, bảo đảm liên kết, liên thông, giám sát của các doanh nghiệp cung

cấp dịch vụ viễn thông, Internet (ISP) và giám sát của chủ quản các hệ thống thông tin;

triển khai giám sát cho các lĩnh vực quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an toàn thông tin

mạng và hệ thống thông tin quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đô thị

thông minh. Kiểm tra, rà quét, đánh giá mức độ an toàn thông tin đối với toàn bộ hạ

tầng mạng Internet Việt Nam nhằm xác định các điểm yếu, lỗ hổng, nguy cơ mất an

toàn thông tin; theo dõi, rà quét phát hiện mã độc trên không gian mạng Việt Nam; tổ

chức phát động, chỉ đạo các chiến dịch bóc gỡ mã độc trên diện rộng với sự tham gia

của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các tổ chức, doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích,

theo dõi và dự báo, cảnh báo sớm xu hướng về các hoạt động, diễn biến trên không

gian mạng Việt Nam; tổ chức diễn tập phòng thủ, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng

cao kiến thức, kỹ năng về an toàn thông tin cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Với sự ra đời của nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý, duy trì

hoạt động đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng tại Việt Nam trong thời gian qua là

những biện pháp có tính chiến lược và lâu dài, có khả năng xử lý, ngăn chặn những

yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy

nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch

82

vụ do các doanh nghiệp CNTT&MVT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ

sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT trong nước được

sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn thông trong

nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công

tác quản lý, giúp cho hoạt động phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

chủ động hơn

- Biện pháp văn hóa, giáo dục

+ Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia phòng ngừa,

đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Nhận thức rõ vai trò của nhân dân, của xã hội đối với công tác đấu tranh phòng

ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.

Các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội khi thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT luôn xác định công tác tuyên truyền, vận động quần

chúng nhân dân tham gia đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

là một trong những biện pháp có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở, nền tảng cho việc tiến

hành các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này. Mục đích của công tác tuyên

truyền, vận động là làm cho quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về

hậu quả, tác hại do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra, từ đó tích cực thực

hiện và chủ động phòng ngừa tội phạm này.

Trong thời gian qua, Bộ Thông tin và truyền thông đã phối hợp với cơ quan

chức năng liên quan định kỳ tổ chức một số hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp

luật, nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các hội nghị, hội thảo và trên các

phương tiện truyền thông đại chúng. Bộ Thông tin và truyền thông cùng phối hợp với

một số các cơ quan trung ương và địa phương xây dựng kế hoạch triển khai công tác

tuyên truyền, phổ biến về an toàn thông tin. Đặc biệt, Bộ cũng phối hợp với Hiệp hội

An toàn thông tin Việt Nam tổ chức chuỗi sự kiện thường niên Ngày An toàn thông tin

Việt Nam. Trong khuôn khổ sự kiện này, nhiều hoạt động hữu ích được tổ chức như:

Cuộc thi Sinh viên với an toàn thông tin đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi của dư

luận xã hội; Hội nghị quốc tế về phòng chống mã độc toàn cầu lần thứ 18 - AVAR

2015 (tháng 12/2015) với sự bảo trợ của Cục An toàn thông tin và nhiều hội nghị, hội

thảo khác trên khắp đất nước.Tháng 1/2016, Cục An toàn thông tin đã xuất bản bộ tài

liệu tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về an toàn thông tin và

phát hành tới toàn bộ 63 Tỉnh, Thành phố trong cả nước, các Bộ, ban, ngành nhằm

trang bị cho cán bộ, công chức, viên chức một số kiến thức cơ bản để có thể tự bảo vệ

trước nguy cơ mất an toàn thông tin. Ngày 3/8/2017 Bộ thông tin và truyền thông đã

ký ban hành Đề án “Tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp

83

luật và tội phạm trên mạng Internet”. Đề án này góp phần cụ thể hóa Chiến lược quốc

gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030 nhằm

tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên

mạng Internet, góp phần kéo giảm tội phạm, vi phạm pháp luật trên mạng Internet.

Trong năm 2018 Bộ thông tin và truyền thông đã tổ chức các đoàn công tác làm việc

với 20 cơ quan chuyên trách về CNTT của Bộ, ngành, địa phương để kiểm tra, đánh

giá, giám sát an toàn thông tin và triển khai các nhiệm vụ đã được Thủ tướng chính

phủ phê duyệt tại các Quyết định: Quyết định 1622/QĐ-TTg ngày 25/10/2017 về việc

phê duyệt Đề án đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố, tăng cường năng

lực cho các cán bộ, bộ phận chuyên trách ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng đến

năm 2020, định hướng đến 2025; Quyết định số 898/QĐ-TTg ngày 27/5/2016 phê

duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin mạng giai đoạn

2016-2020; Quyết định số 99/QĐ-TTg ngày 14/1/2014 phê duyệt Đề án đào tạo và

phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin đến năm 2020; Quyết định số

893/QĐ-TTg ngày 19/6/2015 phê duyệt Đề án tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận

thức và trách nhiệm về an toàn thông tin đến năm 2020…Năm 2019 Bộ thông tin và

truyền thông đang xây dựng Đề án bảo vệ thông tin cá nhân và sẽ ban hành trong thời

gian tới. Bên cạnh đó Bộ thông tin và truyền thông đã thúc đẩy phát triển nguồn nhân

lực đào tạo, tập huấn, diễn tập; tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức và kỹ năng

bảo đảm an toàn thông tin cho cộng đồng [23].

Trong đấu tranh và phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

thì công tác tuyên truyền giáo dục được xác định là giải pháp lâu dài, bền vững.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, trong những năm qua các chủ thể tiến hành hoạt

động phòng ngừa đã chủ động tổ chức công tác tuyên truyền giáo dục về pháp luật

kinh tế, pháp luật về CNTT&MVT liên doanh liên kết với các chủ thể khác ở quy mô

rộng trên toàn quốc, ở hầu hết các địa bàn, tuyến, lĩnh vực trọng điểm. Hình thức, nội

dung, biện pháp tương đối phong phú. Lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử

dụng công nghệ cao đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí, truyền thông, đài

phát thanh, truyền hình như Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam,

Thông tấn xã Việt Nam... để phục vụ công tác tuyên truyền, vận động. Trong đó chú

trọng công tác tuyên truyền các thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT để

các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước nắm bắt kịp thời phát hiện cũng như

có các biện pháp phòng ngừa, nâng cao tính bảo mật trong việc sử dụng máy tính,

mạng máy tính, mạng viễn thông để không trở thành nạn nhân của tội phạm. Các

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông như Viettel, Mobifone, Vinafone... thường

xuyên đưa ra những cảnh báo cho người dùng về các thủ đoạn, phương thức thực

84

hiện hành vi phạm tội của các đối tượng qua tin nhắn, e-mail. Các cơ quan nhà nước

và các tổ chức xã hội đã nâng cao nhận thức trong việc chủ động phòng ngừa tình

hình các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT, kịp thời vá các lỗ hổng trong bảo mật

an toàn thông tin. Mỗi người dân khi sử dụng CNTT&MVT đều có ý thức phòng

ngừa, chủ động nâng cao sự hiểu biết về các phương thức, thủ đoạn của các đối

tượng phạm tội.

Từ năm 2010 đến nay, cán bộ chiến sỹ lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công

nghệ cao đã tham gia viết hàng trăm tin, bài hoặc cung cấp các thông tin, tài liệu về

công tác đấu tranh và phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho các

cơ quan báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình phục vụ công tác tuyên truyền, vận

động nhân dân trong đấu tranh và phòng ngừa tội phạm này ở Việt Nam. Đặc biệt là

đưa ra các cảnh báo về thủ đoạn, phương thức thực hiện hành vi của các đối tượng

bằng điện thoại, qua mạng Internet và mạng xã hội. Mặc dù chưa có hình thức tuyên

truyền riêng cho công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, song nhìn chung công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng

nhân dân đã được thực hiện một cách chủ động, tích cực và đạt được những kết quả

đáng ghi nhận. Qua công tác tuyên truyền đã giúp nâng cao nhận thức về tác hại, hậu

quả do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra, người sử dụng các thiết bị

CNTT&VT đã từng bước nhận diện được một số thủ đoạn của hành vi phạm tội để

nâng cao cảnh giác. Tuy nhiên hoạt động tuyên truyền, phổ biến chưa được tiến hành

thường xuyên, hình thức tuyên truyền còn mang tính khẩu hiệu và hình thức và chỉ

được tiến hành tại các thành phố lớn, nhiều địa bàn chưa được quan tâm.

+ Công dân đã có trách nhiệm tham gia phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp

luật khác trong lĩnh vực CNTT&MVT bằng cách bảo vệ mật khẩu, khóa mật khẩu, cơ

sở dữ liệu, thông tin cá nhân, thông tin tài khoản và hệ thống thiết bị CNTT&MVT của

mình; phát hiện, kịp thời tố giác tội phạm và vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực

CNTT&MVT với cơ quan Công an hoặc chính quyền cơ sở gần nhất; phối hợp chặt

chẽ với Cơ quan chuyên trách trong quá trình xác minh làm rõ tội phạm và vi phạm

pháp luật khác trong lĩnh vực CNTT&MVT, cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết

có liên quan cho Cơ quan chuyên trách khi được yêu cầu theo quy định của pháp luật.

Nhưng do nhận thức về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn hạn chế, sự hiểu biết

về CNTT&MVT chưa đồng đều nên việc chủ động cung cấp thông tin, kịp thời phát hiện

các hành vi, thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn hạn chế.

- Biện pháp pháp luật

Các quy định của pháp luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từng bước

đang được xây dựng và hoàn thiện, đặc biệt là các quy định về tội phạm trong lĩnh vực

85

này được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh khi so sánh quy

định của Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 với Bộ luật hình sự năm 2015.

Bên cạnh các quy định của Bộ luật hình sự, các văn bản pháp luật trong quản lý

lĩnh vực CNTT&MVT được ban hành nhiều hơn, nội dung phản ánh các vấn đề của

thực tế như Luật an toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2017, Đề

án về tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm

trên mạng Internet năm 2017 của Bộ thông tin truyền thông; Chỉ thị 82/CT-BTTTT về

việc ngăn chặn tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo và tăng cường quản lý thông tin trên

mạng năm 2014 của Bộ thông tin truyền thông…

Các văn bản pháp luật này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực hiện hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và xử lý tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuy nhiên nhiều văn bản pháp luật chưa có quy định

hướng dẫn thực hiện dẫn đến lúng túng, khó khăn cho các cơ quan chức năng trong

phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như cần có cách hiểu thống nhất

về “tội phạm sử dụng công nghệ cao” và “tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT”

được quy định trong BLHS năm 2015.

Tham mưu, hướng dẫn phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT của các cơ quan bảo vệ pháp luật

Là lực lượng chuyên trách trong đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao đã làm tốt công tác

tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, lãnh đạo

Bộ công an về xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về kinh

tế, về hoạt động liên quan đến lĩnh vực CNTT&MVT; khắc phục những sơ hở hạn chế

trong quản lý nhà nước về lĩnh vực CNTT&MVT; về đấu tranh phòng chống tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT như sau:

+ Tham mưu cho Tổng cục cảnh sát phòng chống tội phạm, Bộ công an xây

dựng dự án 3 “Phòng chống các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao” trình Thủ tướng

Chính phủ. Ngày 06/09/2012 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình mục

tiêu quốc gia, trong đó có Dự án 3 với tổng mức đầu tư là 124 tỷ đồng và đã được triển

khai thực hiện trong giai đoạn 2012-2015.

+ Tham mưu cho lãnh đạo Tổng cục tổ chức Hội nghị “Sơ kết 03 năm công tác

đấu tranh phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã

hội tại 1 số địa bàn trọng điểm”, năm 2015.

+ Tham mưu cho lãnh đạo Tổng cục, Bộ công an xây dựng và triển khai thực

hiện một số Đề án nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao như Đề án “Thiết lập hệ thống đảm bảo an ninh thông tin mạng”, Đề án

86

“Đảm bảo nhân lực đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm đến năm 2020

của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao C50 và hệ lực lượng

Công an địa phương...”

+ Phối hợp với V19 nghiên cứu, đề xuất bổ sung thẩm quyền xử lý vi phạm

hành chính cho lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao vào

dự án Luật xử lý vi phạm hành chính. Hiện nay Luật xử lý vi phạm hành chính đã

được Quốc hội khóa XVIII thông qua tháng 6/2012, có hiệu lực tháng 7/2013 trong đó

đã quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của lực lượng Cảnh sát phòng

chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Khoản 6, Điều 39).

+ Tham mưu cho lãnh đạo Bộ công an xây dựng, sửa đổi, bổ sung một số văn

bản quy phạm pháp luật quan trọng tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điều tra, xử lý

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT ở Việt Nam như (1) Nghị định “Quy định về công

tác phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực sử dụng công

nghệ cao” được Chính phủ thông qua vào tháng 4/2014; (2) Thông tư liên tịch số

10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTT-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thực hiện

5 điều về tội phạm sử dụng công nghệ cao của Bộ luật hình sự 2009 (các Điều

224,225,226,226a,226b) đã được các Bộ, ngành ký ban hành ngày 10/9/2012; (3) Đề

xuất xây dựng Luật tổ chức điều tra hình sự theo hướng giao C50 là cơ quan khác trong

Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (4) Giao

C50 là đầu mối: yêu cầu chặn truy cập Internet đối với các Website có nội dung xấu

xâm phạm trật tự an toàn xã hội và phối hợp với Bộ thông tin và truyền thông thực hiện

công tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực trò chơi trực tuyến (game online) từ khâu

cấp phép hoạt động, phát hành và công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.

+ Phối hợp với các Bộ, ngành chức năng xây dựng các văn bản quy phạm pháp

luật, quy chế phối hợp... phục vụ công tác phối hợp đấu tranh và phòng ngừa tình hình

các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT như báo cáo Bộ công an kiến nghị Ngân hàng

nhà nước có biện pháp tăng cường an ninh bảo mật, chống sao chép dữ liệu tại các

điểm rút tiền tự động ATM; Phối hợp với Ngân hàng nhà nước nghiên cứu, xây dựng

các quy định về đảm bảo an toàn, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các vi phạm trong

hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt,...

+ Tiếp tục tham mưu lãnh đạo Bộ triển khai thành lập các Đội cảnh sát phòng

chống tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Phòng Cảnh sát kinh tế, Công an 12 tỉnh,

thành phố trọng điểm.

+ Tham gia ý kiến vào dự thảo nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Bộ luật

hình sự năm 2015, Luật an toàn thông tin mạng năm 2015...

87

+ Đối với Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan tư pháp đã tiến hành các biện

pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thông qua công tác

điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án về các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

Các biện pháp tham mưu, hướng dẫn của các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có

tác động trực tiếp trong việc phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT làm

giảm bớt sự gia tăng của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nhưng do

nhận thức về phòng ngừa còn chưa đồng đều giữa các chủ thể nên đã ảnh hưởng đến

hiệu quả của hoạt động phòng ngừa, hiện nay chưa có văn bản tổng kết và hướng dẫn

hoạt động xét xử đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của Tòa án nhân dân

tối cao đã dẫn đến những khó khăn trong việc xét xử các tội phạm này.

3.2.1.2. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ

Phòng ngừa nghiệp vụ là việc các đơn vị sử dụng các hoạt động nghiệp vụ trong

phạm vi quyền hạn của mình, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi sử

dụng các thiết bị CNTT&MVT để phạm tội nhằm hạn chế hậu quả do tội phạm có thể

gây ra cho xã hội.

Trong phòng ngừa nghiệp vụ, các đơn vị Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao

đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của mình chủ động nắm bắt các ý đồ, sự chuẩn bị

thực hiện tội phạm và tổ chức ngăn chặn trước khi hoạt động phạm tội xảy ra. Trong

phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình khi thực hiện các biện pháp phòng

ngừa nghiệp vụ các đơn vị cần tiến hành công tác điều tra cơ bản, sưu tra, xây dựng

cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm.

Để phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tổ chức cho cán bộ chiến sỹ trong ngành

và các chủ thể khác ngoài ngành nghiên cứu học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ thông qua các văn bản pháp luật, nghiệp vụ của ngành Công an

áp dụng trong thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT như: Quyết định số 151/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy

định về các biện pháp nghiệp vụ trong phòng chống tội phạm và giữ gìn trật tự an toàn

xã hội của lực lượng Cảnh sát nhân dân; Các thông tư số 18, 19, 20, 21, 22 ngày

1/4/2013 của Bộ trưởng Bộ công an quy định về công tác nghiệp vụ cơ bản của lực

lượng Cảnh sát nhân dân; Thông tư số 32 ngày 12/6/2013 của Bộ trưởng Bộ công an

quy định về công tác hồ sơ nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát nhân dân. Ngoài ra lực

lượng Cảnh sát nhân dân còn tổ chức trao đổi, tọa đàm các kinh nghiệm hay giữa các lực

lượng thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT để từng

chủ thể có thể hiểu và vận dụng vào thực tiễn đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này.

88

Thực tiễn trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã tiến hành các

biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thông

qua các hoạt động sau đây

- Công tác điều tra cơ bản

Trên cơ sở Quyết định số 360/2003/QĐ-BCA (C11) ngày 6/6/2003 cũng như

Thông tư số 18/2013/TT-BCA-C41 ngày 1/4/2013 về công tác điều tra cơ bản của lực

lượng Cảnh sát nhân dân, các lực lượng chuyên trách đã tiến hành thu thập rộng rãi có

hệ thống các thông tin, tài liệu về tình hình có liên quan ở một địa bàn, lĩnh vực, hệ

loại đối tượng... phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên tất cả

các tuyến, địa bàn, lĩnh vực. Đối với công tác điều tra cơ bản phục vụ công tác phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, lực lượng Cảnh sát nhân dân tập trung

vào việc thu thập rộng rãi các thông tin, tài liệu về bộ phận, khâu, địa bàn trọng điểm,

phức tạp về CNTT&MVT như trong :

+ Lĩnh vực an ninh, an toàn mạng: Đã rà soát, lập danh sách, điều tra cơ bản đối

với hàng trăm Website có liên quan nhiều đến công tác an ninh, an toàn mạng như:

diễn đàn, Website của các nhóm tội phạm mạng, tin tặc,... Kết quả kịp thời phát hiện,

ngăn chặn một số Website cung cấp những thông tin sai lệch với chủ trương, đường lối

của Đảng và nhà nước. Trong năm 2019, Cục A05 đã kịp thời phản bác có hiệu quả

thông tin xấu, độc, tin giả, tin sai sự thật; triển khai công tác bảo vệ an ninh hệ thống

mạng thông tin quốc gia tại 30 bộ, ngành, địa phương; phát hiện, xử lý 40 vụ lộ bí mật

Nhà nước qua mạng Internet; phục hồi dữ liệu, chứng cứ điện tử của hơn 1.000 thiết

bị, phục vụ đắc lực cho công tác điều tra, khám phá các vụ án của Công an các đơn vi,

địa phương [8].

+ Lĩnh vực cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trực tuyến (game online) và các

hoạt động có thưởng trên mạng Internet và các thiết bị viễn thông: đã xác định được 25

công ty phát hành trò chơi trực tuyến với 95 trò chơi được cấp phép, hiện đang tồn tại

khoảng 100 trò chơi không được cấp phép hoạt động của các cơ quan chức năng.

+ Lĩnh vực cung cấp dịch vụ nội dung trên mạng Internet và các thiết bị viễn

thông: đã rà soát, xác định, điều tra cơ bản được khoảng 150 công ty cung cấp dịch vụ

nội dung trên điện thoại di động với khoảng 500 đầu số (nhắn tin, thoại) đã đăng ký

với các nhà mạng viễn thông; đã lập danh sách, thu thập tài liệu về hơn 200 doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ tin nhắn và các nội dung khác...[9]

Nhìn chung lực lượng Cảnh sát nhân dân đã làm tốt công tác điều tra cơ bản

trên tất cả các địa bàn, khâu, bộ phận, lĩnh vực trọng điểm. Thông tin, tài liệu thu được

đã giúp các lực lượng nắm được tổng quan tình hình hoạt động của tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT ở Việt Nam cũng như các đặc điểm về địa bàn, khâu, bộ phận hoạt

89

động của chúng. Tài liệu thu được từ công tác điều tra cơ bản đã có giá trị thiết thực

cho công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi và lập án đấu tranh phòng ngừa và phòng

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tuy nhiên hoạt động điều tra cơ bản mới

chỉ được diễn ra ở lĩnh vực và địa bàn trọng điểm, chưa được tiến hành trên phạm vi

rộng có nguy cơ xảy ra tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

- Công tác sưu tra

Năm 2015 C50 lập mới 16 hồ sơ sưu tra, kết thúc 04 hồ sơ hiện đang quản lý 12

hồ sơ. Công an các địa phương lập mới 100 hồ sơ sưu tra, kết thúc 65 hồ sơ hiện đang

quản lý 86 hồ sơ [9] .

Kết quả công tác sưu tra đối tượng sử dụng CNTT&VT để thực hiện hành vi

phạm tội còn quá ít, chưa đem lại được hiệu quả thiết thực cho công tác phòng ngừa,

đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT ở Việt Nam. Nhiều địa phương

còn lúng túng trong công tác sưu tra, nhất là đối với người nước ngoài, Việt kiều đang

hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội;

công tác quản lý đối tượng sưu tra thuộc danh mục này còn lỏng lẻo, hình thức, không

nắm được di biến động và các biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội của đối tượng.

- Công tác xác minh hiềm nghi

Công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng Cảnh sát nhân dân được thực hiện

nghiêm túc, đúng đối tượng, được lãnh đạo Cục cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao

phê duyệt. Việc lập thẻ, tổ chức lấy lý lịch cá nhân của đối tượng hiềm nghi về kinh tế

cũng như công tác xác minh hiềm nghi đã đảm bảo tính kế hoạch. Kết thúc xác minh

hiềm nghi được thực hiện theo quy định tại Quyết định 361/QĐ-BCA (C11) và Thông

tư số 20/2013/TT-BCA-C41 quy định về công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng

Cảnh sát nhân dân.

Trong thời gian từ năm 2015 đến 2019, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã xác lập

được 13 hiềm nghi về người và 38 hiềm nghi về vụ việc hiện tượng có liên quan đến

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT. Công an các địa phương tiến hành xác minh 81

hiềm nghi về người và vụ việc [9].

Kết quả này còn khá khiêm tốn, tuy nhiên về cơ bản các đơn vị Cảnh sát nhân

dân đã tiến hành xác lập hồ sơ hiềm nghi đúng căn cứ, đáp ứng các yêu cầu bí mật, áp

dụng các biện pháp nghiệp vụ tiến hành xác minh nhanh, kết luận kịp thời, chính xác

có tác dụng thiết thực trong việc phát hiện, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

- Công tác đấu tranh chuyên án

Thực hiện Quyết định số 362/2003/QĐ-BCA (C11) ngày 06/06/2003 của Bộ

trưởng Bộ Công an và Thông tư số 21/2013/TT-BCA-C41 về công tác đấu tranh

90

chuyên án của lực lượng CSND, trong những năm qua công tác đấu tranh chuyên án

của lực lượng CSND đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hiệu quả

trong tổ chức thực hiện; cán bộ, chiến sỹ đã nhận thức rõ vị trí, nhiệm vụ, nguyên tắc

căn cứ xác lập chuyên án từ đó vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn tổ chức đấu tranh

chuyên án. Đã tập trung xác lập đấu tranh, khám phá thành công nhiều chuyên án lớn

đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT, đặc biệt trong giai đoạn từ 2010-

2015. Cụ thể xem [9] và phụ lục.

Về cơ bản công tác đấu tranh chuyên án đã đảm bảo các yêu cầu về chính trị, pháp

luật và nghiệp vụ. Đã huy động được nhiều lực lượng, phương tiện tham gia với sự chỉ

đạo tập trung thống nhất của Ban chuyên án; Chuyên án được thực hiện đúng căn cứ, có

kế hoạch, việc tổ chức thực hiện tương đối đồng bộ, kết thúc chuyên án đảm bảo các yêu

cầu nghiệp vụ đề ra. Kết thúc chuyên án đều làm rõ được tính chất vi phạm, đối tượng vi

phạm và kiến nghị xử lý theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, số lượng chuyên án

được xác lập còn quá ít do đó hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&VT chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

- Công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, theo lĩnh

vực trọng điểm

Mạng lưới cộng tác viên bí mật về cơ bản được xây dựng và sử dụng trên

nhiều địa bàn, tuyến, lĩnh vực trong đó có địa bàn, lĩnh vực liên quan đến tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Trong những năm qua mạng lưới cộng tác viên bí mật đã cung cấp hàng trăm

tin báo mỗi năm, trong đó đa phần tin có giá trị được sử dụng trong các công tác

nghiệp vụ. Các cơ sở bí mật đã cung cấp nhiều thông tin, tài liệu có giá trị phục vụ

công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Qua

những nguồn tin này, lực lượng Cảnh sát nhân dân đã phát hiện, điều tra khám phá

nhiều vụ án lớn liên quan đến loại tội phạm này.

Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy mạng lưới cộng tác viên bí mật phục vụ công

tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn mỏng, chất

lượng chưa cao. Nhiều địa phương còn chưa có cộng tác viên bí mật phục vụ công tác

đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này (đặc biệt là ở địa bàn miền núi, biên giới) dẫn

đến hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện nguồn tin, vụ việc để tổ chức đấu tranh

không cao.

- Sử dụng các biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa tội phạm

Trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao bên cạnh việc phối hợp với các lực lượng kỹ thuật ngoại tuyến, Kỹ thuật

nghiệp vụ I, Kỹ thuật nghiệp vụ II đã chủ động nghiên cứu sử dụng các công cụ kỹ

91

thuật để ngăn chặn truy cập trái phép, xây dựng hệ thống bảo mật thông tin một cách

tổng thể gồm: hệ thống bảo vệ vòng ngoài như tường lửa (fire wall), phần mềm bảo vệ

dữ liệu (như sử dụng mã hóa, mạng riêng ảo VPN – Virtual Private Network), thẻ

thông minh, mật khẩu dùng một lần, hệ thống quản lý mật khẩu đặc quyền) và hệ

thống phát hiện, tấn công chống virut, mã độc (như hệ thống ngăn chặn DDOS, hệ

thống phát hiện xâm nhập, bộ lọc thư rác, lọc nội dung trang web...).

Đặc biệt, bước đầu đã áp dụng thành công bẫy nghiệp vụ honeypot – honeynet.

Đây là biện pháp phòng ngừa kỹ thuật, là một trong những công cụ có thể sử dụng để

phát hiện và thu giữ những thông tin ban đầu về tội phạm sử dụng CNTT&VT. Các

bẫy thông tin được sử dụng để phát hiện các tội phạm trong lĩnh vực này là các

honeypots (mắt ong) hoặc honeynets (tổ ong). Với các hệ thống thông tin được ngụy

trang này, khi các đối tượng phạm tội tấn công vào hệ thống, nó sẽ tương tác trực tiếp

với tin tặc và tìm cách khai thác thông tin về tin tặc. Hệ thống honeypot giúp các lực

lượng ghi nhận được thông tin các phiên giao dịch, các mã độc và các công cụ được

đối tượng sử dụng khi thâm nhập và tấn công vào hệ thống. Các dữ liệu này không chỉ

là nguồn thông tin ban đầu giúp phát hiện ra tội phạm mà còn giúp các chủ thể phòng

ngừa có cơ sở xác định đối tượng, làm rõ thủ đoạn, mục đích của các đối tượng thâm

nhập hoặc tấn công các hệ thống thông tin. Tuy nhiên những thông tin thu thập được

từ hệ thống honeypot thường cho phép xác định ngay danh tính đối tượng, cần tiếp tục

tiến hành các hoạt động kỹ thuật và nghiệp vụ để xác định được đối tượng cụ thể.

Bên cạnh đó, lực lượng cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao còn nghiên cứu,

ứng dụng các giải pháp, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ chuyên dụng để phòng chống

tội phạm sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông như tiến hành phân tích, phục hồi

dữ liệu đối với hơn 900 thiết bị gồm 107 ổ cứng máy tính, 26 laptop, 03 máy chủ, 05

camera, 374 điện thoại di động, 372 sim điện thoại, 16 USB và nhiều loại thiết bị điện

tử khác phục vụ điều tra hơn 65 vụ án [11].

Chủ động nghiên cứu, áp dụng những biện pháp kỹ thuật phục vụ có hiệu quả

công tác nghiệp vụ của đơn vị. Điển hình như đã chủ động nghiên cứu, tìm ra cách

thức giải mã các gói tin giao thức RTP và SIP của dịch vụ cuộc gọi thoại trên nền

Internet (VOIP), từ đó củng cố tài liệu, chứng cứ phá thành công một số chuyên án lớn

như chuyên án T123 “Đấu tranh với ổ nhóm đối tượng người Đài Loan, Trung Quốc

sử dụng mạng Internet để lừa đảo công dân Trung Quốc” năm 2013 [11].

Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam trong thời gian qua

đã phát cảnh báo tới người dùng và các đơn vị liên quan về theo dõi ngăn chặn xử

lý khẩn cấp mã độc trong hệ thống mạng với nội dung đã phát hiện những mẫu mã

độc nguy hiểm có thể tấn công vào hệ thống máy tính của người dùng từ đó có

92

những biện pháp ngăn chặn. Năm 2019, tình hình an toàn thông tin trong nước có

nhiều diễn biến rất phức tạp, các loại sự cố xảy ra với mạng máy tính trong nước đã

tăng gấp nhiều so với các năm trước Các hình thức tấn công mạng đối với doanh

nghiệp, người dùng cũng như các cơ quan và tổ chức trên toàn quốc như lừa đảo

thẻ cào, lừa đảo để chiếm đoạt tài khoản trên mạng xã hội, thông tin cá nhân, mã

hóa dữ liệu người dùng… ngày càng gia tăng. Trước tình hình đó, năm qua Trung

tâm luôn đề cao và triển khai tốt công tác điều phối và cảnh báo sự cố tới các cơ

quan, tổ chức trong cả nước. Trực tiếp hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

thực hiện các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn, ứng cứu, khôi phục nhằm đối phó

với các loại tấn công phá hoại trên môi trường mạng.

Bên cạnh đó, Trung tâm còn tổ chức nhiều đợt diễn tập trong nước và quốc tế

về ứng cứu, phòng chống tấn công mạng để rèn luyện kỹ năng phản ứng, đối phó, cảnh

giác với các kiểu tấn công mạng có thể xảy ra như cuộc diễn tập ứng cứu sự cố an toàn

thông tin khu vực miền Trung-Tây nguyên năm 2019; Diễn tập quốc gia về ứng cứu sự

cố an toàn thông tin mạng năm 2019 của cả 3 miền Bắc, Trung và Nam. VNCERT

cũng tham gia hỗ trợ công tác chống tội phạm, chống khủng bố mạng trong phạm vi

quốc gia và trong khuôn khổ hợp tác quốc tế; phối hợp với các cơ quan liên quan điều

tra, phát hiện các vụ tấn công mạng; quản lý và vận hành các hệ thống kỹ thuật hỗ trợ

công tác điều phối, ứng cứu sự cố. Trong năm 2019, hệ thống theo dõi và cảnh báo của

trung tâm đã phát hiện 7015 sự cố tấn công mạng gồm 3289 vụ Phishing (tấn công sử

dụng website, email lừa đảo), 2425 vụ Deface (tấn công thay đổi giao diện) và 125

Malware (phát tán mã độc); trong số đó có 7 trường hợp trang thông tin điện tử

(website) có tên miền ".gov" bị ảnh hưởng. Từ năm 2015-2019 Trung tâm đã xử lý

16.837 sự cố Malware, đã cảnh báo và khắc phục được 3885 sự cố (trong đó có 87 sự

cố liên quan đến các tên miền “gov.vn”) [113]. Nhìn chung mã độc đa số là các liên

kết ẩn được nhúng vào website thực hiện các thao tác không mong muốn. Ví dụ: Like

fanpage facebook, ẩn link. Ghi nhận 1.451.997 lượt địa chỉ IP cả nước bị nhiễm mã

độc và nằm trong các mạng Botnet (tăng 1,6 lần so với năm ngoái) trong đó gửi cảnh

báo cho 3779 lượt địa chỉ IP của các cơ quan nhà nước; điều phối, yêu cầu ngăn chặn

7.540 địa chỉ máy chủ C&C server điều khiển mạng Botnet và bóc gỡ mã độc tại

1.200.000 địa chỉ IP tại các máy bị nhiễm thuộc quản lý của các doanh nghiệp ISP.

Phối hợp với Cert quốc tế xử lý và ngăn chặn 200 website giả mạo (giả mạo giấy phép

do Bộ TTTT cấp, giả mạo webmail của VNN, VDC,... [113].

Trung tâm đã điều phối xử lý các website bị tin tặc Trung Quốc tấn công Trung

tâm VNCERT theo dõi và ghi nhận trên các diễn đàn có 1597 trường hợp của nhiều

nhóm Hacker Trung Quốc tấn công thay đổi giao diện các trang web đặt tại Việt Nam.

93

Qua công tác kiểm tra kỹ thuật có 424 trường hợp trang web có địa chỉ IP đặt tại Việt

Nam bị tấn công (bao gồm 09 trang của cơ quan nhà nước). Trước tình hình đó, Trung

tâm VNCERT đã nhanh chóng gửi yêu cầu thu thập thông tin phục vụ công tác phân

tích và điều phối đến các đơn vị liên quan và các doanh nghiệp ISP chủ quản để khắc

phục sự cố. Qua quá trình phân tích sự cố, TT VNCERT nhận định đa phần các

website bị tấn công chạy hệ điều hành Windows Server và sử dụng ứng dụng web

Microsoft - IIS/6.0 trở về trước. Hai lỗ hổng tin tặc lợi dụng để khai thác chủ yếu là lỗ

hổng trong Pluging hỗ trợ soạn thảo trên Web (FCKeditor) và lỗ hổng trong module

mở rộng cho giao thức HTTP (WebDAV) của IIS. Lỗ hổng của FCKEditor từ năm

2006 đến năm 2010 liên tục được cảnh bảo từ nhiều công ty bảo mật về lỗi upload tệp

tin đưa lên có thể được khai thác, Plugin đã dừng hỗ trợ và phát triển từ năm 2010

nhưng ở thời điểm hiện tại có nhiều ứng dụng web của các đơn vị vẫn tiếp tục sử dụng.

Để phòng chống và khắc phục triệt để lỗ hổng này quản trị cần loại bỏ và thay thế

bằng bộ soạn thảo mới CKEditor. WebDAV là một tập hợp các mở rộng cho giao thức

HTTP dùng để cung cấp một cách thức chuẩn cho việc biên tập và quản lý tập tin giữa

các máy tính trên Internet. Lỗ hổng trên WebDAV cho phép kẻ tấn công vượt qua các

cơ chế xác thực để thực hiện các thao tác như một người quản trị thông qua các

phương thức PUT, DELETE. Lỗ hổng này cũng đã được Microsoft xác nhận và cung

cấp các bản vá từ năm 2009 (MS09-020). Trung tâm VNCERT nhận định đợt tấn công

thay đổi giao diện vào các trang web đặt ở Việt Nam thực sự nghiêm trọng - có mục

đích gây ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh cơ quan, doanh nghiệp và gây mất mát dữ

liệu. Trước những diễn biến phức tạp khó lường về an toàn – an ninh thông tin trong

thời gian tới các cơ quan đơn vị cần cấu hình hệ thống an toàn, cập nhật bản vá lỗ

hổng cho các ứng dụng dịch vụ chạy trên hệ thống, giám sát hệ thống thông tin chặt

chẽ để phát hiện kịp thời các cuộc tấn công mới [95]. Hiện nay Trung tâm đang đưa ra

cảnh báo khẩn cấp về lỗ hổng bảo mật vô cùng nghiêm trọng trên ứng dụng Jenkins.

Lỗ hổng này có thể ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp Việt Nam, cho phép hacker

xâm nhập dữ liệu quan trọng của người dùng từ đó chiếm quyền điều khiển hệ thống.

Theo đánh giá lỗ hổng này đạt mức độ nghiêm trọng lên đến 9,4/10 theo thang điểm

CVSS 3.1 (là hệ thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ bảo mật).

- Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC) thuộc Cục An

toàn thông tin, Bộ thông tin và truyền thông vừa có cảnh báo về nguy cơ tấn công

mạng vào hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức, của các bọ , ngành, địa phu o ng;

các tập đoàn, tổng co ng ty nhà nu ớc và các ngân hàng, tổ chức tài chính sử dụng thiết

t bị F5 có bị F5 BIG-IP. Trung tâm đã phát hiẹ n nhiều hẹ thống thông tin sử dụng thie

t bị F5 BIG-IP Traffic Management khả năng bị tấn công thông qua lỗ hổng trong thie

94

User Interface (TMUI) (CVE-2020-5902). Đây là lỗ hổng bảo mật đặc biệt nghiêm

t trọng, đu o c phát hiẹ n trong giao diẹ n ngu ời dùng quản lý lu u lu o ng truy cạ p của thie

bị 5F BIG-IP. Khai thác thành co ng lỗ hổng này, đối tu o ng tấn công có the thu thạ p

thông tin, có khả năng tạo hoạ c xóa tẹ p, vô hiẹ u hóa các dịch vụ, chạy các lệnh hẹ

thống với mã Java tùy ý, chie m quye n kie m soát hẹ thống mục tie u. Theo thống ke ,

tính đe n tháng 6/2020, có ho n 8.000 thie t bị tre n Internet đang có nguy co bị ta n co ng

bởi lỗ hổng bảo mật này, trong tổng số 621.257 host/địa chỉ IP public đang sử dụng F5

BIG-IP.

n bảo đảm an Đe đảm bảo an toàn thông tin cho các hẹ tho ng thông tin, góp pha

toàn cho kho ng gian mạng Viẹ t Nam, Trung ta m NCSC đe nghị các co quan, đo n vị,

i lỗ doanh nghiệp kie m tra, rà soát hẹ tho ng tho ng tin có khả năng bị ảnh hu ởng bo

ho ng “CVE-2020-5902” và có phu o ng án xu lý, kha c phục. Các co quan, đo n vị cũng

m tra, đu o c đe nghị rà soát lại toàn bọ hẹ tho ng tho ng tin của mình, thu ờng xuye n kie

đánh giá đe chủ động phát hiẹ n và xử lý kịp thời những lỗ hổng bảo mật. Ta ng cường

giám sát hẹ tho ng, thu o ng xuye n theo dõi ke nh cảnh báo của các co quan chu c na ng và

tổ chức lớn ve an toàn đe phát hiẹ n kịp thời nguy co tấn công mạng.

Phục vụ mục tiêu thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số quốc gia hiện nay Trung

tâm đang triển khai chiến dịch rà soát và bóc gỡ mã độc trên phạm vi toàn quốc. Đây

là chiến dịch vì cộng đồng hướng tới đối tượng là cá nhân, doanh nghiệp cung cấp các

công cụ kiểm tra và bóc gỡ mã độc bị nhiễm trên máy tính để đảm bảo cho người dùng

một không gian mạng an toàn.

- Tập đoàn công nghệ BKAV đã nghiên cứu, tư vấn, thiết kế, triển khai phần

mềm và giải pháp trong lĩnh vực an ninh mạng, phòng chống virus máy tính. Hỗ trợ

chuyên môn cho các cơ quan chức năng trong công tác phòng chống, đảm bảo an toàn

thông tin mạng. Tham gia các hoạt động phòng chống tấn công phá hoại bằng CNTT.

Với các sản phẩm phần mềm diệt virut nổi tiếng BKAV giúp người dùng tránh được

sự tấn công của virut máy tính, đảm bảo an ninh an toàn thông tin cá nhân.

Các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật được các chủ thể tiến hành đã có tác động

trực tiếp, nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Tuy nhiên các biện pháp kỹ thuật này đòi hỏi cần có sự đầu tư về cơ sở

vật chất, trang thiết bị, tiền của nên người sử dụng các thiết bị CNTT&VT còn e ngại,

chưa chủ động áp dụng thậm chí có thể tìm các biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa

thiếu an toàn như sử dụng các phần mềm diệt virut không rõ nguồn gốc, không cập

nhật các bản vá lỗ hổng bảo mật…

95

3.2.2 Thực trạng quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

3.2.2.1 Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là mối liên hệ chức năng được thiết lập giữa các đơn vị với các cơ quan,

tổ chức, các lực lượng xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phòng ngừa,

phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Sự liên kết chức năng này có thể biểu hiện bới sự tương đồng về mục tiêu hoạt

động, yêu cầu của pháp luật hay sự liên quan của đối tượng đấu tranh với đối tượng

đấu tranh, đối tượng quản lý, theo dõi của các cơ quan, tổ chức khác. Các cơ quan, tổ

chức tham gia vào công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trong mối

quan hệ đó, các chủ thể phải nghiên cứu, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của mình và xác định vai trò trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT; chủ động xác định nội dung và hình thức phối hợp cho phù hợp và đạt

được hiệu quả cao nhất.

Với đặc trưng của lĩnh vực CNTT&MVT có liên quan tới nhiều ngành, lĩnh vực

khác với phạm vi hoạt động rộng lớn, do đó để phòng ngừa có hiệu quả đối với loại tội

phạm này đòi hỏi các chủ thể như Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao

(Bộ Công an), Bộ thông tin và truyền thông, Bộ tài chính, Bộ công thương, Ngân hàng

Nhà nước, Sở thông tin truyền thông các địa phương, Hiệp hội công nghệ thông tin Việt

Nam, Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam, Trung tâm phần mềm và giải pháp an ninh

mạng thuộc Đại học Bách khoa, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng quốc gia

VNCERT, Tập đoàn BKAV, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia...

phải thường xuyên và chủ động trong quan hệ phối hợp phòng ngừa tội phạm.

Trong thời gian qua giữa các chủ thể đã chú trọng đến công tác phối hợp trong

đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, bước đầu đã thu

được những kết quả đáng khích lệ, cụ thể:

- Phối hợp xây dựng các văn bản pháp luật

Cục C50(A05) đã phối hợp với Thanh tra Bộ thông tin và truyền thông xây

dựng Quy chế phối hợp trong phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; tiến

hành thanh tra, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cung cấp

trò chơi điện tử trực tuyến, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nội dung số về chống thư

rác theo Nghị định 83/2011/NĐ-CP; phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ hàng trăm Website tổ

chức cá độ bóng đá qua mạng,...[9].

96

Bộ Công an phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội Ngân hàng, Hiệp hội

thẻ xây dựng Thông tư liên ngành Bộ Công an – Ngân hàng nhà nước về phối hợp

phòng, chống tội phạm trong hoạt động thanh toán thẻ; Kiến nghị Ngân hàng nhà nước

chỉ đạo các Ngân hàng thương mại kiểm tra, rà soát, phối hợp, phòng ngừa, phát hiện,

ngăn chặn tội phạm lắp đặt thiết bị lấy trộm dữ liệu, thông tin thẻ để làm giả thẻ, thanh

toán khống qua điểm chấp nhận thẻ (POS); thiết lập kênh trao đổi thông tin về phương

thức, thủ đoạn mới của tội phạm thẻ giữa lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử

dụng công nghệ cao và các Ngân hàng, Hội thẻ, Tổ chức thẻ quốc tế VISA, MASTER,

WESTION UNION để có biện pháp ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, rủi ro [9].

Bộ Công an phối hợp với một số cơ quan, ban ngành quản lý nhà nước trong

lĩnh vực CNTT&MVT ban hành một số văn bản liên tịch, liên ngành như sau

+ Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BTTT-BCA ngày 28/11/2008 giữa Bộ

Công an và Bộ thông tin truyền thông về bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng và an ninh

thông tin trong hoạt động bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin;

+ Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-

TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và

truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp

dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

+ Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 7 tháng 4 năm 2014 về phòng chống tội

phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Nghị định này

đã xác định trách nhiệm của các cơ quan, lực lượng phải tham gia đấu tranh chống tội

phạm có sử dụng công nghệ cao nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói

riêng. Đây là cơ sở quan trọng để lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao tổ

chức quan hệ phối hợp với các lực lượng khác trong phòng ngừa đấu tranh chống loại

tội phạm này.

+ Bộ Công an chủ trì tổ chức thành công hội nghị “Tổng kết 05 năm công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội”.

Qua Hội nghị đã đánh giá toàn diện những kết quả đã đạt được, làm rõ những khó khăn,

vướng mắc và đề ra nhiều giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong thời gian tới. Năm 2015, phối hợp với

công an các đơn vị tổ chức các Hội thảo về công tác PCTP sử dụng công nghệ cao

như: (1) Phối hợp với V21 tổ chức Hội thảo “Phòng chống tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và viễn thông – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; (2) Phối hợp

với Học viện cảnh sát nhân dân tổ chức Hội thảo khoa học “Bài học kinh nghiệm rút

ra qua đấu tranh một số chuyên án”;(3) Phối hợp với các đơn vị thuộc Ngân hàng nhà

97

nước và các Ngân hàng thương mại tổ chức Hội thảo “Tham gia ý kiến vào dự thảo Bộ

luật hình sự sửa đổi...”.

- Bộ công an tham mưu cho Chính phủ trong việc xây dựng, sửa đổi, ban hành

nhiều văn bản quy phạm pháp luật, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Nổi bật là: (1) Tham gia dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự

(đã xây dựng, sửa đổi 10 điều thuộc mục B chương XXI về tội phạm sử dụng công nghệ

thông tin, mạng viễn thông); (2) Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (đã xây dựng, bổ sung

các điều về chứng cứ điện tử và quy trình thu thập, bảo quản, phục hồi, phân tích chứng

cứ điện tử); Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự (đã đề xuất quy định C50 là Cơ

quan điều tra trong Công an nhân dân); (4) Chủ trì xây dựng dự thảo 03 thông tư nhằm

hướng dẫn thi hành Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 07/04/2014 quy định về công tác

phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao

- Bộ thông tin truyền thông đã ký ban hành Quyết định 1278/QĐ-BTTT phê duyệt

Đề án tăng cường hiệu quả công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm

trên mạng Internet ngày 3/8/2017. Nội dung Đề án đã chỉ rõ để nâng cao hiệu quả hoạt

động phòng ngừa giữa các cơ quan có liên quan cần phải có sự phối hợp như Bộ thông tin

truyền thông với Bộ Công an, Bộ tài chính, Bộ văn hóa thể thao và du lịch, Bộ giáo dục

và đào tạo, Ủy ban nhân dân các cấp… và Đề án cũng đã chỉ rõ trách nhiệm của các cơ

quan, đơn vị trong phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet.

Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan

trong công tác thông tin, tuyên truyền và chỉ đạo các cơ quan báo chí đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, giáo dục làm cho các cấp, các ngành, các địa phương, lực lượng vũ

trang và toàn xã hội nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tình hình, những thuận lợi, khó

khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về nguyên nhân, sự nguy hiểm, tác

hại và ảnh hưởng do vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet gây ra đối với

an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong phòng

ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet cho toàn dân, chủ động

đấu tranh chống lại các thông tin xuyên tạc, chống phá từ các thế lực thù địch, phản

động; xây dựng lòng tin của nhân dân, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội, đoàn kết một

lòng xung quanh sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành, quản lý của Nhà nước [24].

- Thanh tra Bộ thông tin truyền thông trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh

tra, kiểm tra phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trên mạng Internet, cơ quan thanh

tra chuyển ngay hồ sơ vụ việc tới cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét, xử lý

theo đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-

BQP ngày 22/3/2012 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ

Công an, Bộ quốc phòng quy định về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan thanh tra, Cơ

98

quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu

hiệu tội phạm do Cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố.

Các văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể tiến hành

các hoạt động phối hợp, thực hiện có hiệu quả phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ở Việt Nam.

- Phối hợp trao đổi cung cấp thông tin

Từ năm 2010 đến nay các chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT đã tiến hành trao đổi về công tác nắm tình hình cũng như

các thông tin có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Cụ thể:

+ Năm 2010: Cục C50 đã trao đổi 398 tin có liên quan đến tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT cho Bộ Công thương (trong đó phần lớn là trao đổi với Cục thương

mại điện tử và Công nghệ thông tin);

Trao đổi 208 tin có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT liên

quan đến hoạt động của Bộ thông tin và truyền thông.

C50 đã nhận được 469 thông tin liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT của các đơn vị cung cấp như các đơn vị thuộc Bộ Thông tin và truyền

thông, các đơn vị thuộc Bộ Công thương, Bộ Tài chính và các đơn vị khác [9].

Điều đáng chú ý, thông qua kiểm tra xác minh thông tin do các lực lượng cung

cấp cho thấy phần lớn trong số các thông tin trên đều có tác dụng phòng ngừa tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Điều này giúp nắm được tình hình, các nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó có những biện pháp phòng

ngừa phù hợp.

- Phối hợp xác minh thông tin, phối hợp lực lượng trong kiểm tra xử lý các

hành vi vi phạm về CNTT&MVT

Từ năm 2010 đến 2019 các chủ thể đã tiến hành xác minh thông tin về đối

tượng, vụ việc có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và đã thu được

những kết quả nhất định như :

+ C50 (A05) đề nghị Phòng khoa học hình sự (trực tiếp là Phòng giám định kỹ

thuật pháp lý) giám định 143 tài liệu chứng cứ được thu thập từ dữ liệu máy tính,

mạng Internet, các phương tiện điện tử có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT;

Đề nghị Văn phòng Interpol Việt Nam trước đây (nay là Cục đối ngoại) xác

minh 273 lượt thông tin liên quan đến đối tượng là người nước ngoài, các doanh

nghiệp ở nước ngoài, người bị hại, người có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT (trong đó chủ yếu là các hacker Trung Quốc);

99

+ Thanh tra Bộ thông tin và truyền thông phối hợp với Thanh tra Sở thông tin

và truyền thông tiến hành thanh tra và kiểm tra, xử lý các doanh nghiệp có hành vi vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực CNTT&MVT ở địa bàn Tp Hồ Chí Minh và Hà Nội.

Phục hồi dữ liệu trên các máy chủ, phục vụ công an Tp Hà nội điều tra vụ công ty Việt

Hồng kinh doanh trái phép phần mềm nghe lén điện thoại Ptracker...

+ Ngày 17/4/2019 Cục An toàn thông tin tổ chức hội thảo “An toàn, an ninh

mạng trong hành trình chuyển đổi số”. Tại Hội thảo đã diễn ra Lễ ký kết, ra mắt Liên

minh “Xử lý mã độc và phòng, chống tấn công mạng” giữa Cục An toàn thông tin,

Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA), Viettel, VNPT, BKAV, FPT, CMC.

Nhiều chủ đề hướng dẫn cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thiết lập hệ thống kỹ

thuật, triển khai phương án giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh mạng và phòng ngừa

mã độc, lộ lọt thông tin, dữ liệu.

+ C50 (A05) cùng Thanh tra Bộ cũng đã phối hợp với Thanh tra các Bộ, ngành

chức năng tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực sử dụng

công nghệ cao. Trong đó đã phối hợp với Thanh tra Bộ văn hóa thể thao và du lịch

tiến hành thanh tra, kiểm tra hơn 76 doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm bản quyền

phần mềm máy tính trên toàn quốc. Qua kiểm tra phát hiện hơn 3.700 máy tính vi

phạm bản quyền phần mềm, đã xử phạt vi phạm hành chính với số tiền hơn 02 tỷ

đồng, buộc các doanh nghiệp khắc phục, mua bản quyền phần mềm với tổng số tiền

hơn 05 tỷ đồng. Phối hợp kiểm tra, thu thập, chuyển hóa tài liệu phục vụ yêu cầu

điều tra đối với các vụ án về công nghệ cao “Vụ công ty Diamond Holiday Việt Nam

tổ chức du lịch lữ hành quốc tế trái phép” [9].

Hiện nay A05 đang tiếp tục tích cực phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo

chí tuyên truyền về những phương thức, thủ đoạn phạm tội mới của tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT để người dân nâng cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa tội

phạm như các tội phạm giả danh cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện hành vi lừa đảo

qua điện thoại, qua các mạng xã hội nhằm trục lợi. Đẩy mạnh thực hiện phong trào

toàn dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc, nhằm nâng cao nhận thức và động viên quần

chúng nhân dân tích cực, chủ động tham gia cung cấp các nguồn tin báo tố giác tội

phạm. Thường xuyên thông báo những lỗ hổng, sơ hở, thiếu sót của các doanh nghiệp,

tổ chức bị tội phạm lợi dụng để có biện pháp khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác nắm

tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao, kịp thời phát hiện những vấn đề nổi, những

địa bàn, lĩnh vực trọng điểm có dấu hiệu tội phạm này và những phương thức, thủ

đoạn mới để chủ động báo cáo lãnh đạo các cấp chỉ đạo.

Như vậy trong thời gian từ năm 2010 đến nay quan hệ phối hợp giữa các chủ

thể trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã thu được

100

nhiều kết quả tốt, góp phần có hiệu quả vào công tác phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó quan hệ phối hợp

vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như sau:

+ Sự phối hợp trong việc nắm tình hình chưa thường xuyên, liên tục, thiếu trọng

tâm, trọng điểm, chủ yếu được thực hiện vào thời gian có các đợt cao điểm tấn công

tội phạm hoặc trong đấu tranh với các vụ án cụ thể;

+ Sự phối hợp để nắm tình hình trong nhiều trường hợp không kịp thời, ít có

hiệu quả trong việc lập kế hoạch xây dựng phương án phát hiện đấu tranh;

+ Trong nhiều trường hợp sự phối hợp còn mang tính hình thức, ngẫu hứng mà

chưa có chiều sâu và chưa có một chương trình, kế hoạch cụ thể;

+ Điều kiện vật chất, kinh phí, phương tiện phục vụ cho quan hệ phối hợp giữa

hai lực lượng để nắm tình hình tội phạm còn rất hạn chế;

+ Công tác giao ban, sơ kết theo định kỳ đã được tổ chức, thực hiện ở một số

đơn vị, địa phương nhưng việc sơ kết, tổng kết nhìn chung chưa kịp thời, nội dung còn

nghèo nàn, hình thức. Có trường hợp, đơn vị phối hợp chưa phát huy được vai trò chủ thể

tiến hành, thiếu chủ động, phân công nhiệm vụ chưa rõ ràng, không cụ thể trong việc xác định phạm vi, mức độ phối hợp,... dẫn đến tình trạng chồng chéo, hiệu quả thấp...

3.2.2.2 Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một loại tội phạm xuyên quốc gia, phi

truyền thống, được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Vì vậy, phối

hợp và hợp tác quốc tế là một nhu cầu tự thân của công tác đấu tranh phòng, chống

loại tội phạm này. Các chủ thể phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT tất yếu phải thiết lập hoặc tham gia vào mạng lưới các chủ thể đấu tranh

PCTP trong lĩnh vực CNTT&MVT trên phạm vi toàn cầu. Thực tế đã cho thấy nhiều

hoạt động phối hợp quốc tế đã được triển khai và có những kết quả nhất định góp phần

vào phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam.

Thông qua các mối quan hệ quốc tế, trước hết chúng ta huy động được sự hỗ trợ về tiềm lực, trang thiết bị kỹ thuật và kinh nghiệm của lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các nước phát triển trước nước ta trong khu vực và trên thế giới. Bằng việc chia sẻ thông tin giữa các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT với các nước, các chủ thể có thể nắm sâu hơn tình hình hoạt động của các loại tội phạm sử dụng

công nghệ cao trên thế giới trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; đặc biệt là những công cụ, phương tiện, phương thức, thủ đoạn mới trong hoạt động của tội phạm.

Điều này giúp các lực lượng tiến hành phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

dự báo và chủ động đối phó khi các hành vi này xuất hiện tại Việt Nam.

101

Để thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT, thời gian qua các chủ thể như C50 (A05) thực hiện chủ yếu thông

qua kênh hợp tác của văn phòng Interpol Việt nam trước đây (nay là Cục đối ngoại) và

thu được những kết quả sau đây:

Kết quả phối hợp, xác minh điều tra án

Từ năm 2010 đến nay, Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm đã chỉ đạo

Cục cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao phối hợp với các cơ quan thực thi pháp luật

ở nước ngoài xác minh, trao đổi thông tin, phối hợp điều tra gần 100 vụ án, vụ việc đạt

kết quả tốt, chiếm gần 10% tổng số vụ án, vụ việc của đơn vị đã thụ lý , trong đó đáng

chú ý [12].

- Với Mỹ, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã phối

hợp trao đổi thông tin 19 vụ việc, qua đó xác lập và điều tra 18 vụ án, điển hình là 02

vụ án sau:

+ Tháng 3/2011 đơn vị đã phối hợp với Bộ an ninh nội địa Mỹ xác minh các đối

tượng sử dụng thông tin thẻ tín dụng để trộm cắp trong chuyên án eMule do phía Mỹ

điều tra. Kết quả đã bắt đối tượng Vương Huy Long và đồng bọn, thu giữ cơ sở dữ liệu

khoảng 29.000 thông tin thẻ tín dụng. Số tiền các đối tượng chiếm đoạt khoảng

150.000 đô la.

+ Ngày 18/8/2020, Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam thông tin, Mỹ và Việt Nam đã

hợp tác điều tra vụ lừa đảo liên quan đến đại dịch COVID-19 và bắt giữ 3 nghi phạm.

Cuộc điều tra này bắt nguồn từ thành phố Tampa, Florida vào tháng 3 năm nay. Sau

đó, Văn phòng Cục Điều tra An ninh nội địa Mỹ (HSI) thuộc Bộ An ninh nội địa Mỹ

tại Tp Hồ Chí Minh chuyển thông tin cho Bộ Công an Việt Nam.Từ những thông tin

do Cục Điều tra An ninh nội địa Mỹ cung cấp, Việt Nam đã tiến hành cuộc điều tra

riêng và bắt giữ 3 bị can gồm Phan Đình Thư, Trần Quốc Khánh và Nguyễn Duy

Toản, đều là công dân Việt Nam, bị cáo buộc đã tham gia vào kế hoạch lừa đảo với

7000 nạn nhân đến từ 50 bang của Mỹ, 40.000 giao dịch lừa đảo với giá trị gần

975.000 đô la Mỹ.

- Với vương quốc Anh, C50 (A05) đã phối hợp trao đổi thông tin 03 vụ việc,

trong đó xác lập và điều tra 02 vụ án điển hình là

+ Năm 2010, đơn vị đã phối hợp với cơ quan phòng, chống tội phạm nghiêm

trong có tổ chức (SOCA) điều tra, làm rõ và bắt giữ đối tượng Nguyễn Ngọc Lâm và

Nguyễn Ngọc Thành có hành vi trộm cắp và mua bán thông tin thẻ tín dụng để chiếm

đoạt tài sản, tạm giữ số tiền khoảng 230.000 đô la Mỹ;

+ Tháng 5/2013, đơn vị đã phối hợp với SOCA (Anh) và FBI (Mỹ) điều tra tổ

chức tội phạm “Mattfeuter” chuyên sử dụng thông tin thẻ tín dụng trộm cắp, bắt đối

102

tượng Văn Tiến Tú và đồng bọn, thu giữ nhiều tài sản giá trị, riêng tiền mặt bị thu giữ

trị giá khoảng 50.000 đô la Mỹ. Ước tính thiệt hại do nhóm tội phạm này gây ra từ

năm 2005 đến khi bị triệt phá là khoảng 300 triệu đô la Mỹ.

- Với Australia, C50 (A05) đã phối hợp trao đổi thông tin 05 vụ việc, trong đó

đã xác lập và điều tra 04 vụ án, điển hình là 02 vụ án sau

+ Tháng 06/2010 đơn vị phối hợp với Cảnh sát liên bang Australia điều tra vụ

nhóm đối tượng trộm cắp và buôn lậu hàng hóa từ Australia về Việt Nam tiêu thụ. Kết

quả đã bắt đối tượng Đỗ Thanh Lâm và đồng bọn có hành vi tổ chức vận chuyển về Việt

Nam và tiêu thụ 820 máy tính xách tay và linh kiện điện tử, số tiền các đối tượng chuyển

từ Việt Nam sang cho các đối tượng ở Australia khoảng 1 triệu đô la Úc.

+ Năm 2012, đơn vị đã phối hợp với Cảnh sát liên bang Australia triệt phá

chuyên án “Trove” đấu tranh với nhóm hacker chuyên xây dựng các hệ thống máy chủ

(gọi là CrimeIRC) tạo thành dịch vụ trộm cắp, trao đổi mua bán thẻ ngân hàng của tội

phạm trên toàn thế giới. Kết quả điều tra cho thấy trong vòng 3 tháng từ tháng 7/2012

đến tháng 10/2012 các đối tượng đã trao đổi, mua bán khoảng 35.000 thông tin thẻ tín

dụng. Thông tin do phía Việt Nam trao đổi đã giúp Cảnh sát Australia ngăn chặn kịp

thời việc bọn tội phạm có thể chiếm đoạt khoảng 80 triệu đô la Úc từ các thông tin thẻ

nói trên.

- Với Trung Quốc, C50 (A05) đã phối hợp điều tra 03 vụ án dưới đây

+ Tháng 12/2012, đơn vị đã phối hợp điều tra chuyên án “12.3” của Bộ công an

Trung Quốc đấu tranh với ổ nhóm tội phạm người Trung Quốc, Đài Loan Trung Quốc

nhập cảnh vào Việt nam, sử dụng công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tiền của công dân

Trung Quốc. Kết quả, Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã

bắt và bàn giao 12 đối tượng cùng toàn bộ tang vật cho Cục điều tra hình sự Trung

Quốc và Tổng cục cảnh sát Đài Loan Trung Quốc.

+ Tháng 12/2013, đơn vị đã phối hợp triệt phá nhóm đối tượng người Trung

Quốc nhập cảnh vào Việt Nam quản trị Website www.cm688.com tổ chức cho công

dân Trung Quốc đánh bạc trực tuyến. Căn cứ thông tin do Cục Cảnh sát phòng, chống

tội phạm sử dụng công nghệ cao cung cấp, Bộ công an Trung Quốc bắt giữ 11 đối

tượng do Tiêu Phúc Hoa cầm đầu, thu giữ nhiều máy chủ và tang vật tại thành phố

Phật Sơn, Trung Quốc.

+ Tháng 9/2014, đơn vị đã phối hợp triệt phá nhóm đối tượng người Trung

Quốc sang Việt nam thiết lập, điều hành website www.game670.com để tổ chức cho

công dân Trung Quốc đánh bạc. Kết quả phía Trung Quốc đã bắt giữ hàng trăm đối

tượng, phía Việt Nam bắt giữ 28 đối tượng người nước ngoài và tang vật tại tỉnh

Quảng Ninh bàn giao cho phía Trung Quốc xử lý.

103

+ Ngày 29/7/2019 A05 phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ của Công an TP Hải

Phòng phát hiện tại đây có hơn 380 người Trung Quốc đã tham gia tổ chức điều hành

các website cho công dân Trung Quốc đánh bạc trực tuyến với các hình thức như cá

cược thể thao, dự đoán kết quả xổ số, đánh số lô đề…bước đầu xác định số tiền đã

giao dịch trên hệ thống mạng đánh bạc là hơn 3 tỷ Nhân dân tệ (khoảng hơn 10.000 tỷ

đồng Việt Nam). Hiện vụ án đang được A05 phối hợp với Công an Trung Quốc điều

tra, xử lý các đối tượng phạm tội.

+ Vụ truy tìm, bắt giữ và bàn giao đối tượng Chu Chấn Đông (là đối tượng

người Trung Quốc có lệnh truy nã đỏ của Interpol) theo đề nghị của Cục bảo vệ an

ninh mạng, Bộ Công an Trung Quốc... năm 2015.

Đặc biệt, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Công an Trung Quốc, được sự đồng ý của

lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Tổng cục ngày 16/4/2015 C50 đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác

PCTP sử dụng công nghệ cao với Cục bảo vệ an ninh mạng, Bộ Công an Trung Quốc.

Theo đó, hai bên thống nhất sẽ báo cáo lãnh đạo hai Bộ cho thiết lập đường dây nóng

để trao đổi thông tin tội phạm giữa hai quốc gia, thiết lập các cuộc gặp gỡ luân phiên

thường niên để trao đổi kinh nghiệm đấu tranh, phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao, đồng thời phía Trung Quốc sẽ hỗ trợ trang thiết bị và đào tạo nâng cao năng

lực cán bộ cho phía Việt Nam. Tháng 5/2015, được sự đồng ý của lãnh đạo Bộ Công

an, C50 đã cử đoàn công tác sang thăm, dự Hội nghị thường niên lần thứ nhất với Cục

Bảo vệ an ninh mạng, Bộ Công an Trung Quốc theo chương trình hợp tác giữa hai đơn

vị [9].

- Thường xuyên phối hợp với cảnh sát các nước trong việc đào tạo, tập huấn,

nâng cao trình độ cán bộ và tham dự các Hội nghị, hội thảo về phòng chống tội phạm

sử dụng công nghệ cao. Phối hợp với V12 và UNODC tổ chức Hội thảo hợp tác Công

– Tư và điều phối quốc gia về tội phạm sử dụng công nghệ cao. Cử 12 đoàn với 33

lượt cán bộ đi công tác nước ngoài; tiếp và làm việc với 05 đoàn cảnh sát các nước,

đáng chú ý là làm việc với Đoàn khảo sát của Interpol về việc chuẩn bị triển khai dự

án “Nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm mạng khu vực ASEAN”.

Phối hợp với các lực lượng như Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra, Cục

Cảnh sát truy nã tội phạm, cục Quản lý xuất nhập cảnh – Tổng cục An ninh 1 phát

hiện, bắt giữ, bàn giao đối tượng truy nã có liên quan đến lĩnh vực CNTT&VT bỏ trốn

từ nước ngoài vào Việt Nam cho các cơ quan chức năng của nước ngoài. Trong đó tập

trung chủ yếu là các đối tượng mang quốc tịch Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ.

Phía nước ngoài đánh giá rất cao sự phối hợp này.

104

Năm 2018 Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện một số hoạt động hợp tác quốc

tế như tổ chức các chuyến thăm, làm việc tại nước ngoài hoặc đón tiếp các Đoàn đại

biểu cấp cao của Tòa án nước ngoài nhằm trao đổi kinh nghiệm xét xử và các biện

pháp phòng ngừa các tội phạm trong đó có tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Điểm nổi bật trong công tác hợp tác quốc tế của Tòa án nhân dân tối cao là đã chú

trọng nghiên cứu luật pháp quốc tế về những vấn đề có liên quan để học tập kinh

nghiệm và triển khai thực hiện cho phù hợp với điều kiện và khung pháp lý của Việt

Nam; tích cực góp ý, bổ sung, ký kết, gia nhập và hướng dẫn Tòa án nhân dân các cấp

thực hiện các cam kết và điều ước quốc tế. Chủ động tham gia hội thảo và trình bày

tham luận tại các hội nghị quốc tế về tội phạm mạng để tham khảo kinh nghiệm của

các nước trong lĩnh vực tư pháp, đồng thời cũng giới thiệu về hệ thống tư pháp Việt

Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới [87].

Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng thường xuyên triển khai thực hiện các

Thỏa thuận hợp tác đã ký bảo đảm hiệu quả, thiết thực, bền vững; đẩy mạnh ký kết các

Thỏa thuận hợp tác với các nước, đối tác mới có tiềm năng, thiện chí. Các hoạt động

hợp tác tập trung vào lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho

cán bộ Kiểm sát; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội

phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm tham nhũng, tội phạm trong lĩnh vực tài

chính, ngân hàng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng cường thúc đẩy, mở rộng

hiệu quả hợp tác song phương từ các diễn đàn hợp tác quốc tế đa phương. Năm 2019

đã tổ chức thành công Hội nghị Viện trưởng Viện kiểm sát, Viện Công tố các nước

ASEAN – Trung Quốc lần thứ 13 tại Hà Nội, nội dung Hội nghị cũng đề cập đến việc

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Thực hiện các hoạt động tương trợ

tư pháp hình sự với các nước chung đường biên giới như Lào và Trung Quốc, hoạt

động ủy thác tư pháp hình sự với nước ngoài ngày càng tăng [88].

Công tác phối hợp trong hỗ trợ trang thiết bị, đào tạo, tập huấn, nâng cao năng

lực [9] [10] [11].

- Trong thời gian qua, Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao đã nhận được

nhiều sự giúp đỡ về trang thiết bị phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm sử

dụng công nghệ cao. Cảnh sát liên bang Australia đã hỗ trợ thành lập Trung tâm dữ

liệu của đơn vị và nhiều trang thiết bị phần cứng, phần mềm chuyên dụng để thu thập,

phục hồi dữ liệu điện tử từ máy tính và thiết bị di động. Bộ nội vụ Ấn Độ đang tài trợ

thiết bị để thành lập Trung tâm phục hồi, phân tích chứng cứ, dữ liệu điện tử Indira

Gandhi tại Hà Nội.

Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao cũng phối hợp với nước ngoài đào

tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ, cụ thể:

105

- Về phối hợp tổ chức tập huấn kỹ năng thu thập, bảo quản, phục hồi và phân

tích dữ liệu, chứng cứ điện tử tại Việt Nam: đơn vị đã phối hợp với Cảnh sát liên bang

Úc tổ chức 02 lớp tập huấn, phối hợp với Cảnh sát Singapore tổ chức 02 lớp tập huấn,

với Ấn Độ tổ chức 02 lớp tập huấn. Vừa qua một số cán bộ của đơn vị đã được mời

sang Ấn Độ đào tạo để làm việc tại Trung tâm phục hồi dữ liệu điện tử Indira Gandhi

tại Hà Nội.

- Về kỹ năng điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao: FBI Mỹ thường xuyên

mời cán bộ của đơn vị tham gia tập huấn tại ILEA Bangkok (Thái Lan) hàng năm, Bộ

Công an Trung Quốc đã mời tham gia 02 lớp tập huấn tại Trung Quốc.

- Cơ quan hợp tác quốc tế của Hàn Quốc (KOICA) đã mời cán bộ của đơn vị

tham gia 02 lớp tập huấn về kỹ năng tổ chức và điều tra tội phạm sử dụng công nghệ

cao tại Hàn Quốc.

- Cơ quan phòng, chống tội phạm quốc gia vương quốc Anh và cảnh sát Pháp

đã phối hợp tổ chức 02 lớp tập huấn kỹ năng điều tra tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

qua mạng.

- Năm 2013, Ban Tổng thư ký Interpol đã mời một số cán bộ của đơn vị đến

Hàn Quốc tham dự Khóa tập huấn lần thứ 11 của Interpol về kỹ năng điều tra tội phạm

máy tính và Khóa tập huấn giảng viên về điều tra tội phạm sử dụng công nghệ cao của

Interpol khu vực Á-Âu lần thứ nhất, năm 2014.

Về hợp tác chia sẻ thông tin, trao đổi kinh nghiệm [12]

Trong những năm qua, Tổng cục Cảnh sát PCTP đã chỉ đạo Cục Cảnh sát PCTP

sử dụng công nghệ cao thường xuyên cử đại diện tham gia các Hội nghị, Hội thảo

quốc tế về an ninh mạng, xây dựng năng lực và lòng tin trong lĩnh vực này. Cục cảnh

sát PCTP sử dụng công nghệ cao cũng đã gia nhập “Mạng lưới liên lạc G8” về phòng,

chống tội phạm sử dụng công nghệ cao gồm 67 quốc gia và thiết lập đường dây nóng

với một số cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài khác.

- C50 (A05) đã đề nghị lực lượng Cảnh sát Úc (AFP) tổ chức một số lớp tập

huấn về phân tích, khôi phục dữ liệu, lớp học ngoại ngữ (tiếng Anh) cho lực lượng

Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao Việt Nam; mời cán bộ Cục C50 tham gia khóa

Đào tạo về Quản lý thực thi pháp luật khu vực châu Á (ARLEMP) do Ôxtraylia phối

hợp với Việt Nam tổ chức. Tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Trung tâm phòng, chống tội

phạm xuyên quốc gia Việt Nam - Úc, bổ sung một số cán bộ của Cục C50 công tác

cho Trung tâm này.

Năm 2019 Bộ trưởng Bộ Công an tham gia Hội nghị lãnh đạo các cơ quan đặc

biệt, thực thi pháp luật lần thứ 18 tại Liên bang Nga từ 15-18/10. Tại đây đại diện Bộ

Công an đã trình bày tham luận “Phát triển quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt

106

Nam với các cơ quan đặc biệt nước ngoài trong lĩnh vực đảm bảo an toàn không gian

thông tin” với nội dung để đối phó hiệu quả với tội phạm mạng, Việt Nam đề nghị các

quốc gia cần thống nhất cách hành xử trên không gian mạng dưới hình thức các nghị

định thư, công ước và điều luật quốc tế; Tăng cường đa dạng hoá quan hệ đối tác và

xây dựng sự đồng thuận trên phạm vi toàn cầu; Tăng cường trao đổi, chia sẻ thông tin,

thành lập các nhóm tác chiến trên không gian mạng; Hỗ trợ, nâng cao năng lực đảm

bảo an ninh mạng, phòng chống tội phạm mạng... khẳng định Việt Nam mong muốn

tiếp tục học hỏi kinh nghiệm của bạn bè quốc tế; sẵn sàng họp tác, chia sẻ kinh nghiệm

với các cơ quan thực thi pháp luật, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này.

- Đối với các nước khác, Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao đã phối

hợp với các cơ quan thực thi pháp luật của Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỹ,

Cộng hòa Séc, Thụy Sỹ... trao đổi thông tin, xác minh hàng chục vụ việc khác qua

kênh Interpol hoặc trao đổi qua Cục đối ngoại của Công an Việt Nam.

- Ngoài việc hợp tác quốc tế thông qua kênh văn phòng Interpol Việt Nam trước

đây (nay là Cục đối ngoại), trong thời gian qua lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công

nghệ cao còn phối hợp với các công ty, hiệp hội Công nghệ thông tin ở châu Á, châu

Âu để xác minh các địa chỉ, sever ở nước ngoài, xác minh các tài khoản của cá nhân

nước ngoài bị đối tượng là người Việt Nam đánh cắp.

Tập đoàn công nghệ BKAV trong thời gian qua đã tích cực hợp tác với các tổ

chức An ninh mạng và Cứu hộ các sự cố máy tính của các nước trên thế giới và trong

khu vực trong việc khắc phục sự cố máy tính, chia sẻ thông tin về an ninh thông tin

(Hiện nay Trung tâm là đồng sáng lập hiệp hội các tổ chức Cứu hộ máy tính của khu

vực Châu á Thái Bình Dương - APCERT - Asia Pacific Computer Emergency

Response Teams).

Năm 2019 Bộ thông tin truyền thông (Cục An toàn thông tin) đã phối hợp với

Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao A05 (Bộ Công

an), Hiệp hội Internet Việt Nam và Tập đoàn IEC tổ chức Hội thảo và Triển lãm quốc

tế về an toàn, an ninh mạng Việt Nam 2019 (VietNam Security Summit 2019) với chủ

đề “An toàn, an ninh mạng trong hành trình chuyển đổi số”. Triển lãm các công nghệ,

sản phẩm, dịch vụ lĩnh vực an toàn, an ninh mạng với sự tham gia của 26 doanh nghiệp

trong nước và nước ngoài như (Viettel, BKAV, FPT, Netnam, Vnetwork, VSEC, RSA,

Fortinet, Checkpoint, HPE, Samsung, NIPA, One Identify, Huawei, Parasoft, Ahnlap,

Keysight, Bizsecure, Techdata,...) và Chương trình Trình diễn trực tiếp công nghệ bảo mật

(Security Live Demo) về các tình huống an toàn, an ninh mạng.

107

Từ năm 2017-2019 Bộ Công an, Bộ Thông tin truyền thông đều cử các đoàn đại

biểu tham gia Tuần lễ quốc tế về an ninh mạng tại Singapore và tham gia các Hội nghị,

Hội thảo, trình bày tham luận về phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

nhằm đảm bảo an toàn cho không gian mạng.

Năm 2019 Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia đã ký Biên

bản ghi nhớ với Công ty an ninh mạng toàn cầu Kaspersky Lab nhằm đưa ra các giải

pháp cho những thách thức về an ninh thông tin trong nước cũng như hỗ trợ nâng cao

năng lực bảo mật mạng của chính phủ Việt Nam. Thông qua bản ghi nhớ, giữa Trung

tâm và Công ty Kaspersky Lab mong muốn chia sẻ chuyên môn về kinh nghiệm về

bảo mật đã tích lũy giúp Việt Nam trở thành đất nước an toàn khi tham gia vào không

gian mạng. Hai bên cam kết chia sẻ thông tin và dữ liệu có liên quan đến các hành vi

vi phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong việc tiến

hành phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể tiếp tục thực hiện

nội dung các Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và Cu Ba năm

2018; giữa Việt Nam và Kazakhstan với Việt Nam năm 2017; Hiệp định về phòng

chống tội phạm giữa Việt Nam và Séc năm 2017; Hiệp định về dẫn độ tội phạm giữa

Việt Nam và Pháp năm 2016; Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia

năm 2012 của Bộ ngoại giao…

Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT đã được các chủ thể chủ động thực hiện tuy nhiên hoạt động này chưa

được tiến hành thường xuyên và chủ động từ phía các cơ quan chức năng của Việt Nam.

3.3 Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và mạng viễn thông ở Việt Nam

Qua nghiên cứu thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ở Việt Nam trong thời gian từ 2010 đến 2019 có thể rút ra những nhận

xét, đánh giá trên các nội dung sau:

3.3.1 Những kết quả đã đạt được

Nghiên cứu, phân tích thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT của các chủ thể cho thấy, các lực lượng đã làm tốt công tác phòng ngừa,

góp phần đáng kể trong nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự trên lĩnh vực CNTT&MVT,

kết quả đó được thể hiện qua một số điểm nổi bật sau đây

- Từ thực tiễn công tác trong phạm vi chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của

mình, các chủ thể đã phát hiện được những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý nhà

nước về CNTT&MVT. Đã chủ động tham mưu cho Đảng và Nhà nước nhiều nội

dung, nhiều vấn đề trọng tâm, chiến lược, vĩ mô, nhiều chủ trương, giải pháp mang

108

tính định hướng đối với phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

như trong việc ban hành các Văn kiện, các văn bản pháp luật về phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Khắc phục được những hạn chế, thiếu sót trong

quản lý nhà nước về CNTT&MVT; Bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật liên

quan đến phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như : BLHS sửa đổi năm

2009; BLHS năm 2015; Luật an toàn thông tin mạng 2015; Luật An ninh mạng năm

2018; Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-

TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông

tin và truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về hướng

dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&VT,..

- Chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng tổ chức tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về CNTT&MVT, nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ trương phát

triển CNTT&MVT của Đảng và Nhà nước. Nâng cao ý thức bảo mật an toàn thông tin

trong các giao dịch về CNTT&MVT của các tổ chức, cá nhân. Các doanh nghiệp Việt

Nam cũng đã ý thức được tầm quan trọng và quan tâm tới vấn đề bảo vệ thông tin cá

nhân. Theo kết quả khảo sát 132 doanh nghiệp về quy chế bảo mật thông tin năm 2018

của Cục thương mại điện tử và Cục CNTT Bộ công thương cho thấy, có 18% doanh

nghiệp có quy chế bảo vệ thông tin cá nhân, 40% doanh nghiệp khác sẽ xây dựng quy

chế trong tương lai gần. Tuy chưa có quy định cụ thể đối với việc thu thập và sử dụng

thông tin cá nhân của khách hàng nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bước

đầu kết hợp các biện pháp về quản lý và công nghệ để bảo vệ thông tin của khách

hàng. Mặt khác có 67% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết có triển khai cả hai

nhóm giải pháp công nghệ và quản lý để bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng

[22]. Theo Hiệp hội an toàn thông tin , chỉ số an toàn thông tin của các doanh nghiệp

Việt nam hiện nay là 50% [104]. Qua đó đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các

chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam

- Đã xác định được những đặc điểm, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; xác định rõ các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm mà

đối tượng thường hoạt động để từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa. Bước đầu

đã rút ra được những bài học kinh nghiệm trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT góp phần quan trọng trong quá trình thúc

đẩy sự phát triển về CNTT&MVT tại Việt nam nói riêng , cũng như phát triển kinh tế

xã hội, ổn định an ninh chính trị, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.

- Đội ngũ cán bộ tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT có tâm huyết, nhiệt tình trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Mặc dù đây

109

là một lĩnh vực mới, với đặc điểm là loại tội phạm phi truyền thống xuyên quốc gia nhưng

phần lớn các cán bộ, chiến sỹ đều vừa tự làm, tự học bổ sung trang bị những kiến thức

mới về CNTT&MVT, ngoại ngữ góp phần quan trọng và công tác đấu tranh, phòng ngừa

các tội phạm trong lĩnh vực mới này. Góp phần nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân

dân trong tiến hành các hoạt động giao dịch về CNTT&MVT.

- Khi tiến hành phòng ngừa, các lực lượng đã triển khai thực hiện tốt các biện pháp

nghiệp vụ, nhất là các biện pháp điều tra, đấu tranh chuyên án và các biện pháp kỹ thuật.

Qua đó đã rút ra được những kinh nghiệm trong hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, góp phần

nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

- Trong công tác đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, các

lực lượng đã triển khai quyết liệt các kế hoạch, biện pháp đấu tranh phòng chống tội

phạm, qua đó đã điều tra, khám phá và xử lý được một số vụ án trong lĩnh vực

CNTT&MVT rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng như: năm 2015, tình trạng

các đối tượng người nước ngoài (chủ yếu là người Trung Quốc, Đài Loan) móc nối với

các đối tượng người Việt Nam sử dụng mạng viễn thông, lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Phương thức thủ đoạn là mạo danh các cơ quan thực thi pháp luật Trung Quốc, liên hệ

với nhiều công dân Trung Quốc, đe dọa những người này có liên quan đến các vụ án

đang được điều tra hoặc mạo danh các doanh nghiệp viễn thông thông báo nợ cước

điện thoại, sau đó yêu cầu bị hại cung cấp thông tin cá nhân, số tài khoản và chuyển

tiền vào các tài khoản do chúng tạo ra để chiếm đoạt. Năm 2019 đấu tranh chuyên án 3

đối tượng người Việt Nam lập các trang web giả mạo lừa 7000 người Mỹ mua các sản

phẩm phòng chống dịch Covid-19.

- Các lực lượng đã chủ động nghiên cứu, ứng dụng có hiệu quả các giải

pháp, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ chuyên dụng để phòng ngừa tội phạm sử

dụng công nghệ cao nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng

như: Giải pháp giám sát đường truyền Internet; Giải pháp chặn thu và giải mã các

gói tin sử dụng giao thức VOIP; Phần mềm thiết bị chuyên dụng phục hồi, phân

tích dữ liệu điện tử,… Các loại trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác đấu tranh,

phòng ngừa được quan tâm đầu tư, mua sắm. Kết quả đấu tranh, phòng ngừa tội

phạm sử dụng CNTT&VT đã bước đầu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức

của các ngành, các cấp, doanh nghiệp và người dân, làm giảm thiểu các nguy cơ đe

dọa về an toàn, an ninh thông tin số, góp phần quan trọng bảo vệ an ninh quốc gia,

trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và cuộc sống bình yên,

hạnh phúc của nhân dân.

- Công tác phối hợp với các lực lượng chức năng, các Bộ, cơ quan quản lý nhà

nước ngành và lĩnh vực ngày càng được củng cố, hoàn thiện hơn. Đã xây dựng và

110

hoàn thiện, đưa vào thực hiện các quy chế phối hợp giữa các lực lượng như giữa Cục

An ninh mạng và PCTP công nghệ cao Bộ Công an A05 với Bộ thông tin và truyền

thông, với Cục an toàn thông tin, Cục Viễn thông… C50 (A05) đã tham mưu cho lãnh

đạo Tổng cục cảnh sát phối hợp với Bộ thông tin truyền thông thực hiện Chỉ thị

11/CT-BTTTT ngày 18/3/2016 về tăng cường bảo vệ bí mật thông tin cá nhân của

người sử dụng dịch vụ và ngăn chặn việc mua bán, lưu thông tin sim sai quy định.Qua

đó đã huy động được cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở; phát huy sức mạnh

tổng hợp của toàn xã hội, của quần chúng nhân dân trong việc hỗ trợ các lực lượng

tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả.

- Quan hệ hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT đã đạt được những kết quả nhất định như: tổ chức hội thảo, triển lãm;

các cuộc diễn tập đối phó với các sự cố về an ninh mạng có sự tham gia của các quốc

gia trong khu vực; thường xuyên cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở các nước phát

triển; mời chuyên gia nước ngoài về CNTT&MVT sang Việt Nam tập huấn cũng như

hướng dẫn việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật mới phục vụ công tác đấu tranh,

phòng ngừa loại tội phạm này. Đã tranh thủ được sự giúp đỡ về nhiều mặt của các lực

lượng trong khu vực và trên thế giới như Interpol, Aseanpol và Tổ chức Cảnh sát của

nhiều quốc gia khác để trao đổi thông tin, kinh nghiệm đấu tranh và phòng ngừa tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. C50 (A05) đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác PCTP sử

dụng công nghệ cao với Cục Bảo vệ an ninh mạng, Bộ công an Trung Quốc và thiết

lập đường dây nóng với Cục Điều tra hình sự, Bộ Công an Trung Quốc; tham gia

“Mạng lưới liên lạc G8 27/7” gồm 70 quốc gia về PCTP sử dụng CNTT&MVT.

Năm 2015, đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về “Tăng cường hợp tác

quốc tế về phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã

hội” với sự tham gia của 45 đại biểu thuộc 20 đoàn đại biểu nước ngoài, các tổ chức

quốc tế và gần 100 đại biểu trong nước. Điều này giúp tăng cường và mở rộng mối

quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT.

3.3.2 Những hạn chế và tồn tại trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong phòng ngừa tình hình các tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam còn bộc lộ một số tồn tại, thiếu sót. Cụ thể như:

3.3.2.1 Những hạn chế trong nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các chủ thể

Việc nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc trong phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn hạn chế. Nhiều chủ thể tiến hành chưa

111

nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong hoạt động phòng ngừa. Để phòng ngừa

tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả đòi hỏi sự tham gia của

nhiều chủ thể khác nhau, tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau. Tuy nhiên,

nhận thức giữa các chủ thể chưa đồng đều về trách nhiệm trong hoạt động phòng ngừa

của mình. Ngay trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm

sát, Tòa án vẫn cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

là việc của cơ quan Công an (mà cụ thể là lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công

nghệ cao), Tòa án và Viện kiểm sát chỉ là cơ quan có trách nhiệm xử lý, đưa ra hình

phạt đối với người phạm tội. Trong thực tế giữa các cơ quan này còn thiếu sự phối hợp

trong thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là các biện pháp phòng ngừa

nghiệp vụ. Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ là

việc của lực lượng Công an mà còn là nhiệm vụ của nhiều cơ quan, tổ chức khác như

Bộ thông tin và truyền thông, Sở thông tin và truyền thông các địa phương, Bộ tư

pháp, Sở tư pháp, Bộ công thương, Ngân hàng nhà nước… và toàn thể công dân. Tuy

nhiên nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của

các cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực này còn chưa đồng đều, làm chưa hết

trách nhiệm. Nhiều nơi, nhiều chỗ chỉ tiến hành các hoạt động phòng ngừa mang tính

hình thức, khẩu hiệu không đi sâu, đi sát. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, doanh

nghiệp và người sử dụng chưa chủ động trong việc phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT, chưa có ý thức bảo mật trong các giao dịch CNTT&MVT...

3.3.2.2 Hạn chế trong công tác xây dựng văn bản pháp luật

Công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&VT đã được triển khai nhưng còn chậm, kéo dài ảnh

hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng ngừa cũng như việc xác minh, điều tra,

xử lý tội phạm. Bộ luật hình sự năm 2015 các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

được quy định thành một mục riêng (mục 2 chương XXI) trong đó đã quy định chi tiết

các tội danh, là cơ sở pháp lý trong việc phòng ngừa, đấu tranh, xử lý với tội phạm

này. Tuy nhiên hiện nay Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự vừa mới có hiệu lực

đầu năm 2018, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên đã gây khó khăn cho các

cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phòng ngừa, đấu tranh, xử lý với các tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Luật an ninh mạng năm 2018 còn nhiều quy định mang

tính bất cập, chồng chéo với quy định của nhiều văn bản luật khác có liên quan như

Luật doanh nghiệp, Luật giao dịch điện tử, Luật viễn thông...

Hiện nay Tòa án nhân dân tối cao vẫn chưa có Văn bản hướng dẫn xét xử các

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho các Tòa án nhân dân cấp dưới.

112

3.3.2.3 Hạn chế trong công tác tổ chức, xây dựng và trang thiết bị cho lực

lượng phòng ngừa

Công tác tổ chức, xây dựng lực lượng phòng ngừa còn nhiều tồn tại. Mặc dù đã

được Bộ Công an cho phép thành lập hệ lực lượng chuyên trách phòng chống tội phạm sử

dụng công nghệ cao tại Công an một số địa phương trọng điểm chưa triển khai nhưng đến

nay có địa phương vẫn chưa thực hiện (như Công an thành phố Hồ Chí Minh). Một số địa

phương đã thành lập Phòng, Đội an ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao nhưng

hiệu quả công tác còn hạn chế. Hoạt động phối hợp giữa các lực lượng trong việc tiến

hành phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa được chú trọng, nặng về

hình thức chưa thực sự hiệu quả. Nhận thức về hậu quả, tác hại của loại tội phạm này

chưa thống nhất. Còn thiếu nhiều văn bản liên tịch thể hiện sự phối hợp trong phòng ngừa

tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT giữa các cơ quan, tổ chức xã hội. Nhiều

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet chỉ nghiêng về lợi nhuận đã

vô tình tạo ra những kẽ hở, lỗ hổng trong hoạt động của mình tạo điều kiện cho người

phạm tội thực hiện các hành vi. Hiện nay Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-

BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa

án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&VT vẫn là văn bản duy nhất thể hiện sự phối hợp giữa các cơ

quan trong phòng ngừa các tội phạm này.

- Các loại trang thiết bị phục vụ công tác đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn

thiếu và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tế đặt ra. Việc trang bị các phương tiện kỹ

thuật cũng chưa theo kịp sự phát triển liên tục, nhanh chóng của khoa học công nghệ dẫn

đến gặp nhiều khó khăn ở hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Bản ghi nhớ giữa Tổng cục Cảnh sát Việt Nam với chính phủ Ấn Độ về

việc thành lập “Phòng thí nghiệm phục hồi dữ liệu điện tử Indira Gandhi” từ năm 2014

mới đây đã được triển khai đi vào hoạt động (giữa năm 2019) tuy nhiên quy mô còn nhỏ

chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong khi đó công tác nghiên cứu, ứng dụng phương

tiện, thiết bị chuyên dụng tại một số lĩnh vực mới chưa đạt hiệu quả như: Giải mã các gói

tin sử dụng giao thức HTTPS; Giải mã mật khẩu truy cập của các loại thiết bị; Giám sát,

thu thập dữ liệu trên đường truyền Internet di động…[9]

3.3.2.4 Hạn chế trong triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và đấu

tranh xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Việc khai thác, quản lý, cập nhật tình hình, rút ra những vấn đề cần tham mưu,

chỉ đạo, tổ chức phòng ngừa, đấu tranh xử lý từ kết quả điều tra cơ bản còn hạn chế.

Công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi (biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ) chưa đạt yêu

113

cầu, đối tượng sưu tra, xác minh hiềm nghi chủ yếu là việc, hiện tượng, nguồn tin từ

sưu tra, hiềm nghi để phát triển thành chuyên án còn thấp. Thời gian qua, hầu như các

lực lượng chỉ tập trung nắm tình hình, thu thập tích lũy tài liệu. Trong báo cáo tổng kết

tại Hội nghị 05 năm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

xâm phạm trật tự an toàn xã hội (2010 – 2015) của Tổng cục cảnh sát, Bộ công an đã

chỉ rõ thực trạng trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là do cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao C50 chưa được quy

định trong hệ thống cơ quan điều tra cũng như các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra trong Công an nhân dân. Mặt khác, theo quy định tại

Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/08/2013 hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 Cục C50 (A05) cũng không có thẩm quyền tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm nên sau khi tiếp nhận đều phải chuyển cho cơ quan

điều tra xử lý. Do đó công tác phát hiện, xác minh, điều tra các vụ án trong lĩnh vực

CNTT&MVT còn chậm trễ, khiến tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

ngày càng diễn biến phức tạp. Trong nhiều trường hợp việc chậm xử lý đơn thư, tin

báo tố giác về tội phạm đã gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.

- Công tác xác lập, đấu tranh chuyên án còn nhiều bất cập, nguồn tài liệu xác

lập, đấu tranh chuyên án án còn hạn chế. Các chuyên án phát triển từ công tác sưu tra,

hiềm nghi chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu từ các hoạt động trinh sát. Phần lớn các chuyên án

sau khi kết thúc là đề nghị xử lý vi phạm hành chính. Năm 2014 Cục Cảnh sát PCTP

sử dụng công nghệ cao C50 đã phát hiện, xác minh, điều tra 210 đầu mối vụ việc, kết

quả chuyển cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp khởi tố 39 vụ, 272 bị can gồm 23 chuyên

án 152 bị can và 16 vụ án, 120 bị can; chuyển cảnh sát các nước : 2 vụ, 39 đối tượng;

Chuyển thanh tra các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng xử lý hành chính 12 vụ [9].

- Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vẫn

còn một số khó khăn, hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình hiện nay,

chưa phát huy được lợi thế trong tấn công, khám phá tội phạm, chưa đấu tranh triệt để

với các tổ chức, băng nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Một số loại tội

phạm như : Tấn công, xâm nhập trái phép hệ thống mạng máy tính; Trộm cắp cước

viễn thông quốc tế… hiệu quả đấu tranh còn thấp. Kết quả đấu tranh chưa phản ánh

đúng thực trạng tình hình phức tạp của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong

thực tế. Các vụ án trong lĩnh vực CNTT&MVT gây ra thiệt hại lớn về kinh tế, tuy

nhiên số tài sản được thu hồi còn quá ít so với số bị chiếm đoạt, phần lớn bị hại là

người nước ngoài nên không xác định hoặc làm rõ được dẫn đến khó xử lý.

114

3.3.2.5 Hạn chế trong công tác phối hợp, xác minh

Công tác phối hợp, trao đổi thông tin, xác minh vụ việc với các Bộ, ngành chức

năng vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu

tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Một số doanh nghiệp cung cấp dịch

vụ Internet, viễn thông vì lợi nhuận hoặc vì một số lý do khác, các ngân hàng thương

mại cung cấp không kịp thời, đầy đủ các nội dung yêu cầu xác minh về thông tin thuê

bao điện thoại, chủ tài khoản mạng Internet, chủ tài khoản ngân hàng..., thậm chí có

trường hợp không cung cấp thông tin gây khó khăn trong quá trình xác minh, điều tra

[9] [10] [11].

3.3.2.6 Hạn chế trong việc hợp tác quốc tế

Công tác phối hợp trong phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT với nước ngoài chủ yếu là phía Việt Nam thực hiện các yêu cầu của các

cơ quan thực thi pháp luật nước ngoài, còn việc các cơ quan thực thi pháp luật nước

ngoài phối hợp theo yêu cầu của phía Việt Nam còn rất hạn chế. Trong khi đó đặc

điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là phi biên giới và xuyên quốc gia,

mang tính toàn cầu nên việc hợp tác quốc tế trong phòng ngừa, đấu tranh với các tội

phạm này là hết sức cần thiết. Đơn cử, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao trong 5 năm từ 2010-2015 đã phối hợp điều tra gần 100 vụ án liên quan

đến tội phạm sử dụng CNTT&MVT theo đề nghị của Cảnh sát Anh, Mỹ, Australia,

Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore...[9][10] [11].

3.3.2.7 Hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT; trong việc

thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội

Trong công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT còn có hiện tượng chồng

chéo hoặc bỏ sót như trong Quyết định 2036/QĐ-BTTTT ngày 27/11/2019 quy định

về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Cục an toàn thông tin còn thiếu chức năng đảm

bảo an toàn thông tin mạng Internet (Điều 2) vì đây là một nhiệm vụ rất quan trọng

góp phần đảm bảo an toàn thông tin nói chung; nhiều cơ quan chức năng chưa làm

tròn nhiệm vụ và quyền hạn của mình hoặc có nhận thức chưa chính xác về trách

nhiệm của cơ quan, đơn vị mình trong phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Đơn cử như trong lực lượng Cảnh sát PCTP sử

dụng công nghệ cao, tại các địa phương không tổ chức riêng lực lượng phòng, chống

các tội phạm này mà lại giao quyền điều tra, xử lý tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT cho lực lượng Cảnh sát kinh tế… [9]

Trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội (phòng ngừa chung) có

công tác tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức pháp luật nói chung và ý thức phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của người sử dụng mạng máy tính, thiết bị

115

và dịch vụ viễn thông. Tuy nhiên công tác việc triển khai còn hạn chế; trách nhiệm xã

hội và đạo đức nghề nghiệp của sinh viên chuyên ngành CNTT&VT còn chưa được

chú trọng. Nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phù hợp với tình hình thực tế.

Việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật trong lĩnh vực CNTT&MVT đối với

nhân dân, nhất là trong trường phổ thông và trong các trường đại học, cao đẳng còn

hạn chế mang nặng tính lý thuyết. Việc trang bị cho học sinh, sinh viên kiến thức

pháp luật, hiểu được những hành vi nào là vi phạm pháp luật, mức độ nguy hại, chế tài

xử lý và học tập ý thức bảo vệ pháp luật ngay từ trên ghế nhà trường (nhất là đối với

học sinh, sinh viên trong lĩnh vực CNTT, VT cũng là những “hacker” tiềm tàng) là

một điều hết sức cần thiết, tuy nhiên vẫn chưa được chú trọng. Thực tế cho thấy nhiều

vụ án có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT như lây lan virut, mã độc...

ở Việt Nam là do học sinh, sinh viên có hiểu biết hoặc được đào tạo cơ bản về

CNTT&MVT thực hiện [10]. Nhiều người dân khi thực hiện các giao dịch về

CNTT&MVT hoặc sử dụng các thiết bị CNTT&VT còn thiếu ý thức bảo mật, thiếu

những hiểu biết cần thiết trong phòng ngừa tội phạm ở lĩnh vực này.

3.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Từ việc phân tích thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT cho thấy còn những tồn tại, hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Những tồn

tại, hạn chế, thiếu sót này xuất phát từ những điều kiện, nguyên nhân sau đây

Thứ nhất, do chưa nhận thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng

và nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Trách nhiệm phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng không chỉ là trách nhiệm thuộc về một cơ quan

hay tổ chức mà là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó có lực lượng phòng ngừa

chuyên trách và phối hợp. Mặc dù phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên hiệu quả

phòng ngừa chưa cao. Điều này có một phần nguyên nhân từ sự nhận thức về mục

đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung phòng ngừa của các chủ thể chưa được đầy

đủ. Trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chủ thể phòng

ngừa chuyên trách là C50 (nay là A05) , chủ thể phối hợp là các cơ quan quản lý nhà

nước về CNTT&MVT, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ CNTT&MVT, các cơ quan

bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan nhưng sự nhận thức về

phòng ngừa các tội phạm này lại không đồng nhất nơi thực hiện cương quyết, nơi lại

triển khai mang tính đối phó hình thức. Thực tế phòng, chống các tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT cho thấy chỉ ở các trung tâm kinh tế xã hội, các đô thị lớn như Hà

Nội, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế… thì hoạt động đấu tranh, phòng ngừa các tội

116

phạm về CNTT&MVT được thực hiện một cách chủ động và quyết liệt; trong khi đó

nhiều địa phương khác cho rằng ở địa bàn mình sẽ không có tội phạm này xảy ra do

điều kiện kinh tế xã hội, hạ tầng công nghệ chưa phát triển. Tuy nhiên, do tính chất

của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là không có biên giới, không có khoảng

cách về địa lý nên nhận thức như trên mang tính chủ quan, dẫn tới bị động trong việc

thực hiện nội dung phòng ngừa các tội phạm này. Nhiều cơ quan bảo vệ pháp luật coi

nhẹ hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chỉ làm

tròn trách nhiệm xử lý khi các tội phạm này đã xảy ra như của các cơ quan Viện kiểm

sát, Tòa án... Người sử dụng các dịch vụ CNTT&MVT lại không nhận được những

cảnh báo cần thiết từ phía các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ về phương thức, thủ

đoạn của các đối tượng từ đó chưa chủ động phòng ngừa...

Thứ hai, từ thực tiễn PCTP đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho

thấy hệ thống pháp luật quy định về các tội phạm này còn chưa hoàn thiện, đầy đủ

Do CNTT&MVT là một lĩnh vực khá mới ở nước ta nên hệ thống các văn

bản pháp luật quy định về lĩnh vực này chưa bao quát hết, còn bộc lộ nhiều sơ hở,

thiếu sót cũng như nảy sinh nhiều hạn chế, bất cập đã làm ảnh hưởng tới việc thực

hiện nhiệm vụ của các cơ quan chức năng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hiện còn thiếu và không đồng

bộ: (1) Nhiều hành vi có tính chất nguy hiểm cao trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa

được quy định trong BLHS hoặc đã được quy định trong BLHS có hiệu lực thi hành

nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện dẫn đến tình trạng có tội phạm xảy ra

nhưng không có căn cứ xử lý; (2) Chứng cứ điện tử và trình tự, thủ tục thu thập,

bảo quản, phân tích, phục hồi, giám định loại chứng cứ này chưa được quy định rõ

ràng trong Bộ luật tố tụng hình sự; (3) Các chế tài xử phạt chưa nghiêm đã tạo ra

những sơ hở để các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT lợi dụng thực hiện hoạt

động phạm tội. Bộ luật hình sự năm 2009 có sửa đổi, bổ sung các quy định về một

số tội danh liên quan đến lĩnh vực CNTT&MVT nhưng chưa bao quát được hết các

hành vi trong lĩnh vực này. Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-

BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và truyền thông, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,

Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một

số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT cũng đã được ban hành nhưng các chế tài xử

lý còn nhẹ, chưa đạt hiệu quả răn đe và phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm [53].

BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và tăng hình phạt với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì lại chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện.

Luật an ninh mạng năm 2018 đã ban hành tuy nhiên nhiều quy định còn mang tính

117

bất cập gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực

CNTT&MVT như quy định các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp các dịch vụ

viễn thông, Internet bắt buộc phải đặt máy chủ tại Việt Nam vì việc này không khả

thi và không thiết thực với đặc thù dịch vụ không gian trên mạng. Nhiều chuyên gia

cho rằng việc đặt máy chủ dữ liệu ở đâu không quan trọng bằng việc quản lý việc

sử dụng dữ liệu đó ra sao. Vì thế, thay vì việc bắt buộc phải đặt máy chủ dữ liệu

của doanh nghiệp nước ngoài ở đâu, chỉ cần buộc họ phải hợp tác cung cấp dữ liệu

khi cần thiết. Ngoài ra, Luật An ninh mạng cũng có những quy định chồng chéo

hay trái với những luật định hiện hành. Hiện nay, việc quản lý không gian mạng ở

Việt Nam đang chịu sự chi phối bởi các văn bản pháp lý như Luật An toàn thông

tin mạng; Luật Viễn thông; Luật Giao dịch điện tử; Nghị định 72/2013/NĐ-CP về

quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet,… Vì thế, có những ý kiến cho rằng tốt

nhất là tích hợp các nội dung của Luật An ninh mạng vào Luật An toàn thông tin

mạng [103].

Liên quan đến vụ án đánh bạc qua mạng đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của

dư luận vào đầu năm 2018, Bộ Công an đã chỉ ra "lỗ hổng lớn trong quản lý thẻ cào

điện thoại, thẻ game" của các doanh nghiệp viễn thông. Trong Luật viễn thông hiện

hành không có điều khoản quy định về thẻ cào viễn thông, hoạt động thanh toán qua

thẻ cào viễn thông không được Ngân hàng Nhà nước coi là hoạt động trung gian thanh

toán để quản lý, trong khi Bộ Thông tin và Truyền thông không quản lý hoạt động

thanh toán bằng thẻ cào viễn thông.

Cụ thể, tại khoản 1, Điều 3, Thông tư 14/2012/TT-BTTTT quy định, "thẻ thanh

toán thông tin di động là thẻ được nạp sẵn tiền dùng để thanh toán giá cước khi sử

dụng dịch vụ thông tin di động. Mệnh giá thẻ thanh toán bằng số tiền có sẵn trong

thẻ." Đồng thời, tại khoản 1, Điều 10, Nghị định 25/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành Luật viễn thông, thẻ thanh toán dịch vụ viễn thông (hay thẻ thanh

toán thông tin di động và thường gọi là thẻ cào) được coi là thẻ hàng hóa viễn thông

chuyên dùng và gắn liền với việc cung cấp dịch vụ viễn thông chuyên dùng được

doanh nghiệp viễn thông phát hành. Quy định này chỉ rõ thẻ thanh toán thông tin di

động là phương tiện tài chính (một dạng tiền kỹ thuật số) sử dụng trong dịch vụ viễn

thông. Tuy nhiên, đơn vị chủ quản là Bộ Thông tin và Truyền thông đến nay chưa có

bất cứ văn bản nào kiểm soát sự lưu thông của loại phương tiện tài chính này (từ lúc

phát hành thẻ cho đến khi tiêu dùng cuối cùng). Tại khoản 4, Điều 3, Thông tư số

05/2012/TT-BTTTT về phân loại dịch vụ viễn thông, "Dịch vụ viễn thông cộng thêm

là dịch vụ tăng thêm tính năng, tiện ích cho người sử dụng dịch vụ viễn thông, là một

phần không tách rời và được cung cấp cùng với các dịch vụ viễn thông cơ bản và giá

118

trị gia tăng." Game trực tuyến là dịch vụ gia tăng thêm tính năng, tiện ích cho người

sử dụng dịch vụ viễn thông, nên được các nhà mạng coi là dịch vụ cộng thêm, là một

trong những dịch vụ viễn thông. Như vậy, việc dùng thẻ thanh toán thông tin di động

(thẻ cào) để thanh toán cho dịch vụ viễn thông cộng thêm có thể coi là phù hợp với

quy định pháp luật. Do vậy đây chính là một kẽ hở lớn cho các đối tượng lợi dụng để

thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Theo quy định tại Thông tư 49/VBHD-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian

thanh toán và Nghị định 80/2016/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, điều kiện

cần và đủ của các loại hình trung gian thanh toán là hệ thống dịch vụ phải kết nối với

hệ thống tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, dịch vụ thanh toán Game (cổng trung gian

thanh toán hay ví điện tử...) lại không ký hợp đồng ba bên giữa ngân hàng - đơn vị hỗ

trợ thanh toán - nhà mạng. Người dùng chỉ cần thanh toán bằng thẻ cào di động, không

thanh toán bằng tài khoản ngân hàng. Do đó, Ngân hàng Nhà nước không coi đây là

trung gian thanh toán để quản lý. Với sự phát triển công nghệ, thông tin gửi/nhận qua

mạng di động rất đa dạng, phong phú, việc sử dụng thẻ cào viễn thông làm kênh thanh

toán trung gian trong một số hoạt động như trò chơi (game online), nội dung

multimelia (nghe nhạc, video...), thương mại điện tử (mua bán sản phẩm, dịch vụ qua

web...) là nhu cầu tự phát của thị trường.

Trong khi khung pháp lý hiện nay chưa theo kịp thực tế, nếu các cơ quan quản

lý như Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước không khẩn trương có

biện pháp siết chặt các hoạt động thanh toán, phát hành, đảm bảo kiểm soát dòng tiền

lưu thông từ lúc phát hành đến khâu tiêu dùng thẻ cào, những hoạt động phi pháp như

đánh bạc, rửa tiền với con số hàng nghìn tỷ như đường dây đánh bạc nghìn tỷ này sẽ

chưa thể dừng lại. Qua điều tra đã cho thấy, hoạt động tổ chức đánh bạc qua game bài

trên mạng khó có thể thực hiện được với quy mô lớn như Rikvip, Tip.club nếu không

có các cổng trung gian thanh toán và các loại thẻ cào điện thoại, game. Cụ thể, tiền

chơi bạc từ thẻ cào chiếm tới 97% tổng lượng tiền chơi bạc qua các cổng trung gian

thanh toán, trong đó, các doanh nghiệp viễn thông được hưởng từ 15,5 - 16,3%. Các

cổng trung gian thanh toán đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tổ chức đánh

bạc trực tuyến nhưng việc quản lý còn rất lỏng lẻo, khiến các doanh nghiệp trung gian

thanh toán như VNPT EPAY, Ngân Lượng, Home Direct, Giải trí số... dễ dàng cung

cấp dịch vụ cho game bài Rikvip/Tip.club để con bạc tham gia đánh trong thời gian

dài. Việc quản lý hoạt động phát hành và sử dụng thẻ cào viễn thông lỏng lẻo khiến

các thẻ cào dễ dàng trở thành phương tiện thanh toán cho các dịch vụ ngoài viễn

thông, tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng để xây dựng hệ thống thanh toán cho

hoạt động đánh bạc trực tuyến.

119

Thứ ba, chủ thể thực hiện phòng ngừa còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình

độ chuyên môn, thiếu các phương tiện thiết bị hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu

quả phòng ngừa [9] [10]

Lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao được thành lập vào tháng 2/

2010 (C50), năm 2018 được sáp nhập và đổi tên thành Cục An ninh mạng và PCTP sử

dụng công nghệ cao (A05) đội ngũ cán bộ chiến sĩ được điều động từ nhiều đơn vị

khác nhau, nên trình độ nhận thức chưa đồng đều.Trình độ, năng lực của một bộ phận

cán bộ, chiến sỹ thuộc các lực lượng tiến hành phòng ngừa hiện chưa đáp ứng kịp so

với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Số cán bộ có kinh nghiệm trong công tác trinh sát, điều

tra còn ít dẫn đến kết quả công tác phát hiện, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT

còn hạn chế so với diễn biến của tình hình tội phạm đã và đang xảy ra. Theo thống kê

đến tháng 6/2014 tổng quân số của lực lượng Cảnh sát PCTS sử dụng công nghệ cao

có 265 đồng chí, trong đó C50 là 128 đồng chí, PC50 Công an Hà nội là 85 đồng chí,

các Đội cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao là 52 đồng chí. So với số lượng các vụ

án liên quan đến tội phạm sử dụng CNTT&VT thì số lượng cán bộ chiến sỹ trực tiếp

đấu tranh, xử lý là quá ít như năm 2013 số vụ án là 314 vụ trung bình mỗi cán bộ xử lý

2 vụ. Về trình độ ngoại ngữ, tin học tại C50 qua khảo sát cho thấy trong 128 đồng chí

có 87 người biết ngoại ngữ (chiếm 67,97%) tuy nhiên trình độ không đồng đều, trong

số các Điều tra viên biết ngoại ngữ thì rất hiếm có cán bộ nào có thể trực tiếp xét hỏi

đối tượng là người nước ngoài mà không cần đến người phiên dịch [9] [10]. Qua trao

đổi với một số cán bộ thực tiễn đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT ở

C50, PC50 công an Hà Nội cho thấy hạn chế và khó khăn lớn nhất trong đấu tranh,

phòng ngừa các tội phạm này là có kiến thức về tin học, ngoại ngữ, phong tục tập quán

của người nước ngoài, các điều ước và tập quán quốc tế còn hạn chế do vậy khi được

giao nhiệm vụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT nhiều cán

bộ, chiến sỹ có tư tưởng và tâm lý e ngại, né tránh. Đây cũng là một trở ngại dẫn đến

hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội phạm này chưa đạt kết quả cao.

Việc triển khai thành lập hệ lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao tại Công an các địa phương còn chậm vì: (1) Việc tuyển dụng cán bộ có

trình độ CNTT còn gặp nhiều khó khăn do chưa có chính sách, chế độ đãi ngộ đặc thù.

(2). Theo Chương trình mục tiêu quốc gia PCTP giai đoạn 2012 – 2015 do Chính phủ

phê duyệt thì kinh phí cấp cho công tác phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

là một trong sáu dự án thành phần, với tổng kinh phí được cấp là 124 tỷ đồng từ ngân

sách Trung ương và nguồn khác. Tuy nhiên hoạt động này chưa tranh thủ được nguồn

kinh phí của địa phương để đầu tư các loại thiết bị máy móc phục vụ công tác mà chủ

yếu phụ thuộc vào trang bị của Bộ, trong khi đó dự án mua sắm trang thiết bị của C50

120

không đủ kinh phí để cấp phát cho tất cả các địa phương vì ngân sách Nhà nước có hạn.

Mặt khác, hiện nay các Đội cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao được đặt tại các

Phòng nghiệp vụ (PC44, PC45, PC46), ngoài công tác PCTP sử dụng công nghệ cao còn

phải thực hiện các công việc theo chức năng, nhiệm vụ của Phòng, do đó hiệu quả xác

minh, điều tra, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT còn hạn chế. Phương

tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu đồi hỏi của thực

tiễn, do đó trong nhiều trường hợp không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của

đối tượng. Ví dụ như vụ án Huỳnh Thái Học, lợi dụng là trưởng phòng cấp cao của

Công ty Chứng khoán Đại Việt, đối tượng đã đột nhập vào hệ thống mạng máy tính của

công ty để thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán khống, sau đó xóa, sửa file bút

toán các giao dịch trên chiếm đoạt 7,4 tỷ đồng. Vụ Võ Nguyễn Hoàng Sơn - Công ty

L.T. Việt Nam, đối tượng bị tố cáo nhập điểm khống chiếm đoạt trên 1 tỷ đồng. Tuy

nhiên, quá trình xác minh kiểm tra hệ thống phần mềm không xác định được người nào

nhập điểm khống, không xác định nhập từ máy tính nào, nhập vào thời gian nào nên

không thể xử lý đối tượng này [103].

Bên cạnh đó cơ sở vật chất phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa trong lĩnh

vực này còn thiếu thốn, vấn đề tài chính còn khó khăn và đặc biệt các kỹ thuật PCTP

trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa đáp ứng được yêu cầu công tác. Lực lượng Cảnh sát

nhân dân và các đơn vị chức năng khác không có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để lưu giữ,

phục hồi, bảo quản tang vật vi phạm (các dữ liệu điện tử, phần cứng, phần mềm máy

tính…); kinh phí hỗ trợ cho việc bảo quản, khôi phục lưu giữ các dữ liệu điện tử còn

eo hẹp. Dự án thành lập Trung tâm phục hồi, phân tích chứng cứ, dữ liệu điện tử Indira

Gandhi tại Hà Nội do Bộ nội vụ Ấn Độ tài trợ từ năm 2014 đã đi vào hoạt động năm

2019 nhưng quy mô còn nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Với Tòa án và Viện kiểm sát đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm

sát, xét xử các vụ án về CNTT&MVT có trình độ, sự am hiểu về CNTT&MVT chưa

sâu đặc biệt ở cấp huyện. Điều này là khó khăn, trở ngại trong việc thực hiện các biện

pháp phòng ngừa đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Thứ tư, khó khăn trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và

đấu tranh xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT [9] [10]

Việc triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng phòng ngừa

mặc dù đã được chú trọng, quan tâm nhưng trên thực tế nhiều nơi, nhiều lúc còn mang

tính hình thức, kém hiệu quả. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, lực lượng nào phát hiện

vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì lực lượng đó tổ chức điều tra, xử

lý. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với

các tội phạm này chưa đạt kết quả cao nhất. Tình trạng giao khoán chỉ tiêu công tác

121

nghiệp vụ cơ bản đến các đội nghiệp vụ, đến từng trinh sát vẫn diễn ra thường xuyên,

trong đó yêu cầu thực tiễn và khả năng đáp ứng các điều kiện thực hiện là khó khăn,

nên dẫn đến tình trạng chạy đua với số lượng, chỉ tiêu mà không quan tâm đến chất

lượng. Công tác tổ chức nắm tình hình, xây dựng và sử dụng mạng lưới cộng tác viên

bí mật còn yếu. Về cơ bản công tác đấu tranh chuyên án đảm bảo các yêu cầu về chính

trị, pháp luật, nghiệp vụ, đã huy động được nhiều lực lượng, phương tiện tham gia với

sự chỉ đạo thống nhất của Ban chuyên án; kết thúc chuyên án đều làm rõ được tính

chất vi phạm, đối tượng vi phạm và đề xuất hình thức xử lý theo quy định của pháp

luật. Tuy nhiên số lượng chuyên án được xác lập còn quá ít, do đó hiệu quả phòng

ngừa, đấu tranh với các tội phạm này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn .

Việc triển khai các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật còn hạn chế do khó khăn về

cơ sở vật chất, trang thiết bị…

Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân

chưa làm tốt việc phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo

chức năng, nhiệm vụ của mình.

Thứ năm, sự phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT giữa các chủ thể còn chưa hiệu quả

Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các

chủ thể còn tồn tại các vấn đề như: các lực lượng chưa thực sự chủ động trong hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Chưa kịp thời cập

nhật và hệ thống những phương thức, thủ đoạn mới để phổ biến, tuyên truyền, cảnh

báo cho nhân dân biết. Trong phòng ngừa vẫn nặng về việc đấu tranh, xử lý hơn phòng

ngừa các loại tội phạm này. Cụ thể, có những vụ án xảy ra trong thời gian qua đã gây

ra hậu quả rồi mới bị phát hiện và xử lý, nghĩa là chưa ngăn chặn được không cho tội

phạm xảy ra. Quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chuyên trách đấu tranh PCTP trong

lĩnh vực CNTT&MVT với các lực lượng trong và ngoài ngành Công an còn chưa chặt

chẽ, đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Việc phối hợp giữa các lực lượng chưa được tiến

hành thường xuyên, liên tục, còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, chủ yếu được thực hiện

vào thời gian có các đợt cao điểm tấn công tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hoặc

trong đấu tranh với các vụ án cụ thể như vụ án lây nhiễm các mã độc máy tính trong

thời gian gần đây. Thậm chí nhiều trường hợp sự phối hợp còn mang tính hình thức,

ngẫu hứng và chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể.

Lãnh đạo một số đơn vị, địa phương còn coi nhẹ, chưa nhận thức đầy đủ, đúng

đắn và sâu sắc tầm quan trọng của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa thường xuyên, kịp

thời. Các cơ quan chức năng cũng như chính quyền địa phương chưa thực sự đủ mạnh,

122

chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh, xử lý với các hành vi phạm tội trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Vẫn còn nhiều bất cập trong vấn đề trao đổi thông tin, hỗ trợ,

trong quản lý, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động giao dịch qua mạng máy tính, mạng

VT… Việc phối kết hợp giữa các lực lượng chức năng có liên quan từ Trung ương

xuống địa phương không phải lúc nào cũng trôi chảy và có hiệu quả, phần lớn vẫn dựa

trên hệ thống văn bản, giấy tờ, phân công nhiệm vụ chưa rõ ràng, không cụ thể trong

việc xác định phạm vi, mức độ phối hợp,... dẫn đến tình trạng chồng chéo, hiệu quả

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT còn thấp. Một số doanh

nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, viễn thông cung cấp không kịp thời, đầy đủ nội dung

các yêu cầu xác minh về thông tin thuê bao điện thoại, chủ tài khoản mạng Internet,…

(thậm chí có trường hợp không cung cấp thông tin), gây khó khăn cho các cơ quan

chức năng trong quá trình xác minh, điều tra từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Thứ sáu, hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT chưa được tiến hành chủ động, thường xuyên

Đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là mang tính xuyên quốc

gia và phi biên giới trong không gian mạng, nên để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu

quả với các tội phạm này hoạt động hợp tác quốc tế giữa nước ta với các quốc gia

trong khu vực và trên thế giới là một nhu cầu tất yếu, tự thân. Thực tế trong thời gian

qua chúng ta đã học tập được kinh nghiệm của một số quốc gia, vùng lãnh thổ về

phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT như tại Nhật Bản, Phần

Lan, Singapore, liên minh châu Âu (EU)... Chúng ta đã có những thỏa thuận, hiệp định

tương trợ với tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL, ASEANPOL và Công an

các nước nhằm trao đổi thông tin, xác minh đối tượng có liên quan đến tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Rất nhiều cán bộ trực tiếp đấu tranh với loại tội phạm này

được cử đi học các lớp tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bắt kịp

với sự phát triển của CNTT&MVT cũng như những phương thức, thủ đoạn mới của

người phạm tội.Tuy nhiên, hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa được tiến hành thường xuyên, chủ động mang

tính “một chiều”, thường chúng ta chỉ hợp tác khi xảy ra các vụ án có liên quan đến tội

phạm này và phía nước ngoài có yêu cầu chúng ta điều tra, xác minh. Ngoài ra hoạt

động hợp tác quốc tế cũng gặp khó khăn bởi các rào cản về ngôn ngữ, văn hóa, sự

xung đột không đồng nhất về pháp luật... Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến hiệu quả

của phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

123

Thứ bảy, công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT còn nhiều bất cập; công

tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của người sử dụng trong

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chưa được chú trọng

Công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT đã được Nhà nước giao cho nhiều

cơ quan chức năng trong đó quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn trong lĩnh vực mình

quản lý như Bộ thông tin truyền thông, Cục An toàn thông tin, Cục viễn thông, Ngân

hàng Nhà nước…tuy nhiên thực tế còn nhiều thiếu sót trong công tác quản lý ở lĩnh

vực này tạo điều kiện để đối tượng phạm tội lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm.

Trong nhận thức của quần chúng nhân dân, của doanh nghiệp và các tổ chức có

sử dụng các dịch vụ viễn thông, dịch vụ mạng và các hoạt động khác còn chưa chú ý

đến vấn đề bảo mật, đảm bảo an ninh, an toàn mạng của cơ sở dữ liệu, tài khoản cá

nhân trong quá trình tiến hành các hoạt động giao dịch. Các chủ thể chưa ý thức việc

tự bảo vệ cũng như tuyên truyền cho những người khác trong việc bảo vệ thông tin dữ

liệu cá nhân, chưa nắm được các phương thức thủ đoạn của các đối tượng phạm tội

trong lĩnh vực CNTT&MVT nên dễ dàng trở thành nạn nhân. Ý thức của quần chúng

nhân dân, của các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước về công tác bảo mật, đảm bảo an

toàn, an ninh mạng của nhiều trang web, báo điện tử, cơ sở dữ liệu của một số lĩnh vực

kinh tế quan trọng như Ngân hàng, Hàng không, Tài chính, Viễn thông... chưa được

quan tâm đầu tư đúng mức nên dễ bị hacker tấn công. Trong đó ý thức bảo mật của

người dùng còn hạn chế là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT có cơ hội và điều kiện phát triển. Phần lớn người dùng lâm vào hoàn cảnh

thất thoát dữ liệu đều không chuyên hoặc ít có sự hiểu biết về an ninh mạng, và đây cũng

chính là một trong những nguyên nhân lớn khiến họ trở thành nạn nhân của hacker. Một

điều rất rõ ràng là nếu chúng ta ít có kiến thức về công nghệ nhưng luôn có ý thức bảo

mật, thì sẽ giảm thiểu đi rất nhiều khả năng tấn công của Hacker, vì các phần mềm, ứng

dụng bảo mật đã được tự động hóa để đối mặt với các nguy cơ gây hại.

124

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Qua nghiên cứu về thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ở Việt nam cho chúng ta một số kết luận như sau

1. Thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hiện nay: qua các

số liệu thống kê và phân tích cơ cấu tình hình tội phạm cho thấy sự gia tăng về số

lượng, tính chất, thủ đoạn và hậu quả của loại tội phạm này.

2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin và mạng viễn thông

- Thực trạng triển khai các biện pháp phòng ngừa xã hội và các biện pháp

phòng ngừa nghiệp vụ của các chủ thể ;

- Thực trạng quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT tại Việt Nam

- Những kết quả đã đạt được về công tác xây dựng văn bản pháp luật điều

chỉnh, về hoạt động phối hợp giữa các chủ thể, về việc triển khai các biện pháp phòng

ngừa, về hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng ngừa.

- Những tồn tại, hạn chế trong nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của các chủ thể; trong

công tác xây dựng văn bản pháp luật; trong công tác tổ chức, xây dựng và trang thiết

bị cho lực lượng phòng ngừa; trong triển khai các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ và

đấu tranh xử lý; trong công tác phối hợp, xác minh;trong việc hợp tác quốc tế; trong

việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa xã hội.

- Phân tích nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại trong phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

Việc đưa ra được các tồn tại, thiếu sót cũng như phân tích các nguyên nhân

của những tồn tại trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa, đảm

bảo hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đạt hiệu quả cao.

125

Chƣơng 4

DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

VÀ MẠNG VIỄN THÔNG

4.1. Dự báo tình hình tội phạm và các yếu tố ảnh hƣởng đến phòng ngừa

tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

4.1.1 Dự báo tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng

viễn thông

Theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ 2011-2020 tại nội dung

số 10 Nhà nước ta xác định phát triển khoa học và công nghệ là động lực then chốt

của quá trình phát triển nhanh và bền vững, trong đó có đẩy mạnh phát triển và ứng

dụng CNTT. Điều này cũng đã được cụ thể hóa thành mục tiêu cần đạt được trong Đề

án đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông đã

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/9/2010. Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa

học công nghệ nói chung và CNTT nói riêng đã đem lại rất nhiều thành tựu cho sự

phát triển về mọi mặt ra đời sống kinh tế xã hội nhưng bên cạnh đó tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường.

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam trong những năm tới, không

chỉ giới hạn ở cơ số hành vi phạm tội là 10 [11] với 10 tội danh đã thực hiện trong giai

đoạn 2010-2019, mà sẽ mở rộng đến nhiều hành vi khác; không chỉ giới hạn tập trung vì

động cơ vụ lợi mà sẽ mở rộng sang nhiều động cơ, mục đích khác nhau như sử dụng

CNTT&MVT để lấy cắp bí mật nhà nước sử dụng cho các mục đích chính trị trực tiếp

đe dọa đến an ninh quốc gia. Theo các chuyên gia, với thực trạng nhiều cơ quan, doanh

nghiệp đã bị nhiễm mã độc gián điệp nằm vùng, những năm tiếp theo sẽ còn tiếp tục

chứng kiến nhiều cuộc tấn công có chủ đích APT với quy mô từ nhỏ tới lớn. Mã độc mã

hóa tống tiền tiếp tục bùng nổ, xuất hiện nhiều hình thức phát tán tinh vi và biến thể

mới. Mã độc trên di động tiếp tục tăng với nhiều dòng mã độc khai thác lỗ hổng nhằm

chiếm quyền root, kiểm soát toàn bộ điện thoại [11].

Diễn biến của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam sẽ

ngày càng phức tạp cả về số vụ, số đối tượng phạm tội; số vụ án sẽ tăng liên tục hàng

năm (trên 50% mỗi năm). Về cơ cấu tình hình tội phạm theo đơn vị hành chính, không

chỉ xuất hiện, tập trung tại các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội mà sẽ còn

rộng ra nhiều tỉnh, thành phố khác (giai đoạn 2010-2014 chỉ xuất hiện ở 26 tỉnh, thành

phố) [8][9][11], và trên quy mô cả nước, trong khu vực và trên thế giới do đặc điểm

của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là không có biên giới, không có khoảng

126

cách về địa lý. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ 4.0 sẽ làm xuất hiện, gia tăng,

phát triển của tội phạm có sử dụng công nghệ cao để phạm tội, theo quy luật: Ở đâu có

hạ tầng CNTT phát triển, sự gia tăng mật độ dân cư, có tốc độ tăng trưởng về kinh tế,

có số lượng người sử dụng Internet gia tăng, độ phân hóa giàu nghèo cao... nơi ấy sẽ

xuất hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và sẽ có sự gia tăng nhanh đối với loại

tội phạm này. Về cơ cấu theo phương thức, thủ đoạn phạm tội: số vụ án do tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT thực hiện dưới hình thức đồng phạm và đồng phạm có tổ

chức sẽ gia tăng trong thời gian tới. Hầu hết các vụ án thực hiện dưới hình thức đồng

phạm, phạm tội có tổ chức; xu thế hình thành ổ nhóm tội phạm sử dụng CNTT&MVT

để phạm tội sẽ mang tính quốc tế, có sự phân công vai trò cụ thể, chặt chẽ sẽ ngày

càng phổ biến.

Đặc biệt các chuyên gia của Bkav dự báo, mã độc sử dụng trí tuệ nhân tạo AI

có thể sẽ xuất hiện trong năm tới, ban đầu dưới hình thức những mẫu thử nghiệm PoC

(Proof of Concept). Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất của người dùng Internet đến từ mã

độc mã hóa tống tiền, mã độc xóa dữ liệu, mã độc đào tiền ảo và tấn công APT. Các

loại mã độc này có thể kết hợp nhiều con đường lây nhiễm khác nhau để tăng tối đa

khả năng phát tán, trong đó phổ biến nhất là khai thác lỗ hổng phần mềm, hệ điều hành

và qua email giả mạo. Tình trạng spam lừa đảo trên Facebook sẽ có nhiều biến tướng,

không chỉ với hình thức comment dạo, kẻ xấu có thể sẽ sử dụng triệt để các hình thức

khác như chat messenger, mời kết bạn hay tag vào các bài viết, xem chung… Hình

thức tung tin đồn thất thiệt về tấn công mạng như vụ việc của Thế giới di động, FPT

Shop, tin giả về tình hình dịch bệnh Covid-19… nhằm gây hoang mang, trục lợi có thể

sẽ gia tăng. Người dùng mạng xã hội cần đề cao cảnh giác hơn nữa với những hình

thức lừa đảo ngày càng tinh vi của các đối tượng xấu.

Hệ thống mạng máy tính, có sở dữ liệu thông tin số, hạ tầng thông tin quốc gia

tiếp tục phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức mới từ tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT trong nước và quốc tế. Tình trạng phát tán virut, phần mềm gián điệp để

truy cập, xâm nhập, trộm cắp thông tin tài khoản, thông tin cá nhân, tài liệu bí mật nhà

nước tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật

tự an toàn xã hội của đất nước. Đặc biệt các loại tội phạm liên quan đến ứng dụng điện

thoại thông minh (như phát tán mã độc, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bôi nhọ danh dự,

nhân phẩm, vu khống,...) sẽ gia tăng rất nhanh chóng. Số lượng phần mềm mã độc

nhắm vào dịch vụ ngân hàng trên nền tảng di động (mobile banking malware) cũng sẽ

tăng mạnh do người dùng có xu hướng thanh toán trực tuyến trên thiết bị này. Các loại

tội phạm truyền thống sẽ tăng cường sử dụng CNTT&MVT trong hoạt động phạm tội

của mình, đặt ra những thách thức lớn đối với công tác đấu tranh chống tội phạm như

127

trong thời gian qua các tội phạm đánh bạc, cá độ trực tuyến ngày càng phát triển về

quy mô, số vụ và số tiền giao dịch.

Những thiết bị, phương tiện điện tử, ứng dụng công nghệ mới tiếp tục bị tội

phạm lợi dụng triệt để trong hoạt động phạm tội. Đặc biệt, trong những năm tới hình

thức thanh toán thẻ ngân hàng (thanh toán trực tiếp bằng hình thức quẹt thẻ qua thiết bị

thanh toán) sẽ dần được thay thế bằng hình thức thanh toán qua thông tin tài khoản lưu

trên các phương tiện thiết bị di động thông minh (việc thanh toán chỉ cần thông qua sự

kết nối giữa thiết bị di động của người bán và người mua), đây chính là điều kiện

thuận lợi để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hoạt động. Các đường dây, ổ nhóm

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng trong

và ngoài nước sẽ tiếp tục được hình thành với quy mô, tính chất ngày càng phức tạp;

tăng cường kết hợp tấn công, sử dụng công nghệ mới và liên tục thay đổi phương thức,

thủ đoạn để tránh bị phát hiện như: tấn công mục tiêu qua trung gian, sử dụng phần

mềm, công nghệ tạo địa chỉ IP giả để che giấu nguồn gốc truy cập, sử dụng robotcall

để thực hiện các cuộc gọi tự động với mục đích lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc

đe dọa tống tiền; sử dụng hòm thư điện tử miễn phí hoặc lấy cắp của người khác; lợi

dụng sơ hở, lỗ hổng bảo mật từ nội bộ,...Việc này đặt ra khó khăn, thách thức lớn đối

với phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đòi hỏi lực lượng

phòng, chống tội phạm phải không ngừng nỗ lực nghiên cứu tìm ra những giải pháp

tháo gỡ và phối hợp chặt chẽ trong phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này.

- Về thủ đoạn phạm tội: Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT sẽ sử dụng một

số thủ đoạn chính sau để thực hiện hành vi phạm tội

+ Phát triển mạng Botnet để lấy cắp thông tin, tấn công các website của Chính

phủ, ngân hàng, hàng không, lưới điện quốc gia; phát tán tin nhắn rác, quảng cáo.

+ Sử dụng phần mềm gián điệp, điều khiển từ xa để tấn công có mục đích chính

trị và kinh tế vào các cơ quan chính phủ, ngân hàng và các doanh nghiệp lớn, với mục

đích lấy cắp và phá hoại dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu liên quan đến an ninh quốc gia,

quốc phòng.

+ Sử dụng blog cá nhân, mạng xã hội để hoạt động phạm pháp, như xâm

phạm an ninh quốc gia, thành lập băng nhóm tội phạm, xâm phạm quyền riêng tư,

phát tán virus...

+ Khai thác lỗ hổng bảo mật, ứng dụng điện toán đám mây (file sharing) để tấn

công, lấy cắp thông tin, thay đổi, phá hoại thông tin, lấy cắp dữ liệu và thông tin thẻ tín

dụng (Ví dụ: nhóm Anonymous lợi dụng điện toán đám mây của Amazon, khai thác lỗ

hổng máy chủ, truy cập cơ sở dữ liệu, tấn công game trực tuyến Playstation Network;

lấy cắp dữ liệu và thông tin thẻ tín dụng).

128

+ Lấy cắp thông tin dữ liệu cá nhân của smartphone để sử dụng cho các mục

đích phạm tội khác nhau. DroidCleaner và SuperClean là các dòng virus đầu tiên đã có

thể thực hiện hành vi lây chéo giữa máy tính và smartphone, xu hướng này sẽ tiếp diễn

mạnh mẽ, thậm chí bùng nổ bởi thị trường smartphone đang tăng lên nhanh chóng; xu

hướng giả mạo phần mềm, ứng dụng để lây nhiễm virus trên điện thoại di động sẽ còn

tiếp tục trong những năm tới. Tội phạm có thể cài đặt phần mềm theo dõi trên điện

thoại để theo dõi hành vi của người sử dụng, điều này có thể tạo ra được các gian lận

như email để lừa nạn nhân down load các tệp chứa mã độc. Người dùng cần nhận thức

rõ hơn về sự nguy hiểm của các cuộc tấn công giám sát di động và các bước để chống

lại nó.

+ Tấn công qua truy cập qua VPN (Virtual Private Network, hệ thống mạng

riêng ảo nhằm đáp ứng nhu cầu chia sẻ thông tin, truy cập từ xa và tiết kiệm chi phí)

để lấy cắp thông tin doanh nghiệp, thông tin cá nhân khi gia tăng ứng dụng truy cập

qua VPN do các nhân viên thường xuyên phải làm việc ở ngoài văn phòng.

+ Sử dụng thông tin thẻ ATM để thanh toán dịch vụ, mua hàng hóa, rút tiền

ngân hàng; mua bán thông tin thẻ ATM để hưởng lợi bất chính; tấn công email của cá

nhân, doanh nghiệp lấy thông tin để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; truy cập trái

phép mạng viễn thông để ăn cắp cước phí viễn thông.

+ Lập trang web mua bán hàng hóa trực tuyến, bán sản phẩm ảo để lừa đảo

chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chat để thực hiện các hành vi đồi bại, lừa đảo, cưỡng đoạt

tài sản, mại dâm, mua bán người.

+ Sử dụng mạng máy tính, mạng Internet, mạng xã hội đưa thông tin lên mạng

với mục đích truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy; mua bán mại dâm; mua bán chất ma

túy; mua bán phụ nữ, trẻ em; bán giấy tờ giả; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đánh bạc; tài

trợ cho khủng bố, rửa tiền; tống tiền; xâm phạm nhân phẩm, tự do cá nhân; tuyên

truyền tư tưởng chống phá Nhà nước, chính quyền nhân dân...

+ Deep fakes – video giả và ghi âm thanh giống với thực tế tạo ra các sản phẩm

mang mục đích xấu như một chính trị gia có thể bị giả mạo đưa ra một bình luận gây

mất phiếu trước cuộc tranh cử; một bản ghi âm giả của Giám đốc điều hành cấp cao có

thể ra lệnh cho bộ phận kế toán thực hiện giao dịch tài chính vào tài khoản ngân hàng

của tội phạm...

+ Robotcall: các đối tượng phạm tội sử dụng robotcall để thực hiện các cuộc gọi

giả danh cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án, Công an, Viện kiểm sát... nhằm đe dọa

tống tiền hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi này đã được các cơ quan chức năng

thường xuyên cảnh báo, tuy nhiên thực tế trong thời gian qua vẫn có rất nhiều người bị

lừa đảo hoặc bị đe dọa nên đã chuyển tiền cho các đối tượng lên tới hàng tỷ đồng.

129

Ngoài phương thức nêu trên, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT sẽ thường

xuyên thay đổi phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thủ đoạn càng ngày càng tinh vi, đa

dạng hơn nhằm che giấu, đối phó với sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Theo

đánh giá của các chuyên gia về An ninh mạng, trong năm tiếp theo tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT có tổ chức, tội phạm hoạt động xuyên quốc gia ở nước ta

sẽ còn diễn biến phức tạp. Các tổ chức tội phạm tiếp tục hoạt động với những vỏ bọc

đa dạng, phương thức hoạt động và hành vi che giấu tội phạm tinh vi xảo quyệt hơn,

gây khó khăn cho công tác phát hiện điều tra. Dự báo hành vi của tội phạm có tổ chức

sử dụng CNTT&MVT để phạm tội như xâm nhập trộm cắp phá hoại dữ liệu làm tê liệt

hệ thống mạng Internet của các cơ quan doanh nghiệp với mục đích kinh tế và phi kinh

tế; sử dụng công nghệ cao trộm cắp tài sản, sử dụng trái phép hoặc làm giả thẻ tín

dụng để mua hàng từ nước ngoài rồi chuyển về Việt Nam… sẽ có chiều hướng gia

tăng. Đặc biệt là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hoạt động kinh doanh đa

cấp, bán hàng trực tuyến dự báo sẽ tiếp tục phát triển. Năm 2017 cũng chứng kiến sự

bùng nổ của các ransomware lợi dụng lỗ hổng hệ điều hành để phát tán với tốc độ

chóng mặt. Điển hình là mã độc WannaCry, lây nhiễm trên hàng trăm máy tính tại hơn

90 nước chỉ trong vài giờ. Tại Việt Nam, hơn 1.900 máy tính có chứa WannaCry và

hơn 52% máy tính tồn tại lỗ hổng có thể bị tấn công bởi mã độc này. Sau đó là sự xuất

hiện của mã độc tống tiền Petya làm tê liệt hàng loạt ngân hàng, sân bay, máy ATM và

nhiều doanh nghiệp lớn tại châu Âu. Tương tự, mã độc Bad Rabbit đã lan rộng trong

hệ thống của ít nhất 200 tổ chức trên thế giới. Số tiền chuộc khổng lồ hacker kiếm

được chính là nguyên nhân dẫn tới sự bùng nổ của loại mã độc nguy hiểm này.

Năm 2018, 2019 tiếp tục chứng kiến sự bùng nổ các cuộc tấn công phát tán mã

độc nhằm thu lợi bất chính như mã độc mã hóa tống tiền ransomware, mã độc đào tiền

ảo… Chuyên gia Bkav dự đoán, bên cạnh việc phát tán mã độc để tạo ra mạng lưới

botnet đào tiền ảo, hacker cũng sẽ nhắm mục tiêu tấn công trực tiếp vào các sàn giao

dịch tiền ảo. Hiện nay hầu hết các sàn giao dịch tiền ảo đều không có sự bảo đảm từ

các chính phủ, do vậy nếu xảy ra tấn công, người tham gia sàn giao dịch sẽ chịu mọi

rủi ro, mất tiền [108].

Trong năm 2020, Bkav dự báo mã độc tấn công có chủ đích sẽ tinh vi hơn, cùng

với đó là các mã độc giả mạo các phần mềm, chương trình chuẩn thông qua kỹ thuật

DLL Side-Loading để qua mặt phần mềm diệt virus. Tấn công mã hóa tống tiền sẽ còn

tiếp tục gia tăng do nguồn lợi trực tiếp nó mang lại cho hacker ngày càng lớn. Các

thiết bị IoT như Router, Wi-Fi, Camera giám sát, thiết bị đầu cuối… cũng sẽ là điểm

nóng về an ninh mạng khi các thiết bị này ngày càng trở nên phổ biến và kết nối rộng.

Tấn công lừa đảo chiếm đoạt tài khoản ngân hàng sẽ tiếp tục gia tăng khó lường.Tin

130

tức giả mạo (fake news) sẽ tiếp tục là vấn đề cần giải quyết đối với cộng đồng và các

cơ quan quản lý nhà nước. Sẽ xuất hiện những tin giả mạo, clip giả mạo với mục đích

xấu, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo AI như deepfake hoặc các cuộc gọi giả mạo

tự động qua robotcall…

Tính chất nghiêm trọng của hành vi do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

thực hiện chủ yếu là hành vi nghiêm trọng (đến 7 năm tù), sẽ có xu hướng gia tăng,

chuyển dần sang rất nghiêm trọng (đến 15 năm tù) và đặc biệt nghiêm trọng (trên 15

năm tù), điều này được lý giải do sự thay đổi, điều chỉnh khung hình phạt của BLHS

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Tuổi của người phạm tội có sử dụng

CNTT&MVT để phạm tội có xu hướng trẻ hóa nhanh, hiện tập trung ở lứa tuổi từ 18

đến 30 tuổi, sẽ chuyển dần sang từ 18 đến 25 tuổi. Điều này được lý giải bởi theo

nghiên cứu tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở lứa

tuổi từ 18 đến 30 (chiếm 54,23%). So sánh với số liệu thống kê của Liên hiệp quốc thì

các đối tượng phạm tội CNTT&MVT trên thế giới lại tập trung chủ yếu ở độ tuổi dưới

25 chiếm 45% tổng số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT[7] [9][11].

Như vậy, so với thế giới, tuổi của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

của Việt Nam cao hơn với mặt bằng chung của thế giới từ 5 đến 10 tuổi, theo xu thế

hội nhập và phát triển số tuổi của người vi phạm sẽ bị trẻ hóa vì đây là tội phạm xuyên

quốc gia, phi truyền thống. Người phạm tội có trình độ hiểu biết về CNTT&MVT

chiếm đa số và tập trung ở các đối tượng làm việc trong các công ty kinh doanh dịch

vụ CNTT&MVT, các nhân viên ngân hàng; sinh viên các trường đại học, cao đẳng,

một số đã tốt nghiệp nhưng chưa có việc làm, việc làm không ổn định sẽ là những đối

tượng phạm tội tiềm năng. Đối tượng sử dụng CNTT&MVT để phạm tội có xu hướng

gia tăng về số lượng, trong đó đối tượng là người nước ngoài sẽ tăng và chiếm tỷ lệ

cao hơn so với hiện nay. Xu thế hình thành ổ nhóm tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT hoạt động mang tính quốc tế, có sự phân công vai trò cụ thể, chặt chẽ sẽ

ngày càng phổ biến [7][8][12].

4.1.2 Dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Để phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT những năm tới

đạt hiệu quả thì công tác dự báo các yếu tố tác động đóng vai trò quan trọng, là thước

đo để đưa ra các giải pháp mang tính khả thi. Do vậy, việc dự báo các yếu tố tác động

đến phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT phải dựa trên các cơ sở

khoa học và thực tiễn.

Thực tiễn trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI cho thấy lợi ích từ

CNTT&VT đem đến cho từng quốc gia, doanh nghiệp và người dân những lợi ích to lớn.

131

Trong đó, CNTT&VT được coi là chìa khóa để mỗi quốc gia phát triển kinh tế nhanh nhất

góp phần hội nhập nền kinh tế thế giới một cách sâu rộng. Chính vì vậy, phát triển

CNTT&VT là chiến lược ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia trong thế kỷ XXI.

Với tốc độ phát triển như vũ bão của CNTT và Internet hiện nay cũng như trong

những năm tiếp theo, đặc biệt khi cả thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp

lần thứ tư ( còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0) sẽ là động lực để phát triển

CNTT&VT trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các

quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu phát triển nhanh chóng. Xu hướng toàn cầu hóa

nền kinh tế thế giới ngày càng được đẩy mạnh, quan hệ quốc tế diễn ra trong xu thế vừa

hợp tác vừa đấu tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế của các quốc gia đang phát

triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế về

kinh tế cũng làm phát sinh nhiều tiêu cực, trong đó tội phạm sử dụng CNTT&MVT như

một công cụ, phương tiện mới để thực hiện các hành vi vi phạm như lừa đảo, buôn bán

hàng cấm, phát tán virut, lây lan mã độc để đe dọa tống tiền...

Trong ba năm 2017- 2019, số lượng lỗ hổng an ninh trong các phần mềm, ứng

dụng được công bố tăng đột biến với hơn 15.700 lỗ hổng, gấp khoảng 2,5 lần

những năm trước đó. Đặc biệt, nhiều lỗ hổng nghiêm trọng xuất hiện trên các phần

mềm phổ biến như Adobe Flash Player, Microsoft Windows… và cả trong nhiều

dòng CPU của Intel, Apple, AMD... Mặc dù bản vá an ninh đều nhanh chóng được

các nhà sản xuất công bố sau khi lỗ hổng xuất hiện, nhưng việc cập nhật bản vá lại

chưa kịp thời, thậm chí nhiều năm sau đó vẫn chưa được cập nhật. Điển hình như lỗ

hổng SMB, sau 2 năm vẫn có tới hơn 50% máy tính tại Việt Nam chưa được vá lỗ

hổng này. Đây là lỗ hổng từng bị khai thác bởi mã độc mã hóa tống tiền WannaCry,

lây nhiễm hơn 300.000 máy tính trên thế giới trong vài giờ. Việc cập nhật bản vá

chưa kịp thời tạo điều kiện cho hacker lợi dụng lỗ hổng để tấn công hệ thống mạng,

từ đó lây nhiễm virus, cài cắm phần mềm gián điệp, thực hiện tấn công có chủ đích

APT.

Bkav khuyến cáo, bên cạnh giải pháp phòng chống mã độc tổng thế, các cơ

quan, doanh nghiệp cần trang bị giải pháp kiểm soát chính sách an ninh, đảm bảo các

máy tính trong hệ thống cập nhật đầy đủ bản vá lỗ hổng phần mềm để tránh nguy cơ bị

khai thác. Người dùng nên bật chế độ tự động update và thực hiện kiểm tra, cài đặt các

bản vá cho máy tính của mình.

Ngoài ra hội nhập kinh tế quốc tế là quy luật và xu thế tất yếu của mọi quốc gia

trong thế kỷ XXI và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Điều này thể hiện

rõ trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI “Chủ động và tích cực hội nhập

quốc tế và khu vực“ [42]. Sau quá trình đàm phán thành công Việt Nam đã trở thành

132

thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO và tham gia vào một số Hiệp

định, Điều ước quốc tế về thương mại khác như Hiệp định thương mại tự do và Hiệp

định bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và liên minh châu Âu (EVFTA và IPA) ký vào ngày

30/6/2019, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) ký

ngày 8/3/2018...

CNTT đã trở thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, bền vững, doanh

thu cao, có giá trị xuất khẩu lớn. Việt Nam đủ khả năng phát triển, sản xuất các sản

phẩm, dịch vụ CNTT đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, tạo nền

tảng để phát triển kinh tế tri thức, góp phần làm chủ các hệ thống thông tin, bảo đảm

an toàn thông tin và chủ quyền số quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới còn

nhiều khó khăn và phục hồi chậm nhưng nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn tiếp tục đầu

tư, mở rộng sản xuất tại Việt Nam như: Samsung, LG, Panasonic, Canon, Intel... Các

doanh nghiệp phần mềm tiếp tục giữ vững thị trường xuất khẩu, dịch vụ CNTT phát

triển khá, đa dạng các loại hình dịch vụ. Tổng doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục

đạt mức cao, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, đóng góp ngày càng tăng vào tăng

trưởng GDP cũng như xuất khẩu của cả nước. Về ứng dụng CNTT, 100% cơ quan nhà

nước có Trang/Cổng thông tin điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến

các loại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Có 52% dân số số sử dụng dịch vụ

Internet Hệ thống đào tạo nhân lực CNTT tiếp tục được duy trì ổn định với khoảng

290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo nghề về CNTT-TT [22].

Về viễn thông cũng đã có sự phát triển nhanh chóng, theo kịp với sự phát

triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đến nay số lượng các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia thiết lập cơ sở hạ tầng viễn thông và

cung cấp các dịch vụ viễn thông ngày càng nhiều. Tính đến năm 2015, tổng số

doanh nghiệp đã được cấp giấy phép thiết lập hạ tầng mạng viễn thông công cộng

có 26 doanh nghiệp, tổng số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông là 72 doanh

nghiệp, có 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động với tổng số thuê

bao di động phát sinh lưu lượng là 120.607.206 thuê bao. Đối với thị trường

Internet, có 38 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet với tổng số thuê bao

Internet là 27.303.648 thuê bao [23]. Theo số liệu của Bộ thông tin và truyền thông

tính đến hết tháng 6/2019, tổng số máy điện thoại di động của Việt Nam là 134,5 triệu

thuê bao, bằng 112,3% so với cùng kỳ năm 2018, có 75 doanh nghiệp cung cấp dịch

vụ viễn thông. Số người sử dụng Internet là 64 triệu người chiếm 2/3 dân số Việt

Nam hiện nay, tăng 28% so với năm 2017. Có 58 triệu người dùng mạng xã hội

trên thiết bị di động tính đến đầu năm 2019. Trong năm 2020 đã triển khai cung cấp

dịch vụ 5G tại Việt Nam [23].

133

Ngày 22/9/2010 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Đƣa Việt Nam sớm

trở thành nƣớc mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông“ đã xác định Công

nghệ thông tin và truyền thông là động lực quan trọng góp phần bảo đảm sự phát triển

và tăng trưởng bền vững của đất nước, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của

các cơ quan nhà nước, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho các cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp và người dân. Đề án cũng đặt ra mục tiêu cho sự phát triển của ngành CNTT và

truyền thông ở nước ta là Tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm đạt từ 2-3 lần tốc độ

tăng trưởng GDP trở lên. Đến năm 2020 tỷ trọng công nghệ thông tin và truyền thông

đóng góp vào GDP đạt từ 8-10%.

Đề án đã đưa ra 6 mục tiêu cần đạt được cho 2 giai đoạn là 2015 và 2020 như

sau: Về nguồn nhân lực CNTT phải đáp ứng được yêu cầu quốc tế phấn đấu đến năm

2020 có 70% dân số sử dụng Internet; Về công nghiệp CNTT Việt Nam phấn đấu là 1

trong 10 nước dẫn đầu về cung cấp dịch vụ gia công phần mềm và nội dung số; Về hạ

tầng viễn thông băng rộng, đến năm 2020 phủ sóng di động đến 95% dân số; Về phổ

cập thông tin, hầu hết các gia đình sử dụng các dịch vụ số, 50% hộ gia đình có máy

tính và truy cập Internet băng rộng; Về ứng dụng CNTT Việt Nam xây dựng và vận

hành Chính phủ điện tử ở mức độ khá, phấn đấu 100% các doanh nghiệp ở những

ngành, lĩnh vực then chốt, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có ứng dụng CNTT

trong quản lý, điều hành, sản xuất kinh doanh; Về xây dựng doanh nghiệp và phát triển

thị trường CNTT và truyền thông tiếp tục phát triển và mở rộng các doanh nghiệp hiện

có, nâng cao tỷ trọng doanh thu đóng góp vào ngân sách nhà nước (Điều 1 Đề án). Sau

gần 7 năm thực hiện, đến nay cơ bản các mục tiêu đề ra cho năm 2015 đều đạt được.

Kết quả này khẳng định chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển công nghệ

thông tin và truyền thông là đúng hướng, đúng xu thế và quy luật phát triển. Năm 2020

được xác định là năm “ Chuyển đổi số quốc gia“ đánh dấu sự thay đổi từ phương thức

hoạt động truyền thống của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sang doanh nghiệp số

bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật

(IoT), điện toán đám mây (Cloud)... Đây được coi là cơ sở thực tiễn để CNTT&VT

tiếp tục phát triển ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Trên thế giới cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, giữa

các quốc gia trên thế giới đã và đang bước vào giai đoạn „„thế giới phẳng„ không có

khoảng cách và với tính chất của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là xuyên quốc

gia thì nó lại càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Thời gian qua tội phạm mạng đã và

đang gây ra những thiệt hại to lớn về kinh tế cho các quốc gia, tổ chức Cảnh sát hình

sự quốc tế INTERPOL đã xếp tội phạm này về tính chất nguy hiểm chỉ đứng sau tội phạm ma túy và khủng bố. Chỉ riêng với tình hình an ninh mạng website theo thống kê

134

trong 3 quý đầu năm 2019, có 454,599 website bị hack trên toàn thế giới, riêng quý 3

là 137,512 website, tăng hơn so với cùng quý năm ngoái. Con số này thể hiện tình

hình an ninh mạng đang diễn ra ngày càng phức tạp và nguy hiểm. Các đối tượng

phạm tội có thể thu được lợi nhuận từ các vụ tấn công mạng lên tới 1.5000 tỷ USD.

Các hình thức tấn công mạng phổ biến là : Tấn công DoS và DDoS; tấn công phần

mềm độc hại như các mã độc, phần mềm gián điệp; tấn công trung gian; tấn công lừa

đảo nhằm chiếm đoạt tài sản; tấn công vào lỗ hổng ứng dụng web…

Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 cùng với sự gia tăng liên tục của các ca

nhiễm, Công ty an ninh mạng Kaspersky đã liên tục phát hiện nhiều công cụ tấn công

mới liên quan đến COVID-19 đang được sử dụng bởi tội phạm mạng. Chúng đã gửi

các e-mail tới khách hàng chứa các tệp pdf, mp4 và docx độc hại được ngụy trang

thành các tài liệu liên quan đến virus Corona chủng mới và cách phòng tránh. Tôi

phạm mạng đã mạo danh Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) của

Mỹ để gửi email với nội dung khuyến nghị về COVID-19. Khi người dùng nhấp vào

tên miền cdc-gov.org và được chuyển đến trang đăng nhập Outlook. Lúc này, người

dùng sẽ bị đánh cắp thông tin đăng nhập email. Gần đây nhất, Kaspersky cũng phát

hiện các email lừa đảo chào bán sản phẩm và phương thức tấn công này được sử dụng

phổ biến hơn trong các email spam tại Nigeria. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy các

email lừa đảo với nhiều liên kết lừa đảo cũng như tệp đính kèm chứa mã độc.Một

trong những chiến dịch spam mới nhất giả mạo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho

thấy tin tặc đã lợi dụng uy tín của WHO trong việc thường xuyên cập nhật thông tin về

COVID-19 để tấn công mạng.Người dùng khi nhấp vào liên kết nhúng trong email

được gửi từ “WHO” sẽ được chuyển hướng đến một trang web lừa đảo yêu cầu nhập

thông tin cá nhân. Sau đó, những thông tin này sẽ đến tay tội phạm mạng.

Phương thức lừa đảo này đã được các chuyên gia của Kaspersky cảnh báo gần

đây, như lời mời cho vay tiền từ WB (Ngân hàng Thế giới) hoặc IMF (Quỹ tiền tệ

Quốc tế). Kaspersky cũng đã tìm thấy các tệp độc hại được ngụy trang thành những tài

liệu liên quan đến virus. Các tệp độc hại được ẩn dưới vỏ bọc của tệp pdf, mp4 và

docx về virus Corona. Tên của tệp thể hiện rằng chúng chứa các hướng dẫn bằng video

về cách bảo vệ người dùng khỏi virus, cập nhật về các mối nguy hại và quy trình phát

hiện virus. Tuy nhiên trên thực tế, các tệp này chứa một loạt các mối đe dọa mạng, từ

Trojan đến Worm, có khả năng phá hủy, chặn, sửa đổi hoặc sao chép dữ liệu, cũng như

can thiệp vào hoạt động của máy tính hoặc mạng máy tính. Một số tệp chứa mã độc

được phát tán qua email. Ví dụ, tệp có định dạng excel gồm danh sách các nạn nhân

nhiễm COVID-19 được đính kèm trong email gửi từ “WHO” nhưng trên thực tế là một

trình tải xuống Trojan có khả năng tải xuống và cài đặt tệp chứa mã độc lên máy người

135

dùng. Tệp thứ hai này là một Trojan-Spy được thiết kế để thu thập nhiều dữ liệu khác

nhau, bao gồm cả mật khẩu, từ thiết bị của nạn nhân và gửi cho tin tặc. Kaspersky đã

phát hiện 93 phần mềm độc hại liên quan đến COVID-19 ở Bangladesh, 53 ở

Philippines, 40 ở Trung Quốc, 23 ở Việt Nam, 22 ở Ấn Độ và 20 ở Malaysia. Tại

Singapore, Nhật Bản, Indonesia, Hồng Kông, Myanmar và Thái Lan, số phần mềm

độc hại ở mức dưới 10.

Như vậy cùng với các yếu tố tác động là sự phát triển của CNTT&MVT trong

nước thì tình hình gia tăng các hành vi tấn công mạng với phương thức ngày càng tinh

vi của các đối tượng phạm tội trên thế giới đã phần nhiều ảnh hưởng đến tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam. Thực tế cho thấy nhiều hành vi tấn

công mạng trên thế giới đã và đang diễn ra tại Việt Nam, gây ra những thiệt hại to lớn

về kinh tế mà như hành vi tấn công chiếm quyền điều khiển thiết bị, phát tán mã độc,

lừa đảo qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản... Để công tác phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT có hiệu quả việc dự báo các yếu tố tác động đến tình hình tội

phạm trong lĩnh vực này là rất quan trọng, nó là cơ sở cần thiết cho việc đề xuất các

biện pháp phòng ngừa.

4.2 Các giải pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

4.2.1 Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung phòng

ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được các chủ thể

tiến hành với mục đích ngăn ngừa không để cho tội phạm xảy ra. Hoạt động này có rất

nhiều ý nghĩa về mặt kinh tế, pháp lý và thực tiễn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều chủ thể

khi tiến hành phòng ngừa chưa nhận thức được sâu sắc mục đích, ý nghĩa của hoạt động

này. Nhiều nơi, nhiều chỗ còn không làm hoặc làm chưa hết trách nhiệm của mình, thực

hiện các hoạt động mang tính hình thức đối phó, hoặc để tội phạm xảy ra gây thiệt hại

lớn về kinh tế rồi mới có khuyến cáo cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhiều cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp ngại đầu tư hoặc không đầu tư chi phí cho hệ thống bảo

mật thông tin tạo ra những kẽ hở, lỗ hổng bảo mật tạo điều kiện để tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT lợi dung thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.

Do vậy cần nâng cao nhận thức hơn nữa về mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Phải xác định đây không chỉ là trách

nhiệm của các chủ thể chuyên trách phòng ngừa mà là trách nhiệm của toàn xã hội tiến

tới ngăn chặn, hạn chế và dần loại bỏ tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ra khỏi

đời sống xã hội. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân cần nhận thức sâu sắc trách nhiệm của

bản thân, trách nhiệm đối với xã hội từ đó nâng cao ý thức phòng ngừa, ngăn chặn

136

không để cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT xảy ra vì thiệt hại cho mỗi cá

nhân, mỗi cơ quan tổ chức cũng là gây thiệt hại chung cho cả xã hội. Với các cơ quan

bảo vệ pháp luật như Công an, Tòa án, Viện kiểm sát cần quán triệt sâu sắc vai trò của

phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói

riêng. Có thể thông qua các buổi hội thảo, tọa đàm, tổng kết trao đổi kinh nghiệm giữa

các lực lượng qua đó nhằm nâng cao nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Với các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức và công dân có

thể tổ chức các lớp tập huấn, các cuộc thi, các lớp bồi dưỡng kiến thức về phòng ngừa tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT qua đó phân tích rõ những hậu quả, tác hại mà tội

phạm này gây ra cũng như cảnh báo những phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT để các cá nhân, tổ chức có ý thức chủ động phòng

ngừa. Đẩy mạnh thực hiện phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc, nhằm

nâng cao nhận thức và động viên quần chúng nhân dân tích cực, chủ động tham gia cung

cấp các nguồn tin báo tố giác tội phạm nói chung và các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng. Thường xuyên thông báo những lỗ hổng, sơ hở, thiếu sót của các

doanh nghiệp, tổ chức bị tội phạm lợi dụng để có biện pháp khắc phục kịp thời.

4.2.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Để phát triển CNTT&VT, trong thời gian qua Nhà nước đã ban hành các văn

bản pháp luật như: Luật công nghệ thông tin, Luật viễn thông, Luật giao dịch điện tử,

Luật an toàn thông tin mạng, Luật an ninh mạng ,... Việc ban hành các văn bản pháp

luật này đã góp phần khắc phục cơ bản những nhược điểm trong quản lý nhà nước về

CNTT&MVT. Tuy nhiên hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vẫn còn nhiều bất cập và cần phải sửa đổi,

bổ sung để phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật liên quan đến đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một

trong những kiến nghị quan trọng và cấp bách.

+ Hoàn thiện các quy định của luật chuyên ngành về CNTT&VT

Năm 2006 đánh dấu sự ra đời của Luật công nghệ thông tin và năm 2009 là

Luật viễn thông đã đặt nền tảng đầu tiên về mặt pháp lý cho sự hình thành và phát

triển CNTT&VT tại Việt Nam.

Để đưa Luật công nghệ thông tin và Luật viễn thông vào thực thi, các cơ

quan chức năng đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn như Nghị định số

71/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng 05 năm 2007 quy định chi tiết và

hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật CNTT; Nghị định số 63/2007/NĐ-CP

của Chính phủ ngày 10 tháng 04 năm 2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính

137

trong lĩnh vực CNTT; Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng

dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet ngày 28/8/2008; Nghị định số

25/2011/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật viễn thông; Nghi định số 28/2009/NĐ-CP

của Chính phủ ngày 20 tháng 03 năm 2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet;

Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-

TANDTC ngày 10/9/2012 hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một

số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT; Nghị định 25/2014/NĐ-CP quy định về

phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao... Các

văn bản hướng dẫn trên đã làm rõ một số nội dung các quy định trong Luật CNTT

và Luật VT như giải thích thuật ngữ được sử dụng trong luật, chỉ rõ trách nhiệm

quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&VT cũng như đưa ra các biện pháp xử lý,

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Trong tình hình hiện nay để

đáp ứng với yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT và đặc biệt để các văn bản pháp luật này có sự tương thích, thống

nhất với các văn bản pháp luật khác mới được sửa đổi, bổ sung như BLHS năm

2015 hoặc được ban hành mới như Luật an toàn thông tin mạng 2015 thì cần phải

có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Năm 2015 Luật an toàn thông tin mạng được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ

họp thứ 10 thông qua và có hiệu lực thi hành từ năm 2016. Đây là văn bản pháp luật

đầu tiên, tập trung giải quyết vào các nhóm vấn đề chính hiện vẫn đang thiếu các quy

định pháp lý là tấn công mạng, phát tán thư rác, mã độc, lưu hành phần cứng, phần

mềm, rao bán thông tin cá nhân trên mạng bất hợp pháp, bảo vệ lợi ích quốc gia trên

mạng,... Luật an toàn thông tin mạng sẽ là cơ sở pháp lý cho việc triển khai công tác

đảm bảo an ninh, an toàn thông tin và đấu tranh phòng chống tội phạm mạng trong

thời gian tới.

Luật An ninh mạng đã được ban hành năm 2017 trong đó khái niệm về“tội

phạm mạng” được quy định tại khoản 3, Điều 3. Theo đó tội phạm mạng là hành vi sử

dụng không gian mạng, CNTT hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm được

quy định tại Bộ luật hình sự 2015. Đây là một văn bản luật quan trọng có liên quan

trực tiếp đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Nhưng cho đến nay Luật an toàn thông tin mạng và Luật An ninh mạng vẫn

chưa được các cơ quan chức năng ban hành văn bản hướng dẫn. Do vậy cần khẩn

trương tiếp thu ý kiến tham gia của các cơ quan, doanh nghiệp để hoàn thiện dự thảo

các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản luật này.

138

Cần thiết phải bổ sung các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng thẻ cào

viễn thông trong Luật viễn thông hoặc Luật an ninh mạng. Trong vụ án “Sử dụng

mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, đánh bạc, mua

bán trái phép hóa đơn và rửa tiền xảy ra tại Phú Thọ và một số tỉnh, thành phố”, cơ

quan cảnh sát điều tra cho biết, hiện nay đang tồn tại một lỗ hổng lớn trong công tác

quản lý thanh toán bằng thẻ cào viễn thông. Việc quản lý thẻ cào viễn thông được quy

định tại Nghị định 25 hướng dẫn Luật Viễn thông. Tuy nhiên, Nghị định này chỉ quy

định thẻ cào viễn thông là một loại hàng hóa chuyên dụng mà không quy định thẻ cào

viễn thông được phép dùng vào mục đích gì. Cũng chưa có quy định về trách nhiệm

của nhà mạng trong việc cung cấp thẻ cào viễn thông làm trung gian thanh toán; Ngân

hàng nhà nước cũng không thừa nhận thẻ cào viễn thông là trung gian thanh toán.

Trong khi đó, ngoài việc dùng để nạp tiền điện thoại, thẻ cào viễn thông đang được sử

dụng là một kênh thanh toán trung gian cho nhiều hoạt động khác như thanh toán qua

ví điện tử, nạp thẻ game, trong đó chủ yếu là dùng để nạp thẻ game.

Thông tư 24 về Quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng

quy định, doanh nghiệp viễn thông phải chủ động từ chối, tạm ngừng hoặc ngừng kết

nối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử chưa được cấp quyết định

phê duyệt nội dung, kịch bản hoặc chưa thông báo cung cấp dịch vụ (các game online

đánh bài không được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép). Tuy nhiên, nhà mạng

có thể dùng lý lẽ họ không biết thẻ cào của mình dùng cho thanh toán game vì họ

không ký hợp đồng trực tiếp với công ty game mà qua một đơn vị trung gian. Vì thế,

nếu không chứng minh được việc nhà mạng biết thẻ cào được sử dụng cho thanh toán

game không phép thì không xử lý được. Theo đánh giá của các chuyên gia, cơ quan

quản lý nhà nước hoàn toàn có thể kiểm tra các hợp đồng cung cấp dịch vụ của nhà

mạng, để xác định các đơn vị hợp tác về dịch vụ hỗ trợ thanh toán game hoặc cung cấp

trò chơi điện tử (game) đã được Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) cấp phép hay

không (vì các game online đánh bài trong đường dây đánh bạc nghìn tỷ không được

cấp phép). Từ đó, có thể xác định rõ vai trò, trách nhiệm, quy mô từng nhà mạng cung

cấp thẻ cào thanh toán cho đường dây đánh bạc online này. Lãnh đạo một đơn vị có

chức năng của Bộ Thông tin truyền thông cũng thừa nhận, việc thanh toán bằng thẻ

cào viễn thông tồn tại một lỗ hổng lớn về hành lang pháp lý. Việc sử dụng thẻ cào viễn

thông làm kênh thanh toán trung gian trong một số hoạt động là nhu cầu tự phát của thị

trường những năm gần đây. Khung pháp lý hiện chưa theo kịp thực tế này.

139

+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT

Hiện nay để đấu tranh, xử lý cũng như phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT các cơ quan thực thi pháp luật đang dựa chủ yếu vào các quy định của

BLHS năm 2009, trong đó đã quy định các nhóm tội phạm sử dụng công nghệ cao bao

gồm: Tội phán tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt động của

mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số (Điều 224); Tội cản trở

hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết

bị số (Điều 225); Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng

viễn thông, mạng Internet (Điều 226); Tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính,

mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số của người khác (Điều 226a); Tội sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản (Điều 226b). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng dùng để đấu tranh, xử

lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng tới năm 2012 mới có văn bản

hướng dẫn thi hành. Vì vậy chuyện hiểu điều luật chưa thống nhất và bỏ lọt tội phạm

là điều rất dễ xảy ra [98].

Hiện Thông tư số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC

ngày 10/9/2012 đã có những hướng dẫn chi tiết áp dụng quy định của Bộ luật hình sự

về một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, làm căn cứ giúp các cơ quan chức

năng xác định rõ hành vi vi phạm, mức độ thiệt hại và biện pháp xử lý. Nhưng đây là

văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của BLHS năm 2009, do vậy với BLHS năm

2015 không còn phù hợp vì trong BLHS năm 2015 và Luật sửa đổi một số điều của

Bộ luật hình sự năm 2015 nhóm các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT được quy

định bổ sung với nhiều tội danh cụ thể bao gồm: Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc

tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều

285); Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286); Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt

động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287); Tội đưa

hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288); Tội

xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của

người khác (Điều 289); Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290); Tội thu thập, tàng trữ, trao

đổi, mua bán,công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291);Tội

sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm

kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293); Tội cố ý gây nhiễu có hại

(Điều 294). Việc quy định bổ sung và cụ thể hóa 5 tội danh mới về Tội phạm trong

140

lĩnh vực CNTT&MVT trong BLHS năm 2015 xuất phát từ thực tiễn công tác đấu

tranh, chống và phòng ngừa các tội phạm thời gian qua. Những tội danh mới bổ sung

này được quy định một cách rõ ràng, cụ thể về dấu hiệu hành vi, hậu quả thiệt hại tính

toán được cũng như chế tài xử lý tương xứng với tính chất và hậu quả gây thiệt hại của

người phạm tội.

Hệ thống văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh, xử lý và

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của Việt Nam không phải là ít, tuy

nhiên vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định trong các văn bản pháp

luật. Điều này dẫn đến sự hiểu nhầm, không thống nhất trước hết về tội danh như trong

Bộ luật hình sự năm 2015 sử dụng cụm từ “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin, mạng viễn thông”, các văn bản pháp luật khác lại sử dụng cụm từ “Tội phạm sử

dụng công nghệ cao”, ngay cả lực lượng đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này

cũng là “ Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao” (nay là Cục An

ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao) hay “Phòng Cảnh sát

phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao”cần thống nhất sử dụng cụm từ “Tội

phạm sử dụng công nghệ cao” để có cách hiểu thống nhất giữa các văn bản pháp luật.

Bộ luật hình sự năm 2015 đã nhóm các tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT vào một

mục trong chương XXI, do vậy khi BLHS năm 2015 đã có hiệu lực thì cần thiết phải

có văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 10/2012; Nghị định

25/2014 cho phù hợp không chỉ với quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT mà còn thống nhất với các quy định của Luật an toàn thông tin mạng

2015. Điều này dẫn đến thực trạng trong thực tế đã xảy ra nhiều tội phạm sử dụng

CNTT&MVT để phạm tội nhưng chưa được định tội danh cụ thể, từ đó không hoặc

khó có căn cứ để xử lý. Điều này cũng góp phần hạn chế hiệu quả của công tác đấu

tranh, phòng ngừa tội phạm.

Ngoài ra, cần nâng mức hình phạt đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT cho phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta trong xử lý đối với

các hành vi phạm tội nguy hiểm. Bởi người phạm tội đã lợi dụng những thành tựu

khoa học – công nghệ hiện đại nhất, mới nhất để xâm hại đến khách thể được pháp

luật hình sự bảo vệ. Hơn nữa CNTT&MVT ngày nay là một yếu tố không thể thiếu

trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Lợi ích do

CNTT&VT mang lại cho con người vô cùng to lớn, nhưng nếu nó bị tội phạm lợi dụng

thì tác hại nhân lên gấp nhiều lần so với thủ đoạn thông thường. Mặt khác, tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT không chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người

khác mà nó còn xâm phạm đến an ninh thông tin quốc gia, an toàn công cộng, trật tự

công cộng; gây hậu quả tác hại rất nhanh chóng, trên phạm vi rộng lớn khó lường.

141

Việc chứng minh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cũng khó khăn, phức tạp hơn

nhiều so với các hành vi phạm tội thông thường khác. Theo đó, Điều 290 BLHS năm

2015 quy định về “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” với mức hình phạt thuộc khung cơ bản thấp hơn

so với các tội có sử dụng bạo lực xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác

và cao hơn so với các hành vi tương ứng khác như trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Chương XVI Bộ luật hình sự đã thể hiện rõ tinh

thần đó. Tuy nhiên, ở các khung tăng nặng thì mức hình phạt của Điều 290 lại chỉ

ngang bằng như các tội xâm phạm sở hữu tương ứng ở Chương XVI Bộ luật hình sự là

chưa hợp lý, cần được sửa đổi theo hướng nâng mức hình phạt ở các khung này cho

đồng bộ với quy định ở khung cơ bản, phù hợp với chính sách hình sự của Nhà nước ta

trong xử lý đối với các tội phạm nguy hiểm (phù hợp với nội dung Chương trình quốc

gia PCTP ngày 14/2/2017 của Chính phủ, trong đó có “Đấu tranh PCTP sử dụng

công nghệ cao”). Điều này chưa đảm bảo tính răn đe đối với các tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT nói chung, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nói riêng.

Ngoài ra, cần bổ sung tình tiết “sử dụng công nghệ cao để phạm tội” là một

trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó các tội phạm truyền

thống có sử dụng công nghệ cao phải bị xử lý theo khung tăng nặng với tình tiết này

(khoản 1, Điều 52 BLHS năm 2015).

Cần nghiên cứu pháp luật hình sự của các nước có nền CNTT&VT phát triển và

các quốc gia có tình hình tội phạm trong lĩnh vực này phức tạp để hoàn thiện các quy

định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Hiện so sánh quy

định của pháp luật hình sự nước ta với một số nước vẫn còn một số hành vi chưa được

xác định một cách rõ ràng là tội phạm như hành vi thu thập thông tin riêng không qua

các phần mềm hoặc thâm nhập trái phép, hay các hành vi sử dụng mạng thông tin để bôi

nhọ, phỉ báng, đe dọa người khác... Cùng với việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự

cần ban hành hệ thống văn bản đồng bộ để giải thích, hướng dẫn thực hiện các tình tiết

được quy định trong Bộ luật hình sự như xác định các mức độ hậu quả của tội phạm...

+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khóa XI thông qua năm 2005 đã thừa

nhận giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử theo xu hướng chung đã được thừa nhận

rộng rãi trên thế giới. Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, văn bản điện tử cũng

có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 35 Nghị định số

64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 7/4/2014

142

quy định về phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ

cao đã cho phép lực lượng chuyên trách khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật

được tiến hành các biện pháp “... sử dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để kiểm tra,

giám sát, phát hiện, thu thập, phục hồi và phân tích thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử

phục vụ phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật khác có sử dụng

công nghệ cao...”(Điều 14 Nghị định). Trong khi đó Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

chưa có quy định về nguồn chứng cứ này, mà đây lại là một nguồn phổ biến mang

thông tin của tội phạm trong các vụ án sử dụng CTT&MVT để phạm tội.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa “chứng cứ điện tử” vào trong các quy

định của Bộ luật và xác định giá trị của chứng cứ điện tử được thu thập từ mạng máy

tính, mạng viễn thông bằng với giá trị của chứng cứ được thu thập từ các nguồn khác

(Điều 87). Tuy nhiên hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự cùng với Bộ luật hình sự năm

2015 đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện. Điều này

sẽ gây khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật trong việc thu thập, bảo quản, sử

dụng chứng cứ từ nguồn điện tử như là một căn cứ để chứng minh tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT. Do vậy yêu cầu về việc sớm ban hành văn bản hướng dẫn Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2015 là hết sức cần thiết và cấp bách đảm bảo hiệu quả của công

tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Tòa án nhân dân tối cao hàng năm cần có văn bản Tổng kết thực tiễn xét xử các

vụ án trong lĩnh vực CNTT&MVT làm cơ sở hướng dẫn các Tòa án các cấp trong việc

xét xử tội phạm trong lĩnh vực này.

Ngoài ra để bảo đảm giá trị pháp lý thì cũng cần có những quy định cụ thể về

thủ tục tố tụng hình sự đối với việc thu thập, bảo quản, phục hồi và giám định chứng

cứ điện tử cũng như quy định tính pháp lý của những giải pháp kỹ thuật thu thập, phục

hồi, giám định dấu vết điện tử để có thể sử dụng chứng cứ điện tử làm bằng chứng

chứng minh tội phạm. Theo đó, có thể cho phép cơ quan điều tra được sử dụng các kỹ

thuật đặc biệt để thu thập chứng cứ (sử dụng kỹ thuật để phục hồi lại các dữ liệu đã bị

xóa...); mở rộng quyền hạn hoạt động thu thập chứng cứ (quyền yêu cầu các nhà cung

cấp dịch vụ mạng cung cấp thông tin, quyền truy cập máy tính lấy dữ liệu,...). Tại Viện

khoa học hình sự Bộ Công an cần sớm thành lập một Phòng giám định điện tử tiến tới

thành lập Đội giám định điện tử thuộc Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, thành phố.

Cũng có thể tham khảo Luật mẫu về chứng cứ điện tử của các nước thuộc khối thịnh

vượng chung (như Anh, Australia, New Zealand...) để xây dựng một đạo luật riêng về

chứng cứ điện tử của Việt Nam (được sử dụng trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân

sự, hành chính, kinh tế...). Đồng thời phải luôn cập nhập, đón đầu xu hướng công

nghệ, tìm hiểu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm, chính sách của các quốc gia để đề

143

xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trước hết cần tổng kết thực tiễn, đánh

giá những công nghệ mới đang và sẽ tác động đến an ninh, trật tự để đề xuất ban hành

chính sách, pháp luật nhằm quản lý kịp thời như tiền “ảo”, tài sản “ảo”, kinh doanh đa

cấp qua mạng Internet...

Như vậy, có thể thấy để phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần

thiết phải hoàn thiện nhiều quy định pháp luật có liên quan. Với vai trò của mình, các

lực lượng tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần

thông qua các hoạt động của mình, kịp thời phát hiện những bất cập, vướng mắc trong

thực thi pháp luật để đề xuất với các cơ quan chức năng kịp thời hoàn thiện, sửa đổi,

đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phòng ngừa tội phạm này.

4.2.3 Nâng cao năng lực cho lực lượng phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Các đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT đều có chung đặc điểm là

có những trình độ và sự hiểu biết nhất định về CNTT&MVT, thủ đoạn hoạt động của

các đối tượng luôn gắn liền với những kiến thức chuyên môn về mạng internet, mạng

máy tính, thiết bị viễn thông... Chính vì vậy, để phòng ngừa có hiệu quả với các tội

phạm nay đòi hỏi lực lượng phòng ngừa không chỉ giỏi về pháp luật, nghiệp vụ mà còn

phải có những hiểu biết, chuyên môn sâu về lĩnh vực CNTT&MVT, đặc biệt là lực

lượng chuyên trách làm công tác phòng ngừa, đấu tranh trực tiếp với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT.

Qua khảo sát tại các đơn vị thuộc Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng

công nghệ cao C50 (nay là Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng

CNC- A05), Bộ Công an cho thấy số cán bộ có trình độ về CNTT&MVT chưa nhiều,

chủ yếu được đào tạo từ các trường Công an (đặc biệt ở các địa phương). Vì vậy đang

tồn tại tình trạng số cán bộ được tuyển từ ngành ngoài vào lại chưa được đào tạo cơ

bản về nghiệp vụ Cảnh sát, trong khi số cán bộ tốt nghiệp từ các trường trong ngành

Công an thì thiếu và yếu về kiến thức công nghệ thông tin cũng như kiến thức về mạng

viễn thông.

Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống các tội phạm sử

dụng CNTT&MVT trong thời gian tới cần khẩn trương hoàn thiện tổ chức cũng như

xây dựng được đội ngũ cán bộ đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể cần tập

trung vào một số vấn đề như sau:

- Thứ nhất, về tổ chức bộ máy cần nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện bộ

máy chuyên trách đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cho

phù hợp với yêu cầu thực tiễn từng giai đoạn như thống nhất một đầu mối đấu tranh

chống loại tội phạm này ở Bộ Công an và các tỉnh, thành phố phức tạp về tội phạm

144

trong lĩnh vực CNTT&MVT [12]; Năm 2014, Cục An ninh mạng A68 trực thuộc Bộ

công an đã được thành lập với chức năng “ Cục An ninh mạng có trách nhiệm giúp Bộ

trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh quốc gia trên lĩnh vực viễn

thông Internet; đảm bảo an ninh hệ thống mạng thông tin quốc gia; tổ chức các biện

pháp kỹ thuật chuyên biệt thu thập thông tin trên không gian mạng; đấu tranh với hoạt

động của đối phương và phương thức, thủ đoạn xâm phạm an ninh quốc gia của đối

tượng trên không gian mạng..” Như vậy chức năng bảo đảm an ninh thông tin của A68

được xác định thuộc phạm vi lĩnh vực an ninh quốc gia. Do đó, việc bổ sung cơ quan

chuyên trách đảm bảo an ninh thông tin trên lĩnh vực trật tự an toàn xã hội là rất

quan trọng và C50 đã được sáp nhập với cơ quan này (nay gọi chung là Cục An ninh

mạng và phòng chống tội phạm sử dụng CNC- A05 ra đời năm 2018) trực thuộc Bộ

Công an.

- Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ chiến sỹ chuyên trách hoạt động phòng

ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đảm bảo cả về số lượng

và chất lượng, nắm vững pháp luật và nghiệp vụ của ngành, có chuyên môn sâu về

CNTT&MVT, sử dụng thành thạo ngoại ngữ (trong đó tiếng Anh là bắt buộc) [15];

Hiện nay đội ngũ cán bộ chuyên trách trực tiếp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực này đã được kiện toàn tại Cục A05 và các PA05 của các tỉnh, thành phố lớn;

tuy nhiên tại các địa phương vẫn còn chưa được kiện toàn nhiều nơi vẫn còn tổ chức

chung với các lực lượng đấu tranh loại tội phạm khác.

Cần xác định nguồn tuyển chọn đội ngũ cán bộ chất lượng cao về CNTT&MVT

cho lực lượng chuyên trách phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT bằng nhiều hình thức đa dạng như: điều động trong nội bộ ngành Công

an những cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT, có đam mê và khả năng nắm bắt nhanh các kiến thức về

CNTT&MVT, ngoại ngữ. Khuyến khích và ưu tiên những sinh viên tốt nghiệp chuyên

ngành PCTP sử dụng công nghệ cao thuộc Học viện cảnh sát nhân dân và các trường

Công an về công tác tại các đơn vị chuyên trách. Bên cạnh đó cần có các chính sách

hợp lý để tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành CNTT&VT có phẩm chất,

năng lực vào công tác lâu dài trong lực lượng Cảnh sát nhân dân. Đây là những giải

pháp nhằm xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng ngừa.

- Thứ ba, xây dựng kế hoạch thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên

trách phòng ngừa, đấu tranh tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT về nghiệp vụ, pháp

luật, công nghệ thông tin, viễn thông, ngoại ngữ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ

cán bộ chiến sỹ công an, Thẩm phán, Kiểm sát viên. Trong đó cần kết hợp đào tạo, bồi

145

dưỡng cho các cán bộ tốt nghiệp các trường Công an nhân dân, Học viện Tòa án, Đại

học Kiểm sát những kiến thức cơ bản, cần thiết về CNTT&MVT, ngoại ngữ. Còn

những cán bộ được tuyển dụng từ ngành ngoài cần nhanh chóng được đào tạo bồi

dưỡng về pháp luật, nghiệp vụ. Được thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, các

khóa đào tạo nhằm nâng cao nghiệp vụ, cập nhật các kiến thức mới nhất về

CNTT&MVT, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho lực lượng chuyên trách đảm bảo đáp

ứng được yêu cầu hợp tác, trao đổi thông tin với các lực lượng chuyên trách phòng

ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong khu vực và trên thế

giới. Trong đó chú trọng hợp tác với Cảnh sát các nước tiên tiến tổ chức thường xuyên

các khóa đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm về phòng ngừa, đấu

tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;

- Thứ tư, triển khai thành lập hệ lực lượng An ninh mạng và PCTP sử dụng

công nghệ cao tại tất cả Công an các địa phương trên toàn quốc. Hiện nay lực lượng

này chỉ được tổ chức tại các thành phố, vùng kinh tế lớn. Trọng tâm là đảm bảo xây

dựng tổ chức, bộ máy cho phù hợp với yêu cầu và bổ sung biên chế, nâng cao chất

lượng cán bộ [12];

- Thứ năm, tổng kết đề án “Phòng, chống các loại tội phạm sử dụng công nghệ

cao”; Nghiên cứu đề xuất xây dựng Chiến lược và Đề án về “Phòng, chống các loại tội

phạm sử dụng công nghệ cao trong giai đoạn 2015 – 2025, tầm nhìn 2030 thuộc

Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, trong đó ưu tiên các nguồn vốn phục

vụ mua sắm trang thiết bị hiện đại, đáp ứng tốt yêu cầu công tác. Tăng cường đầu tư

trang thiết bị, phương tiện cho lực lượng phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao đảm bảo nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, điều tra, xử lý vi phạm và tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT [12].

Ngoài lực lượng chuyên trách hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì còn có các lực lượng khác cùng phối hợp

như các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực CNTT&MVT như Bộ thông tin và

truyền thông (đặc biệt là Cục công nghệ thông tin, Cục viễn thông, Cục An toàn

thông tin), Hiệp hội công nghệ thông tin; Hiệp hội an toàn thông tin; các cơ quan,

tổ chức, doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ công nghệ thông tin và viễn thông như

Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam VINCERT, Trung tâm

giám sát an toàn không gian mạng quốc gia NCSC, Tập đoàn công nghệ BKAV,

các nhà mạng cung cấp dịch vụ viễn thông và Intenet như Tập đoàn bưu chính viễn

thông Việt Nam VNPT, Tập đoàn FPT, Tập đoàn công nghiệp - viễn thông quân

đội Viettel... cũng cần phải được kiện toàn về tổ chức bộ máy, tái cơ cấu, sắp xếp

lại nhân sự, xác định rõ nhiệm vụ và quyền hạn, nâng cao nhận thức về vị trí, vai

146

trò, tầm quan trọng của hoạt động phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT. Các cơ quan thông tin đại chúng cần kịp thời đưa ra những cảnh

báo về thủ đoạn, phương thức phạm tội của các đối tượng tới quần chúng nhân dân

để nâng cao tinh thần cảnh giác, kịp thời nhận diện và phát hiện các hành vi phạm tội

trong lĩnh vực này [24]

Đối với Viện kiểm sát và Tòa án cũng cần hình thành đội ngũ Kiểm sát viên,

Thẩm phán chuyên trách kiểm sát, xét xử các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Trước mắt cần tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ CNTT&MVT cho

một bộ phận Kiểm sát viên, Thẩm phán. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan điều

tra với Viện kiểm sát trong quá trình điều tra các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT vừa để tích lũy kinh nghiệm, vừa nâng cao nhận thức của đội ngũ cán

bộ thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.

4.2.4 Đẩy mạnh công tác tham mưu và phòng ngừa nghiệp vụ trong phòng

ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Với chức năng và nhiệm vụ được giao, từ thực tiễn công tác lực lượng Công an

nhân dân đặc biệt là Cục an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao cần làm tốt công tác tham mưu cho Bộ công an, cho Chính phủ và các Bộ ngành

liên quan trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT [15],cụ thể:

- Chủ động tham mưu cho các Bộ, ngành, doanh nghiệp tăng cường quản lý nhà

nước về CNTT&MVT, tổ chức có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao;

Thực tế qua công tác đấu tranh, PCTP trong lĩnh vực CNTT&MVT những năm

qua cho thấy công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT của các Bộ, ngành, doanh

nghiệp còn nhiều bất cập, sơ hở tạo điều kiện cho tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Chính vì vậy thông qua hoạt động phòng ngừa

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao

phải phát hiện kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong cơ chế, chính sách về quản lý

CNTT&MVT để tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an báo cáo Chính phủ chỉ đạo các

Bộ, ngành, doanh nghiệp có giải pháp khắc phục không để tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT có cơ hội và điều kiện phát sinh, phát triển. Trong đó cần quy định cụ thể

hóa trách nhiệm người đứng đầu của các Bộ, ngành, cơ quan chủ quản và doanh nghiệp

khi để xảy ra tội phạm.

- Tham mưu cho các cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện pháp luật có liên quan

đến công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như: hoàn

thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực CNTT&MVT. Hiện nay Luật an toàn thông

tin mạng, Luật an ninh mạng đã có hiệu lực thi hành tuy nhiên chưa có văn bản hướng

147

dẫn do vậy trong thời gian tới các cơ quan chức năng cần phối hợp ban hành để đảm bảo

an toàn, an ninh thông tin. Cũng cần tham mưu để hoàn thiện các quy định pháp luật về

bảo vệ bí mật thông tin riêng làm cơ sở để xử lý những hành vi thu thập, phát tán, tiết lộ

thông tin riêng thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin.Phối hợp cùng với Bộ thông

tin truyền thông sớm ban hành Đề án bảo vệ thông tin cá nhân.

- Chủ động tham mưu cho Chính phủ xây dựng và ký kết các Hiệp định, nghị định

tương trợ tư pháp hình sự với các quốc gia mà tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT diễn

ra phức tạp, đặc biệt là các đối tượng ở các quốc gia đó có quan hệ với các đối tượng ở

Việt Nam. Trong đó cần cụ thể hóa các nội dung, nhất là việc phối hợp xác minh, trao đổi

thông tin, truy bắt tội phạm bỏ trốn, thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội trong

lĩnh vực CNTT&MVT đối với các đối tượng có quốc tịch của các quốc gia chưa gia nhập

tổ chức Interpol hoặc chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước ta.

Hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ (phòng ngừa riêng) của lực lượng PCTP sử

dụng công nghệ cao là việc các đơn vị sử dụng các hoạt động nghiệp vụ trong phạm vi

quyền hạn của mình, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội trong

lĩnh vực CNTT&MVT nhằm hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra cho xã hội, chủ động

nắm bắt các ý đồ, sự chuẩn bị thực hiện tội phạm và tổ chức ngăn chặn trước khi hoạt

động phạm tội diễn ra.

Trong hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ các đơn vị thuộc lực lượng PCTP sử

dụng công nghệ cao cần tiến hành công tác điều tra cơ bản, sưu tra, xây dựng cộng tác

viên bí mật trên các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm.

Đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ trong phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&VT là một yêu cầu cấp bách, cần tập trung vào các công

tác như sau:

- Công tác điều tra cơ bản

Công tác điều tra cơ bản là hoạt động điều tra nghiên cứu, tức là thu thập thông

tin, nghiên cứu nắm tình hình một cách rộng rãi. Để chủ động đấu tranh, phòng ngừa

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT các chủ thể cần phải nắm được tình hình địa

bàn, lĩnh vực, hệ loại có liên quan đến hoạt động của loại tội phạm này, từ đó sàng lọc,

xác định được các đối tượng, là cơ sở triển khai các công tác nghiệp vụ đúng trọng

tâm, trọng điểm góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa các loại tội phạm nói chung

và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&VT nói riêng.

+ Về đối tượng điều tra cơ bản: theo sự phân công của Bộ Công an, lực lượng

PCTP sử dụng công nghệ cao “... điều tra cơ bản các vấn đề liên quan đến công tác

phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp;

148

lĩnh vực; hệ loại đối tượng” [8]. Như vậy, có thể xác định cần tiến hành điều tra cơ bản

đối với:

Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến lĩnh vực

CNTT&MVT, như các cơ quan quản lý nhà nước về công nghệ thông tin , truyền

thông; những cơ quan nhà nước đã triển khai dịch vụ chính phủ điện tử; các doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT; các tổ chức, cơ sở nghiên cứu đào tạo,

phát triển CNTT&MVT; các hiệp hội hoạt động có liên quan đến công nghệ thông tin

và mạng viễn thông;

Các lĩnh vực có ứng dụng CNTT ở mức độ cao, dễ bị các đối tượng phạm tội lợi

dụng hoạt động như: lĩnh vực thẻ ngân hàng và thanh toán điện tử; lĩnh vực cung cấp dịch

vụ nội dung; lĩnh vực cơ sở hạ tầng mạng thông tin; lĩnh vực an toàn, an ninh mạng...

Phân loại các đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT gồm: đối tượng

xâm phạm an toàn, an ninh thông tin; đối tượng sử dụng CNTT&MVT để chiếm đoạt tài

sản; đối tượng sử dụng CNTT&VT để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Công tác điều tra cơ bản mặc dù không trực tiếp tác động đến đối tượng phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng kết quả điều tra cơ bản lại có vai

trò rất quan trọng đối với toàn bộ tiến trình đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Thông qua đó các lực lượng nắm chắc được tình hình các đối tượng được điều tra cơ

bản, là cơ sở quan trọng để xác định những hệ loại đối tượng, địa bàn, lĩnh vực trọng

điểm trong phòng ngừa tội phạm. Kết quả của công tác này cũng là cơ sở để các đơn vị

xây dựng, triển khai các kế hoạch, biện pháp công tác trên các địa bàn, lĩnh vực và đối

với từng loại hệ đối tượng. Hơn nữa qua công tác điều tra cơ bản, các đơn vị có thể

phát hiện sự việc, hiện tượng, con người liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT phục vụ cho việc tiến hành sưu tra, xác minh hiềm nghi và đấu tranh

chuyên án. Ngoài ra, qua điều tra cơ bản còn có thể phát hiện những bất cập, sơ hở,

thiếu sót và đề xuất các biện pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước về CNTT&MVT nói riêng, về an ninh trật tự nói chung.

- Về công tác sưu tra

Công tác sưu tra là quá trình thu thập thông tin, tìm hiểu một cách rộng rãi về

con người có khả năng, điều kiện, biểu hiện liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Về mức độ phát triển nghiệp vụ, công tác sưu tra về đối tượng trong

lĩnh vực CNTT&MVT là một hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, một hoạt động phát

hiện tội phạm một cách chủ động. Đối tượng sưu tra là những cá nhân cụ thể có khả

năng, điều kiện hoặc có biểu hiện nghi vấn thực hiện tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Các đối tượng bao gồm:

149

+ Người có tiền án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, hiện đang hoạt

động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến CNTT&MVT; hoặc đã chấp hành xong

hình phạt nhưng có nhận xét, đánh giá của cơ quan thi hành án thể hiện quá trình cải

tạo yếu, kém; hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội trong lĩnh vực này;

+ Người đã bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật do vi phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, hiện đang đảm nhận những chức vụ, vị trí quan trọng trong các cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến

CNTT&MVT; hoặc đang có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội có sử dụng

CNTT&MVT;

+ Người không có quá khứ phạm pháp về CNTT&MVT nhưng thường xuyên

có quan hệ với các đối tượng có tiền án, tiền sự do vi phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, nghi vấn cấu kết để hoạt động phạm tội; hoặc đang hoạt động trong các

lĩnh vực liên quan trực tiếp đến CNTT&MVT, có biểu hiện gian dối, vi phạm pháp

luật trong lĩnh vực CNTT&MVT; hoặc có nhiều đơn thư tố giác, tố cáo hoặc có thông

tin trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như các thông tin, tài liệu khác phản

ánh liên quan đến các hành vi vi phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhưng chưa đủ cơ

sở, điều kiện để xác minh làm rõ; hoặc có bất minh về thu nhập của bản thân và gia

đình, nghi do hoạt động phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT mà có;

+ Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang cư trú, làm

việc, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có quá khứ phạm pháp trong lĩnh vực

CNTT&MVT, hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến

CNTT&MVT; hoặc có mối quan hệ nghi vấn với các đối tượng liên quan đến tội phạm

trong lĩnh vực CCNTT&MVT; hoặc có thông tin, tài liệu nghi vấn phạm tội trong lĩnh

vực CNTT&MVT do phía nước ngoài cung cấp nhưng chưa đủ điều kiện làm rõ và

chưa đủ căn cứ xác lập hiềm nghi, chuyên án; hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động

phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Trong quá trình thu thập thông tin, theo dõi, quản lý và tác động ngăn ngừa các

hoạt động vi phạm của các đối tượng sưu tra trong lĩnh vực CNTT&MVT, chủ thể có

thể tiến hành nhiều hoạt động khác nhau song cần chú ý nắm và theo dõi được quá

trình sử dụng các công cụ, thiết bị CNTT&MVT của các đối tượng sưu tra; nắm được

tài khoản mạng xã hội đối tượng sử dụng, các diễn đàn đối tượng tham gia. Chủ động

theo dõi, nghiên cứu và cập nhật những thông tin thể hiện khả năng, biểu hiện liên

quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT của đối tượng sưu tra để đưa vào hồ

sơ. Ngoài ra, cần chú ý đến các mối quan hệ cả “thực” và “ảo” trên không gian mạng

để phát hiện, thu thập và cập nhật các thông tin liên quan đến khả năng bị lôi kéo, cấu

kết, chia sẻ tài nguyên, tạo nhóm, đường dây thực hiện tội phạm trong lĩnh vực

150

CNTT&MVT. Cần chủ động nắm bắt ý đồ, các biểu hiện về việc chuẩn bị và tiến hành

phạm tội của đối tượng. Khi phát hiện các biểu hiện trên ở đối tượng, tùy theo mức độ

biểu hiện, đặc điểm tâm lý cá nhân và mối quan hệ của đối tượng, các lực lượng sử

dụng các biện pháp phù hợp tác động đến đối tượng thông qua người thân, bạn bè,

cộng tác viên bí mật... có mối quan hệ với đối tượng để gửi đến đối tượng những cảnh

báo, giáo dục, thuyết phục đối tượng thay đổi nhận thức, từ bỏ ý định phạm tội, cảm

hóa đối tượng hoặc loại bỏ điều kiện thực hiện tội phạm của các đối tượng sưu tra.

- Về công tác xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, theo lĩnh

vực trọng điểm

Xây dựng, sử dụng cộng tác viên bí mật trên các địa bàn, lĩnh vực là một mặt

hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ quan trọng của lực lượng PCTP đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Nhờ có hệ thống cộng tác viên bí mật, với hệ thống đầu

mối thông tin đủ mạnh, đảm bảo quán xuyến địa bàn, lĩnh vực giúp các lực lượng chủ

động xác định và nắm tình hình có chiều sâu đối với các cơ quan, tổ chức, lĩnh vực

được điều tra, nghiên cứu. Giúp các đơn vị đánh giá được tình hình, xác định nguyên

nhân, điều kiện của tội phạm (nhất là ở khía cạnh kỹ thuật) cũng như các giải pháp,

biện pháp khắc phục những lỗ hổng bảo mật, xử lý hậu quả của tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT. Hơn nữa cộng tác viên bí mật còn có thể tiếp cận đối tượng, nắm ý

đồ và biểu hiện hành động, giúp các lực lượng chủ động có kế hoạch tác động, ngăn

chặn. Trong một số trường hợp, cộng tác viên bí mật có thể được sử dụng để truyền tải

những tác động, ngăn chặn từ Cảnh sát phòng chống tội phạm đến các đối tượng có ý

định phạm tội.

Khi sử dụng các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ cần chú ý tới đặc điểm của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là sử dụng CNTT&MVT như là một công cụ,

phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó để phòng ngừa có hiệu quả đối với

tội phạm trong lĩnh vực này cần chú ý tới các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật. Trong

thời gian qua các lực lượng như A05, Tập đoàn BKAV, Trung tâm ứng cứu khẩn cấp

sự cố không gian mạng Việt Nam, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc

gia, Hiệp hội an toàn thông tin, Tập đoàn VNPT, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn FPT…

đã có những sáng kiến, phát minh ra các sản phẩm, dịch vụ nhằm đảm bảo an toàn

thông tin, an toàn trong giao dịch điện tử, an toàn không gian mạng. Điển hình là các

sản phẩm phần mềm diệt virut của BKAV, Chiến dịch bóc gỡ mã độc trên không gian

mạng của NCSC, Các cuộc diễn tập ứng phó sự cố về an toàn thông tin của

VNCERT… và các sản phẩm mang tính kỹ thuật như các bẫy nghiệp vụ của

C50(A05), các thiết bị nhằm phục hồi chứng cứ, dữ liệu điện tử, các thiết bị giám sát

cuộc gọi nhằm loại trừ những cuộc gọi từ sim “rác” với mục đích lừa đảo, đe dọa tống

151

tiền… tuy nhiên do tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ngày càng gia tăng tỷ lệ

thuận với sự phát triển của khoa học công nghệ do vậy các biện pháp kỹ thuật nhằm

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực này cũng cần được nghiên cứu và cho ứng dụng

trong thực tế nhiều hơn nữa. Điều này góp phần ngăn chặn, thủ tiêu những nguyên nhân,

điều kiện để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát sinh,phát triển.

4.2.5 Tăng cường quan hệ phối hợp trong phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Trong những năm qua, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã có những diễn

biến hết sức phức tạp, nhất là khi nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế

thế giới, xu thế toàn cầu hóa là tất yếu. Phương thức, thủ đoạn phạm tội của các đối

tượng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, lợi dụng những sơ hở trong các chính sách quản lý

nói chung và các chính sách quản lý về CNTT&MVT nói riêng để thực hiện hành vi

phạm tội. Tuy nhiên, nhờ sự phối hợp giữa các lực lượng, sự giúp đỡ của các cơ quan

ban ngành trong hoạt động phòng ngừa tội phạm đã thu được những kết quả đáng ghi

nhận. Những vụ án lớn xảy ra liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT bị

phát hiện, điều tra và xử lý đã có tác dụng răn đe tội phạm, góp phần bảo đảm trật tự

an toàn xã hội. Do đó, việc mở rộng và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các lực

lượng trong hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một yêu

cầu thực tiễn và tất yếu. Chính vì vậy cần tích cực chủ động tổ chức quan hệ phối hợp

giữa các lực lượng trong phòng ngừa đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT ở những nội dung sau:

- Giữa các lực lượng tiến hành phòng ngừa cần tăng cường trao đổi những chủ

trương, chính sách mới của Nhà nước về phát triển CNTT&MVT; chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của mỗi lực lượng liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT. Kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xây dựng chính sách

phát huy nội lực, thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực CNTT&MVT, phát triển các tổ chức

hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thông tin, an ninh thông tin trong nước.

Trong những năm qua, CNTT&VT đã có sự phát triển hết sức mạnh mẽ ở nước ta, tuy

nhiên sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững. Các sản phẩm, các ứng dụng và dịch

vụ do các doanh nghiệp CNTT&VT trong nước cung cấp chưa phong phú, chưa đủ

sức cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài. Nếu các sản phẩm CNTT&VT trong

nước được sử dụng phổ biến hơn, các dịch vụ gia tăng trên Internet, trên mạng viễn

thông trong nước thu hút được đông đảo người dùng hơn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận

lợi cho công tác quản lý, giúp cho phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

chủ động và hiệu quả hơn. Cùng với sự phát triển về hạ tầng và dịch vụ CNTT cũng

như viễn thông, việc phát triển các tổ chức, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

152

đảm bảo an toàn, an ninh mạng ở trong nước sẽ giúp cải thiện chất lượng các dịch vụ,

phù hợp với đặc điểm sử dụng công nghệ của người dùng trong nước với giá cả hợp lý

hơn và vì vậy môi trường mạng ở nước ta sẽ an toàn hơn. Khuyến khích người sử dụng

các thiết bị về CNTT&MVT sử dụng các sản phẩm, ứng dụng đảm bảo an toàn thông

tin do các doanh nghiệp trong nước cung cấp. Đây là giải pháp về mặt kinh tế, có tính

chiến lược lâu dài, có khả năng giải quyết nhiều yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

- Tăng cường trao đổi, cung cấp thông tin về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT như: tình hình tội phạm, số vụ án, thủ đoạn thực hiện, che giấu hành vi

phạm tội, nguyên nhân, điều kiện nảy sinh tội phạm, những hạn chế, thiếu sót, kinh

nghiệm đấu tranh với loại tội phạm này;

- Xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, chủ động và thường xuyên giữa lực

lượng chuyên trách với các cơ quan, ban ngành chức năng như Bộ Thông tin và truyền

thông, Cục viễn thông, Cục an toàn thông tin, Ngân hàng nhà nước...Trong đó tập

trung làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các lực

lượng trong lĩnh vực này. Xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành để tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả phối hợp trong hoạt động phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

+ Việc phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về CNTT&MVT có thể theo

các nội dung như: trao đổi thông tin về chủ trương, chính sách phát triển, các quy định

pháp lý về CNTT&MVT; Phối hợp để cùng xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp

luật vê quản lý CNTT&MVT; quản lý dịch vụ mạng thông tin, góp phần khắc phục

nguyên nhân, điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; Phối hợp trong

tuyên truyền, vận động các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng nâng cao

ý thức bảo mật, chủ động bảo vệ và tích cực tham gia phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT. Cùng với các cơ quan quản lý nhà nước ngành CNTT&VT giám

sát, thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp kinh doanh hoặc cung cấp các dịch vụ

CNTT&MVT đang hoạt động ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài; nắm tình hình phát

triển, hoạt động của các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp hoạt đông trong lĩnh vực

CNTT&MVT. Hỗ trợ về lực lượng chuyên gia, phương tiện, thiết bị trong quá trình

phát hiện, điều tra các vụ việc về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, diễn tập ứng

cứu, xử lý khẩn cấp sự cố hệ thống thông tin quan trọng...

+ Phối hợp với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ sở đào tạo

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Các lực lượng chuyên trách cũng cần tổ chức mối quan

hệ phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức lớn hoạt động trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Các doanh nghiệp, tổ chức lớn hoạt động cung cấp dịch vụ CNTT&MVT thường là

153

các tổ chức được đầu tư tiềm lực lớn, tập hợp được đội ngũ chuyên gia về

CNTT&MVT có trình độ cao, có những phương tiện, thiết bị hiện đại, cấu hình mạnh,

đa dạng. Các tổ chức này thường có những nghiên cứu, tìm hiểu nắm tình hình rất sâu

về những khía cạnh liên quan trực tiếp đến hoạt động của họ, nhất là thông tin về các

đối thủ cạnh tranh. Bởi vậy, qua phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức lớn hoạt động

trong lĩnh vực CNTT&MVT nhất là những đơn vị hoạt động trong lĩnh vực đảm bảo

an toàn, an ninh mạng như VINCERT, NCSC, BKAV... qua đó các lực lượng chuyên

trách có thể thu thập được nhiều thông tin có tính chất chuyên môn sâu về tình hình

phát triển của CNTT&MVT tại Việt Nam và thế giới, tình hình và thủ đoạn hoạt động

của các loại đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật về CNTT&MVT, từ đó đề xuất

các giải pháp về mặt kỹ thuật để ngăn chặn, phòng ngừa và khắc phục các hậu quả của

hành vi phạm tội trong lĩnh vực này. Cần tiếp tục phối hợp với Thanh tra các Bộ,

ngành tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

như phối hợp với Thanh tra Bộ văn hóa thể thao và du lịch tiến hành thanh tra, kiểm

tra một số doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm bản quyền phần mềm máy tính trên toàn

quốc. Xây dựng quy chế phối hợp về quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực sử dụng

CNTT&MVT tại các địa phương.

Ngoài ra các lực lượng cần phối hợp với các doanh nghiệp là đầu mối cung cấp

các dịch vụ CNTT&MVT để khai thác, thu thập dữ liệu điện tử cần thiết được lưu trữ

trong hệ thống máy chủ, chặn bắt đường truyền thu thập dữ liệu về các giao dịch của đối

tượng nghi vấn. Phối hợp tốt với các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực

CNTT&MVT có thể giúp các lực lượng chuyên trách huy động được đội ngũ chuyên gia

và phương tiện, thiết bị của họ cho các công tác nghiệp vụ của mình. Bên cạnh đó cũng

cần xây dựng và phát triển các mối quan hệ phối hợp với các cơ sở đào tạo, các cơ sở

nghiên cứu về công nghệ thông tin, viễn thông trong nắm tình hình, quản lý sinh viên; trợ

giúp về mặt tri thức, công cụ cho các cơ quan chức năng trong việc phân tích thủ đoạn,

nguyên nhân điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Về hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ: giữa các lực lượng cần thường xuyên trao

đổi thông tin về tình hình, diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT,

phương thức thủ đoạn phạm tội, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp phát hiện, điều tra

thu thập tài liệu chứng cứ về hoạt động phạm tội trong lĩnh vực này. Phối hợp xác

minh hoặc thanh tra, kiểm tra để nhanh chóng kết luận về những căn cứ, dấu hiệu của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nhằm kịp thời xử lý theo quy định của pháp

luật. Phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân để xác định tính chất,

mức độ vi phạm, thống nhất quan điểm xử lý các hành vi phạm tội trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

154

Trong quá trình phối hợp tổ chức thực hiện giữa các lực lượng, các ngành trong

phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT cần thường xuyên tổ chức sơ kết,

tổng kết thực tiễn, rút ra những ưu điểm, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, nguyên

nhân từ đó có các kiến nghị, đề xuất với cấp có thẩm quyền tăng cường hoạt động phối

hợp để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.

4.2.6 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là một loại tội phạm xuyên quốc gia, phi

truyền thống được sự quan tâm của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Vì vậy, việc

phối hợp và hợp tác quốc tế là một nhu cầu tự thân của công tác đấu tranh, phòng ngừa

tội phạm. Các lực lượng tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT tất yếu phải thiết lập hoặc tham gia vào mạng lưới các lực lượng đấu

tranh phòng, chống các loại tội phạm này trên toàn cầu.Thực tế đã cho thấy có nhiều

hoạt động phối hợp và hợp tác quốc tế được triển khai trong thời gian qua. Hàng loạt

các Hiệp định, nghị định tương trợ tư pháp hình sự đã được ký kết. Tuy nhiên việc

tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn, phân công, kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác này

còn nhiều bất cập. Để khắc phục những hạn chế nêu trên và nâng cao hiệu quả hợp tác

quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, các lực

lượng cần chú trọng và đẩy mạnh các hoạt động sau đây:

- Rà soát các Hiệp định, nghị định tương trợ tư pháp hình sự, từ đó đề xuất sửa

đổi bổ sung, điều chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT cho phù hợp với tình hình hiện nay. Đồng thời xây dựng và

hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt động hợp tác quốc tế trong công tác phòng

ngừa tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Đối với các

Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký với các nước châu Âu trước đây trong hệ thống các

nước xã hội chủ nghĩa cần phải rà soát lại, nếu không còn phù hợp thì tham mưu ký

Hiệp định mới, đồng thời phải nghiên cứu đề xuất ký các Hiệp định, nghị định tương

trợ tư pháp hình sự với các quốc gia mà tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT thường xảy ra có liên quan tới Việt Nam;

- Tổ chức thực hiện có hiệu quả các điều ước quốc tế đa phương, song phương,

các hiệp định, nghị định tương trợ tư pháp hình sự, các văn bản pháp quy đã ký kết về

hợp tác đấu tranh chống tội phạm giữa Việt Nam với các quốc gia cũng như các văn

bản thỏa thuận đã ký kết giữa Bộ Công an với Bộ Nội vụ nước ngoài. Đây là một nội

dung hợp tác hết sức quan trọng vì trên cơ sở pháp lý vững chắc mới có thể đảm bảo

cho mối quan hệ phối hợp được thực thi hiệu quả trên thực tế. Cùng với đó là phải xây

dựng một thiết chế điều phối quan hệ phối hợp chịu trách nhiệm liên kết lực lượng

155

chuyên trách phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao giữa các quốc gia khác

nhau. Đây là đầu mối Cảnh sát các nước có thể thường xuyên, nhanh chóng tạo ra

được sự liên hệ chặt chẽ với nhau.

- Thiết lập mạng lưới sĩ quan Cảnh sát liên lạc ở một số nước đã ký kết Hiệp

định hoặc nghị định tương trợ tư pháp hình sự. Trong xu hướng hợp tác và phá triển,

hoạt động phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT chỉ có

thể đạt được hiệu quả cao nếu chúng ta có lực lượng Cảnh sát hoạt động công khai tại

các quốc gia mà chúng ta đã ký Hiệp định hoặc Nghị định tương trợ tư pháp hình sự.

Tuy nhiên, do điều kiện về kinh tế, trình độ năng lực của cán bộ chưa cho phép chúng

ta bố trí lực lượng sĩ quan liên lạc ở tất cả các quốc gia mà nước ta đã đặt quan hệ

ngoại giao, nhưng chúng ta có thể bố trí ở một số nước mà tình hình hoạt động của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT hoặc liên quan đến người Việt Nam có những diễn

biến phức tạp như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Hàn Quốc, Australia,

Singapore, Thái Lan, một số nước châu Âu và Mỹ. Có mạng lưới sĩ quan liên lạc ở các

nước nêu trên cùng với sự hợp tác chặt chẽ của Cảnh sát nước sở tại để tiếp nhận, xử

lý thông tin liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm trong

lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng;

- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, pháp luật của Việt

Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế cho cán bộ chuyên trách hợp tác quốc tế của lực lượng

chuyên trách phòng ngừa tội phạm, đặc biệt về trình độ ngoại ngữ để có thể trực tiếp đấu

tranh với các đối tượng phạm tội là người nước ngoài. Có thể hợp tác với các nước trong

nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực thực thi pháp luật, nghiệp

vụ phòng chống tội phạm, trong việc triển khai các dự án nghiên cứu khoa học có sự tham

gia của Cảnh sát các nước để nâng cao năng lực, trình độ của mình.

- Tham khảo kinh nghiệm quốc tế về xử lý, ngăn chặn và phòng ngừa tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT như tại Nhật Bản, trước nguy cơ tội phạm sử

dụng công nghệ cao tăng rất nhanh cùng với sự phát triển của CNTT&VT, vào năm

1999 Nhật Bản đã thành lập lực lượng Cyber Force. Cyber Force, tiền thân là đơn vị

phòng chống tội phạm tin học thuộc Cục CNTT (Bộ An ninh), được giao nhiệm vụ

điều tra, ngăn chặn và chống lại loại tội phạm nguy hiểm này. Cyber Force được ví

như đơn vị tinh nhuệ nhất của Cảnh sát Nhật Bản trong đấu tranh và bảo vệ người

dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và Chính phủ trước tội phạm sử dụng công nghệ

cao hoạt động xuyên biên giới với thủ đoạn khó lường. Cyber Force chính là công cụ

trợ giúp đắc lực cho công tác điều tra tội phạm tin học. Trung tâm xử lý thông tin của

Cyber Force có nhiệm vụ thu thập và phân tích dữ liệu, các thành viên của đội Cyber

Force được đào tạo, huấn luyện thường xuyên về nghiệp vụ tin học tại phân viện đào

156

tạo riêng (Cyber Force Training System) nhằm đảm bảo bắt kịp đà gia tăng của tội

phạm công nghệ cao cũng như có thể thích ứng với mọi tình huống thực tế. Cyber

Force có bộ phận dò mạng được coi là nòng cốt của đơn vị. Nhờ vào một hệ thống có

kỹ thuật công nghệ tiên tiến mà cảnh sát Nhận Bản có thể phân tích thông tin, qua đó

phát hiện kịp thời những thủ đoạn tấn công của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT, đồng thời chia sẻ thông tin, kinh nghiệm với các đơn vị cảnh sát khác

có liên quan. Hệ thống cũng có một máy chủ tổng hợp và phân tích nguồn thông tin

được phát tán qua mạng Internet.

Liên minh châu Âu (EU) đã đưa ra các điều luật trừng phạt cứng rắn hơn đối với

tội phạm mạng và tin tặc. Theo đó, ngày 4/7/2013, với đa số phiếu tán thành EU đã

quyết định tăng hình phạt tù đối với người bị kết tội tấn công, vi phạm dữ liệu mạng.

Theo đó, đáng chú ý là EU quyết định tăng thêm ít nhất 02 năm tù cho “tội truy cập bất

hợp pháp hệ thống thông tin” và ít nhất là 05 năm tù đối với “tội tấn công mạng” gây hại

tới các cơ sở hạ tầng như nhà máy điện, hệ thống nước và mạng lưới giao thông. Các

nhà lập pháp EU cho rằng, các tội phạm mạng nghiêm trọng nhất là những đối tượng

xâm phạm vào mạng lưới hạ tầng của các quốc gia và các hành vi trộm cắp dữ liệu nhạy

cảm từ hệ thống máy tính. Các loại tội phạm tin học khác cũng bị tăng hình phạt như

“tội ngăn chặn trái phép hoạt động thông tin liên lạc hoặc tạo ra các công cụ cho mục

đích này”. Ngoài ra bất kỳ công ty nào sử dụng các công cụ hoặc thuê tin tặc để ăn cắp

dữ liệu cũng sẽ chịu trách nhiệm theo luật mới. Hiện nay, mức hình phạt đối với tội

phạm mạng có sự khác nhau giữa các quốc gia EU, nhưng hầu hết các bản án cao nhất ở

mức 5 năm tù và các quốc gia EU có hai năm để đưa luật mới vào thực hiện. Đây không

phải là lần đầu tiên EU bỏ phiếu về việc thắt chặt các hình phạt đối với tội phạm mạng.

Trong năm 2011, các nhà lập pháp EU đã đồng ý tăng hình phạt đối với tội phạm tin

học, bao gồm cả hình phạt mới cho người sáng tạo các bonet (virut độc hại xâm nhập,

khống chế hệ thống máy tính). Từ việc tham khảo kinh nghiệm trong phòng ngừa, đấu

tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao của các quốc gia trên thế giới các lực lượng

tiến hành hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam có

những tham mưu, đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để đề ra các chính sách,

pháp luật phục vụ cho hoạt động đấu tranh, phòng ngừa với các tội phạm trong lĩnh vực

này phù hợp với thực tiễn của nước ta. Việc tham khảo kinh nghiệm, trao đổi thông tin

giữa Việt Nam với các quốc gia và tổ chức quốc tế có thể thông qua công tác phối hợp

và hợp tác quốc tế nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT.

157

4.2.7 Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về công nghệ thông tin và viễn

thông; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông

Thực tế cho thấy công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực CNTT&MVT còn

nhiều bất cập, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn. Việc này chính là những nguyên nhân,

điều kiện để tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có cơ hội phát sinh và phát triển.

Do vậy để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm trong lĩnh vực này, công tác quản lý nhà

nước về CNTT&MVT cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

- Bộ thông tin truyền thông cần có biện pháp chỉ đạo quyết liệt nhằm siết chặt

việc quản lý sim điện thoại. Trong thời gian qua đã có rất nhiều vụ án đối tượng phạm

tội lợi dụng những kẽ hở trong quản lý sim điện thoại, dùng sim rác thực hiện các cuộc

gọi lừa đảo mạo danh các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Tòa án, Viện kiểm

sát… đe dọa một số người dân để tống tiền nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Hiện

nay Cục viễn thông đã phối hợp với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông

triển khai việc quản lý sim điện thoại, khóa một chiều các sim điện thoại thực hiện các

cuộc gọi “rác”, phát tán tin nhắn “rác”. Hoạt động này cần được tiến hành một cách

thường xuyên, liên tục đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng và phát triển môi trường

viễn thông an toàn.

- Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các Ngân hàng thương mại chú trọng hoạt

động mở tài khoản ngân hàng cho các đối tượng. Chính việc dễ dàng mở tài khoản tại

các Ngân hàng thương mại, thậm chí có đối tượng sử dụng chứng minh thư, thẻ căn

cước giả hoặc ăn cắp của người khác để mở tài khoản tại Ngân hàng với mục đích xấu

hoặc tạo điều kiện để tội phạm đánh bạc qua mạng phát triển. Cần có chính sách bảo

mật, đảm bảo an toàn thông tin cá nhân trong các giao dịch điện tử.

- Thanh tra Bộ thông tin truyền thông cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm

tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về CNTT&MVT; xây dựng quy chế phối

hợp với các ban ngành, địa phương về quản lý các đại lý dịch vụ Internet, đại lý dịch

vụ viễn thông đảm bảo an toàn thông tin và phòng ngừa tội phạm.

Quản lý chặt chẽ các tài khoản và người dùng mạng xã hội, thường xuyên

khuyến cáo người dùng mạng xã hội nâng cao tính bảo mật, an toàn thông tin. Năm

2018 đã có 50 triệu tài khoản người dùng Facebook tại Việt Nam bị rò rỉ thông tin cá

nhân, nhiều tài khoản cá nhân bị hack và đối tượng phạm tội đã sử dụng tài khoản cá

nhân đó thực hiện các hành vi lừa đảo như nhờ chuyển tiền qua tài khoản sau đó chiếm

dụng luôn.

Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT thì một trong những nhiệm vụ cơ bản của các chủ thể phòng ngừa là

158

phải làm tốt công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về CNTT&MVT cho mọi tầng

lớp nhân dân giúp họ hiểu và tuân thủ pháp luật, góp phần quan trọng vào việc ngăn

chặn cũng như phát hiện kịp thời mọi hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Thực tiễn phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thời gian qua cho

thấy ý thức của người sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng thông tin ở Việt Nam đối

với việc đảm bảo an toàn cho các thiết bị và hệ thống thông tin còn thấp. Điều này thể

hiện ở một số hiện tượng như:

+ Tình trạng sử dụng các phần mềm không có bản quyền, phần mềm đã được

“bẻ khóa” rất phổ biến ở Việt Nam, làm cho nguy cơ mất an toàn đối với các thiết bị

và hệ thống thông tin của chính người sử dụng. Các phần mềm phổ biến như

Windows, bộ phần mềm văn phòng office của Microsoft và nhiều phần mềm thông

dụng khác khi được cài đặt trên các máy tính người dùng ở nước ta hầu hết đều không

có bản quyền hợp pháp. Với lý do số tiền phải trả cho các phần mềm có bản quyền

thường cao hơn rất nhiều so với phần mềm được sao chép lậu, phần mềm đã được bẻ

khóa. Việc sử dụng các phần mềm không có bản quyền sẽ dẫn đến nguy cơ các máy

tính bị nhiễm các chương trình máy tính độc hại ngay từ khi cài đặt hoặc khi tải phần

mềm này từ trên mạng về máy. Hơn nữa, vì không có bản quyền hợp pháp nên các nhà

cung cấp chính hãng không cho phép các thiết bị người dùng cập nhật các bản vá lỗi

trong đó có những bản vá các lỗ hổng bảo mật do đó nguy cơ các thiết bị này bị mất an

toàn là rất cao.

+ Phần lớn các máy tính, thiết bị số không cài đặt, sử dụng các phần mềm bảo

vệ (thường được gọi là phần mềm diệt virut) hoặc thiết lập tường lửa (fire wall) để bảo

vệ. Chi phí cho việc mua và sử dụng các phần mềm bảo vệ thường không lớn nhưng

do ý thức bảo mật kém nên số lượng người sử dụng vẫn thấp. Đây là nguyên nhân dẫn

đến việc lây lan các phần mềm độc hại trở nên nhanh chóng, là tiền đề để đối tượng

phạm tội thực hiện các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đa số người

dùng lâm vào hoàn cảnh thất thoát dữ liệu đều không chuyên hoặc ít có sự hiểu biết về

an ninh mạng, và đây cũng chính là một trong những nguyên nhân lớn khiến họ trở

thành nạn nhân của hacker. Một điều rất rõ ràng là nếu chúng ta ít có kiến thức về

công nghệ nhưng luôn có ý thức bảo mật, thì sẽ giảm thiểu đi rất nhiều khả năng tấn

công của Hacker, vì các phần mềm, ứng dụng bảo mật đã được tự động hóa để đối mặt

với các nguy cơ gây hại.

+ Người sử dụng internet ở Việt Nam còn thiếu kiến thức và kỹ năng về an toàn

trực tuyến. Theo kết quả khảo sát hành vi người sử dụng internet của nhiều đơn vị hoạt

động trong lĩnh vực an toàn thông tin, đa số người dùng ở Việt Nam khi được khảo sát

đều sử dụng chung một mật khẩu cho các tài khoản trực tuyến của mình; lưu mật khẩu

159

trên các giấy tờ tài liệu, ghi chép tại các quán cafe internet, nơi kết nối internet công

cộng thường không đảm bảo an toàn,... Nhiều người dùng cho rằng họ sẽ an toàn nếu

click vào các đường liên kết (đường link) được gửi từ bạn bè, và nhiều người tin rằng

nếu chỉ đọc nội dung trên các trang web thì không có gì nguy hiểm...

Việc thiếu kỹ năng và kiến thức về an toàn mạng như đã nêu ở trên thì máy

tính, thiết bị viễn thông của người dùng ở Việt Nam dễ bị nhiễm các phần mềm độc

hại và rất dễ bị các đối tượng phạm tội thâm nhập lấy cắp dữ liệu hoặc bị đối tượng

phạm tội chiếm quyền điều khiển để thực hiện các hành vi phạm tội...

+ Các tổ chức, doanh nghiệp có các trang mạng hoặc hoạt động kinh doanh trên

mạng chưa quan tâm đúng mức đến giải pháp bảo mật một cách tổng thể. Ở nhiều đơn

vị chưa xây dựng được các chính sách đảm bảo an toàn, an ninh mạng như: các tiêu

chuẩn về nền tảng công nghệ, các quy định về lưu trữ dữ liệu dự phòng, chính sách

phân quyền truy nhập, các quy định chống truy nhập trái phép, bảo vệ dữ liệu, lưu giữ

thông tin về các giao dịch... Đầu tư thiếu đồng bộ hạ tầng công nghệ thông tin liên

quan đến vấn đề bảo mật, chưa chú trọng đến nguồn nhân lực đảm bảo an toàn thông

tin như thiếu nhân viên chuyên trách đảm bảo an toàn thông tin, trình độ về công nghệ

thông tin của đội ngũ này còn yếu... Theo báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, đánh giá

thực trạng an toàn thông tin (ATTT) tại Việt Nam năm 2016 của Hiệp hội An toàn

thông tin Việt Nam (VNISA), Chỉ số ATTT Việt Nam (Vietnam Information Security

Index) 2016 là 59,9% - tăng 12,5% so với mức 47,4% năm 2015 (chỉ số này các năm

2014 và 2013 lần lượt là 39% và 37,3%) và lần đầu tiên vượt mức trung bình 50% của

thế giới. Năm 2019, Việt Nam xếp thứ 50/175 quốc gia và vũng lãnh thổ về chỉ số an

toàn thông tin (tăng 50 hạng so với chỉ số năm 2017). Chỉ số này có xu hướng tăng bền

vững qua các năm, thể hiện định hướng kiên định của Nhà nước và cộng đồng trong

phát triển an toàn thông tin.

Bên cạnh đó, tình hình an toàn thông tin của Việt Nam trong những năm qua

còn có nhiều diễn biến phức tạp, vẫn xảy ra nhiều vụ tấn công có chủ đích vào hệ

thống thông tin của tổ chức, doanh nghiệp lớn, lượng mã độc phát tán vẫn còn

nhiều...Đơn cử, trong hai ngày 8-9/3/2016, website của nhiều cảng hàng không tại

Việt Nam như Tân Sơn Nhất (TP.HCM), Rạch Giá (Kiên Giang), Tuy Hòa (Phú Yên)

bị hacker tấn công. Tình trạng chung của các website này là hacker xâm nhập, để lại

lời nhắn cảnh báo. Việc website của các cảng hàng không tê liệt, dù trong thời gian

ngắn, khiến nhiều người lo lắng.Tuy nhiên, đại diện Bkav khẳng định đây không phải

một vụ tấn công có chủ đích mà đơn thuần là động thái khai thác lỗ hổng website.

Trong khi đó, vụ hack website các cảng hàng không chủ yếu khai thác các lỗ hổng,

xuất phát từ việc thiếu quy trình kiểm tra cũng như kinh nghiệm về lập trình an toàn

160

của lập trình viên. Sự cố vừa xảy ra cho thấy việc đảm bảo an ninh mạng cho ngành

hàng không còn yếu kém, đầu tư chưa tương xứng với tầm quan trọng của hệ thống, để

tránh xảy ra sự cố tương tự, người quản trị hệ thống website nên có quy trình kiểm tra

đánh giá trước khi đưa vào sử dụng, kiểm tra định kỳ để khắc phục lỗ hồng. Khi code

website, các kỹ sư cần lường trước các tình huống để tránh tạo ra lỗ hổng website [103].

+ Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực về CNTT&VT còn có nhiều bất

cập. Chỉ trong một vài năm gần đây, khi vấn đề an ninh mạng, an toàn mạng trở nên nóng bỏng do sự phức tạp của tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, một số

trung tâm đào tạo lớn mới mở chuyên ngành đào tạo an ninh mạng hoặc an toàn thông

tin. Mặt khác, trong nội dung đào tạo của nhiều trường, trung tâm đào tạo về

CNTT&MVT mới chỉ chú trọng đào tạo nghề chứ chưa chú ý đúng mức đến việc giáo

dục đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ chuyên gia về CNTT&MVT tương lai. Do sức ép về nguồn nhân lực cho sự phát triển nóng của ngành CNTT&MVT, nhiều cơ sở đào

tạo mới chỉ tập trung đào tạo kỹ năng. Nhiều sinh viên các ngành CNTT&VT lấy khả

năng thâm nhập, bẻ khóa, kiểm soát thông tin làm thước đo trình độ chuyên môn. Họ

cố gắng mày mò, tìm hiểu các “chiêu trò” của giới tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT và thử thực hiện. Vô hình chung, chúng ta đang tạo ra các chuyên gia bẻ

khóa, lập trình virut, thâm nhập,... hơn là các chuyên gia CNTT&VT đúng nghĩa. Việc

thiếu giáo dục về pháp luật và đạo đức nghề nghiệp đã cho ra đời một bộ phận chuyên

gia CNTT&MVT có thể rất tốt về chuyên môn nhưng thiếu trách nhiệm với xã hội đã

lợi dụng sự hiểu biết của mình về CNTT&MVT để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế số sinh viên chuyên ngành CNTT&MVT chiếm tỷ lệ cao trong

thành phần chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trong thời gian qua đã

minh chứng phần nào cho nhận định đó. Đối tượng phạm tội trong lĩnh vực

CNTT&MVT phần lớn là người có trình độ hiểu biết về CNTT&MVT. Họ hiểu biết

và có khả năng giao tiếp với máy tính, làm việc với các chương trình, hệ thống, mạng

lưới thông tin; hiểu biết về lập trình và xử lý các vấn đề phần cứng cũng như phần

mềm của hệ thống máy tính. Chính kỹ năng và sự hiểu biết về CNTT&MVT đã được họ sử dụng để thực hiện các hành vi phạm tội.

Thống kê 1807 đối tượng phạm tội trong lĩnh vực CNTT&VT cho thấy có 830 đối tượng có trình độ Đại học hoặc trên Đại học về CNTT&VT (chiếm tỷ lệ 46,1%), có 710 đối tượng có trình độ Trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng về CNTT&VT (chiếm tỷ lệ 39%), còn lại 267 đối tượng chỉ tốt nghiệp Trung học phổ thông và chưa tốt nghiệp phổ thông. Phần lớn các đối tượng đã và đang là sinh viên các trường được

đào tạo cơ bản, chuyên sâu và CNTT&VT như sinh viên các trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa Tp Hồ Chí Minh, Học viện công nghệ bưu chính

viễn thông...[9].

161

Như vậy xuất phát từ những lý do trên cho thấy công tác tuyên truyền nhằm

nâng cao ý thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân, các cơ quan tổ chức trong việc

phát hiện, phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, nâng cao khả năng điều

kiện tham gia phòng ngừa các loại tội phạm này là hết sức cần thiết và cấp bách. Công

tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên,

liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, phải có nội dung, hình thức và biện pháp phù hợp

với từng đối tượng cụ thể. Hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật phải

đa dạng, phong phú, tranh thủ khai thác ưu thế của mạng xã hội và các loại hình nghệ

thuật để đưa nội dung truyền tải đến người nhận.

- Về đối tượng, nội dung tuyên truyền

Đối với ngƣời sử dụng máy tính, thiết bị số nói chung

Để nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các đơn vị, các doanh nghiệp và

quần chúng nhân dân trong phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, cần

chú ý cần tuyên truyền nâng cao ý thức cảnh giác và thay đổi hành vi, những thói quen sử

dụng không an toàn. Những nội dung tuyên truyền cần tập trung vào các vấn đề sau:

+ Những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về CNTT&MVT

như Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 25/1/2018 về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trên

không gian mạng; Nghị quyết số 30/NQ-TW ngày 25/7/2018 về Chiến lược An ninh

mạng quốc gia, Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng...;

+ Thông tin về các hiện tượng mất an toàn trong khai thác, sử dụng công nghệ

thông tin, về những dạng thức hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và

hậu quả của những hành vi phạm tội trong lĩnh vực này;

+ Qua các vụ án đã được phát hiện và xử lý, phải nhanh chóng tuyên truyền cho

các tổ chức, doanh nghiệp và quần chúng nhân dân nắm bắt được các phương thức, thủ

đoạn để người sử dụng tự phòng ngừa và tự phát hiện các nguy cơ mất an toàn thông

tin riêng, các biện pháp chống lại sự tấn công, lừa đảo của các đối tượng phạm tội

trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đặc biệt hướng dẫn người sử dụng các thói quen sử

dụng máy tính, thiết bị số, mạng thông tin một cách an toàn. Chẳng hạn như khuyến

khích người sử dụng nên sử dụng các chương trình phần mềm máy tính có bản quyền

hợp pháp, sử dụng các chương trình bảo vệ an toàn thông tin, cập nhật thường xuyên

các bản vá lỗi, các phần mềm nâng cấp của các nhà cung cấp, hạn chế sử dụng các

phần mềm được tải xuống miễn phí từ các trang mạng không đáng tin cậy,... Có thói

quen sao lưu dự phòng các thông tin, đề phòng và hạn chế việc mất mát dữ liệu do sự

tấn công của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;

+ Xây dựng các công cụ hỗ trợ người dùng như phát hành các phần mềm phát

hiện các chương trình máy tính độc hại, các chương trình tự động báo cáo các hiện

162

tượng bất bình thường trong hoạt động máy tính, cung cấp các dịch vụ xác nhận giao

dịch chặt chẽ hơn... giúp người sử dụng tự phát hiện các nguy cơ mất an toàn thông

tin, đồng thời hướng dẫn họ cách tự xử lý các trường hợp máy tính, thiết bị, hộp thư...

bị mất an toàn. Hiện nay các phần mềm diệt virut do các doanh nghiệp, tổ chức hoạt

động trong lĩnh vực an ninh mạng, xử lý sự cố máy tính như BKAV, VNCERT...có

chất lượng tốt, được tải về miễn phí hoặc có giá thành hợp lý tiện lợi cho người sử

dụng. Tuy nhiên, khi có sự cố an toàn thông tin xảy ra, đa số các tổ chức/ doanh

nghiệp chỉ xử lý, báo cáo trong nội bộ, mà chưa kịp thời thông báo cho các cơ quan

chuyên trách. Vai trò của nhà cung cấp dịch vụ viễn thông ít được chú ý khi xảy ra sự

cố. Đó là một vấn đề cần thay đổi vì các nhà cung cấp dịch vụ có lợi thế rất lớn về vị

trí kết nối trong mạng, cùng lực lượng nhân sự có thể tham gia xử lý sự cố an toàn

thông tin. Đây là một vùng trắng mà các nhà cung cấp dịch vụ Internet cần chú ý trong

kế hoạch phát triển kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh dịch vụ an toàn thông tin, bên

cạnh các dịch vụ đã khá phổ biến là Trung tâm dữ liệu. Đứng trước sự đe dọa và gây

thiệt hại đáng kể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, Nhà nước cần quan tâm

đúng mức và cấp kinh phí cho các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, cung cấp các

dịch vụ hỗ trợ, phần mềm diệt virut, phát hiện mã độc và các lỗ hổng bảo mật để người

sử dụng máy tính và viễn thông tại Việt Nam được bảo đảm an toàn, từ đó bảo đảm an

toàn an ninh thông tin của quốc gia. Đầu mối thực hiện và chỉ đạo công việc này nên

giao cho Bộ thông tin và truyền thông phối hợp với các cơ quan trong Bộ như Cục An

toàn thông tin, Cục Viễn thông, Trung tâm ứng cứu sự cố khẩn cấp không gian mạng

Việt nam, Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia...

+ Kiến thức pháp luật về phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT

bao gồm: quy định của Hiến pháp 2013 về xây dựng Nhà nước pháp quyền, quyền và

lợi ích của công dân, của doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT&MVT; chính sách hình

sự đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự nói chung, tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT nói riêng; Đồng thời hướng dẫn người sử dụng biết sử dụng các công cụ

pháp luật để xử lý các tình huống quyền lợi bị xâm phạm bởi tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT;

+ Nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội của công dân trong phòng ngừa tội phạm

nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng. Điều này được thực hiện

như sau:

Đối với thanh thiếu niên

Đối với thanh, thiếu niên nhất là đội ngũ sinh viên chuyên ngành CNTT&MVT

của các cơ sở đào tạo trong toàn quốc, cần tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao ý

thức và trách nhiệm xã hội. Các nội dung cần tập trung tuyên truyền, phổ biến là:

163

+ Các quy định pháp luật về phát triển, khai thác, ứng dụng CNTT&MVT; các quy

định của pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; các quy định về quản

lý, xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực liên quan đến CNTT&MVT;

+ Tuyên truyền về hậu quả tác hại của những hành vi phạm tội và vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đặc biệt nhấn mạnh đến hậu quả pháp lý đối

với những người phạm tội, người vi phạm pháp luật;

+ Tăng cường giáo dục tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, ý thức đạo đức

nghề nghiệp của những lập trình viên, quản trị mạng...

Đối với các cơ quan, tổ chức

+ Đối với các cơ quan, tổ chức đặc biệt là các đơn vị có cung cấp các dịch vụ

trực tuyến cần tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp và giải pháp chủ động phòng ngừa

và bảo vệ hệ thống thông tin của mình, hạn chế nguy cơ bị tấn công hoặc lợi dụng bởi tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Đối với các tổ chức này cần tuyên truyền, nâng cao

nhận thức và hiểu biết của những người đứng đầu, người quản lý các đơn vị trong việc

đảm bảo an toàn thông tin. Các đơn vị phải chủ động tăng cường dự báo định mức rủi ro

và các nguy cơ tiềm tàng để từ đó có ý thức đầu tư bảo mật cho hệ thống ngay từ khi bắt

đầu xây dựng; chấp nhận và chấp hành các quy định pháp luật về an toàn thông tin. Ngay

từ khi xây dựng các hệ thống thông tin cần sử dụng các dịch vụ an ninh mạng để đánh giá

độ an toàn, kịp thời phát hiện và chỉnh các lỗ hổng bảo mật. Thường xuyên cập nhật hoặc

yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ cho thuê máy chủ các bản vá lỗi hệ điều hành trên máy chủ.

Chủ động áp dụng bộ cản lọc, kiểm soát các gói tin ra vào để phát hiện và ngăn chặn kịp

thời các giao dịch nghi ngờ.

+ Đối với các đơn vị có hệ thống thông tin lớn, các ngân hàng, tổ chức tài chính,

các doanh nghiệp có nhiều giao dịch điện tử cần tổ chức bộ phận chuyên trách về an ninh

mạng. Cần xây dựng hệ thống tường lửa nhằm ngăn chặn các thủ đoạn xâm nhập, mục

đích của việc xây dựng hệ thống tường lửa là bảo vệ tài nguyên, dữ liệu và mạng. Chúng

sẽ làm giảm bớt những mối đe dọa tấn công bằng việc loại bỏ những lưu lượng mạng có

hại hay có ác ý trong khi vẫn cho phép các hoạt động hợp pháp tiếp tục. Tường lửa cần

ngăn những ứng dụng không mong muốn và những cuộc tấn công nhằm vào các mạng và

các ứng dụng cá nhân, qua việc sử dụng các nguyên tắc xác định và các danh sách điều

khiển truy nhập (access control lists); sử dụng các bộ lọc gói tốc độ cao để loại bỏ các gói

tin tấn công; sử dụng thuật toán lọc dựa trên cơ sở ngưỡng để chống lại các cuộc tấn công

từ chối dịch vụ (DOS/DDOS);...

+ Tư vấn cho các đơn vị, doanh nghiệp quản lý chặt chẽ đội ngũ nhân viên công

nghệ thông tin kể cả đội ngũ nhân viên từ các doanh nghiệp bên ngoài được cử đến để

xây dựng, bảo hành, sửa chữa hệ thống thông tin của đơn vị. Bởi theo như phân tích

164

của các chuyên gia an ninh thông tin trong các nguy cơ mất an toàn thông tin, thì các

nguy cơ từ trong nội bộ của các đơn vị chiếm tỷ lệ chủ yếu. Bởi vậy, cần tư vấn cho

các đơn vị, tăng cường các biện pháp bảo mật nội bộ, đặc biệt lựa chọn tuyển dụng

chặt chẽ, giáo dục, quản lý chặt đội ngũ nhân viên của mình. Trường hợp sử dụng dịch

vụ của các đơn vị bên ngoài, cần lựa chọn kỹ lưỡng những đơn vị cung cấp dịch vụ có

uy tín để tránh bị lợi dụng. Các đơn vị cần áp dụng các hệ thống quản lý giám sát

người sử dụng để kịp thời nắm bắt những hoạt động mà họ đã tiến hành trên hệ thống

thông tin, kịp thời phát hiện, cảnh báo những trường hợp vượt quyền. Các thiết bị hết

hạn sử dụng phải được xóa sạch dữ liệu đảm bảo chống việc phục hồi sau khi được

thanh lý, bán ra bên ngoài.

- Về hình thức tuyên truyền

Người sử dụng máy tính, thiết bị số, dịch vụ viễn thông rất đa dạng vì vậy cần

có nhiều hình thức và phương pháp tuyên truyền. Tuy nhiên phương pháp phù hợp

nhất là sử dụng chính các công cụ thông tin, truyền thông để truyền tải các nội dung

tuyên truyền đến quần chúng. Có nhiều hình thức cụ thể có thể sử dụng, như:

+ Phối hợp với các cơ quan thông tin như Đài truyền hình Việt Nam, Đài

tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam... đăng tải các tin bài phản ánh tình

hình và các vụ việc điển hình về tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT trên các

phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên các trang thông tin điện tử hoặc các

trang mạng xã hội;

+ Lập các trang mạng, các diễn đàn về an toàn thông tin trên trang mạng của các

lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, của các Bộ quản lý

ngành như Bộ thông tin và truyền thông, của các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong

lĩnh vực an ninh mạng như BKAV, VINCERT, Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam...

để đưa thông tin và khuyến khích người dùng trao đổi thông tin về đảm bảo an toàn

mạng. Đồng thời lập các chuyên mục để thu nhận các phản ánh, khiếu nại của người

dùng về các tội phạm và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Đối với nhóm đối tượng là người trẻ (thanh, thiếu niên, sinh viên) cần phối hợp

và phát huy vai trò của trường học, các trung tâm đào tạo, các tổ chức Đoàn thanh

niên, hội sinh viên, các câu lạc bộ sinh viên. Cụ thể như:

+ Lực lượng Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao cần chủ động phối hợp

với các trường học, các Học viện, trường Đại học, các Trung tâm đào tạo

CNTT&MVT tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về phòng ngừa tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT cho sinh viên, học viên; kiến nghị và phối hợp với

các nhà trường trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, nâng cao ý thức trách

nhiệm xã hội cho sinh viên;

165

+ Kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin yêu cầu các tổ chức

quản lý các trang mạng, ban quản trị các diễn đàn trên mạng có sinh viên, học sinh

tham gia truy cập nhiều cần xây dựng các chuyên mục, bố trí các ban-nơ, dành một

phần không gian trên các trang mạng để tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Mở các

chuyên mục, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, hỏi đáp về pháp luật trên các trang mạng

cho sinh viên, học sinh;

+ Phối hợp với tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cùng với các cơ quan

chức năng tổ chức các nhóm sinh viên công nghệ thông tin xây dựng các diễn đàn, tổ

chức các câu lạc bộ có những hoạt động tuyên truyền trên mạng cũng như các hoạt

động thực tế (offline) phong phú, đa dạng, thích hợp với sinh viên, học sinh để thu hút

họ tham gia.

Ngoài ra cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hoặc ban hành quy định để đưa các

kiến thức, pháp luật về bảo đảm an ninh mạng; phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT vào chương trình giáo dục cho phù hợp với từng cấp học, bậc học nhằm

trang bị kiến thức, văn hóa ứng xử khi tham gia môi trường mạng cho toàn xã hội để

mỗi người dân có thể tự bảo vệ mình trước các thủ đoạn tinh vi của tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT; chấp hành pháp luật, không tiếp tay cho tội phạm và tích cực tham

gia phòng ngừa, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

Trên đây là những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT, có những giải pháp mang tính cấp bách, giải

pháp mang tính lâu dài cần được đầu tư kinh phí dài hạn. Có những giải pháp đã thực

hiện nhưng chưa hiệu quả cần được hoàn thiện, tăng cường và đẩy mạnh trong thời

gian tới.

166

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam trong giai đoạn từ 2010 đến 2019,

chương 4 có những kết luận như sau:

1. CNTT&MVT là những lĩnh vực đang có những bước phát triển rất nhanh tại

Việt Nam và những năm tiếp theo. Trong khi đó hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh

lĩnh vực này lại chưa hoàn thiện, công tác quản lý nhà nước về CNTT&MVT của các

cơ quan chức năng còn nhiều hạn chế.

2. Tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT ở nước ta trong thời gian

qua đã có những diễn biến hết sức phức tạp, và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ,

tính chất, quy mô, địa bàn và lĩnh vực hoạt động.

3. Dự báo các yếu tố tác động trong và ngoài nước đối với sự phát triển của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa phù hợp

nhằm thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến triệt xóa tội phạm này.

4. Để tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&MVT tại Việt Nam, các chủ thể cần thực hiện các giải pháp sau đây:

- Nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, nội dung hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT; Tăng cường việc phòng

ngừa tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT theo chức năng, nhiệm vụ;

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&VT bao gồm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, luật chuyên ngành điều chỉnh

lĩnh vực CNTT&MVT;

- Nâng cao năng lực cho lực lượng phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực

CNTT&;

- Đẩy mạnh công tác tham mưu và phòng ngừa nghiệp vụ, phòng ngừa kỹ thuật

trong phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT;

- Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các lực lượng, giữa các cơ quan tổ chức,

ban ngành, chính quyền địa phương trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT;

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động phòng ngừa tội phạm trong lĩnh

vực CNTT&MVT;

- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng ngừa tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT.

167

KẾT LUẬN LUẬN ÁN

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT là hành vi nguy hiểm cho xã hội được

quy định trong Bộ luật hình sự do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự sử dụng

sự tiến bộ của CNTT&MVT, sử dụng kiến thức và kỹ năng hiểu biết của mình về CNTT&MVT để phạm tội. Đây là một loại tội phạm phi truyền thống, nó được phát

sinh, phát triển trên cơ sở sự ra đời và tiến bộ không ngừng của CNTT&MVT. Tội

phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT đã và đang gây ra những hậu quả rất nghiêm

trọng về kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, quyền và nghĩa vụ

của cơ quan, tổ chức và mọi công dân; đe dọa đến an ninh an toàn thông tin quốc gia. Do vậy việc phòng, chống loại tội phạm này là hết sức cần thiết đặc biệt trong giai

đoạn hiện nay khi CNTT&VT đang được ứng dụng ngày càng sâu rộng vào nhiều

lĩnh vực của đời sống. Bên cạnh những ưu điểm do CNTT&VT mang lại thì nó cũng tạo những điều kiện thuận lợi cho tội phạm trong lĩnh vực này ngày càng gia tăng về

quy mô, số vụ và số tiền thu lợi bất hợp pháp. Trong việc phòng chống, đấu tranh với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT thì việc phòng ngừa tình hình tội phạm không

để nó xảy ra bằng nhiều biện pháp hướng tới việc thủ tiêu những nguyên nhân, điều

kiện của tội phạm và ngăn chặn, kiềm chế, làm giảm và từng bước đẩy lùi tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT ra khỏi đời sống xã hội là rất quan trọng.

Để hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT có

hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải nhận thức rõ các vấn đề như: khái niệm và đặc điểm

của tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT và các tội phạm có liên quan; khái niệm

hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể, các nguyên tắc và các biện

pháp phòng ngừa. Tìm hiểu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

trong lĩnh vực CNTT&MVT tại Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra những đánh giá,

nhận xét cần thiết làm cơ sở đề xuất các giải pháp để khắc phục các tồn tại, hạn chế

trong hoạt động phòng ngừa. Từ đó góp phần tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT nói riêng.

Đi theo trình tự trên, Luận án đã có sự tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích sâu về phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT&MVT. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng song do đây là loại tội phạm mới, phi truyền thống cộng với sự hiểu biết còn hạn chế nên kết quả nghiên cứu chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các chuyên gia, nhà làm luật, thầy cô và

các bạn quan tâm đến đề tài Luận án.

168

Xin trân trọng cảm ơn!

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

1. Trần Đoàn Hạnh (2013): “Vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực công nghệ

CỦA TÁC GIẢ Đ CÔNG B LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

thông tin và truyền thông: Thực trạng và giải pháp phòng ngừa”, Tạp chí

Công nghệ thông tin và truyền thông (Số 460/tháng 11/2013), tr. 44-50.

2. Trần Đoàn Hạnh (2014): “Nhận diện hành vi tội phạm công nghệ cao và giải pháp

phòng ngừa theo quy đinh mới của pháp luật”, Tạp chí Công nghệ thông tin

và truyền thông (Số 475/ tháng 7/2014),

tr. 38-43.

3. Trần Đoàn Hạnh (2016): “Những vướng mắc trong đấu tranh xử lý vi phạm pháp

luật về tội phạm công nghệ cao”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Số

306+307/tháng 2/2016), tr. 103-111.

4. Trần Đoàn Hạnh (2016): “Yêu cầu hoàn thiện khung khổ pháp lý xử phạt tội phạm

công nghệ thông tin, mạng viễn thông”, Tạp chí Tài chính (Số 639/tháng

8/2016), tr. 21-23.

5. Trần Đoàn Hạnh (2017): “Phòng ngừa tội phạm sử dụng công nghệ thông tin và

viễn thông”, Tạp chí Quản lý nhà nước (Số 256/tháng /2017), tr. 80-84.

6. Trần Đoàn Hạnh (2018): “Quản lý thẻ cào viễn thông, những bất cập và giải pháp

khắc phục”, Tạp chí Quản lý nhà nước (Số 275/tháng 12/2018), tr. 70-72.

7. Trần Đoàn Hạnh (2019): “Bảo đảm an toàn thông tin cá nhân trong giao dịch

thương mại điện tử tạ Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước (Số 281/tháng

169

6/2019), tr. 98- 100.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ban Bí thư (2016), Kết luận số 05-KL/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực

hiện Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

phòng chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.

2. Bộ Bưu chính viễn thông (Bộ thông tin truyền thông) (2005), Chỉ thị số

03/2005/CT-BBCVT về đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và tham

nhũng trong lĩnh vực bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát

triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.

6. Bộ Công an, (2015), Chỉ thị về việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng

chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong tình hình mới, Hà Nội.

7. Bộ Công an, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao 2019 và phương hướng nhiệm vụ năm 2020, Hà Nội

8. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

(2013), Báo cáo tổng kết 3 năm công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội, Hà Nội.

9. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

(2015), Báo cáo tổng kết 5 năm công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ

cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội 2010 - 2015, Hà Nội.

10. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

(2016), Báo cáo sơ kết công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm

phạm trật tự an toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2016, Hà Nội.

11. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

(2017- 2018), Báo cáo công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm

170

phạm trật tự an toàn xã hội năm 2017- 2018, Hà Nội.

12. Bộ Công an, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

(2014), Hội nghị tăng cường hợp tác quốc tế phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn xã hội, Hà Nội.

13. Bộ Công an, Tổng cục VI (2010), Quyết định số 450/2010/QĐ-BCA ngày

4/2/2010 của Bộ trưởng Bộ công an quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

tổ chức bộ máy của Cục cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Hà

Nội

14. Bộ Công an, Tổng cục VI (2010), Quyết định số 4356/QĐ-C41-C43 về

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của phòng tham mưu tổng hợp

thuộc C50, Hà Nội.

15. Bộ Công an, Tổng cục VI (2013), Quyết định số 4357/QĐ-C41-C43 về

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng phòng chống tội

phạm mạng máy tính thuộc C50, Hà Nội.

16. Bộ Công an – Bộ thông tin và truyền thông (2008), Thông tư liên tịch số

06/2008/TTLT-BTTTT-BCA về bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng và an ninh thông tin

traong hoạt động bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin, Hà Nội.

17. Bộ Công an-Bộ Quốc phòng-Bộ tư pháp-Bộ thông tin truyền thông-Viện

kiểm sát nhân dân tối cao-Tòa án nhân dân tối cao (2012), Thông tư liên tịch số

10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định

của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn

thông, Hà Nội.

18. Bộ Công an (2013), Thông tư số 18,19,20,21,22/2013/TT-BCA-C41 về

công tác điều tra cơ bản, xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án và xây dựng lực

lượng Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Bộ Công an, Tổng cục VI (2010 – 6/2014), Thống kê số liệu tội phạm sử

dụng công nghệ cao, Hà Nội.

20. Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nhà

xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Bộ công thương (2014), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn

2004-2014, Hà Nội.

22. Bộ công thương (2019), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn

171

2015-2019, Hà Nội.

23. Bộ thông tin và truyền thông (2015 - 2019), Báo cáo tổng kết nhiệm vụ

công tác năm 2015- 2019, Hà nội.

24. Bộ thông tin và truyền thông (2017), Đề án tăng cường hiệu quả công tác

phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trên mạng Internet, Hà Nội.

25.Bộ thông tin và truyền thông (2016), Hội nghị sơ kết đánh giá thi hành

Luật viễn thông và Luật tần số vô tuyến điện, Hà nội.

26. Bộ thông tin và truyền thông (2014), Quyết định số 1765/QĐ-BTTTT về

quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ

TTTT, Hà nội.

27. Bộ thông tin và truyền thông (2015), Quyết định số 1778/QĐ-BTTTT về

quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm ứng cứu

khẩn cấp máy tính Việt Nam, Hà nội.

28. Bộ thông tin truyền thông (2018), Quyết định 1616/QĐ-BTTTT năm 2018

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Giám

sát an toàn không gian mạng quốc gia, Hà Nội.

29. Bộ thông tin và truyền thông (2013), Sách trắng công nghệ thông tin và

truyền thông Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013, Hà Nội.

30. Bộ tư pháp (2019), Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp quốc gia ”Cách mạng

công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam”, Hà Nội

31. C.Mác-Ăng-ghen (1984), Tuyển tập: tập 6, Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội.

32. Cao Anh Đức (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam:

tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa

học xã hội.

33. Chính phủ (2007), Nghị định số 71/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật công

nghệ thông tin.

34. Chính phủ (2011), Nghị định số 25/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật viễn thông.

35. Chính phủ (2013), Nghị định số 170/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật

giao dịch điện tử.

36. Chính phủ (2013), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP quy định về trách nhiệm

quản lý nhà nước về an toàn thông tin và an ninh thông tin

37. Chính phủ (2013), Nghị định 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm

172

hành chính trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, CNTT&và tần số vô tuyến điện.

38. Chính phủ (2014), Nghị định số 25/NĐ-CP quy định về phòng, chống tội

phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao.

39. Chính phủ (1993), Nghị quyết số 49/CP về phát triển công nghệ thông tin

ở Việt nam.

40. Công an thành phố Hà nội (2003-tháng 6/2014), Báo cáo tổng kết công tác

của PC50.

41. Chuyên đề (2010), Một số lý luận, thực tiến và giải pháp đấu tranh phòng

chống tội phạm liên quan đến sử dụng công nghệ cao, Mai Anh Thông – Cao Anh

Đức – Nguyễn Việt Dũng, Hội đồng khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

42. Dương Tuyết Miên (2008), Phòng ngừa tình hình tội phạm, Tạp chí Tòa

án nhân dân.

43. Đảng cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành

Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ XII của Đảng cộng sản Việt

Nam.

44. Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Bài giảng Tội phạm học. Khoa Luật.

45. Đại học Luật Hà nội (2012), Giáo trình Tội phạm học, Nhà xuất bản Công

an nhân dân.

46. Đặng Trung Hà (2009), Tội phạm công nghệ thông tin và sự khác biệt

giữa tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông thường, Tạp chí Dân chủ và

pháp luật.

47. Đại từ điển Tiếng Việt (2010), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Tp Hồ Chí

Minh

48. Đỗ Chí Tuệ (2011), Đấu tranh phòng, chống các tội phạm sử dụng công

nghệ cao qua mạng máy tính ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện khoa

học xã hội

49. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2009), Các khái niệm về tội phạm và tình hình

tội phạm trong tội phạm học, Tạp chí Luật học.

50. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nhà

xuất bản tư pháp

51. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2008), An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia

nhập WTO, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

52. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa

173

tội phạm, Nhà xuất bản công an nhân dân.

53. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Phan Văn Vĩnh (2012), Tội phạm ở Việt Nam

năm 2011-2012, Nhà xuất bản Công an nhân dân

54. GS.TS Nguyễn Xuân Yêm – PGS.TS Nguyễn Minh Đức (2011), Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nhà

xuất bản công an nhân dân.

55. GS.TS Trần Đại Quang – GS.TS Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm

học Việt Nam tập 2 chương XXIII : Đặc điểm tội phạm học và phòng ngừa các tội

phạm sử dụng công nghệ cao, Nhà xuất bản công an nhân dân.

56. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013), Tội phạm học, Nhà xuất bản công an nhân dân.

57. Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam (2015), Báo cáo.

58. Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam (2019), Báo cáo.

59. Học viện cảnh sát nhân dân (2010), Phòng chống tội phạm truyền thống, tội

phạm phi truyền thống trong điều kiện hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học.

60. Học viện cảnh sát nhân dân (2014), Phòng chống tội phạm sử dụng công

nghệ cao – Những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo”, Kỷ yếu hội thảo khoa học.

61. Học viện cảnh sát nhân dân (2014), Các văn bản quy phạm pháp luật

trong lĩnh vực công nghệ cao, quyển 1-2.

62. Nguyễn Mạnh Toàn (2002), Đặc điểm và các dạng hành vi cơ bản của tội

phạm tin học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật.

63. Nguyễn Quốc Nhật – Bùi Văn Thịnh – Hoàng Thị Bích Ngọc (2006), Tâm

lý xã hội và hoạt động phòng ngừa tội phạm, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

64. Lại Kiên Cường (2014), Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương mại

điện tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sỹ, Học viện cảnh sát nhân dân.

65. Quốc hội Việt Nam (2009), Bộ luật hình sự sửa đổi, Nhà xuất bản chính

trị quốc gia.

66. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự sửa đổi, NXB chính trị quốc gia

67. Quốc hội Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, NXB chính trị

quốc gia

68. Quốc hội Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,

Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

69. Quốc hội Việt Nam (2018) , Luật An ninh mạng, NXB Chính trị quốc gia

70. Quốc hội Việt Nam (2015), Luật an toàn thông tin mạng, NXB chính trị

174

quốc gia.

71. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật Công an nhân dân, NXB chính trị quốc gia

72. Quốc hội Việt Nam (2006), Luật công nghệ thông tin , Nhà xuất bản chính

trị quốc gia.

73. Quốc hội Việt Nam (2005), Luật giao dịch điện tử, Nhà xuất bản chính trị

quốc gia

74. Quốc hội Việt Nam (2011), Luật tần số vô tuyến điện, NXB chính trị quốc gia.

75. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, NXB chính trị

quốc gia

76. Quốc hội Việt Nam (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, NXB

chính trị quốc gia

77. Quốc hội Việt Nam (2011), Luật viễn thông, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

78. PGS.TS Lê Thị Sơn (2015), Tội phạm học so sánh, Nhà xuất bản tư pháp

79. Thủ tướng Chính phủ (2011), Chỉ thị số 897/CT-TTg về việc tăng cường

triển khai các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin số, Hà Nội.

80. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg phê duyệt Chiến

lược quốc gia phòng phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến

năm 2030.

81. Tổng cục Cảnh sát (2010), Phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế

trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, đầu tư tài chính và kinh doanh trên mạng

Inernet, Kỷ yếu hội thảo khoa học.

82. Tổng cục Cảnh sát (2010), “Tình hình và công tác đấu tranh chống tội

phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học

83. Trần Đức Châm (2012), Xã hội học tội phạm, NXB chính trị quốc gia

84. TS Phạm Văn Lợi (2007), Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, NXB tư pháp.

85. TS Nguyễn Quang Nghĩa – Th.S Phạm Hải Bình (2014), Những vấn đề cơ

bản về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Học viện cảnh sát nhân dân.

86. TS Nguyễn Thanh Hóa – Th.S Phạm Hải Bình (2014), Tổ chức và hoạt

động của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Học

viện cảnh sát nhân dân.

87. TS Lê Minh Toàn (2013), Vi phạm pháp luật hình sự trong lĩnh vực công

nghệ thông tin và viễn thông – Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, Tạp chí công

175

nghệ thông tin và truyền thông.

88. TS Trần Văn Hòa (2009), Phòng chống tội phạm công nghệ cao và biện

pháp quản lý của Chính phủ, Tạp chí An toàn thông tin.

89. TS Trần Văn Hòa (2011), An toàn thông tin và công tác phòng chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

90. TS Trần Văn Hòa – TS Nguyễn Ngọc Cương (2012) , Phòng chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao, Học viện an ninh nhân dân.

91. TS Trần Văn Luyện (2013), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999

sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

92. TS Trịnh Tiến Việt (2014), Kiểm soát xã hội đối với tội phạm, Nhà xuất

bản chính trị quốc gia

93. Trần Văn Yên (2015), Tội phạm có sử dụng công nghệ cao trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn

Thạc sỹ, Học viện khoa học xã hội.

94. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 1999-2019

và phương hướng nhiệm vụ năm 2020

95. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm

2010-2019

Tiếng Anh

96. Peat Marwick (2000), E-ecommerce and Cyber Crime : New Strategies for

Management the risk of exploitation.

97. K.Ghosh (2001) , E-Commerce security and privacy.

98. R.Newman và Ronald V.Clarke (2003), Preventing E-commerce Crime.

99. Moore, R.(2005), Cybercrime : Investigating High-Technology computer crime.

100. Mohamed Chawki (2005), A Citical look at the regulation of cybercrime.

101. David S. Wall (2010), Cyber Crime, Polity Press.

102. K. Jaishankar(2010),Cyber Criminology, CRC Press, Taylor and Franics

Group.

103. Nina Godbole, Sunit Belapure (2012), Cyber Security: Understanding

Cyber Crimes, Computer Forensics And Legal Perspectives, Oxford University Press.

104. Thomas J. Holt (2012), Online Crime, Carolina Academic Press.

105. ITU (2012), Understanding Cyber Crime: Phenomena, Challenges and

176

Legal response.

106. Jonathan Clough (2013), Principles of Cybercrime. Cambridges

University Press.

107. United Nations Office on Drugs and Crime- UNODC (2013)

,Comprehensive Study on CyberCrime.

108. Frank Schmalleger and Michael Pittaro (2014), Crimes of the Internet,

Pearson Publisher.

Các website của cơ quan tổ chức có liên quan

109. Website chuyên về phòng chống Tội phạm công nghệ cao của Tổ chức

cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol): http://www.interpol.int/Crime-areas/Cybercrime

110. Website Bộ công an www.mps.gov.vn

111. Website Bộ thông tin truyền thông www.mic.gov.vn

112. Website Tòa án nhân dân tối cao www.toaan.gov.vn

113. Website Trung tâm ứng cứu khẩn cấp không gian mạng Việt Nam, Cục

an toàn thông tin www.vncert.gov.vn

114. Website Trung tâm giám sát an toàn không gian mạng quốc gia, Cục an

toàn thông tin www.khonggianmang.vn

177

115. Website Tập đoàn công nghệ BKAV www.bkav.com.vn

PHỤ LỤC 1

BẢNG 1.1: KẾT QUẢ ĐẤU TRANH CHUYÊN ÁN TỘI PHẠM

TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG

TỪ 2010-2019

----------

NĂM S CHUYÊN ÁN STT

2010 7 1

2011 11 2

2012 44 3

2013 42 4

2014 64 5

2015 75 6

2016 77 7

2017 87 8

2018 57 9

2019 68 10

(Nguồn: Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao C50

178

Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao A05)

BẢNG 1.2: KẾT QUẢ KHỞI T Đ I TƢỢNG VÀ S VỤ ÁN

TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG

TỪ 2010-2019

--------------------------

STT NĂM S Đ I TƢỢNG S VỤ

10 1 2010 14

23 2 2011 32

54 3 2012 210

48 4 2013 201

130 5 2014 384

148 6 2015 682

155 7 2016 552

220 8 2017 429

150 9 2018 435

165 10 2019 509

(Nguồn: Cục Cảnh sát PCTP sử dụng công nghệ cao C50

179

Cục An ninh mạng và PCTP sử dụng công nghệ cao A05)

BẢNG 1.3 : ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG

LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ MẠNG VIỄN THÔNG

TỪ NĂM 2010 - 2015

--------------------------

Đặc điểm Số lƣợng Tỷ lệ (%)

Nam 1306 72,27 Giới tính

Nữ 501 27,73

Từ 16-35 tuổi 1069 59,16

Độ tuổi Từ 35-50 tuổi 457 25,28

Trên 50 tuổi 281 15,56

Đại học, trên ĐH 834 46,15

Trình độ Cao đẳng, Trung cấp 714 39,51

Tốt nghiệp THPT và chưa tốt nghiệp 259 14,34

Lãnh đạo cơ quan, doanh nghiệp 276 15,27

Thành phần Cán bộ, công nhân viên 481 26,62

Sinh viên 1050 58,11

Đã có tiền án, tiền sự 247 13,67 Quá khứ

phạm pháp Chưa có tiền án, tiền sự 1560 86,33

180

(Nguồn: C50 – Bộ Công an)

PHỤ LỤC 2

KẾT QUẢ ĐẤU TRANH CHUYÊN ÁN ĐIỂN HÌNH TỘI PHẠM

TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ

MẠNG VIỄN THÔNG TỪ 2010 – 2019

--------------------

- Năm 2010: Vụ nhóm đối tượng người Trung Quốc móc nối với đối tượng

người Việt Nam sử dụng thẻ tín dụng giả, thanh toán khống tại Vinh, Nghệ An chiếm

đoạt hơn 1,3 tỷ đồng. PC45 công an tỉnh Nghệ An đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị

can về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009.

- Năm 2011: Vụ Nguyễn Quý Phúc và Phùng Ngọc Tuấn sử dụng mạng

Internet cài đặt phần mềm gián điệp keylogger trộm cắp mật khẩu tài khoản chat

yahoo, mạo danh chủ tài khoản lừa đảo chiếm đoạt hơn 400 triệu đồng của hàng chục

bị hại. Công an Tp Hà Nội đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can về tội “Sử dụng mạng

máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009.

- Năm 2012: Vụ nhóm đối tượng người Trung Quốc sử dụng thẻ tín dụng giả,

thực hiện hơn 300 lượt thanh toán khống qua máy POS trong vòng 12 ngày, chiếm

đoạt hơn 17 tỷ đồng của Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội tại Tp Hà Nội.

Công an Tp Hà Nội đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can về tội “Sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt

tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009.

- Năm 2013: Đấu tranh triệt phá đường dây tội phạm chuyên tổ chức đánh bạc

và đánh bạc qua mạng Internet tại website http://M88.com có máy chủ đặt tại

Philippine, với số tiền giao dịch ước tính hàng nghìn tỷ đồng. C45 đã khởi tố vụ án,

khởi tố các bị can về tội “Đánh bạc” theo Điều 248 và tội “Tổ chức đánh bạc” theo

Điều 249 BLHS 2009. Trong đó đối tượng Cù Thị Thanh Hải (sinh năm 1973, trú tại

quận Đống Đa, Tp Hà Nội), Cù Huy Giáp (sinh năm 1982, trú tại quận Hai Bà Trưng

Tp Hà nội) là những đối tượng cầm đầu đường dây ở khu vực phía Bắc và đối tượng

Nguyễn Lê Giang (sinh năm 1963, trú tại Tp Hồ Chí Minh) là đối tượng cầm đầu

đường dây ở khu vực phía Nam.

- Năm 2014: Đấu tranh làm rõ diễn đàn tội phạm hkvfamily.info với hơn

181

1.900 thành viên, chuyên trộm cắp, trao đổi, mua bán thông tin thẻ tín dụng của

người nước ngoài và sử dụng những thông tin thẻ tín dụng này mua hàng hóa trực

tuyến chuyển về Việt Nam tiêu thụ. C45 đã khởi tố vụ án, khởi tố các bị can về tội

“Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự 2009. Trong đó có 2 đối

tượng là người quản trị diễn đàn tên Phạm Thái Thành (sinh năm 1983 trú tại Ngọc

Thụy, Long Biên-Hà Nội) và Lê Văn Hào Hoa trú tại phường 14 quận Bình Thạnh

Tp Hồ Chí Minh.

- Năm 2015: Vụ nhóm đối tượng do Lê Duy Mạnh (sinh năm 1988 trú tại

Thạch Thành-Thanh Hóa) cầm đầu đã gửi thư điện tử, đe dọa tống tiền Công ty cổ

phần sữa Việt Nam Vinamilk 300 triệu đồng. PC46 Công an tỉnh Thanh hóa đã khởi

tố vụ án, khởi tố các bị can về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo Điều 135 BLHS 2009.

+ Vụ đối tượng Nguyễn Lê Hoàng Phúc, sinh năm 1990 trú tại Vĩnh Long tấn

công vào website của VNPT Sóc Trăng, trộm cắp và phán tán hơn 50.000 thông tin

khách hàng trên mạng Internet.

- Năm 2016: Cục cảnh sát phòng chống tội phạm Công nghệ cao (C50) và

Công an tỉnh Đồng Nai đã triệt phá một đường dây lừa đảo huy động vốn công nghệ

cao, chiếm đoạt trên 140 tỷ đồng của rất nhiều người.

Công an bắt giữ 3 nghi can có vai trò cầm đầu đường dây gồm: Nguyễn Thị

Minh Phương, Phạm Thanh Toàn và Hồ Đình Phú. Phương cùng đồng bọn góp vốn

thành lập Công ty Cổ phần Phương Thái An, có trụ sở giao dịch ở phường Tân Hòa,

TP Biên Hòa, rồi thuê người lập trang web hero8.org để huy động nguồn vốn mở

rộng kinh doanh bất động sản, mua bán vàng, sửa chữa ô tô… trong khu đô thị

Phương Thái An.Những người tham gia góp vốn kinh doanh qua trang web

hero8.org sẽ được hưởng lãi suất cao. Phương cùng đồng bọn đưa ra giải pháp đầu tư

theo mã pin ID (mã tiền ảo), người có nhu cầu góp vốn đầu tư phải mua mã pin ID

với mức tiền 10,16 trệu đồng, trong đó phí mã pin ID 2,16 triệu đồng, vốn góp 8 triệu

đồng sẽ được hưởng lợi nhuận.

Sau 5 ngày góp vốn, mỗi mã pin ID sẽ nhận được 39,6 triệu đồng tiền lãi,

trường hợp giới thiệu người tham gia hệ thống góp vốn đầu tư qua trang web

hero8.org theo hình thức đa cấp sẽ được hưởng hoa hồng.Với chiêu thức lừa đảo nêu

trên, chỉ sau một thời gian ngắn hệ thống trang web hero8.org đã huy động được

21.405 khách hàng ở nhiều tỉnh, thành phố đăng ký mã tiền ảo, thế nhưng những

182

người đầu tư qua trang web đó không hề nhận được tiền lãi và hoa hồng.

Công an xác định Nguyễn Thị Minh Phương và đồng bọn đã chiếm đoạt gần

140 tỷ đồng bằng chiêu thức huy động vốn thông qua trang web hero8.org. Hệ thống

của các đối tượng có 21.405 mã khách hàng, trong số đó 14.637 mã đã kích hoạt.

- Năm 2017: Tháng 5/2017, C50 phối hợp Công an tỉnh An Giang đã thi hành

lệnh bắt khẩn cấp, khám xét nơi làm việc và nhà ở của bà Nguyễn Thị Khéo (34 tuổi,

quê tỉnh An Giang, Phó giám đốc Công ty TNHH dịch vụ phần mềm Asian Livetech,

phường Tân Phú, Quận 7, TP. HCM) để điều tra về hành vi tổ chức đánh bạc qua

mạng. Khám xét nơi ở, nơi làm việc của các nghi phạm nói trên tại TP. HCM, An

Giang, TP. Hà Nội, C50 thu giữ 1 server, 6 máy tính, 10 điện thoại, 2 két sắt... và rất

nhiều giấy tờ, thẻ ATM liên quan đến hoạt động điều hành đánh bạc qua mạng, C50

xác định số tiền giao dịch đánh bạc qua trang web này là hơn 1.200 tỷ đồng.

Theo điều tra, trang web www.ibet789.com có máy chủ tại Hồng Kông và

một số nước khác trong khu vực châu Á. Tên miền khởi tạo vào ngày 17/12/2010,

giao diện thể hiện trên web có nhiều ngôn ngữ khác nhau trong đó có tiếng Việt.

- Năm 2018: Công an tỉnh Phú Yên phối hợp với Cục Cảnh sát phòng chống

tội phạm công nghệ cao (C50) đã triệt phá đường dây tổ chức đánh bạc và đánh bạc

dưới hình thức cá độ bóng đá qua mạng Internet. Số tiền giao dịch đánh bạc của các

đối tượng thông qua tài khoản trên mạng internet tính từ tháng 6/2017 đến nay là

khoảng 5 triệu điểm, tương đương 200 tỷ đồng (trung bình 1 điểm = 40.000 đồng).

Trong đó, có đối tượng cá độ trong một trận đấu bóng đá lên đến 2,2 tỷ đồng; nhiều

trận đấu của đội tuyển U23 Việt Nam ở giải U23 châu Á vừa qua đã được cá độ tiền

tỷ. Đường dây tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua

Internet do Nguyễn Tấn Thành và Trần Thanh Tín cầm đầu.

- Năm 2019: Phan Đình Thư, Trần Quốc Khánh và Nguyễn Duy Toản, đều là

công dân Việt Nam, bị cáo buộc đã tham gia vào kế hoạch lừa đảo nhằm thu lợi bất

chính lợi dụng đại dịch COVID-19.

Các bị can đã điều hành hơn 300 trang web lừa đảo bán các sản phẩm đang trở

nên khan hiếm trong thời gian diễn ra đại dịch, trong đó có nước rửa tay khô và khăn

ướt diệt khuẩn. Hơn 7.000 nạn nhân đến từ tất cả 50 bang của Mỹ đã đặt mua những

sản phẩm này từ các trang web của các bị can. Các nạn nhân đã trả tiền cho các sản

phẩm được cho là bán qua các trang web này nhưng chưa bao giờ nhận được các sản

183

phẩm đã đặt hàng.

Các bị can đã tạo ra hàng trăm tài khoản email và tài khoản người dùng với

phương thức thanh toán tại Mỹ nhằm thực hiện hoạt động lừa đảo và để trốn tránh

các cơ quan thực thi pháp luật. Các bị can đồng thời cung cấp các thông tin sai lệch

về địa chỉ và số điện thoại liên lạc lên trang web của mình, đã thực hiện gần 40.000

giao dịch lừa đảo trị giá xấp xỉ 975.000 USD.

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

184

xâm phạm trật tự an toàn xã hội 2010-2015, 2016- 2019 của C50-A05, Bộ công an)