HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MAI PHÚ HỢP

TR¸CH NHIÖM X· HéI

CñA C¸C DOANH NGHIÖP NHµ N¦íC ë VIÖT NAM

TRONG QU¸ TR×NH HéI NHËP QUèC TÕ HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Mai Phú Hợp

MỤC LỤC

Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN 6

ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế 6

1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và giải pháp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 19 1.3. Giá trị của các công trình đã nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 22

24 Chương 2: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 2.1. Trách nhiệm xã hội, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 24

2.2. Hội nhập quốc tế và những yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 44

2.3. Những nhân tố tác động đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 59

73 Chương 3: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1. Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay - thành tựu và nguyên nhân 73

98

123 3.2. Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay - hạn chế và nguyên nhân Chương 4: NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

4.1. Hoàn thiện khung pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho điều kiện kinh doanh và thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 126

142

4.2. Doanh nghiệp Nhà nước cần nâng cao nhận thức và biện pháp thực hiện trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 4.3. Nâng cao vai trò của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp nhằm tác động thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 148

4.4. Nâng cao vai trò của người lao động và người tiêu dùng nhằm tác động thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

151 156 157 158 172

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

An ninh quốc phòng : ANQP

An sinh xã hội : ASXH

Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên : CT1TV

Doanh nghiệp nhà nước : DNNN

Nhà nước : NN

Nhà xuất bản : Nxb

Trách nhiệm xã hội : TNXH

: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp TNXHDN

: TNXHDNNN Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH

Trang

Biểu đồ 3.1: Thống kê số lượng doanh nghiệp nhà nước 76

Biểu đồ 3.2: Tốc độ phát triển vốn của doanh nghiệp 77

Biểu đồ 3.3: Đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào ngân sách 77

Biểu đồ 3.4: Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của doanh nghiệp nhà nước 89

Biểu đồ 3.5: Thu nhập bình quân 89

Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ tham gia các loại hình bảo hiểm 89

Biểu đồ 3.7: Cơ cấu vốn đầu tư và đóng góp GDP của các thành

phần kinh tế 98

Biểu đồ 3.8: Hiệu quả đầu tư trung bình theo khối doanh nghiệp

của Bảng xếp hạng VNR500 năm 2014 99

Biểu đồ 3.9: Tốc độ tăng trưởng kinh tế 99

Biểu đồ 3.10: Giảm lượng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước 103

Biểu đồ 3.11: Tỷ lệ tạo ra việc làm mới 104

Biểu đồ 3.12: Mức độ người tiêu dùng hiểu quyền của mình 120

Hình 2.1: Mô hình kim tự tháp trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp của Carroll 31

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) ra đời vào

những năm 1950 của thế kỷ 20, và kể từ đó cho đến nay đã có nhiều cách định

nghĩa của các học giả khác nhau về thuật ngữ này. Tuy nhiên, dù cách thể hiện, hình

thức diễn đạt ngôn từ có khác nhau, song nội hàm phản ánh của TNXHDN về cơ

bản có điểm chung là nhằm tuyên truyền và kêu gọi các doanh nhân bên cạnh lợi

nhuận không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ

thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại mà các doanh nghiệp (DN) gây ra cho xã hội

cũng như môi trường, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội (TNXH) sẽ góp phần bảo

đảm cho DN và xã hội cùng phát triển bền vững. Ngày nay, TNXHDN đã trở thành

một trong những yêu cầu cấp thiết mà hầu hết các quốc gia và DN trên thế giới phải

tuân thủ. Đối với các nước phát triển, TNXHDN được xem là một trong những

chiến lược quan trọng cho sự phát triển bền vững, là cơ sở giảm chi phí và tăng

năng suất; Tăng doanh thu, nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín của DN; Thu hút

được nguồn lao động giỏi; Sản phẩm và hàng hóa dịch vụ dễ tiếp cận được với thị

trường thế giới; Bảo vệ tốt môi trường tự nhiên, môi trường xã hội... và nó cũng

được xem là "triết lý" kinh doanh của các DN. Chính lý do đó, áp dụng TNXH đối

với các DN là nguyên tắc bắt buộc. Đồng thời, những nước có nền kinh tế thị

trường phát triển thì mỗi DN trong hoạt động kinh doanh luôn là một bộ phận hữu

cơ của nền kinh tế xã hội, những hành vi quyết định hướng kinh doanh cũng như

phương thức kinh doanh của họ đều tuân theo những tiêu chuẩn và quy định của xã

hội trên cả phương diện luật pháp cũng như đạo đức. Trong đó, chuẩn mực đạo đức

trở thành phẩm chất không thể thiếu đối với mỗi người kinh doanh và đối với từng

DN. Bên cạnh các chuẩn đạo đức, là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đã giữ vai trò

chủ yếu trong việc ngăn chặn hoạt động kinh doanh vi phạm những chuẩn mực đạo

đức. Hệ thống các thể chế, cùng đạo đức kinh doanh hoàn chỉnh và việc tuân thủ

nghiêm túc chính là điều kiện để các DN dễ dàng thực hiện TNXH. Trong khi đó tại

các nước đang phát triển, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện nên cơ hội phát

triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng và những lợi ích

nhóm... Vì lẽ đó, nên từ nhận thức cho đến thực hiện trách nhiệm đối với xã hội của

các DN không phải là việc dễ dàng. Với Việt Nam, tuy là quốc gia đi sau trong việc

2

tiếp cận vấn đề TNXHDN của thế giới. Mặc dù đã có những thay đổi ngày càng tích

cực hơn, tuy nhiên cả về nhận thức lẫn thực tiễn thể hiện, cần thấy đây vẫn là vấn đề

còn khá mới mẻ đối với không ít DN. Phần nhiều DN nhận thức sai ý nghĩa và thực

chất về TNXHDN - TNXH chỉ đơn giản là xây dựng hình ảnh của DN để thu hút

các nhà đầu tư, khách hàng hoặc làm từ thiện.

Quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam phải tuân thủ những "luật

chơi" nhất định, nếu không sẽ bị loại, trong đó TNXHDN là một trong những luật

chơi mà các DN cần phải tuân thủ. Các DN Việt Nam nói chung, doanh nghiệp nhà

nước (DNNN) nói riêng buộc phải đáp ứng được những yêu cầu khắc khe về quan

hệ lao động, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường… Nếu DN không thực

hiện thì các đối tác - khách hàng sẽ tẩy chay. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập

kinh tế, các hàng rào thuế quan được bãi bỏ thay vào đó là những hàng rào phi thuế

quan như kỹ thuật, an ninh, con người,… được các nước lập ra nhằm bảo hộ cho

hàng nội địa. DN Việt Nam phải vượt qua để xuất khẩu hàng hóa sang các nước đó,

cũng là điều kiện để cạnh tranh ngay trên "sân nhà". Đó là xu thế tất yếu, nếu không

thực hiện tốt, không vượt qua được thì Việt Nam sẽ bị lệ thuộc cả về kinh tế cho

đến các vấn đề khác của xã hội. Với vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế,

mang đến thịnh vượng của Việt Nam, hơn bao giờ hết, DNNN đang có những cơ

hội và trách nhiệm chứng tỏ vị thế của mình như một thiết chế kinh tế, một thực thể,

một chủ thể quan trọng trong xã hội để tăng GDP, giải quyết những vấn đề của xã

hội, tạo ra việc làm, cùng với đó là đem lại cho nó sự phồn vinh. Tuy nhiên, nhận

thức sai về TNXH, cố tình vi phạm TNXH - với những hành vi kinh doanh thiếu

trách nhiệm của nhiều DNNN thời gian qua đã và đang gây ra những hậu quả

nghiêm trọng như: Hiệu quả kinh doanh thấp, còn nhiều DN thua lỗ làm thất thoát

nguồn vốn rất lớn đã đẩy nợ công tăng cao; Khai thác thiếu khoa học làm kiệt quệ

nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; Nhiều quyền lợi của người

lao động không được bảo đảm; Gian lận kinh doanh, không rõ ràng trong báo cáo

tài chánh… Đó là những vấn nạn ở Việt Nam, gây mất lòng tin trong nhân dân.

Những thành tựu đạt được, cùng bên cạnh đó với những hạn chế yếu kém của các

DNNN đã đặt ra nhiều vấn đề khách quan cần phải nghiên cứu, bên cạnh những vấn đề

chung về DNNN cũng rất cần một cách nhìn định vị xem DNNN đã thực hiện được

những trách nhiệm gì cho xã hội. TNXHDN đã được tiếp cận từ các góc nhìn kinh tế

3

học, luật học, đạo đức học, khoa học về môi trường… Song vẫn rất cần một tiếp cận triết

học để khái quát hóa vấn đề trên ở tầm nhận thức xã hội, xây dựng định hướng thực hiện

TNXHDN một cách hệ thống. Do vậy, lựa chọn "Trách nhiệm xã hội của các doanh

nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay" cho Luận án

tiến sỹ triết học của mình nó có ý nghĩa lý luận cũng như cả về thực tiễn đang đặt ra.

Chính vì tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu đã thôi thúc tác giả chọn nội dung này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Luận án phân tích những thành tựu, hạn chế của các DNNN ở Việt Nam trong

việc thực hiện trách nhiệm xã hội của quá trình hội nhập quốc tế; Đề xuất, luận giải

những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và hiệu quả thực hiện TNXHDNNN ở Việt

Nam trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ

- Tổng quan các công trình nghiên cứu về TNXHDN và TNXHDNNN.

- Phân tích những vấn đề lý luận về TNXHDN và TNXHDNNN.

- Phân tích những thành tựu, hạn chế trong thực hiện trách nhiệm đối với xã hội

của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và chỉ ra các nguyên nhân của chúng.

- Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNXHDNNN

ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá trình hội

nhập quốc tế.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về thời gian: Từ 2011 đến nay.

- Phạm vi về không gian: Ở Việt Nam.

- Phạm vi về nội dung: Từ cách tiếp cận và luận giải TNXHDNNN dưới góc

nhìn triết học, luận án phân tích kết quả, hạn chế trong việc thực hiện TNXHDNNN

ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả

thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin

4

nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Trong đó, phép biện chứng duy vật cũng

như phép biện chứng duy vật về lịch sử, mà chủ yếu là biện chứng giữa cơ sở hạ

tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đồng thời, quán

triệt chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của NN Việt Nam về

phát triển đất nước, nhất là về xây dựng NN pháp quyền dựa trên nền tảng kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế.

Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của những công

trình trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến vấn đề TNXHDN nói

chung và TNXHDNNN nói riêng.

- Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật với

việc sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Thống nhất lịch sử - logic, phân

tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh - đối chiếu, khái quát hóa, thống kê,…

5. Những đóng góp mới của luận án

Luận án trình bày cơ sở lý luận về TNXH và TNXHDNNN, những yêu cầu

bắt buộc các DNNN thực hiện TNXH. Mô tả những TNXHDNNN, trên cơ sở đó phân

tích những thành tựu và hạn chế về việc thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá

trình hội nhập quốc tế hiện nay dưới góc độ Triết học. Từ phân tích chỉ ra những hạn

chế, luận án đề xuất một số khuyến nghị đối với NN, DN, các hội tổ chức xã hội - nghề

nghiệp, người lao động và người tiêu dùng phải thực hiện để góp phần nâng cao hiệu

quả thực hiện TNXHDNNN trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa về lý luận

Luận án đã cụ thể hóa những vấn đề TNXHDN nói chung và TNXHDNNN

nói riêng trong quá trình hội nhập quốc tế.

Làm sáng tỏa các ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong

việc thực hiện TNXHDNNN.

Đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới.

6.2. Ý nghĩa về thực tiễn

Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy và

5

nghiên cứu về đạo đức và văn hóa kinh doanh trong DN ở các trường đại học, cao

đẳng. Luận án cũng đưa ra một số kiến nghị là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản

lý kinh tế, các chủ DN, các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp, người lao động và

người tiêu dùng quan tâm đến vấn đề TNXHDN.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận án gồm 4 chương, 12 tiết.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP

VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ

TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan những vấn đề lý luận

chung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

* Những công trình nghiên cứu liên quan đến khái niệm trách nhiệm xã

hội của doanh nghiệp

Nghiên cứu về khái niệm TNXHDN tại Việt Nam cũng khá phong phú bởi

nhiều tác giả dưới những góc độ khác nhau như: "Trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế" của Lê

Thanh Hà [61]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Michel Capron và

Françoise Quairel-Lanoizelée (Dịch giả: Lê Minh Tiến, Phạm Như Hồ) [27]; "Trách

nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Nguyễn Ngọc Thắng [118]; "Trách nhiệm xã

hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà

nước ở Việt Nam" của Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức [39]; "Trách nhiệm xã

hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt Nam" của Trần Hồng Minh [92];

"Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam theo khung tham chiếu của Hiệp

ước Toàn cầu (Global Compact)" của Nguyễn Văn Thắng [122]; "Trách nhiệm xã

hội của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cá thể đối với người lao động:

Nghiên cứu trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thị Minh Châu

[30]; "Đạo đức kinh doanh và Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Nguyễn

Thị Lan Hương [72]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Hãy hành động, thôi

hô "khẩu hiệu"" của Hà Tôn Vinh [165]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Việt Nam" của Trương Nam Thắng, Margaret Mckee [116]…

Những tác giả trên chưa đưa ra khái niệm riêng của mình về TNXHDN, họ

chỉ dẫn giải những khái niệm phổ biến nhất hiện nay của các đơn vị, tổ chức, cá

nhân như: Hội đồng thương mại thế giới, Ngân hàng thế giới, Liên hiệp quốc, Tổ chức

7

hợp tác và phát triển kinh tế (OEDC), Ủy ban Thương mại thế giới về phát triển bền

vững (WBCSD), một số tổ chức phi chính phủ (NGO), một số công ty đa quốc gia…

Điểm chung của các tác giả đều cho là khái niệm TNXHDN được hiểu theo nhiều cách

khác nhau, do: Phụ thuộc vào truyền thống, điều kiện văn hóa của quốc gia yêu cầu đối

với các DN; Do không gian, thời gian tranh luận. Và các tác giả đều thống nhất là nội

hàm khái niệm TNXHDN bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của DN đối

với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động. Các ứng xử bao

gồm: Trách nhiệm với khách hàng; Trách nhiệm với nhân viên; Trách nhiệm với đối

tác kinh doanh; Trách nhiệm với môi trường; Trách nhiệm với cộng đồng; Trách

nhiệm với các nhà đầu tư.

Có thể nói, đó là những công trình tham khảo có ý nghĩa quan trọng đối với

tác giả luận án trong việc nghiên cứu lịch sử và nội hàm của khái niệm TNXHDN.

- "Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam" của

Lê Đăng Doanh [45] đã cho rằng, TNXHDN được coi là thước đo cơ bản của các

DN tại các quốc gia phát triển, và phần lớn các DN thực hiện phong trào này một

cách tình nguyện và luôn chủ động. Còn ở Việt Nam, TNXHDN được nhận thức và

bước đầu thực hiện đã mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, còn nhiều hạn

chế đòi hỏi các DN phải tiếp tục nhận thức và hoạt động thực tiễn tích cực. Từ việc

dẫn giải nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm TNXHDN, tác giả cho rằng:

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có thể được định nghĩa ngắn gọn

như một sự cam kết của công ty trong ứng xử phù hợp với lợi ích của xã

hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng nhờ cung

ứng nhân viên, cổ đông, cộng đồng, môi trường. Trong đó trách nhiệm xã

hội được coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh có liên quan đến

mọi hoạt động kinh doanh của DN [45, tr.202].

- "Trách nhiệm doanh nghiệp ở Việt Nam: Sự thách thức đối với doanh nghiệp,

chính phủ và xã hội dân sự" của Gerd Mutz [57] cho là, sự phát triển của xã hội sẽ dần

xóa bỏ ranh giới giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội, kinh tế và xã hội không thể

xem là những lĩnh vực độc lập và không liên hệ gì với nhau. Những yêu cầu về tính

công bằng trong thương mại, điều kiện lao động và nền sản xuất thân thiện với môi

trường đã trở thành những nội dung trọng tâm TNXHDN. Từ đó tác giả cho rằng:

8

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm cả trách nhiệm xã hội lẫn

trách nhiệm với môi trường, đề cập tới các hoạt động được tiến hành trong

phạm vi kinh doanh cốt lõi (trọng tâm) của doanh nghiệp - đó là các hoạt

động kinh tế của DN, bao gồm các lĩnh vực xã hội, như công bằng thương

mại, cải thiện các điều kiện làm việc, kiểm soát chuỗi giá trị gia tăng và

những vấn đề như (quy trình) sản xuất thân thiện với môi trường ở các cơ sở trong và ngoài nước [57].

- "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong việc thực hiện trách

nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam" của Phạm Văn Đức [55] đã cho rằng,

thuật ngữ TNXHDN đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung

có hai quan điểm đối lập nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, DN không có trách

nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động của

DN, còn NN phải có trách nhiệm với xã hội, DN đã có trách nhiệm nộp thuế cho

NN. Quan điểm thứ hai cho rằng, với tư cách là một trong những chủ thể của nền kinh

tế thị trường, các DN đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn lực tự

nhiên và trong quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự

nhiên. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, DN còn có trách nhiệm bảo vệ môi trường, cộng

đồng, người lao động, v.v… Tác giả cho là, ở Việt Nam trong những năm gần đây,

người ta thường sử dụng định nghĩa của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân

hàng Thế giới về TNXHDN. Theo đó,

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, là sự cam kết của doanh nghiệp đóng

góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm

nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia

đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp

cũng như sự phát triển chung của xã hội. Nói cách khác, doanh nghiệp muốn

phát triển bền vững luôn phải tuân theo những chuẩn mực về bảo vệ môi

trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công

bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng [55, tr.18-19].

Từ phân tích các định nghĩa thì ông đã kết luận, TNXHDN thể hiện ở các yếu

tố: 1, bảo vệ môi trường; 2, đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3, thực hiện trách nhiệm

cho nhà cung cấp; 4, bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5, quan hệ tốt với

người lao động; 6, đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong DN [55, tr.19].

9

Có thể nói đây là bài viết khá phong phú về lịch sử hình thành và phát triển

khái niệm TNXHDN, tác giả cũng đã dẫn giải nhiều khái niệm về TNXHDN của

các nhà khoa học, các tổ chức kinh tế. Và nội dung khái niệm của ông nội hàm cũng

rất rộng và bao quát những vấn đề xã hội mong muốn các DN thực hiện trách nhiệm

của mình đối với xã hội.

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam và những vấn đề còn bất

cập" của Võ Khắc Thường [137] đã nhận định, ở Việt Nam đa phần các học giả đều

đồng ý TNXHDN có hai ý chính: Một là, phát triển kinh doanh của chính DN để tạo ra

giá trị thặng dư lớn cho xã hội; Hai là, có trách nhiệm với xã hội, cụ thể là môi trường

xung quanh. Từ đó tác giả cho rằng "TNXHDN là nghĩa vụ của DN vừa phải hành

động, bảo vệ cải thiện phúc lợi cho xã hội cũng như lợi ích của DN" [137, tr.77].

* Những công trình nghiên cứu liên quan đến cấu trúc TNXHDN

- "Vai trò của Nhà nước và vấn đề Trách nhiệm xã hội" của Nguyễn Văn

Thức [136] đã cho rằng, TNXH bao gồm ba nội dung cơ bản: 1, quan hệ giữa người

với người cùng chung sống, hợp tác khoan dung với nhau trong xã hội; 2, sự gắn bó

(đoàn kết, cấu kết) giữa cá nhân với cộng đồng xã hội; 3, đóng góp vào bảo vệ và

phát triển của cộng đồng và xã hội. Sự đóng góp này thể hiện ở 3 mức độ "Tự

nhiên, tự nguyện và nghĩa vụ" [136, tr.17].

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt Nam"

của Trần Hồng Minh [92] đã cho rằng, DN hiện đại chỉ được xem là có TNXH khi:

Đảm bảo hoạt động của mình không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh

thái, tức là phải thể hiện sự thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất, đây

là một tiêu chí rất quan trọng đối với người tiêu dùng; Phải biết quan tâm đến người lao

động, người làm công cho mình không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần,

buộc người lao động làm việc đến kiệt sức hoặc không có giải pháp giúp họ tái tạo sức

lao động là điều hoàn toàn xa lạ với TNXHDN; Phải tôn trọng quyền bình đẳng nam

nữ, không được phân biệt đối xử về mặt giới tính trong tuyển dụng lao động và trả

lương mà phải dựa trên sự công bằng về năng lực của mỗi người; Không được phân

biệt đối xử, từ chối hoặc trả lương thấp giữa người bình thường và người bị khiếm

khuyết về mặt cơ thể hoặc quá khứ của họ; Phải cung cấp những sản phẩm có chất

lượng tốt, không gây tổn hại đến sức khoẻ người tiêu dùng, đây cũng là một tiêu chí rất

10

quan trọng thể hiện trách nhiệm của DN đối với người tiêu dùng; Dành một phần lợi

nhuận của mình đóng góp cho các hoạt động trợ giúp cộng đồng. Vì cộng đồng và san

sẻ gánh nặng với cộng đồng đang là một mục tiêu mà các DN có TNXH đang hướng

tới bên cạnh mục tiêu phát triển lợi nhuận của mình, như các chương trình hỗ trợ châu

Phi, châu Á trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe của nhà tỷ phú Bill Gates là một ví dụ

tiêu biểu. Quả thực, sẽ có nhiều trẻ em được cứu sống hơn, nhiều trẻ em được đến

trường hơn,… nếu các DN sẵn sàng chia sẻ lợi ích với cộng đồng.

- "Ô nhiễm môi trường - Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam"

của Phạm Thị Tuyết [153] cho là, ở Việt Nam có không ít DN hiểu chưa đúng về

TNXHDN. Họ thường hiểu TNXH theo nghĩa "truyền thống", tức là DN thực hiện

TNXH như là một hoạt động tham gia "giải quyết các vấn đề xã hội" mang tính

nhân đạo, từ thiện. Với cách hiểu này, TNXHDN không mang tính bắt buộc mà là

DN "tự nguyện" thực hiện. Từ đó tác giả cho rằng DN có TNXH thể hiện trên các

phương diện:

Đóng thuế đầy đủ; Đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho người lao động;

Bình đẳng trong đối xử với người lao động; Thực hiện tốt vấn đề vệ sinh,

an toàn thực phẩm; Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Thực hiện nghiêm

túc vấn đề bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; Tham gia vào

các hoạt động từ thiện và trợ giúp xã hội [153, tr.49].

- "Từ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tiến tới tạo lập giá trị

chung trong hội nhập kinh tế toàn cầu" của Bùi Loan Thùy [134] đã cho rằng, việc

thực hiện TNXH là yêu cầu tất yếu đối với những DN muốn xây dựng, giữ vững

thương hiệu, khẳng định vị thế của mình trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu,

với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt. DN muốn phát triển bền vững luôn phải tuân

thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động,

quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo, phát triển nhân lực và đóng góp

phát triển cộng đồng [134, tr.55].

- "Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường" của Đặng Hữu

Toàn [139] đã viết: Phát triển kinh tế thị trường với tư tưởng làm giàu bằng mọi giá,

khi lợi nhuận và tiền bạc có sức hấp dẫn đến mức như C.Mác nói không có tội ác

nào mà con người không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ, thì chính lợi nhuận,

11

tiền bạc đó, đã trở thành chất kích thích mạnh mẽ, không gì cưỡng nổi khiến cho

các thói hư, tật xấu, vô đạo đức, vô trách nhiệm, vô cảm trước đồng loại ngày càng

nảy nở, phát sinh và phát triển. Do vậy, trong phát triển kinh tế thị trường, khi mọi

người đều lấy người khác làm phương tiện để lợi dụng cho mục đích cá nhân, vị kỷ,

như C.Mác đã nói, lợi ích cá nhân đó đã khiến cho lương tâm con người trở nên lu

mờ, trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức bị che khuất, nghĩa vụ và TNXH bị lãng quên.

Và mỗi khi con người trở nên vô cảm, vô tâm, vô đạo đức, vô trách nhiệm trước những

hiểm họa đang đe dọa trực tiếp đến sự sống, sự an nguy tính mạng con người, họ sẵn

sàng sản xuất, kinh doanh những sản phẩm, những hàng hóa không chỉ bất chấp sự hủy

hoại môi trường sống, mà còn bất chấp cả tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, dẫu vẫn biết đó là

cái cần thiết cho sức khỏe con người [139, tr.37-38].

- "Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường" của Đỗ Hoài Nam

[94] cho là, TNXHDN được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt, như:

1, bảo vệ môi trường; 2, đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3, thực hiện tốt trách

nhiệm với nhà cung cấp; 4, bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5, quan

hệ tốt với người lao động; 6, đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong

DN. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài DN, còn hai yếu

tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của DN [94, tr.22].

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về vấn đề sinh thái và ô nhiễm môi

trường ở Việt Nam hiện nay" của Trần Nguyên Việt [162] đã viết: Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và NN, song việc thực hiện

nó như thế nào lại đòi hỏi các cấp các ngành phải hướng tới sự đồng bộ và hài hòa

của ba mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi

trường và giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp

với trách nhiệm của DN, bất kể đó là DN lớn, nhỏ hay vừa, với ba nội dung cơ bản

sau: 1, trách nhiệm về kinh tế, tức là bảo đảm cho việc sản xuất kinh doanh của DN

có lãi; 2, trách nhiệm trả công cho người lao động thỏa đáng, đồng thời đóng góp

phần mình vào việc giải quyết các vấn đề ASXH và sự phát triển phồn vinh của xã

hội; 3, trách nhiệm sinh thái, tức là hoạt động của DN không dẫn đến khủng hoảng

và những thảm họa sinh thái [162, tr.305].

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và Nhà nước trong việc bảo đảm

công bằng xã hội" của Nguyễn Ngọc Hà [59] đã viết: Những lợi nhuận chỉ chính

12

đáng khi DN không gây ra sự bất công bằng. Các DN cần phải thực hiện đầy đủ

trách nhiệm về mặt pháp luật đối với NN và đối với người lao động trong DN. Trên

thực tế, không phải DN nào cũng hoàn thành trách nhiệm về mặt pháp luật của mình

và không phải mọi DN trốn tránh trách nhiệm về mặt pháp luật đều bị pháp luật

trừng phạt. Đó là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra sự bất công bằng.

Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm bắt buộc về mặt pháp

luật, thì DN vẫn chưa thực hiện đầy đủ TNXH của mình trong việc bảo đảm công

bằng. Bên cạnh việc phải hoàn thành trách nhiệm về mặt pháp luật để bảo đảm công

bằng, DN còn phải thực hiện trách nhiệm mà pháp luật không bắt buộc đối với

người lao động trong DN và đối với xã hội. Những việc làm thể hiện trách nhiệm đó

là tăng lương, giảm giờ làm, trợ cấp cho người lao động trong DN [59, tr.139].

- "Doanh nghiệp xã hội sẽ là giải pháp vững bền cho các vấn đề toàn cầu"

của Richard Welford [110] đã cho rằng, TNXHDN không chỉ là một ý tưởng được

chào đón về khía cạnh đạo đức. TNXH còn giúp tăng cường sức mạnh của thương

hiệu, danh tiếng, sự nhận biết và lòng trung thành. Khởi điểm từ khía cạnh cơ bản như

người lao động, với những chính sách tạo dựng môi trường làm việc tốt, an toàn, đảm

bảo sức khỏe và bảo vệ quyền lợi, DN không khó có được sự chung thủy của công

nhân viên trong ngành, qua đó còn cải thiện hình ảnh DN, thu hút đầu tư, tạo dựng

quan hệ đối tác. Việc tiết kiệm năng lượng, tài nguyên sẽ giúp cắt giảm chi phí, tăng uy

tín cạnh tranh, hướng đến gia tăng tính bền vững trong phát triển DN.

Tóm lại, dù có nhiều cách luận giải khác nhau về cấu trúc TNXHDN, thế

nhưng điểm chung của các tác giả thì cấu trúc đó bao hàm 7 vấn đề DN phải thực

hiện như sau: 1, DN phải đảm bảo hoạt động của mình không gây ra những tác hại

đối với môi trường sinh thái, thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất,

hoạt động kinh doanh của mình; 2, phải biết quan tâm đến người làm công cho

mình và người thân của họ không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần; 3,

phải tôn trọng quyền bình đẳng giới tính, không được phân biệt đối xử về mặt giới

tính trong tuyển dụng lao động và trả lương mà phải dựa trên sự công bằng về năng

lực của mỗi người; 4, không được phân biệt đối xử về mặt sắc tộc, giữa người bình

thường và người bị khiếm khuyết về mặt cơ thể hoặc quá khứ của họ; 5, phải cung

cấp những sản phẩm có chất lượng tốt, không gây tổn hại đến sức khỏe người tiêu

13

dùng; 6, phải biết dành một phần lợi nhuận đóng góp cho các hoạt động trợ giúp

cộng đồng, bởi DN luôn tồn tại trong lòng một cộng đồng nào đó nên không thể chỉ

biết có bản thân mình; 7, phải tham gia kiến tạo hòa bình và an ninh của quốc gia

cũng như thế giới.

* Những nghiên cứu liên quan đến tầm quan trọng của việc thực hiện TNXHDN

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập

WTO và hội nhập kinh tế quốc tế" của Lê Thanh Hà [61] đã cho rằng: Cần thiết phải

thực hiện TNXHDN trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO

với những lý do như: TNXH là yêu cầu bắt buộc trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế; Thực hiện TNXH mang lại nhiều lợi ích cho cả DN, người lao động, khách

hàng, cộng đồng và xã hội; Thực hiện TNXH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực

thi hệ thống pháp luật quốc gia; Thực hiện TNXH sẽ góp phần làm giảm thiểu các

yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của đất nước [61, tr.59].

- "Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội" của Nguyễn Trọng Chuẩn [36]

đã cho rằng, kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay đã tạo cho

nhân loại một lực lượng sản xuất khổng lồ mà các thế kỷ trước người ta chưa thể

mường tượng được. Những luật lệ của kinh tế toàn cầu được nhiều nước chấp nhận,

tuân thủ và do vậy chúng hạn chế bớt được phần nào mặt trái do kinh tế thị trường

gây ra. Tác giả làm rõ vai trò của việc thực hiện TNXH để hạn chế tác động tiêu cực

của nền kinh tế thị trường, ông đã viết:

Tuy nhiên, không vì thế mà có thể coi kinh tế thị trường với các luật lệ

của nó là chiếc đũa thần vạn năng có thể loại bỏ được tất cả những gì là

tiêu cực ẩn chứa trong nó. Cho nên, cùng với trách nhiệm về mặt luật

pháp thì trách nhiệm đạo đức hay nói rộng hơn là trách nhiệm xã hội của

những người tham gia kinh tế thị trường có vai trò không nhỏ. Chính tinh

thần, trách nhiệm xã hội của các chủ thể sản xuất, kinh doanh và nói

chung là của những người tham gia thị trường sẽ góp phần hạn chế và

giảm bớt những tác động tiêu cực, hay mặt trái của kinh tế thị trường, qua

đó thúc đẩy sự phát triển và làm lành mạnh các quan hệ xã hội [36, tr.43].

Tác giả khẳng định: "Ý thức về TNXH sẽ giúp những người sản xuất, kinh doanh

tự điều chỉnh các hoạt động của mình sao cho phù hợp với những đòi hỏi của chuẩn mực

pháp lý, chuẩn mực đạo đức để hướng tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp" [36, tr.44].

14

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu

đổi mới trong quản lý nhà nước ở Việt Nam" của Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức

[39] cho là, khi DN thực hiện tốt TNXH không những hình ảnh công ty được cải thiện

trong mắt công chúng và người dân địa phương giúp công ty tăng doanh số bán hàng

hay thực hiện các thủ tục đầu tư được thuận lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự

hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty cũng tăng lên, cũng như các chương trình

tiết kiệm giúp giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ [39, tr.6].

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt Nam"

của Trần Hồng Minh [92] đã viết: TNXHDN đang trở thành một nội dung được

quan tâm, nó sẽ đem lại cho các DN những lợi ích và cơ hội như: Khả năng gia tăng

các hợp đồng mới và hợp đồng gia hạn từ các công ty đặt hàng nước ngoài; Năng

suất lao động của các công ty tăng lên do công nhân có sức khỏe tốt hơn và hài lòng

với công việc hơn.

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Đặng Đình Cung [40] đã cho

rằng, những DN chú trọng nhiều đến TNXH cũng là những DN có mức lợi nhuận

cao hơn trung bình. Sau khi nghiên cứu một số DN, một số nhà nghiên cứu của

trường Đại học Sydney - Úc, Đại học Iowa - Mỹ đã nhận thấy kết quả tài chính một

DN tỷ lệ thuận với thành tựu về TNXHDN đó.

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn cấp bách" của Phạm Văn Đức [56] cho là, DN nào thực hiện tốt TNXH

thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích đó

bao gồm: Giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân

viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới.

- "Kế toán quản trị - Từ khía cạnh lợi ích doanh nghiệp đến khía cạnh Trách

nhiệm xã hội" của Hoàng Tùng [154] đã cho rằng, TNXHDN là một yếu tố khá

quan trọng, góp phần vào sự phát triển bền vững của các DN, đồng thời mang lại lợi

ích cho xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế.

TNXHDN được lồng ghép vào chiến lược kinh doanh của DN và trở thành điều

kiện để DN phát triển, nâng cao và duy trì lợi thế cạnh tranh.

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý thuyết và gợi ý

chiến lược cho doanh nghiệp Việt Nam" của Nguyễn Ngọc Thắng [117] đã phân tích:

15

DN không những cần quan tâm đến lợi ích của các cổ đông mà còn phải làm thỏa mãn

lợi ích của xã hội, nhiều DN đã xem TNXH là chìa khóa giúp DN trên con đường hội

nhập và hướng tới phát triển bền vững. TNXHDN là một yếu tố quan trọng trong chiến

lược của DN và nó có thể mang lại cho DN những lợi thế cạnh tranh bền vững. Nhưng

nếu thực hiện không đúng hoặc bỏ qua, thì có thể ảnh hưởng tệ hại đến lợi thế so sánh

mà DN có được. Tuy nhiên, DN khi thực hiện TNXH phải tập trung vào các hoạt động

đem lại lợi thế cho DN. TNXHDN không phải là việc cứu loài cá voi, chấm dứt đói

nghèo, hoặc các mục tiêu quan trọng khác không liên quan đến hoạt động của DN.

Thay vào đó, TNXHDN là vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện mà các bên liên

quan trực tiếp đến kế hoạch và hành động của DN.

- "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, niềm tin và sự gắn kết với tổ chức

của nhân viên ngân hàng" của Hoàng Thị Phương Thảo, Huỳnh Long Hồ [126] đã

cho rằng, TNXHDN được xem như là một trong những triết lý kinh doanh cơ bản và

luôn song hành với chiến lược phát triển, góp phần quan trọng vào sự thành công

vững chắc, giúp DN thực hiện được tầm nhìn, sứ mệnh của mình. Bên cạnh đó DN

nào muốn đạt được sự thành công và phát triển bền vững cũng không thể không đặt

niềm tin và sự gắn kết của nhân viên vào chiến lược kinh doanh của DN [126, tr.38].

- "Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nan hiện nay" của Lê

Thị Thơm [129] cho là, TNXHDN không phải mánh khóe marketing để quảng cáo

hình ảnh DN, trong một phạm vi nào đó khi DN thực hiện tốt TNXH thì hình ảnh

thương hiệu của DN sẽ đưa lại nhiều thiện cảm đối với khách hàng và những khách

hàng tiềm năng. Tuy nhiên, nếu chỉ đặt mục đích là trục lợi và thực hiện TNXH một

cách hời hợt, sáo rỗng và giả tạo, thì khách hàng sẽ nhanh chóng được chứng kiến sự

thật dưới sự làm việc của giới truyền thông. Khi ấy, niềm tin của khách hàng còn bị đổ

vỡ nhiều hơn là khi DN không thực hiện hành động TNXH nào [129, tr.74]. TNXHDN

không phải chỉ là làm từ thiện như nhiều người lầm tưởng mà còn là sự tổng hợp của

rất nhiều những tiêu chuẩn khác nữa mà DN cần phải thực hiện để trở thành một DN

kinh doanh có đạo đức và có tầm nhìn phát triển chiến lược bền vững [129, tr.75].

Tóm lại, dù được luận giải khác nhau nhưng nhìn chung các tác giả đều cho

là khi thực hiện tốt TNXH sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cho các DN trên các

mặt: Tăng doanh thu, đóng góp thiết thực vào xây dựng thương hiệu DN; Đảm bảo

16

và góp phần gìn giữ môi trường; Thu hút được nguồn lao động có chất lượng cao,

trung thành về làm việc tại DN; Nâng cao tính cạnh tranh của DN, sản phẩm và

hàng hóa dịch vụ hội nhập với thị trường thế giới.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận

chung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong

quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

* Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận

chung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước

Liên quan đến những vấn đề TNXHDN thời gian qua đã được sự quan tâm

nhất định, cụ thể là đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều bài viết như trên đã

tổng quan. Còn về TNXHDNNN, bước đầu đã có một số tác giả đề cập đến, như:

"Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện

nay" của Đinh Thị Cúc [41]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam hiện

nay" của Nguyễn Thị Kim Chi [31]… Tuy nhiên, việc nghiên cứu lý luận chung về

TNXHDNNN theo tìm hiểu của tác giả thì vấn đề này chỉ mới dừng lại ở việc phân

tích một vài khía cạnh nhất định, chưa có công trình nào đi vào phân tích sâu có hệ

thống. Có thể khẳng định: Cho đến nay chưa có khung lý thuyết nào hoàn chỉnh về

vấn đề này, đây là điểm mới, còn nhiều khoảng trống cần tiếp tục khai thác.

* Những công trình nghiên cứu lý luận liên quan đến hội nhập quốc tế và

hội nhập quốc tế ở Việt Nam

Hội nhập quốc tế ngày nay là xu thế tất yếu của nhân loại và trở thành vấn đề

quen thuộc không chỉ trong giới học giả, các nhà khoa học mà cả trong đời sống xã

hội. Do đó, có khá nhiều các công trình, bài viết quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu

xoay quanh chủ đề này.

- "Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - Vấn đề và giải

pháp" của Bộ Ngoại giao, Vụ hợp tác quốc tế đa phương [20] đã cho rằng, có thể

tiếp cận về hội nhập theo ba cách: 1, theo chủ nghĩa liên bang, tức là xem hội nhập

là sản phẩm cuối cùng chứ không phải là một quá trình, với quan tâm chủ yếu dành

cho thể chế, hướng tới sự hình thành một NN liên bang kiểu Hoa Kỳ và Thụy Sỹ; 2,

xem hội nhập trước hết thể hiện ở sự liên kết giữa các quốc gia thông qua phát triển

các luồng giao lưu như thương mại, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, đào tạo... trong

17

một cộng đồng an ninh hợp nhất như Hoa Kỳ, hay cộng đồng an ninh đa nguyên

như Liên minh châu Âu (EU); 3, của những người theo phái tân chức năng, xem hội

nhập dưới góc độ là hành vi mở rộng và làm sâu sắc quan hệ hợp tác giữa các chủ

thể với nhau trong việc hoạch định chính sách [20, tr.53-54].

- "Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế với tiến trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam" của Nguyễn Xuân Thắng [123] đã tập trung

phân tích khái niệm toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế [123, tr.21-23], chỉ ra

những đặc trưng, biểu hiện mới của toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc

tế; Những tác động và đặc biệt là các hệ lụy của toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh

tế quốc tế đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, đến quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng. Cùng với đó là các tác giả cũng phân

tích quá trình Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập toàn cầu hóa.

- "Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới" của

Nguyễn Xuân Thắng [124] đã cho rằng, khái niệm hội nhập là một cách diễn đạt

khác về toàn cầu hoá. Nếu toàn cầu hoá (nhìn từ góc độ thể chế) là quá trình tạo ra

khung khổ phát triển chung, lôi cuốn các quốc gia đi theo, thì hội nhập quốc tế tự nó là

quá trình hoá thân một cách chủ động của mỗi nước, mỗi khu vực vào trong các thực

thể khu vực, toàn cầu để một mặt, thể hiện được vị thế và tính tự cường quốc gia, dân

tộc, và mặt khác, tham gia loại trừ những khác biệt để mình là một bộ phận hợp thành

trong các chỉnh thể khu vực và toàn cầu đó. Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết có

mục tiêu, định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể của

mỗi nước. Hội nhập quốc tế là quá trình chủ quan do hai xu thế khách quan là toàn cầu

hoá và cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới quy định [124, tr.49-50].

- "Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Phạm Quốc Trụ

[148] đã cho rằng: Quá trình hội nhập chính trị của Việt Nam bắt đầu từ khi trở

thành thành viên Liên hợp quốc từ năm 1976. Còn về hội nhập kinh tế quốc tế có

thể được tính khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (năm 1978). Tuy

nhiên, quá trình phát triển tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt

đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI (năm 1986) khởi xướng. Thuật

ngữ "hội nhập kinh tế quốc tế" bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990

cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia khu vực mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác [148].

18

- "Bàn thêm về khái niệm "hội nhập quốc tế"" của Đặng Đình Quý [109] đã

cho rằng, hội nhập quốc tế là hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá

trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực

quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, thuật ngữ hội

nhập bắt đầu được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng: "Xây

dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất

khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có

hiệu quả" [46, tr.24].

- "Môi trường quốc tế và chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam" của

Hoàng Anh Tuấn [150] đã đưa ra quan điểm, hội nhập quốc tế là tiến trình các nước

chủ động tăng cường các hoạt động gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ chung

về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung

trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.

- "Hội nhập kinh tế quốc tế: Từ quan điểm của Đảng đến thực tiễn" của

Phạm Tất Thắng [120] đã viết: Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước,

Đảng ta đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và

khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc

tế trong "Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Tới Đại hội

VII, Đảng ta định hướng "đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia,

các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ "hội nhập" bắt đầu được đề cập

trong các văn kiện của Đảng: "Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực

và thế giới". Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc "chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc

tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa". Ngày 27/11/2001, Bộ

Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc

tế". Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương "chủ động và tích cực hội

nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác". Ngày

05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số

08-NQ/TW "Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh

và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới". Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối

ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan

19

trọng là "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế". Từ "hội nhập kinh tế quốc tế" của

các kỳ đại hội trước, chuyển sang "hội nhập quốc tế" một cách toàn diện là một phát

triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI. Ngày 10/4/2013,

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn

kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn

Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ

hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập

kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.

- "Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sau gần 30 năm đổi mới" của

Nguyễn Độ [54] cho là: Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991), Việt Nam đã xác

định rõ chủ trương "độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại"

với phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng

quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Từ đây đã đánh dấu bước khởi

đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của Việt Nam. Thực hiện chủ trương này,

Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và

đa phương với nhiều đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng

hóa, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính - tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật),

tạo ra môi trường kinh doanh trong nước thuận lợi và khai thác hiệu quả các nguồn lực

bên ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất

nước. Thực tế giai đoạn đó cho thấy chủ trương đúng đắn của Đảng đã đánh dấu bước

khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC

TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH

NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

* Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện trách

nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ

phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Trong nền kinh tế thị trường,

Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua sử dụng các công cụ điều tiết, trong đó DN

là công cụ đặc biệt quan trọng. Với vai trò và tầm quan trọng trong nền kinh tế - xã

hội Việt Nam, từ lâu những vấn đề liên quan đến DNNN luôn là chủ đề được nhiều

20

người quan tâm. Đã có rất nhiều bài viết phân tích về những thành tựu đạt được, và

cũng có từng đó bài viết chỉ ra những hạn chế yếu kém trong hoạt động của loại

hình DN này như: "Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của Trần Đăng Bộ [12]; "Nâng cao hiệu quả

hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa" của Nguyễn Khánh Ly [82]; "Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

nhà nước sau thực hiện cổ phần hóa" của Nguyễn Duy Long [81]; "Doanh nghiệp

nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của Phương

Ngọc Thạch [113]; "Không thể phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước và tuyệt đối hóa

kinh tế tư nhân" của Chu Văn Cấp [28]; "Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo" của

Lê Hữu Thành [114]; "Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước" của Đỗ Phú

Thọ [128]… Điểm chung của các công trình này đều cho rằng: DNNN qua nhiều

lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được củng cố và đóng góp vào thành tựu của quá

trình đổi mới. Nhiều DNNN đứng vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh có

hiệu quả, nắm các ngành kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho ngân sách. Tuy nhiên,

hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn DNNN còn thấp, chưa tương xứng

với nguồn lực nhà nước đầu tư vẫn còn nhiều nhiệm vụ nêu ra đã thực hiện không

hiệu quả. Thực tế, vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế NN chưa được phát huy,

nhiều DNNN đã sử dụng chính sách "kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực", tham gia

thành lập các ngân hàng, công ty tài chính, đầu tư bất động sản và chứng khoán với

lợi nhuận lớn, ít đầu tư vào lĩnh vực chính của mình. Trình độ kỹ thuật, công nghệ

lạc hậu đã và đang là lực cản lớn đối với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng,

sức cạnh tranh của DNNN, một số đơn vị hoạt động mang tính độc quyền còn cao,

nâng giá, ảnh hưởng đến thị trường; Sử dụng vốn NN nhiều nhưng hiệu quả thấp,

làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với những dự án đầu tư

hàng ngàn tỉ đồng "đắp chiếu", làm trầm trọng thêm nợ xấu ngân hàng và nợ công

quốc gia, gây bức xúc trong nhân dân làm tăng nợ NN, nhiều DNNN chưa gắn yêu

cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội với hoạt động kinh doanh.

Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng việc thực hiện

TNXHDNNN vẫn đang có nhiều khoảng trống. Đinh Thị Cúc trong luận án đã bước

21

đầu chỉ ra những thành tựu cơ bản của DNNN trong thực hiện trách nhiệm đối với

xã hội. Theo tác giả thì DNNN luôn đi đầu trong tạo ra của cải vật chất cho xã hội

và làm giàu ngân sách cho NN [41, tr.63]; Cơ bản đã tạo ra nhiều công ăn việc làm

mới với mức lương bình quân cao hơn mức lương bình quân của các DN trong nước

[41, tr.64]; Đứng đầu trong top các DN làm ăn hiệu quả cũng như thực hiện tốt

TNXH [41, tr.65].

Và cũng trong công trình này tác giả cũng đã chỉ ra những hạn chế nổi bật

trong thực hiện TNXHDNNN: Đó là tình trạng về làm ăn thua lỗ, nợ nần, phá sản

[41, tr.65]. Tác giả chỉ ra: Tổng số nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty NN

năm 2010 là 1.088.290 tỉ đồng, bình quân bằng 1,67% lần vốn chủ sở hữu; Tình

hình kinh doanh kém hiệu quả, nợ nần chồng chất dẫn đến làm thất thoát vốn NN

khá lớn. Tính chung đến cuối năm 2010, các tập đoàn và tổng công ty NN đã đầu tư

21.814 tỷ đồng (chiếm 34% tổng vốn sở hữu) vào chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu

tư, ngân hàng, bất động sản. Khi các lĩnh vực này gặp khó khăn, giá trị tài sản mất

giá thì các DN đều mất các khoản vốn chủ sở hữu lớn. Trong giai đoạn 2006 - 2010,

khu vực DNNN trung bình chỉ tạo ra khoảng 28% GDP, giảm từ mức 30% của giai

đoạn 2001-2005. Một điểm đáng chú ý ở đây là gần 50% đóng góp vào GDP của

khu vực DNNN là từ khai thác tài nguyên như dầu khí, khoáng sản.

Khi DNNN làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất thì công ăn việc làm mà loại hình

DN này tạo ra bị giảm sút. Kết quả điều tra DN của Tổng cục Thống kê cho thấy tỷ

trọng lao động của khu vực DNNN đã giảm rất nhanh từ mức 44% trong giai đoạn

2001-2005 xuống chỉ còn 23% trong giai đoạn 2006-2009. Không những thế, tỷ lệ tạo

ra việc làm mới cũng giảm một cách tương ứng từ -4% xuống -13% [41, tr.66].

Những DNNN trong lĩnh vực công ích đáng lẽ phải đi đầu gương mẫu trong

thực hiện TNXH, thế nhưng tình trạng lãnh đạo nhận lương cao bất thường, đối xử

bất bình đẳng với người lao động đã gây nên dư luận không tốt. Tác giả chỉ ra tình

hình thực tế về chế độ lương của 3 công ty dịch vụ công ích thành phố, gồm: Công

ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên (CT1TV) Thoát nước đô thị Thành phố Hồ

Chí Minh, CT1TV Chiếu sáng công cộng Thành phố Hồ Chí Minh, CT1TV Công

trình giao thông Sài Gòn, chỉ riêng trong năm 2012, số tiền lương đã chi sai lên đến

hơn 6 tỉ đồng [41, tr.66-67].

22

Một số DNNN cũng tham gia phá rừng, khái thác tài nguyên bừa bãi [41, tr.67].

Tác giả luận án cũng đã chỉ ra hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn

chế trong thực hiện TNXHDNNN: Một là, Quy mô của DNNN lớn và nhiều cho

nên dẫn đến sự kiểm soát lỏng lẻo [41, tr.67]; Hai là, tình trạng đầu tư ra ngoài

ngành của nhiều DNNN đã đánh mất đi lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh của mình.

Chính do sự phân tán các nguồn lực và thiếu kinh nghiệm của bộ máy quản lý, bên

cạnh đó kiểm soát lỏng lẻo đã dẫn đến những hệ lụy của nó [41, tr.69].

* Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp thực hiện trách

nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Với vị trí, vai trò và tầm quan trọng của DNNN trong nền kinh tế xã hội,

cùng với những hạn chế của nó, nên việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN

là chủ đề được cả xã hội quan tâm. Vì lẽ đó có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả

cho vấn đề này. Còn cụ thể về vấn đề liên quan các giải pháp nhằm nâng cao

TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay vẫn còn thiếu,

ví như Đinh Thị Cúc trong luận án tiến sỹ của mình đã chỉ ra những hạn chế nổi bật

trong thực hiện TNXHDNNN. Tuy nhiên, tác giả chưa đề ra những giải pháp cụ thể

để nhằm phát huy TNXHDNNN hiện nay. Có thể nói đây là một trong những

khoảng trống lớn trong việc nghiên cứu.

1.3. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, LÀM SÁNG TỎ THÊM

1.3.1. Giá trị của những công trình đã nghiên cứu

Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án được tác giả chọn

để tổng quan đã bàn khá rõ những vấn đề lý luận về TNXHDN, đều có giá trị nhất

định đối với luận án trên cả ba nội dung:

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu trên đã trình bày khá cụ thể về khái

niệm TNXHDN, cấu trúc và tầm quan trọng của việc thực hiện TNXHDN.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu trên ở những góc độ nhất định đã phân

tích được những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện TNXHDN nói chung và DN

ở Việt Nam nói riêng.

Thứ ba, những công trình nghiên cứu trên cũng đã đưa ra một số quan điểm và

những giải pháp chung chủ yếu để tiếp tục phát huy TNXHDN ở Việt Nam hiện nay.

23

Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu có hệ thống từ góc độ

lý luận cho đến thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện TNXHDNNN

trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay, đó là khoảng trống lớn để

tác giả Luận án tiếp tục thực hiện.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm

Trên cơ sở tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung

luận án, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và làm

sáng tỏ thêm như sau:

Một là, tiếp tục nghiên cứu lý luận làm sáng tỏ vai trò của việc thực hiện

TNXHDN qua thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Hai là, khái quát những TNXHDNNN, từ đó phân tích chỉ ra thực trạng việc

thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

Ba là, nghiên cứu đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao việc

thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá tình hội nhập quốc tế hiện nay.

Như vậy, có thể nói, đề tài luận án là sự kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó

về những vấn đề lý luận TNXHDN. Tuy nhiên, cho đến nay những khoảng trống về

mặt lý luận cũng như cả về thực tiễn và tầm quan trọng nghiên cứu TNXHDNNN ở

Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn

đề "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong quá

trình hội nhập quốc tế hiện nay" để làm đề tài nghiên cứu của luận án.

Tiểu kết chương 1

Tại Việt Nam hiện nay, vấn đề TNXHDN được các nhà nghiên cứu, nhà

hoạch định chính sách, DN quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Có người chú

trọng đến lĩnh vực lý luận về TNXHDN, có người quan tâm vấn đề thực tiễn thực

thi TNXHDN… Các nhà nghiên cứu cho rằng, đây là vấn đề quan trọng mà các DN

cần phải quan tâm và thực hiện trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện

nay. Để giải quyết những nhiệm vụ do luận án đặt ra, tác giả đã tổng quan tình hình

nghiên cứu theo nội dung chính các chương của luận án.

Giá trị của các công trình tổng quan đã cung cấp cho tác giả luận án những

luận cứ lịch sử để thấy rõ những kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước.

24

Chương 2

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

2.1. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH

NGHIỆP VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA

DOANH NGHIỆP

2.1.1. Khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm xã hội

Trách nhiệm cũng như trách nhiệm xã hội - TNXH (Social Responsibility) là

những thuật ngữ xuất hiện rất sớm và được sự quan tâm từ lâu trên thế giới, đặc biệt

đối với các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện thuật ngữ này còn

tương đối mới, cho nên việc làm rõ nội hàm của nó là điều cần thiết.

* Khái niệm trách nhiệm

Thuật ngữ "trách nhiệm" đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài

người, ở phương Đông trước đây nó thường dùng đồng nhất với các khái niệm

nghĩa, nghĩa vụ, bổn phận… Như trong Luận ngữ, chúng ta gặp khoảng 24 lần

Khổng Tử sử dụng chữ nghĩa. Chẳng hạn, ông nói, "Thấy được lợi, nghĩ tới

nghĩa" [Luận ngữ, Quí thị, 10]. Nghĩa ở đây đóng vai trò điều chỉnh hành vi của

con người, cảnh tỉnh con người nên hay không nên, được phép hay không được

phép làm điều gì đó có phù hợp với đạo nghĩa hay không. Ngay đến người quân

tử, dù bản chất có can đảm đến mấy, cũng phải đặt nghĩa lên trên. "Tử Lộ hỏi

rằng, "Người quân tử có chuộng đức dũng không?" Khổng Tử nói rằng, "Người

quân tử coi điều nghĩa là trên hết. Quân tử có dũng mà không theo đạo nghĩa thì

làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không theo đạo nghĩa thì làm trộm cướp" [Luận

ngữ, Dương hoá, 22]. Qua đó có thể hiểu, "nghĩa trở thành bổn phận, thành nghĩa

vụ của người quân tử, là sự gắn bó giữa bản thân mình và cộng đồng, là bổn phận của mình đối với cộng đồng" [160, tr.94]. Do vậy, "nghĩa vụ được quan niệm như

là trách nhiệm của con người trước xã hội và trước người khác". Đó là tình cảm tự

giác của con người đối với người khác và đối với xã hội, được con người ý thức

và tự nguyện tự giác hành động.

25

Còn ở phương Tây, thuật ngữ "trách nhiệm" về mặt từ nguyên học theo tiếng

La tinh là "Respondere" là sự đáp lại, sự trả lời - phản ứng lại thử thách mà tình

huống đặt ra, và phản ứng lại yêu cầu từ phía người khác. Theo từ điển Triết học

(1986), Nxb Tiến bộ Matxcơva thì, "Trách nhiệm là một phạm trù đạo đức và luật học.

Nó phản ánh thái độ xã hội, đặc biệt là thái độ pháp luật của cá nhân đối với xã hội (đối

với nhân loại nói chung), thái độ này biểu thị sự hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của mình

và các tiêu chuẩn pháp luật" [159, tr.595]. Theo Từ điển Tiếng Việt thì "Trách nhiệm là

điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình" [100].

Trong sách: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp của Michel Capron

Francoise Quairel - Lanoizeleé, thì "trách nhiệm" được hiểu là điều kiện quy trách

(imputability) những hành động cho chủ thể nào đó [27, tr.42].

Tóm lại, qua những cách hiểu trên cho thấy, trách nhiệm là khả năng con

người ý thức được những kết quả hoạt động của mình trong mối quan hệ giữa cá thể

này với cá thể khác và với cộng đồng, cũng như với môi trường sống xung quanh. Đó

là những ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm làm đúng đắn, nếu sai

trái thì phải chịu phần hậu quả; Hay là phần việc được giao cho hoặc coi như được

giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu

quả. Do vậy, "trách nhiệm" là phải bảo đảm làm tròn những sự việc được giao cho,

nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả và nó được hình thành trong quá

trình điều chỉnh lợi ích của cá nhân với tư cách thành viên xã hội. Con người sống và

thực hiện lợi ích của mình trong một cộng đồng, một xã hội nhất định. Lợi ích của

mỗi người chỉ có thể thực hiện được trong một tương quan nhất định với lợi ích của

người khác, của xã hội. Cụ thể hơn, để thực hiện lợi ích của mình, mỗi người phải

đáp ứng, ở một mức độ nào đó, lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội. Cũng như

vậy, lợi ích của xã hội chỉ có thể được thực hiện khi xã hội có những bảo đảm nhất

định cho lợi ích của cá nhân với tư cách thành viên xã hội. Do đó, căn cứ vào đặc

trưng hoạt động của chủ thể thì chúng ta có trách nhiệm cá nhân và TNXH.

* Khái niệm trách nhiệm xã hội

Về khái niệm "Trách nhiệm xã hội", theo Palmer và Karen thì "TNXH là một lý

thuyết đạo đức mà một thực thể (tổ chức hay cá nhân) thực hiện các nghĩa vụ nhằm

26

đem lại lợi ích cao nhất cho xã hội. TNXH là nhiệm vụ của mỗi cá nhân cần phải thực

hiện để duy trì sự cân bằng giữa nền kinh tế và hệ sinh thái" [173, tr.119-132].

Nguyễn Thị Kim Chi trong luận án tiến sỹ Triết học: "Trách nhiệm xã hội

của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay" cho rằng: TNXH là phạm trù phản ánh sự

nhận thức và hành động vì mục tiêu lợi ích, giá trị xã hội của một chủ thể xã hội

theo bổn phận là một thành viên xã hội [31, tr.38].

Từ những định nghĩa trên có thể khái quát: TNXH là năng lực, bổn phận của

con người ý thức được những hậu quả do hành động của mình đưa lại. Cụ thể hơn,

đó là năng lực xác định được lợi ích và tác hại trong hành động của mình đối với

người khác, đối với xã hội.

Dưới góc độ Triết học, TNXH là khái niệm phản ánh quan hệ giữa con

người với thế giới và con người với con người trên nguyên tắc tự nguyện hay được

luật hóa. Do đó TNXH vừa là phạm trù đạo đức vừa là phạm trù pháp lý.

Nói đến yếu tố đạo đức trong TNXH là nói đến những nguyên tắc đã được xã

hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội

nhưng nó chưa được luật pháp quy định. Nó là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp

những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh

hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ

xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội.

Còn yếu tố pháp lý, đó là những nguyên tắc quy định những hành vi của con

người bằng những văn bản pháp luật. Cả đạo đức và pháp luật đều có tác dụng điều

chỉnh hành vi của con người và đều hướng đến chân, thiện, mỹ, chống lại cái ác,

làm điều thiện, xây dựng cuộc sống bình yên, tươi đẹp.

Như vậy, khái niệm TNXH dùng để chỉ những điều mà cá nhân, tổ chức

phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình đối với xã hội. TNXH là sự

phản ánh nhận thức và hoạt động của chủ thể về những bổn phận đạo đức và pháp

luật cần phải thực hiện trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người

với tự nhiên, vì sự phát triển lành mạnh và bền vững của toàn xã hội. Do đó, TNXH

là sự ràng buộc và tác động lẫn nhau giữa yếu tố pháp lý và đạo đức, nên suy cho

cùng TNXH có tác dụng điều chỉnh hành vi cá nhân, tập thể, xã hội, là cơ sở để gắn

kết các cá nhân với xã hội. Và khi con người thực hiện tốt TNXH, nó sẽ mang lại

27

lợi ích cho bản thân mình, đồng thời cũng mang lại lợi ích cho xã hội. Do đó,

TNXH có vị trí và vai trò rất quan trọng không thể thiếu đối với hành vi của con

người: Là cơ sở, là nền tảng để cá nhân và xã hội tồn tại, phát triển bền vững.

Và tùy thuộc vào sự phát triển nhận thức về xã hội của con người ở mỗi giai

đoạn khác nhau mà nội dung của khái niệm TNXH có sự phát triển và mở rộng.

Trong nền kinh tế thị trường của quá trình hội nhập quốc tế, khái niệm TNXH được

tiếp nhận, mở rộng ở nhiều nội dung cụ thể, trong đó có khái niệm TNXHDN.

2.1.2. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và cấu trúc của nó

* Khái niệm doanh nghiệp và khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

- Khái niệm doanh nghiệp:

Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kì quốc gia nào, thì DN

luôn có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm

trong nước; Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của

người lao động; Phát triển DN tác động đến giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội…

Quá trình phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin,

đã làm cho các hình thức tổ chức DN cũng ngày càng đa dạng, cùng với nó là các

loại hình sở hữu của DN cũng ngày càng phong phú hơn. Do đó, nếu đứng trên

quan điểm khác nhau thì chúng ta có thể định nghĩa về DN cũng khác nhau:

Nếu đứng trên quan điểm tổ chức thì: DN là một tổng thể các phương tiện,

máy móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm thực hiện mục đích đề ra.

Nếu trên quan điểm chức năng thì: DN là một đơn vị sản xuất kinh doanh

nhằm thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản

xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ nhằm mục đích kiếm lời.

Còn theo Steven M. Sheffrin (nhà Kinh tế và Giám đốc Viện Murphy) thì:

"DN là đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ

đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trên thị trường, thông qua đó để tối đa hoá lợi

nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước và quyền lợi chính đáng của

người tiêu dùng" [176, tr.29].

Ở Việt Nam, tại khoản 7 điều 4 Luật Doanh nghiệp, luật số: 68/2014/QH13 thì:

"DN là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo

quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh" [108]. Những năm gần đây DN đã

28

có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động

và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và

tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải

quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...

Để phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nên ở Việt Nam

hiện nay có nhiều loại hình DN với các loại hình kinh doanh khách nhau như: Công

ty trách nhiệm hữu hạn, DNNN, công ty cổ phần, công ty hợp danh, DN tư nhân,

nhóm công ty… Và việc thành lập DN để kinh doanh cũng trở lên đơn giản hơn bởi

pháp luật đã được cụ thể và là một chủ thể được NN đặc biệt quan tâm khuyến khích

đầu tư thành lập. Cùng với đó là các dịch vụ tư vấn thành lập DN rất phổ biến trên thị

trường hiện nay.

Doanh nghiệp thành lập thường có những mục tiêu cơ bản là: Lợi nhuận, an

toàn, vị thế của DN, góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội... Để đạt các

mục tiêu đó một cách bền vững, thì một trong những nguyên tắc cơ bản mà các DN

cần phải thực hiện, đó là phải thực hiện tốt các TNXHDN.

- Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp:

Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social

Responsibility) có lịch sử phát triển lâu dài và nội hàm của khái niệm này cũng rất

đa dạng. Nó là mối quan tâm của cộng đồng DN đối với xã hội và xã hội đối với

DN trong nhiều thế kỷ.

Quay về lịch sử hình thành, thì nó chính thức xuất hiện và sử dụng phổ biến

vào những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã manh nha sớm hơn,

cụ thể nó đã được đề cập vào những năm 1930 - 1940, trong các tác phẩm của Chester

Barnard 1938 "Chức năng của điều hành" (The Functions of the Executive), J. M.

Clark’s 1939 "Kiểm soát xã hội của các doanh nghiệp" (Social Control of Business), và

Theodore Kreps’s 1940 "Đo lường hiệu quả xã hội của các doanh nghiệp"

(Measurement of the Social Performance of Business), các tác phẩm đã đề cập đến một

số mặt vấn đề TNXHDN. Tuy nhiên, giai đoạn này nội hàm còn hạn chế và chưa phải

là chủ đề được nhiều người quan tâm. Sang những năm 1950 nền kinh tế phát triển

mạnh, sự tích lũy tư bản đã hình thành những tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn.

Tính chất của nền sản xuất kinh doanh hiện đại, với việc sử dụng lao động theo kiểu

29

dây chuyền của mô hình Fredericl Winslow Taylor và Henry Ford (Xem phụ lục 1)

trong quản trị DN và đặc biệt là sự tiêu ngốn một lượng tài nguyên khổng lồ cùng với

việc phát thải lượng phế thải cũng tương tự là nguyên nhân của những mối hiểm họa

hủy hoại sinh quyển, sự gia tăng tình trạng bất bình đẳng đe dọa kết cấu xã hội, tổn hại

đến sức khỏe cộng đồng… Mặt khác, chính sự phản ứng của các hội đoàn, tổ chức phi

chính phủ, của xã hội dân sự nói chung, đã tạo nên trào lưu xã hội gây áp lực khiến các

DN - đặc biệt là các tập đoàn, các công ty đa quốc gia phải có hành động thể hiện trách

nhiệm của mình với xã hội. Trước thực tiễn đó đòi hỏi cần phải có những cách thức

giải thích mới về TNXHDN, và năm 1953 Howard R. Bowen (1908-1989) công bố

quyển sách mang tính bước ngoặt: Social Responsibilities of the Businessman - Trách

nhiệm xã hội của doanh nhân. Nội dung là nhằm tuyên truyền và kêu gọi người quản lý

tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ

thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại mà các DN gây ra cho xã hội [118, tr.18]. Tác

phẩm đã đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ hiện đại về cách hiểu cũng như những

luận giải về khái niệm TNXHDN.

Bowen cho rằng, hàng trăm DN lớn tại thời điểm đó với những hoạt động đã

chạm vào nhiều vấn đề cuộc sống của người dân. Trước thực tế, trong số rất nhiều

câu hỏi của xã hội đặt ra cho DN, Bowen chú ý đặc biệt là: DN có những trách

nhiệm gì để có thể đáp ứng những kỳ vọng của xã hội? [175, tr.3]. Câu hỏi này là

xuất phát điểm và hướng sự chú ý của nhân loại từ đó cho đến nay. Trả lời của

Bowen là, mong muốn DN nên hướng mục tiêu hoạt động đến các giá trị của xã hội.

Hay có thể nói cách khác, đó là sự mong đợi của cộng đồng đối với DN trong việc

thực hiện các hoạt động nằm ngoài DN hướng đến những vấn đề xã hội.

Bowen nói TNXHDN là "ý thức xã hội" của các doanh nhân, nhà quản lý,

bên cạnh lợi nhuận cần phải chú ý nhiều đến việc chịu trách nhiệm về những hậu

quả hoạt động của mình gây ra cho xã hội cũng như môi trường. Và đó là điều thú

vị khi bài viết của Bowen đăng trên tạp chí Fortune có đến 93,5% [175, tr.3] các

doanh nhân đồng ý với ý tưởng này. Từ đây, Bowen được mọi người xem là "cha

đẻ" của khái niệm TNXHDN [167, tr.24]. Và kể từ đó cho đến nay đã có rất nhiều

định nghĩa khác nhau, mỗi chính phủ, tổ chức, công ty, nhà nghiên cứu nhìn nhận

TNXHDN dưới những góc độ và quan điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện luật

30

pháp, đặc điểm và trình độ phát triển văn hóa của mình (Xem phụ lục 2). Và liên

quan đến khái niệm TNXHDN theo tôi có những điểm cơ bản sau:

Một là, mỗi DN có cách trả lời độc đáo riêng, tùy thuộc vào năng lực cốt lõi của

nó và lợi ích với các bên liên quan, phụ thuộc vào truyền thống văn hóa của quốc gia

yêu cầu đối với các DN.

Hai là, TNXHDN về cơ bản là một triết lý hay một tầm nhìn về mối quan hệ

của DN và xã hội, một trong những yêu cầu lãnh đạo thực hiện và duy trì nó theo

thời gian.

Ba là, TNXHDN được cải tiến liên tục, không phải là một mốt nhất thời, bắt

đầu ít và phát triển mở rộng theo thời gian.

Bốn là, nó gắn bó chặt chẽ với lợi nhuận, không thể có TNXH nếu không có lợi

nhuận. Do đó, TNXH lớn nhất của DN là làm để được lợi nhuận.

Năm là, bên cạnh lợi nhuận, để phát triển DN phù hợp với pháp luật hiện hành

thì đều phải gắn kết với lợi ích phát triển chung của cộng đồng xã hội. Hay hiệu quả

kinh doanh để phát triển DN phải đóng góp cho cân bằng, hài hòa với mục tiêu phát

triển xã hội. Đây là một trong những yêu cầu cơ bản để DN phát triển bền vững.

Và trong nhiều khái niệm, theo chúng tôi thì khái niệm của Nhóm phát triển

kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới (Xem phụ lục 2) là hoàn chỉnh, rõ ràng và dễ

hiểu nhất. Trong đó, yêu cầu TNXHDN phải gắn liền với vấn đề phát triển bền vững -

một yêu cầu khách quan cấp thiết có tính toàn cầu của sự phát triển hiện nay. Khi cạnh

tranh thương trường ngày càng khốc liệt, những yêu cầu, đòi hỏi từ khách hàng ngày

càng cao và xã hội có cái nhìn ngày càng khắt khe hơn đối với DN về bổn phận, trách

nhiệm trước cộng đồng, xã hội thì DN muốn phát triển bền vững phải luôn tuân thủ

không chỉ những chuẩn mực về bảo đảm sản xuất - kinh doanh phải có lợi nhuận, thậm

chí siêu lợi nhuận mà cả những chuẩn mực về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi

trường lao động, về thực hiện bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động,

quyền lợi đào tạo và phát triển nhân viên, góp phần phát triển cộng đồng, bao hàm cả

các hoạt động thực hiện ASXH như nhân đạo, từ thiện…

Cũng thông qua sự phong phú các khái niệm cho thấy, TNXHDN bao gồm

nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của DN đối với các chủ thể và đối tượng có liên

quan trong quá trình hoạt động. Các ứng xử bao gồm: DN với khách hàng - Customers;

31

DN với người lao động - Laborers; DN với nhân viên - Employees; DN với đối tác

kinh doanh - Business partners; DN với môi trường - The environment; DN với cộng

đồng - Communities; DN với các nhà đầu tư - Investors.

Và để DN ứng xử có trách nhiệm với các chủ thể và đối tượng có liên quan

thì DN cần phải thực hiện nghiêm túc các trách nhiệm: Kinh tế; Pháp lý; Đạo đức

và từ thiện. Do đó, cấu trúc cơ bản TNXHDN cũng gồm bốn yếu tố này.

* Cấu trúc trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Hiện nay khi nói về các yếu tố cơ bản trong TNXHDN, thì mọi người thường

đề cập đến mô hình tháp Carroll.

Hình 2.1: Mô hình kim tự tháp trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp của Carroll

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp.

Nếu đi từ lớp nền của kim tự tháp thì: Tầng thứ nhất là trách nhiệm kinh tế -

Economic Responsibilities, nghĩa là DN phải tạo ra lợi nhuận đó là nền tảng quan

trọng nhất. Tầng thứ 2 là trách nhiệm pháp lý - Legal Responsibilities, là việc tuân

thủ luật pháp của DN. Tầng thứ 3 là trách nhiệm đạo đức - Ethical Responsibilities,

nghĩa là DN phải có nghĩa vụ đạo đức làm những điều đúng và công bằng, tránh

làm điều xấu. Và trách nhiệm từ thiện - Philanthropic Responsibility, ở đỉnh của

kim tự tháp, đó là những hoạt động thiện nguyện của DN. Trong đó, yếu tố kinh tế

và pháp lý là việc bắt buộc (Must), còn đạo đức và từ thiện là nên làm (Nice to do).

- Trách nhiệm kinh tế - Economic Responsibilities:

Trách nhiệm kinh tế chính là việc tối đa hóa lợi nhuận, cạnh tranh, hiệu quả.

Là điều kiện tiên quyết, bởi DN được thành lập trước hết từ động cơ tìm kiếm lợi

nhuận của doanh nhân. Vì vậy, chức năng kinh doanh phải luôn đặt lên hàng đầu,

đó là mục đích của các doanh nhân. Do đó, C.Mác cho rằng:

32

Tư bản sợ tình trạng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít, cũng như

giới tự nhiên sợ chân không. Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở

nên can đảm. Được đảm bảo 10% lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư

bản vào đâu cũng được, được 20% thì nó hoạt bát hẳn lên, được 50% thì

nó trở nên thật sự táo bạo, được 100% thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của

loài người, được 300% thì không còn tội ác nào mà nó không dám phạm,

dù có nguy cơ bị treo cổ [85, tr.1056].

Trong kinh tế thị trường, kể cả kinh tế thị trường hiện đại, vẫn rất dễ làm nảy

sinh ở con người tư tưởng làm giàu bằng mọi giá, khi đồng tiền và lợi nhuận có sức

hấp dẫn mạnh mẽ, khi con người xem lợi nhuận là trên hết thì tiền bạc, lợi nhuận là

những chất kích thích cho các thói hư, tật xấu, vô đạo đức, vô cảm, vô trách nhiệm

trước đồng loại. Do vậy, C Mác có nói, trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,

mỗi người đều coi người khác là phương tiện để mình lợi dụng. Bởi vì, một khi mà

lợi ích của cá nhân làm lu mờ lương tâm, che khuất trách nhiệm và nghĩa vụ đạo

đức, nghĩa và TNXH, thì sự khôn ngoan, sự nhạy bén sẽ lại càng là một tai họa khó

lường và không tránh khỏi tình trạng xem thường các chuẩn mực đạo đức, chuẩn

pháp lý, dẫm đạp lên các giá trị chân chính. Nó dễ dàng thúc đẩy con người thực

hiện các hoạt động theo những cách thức trái với luân lý, đi ngược lại các chuẩn

mực đạo đức mà mọi xã hội đều tôn trọng [36].

Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nhận đơn giản khi cho rằng DN hoạt động duy nhất

vì lợi nhuận và bù đắp lại chi phí xã hội, cũng như "trả tiền" cho các dịch vụ công

mà DN hưởng lợi thông qua đóng thuế, thì chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm môi

truờng và chi phí xã hội… DN gây ra có thể lớn hơn rất nhiều lần lợi ích mà DN

này mang lại từ tiền thuế hay tạo việc làm (như trường hợp công ty Vedan Việt

Nam (năm 2008) hay gần đây là Formosa (năm 2016)...

Do đó, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất kinh tế và xã hội khi nhìn

nhận bản chất và hoạt động của DN. Trách nhiệm, là đáp ứng những điều mà xã hội

mong muốn và trông đợi ở DN như một thành viên đầy đủ trong đó. TNXHDN

chính là lực cản cuối cùng giúp giữ DN không đi quá đà vì lợi ích kinh tế mà vi

phạm các chuẩn mực đạo đức, bỏ quên những tác động tiêu cực của mình đến các

thành phần khác trong xã hội. Do vậy, trách nhiệm kinh tế là cơ sở cho các hoạt

động của DN. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong kinh doanh đều được thể chế hóa

33

thành các nghĩa vụ pháp lý như: Đối với xã hội đó là sự đóng góp, bảo vệ, phát triển

cộng đồng, xã hội loài người, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;

Đối với người tiêu dùng là phải sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần, đảm

bảo chất lượng; Đối với người lao động là tạo công ăn việc làm với mức thù lao

xứng đáng, cơ hội việc làm, cơ hội phát triển nghề nghiệp, điều kiện làm việc an

toàn; Đối với chủ sở hữu DN là bảo tồn và phát triển các giá trị tài sản được ủy

thác; Đối với các bên liên đới khác là mang lại lợi ích tối đa và công bằng cho họ.

Vì vậy, để đảm bảo lợi nhuận của mình, các DN ý thức rằng không thể phát triển

mà phớt lờ sức ép của dư luận vốn vừa là khách hàng, công nhân viên hoặc cả các

đối tác, chủ đầu tư trong nước lẫn quốc tế. Các nhà quản lý DN quốc tế không

những cần biết cách làm tăng tối đa lợi nhuận cho DN, mà còn phải ý thức rõ việc

tạo nên những điều kiện để duy trì và phát triển bền vững những lợi ích kinh tế đó.

- Trách nhiệm pháp lý - Legal Responsibilities:

Khía cạnh pháp lý trong TNXHDN là DN phải thực hiện đầy đủ những quy

định của pháp luật. Các nghĩa vụ pháp lý được thể chế hóa trong luật dân sự và hình

sự. Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm những nội dung sau:

Một là, điều tiết cạnh tranh: Cạnh tranh là sức mạnh của nền kinh tế thị trường

tự do dựa vào để đảm bảo các DN thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của

người tiêu dùng. Tuy nhiên, do cạnh tranh có thể dẫn đến độc quyền làm thiệt hại

người tiêu dùng, cho xã hội. Do vậy, khuyến khích cạnh tranh và đảm bảo môi trường

cạnh tranh lành mạnh là cách thức cơ bản và quan trọng để điều tiết quyền lực độc

quyền. Để giải quyết vấn đề này thì luật pháp sẽ làm công cụ hỗ trợ. Do đó, luật cạnh

tranh là yêu cầu tất yếu khách quan, nó quy định các hành vi cạnh tranh và các hành vi

khác liên quan của thương nhân và nó có những nhiệm vụ cơ bản như sau:

- Khẳng định và bảo hộ quyền tự do kinh doanh của doanh nhân.

- Duy trì và ổn định trật tự cạnh tranh.

- Góp phần hình thành ý thức cạnh tranh lành mạnh.

- Góp phần khơi thông dòng chảy và điều tiết cạnh tranh.

Hai là, bảo vệ người tiêu dùng: Luật pháp quy định các tổ chức kinh doanh

phải cung cấp các thông tin chính xác về sản phẩm và dịch vụ, thực hiện đúng các

cam kết với người tiêu dùng trước, trong và sau khi bán hàng.

34

Ba là, bảo vệ môi trường: Pháp luật bảo vệ môi trường là một lĩnh vực pháp

luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến hoạt động khai thác, quản

lí, bảo vệ môi trường.

Bốn là, an toàn và bình đẳng: Luật pháp cũng quan tâm đến việc đảm bảo

quyền bình đẳng, quyền được sống và làm việc, quyền có cơ hội lao động như nhau

của mọi đối tượng khác nhau với tư cách là người lao động. Bảo vệ người lao động

trước tình trạng phân biệt đối xử vì tuổi tác, giới tính, dân tộc, thể chất, ngăn chặn

việc sa thải người lao động tùy tiện và bất hợp lý.

Năm là, khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái: Do những

người phát hiện tố giác sai trái thường xuyên phải chịu những rủi ro và bất hạnh. Vì

vậy, bảo vệ người phát giác là một trong những biện pháp có tác dụng quan trọng

nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, và vi phạm những giá trị đạo đức của DN.

Tóm lại, thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực

thi các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không

thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình. Vì vậy, những quy định pháp luật là rất

quan trọng giúp tăng cường các hoạt động nhằm ngăn chặn, và loại trừ những hành

vi sai trái của DN như trên.

- Trách nhiệm đạo đức - Ethical Responsibilities:

Trách nhiệm đạo đức là những quy tắc, giá trị được xã hội chấp nhận nhưng

chưa được thể chế hóa thành luật. Cho nên, tuân thủ luật pháp chỉ được xem là

chuẩn mực tối thiểu mà xã hội đặt ra. Do đó, DN còn cần phải thực hiện cả các cam

kết ngoài luật. Trách nhiệm đạo đức là tự nguyện, tuy nhiên trong nền kinh tế hiện

đại nó có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển DN.

Trách nhiệm đạo đức thể hiện ở việc ứng xử với người lao động đó là những

tiêu chuẩn sử dụng lao động, quyền lợi người lao động (lương, thưởng, đãi ngộ, bố

trí lao động hợp lý, được đào tạo và có cơ hội phát triển chuyên môn nghề nghiệp,

môi trường làm việc...). Đây là mối quan tâm hàng đầu của người điều hành DN, nó

là cơ sở quan trọng giúp tăng năng suất lao động, tạo sự gắn kết của các thành viên

trong các DN.

Trách nhiệm đạo đức thể hiện đối với người tiêu dùng đó là các cam kết về

chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi, tính trung thực trong quảng bá, giới thiệu

sản phẩm, sự bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng.

35

Trách nhiệm đạo đức trong việc ứng xử đối với môi trường tự nhiên và môi

trường xã hội đó là DN cần ưu tiên trong đầu tư các công nghệ mới, thiết bị mới,

sản phẩm thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn nguyên vật liệu, năng

lượng, tìm kiếm các vật liệu mới trong sản xuất, để hạn chế rác thải… Về môi

trường xã hội, các DN cần lựa chọn các phương án sản xuất, tối thiểu hóa kinh

doanh những sản phẩm có tính chất nguy hại đến lối sống đạo đức xã hội, định

hướng tiêu dùng cho lối sống lành mạnh; Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa DN

với khách hàng và cộng đồng dân cư.

- Trách nhiệm từ thiện - Philanthropic Responsibility:

Trách nhiệm từ thiện được xác định là những cách thức và những chiến lược

của DN ảnh hưởng đến các bên liên quan, như môi trường tự nhiên - xã hội nơi DN

hoạt động. Bản chất xã hội của trách nhiệm từ thiện đó là những nỗ lực tự nguyện

của các DN để cải thiện các vấn đề môi trường tự nhiên, xã hội, liên quan hoặc

không liên quan đến hoạt động kinh doanh, trong đó nó đòi hỏi DN phải bỏ ra một

khoản chi phí cho hoạt động thiện nguyện. "Trách nhiệm từ thiện là những hoạt

động của DN đóng góp cho xã hội vượt quá mong đợi của pháp luật, đạo đức,

thương mại của DN" [169, tr.274-275]. Trách nhiệm từ thiện mặc dù không bắt

buộc (Nice to do) nhưng các nhà kinh tế cho rằng: Nền kinh tế hiện đại nó không

thể thiếu với các chiến lược và thực tiễn của DN, đây là khía cạnh cao nhất, nhân

văn nhất trong các khía cạnh TNXHDN. Ở phương Tây, công tác nhân đạo, từ thiện

thường được nhìn nhận như một hoạt động để nâng cao tính chính danh cũng như

uy tín của DN, và nó được xem như là hình thức "bảo hiểm" DN [170, tr.131-144].

Các hoạt động nhân đạo, từ thiện không mang tính một chiều. Từ thiện, cùng

với các cam kết lâu dài nhắm đến giải quyết các vấn đề xã hội có thể không mang

lại các kết quả trực tiếp, hữu hình, nhưng lại là những khoản đầu tư chiến lược

mang lại những lợi ích đáng kể trong dài hạn cho DN. Vấn đề nền tảng ở đây là sự

phụ thuộc lẫn nhau giữa DN và xã hội - để DN phát triển thịnh vượng thì cần có

một xã hội lành mạnh. Do đó, DN phải đầu tư cho xã hội để phát triển môi trường

mà trong đó họ đang hoạt động, vì chính sự tồn tại của bản thân họ.

Hoạt động nhân đạo, từ thiện của DN được thực hiện qua các hình thức như:

Quyên góp tiền hoặc hiện vật, sử dụng các tiện ích, tài sản, hoặc dịch vụ; Đóng góp

36

bằng thời gian làm việc của nhân viên, có thể hợp tác với các đối tác bên ngoài như các

tổ chức phi chính phủ hoặc chính quyền địa phương để đạt được những kết quả xã hội

tối ưu từ những đóng góp của họ. Hiệu quả xã hội mà hoạt động từ thiện sẽ mang lại trên

4 phương diện: 1, nâng cao chất lượng cuộc sống; 2, chia sẻ bớt gánh nặng cho NN; 3,

nâng cao năng lực lãnh đạo cho nhân viên; 4, phát triển nhân cách của người lao động.

Nếu trách nhiệm kinh tế và pháp lý phản ánh quan hệ hợp đồng xã hội kiểu

truyền thống giữa DN và xã hội nói chung thì trách nhiệm về đạo đức, nhân đạo và

từ thiện là tương đối mới, phản ánh quan hệ hợp đồng xã hội rộng hơn giữa DN với

xã hội. Tuy nhiên, nếu làm nhân đạo, từ thiện mang tính chiến lược, thì đó là cách

làm hiệu quả nhất để tạo ra lợi ích xã hội lâu dài và bền vững, đồng thời giúp nâng

cao uy tín DN và động lực cho nhân viên của DN.

2.1.3. Vai trò thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

* Tăng doanh thu, đóng góp thiết thực vào xây dựng thương hiệu doanh nghiệp

Nếu thương hiệu mạnh được nhìn nhận như công cụ tạo lợi thế cạnh tranh

đặc thù cho DN, thì "niềm tin" càng trở nên cần thiết. Đạo đức kinh doanh - TNXH

sẽ là nền tảng cho việc xây dựng "niềm tin" để thương hiệu thật sự mạnh. Điều này

đồng nghĩa với việc DN phải có được sự sâu đậm trong việc "chia sẻ tâm trí" với

người tiêu dùng song hành với việc "chiếm lĩnh thị phần". Tôn trọng những giá trị

đạo đức, tinh thần trách nhiệm, trung thực của nhà đầu tư với người tiêu dùng là

cách tốt nhất để đánh bóng thương hiệu một cách chuyên nghiệp và thực chất. Uy

tín xã hội ngày càng có ảnh hưởng lớn tới thương hiệu của các DN, lớn hơn cả

quảng cáo và những chính sách tài chính.

Để chiếm được "niềm tin" khách hàng, thì chất lượng sản phẩm là tiêu chí

hàng đầu mà DN phải chú ý. Chất lượng, là sự phù hợp tốt nhất các yêu cầu và mục

đích của người tiêu dùng. Do đó, bước đầu tiên của quá trình sản xuất kinh doanh

phải là việc nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng về các loại sản

phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ mà DN định cung cấp trên thị trường. Tuy nhiên, nhu

cầu của thị trường - người tiêu dùng luôn luôn thay đổi nên đòi hỏi DN phải liên tục

đổi mới cải tiến chất lượng, đáp ứng kịp thời những nhu cầu mới. Đây là đặc trưng

của nền kinh tế thị trường, là nguyên tắc chủ yếu nhất trong sản xuất kinh doanh

hiện đại và là một đòi hỏi tất yếu mang tính chất thời đại và lịch sử.

37

Theo mô hình kinh tế cổ điển, nếu DN thực hiện tốt TNXH, thì sẽ tốn thêm

chi phí so với những DN không thực hiện, và những chi phí sẽ làm cho sản phẩm có

giá cao hơn so với các DN khác không đầu tư. Phần lớn do nhận thức và thói quen,

người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm có giá thấp. Cuối cùng, những DN không

tuân thủ TNXH có thể đẩy đối thủ cạnh tranh của nó ra khỏi ngành, hoặc buộc DN

phải giảm chi phí thực hiện TNXH.

Thế nhưng, kinh tế thị trường hiện đại có quy luật của nó, nó không cho phép

tăng giá nếu chất lượng sản phẩm không tăng. Tuy vậy, chi phí cho TNXH sẽ thu

lại từ chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, sự hài lòng của người tiêu dùng…

Do đó, các chi phí tăng thêm sẽ được người tiêu dùng chấp nhận trả thông qua giá

cả, chất lượng sản phẩm và cách thức làm ra sản phẩm. Người tiêu dùng nếu biết

sản phẩm mà họ mua đã không được sản xuất bằng sức lao động "nô lệ", DN tôn

trọng bảo vệ môi trường, quyền người lao động cũng như cộng đồng địa phương

được bảo vệ, vv… Thực tế: Theo điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược Nông

nghiệp nông thôn, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh về ngành hàng thịt lợn và

rau, thì người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn 30% giá trị sản phẩm nếu biết đó là

sản phẩm được sản xuất an toàn và có nguồn gốc [146]. Hay theo khảo sát của

Nielsen, có tới khoảng 80% người tiêu dùng Việt Nam sẵn sàng chi trả nhiều hơn để

mua các sản phẩm có nguyên liệu đảm bảo thân thiện với môi trường và 79% người

dân sẵn sàng trả thêm tiền để mua các sản phẩm không chứa các nguyên liệu mà họ

không mong muốn [67].

Nếu xét trong chiến lược đầu tư ngắn hạn khi áp dụng những nguyên tắc cho

TNXH, thì DN phải bỏ ra một khoản chi phí. Tuy nhiên, nếu DN có tầm nhìn xa thì

nó trở thành lợi thế trong cạnh tranh, vì khi đầu tư những công nghệ hiện đại sẽ giúp

tiết kiệm nguyên vật liệu và đó cũng là cơ sở tăng năng suất lao động và đồng nghĩa

tăng doanh thu. Minh chứng cho thực tế này là rất nhiều DN khi sản xuất sạch và

cam kết đem lại sản phẩm xanh và sạch có mức tăng trưởng cao gấp 4 lần so với

DN cùng ngành, nếu những DN cùng ngành tăng trưởng 1% thì họ tăng trưởng 4%.

Đặc biệt, trong ngành thực phẩm nước giải khát, mức tăng trưởng từ 2% - 11%. Một

số nhãn hàng của Việt Nam như bóng đèn điện quang, Ecopark, Unilever đã có mức

tăng trưởng cao nhờ sản xuất xanh, như Unilever tăng trưởng 30% khi thể hiện cam

kết của mình về sản phẩm sạch [67].

38

Honda Việt Nam với việc liên tục đầu tư cải tiến chất lượng sản phẩm cùng

với thực hiện các chương trình xã hội như: "Tôi yêu Việt Nam", "Quỹ phát triển

cộng đồng"... giá trị thương hiệu của Honda Việt Nam đã tăng lên đáng kể, các sản

phẩm của Honda đã được đa số người tiêu dùng Việt Nam đón nhận. Năm 2015

chiếm 70% thị phần xe máy tại Việt Nam [69].

John Kotter và James Heskett - Trường Đào tạo quản lý kinh doanh thuộc

Harvard, tác giả sách "Văn hóa công ty và chỉ số hoạt động hữu ích" (Corporate

Culture and Performance), đã phân tích những kết quả khác nhau ở các công ty có

truyền thống đạo đức khác nhau cho thấy, trong vòng 11 năm, những công ty "đạo

đức cao" đã nâng được thu nhập của mình lên tới 682% (trong khi những công ty

đối thủ thường thường bậc trung về chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị

cổ phiếu của những công ty "đạo đức cao" trên thị trường chứng khoán tăng tới

901% (còn ở các đối thủ "kém" hơn, chỉ số này chỉ là 74%) [140].

* Đảm bảo và góp phần gìn giữ môi trường

Hoạt động DN là một trong những phương cách nuôi sống con người, là hình

thức tổ chức sản xuất tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Tuy nhiên, so với các

tổ chức khác, DN là tổ chức tác động vào môi trường nhiều nhất, mạnh nhất. Nếu

tác động vào môi trường phù hợp với quy luật thì một mặt DN thu lợi, mặt khác sẽ

bảo vệ được môi trường. Còn nếu DN bất chấp quy luật, khai thác tài nguyên bừa

bãi, thì môi trường bị ô nhiễm, chu kỳ sinh hóa sẽ xáo trộn và hệ sinh thái bị phá

hủy. Vì vậy, hoạt động của DN có những tác động tích cực và tiêu cực tới môi

trường và ngược lại môi trường cũng góp phần tạo nên những thuận lợi hay khó

khăn trong sản xuất. Do đó, DN phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, trách

nhiệm không chỉ dừng lại ở ý thức mà còn là nghĩa vụ luật định. Những nội dung về

môi trường mà DN có nghĩa vụ thực hiện là phòng ngừa ô nhiễm, sử dụng tài

nguyên bền vững, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường,

bảo vệ đa dạng sinh học và phục hồi môi trường tự nhiên.

Để ngăn ngừa và giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, bên cạnh đầu

tư ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại trong quá trình sản xuất, kinh

doanh, đặc biệt là áp dụng giải pháp công nghệ sạch, thì ngay lúc hình thành dự án

DN phải tính toán đánh giá tác động môi trường, đồng thời phải nghiêm túc và

trung thực thực hiện trong suốt quá trình vận hành.

39

Và khi DN thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ môi trường thì:

Một là, DN xác định và quản lý các vấn đề môi trường một cách toàn diện,

liên tục cải tiến kết quả hoạt động môi trường qua đó chất lượng môi trường phù

hợp, sẽ bảo đảm hoạt động kinh doanh ổn định và bền vững thông qua sự ổn định

về chất lượng sức lao động, chất lượng nguồn nguyên, nhiên, vật liệu. Vì vậy, giúp

DN tiết kiệm chi phí sản xuất, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên; Tiết giảm tiêu

thụ năng lượng, chi phí rác thải, tái chế, chi phí bảo hiểm, chi phí hoạch toán môi

trường; Phòng tránh các rủi ro môi trường có thể xảy ra; Nâng cao năng suất, hiệu

quả hoạt động đảm bảo DN phát triển bền vững, hài hòa lợi ích của các bên liên

quan trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Hai là, đáp ứng yêu cầu từ phía khách hàng gồm: Yêu cầu trực tiếp từ phía

khách hàng, nhà cung cấp, đặc biệt là các khách hàng là các tập đoàn đa quốc gia,

khách hàng nước ngoài và chuẩn bị trước cho các quan hệ hợp tác kinh doanh sẽ

phát sinh trong tương lai, đó là điều kiện để nâng cao hình ảnh DN đối với người

tiêu dùng và cộng đồng.

Ba là, đáp ứng và kiểm soát tốt hơn yêu cầu về môi trường từ phía cơ quan

NN: Thực hiện quản lý và kiểm soát rủi ro môi trường; Xây dựng hệ thống thu thập,

xử lý thông tin, xây dựng sẵn báo cáo cung cấp cho cơ quan chức năng khi kiểm tra.

Ví dụ, một trong những điểm tựa đem lại những bước phát triển vững chắc của

Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát (HPG) chính là việc áp dụng các công nghệ mới

trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Điển hình là Hòa Phát đã đầu tư xây dựng nhà

máy than coke từ than mỡ và than gầy theo công nghệ sạch. Với công nghệ này, ngoài

việc cho ra lò sản phẩm than sạch để sản xuất thép, Hòa Phát còn tận dụng nguồn khí

dư để sản xuất lượng điện đáp ứng được 40% tổng nhu cầu của cả khu liên hợp (Kinh

Môn - Hải Dương), qua đó cũng giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính. Trong "quy

trình khép kín", tập đoàn này đã thay đổi công nghệ nung phôi dùng dầu FO sang dùng

sinh khí than từ 3 cụm lò. Từ đó, chi phí nhiên liệu cho việc nung phôi đã giảm được

45%, đồng thời cải thiện đáng kể môi trường xung quanh...

Chẳng hạn tại các mỏ than của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt

Nam (Vinacomin), từ khi áp dụng dây chuyền tuyển than hiện đại với các module công

suất lớn lên đến 650.000 tấn/năm, vừa tận thu triệt để sản lượng than so với công nghệ

40

cũ (tăng từ 20-30%) [111], tăng năng suất lao động do được cơ giới hóa, giảm thiểu

đáng kể ô nhiễm môi trường và bệnh nghề nghiệp cho người lao động do giảm mật độ

các nguồn gây bụi và phát thải khí độc hại trên mỏ. Hay, nhằm ổn định sườn bãi thải,

khai trường than, tại các mỏ than đã sử dụng giải pháp trồng cỏ vetiver. Chỉ sau hơn 1

năm trồng, loại cỏ này sẽ có bộ rễ chùm với chiều dài 1,2m -1,4m tạo thành bộ lưới

sinh học giữ cho đất đá trên sườn bãi thải không bị sạt lở.

Hay việc nghiên cứu thành công chế phẩm sinh học Biomix1 trong xử lý chất

thải gia súc, gia cầm và rơm, rạ thành phân hữu cơ đã góp phần cải thiện đáng kể môi

trường nông thôn và nâng cao năng suất cây trồng. Ước tính, cứ khoảng 60 tấn chế

phẩm Biomix1 dùng để xử lý rơm rạ, phân gia súc, gia cầm sẽ cho ra khoảng 60.000

tấn phân hữu cơ sạch dùng cho sản xuất nông nghiệp, tiết kiệm đáng kể chi phí sản

xuất. Hay việc xây dựng hầm biogas vừa góp phần giải quyết vấn đề năng lượng vừa

giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng dân cư và nâng cao hiệu

quả sản xuất nông nghiệp [96].

Như mô hình sản xuất nông nghiệp theo chuẩn VietGap đang được DN tại

nhiều địa phương áp dụng. Đơn cử như việc phòng trừ sâu bệnh đúng yêu cầu kỹ thuật,

ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên phục vụ nông nghiệp. Chất lượng

môi trường (đất, nước, không khí), sản phẩm an toàn đã được người tiêu dùng đón

nhận, tiêu thụ mạnh, giá cao… góp phần nâng cao đời sống cho nông dân. Còn nếu DN

thiếu trách nhiệm trong bảo vệ môi trường thì ảnh hưởng tiêu cực cho cả DN và xã hội

(Xem phụ lục 3):

* Thu hút được nguồn lao động có chất lượng cao, trung thành về làm

việc tại doanh nghiệp

Nếu DN thực hiện nghiêm túc pháp luật đối với người lao động, thì sẽ góp

phần nâng cao quyền lợi và nhân phẩm của người lao động, đảm bảo việc làm và

tăng thu nhập, đảm bảo ASXH, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ...

Đó là những cơ sở nâng cao sự trung thành của nhân viên với DN.

Đội ngũ trí thức có chất lượng cao trong các DN, với nghiệp vụ sản xuất kinh

doanh, trình độ tay nghề… là nhân tố khai thác tối ưu nguyên vật liệu, năng suất

máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến, quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm,

là một trong những điểm mấu chốt giúp DN tạo nên lợi thế cạnh tranh và giá trị

riêng. Ở các nước đang phát triển, số lượng lao động lớn nhưng đội ngũ lao động

41

đạt chất lượng cao lại không nhiều, do vậy việc thu hút và giữ được nhân viên có

chuyên môn tốt và có sự cam kết cao là một thách thức đối với các DN. Những DN

trả lương thỏa đáng và công bằng sẽ dễ dàng thu hút được các nhân viên giỏi, có kỹ

năng, đây được xem là "chìa khóa cho sự thành công" trong thời đại mới. Tuy

nhiên, lương cao không phải là vấn đề duy nhất mà người lao động quan tâm.

Người giỏi, một mặt họ cần các chế độ phúc lợi, đãi ngộ theo kết quả làm việc, cơ

hội được đào tạo, trau dồi kỹ năng chuyên môn, bảo hiểm, môi trường làm việc sạch

sẽ. Thì mặt khác họ rất cần có hệ thống quản trị nhân sự tiên tiến để tạo ra môi

trường làm việc tốt nhất cho mình, tạo ra sự gắn kết giữa các nhân viên với nhau.

Như: Tập đoàn Hoa Sen bên cạnh thực hiện các chính sách lương, thưởng,

chế độ bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp theo quy định pháp luật, Hoa Sen còn áp

dụng các chế độ phúc lợi như: thưởng vào các ngày lễ lớn: Ngày giải phóng miền Nam,

kỷ niệm ngày thành lập Công ty, nghỉ mát hàng năm…; Duy trì và đảm bảo các chế độ

khác như: Tổ chức ăn giữa ca cho các đơn vị sản xuất, nhà máy trực thuộc hệ thống

Hoa Sen Group, cấp phát đồng phục, bảo hộ lao động, khám sức khỏe định kỳ, bảo

hiểm tai nạn 24/24, hỗ trợ cán bộ công nhân viên khi có tang chế…. Ngoài ra, cán bộ

công nhân viên nữ được hỗ trợ nhân ngày Quốc tế Phụ nữ và ngày Phụ nữ Việt Nam,

hỗ trợ thai sản… Với chính sách tốt nên năm 2014 Hoa Sen được bình chọn và đứng

thứ 47 trong top 100 nơi làm việc tốt nhất tại Việt Nam [1].

Grupo M, một công ty dệt cỡ lớn ở Cộng hoà Đô-mi-ních, đã tổ chức đưa

đón công nhân, có trung tâm y tế chăm sóc sức khoẻ cho công nhân và gia đình họ,

tổ chức đào tạo công nhân và trả lương gấp đôi mức lương tối thiểu do quốc gia này

quy định. Tổng Giám đốc, đồng thời là sáng lập viên của công ty, không lo lắng

nhiều về những chi phí này mà cho rằng đó là khoản đầu tư sáng suốt. Ông nói: tất

cả những gì chúng tôi dành cho người lao động đều đem lại lợi ích cho công ty - đó

là hiệu quả công việc, chất lượng sản phẩm, lòng trung thành và sự sáng tạo.

Ngược lại, công ty dệt may Panko Tam Thăng, thông báo tuyển dụng

với mức lương bình quân 4 triệu đồng/người/tháng. Ngoài ra còn hỗ trợ ký túc xá, phục

vụ bữa ăn trưa tại công ty, được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm thất nghiệp… Tuy nhiên công nhân chỉ thực lĩnh sau khi trừ bảo hiểm xã hội, chỉ

nhận được 2,9 triệu đồng/tháng. Do lương quá thấp và không đúng với những gì công

ty đã hứa khi tuyển dụng nên công nhân đã đình công và nghỉ việc để phản đối [145].

42

Một ngày phải làm việc liên tục 12 giờ nhưng vẫn không đủ chỉ tiêu sản

lượng do công ty đặt ra, các chế độ chính sách cho người lao động cũng không được

đảm bảo, công nhân tham gia đóng bảo hiểm nhưng khi công ty ít việc phải cho

công nhân nghỉ tạm thời thì lại không cho hưởng lương thất nghiệp 70%... nên đầu

năm 2016, 2.000 công nhân công ty sản xuất giầy da KaiYang (Đài Loan, đóng ở

Hải Phòng) đã đồng loạt bỏ việc [121]…

* Nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm và hàng hóa

dịch vụ hội nhập với thị trường thế giới

Thương hiệu của DN đóng vai trò cực kỳ quan trọng cho sự thành công. Để

có được thương hiệu uy tín trên thị trường cần cả một quá trình nỗ lực phấn đấu trên

nhiều mặt, và mỗi loại sản phẩm cần có những nỗ lực khác biệt để tạo dựng uy tín.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh trở thành vấn

đề mang tính quốc tế, đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi DN.

Theo M.E.Porter thì khả năng cạnh tranh của mỗi DN được thể hiện thông qua hai

chiến lược cơ bản là sự khác biệt hóa sản phẩm và chi phí thấp. Trong đó, chi phí thấp

đi liền với chất lượng sản phẩm và tuân thủ những chuẩn mực xã hội trở thành một

trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của DN.

Chất lượng sản phẩm đóng vai trò quyết định sự sống còn của DN, vì:

- Tạo ra sức hấp dẫn, thu hút người mua và tạo lợi thế cạnh tranh cho DN.

- Tăng uy tín, danh tiếng và hình ảnh DN.

- Cơ sở cho hoạt động duy trì và mở rộng thị trường tạo ra sự phát triển lâu

dài, bền vững cho DN.

- Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với tăng năng

suất lao động, giảm phế thải trong sản xuất, nhờ đó giảm các nguồn gây ô nhiễm

môi trường.

- Giúp người tiêu dùng tiết kiệm được chi phí, sức lực, là giải pháp quan

trọng để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận, trên cơ sở

đó đảm bảo thống nhất các lợi ích của khách hàng, DN và xã hội.

- Cơ sở quan trọng cho việc đẩy mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và

mở rộng trao đổi thương mại của các DN.

Có thể lấy trường hợp Công ty cổ phần Công nghiệp và Thiết bị chiếu sáng

Duhal (100% vốn Việt Nam, trụ sở tại Tiền Giang) là điển hình của một DN nội đã

43

được hưởng thành quả nhờ sớm đầu tư công nghệ mới, bảo vệ được môi trường. Từ

DN vừa và nhỏ, Duhal đã đầu tư 3 nhà máy theo công nghệ sản xuất Chip Led và nội

địa hóa 95% trong sản xuất. Điều đó giúp Công ty chiếm 28% thị phần đèn led trong

nước và xuất khẩu mạnh ra thị trường khu vực Myanmar, Lào, Thái Lan, Singapore,…

và đang dần tiếp cận các thị trường khó tính như Nhật, Mỹ và châu Âu [164].

Là công ty chuyên sản xuất - kinh doanh thực phẩm, Vinamilk không chỉ chú

trọng về an toàn vệ sinh thực phẩm, mà còn đặt yếu tố thân thiện với môi trường lên

hàng đầu. Chính vì thế, các nhà máy của Công ty đều được trang bị các dây chuyền

công nghệ hiện đại được nhập trực tiếp từ Pháp, Đức, Đan Mạch, Thụy Điển… đã

góp phần giảm thiểu mức tiêu hao nước, nhiên liệu và năng lượng. Trong 5 năm gần

đây: Doanh số trung bình tăng trên 20%/năm; Lợi nhuận tăng 15,8%/năm; Nộp

ngân sách NN trung bình trên 3.500 tỉ/năm. Vinamilk đã trở thành một trong 50 tập

đoàn sữa lớn nhất thế giới, top 100 công ty giá trị nhất ASEAN và top 50 DN niêm

yết tốt nhất Việt Nam, và năm 2015 được Tạp chí Forbes xếp hạng 1888/2000, công

ty đại chúng lớn và quyền lực nhất thế giới, chiếm 48,7% thị phần trong nước [151].

Đến nay sản phẩm của Vinamilk đã có mặt ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế

giới, trong đó các thị trường khó tính như Mỹ, Anh, Đức, Canada,… Các cơ sở sản

xuất, kinh doanh của vinamilk đã được xây dựng tại Mỹ, Anh, Ba Lan, Newzealand,

Campuchia… đã góp phần không nhỏ đưa kim ngạch xuất khẩu đạt doanh số 250-

270 triệu USD/năm và không ngừng tăng qua mỗi năm [87].

Đối lập với Vinamilk là Tập đoàn Tam Lộc (Sanlu) - công ty sản xuất bơ sữa

hàng đầu Trung Quốc trước đây. Vì xem nhẹ TNXH buông lỏng quản lý quy trình

sản xuất, nên một số sản phẩm sữa cho trẻ em bị nhiễm melamine, DN này đã để lại

hậu quả xấu cho người tiêu dùng. Tính đến đầu tháng 8/2008, đã có ít nhất 432 trẻ

em ở Trung Quốc bị sỏi thận vì sử dụng sữa của hãng này [171, tr.103-124]. Hậu

quả là hàng trăm ngàn hộ gia đình đã ngừng sử dụng sản phẩm. Thương hiệu Tam

Lộc coi như khai tử, không chỉ ở thị trường Trung Quốc mà còn cả thị trường toàn

cầu. Có thể thấy, sự vô trách nhiệm đã giết chết một thương hiệu. Cũng tương tự,

việc nhà máy Veđan xả chất thải chưa qua xử lý ra sông Đồng Nai là hành vi vô

TNXH. Hành vi đó không chỉ bị dư luận lên án mà thương hiệu Veđan cũng bị một

vết nhơ lâu dài, khó gột rửa.

44

Có thể nói, trong điều kiện ngày nay, nâng cao chất lượng sản phẩm là một

trong những chiến lược để DN tồn tại và phát triển, đồng thời cũng là cơ sở quan

trọng cho việc đẩy mạnh quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế và mở rộng trao đổi

thương mại quốc tế. Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa quyết định khả năng cạnh

tranh, khẳng định vị thế của sản phẩm, hàng hoá và thương hiệu của DN trên thị

trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

Tóm lại, từ những phân tích trên cho chúng ta thấy: Khi DN thực hiện tốt

TNXH sẽ mang lại lợi ích chung cho nhân viên, khách hàng, đối tác và cộng đồng,

là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi DN. Vì vậy, dù chi phí

ban đầu có thể sẽ tăng, lợi ích có thể chưa thấy ngay, nhưng chắc chắn về lâu dài

chẳng có gì thiệt thòi khi DN tôn trọng lợi ích của những bộ phận thiết yếu này. Khi

thực hiện tốt TNXH, DN sẽ nhận được sự ủng hộ trung thành và nhiệt tình của nhân

viên, khách hàng và các đối tác khác. Đó là điều kiện cơ bản nhất của mọi thành

công: Làm thương hiệu không gì khác hơn là làm cho các bên có liên quan, không

chỉ khách hàng mà cả nhân viên, đối tác và cộng đồng, thương yêu thương hiệu, cái

tên DN mình.

2.2. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP QUỐC

TẾ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH

NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Hội nhập quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam

* Khái niệm hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là quá trình phát triển tất yếu, diễn ra dưới nhiều hình thức,

cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập

đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến kinh tế,

chính trị, văn hóa… của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn

chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.

Về ngữ nghĩa, "hội nhập" có nguồn gốc từ "liên kết" (Integration), nghĩa

chung nhất là hành động hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau; Hợp

chung các bộ phận vào một chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp các thành tố

khác nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).

Thuật ngữ "hội nhập quốc tế" tiếng Anh là "International integration", tiếng

Pháp là "Intégration internationale". Đây là khái niệm được sử dụng chủ yếu trong

45

các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng những năm

1950 ở châu Âu, vì đây là khu vực bắt đầu hội nhập rất sớm [168, tr.1-21].

Trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam của Hội đồng Quốc gia chỉ đạo

biên soạn từ điển bách khoa, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội năm 2002, khái niệm

hội nhập "đó là sự liên kết các nền kinh tế với nhau. Các nền kinh tế khác nhau thực

hiện sự hội nhập thông qua hoạt động mậu dịch và hợp tác chính sách và biện pháp

kinh tế" [70, tr.384].

Hoàng Anh Tuấn trong bài viết "Môi trường quốc tế và chiến lược hội nhập

quốc tế của Việt Nam" cho rằng: "Hội nhập quốc tế là tiến trình các nước chủ động

tăng cường các hoạt động gắn kết họ với nhau trên sự chia sẻ chung về lợi ích, mục

tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ

các định chế hoặc các tổ chức quốc tế" [150]. Hay theo Đặng Đình Quý thì "Hội

nhập quốc tế là hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động

chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm

phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc" [109] …

Mặc dù được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau song về cơ bản, các quan

điểm đều thống nhất hội nhập quốc tế là quá trình các nước tiến hành các hoạt động

nhằm tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá

trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật

chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.

* Tính tất yếu và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam

Tính tất yếu của hội nhập quốc tế:

Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu đối với các nước, con đường phát

triển không thể nào khác là tham gia hội nhập. Trong thời đại ngày nay, lực lượng

sản xuất và công nghệ thông tin đã và đang phát triển nhanh chóng với một tốc độ

chưa từng thấy. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo ra khả năng tổ chức lại thị

trường trong phạm vi toàn cầu. Các quốc gia ngày nay càng có nhiều mối quan hệ

phụ thuộc vào nhau hơn, cần sự bổ trợ cho nhau, đặc biệt là các mối quan hệ về

kinh tế thương mại cũng như đầu tư và các mối quan hệ khác như môi trường, dân

số… Chính đây là căn cứ thực tế để đi đến các đích cuối cùng của quá trình toàn

cầu hóa hướng tới, đó là một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới

quốc gia về kinh tế ấy.

46

Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển đến đâu cũng tìm thấy lợi ích cho mình

khi tham gia hội nhập quốc tế. Đối với các nước phát triển, họ có thể đẩy mạnh hoạt

động thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, mở rộng quy mô

sản xuất, tận dụng và khai thác được các nguồn lực từ bên ngoài như tài nguyên, lao

động và thị trường… cũng như gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình

trên trường quốc tế. Còn đối với các nước đang phát triển, có thể nói nhu cầu cần tổ

chức lại thị trường thế giới, thị trường thế giới trước hết bắt nguồn từ những nước

công nghiệp phát triển, do họ ở thế mạnh nên họ thường áp đặt các quy tắc, luật

chơi. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển khi tham gia hội nhập quốc tế vừa có

nhu cầu tự bảo vệ, vừa có yêu cầu phát triển nên cũng cần phải tham gia vào để bảo

vệ và tranh thủ lợi ích cho mình.

Tuy nhiên, hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, mà trái lại nó cũng đặt

các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là: Làm gia tăng cạnh

tranh gay gắt khiến nhiều DN và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ

đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế - xã hội; Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế

quốc gia vào thị trường bên ngoài, và do vậy khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước

những biến động của thị trường quốc tế, làm tăng khoảng cách giàu - nghèo, làm

phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển; Làm gia

tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mòn trước sự "xâm lăng"

của văn hóa nước ngoài; Làm gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội

phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp… Dù có thể mang đến những

hạn chế thế nhưng nếu quốc gia nào cô lập, thì tất yếu sẽ bị thiệt thòi về các phương

diện mức sống, trình độ khoa học, kỹ thuật và tốc độ phát triển.

Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam:

Hội nhập quốc tế thường bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, nhưng nó không chỉ

giới hạn ở đó, mà có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế

đến chính trị, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội và các lĩnh vực khác.

Với Việt Nam, quá trình hội nhập chính trị bắt đầu khi trở thành thành

viên Liên hợp quốc năm 1977. Về hội nhập kinh tế có thể được tính từ khi Việt

Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (năm 1978). Tuy nhiên, quá trình phát

triển tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt đầu cùng với sự

47

nghiệp đổi mới được Đại hội VI (năm 1986) khởi xướng. Còn thuật ngữ "hội

nhập kinh tế quốc tế" bắt đầu được sử dụng khoảng giữa thập niên 1990 cùng với

quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

(AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Nhưng, thuật ngữ hội nhập được đề

cập lần đầu tiên là trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996): "Xây dựng

một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu,

đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu

quả" [49, tr.342].

Xuyên suốt trong các Văn kiện cũng như Nghị quyết, trên cơ sở đánh giá những

thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện các chính sách mở cửa hội nhập, thúc

đẩy kinh tế phát triển, chỉ ra những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế so với nhiều

nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời xác định rõ những khó khăn, thách

thức mà đất nước đang phải đối mặt. Mặc dù trong các Văn kiện, Nghị quyết có cách

thể hiện ít nhiều khác nhau. Nhưng khái quát, có thể thấy tất cả đều để chuẩn bị hành

trang cho con đường hội nhập quốc tế ngày càng sâu hơn, và nội dung có những điểm

chủ yếu đó là: Hội nhập quốc tế theo tinh thần chủ động, tích cực, giữ vững độc lập

tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, trên nguyên tắc đẩy nhanh nhịp độ cải cách

thể chế, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo môi

trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, thực hiện các cam kết thương mại quốc tế,

hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành thị trường đủ năng lực, hoạt động hiệu quả để

bảo vệ thị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, gắn với bảo

vệ môi trường ngày càng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế góp phần hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Kết hợp chặt chẽ hội

nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng (ANQP), cần nhận thấy đó là

quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh; Thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh

tổng hợp của quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc; Hội nhập có kế hoạch và lộ

trình hợp lý theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,

và đó là sự nghiệp của toàn dân.

Có thể nói mục tiêu chính của hội nhập là để phát triển kinh tế xã hội. Tuy

nhiên, khi thông qua hội nhập, hòa vào "luật chơi" chung nên vấn đề nhận thức

cũng như thực hiện về TNXHDN của các DN Việt Nam ngày càng tốt hơn.

48

2.2.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước và những yêu cầu

của hội nhập quốc tế đối với việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh

nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

* Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước

Thời kỳ đổi mới vừa qua, Đảng và NN Việt Nam đã ban hành nhiều nghị

quyết, cơ chế, chính sách, biện pháp đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của

DNNN nhằm góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế NN. Đặc biệt gần đây

Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo soạn thảo và ban hành nhiều văn bản pháp luật

quan trọng tạo cơ sở pháp lý để đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu

quả hoạt động của DNNN với mong muốn xóa bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp quan

liêu của nền kinh tế kế hoạch hóa, xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế năng động và

hiện đại, giải tỏa các rào cản cho kinh tế tự do lưu thông để hướng đến tự do hóa

thương mại một cách thực chất. Vì vậy, bước đầu đã chuyển được hệ thống DNNN

cồng kềnh, quen hoạt động theo mệnh lệnh hành chánh sang hoạt động theo cơ chế

thị trường, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, đóng góp quan trọng cải thiện

đời sống người dân, củng cố sức mạnh ANQP và đã dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ở Việt Nam, DNNN đã tồn tại phổ biến từ lâu trong nền kinh tế và đã có

nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Sự khác nhau là do vị trí vai trò của

nó trong từng nền kinh tế mỗi giai đoạn phát triển, phụ thuộc vào góc độ nhìn nhận của

người quan sát khi tiếp cận DN. Tuy nhiên, mãi tới năm 1995, thuật ngữ DNNN mới

được sử dụng và cũng đã được luật hóa từ đây. Cụ thể là, theo Luật Doanh nhiệp Nhà

nước năm 1995, thì "DNNN là tổ chức kinh tế do NN đầu tư vốn, thành lập và tổ chức

quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu

kinh tế xã hội do NN giao" [104]. Cũng theo luật này, DNNN tồn tại dưới các hình

thức: DN độc lập, tổng công ty, DN thành viên của tổng công ty. Nhưng theo Điều 1

Luật Doanh nhiệp Nhà nước năm 2003, đã có sự thay đổi: "DNNN là tổ chức kinh tế

do NN sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, phần góp vốn chi phối được tổ

chức dưới hình thức công ty NN, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn" [105].

Còn tại khoản 22 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: "DNNN là DN trong

đó NN sở hữu trên 50% vốn điều lệ". Tuy nhiên, trong Luật Doanh nghiệp năm 2014,

49

tại Khoản 8 Điều 4 thì "DNNN là DN do NN nắm giữ 100% vốn điều lệ" [108]. (Nghị

quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã

ghi: DNNN là DN do NN nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối.

Tác giả luận án chỉ khảo sát DNNN là những DN do NN nắm giữ 100% vốn điều lệ).

Mặc dù nhiều khái niệm khác nhau, nhưng cơ bản về bản chất như tên gọi

của nó, DNNN là thuộc sở hữu NN/công hữu và được điều hành, kiểm soát về mọi

phương diện bởi NN. Đồng quan điểm này thì Ngân hàng Thế giới định nghĩa

DNNN như sau: "DNNN là một chủ thể kinh tế mà quyền sỡ hữu hay quyền kiểm

soát thuộc về chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán

hàng hóa và dịch vụ" [103, tr.29-36].

Với nội hàm đó, DNNN là tổ chức kinh tế do các cơ quan NN đầu tư vốn và

trực tiếp thành lập khi thấy việc thành lập là cần thiết. Mục đích hoạt động kinh doanh

hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do NN giao.

DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm toàn bộ

hoạt động kinh doanh trong phạm vi vốn do DN quản lý. Sau khi thành lập là một chủ

thể kinh doanh, tuy nhiên chủ thể kinh doanh này không có quyền sở hữu đối với tài

sản trong DN mà chỉ là người quản lý tài sản và kinh doanh trên cơ sở sở hữu của NN.

NN giao vốn cho DN, DN phải chịu trách nhiệm trước NN về việc bảo toàn và phát

triển vốn do NN giao, và hoạt động theo luật DN.

Trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và

hội nhập quốc tế, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: DNNN giữ vị trí nòng cốt

trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để NN định hướng và điều tiết vĩ

mô nền kinh tế; Thực hiện vai trò nòng cốt trong nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong việc đầu tư ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ

thuật hiện đại vào sản xuất, là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế;

Cung cấp sản phẩm dịch vụ trực tiếp phục vụ ANQP và các sản phẩm dịch vụ thiết

yếu cho xã hội mà thị trường không bảo đảm cung ứng; Đầu tư vào những ngành

mang tính chất mở đường mà các thành phần kinh tế khác không làm được, hoặc

làm không hiệu quả; Đầu tư vào những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt

khó khăn, vùng sâu, vùng xa...

Để phù hợp với thực tiễn, và phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế, Đảng

và NN Việt Nam luôn tiến hành các chính sách đổi mới, sắp xếp lại DNNN và cho

50

đến nay đã đạt được những kết quả đáng kể: Giảm nhanh về số lượng, từ khoảng

5.655 DN năm 2001 hiện còn khoảng 718 và mục tiêu của Chính phủ là đến năm

2020 còn khoảng 300. Tuy số lượng giảm mạnh, lĩnh vực, địa bàn thu hẹp, nhưng

DNNN có bước phát triển quan trọng về quy mô tài sản, doanh thu, lợi nhuận và

nộp ngân sách. Tính đến cuối năm 2016 các DNNN có tổng tài sản hơn 3 triệu tỷ

đồng, trong đó vốn chủ sở hữu hơn 1.5 triệu tỷ đồng, tương đương 80% GDP [157].

Khu vực DNNN đang chiếm 45% tổng vốn đầu tư, 70% viện trợ phát triển chính

thức và sử dụng 60% vốn vay từ các ngân hàng thương mại, chiếm khoảng 30%

GDP hằng năm (chưa tính thu từ dầu thô của Tập đoàn Dầu khí) [101]; Mặc dù chỉ

chiếm 0,67% về số lượng nhưng DNNN đóng góp 85% sản lượng điện, 90% dịch

vụ viễn thông, 56% dịch vụ tài chính-tín dụng, 70% đầu mối xuất khẩu gạo [18] …

Và hiện đã xây dựng được nhiều DNNN có quy mô lớn, đóng góp quan trọng vào

ngân sách NN, cũng như đã và đang đóng góp quan trọng cùng NN thực hiện nhiều

chính sách xã hội…

* Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 khóa IX và Nghị quyết

Đại hội X của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả

DNNN. Tiếp theo đó là chủ trương: Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn,

tổng công ty NN là một trong ba trụ cột chính của mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế đã

được cụ thể hóa tại Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Qua

quán triệt và vận dụng các chủ trương Nghị quyết của Đảng về DNNN thì Chính

phủ, các bộ, ngành, địa phương, DN đã có nhiều giải pháp tích cực, đồng bộ, chỉ

đạo quyết liệt nên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó

vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém.

Để tiếp tục phát huy những thành tựu, đồng thời khắc phục những hạn chế

yếu kém. Trước yêu cầu hội nhập quốc tế và phát triển bền vững thì mục tiêu tổng quát của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới

và nâng cao hiệu quả DNNN, là DNNN: Tập trung vào những lĩnh vực then chốt,

thiết yếu; Những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; Những lĩnh vực mà

DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.

Với sự quyết liệt của Đảng, NN… DNNN đã ngày càng thích ứng với cơ chế

thị trường; Năng lực sản xuất tiếp tục tăng; Cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; Trình độ

51

công nghệ và quản trị có nhiều tiến bộ; Hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được

nâng lên; Đời sống của người lao động từng bước được cải thiện; Luôn là lực lượng

đi đầu trong việc bảo vệ môi trường sinh thái; Tham gia vào các hoạt động kinh tế

như một công cụ của NN, góp phần tạo ra ổn định kinh tế - xã hội, giúp NN đạt

được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Về cơ bản, các DNNN đã nắm giữ

những ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, quy mô vốn liên tục tăng, khẳng

định vai trò cụ thể của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Mặc

dù số lượng chiếm tỷ lệ trong khu vực DN thấp (khoảng 0,67%), nhưng DNNN vẫn

là nguồn thu lớn cho ngân sách NN, tốp 5 DN đóng góp thuế nhiều nhất trong các

năm gần đây đều là DNNN. Bên cạnh đó, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế lớn cho

đất nước, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển kinh tế mà còn góp

phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho nhân dân;

Đóng góp quan trọng cho ANQP, ASXH... Do đó, có thể nói:

Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công

cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô,

kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; Tạo nguồn thu

lớn cho ngân sách nhà nước; Đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát

triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế;

Thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng và chính sách an sinh xã hội [7].

Những hoạt động và kết quả đạt được cho thấy, DNNN dù chỉ là một bộ

phận của kinh tế NN nhưng lại là bộ phận chính yếu, là phương tiện, công cụ lực

lượng đi đầu mở đường cho phát triển kinh tế. Vừa là chủ thể tham gia kinh doanh

trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, đóng góp quan trọng vào thực hiện các mục

tiêu ASXH, ANQP. Vừa là lực lượng nòng cốt để NN dẫn dắt mở đường cho cho

các thành phần kinh tế cùng phát triển. Thực tiễn đó đã cho chúng ta thấy tầm quan

trọng của DNNN trong nền kinh tế - xã hội, tầm quan trọng đó cũng đã nói lên

TNXH mà các DNNN phải thực hiện. Do đó, theo tác giả thì các DNNN hiện nay

có 4 nhóm TNXH cơ bản sau: Trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm chính trị, trách

nhiệm đóng góp cùng NN thực hiện chính sách bảo đảm ASXH và trách nhiệm luôn

đi đầu nêu gương trong bảo vệ môi trường sinh thái.

Trách nhiệm về kinh tế: Với tư cách là lực lượng vật chất quan trọng của

kinh tế NN, do đó TNXH quan trọng nhất của các DNNN là phải hoạt động hiệu

52

quả để bảo toàn vốn và gia tăng nguồn lực kinh tế mà NN đã đầu tư cũng như kỳ

vọng của xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của DNNN

là điều kiện cơ bản để dẫn dắt phát triển các DN thuộc thành phần kinh tế khác,

khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và khu vực kinh tế tư nhân,

đảm nhận các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn thu lợi nhuận lâu vượt quá khả năng

của tư nhân, tham gia vào những lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, có hệ

số rủi ro cao, tham gia một số ngành có lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Thực

hiện tốt trách nhiệm này là điều kiện cơ bản bảo đảm DNNN thật sự trở thành

lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và

hội nhập quốc tế.

Trách nhiệm về chính trị: DNNN là lực lượng kinh tế vĩ mô, nên phải góp

phần tạo ra môi trường, tiền đề thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình

DN khác, lôi cuốn DN thuộc các thành phần kinh tế khác vào quĩ đạo đi lên chủ

nghĩa xã hội. Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược để phát triển kinh

tế - xã hội, nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến ANQP quốc gia,

tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để chủ động định hướng xã

hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực,

xăng dầu, sản xuất điện, khai thác khoáng sản quan trọng, một số sản phẩm cơ khí,

điện tử, công nghệ thông tin quan trọng, bảo trì đường sắt, sân bay,...).

Trách nhiệm góp phần cùng NN thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã

hội: Song song với hiệu quả kinh tế, DNNN còn đảm nhận những ngành ở những

địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không đầu tư cũng như

không muốn đầu tư, thực hiện bảo đảm cân bằng đầu tư phát triển theo vùng, miền,

đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu để bình ổn giá cả thị

trường, làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội

như: Giải quyết việc làm, tạo thu nhập cao cho lao động, đóng góp cho ASXH, đi

đầu và làm gương trong việc chấp hành pháp luật nói chung...

Trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên: Trước tác động của biến đổi khí

hậu cùng với xu hướng phát triển "xanh" bền vững. Vậy, DNNN phải là lực lượng

53

đi đầu trong việc đầu tư ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại, phải là lực

lượng luôn nêu gương trong việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường.

Và cụ thể hóa 4 nhóm TNXHDNNN nêu trên vào TNXHDN nói chung qua

thực tiễn Việt Nam, thì DNNN trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay có các

TNXH cơ bản như sau:

- Trách nhiệm kinh doanh hiệu quả nhằm bảo toàn và phát triển vốn, tạo cơ

sở vật chất quan trọng góp phần điều tiết và định hướng nền kinh tế phát triển bền

vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

- Trách nhiệm trong việc kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và tăng

cường củng cố sức mạnh quốc phòng - an ninh của đất nước.

- Trách nhiệm đóng góp thực hiện an sinh - xã hội.

- Trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.

Xem xét cả trên phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, nếu không

có một lực lượng kinh tế đủ mạnh làm công cụ và chỗ dựa thì việc lựa chọn con

đường phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa - nền kinh tế độc

lập, tự chủ khó có thể thực hiện được, đồng thời cũng khó giải quyết tốt các vấn đề

ASXH, xây dựng củng cố sức mạnh ANQP, bảo vệ môi trường sinh thái. Chính vì thế

mà thành phần kinh tế NN nói chung, DNNN nói riêng, có những trách nhiệm đặc biệt

quan trọng đối với xã hội. Để phát huy những trách nhiệm đặc biệt này, DNNN không

chỉ là công cụ trong tay NN mà cao hơn, phải trở thành hình mẫu tổ chức sản xuất, kinh

doanh có hiệu quả, hơn hẳn các DN dựa trên các loại hình sở hữu khác.

* Những yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với việc thực hiện trách nhiệm xã

hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc

tế và trong nước hoàn toàn khác trước, kể cả giai đoạn từ khi Việt Nam gia nhập WTO.

Do đã gia nhập và đang đàm phán gia nhập nhiều tổ chức, các hiệp định thương mại tự

do (FTA), Hiệp định đối tác thương mại - đầu tư xuyên Đại Tây Dương Hoa Kỳ - EU

(TTIP), Khuôn khổ đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP)… Do đó, hội nhập quốc tế

đang đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới cho DN trên tất cả mọi mặt (kể cả

TNXHDN), một trong những yêu cầu hết sức cơ bản là phát triển bền vững, sáng tạo

và ứng phó với các thách thức toàn cầu.

54

Thách thức lớn và trực diện nhất của Việt Nam hiện nay là sức ép cạnh tranh

gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: Sản phẩm, DN và quốc gia. Các sản phẩm và DN sẽ phải

cạnh tranh với sản phẩm và DN nước ngoài không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay

trên thị trường nội địa. Để cạnh tranh và thắng thế cạnh tranh thì DN nói chung và

DNNN nói riêng cần đổi mới, sáng tạo để cạnh tranh bằng các công đoạn mang lại giá

trị gia tăng cao hơn. Cùng với đó là phải trang bị đầy đủ các thông tin cơ bản về thị

trường và những yêu cầu của các tổ chức khi DN tham gia.

Dưới góc nhìn của tác giả, để giải quyết sức ép cạnh tranh thì DN cần phải nhận

thức và thực hiện đầy đủ các nguyên tắc TNXHDN theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế

hiện tại. Vì vậy, cần phải nhận diện xem hội nhập quốc tế có những yêu cầu gì về

TNXH cho các DNNN và theo tác giả thì yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với việc

thực hiện TNXH của các DNNN ở Việt Nam hiện nay là:

Một là: Yêu cầu DNNN phải bảo toàn vốn và mở rộng sản xuất:

Đây là yêu cầu cơ bản nhất của các DNNN, nó là cơ sở và tiền đề để giữ vững

độc lập tự chủ, góp phần thực hiện các TNXH.

Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, con đường phát triển không thể nào

khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế, tiến

trình này vừa mang lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Với Việt Nam, khi

hòa vào thế giới phẳng cạnh tranh gay gắt có thể khiến nhiều DN và ngành kinh tế

gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, và nếu không tự chủ động, thì tất yếu sẽ gây

nhiều hậu quả về mặt kinh tế - xã hội.

Nhận thức thực tế đó, Đại hội XI cho đến nay Việt Nam luôn nhấn mạnh: "xây

dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Độc lập, tự chủ và

hội nhập quốc tế là hai mặt của mối quan hệ biện chứng tồn tại trong suốt thời kỳ quá

độ, không có độc lập, tự chủ, quốc gia sẽ trở thành công cụ trong tay các quốc gia khác,

hậu quả là dân tộc bị chèn ép, bóc lột, thua thiệt. Còn nếu cô lập thì sẽ bị thiệt thòi về

các phương diện mức sống, trình độ khoa học, kỹ thuật và tốc độ phát triển. Do đó, nền

kinh tế độc lập, tự chủ trong thế giới ngày nay phải là nền kinh tế có năng lực độc lập,

tự chủ trong mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác theo nguyên tắc thị trường.

Để nền kinh tế có năng lực độc lập, tự chủ thì phải phát triển bền vững nền kinh

tế quốc dân dựa trên hệ thống DN mạnh và đường lối điều hành kinh tế nhanh nhạy của

55

chính phủ thích nghi với những biến đổi của kinh tế thế giới. Hai chân: DN và NN

cùng vững mạnh thì Việt Nam mới có thể tiến bước vào thị trường thế giới một cách

sâu, rộng, hiệu quả. Và do "DNNN giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất

quan trọng của kinh tế NN" [7], nên DNNN gánh trách nhiệm cực kỳ quan trọng đối

với xã hội. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DNNN hoạt động theo phương

thức hạch toán kinh doanh, NN không tiếp tục bao cấp, để duy trì và phát triển thì các DN

phải bảo toàn, giữ gìn số vốn được NN đầu tư, tức là kinh doanh ít nhất phải đảm bảo hoà

vốn, bù đắp được số vốn bỏ ra để tái sản xuất giản đơn, và tái sản xuất mở rộng.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết của DN đóng góp cho việc

phát triển kinh tế bền vững thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống

của người lao động và các thành viên trong gia đình họ, theo cách có lợi cho DN, cũng

như sự phát triển chung của xã hội. Tuy nhiên, với DNNN, TNXH không chỉ dừng lại

ở đó. Trong nền kinh tế thị trường, NN điều tiết nền kinh tế thông qua sử dụng các

công cụ điều tiết. Trong đó, DNNN là công cụ đặc biệt quan trọng: Nó vừa là chủ thể

trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng nòng cốt để NN dẫn dắt mở

đường cho cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Là chủ thể kinh tế, các DNNN

phải hoạt động hiệu quả để đóng góp tích cực cho ngân sách NN, gia tăng nguồn lực

kinh tế cho NN; Là lực lượng kinh tế vĩ mô nó phải góp phần tạo ra môi trường, tiền đề

thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình DN khác, lôi cuốn các DN thuộc

các thành phần kinh tế khác vào quĩ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, DNNN ở Việt

Nam hiện nay phải bao gồm 4 nhóm TNXH như trên đã khái quát. Và để nâng cao

hoàn thiện "công cụ" hội nhập kinh tế quốc tế, thì nhiệm vụ cơ bản nhất mà DNNN

phải thực hiện đó là tuân thủ những nguyên tắc TNXHDN theo những thông lệ quốc tế.

Hai là, trong thế giới phẳng "siêu cạnh tranh" nên yêu cầu DNNN phải nâng

cao khả năng cạnh tranh:

Là cơ sở để phát huy hiệu quả nhằm tạo các tiền đề vật chất cho DN thực hiện

tốt các TNXH của mình.

Tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới ngày một sâu rộng,

và việc tuân thủ thực hiện những "nguyên tắc" trong các hiệp định, thỏa ước quốc tế

mà Việt Nam đã ký kết là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, TNXHDN cũng không nằm

ngoài yêu cầu đó: Bởi lẽ, nếu DN không tuân thủ TNXH thì không thể gia nhập các tổ

56

chức kinh tế quốc tế cũng như khu vực, hàng hóa sẽ không thể tiếp cận được với thị

trường thế giới. Và nhìn sâu xa hơn trong xu thế toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế,

nếu DN chỉ biết giữ chữ "tín" theo quan niệm truyền thống, chỉ biết tham gia vào hoạt

động nhân đạo, từ thiện… thì chưa đủ. Vì mấy lý do cơ bản sau:

- Ngày nay môi trường kinh doanh đã và đang thay đổi cơ bản với tốc độ nhanh

chóng, trong hoàn cảnh đó DN muốn tồn tại và phát triển phải biết tuân thủ luật pháp,

hành động theo các bộ quy tắc ứng xử (CoC) và không vướng phải các rào cản thương

mại đang được dựng lên một cách dày đặc.

- Độ dài về vòng đời sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phụ thuộc nhiều vào mức

độ phù hợp giữa sản phẩm với nhu cầu đa dạng, ngày càng cao của nhiều nhóm người

tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu.

- Sự thay đổi nhanh chóng "cách thức tiêu dùng", cũng như sự mở rộng "cơ hội

lựa chọn hàng hóa" của người tiêu dùng.

- Hoạt động kinh doanh của DN luôn va đập với nhiều đức tin, thói quen, tập

quán tiêu dùng, các điều cấm kỵ của các tôn giáo khác nhau trên toàn cầu.

- Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt ở mọi phân khúc thị trường, trong khi

đó sự chi phối của các tập đoàn xuyên quốc gia ngày càng mãnh liệt.

- Việc thỏa thuận, liên kết giữa các quốc gia theo từng khu vực, từng vùng, từng

tuyến trong các thỏa thuận song phương và đa phương ngày càng chặt chẽ.

Với những lý do đó, "TNXHDN trong kinh doanh" ở từng quốc gia đã được mở

rộng và nâng cấp lên một tầm cao mới, phù hợp với chuẩn mực "đạo đức toàn cầu",

đang là một phần của "luật chơi" trong nền kinh tế thế giới. Vì vậy, để hội nhập và

cạnh tranh, buộc các DN phải hòa vào "luật chơi" đó, tức là phải thực hiện nghiêm túc

các yêu cầu TNXH mang những thông lệ quốc tế. Ví như Việt Nam là thành viên chính

thức của WTO, nên phải chấp nhận "luật chơi" WTO. Trong đó, đẩy mạnh thực hiện

TNXH là một vấn đề bắt buộc, nó không chỉ trên bình diện DN mà còn cả trên bình

diện ngành, địa phương, quốc gia.

Từ những hiệp ước, hiệp định, thỏa ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết như

WTO, AEC, TTP, E-FTA… dễ nhận thấy xu thế toàn cầu về TNXHDN. Tham gia vào

các công ước quốc tế liên quan đến quyền con người, lao động việc làm, môi trường

sinh thái, chống bán phá giá, về mua sắm của chính phủ, chống tham nhũng… thì DN

57

đóng vai trò "chủ thể" còn quốc gia chỉ là người "đại diện" để ký hoặc thông qua các

cam kết, điều ước quốc tế. Và khi gia nhập các tổ chức đó, các loại rào cản thương mại

dần bị loại bỏ (hiện ngày càng ít hơn) để thúc đẩy cạnh tranh diễn ra tự do, và để duy trì

được nền thương mại tự do đó, một hệ thống các nguyên tắc làm nền tảng cho các hoạt

động ổn định, lâu dài và tạo căn cứ để buộc các quốc gia thành viên phải tuân theo. Với

những yêu cầu đó, Việt Nam sẽ điều chỉnh, sửa đổi các chính sách, luật pháp và quy

định để phù hợp với các nguyên tắc và các cam kết của các tổ chức tham gia (trong đó

quan trọng nhất là luật đầu tư và luật DN). Còn DN phải tuân thủ thực hiện các hiệp

định, thỏa ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết (mặc nhiên có TNXHDN), DN muốn

phát triển bền vững nhất thiết phải xây dựng một chiến lược thực hiện TNXH một cách

bài bản, phù hợp với những chuẩn mực, quy tắc ứng xử quốc tế. Đây là khía cạnh đòi

hỏi các nhà hoạch định chính sách cũng như các doanh nhân cần mở rộng tầm nhìn, do

đó các chuẩn mực kinh doanh cũng như nhận thức về các chuẩn mực kinh doanh cũng

cần được thay đổi theo những tiêu chuẩn mang tính quốc tế.

Chính do áp lực của cạnh tranh quốc tế, minh bạch hoá, mở cửa để hội nhập chủ

động và sâu rộng, các cam kết quốc tế đã tạo ra những ràng buộc phải điều chỉnh cơ

bản tư duy và phương thức kinh doanh. Đó là một trong những cơ sở quan trọng đem

lại những thành tựu đầy ấn tượng trong phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam thời

gian qua, trong đó đáng ghi nhận là sự thay đổi từ nhận thức đến cách thức DN thực

hiện trách nhiệm của mình đối với xã hội. Kết quả là đã làm thay đổi căn bản hình ảnh

Việt Nam trên trường quốc tế, giúp duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu quả

mọi nguồn lực, trước hết là nguồn nhân lực, tạo nhiều công ăn việc làm, nâng cao dân trí,

cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, và tiếp theo là cơ hội để mở rộng thị

trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri

thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác. Đồng thời chính những yêu

cầu và áp lực của những "quy tắc ràng buộc" là cơ sở và động lực để thúc đẩy loại bỏ triệt

để tư duy bao cấp của NN, loại bỏ thái độ trông chờ, ỷ lại, sẵn sàng trải nghiệm và thay đổi

tư duy thụ động của những người đại diện các DNNN. Và đó cũng chính là cơ sở để hình

thành những tiêu chuẩn mới cho những người đại diện các DNNN như: Năng động, sáng

tạo và nhạy bén; Có khả năng kết nối quan hệ và tạo dựng vị trí trong chuỗi giá trị toàn

cầu; Bảo đảm chuẩn mức đạo đức nghề nghiệp và thực hiện TNXH…

58

Tóm lại, khi "đạo đức toàn cầu" được thể hiện trong kinh doanh của một DN,

của cả cộng đồng DN sẽ đảm bảo xử lý hài hòa lợi ích giữa cái riêng và cái chung, giữa

quyền lợi của ông chủ và người làm thuê, giữa trước mắt và lâu dài, giữa quyền lợi DN

với lợi ích quốc gia, giữa lợi ích của một nước với sự an toàn của cả hành tinh… Nói

một cách khác, sự tồn tại và phát triển của một DN phải đóng góp vào sự phát triển bền

vững của cộng đồng và cả xã hội. Ngược lại, sự phát triển bền vững của xã hội sẽ tạo ra

môi trường an lành cho hoạt động kinh doanh của DN. Quan hệ qua lại này phải được

thiết lập trên phạm vi toàn cầu. Nếu DN nào ý thức được và hành xử theo tiêu chí của

"đạo đức toàn cầu", thì sẽ đem lại lợi ích cụ thể cho bản thân DN đó, cũng như quốc

gia của DN đó.

Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và

cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Việt Nam vẫn là nền

kinh tế mới nổi, còn non trẻ nên việc hội nhập chắc chắn ít nhiều sẽ làm tổn thương nền

kinh tế đó.

Một trong những thách thức lớn chính là việc thực hiện TNXHDN liên quan

đến một số nội dung chủ yếu thuộc lĩnh vực lao động và môi trường, thông qua những

"Bộ Quy tắc ứng xử" (COC) quốc tế. Như về lao động: Thách thức lớn và dễ thấy mà

NN nói chung DNNN nói riêng phải có trách nhiệm giải quyết, đó là lao động dôi dư

khi sắp xếp cổ phần hóa các DNNN, cũng như cuộc Cách mạng với nền tảng công

nghệ 4.0 đang đặt ra những thách thức đối với trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao

động còn thấp, tay nghề và các kỹ năng mềm khác còn yếu... Cùng với đó là một số

luật, văn bản dưới luật thay đổi không theo kịp sự thay đổi của thế giới; Các bộ luật còn

có tình trạng trùng lắp - mâu thuẫn; Luật pháp thì rõ ràng nhưng thi hành lại là vấn đề

khác ở từng địa phương; Pháp luật cũng đã ban hành các khung pháp lý, các chế tài xử

phạt những DN, tổ chức kinh tế vi phạm như: Nặng thì rút giấy phép kinh doanh và

cấm hoạt động, còn nhẹ thì phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nhắc nhở, khiển trách…

Song, theo nhận định chung của các chuyên gia nghiên cứu về phát triển thì những hình

thức kỷ luật, xử phạt theo pháp luật hiện hành còn quá nhẹ và chưa xứng đáng nếu so

sánh với những hậu quả để lại không chỉ đời nay, mà còn nhiều thế hệ sau này vẫn tiếp

tục hứng chịu.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vấn đề tất yếu đi liền với kinh doanh ở

các nước phát triển, nhưng ở Việt Nam nhận thức của phần lớn DNNN về TNXHDN

59

chưa đầy đủ, DN chỉ hiểu đơn thuần là làm từ thiện trích từ lợi nhuận mà chưa hiểu

việc thực hiện TNXH phải được tích hợp ngay trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của

DN, DN chưa xem nó là hoạt động mang tính chiến lược…

Xét về quy mô, thì phần lớn DNNN thuộc loại DN vừa và nhỏ, thiếu vốn, thiếu

kinh nghiệm quản lý và hội nhập, trang thiết bị lạc hậu… Những khó khăn đó cũng là

rào cản cho đầu tư ứng dụng những thành tựu khoa học để thực hiện được các chứng

chỉ trong bộ quy tắc ứng xử - TNXHDN theo các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.

Là nước có nguồn lao động dồi dào, có ưu thế về khả năng cạnh tranh của

những ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, thuỷ sản, hàng thủ

công mỹ nghệ… Tuy nhiên, với chính sách đào tạo nghề, về ý thức lao động thì nguồn

lao động vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế…

Những thách thức đó, nếu những người đại diện quản lý DNNN không nhận

thức đầy đủ, thiếu tinh thần vượt khó, thiếu trách nhiệm thì nó sẽ là lực cản, trở nên bất

lợi đi ngược xu hướng phát triển bền vững. Nó trở thành những kẻ hở để các DN lợi

dụng nhằm phục vụ lợi ích riêng, vi phạm các chuẩn TNXH.

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH

NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG

QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bên cạnh yêu cầu tất yếu khách quan buộc các DN phải tuân thủ thực hiện

những "nguyên tắc" trong các hiệp định, thỏa ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết khi

hội nhập vào nền kinh tế thế giới ngày một sâu rộng như trên đã đề cập. Thì DNNN

thực hiện các TNXH còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác.

2.3.1. Tác động của chủ trương, đường lối của Đảng và những chính

sách, pháp luật của Nhà nước

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trong đó NN có vai

trò quyết định mọi hoạt động của đời sống xã hội, sang kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng thế giới nên những quy định pháp luật,

được xây dựng từ các quy tắc ứng xử theo thông lệ quốc tế đang được sử dụng với

vai trò là chế tài đối với những hành vi sai phạm của các DN. Bên cạnh đó, cộng

đồng xã hội, các hiệp hội ngành, nghề; Các cơ quan bảo vệ môi trường, bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng, người lao động, người tiêu dùng,... cũng đang nỗ lực hết

60

sức mình để làm thay đổi hoạt động kinh doanh của họ dưới những góc độ khác

nhau, bao gồm mục tiêu kinh doanh, sự minh bạch thông tin, các tiêu chuẩn hành vi,

ứng xử với các đối tác có liên quan…

Mặc dù, TNXHDN ở Việt Nam mới chỉ được nhận thức bước đầu, vẫn còn

nhiều hạn chế. Tuy nhiên, tác giả luận án tin rằng TNXHDN sẽ thay đổi ngày càng

thực chất hơn trước những yêu cầu của hội nhập quốc tế như trên đã phân tích, cùng

với sự hoàn thiện của bộ máy quản lý NN, khung pháp luật, những tác động của thể

chế kinh tế thị trường và các tổ chức xã hội dân sự.

Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị

trường, trong bối cảnh "siêu cạnh tranh". Do vậy, những chủ trương, đường lối của

Đảng và những chính sách, pháp luật của NN phù hợp với thực tiễn quốc gia và

quốc tế có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết: Một mặt là để ngăn chặn, hạn chế

các tác hại do hoạt động của DN gây ra, can thiệp để giúp đỡ các DN, doanh nhân

thành đạt trong DN của họ, mặt khác giúp DN chủ động hội nhập quốc tế. Đó là

điều kiện cơ bản để quốc gia hùng mạnh theo tinh thần "dân giàu, nước mạnh". Với

những chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để các DN phát triển, từ việc tạo

môi trường kinh doanh bao gồm xây dựng và ban hành các luật về DN, tạo thuận lợi

trong cấp giấy phép, tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh đến cung cấp thông tin,

hỗ trợ công nghệ, tín dụng và đào tạo nguồn nhân lực quản lý cho DN… Hơn nữa,

DN là nơi sản xuất sản phẩm, cung ứng cho thị trường các hàng hoá, dịch vụ đáp

ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của cuộc cạnh tranh toàn cầu. Vì vậy, NN phải tập

trung nỗ lực tạo đà, tạo thế cho DN, tạo môi trường pháp lý, quyết định thể chế,

chính sách khuyến khích, trợ giúp; Tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức hết lòng phục vụ DN, chăm lo cho DN bảo đảm mọi thể chế, chính sách

đều hướng về DN mà phục vụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DN, không

để DN đơn thương độc mã trong cuộc chiến cam go này. Đó là những cơ sở thuận

lợi cho DN hoạt động và hoạt động có hiệu quả trong khuôn khổ luật pháp.

Đường lối đổi mới từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-

1986) là bước đột phá trong đổi mới tư duy của Đảng về mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Và xuyên suốt các kỳ Đại hội,

Việt Nam luôn khẳng định: "… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; Tăng

61

trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện

môi trường" [47, tr.88-89].

Đến Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng bổ sung và phát triển một

bước quan trọng, cụ thể là:

Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước,

ở từng lĩnh vực, địa phương; Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay

trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách

xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và

hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế -

xã hội; Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc [50, tr.101].

Có thể nói, quy định từ những chủ trương, đường lối của Đảng và những

chính sách, pháp luật của NN là cơ sở, là nền tảng để ràng buộc các DNNN phải

hướng tới và phải thực hiện nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, và cũng

đồng thời là cơ sở ràng buộc để DN thực hiện các TNXH. Các nhà quản lý DN khi

đã tuân thủ các chủ trương và những quy định từ pháp luật của NN thì sẽ tạo được

môi trường pháp lý, trong đó các DN hoạt động theo một mục tiêu đúng đắn, tạo

môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng, thông thoáng và tạo sự gần gũi giữa

các DN với nhau. Đồng thời, những chủ trương đường lối của Đảng và những chính

sách pháp luật còn là phương tiện để NN quản lý kinh tế. Thông qua pháp luật, NN

hoạch định các chính sách kinh tế, trật tự hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh

của các tổ chức và cá nhân, định hướng các quan hệ kinh tế phát triển theo những

mục đích mong muốn.

Pháp luật là công cụ hữu hiệu giúp NN khắc phục các nhược điểm của nền

kinh tế thị trường, tạo ra công bằng xã hội. Là công cụ giúp NN giải quyết có hiệu

quả các tranh chấp kinh tế nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Quy định và điều

chỉnh hoạt động của các DN theo những thông lệ quốc tế…

Pháp luật có tác dụng tạo dựng môi trường pháp lý cho các hoạt động kinh tế

của các tổ chức và cá nhân được tiến hành thuận lợi, có trật tự và đạt hiệu quả kinh

tế cao. Giúp cho DNNNN vươn lên hoạt động có hiệu quả hơn, để cùng cạnh tranh

lành mạnh với các thành phần kinh tế khác.

62

Ở Việt Nam, các chủ trương đường lối của Đảng và những chính sách, pháp

luật của NN quy định liên quan đến hoạt động của DNNN nói chung và ràng buộc

việc thực hiện TNXH ngày càng khoa học rõ ràng, chặt chẽ hơn. Và chúng được cụ

thể hóa trong các luật và văn bản dưới luật (Xem phụ lục 4).

Bên cạnh những mặt mạnh trong định hướng và điều chỉnh các hoạt động của

DNNN theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển và phát triển bền

vững, là công cụ điều tiết của NN. Thế nhưng vẫn tồn tại những yếu kém nhất định:

- Mặc dù hệ thống luật pháp đã được đổi mới và xây dựng lại một cách sâu

rộng, từ Hiến pháp đến hệ thống luật, nghị định… Song nó vẫn còn thiếu đồng bộ,

giữa các luật được chuẩn bị bởi các Bộ khác nhau, được ban hành vào những thời

điểm khác nhau còn không ít chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Việc thực thi luật

pháp còn có nhiều vấn đề phải đổi mới, khoảng cách giữa luật trên văn bản và luật

trong thực tế còn lớn. (Như vụ công ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải nhưng

không được xử lý nghiêm minh kịp thời. Có tới bốn Bộ chịu trách nhiệm về chất

lượng thực phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ

Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế), nhưng trách nhiệm chưa phân định rõ ràng. Đây

là kẻ hở để tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, về môi trường vẫn còn

khá phổ biến).

- Do phát triển nhanh, quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng nên nội dung

của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường, ANQP, đối

ngoại… chưa hội đủ các yếu tố phát triển bền vững. Chẳng hạn, pháp luật về kinh tế

hiện nay chủ yếu thiên về những vấn đề ổn định và phát triển kinh tế trong thời gian

trước mắt chứ chưa định hướng phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, nhằm đáp ứng

nhu cầu của tương lai; Còn thiên về tăng trưởng kinh tế mà chưa quy định đầy đủ

các vấn đề về bảo đảm tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, về khai thác, sử dụng hợp

lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển

kinh tế với bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Pháp luật quy định về vai trò, trách nhiệm của DNNN trong nền kinh tế; Tổ

chức quản lý và hoạt động DNNN; Quản lý vốn DNNN; Chất lượng nhân sự và

trách nhiệm của lãnh đạo DNNN; Giải quyết vấn đề chính sách ưu đãi cho người

63

lao động và tổ chức công đoàn tại DN khi cổ phần hóa; Vấn đề đất đai trong quá

trình cổ phần hóa… Pháp luật về môi trường chưa kết hợp được một cách chặt chẽ,

hợp lý, hài hòa giữa khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng và

bảo vệ môi trường với việc phát triển kinh tế, xã hội; Vừa chưa có các quy định về

giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi

trường; Tính răn đe chưa cao… chưa phù hợp với thực tiễn phát triển DNNN trong

điều kiện kinh tế thị trường. Với những hạn chế đó sẽ là những kẻ hở để nhiều

DNNN lợi dụng làm trái và phớt lờ thực hiện TNXH.

2.3.2. Tác động từ nhận thức của chủ thể các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là yếu tố có tầm quan trọng, là chiến lược

cần thiết phải có đối với bất kỳ doanh nhân, DN nào hướng tới mục tiêu hội nhập và

phát triển bền vững. Đối với DN lớn trên thế giới, thì nó rất quen thuộc và được hoạch

định rất rõ ràng, cụ thể. Đó là những "chiến lược" liên quan đến đạo đức kinh doanh,

sáng tạo, mang đến những giá trị cho cộng đồng. Tuy nhiên, với các DN Việt Nam nói

chung và DNNN nói riêng nó chỉ mới bắt đầu, song đã có nhiều DN tiếp cận và đang

thực hiện ngày một tốt hơn. Chính áp dụng TNXH đã mang lại những kết quả khả quan

và cũng đã tạo nên những thương hiệu mạnh trên thương trường. Do đó, có thể nhận

thấy, nhận thức và thực hiện TNXH đang có những thay đổi theo chiều hướng ngày

càng tích cực hơn.

Với xu thế "làm ăn với thế giới", DNNN Việt Nam đang trong quá trình hội

nhập các chuẩn mực hành xử, trong đó việc tuân thủ một số quy tắc kinh doanh có

trách nhiệm với xã hội mang tính quốc tế đóng vai trò là điều kiện tiên quyết. Do

vậy, các tiêu chuẩn về TNXHDN buộc các DN cần phải nỗ lực đầu tư, nỗ lực cải

tiến, nỗ lực chứng minh.

Các tổ chức quốc tế một mặt gây sức ép, nhưng mặt khác cũng hỗ trợ tích cực

các DN Việt trong thực hiện TNXH thông qua các hoạt động: Chia sẻ thông tin và kinh

nghiệm trong nước và quốc tế trong thực hiện TNXHDN; Tư vấn, đào tạo về

TNXHDN; Quảng bá các hình ảnh, mô hình áp dụng thành công TNXH; Hỗ trợ về tài

chính; Tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với TNXHDN. Bên cạnh

đó, các tổ chức phi chính phủ cũng hỗ trợ tích cực quá trình thực hiện TNXH cho các

DN thông qua các hội thảo, các khóa đào tạo, tư vấn thông qua các diễn đàn…

64

Trước áp lực, cạnh tranh, cùng với việc hỗ trợ, hầu hết các DNNN lớn đã

nhận thức rõ là kinh doanh gắn liền với TNXH không chỉ giúp nâng cao khả năng

cạnh tranh của DN trên con đường hội nhập mà còn là động lực góp phần thúc đẩy

tăng trưởng và thịnh vượng ở mỗi quốc gia. Không chỉ cải thiện hình ảnh DN trong

mắt công chúng và người dân địa phương mà còn giúp DN thực hiện các thủ tục

đầu tư thuận lợi hơn, năng suất và doanh thu bán hàng tăng, nâng cao uy tín và

thương hiệu, thu hút nhiều lao động giỏi, bảo vệ tốt môi trường tự nhiên. Là yếu tố

góp phần vào sự phát triển bền vững của các DN, đồng thời mang lại lợi ích cho xã

hội, nâng cao và duy trì lợi thế cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế. Đó là

những cơ sở khá quan trọng để chủ thể các DN nói chung, DNNN nói riêng phải

thực hiện TNXH trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

Từ thực tế đó, đã có nhiều chương trình được thực hiện như tiết kiệm năng

lượng, giảm khí thải carbon, sử dụng vật liệu tái sinh, năng lượng mặt trời, cải thiện

nguồn nước sinh hoạt, xóa mù chữ, xây dựng trường học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân

thiên tai, bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng,

đào tạo phát triển nhân viên... Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt

động này như: Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng Công ty Khoan và

Dịch vụ Dầu khí, Tổng công ty Khí Việt Nam, Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ

tầng Đô thị UDIC, Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (Saigontourist),…

Tuy nhiên, nếu xem xét tổng thể cộng đồng DN Việt nói chung và DNNN

nói riêng, thì sự am hiểu về TNXHDN còn rất nhiều khoảng trống. Mặc dù có

những hỗ trợ, nhưng nhìn chung thông tin về TNXHDN vẫn còn thiếu, vai trò định

hướng dẫn dắt TNXHDN chưa rõ ràng, có rất nhiều DN không được tập huấn, đào

tạo về vấn đề này của các tổ chức xã hội, các viện nghiên cứu… nên nhận thức và

hiểu biết, tiếp cận và áp dụng chưa đầy đủ. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc còn

nhiều cách hiểu, cách làm khác nhau gây lãng phí thậm chí làm sai lệch đi ý nghĩa

của TNXHDN. Cách hiểu phổ biến là đồng nhất giữa thực hiện TNXH với làm từ

thiện hay thực hiện TNXH là không bắt buộc khi nào có điều kiện thì làm và thậm

chí có nhiều lãnh đạo DN còn mượn tiếng TNXH để đánh bóng tên tuổi của mình

nhằm khỏa lấp những hành động thực tế đi ngược hoàn toàn với tinh thần TNXH.

Họ chỉ hiểu đơn thuần TNXH do áp dụng những hệ thống quy tắc ứng xử du

nhập từ quốc tế - nơi mặt bằng vật chất cao hơn so với mặt bằng vật chất của Việt

65

Nam nên họ e ngại áp dụng vì phải đầu tư tốn kém, lại thêm trình độ chuyên môn

nhân lực còn thiếu, công nghệ lạc hậu; Không ít DN thiếu quan tâm và ngần ngại

tiếp cận hoặc thờ ơ với những khóa học về TNXH…

Chính vì chưa hiểu hết vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ việc thực hiện

TNXH đem lại, nên nhiều DNNN đã không thực hiện nghiêm túc. Điều đó thể hiện

ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, sản xuất hàng kém chất lượng, cố ý gây ô

nhiễm môi trường để tối đa hóa lợi nhuận, vi phạm các quy định pháp luật về lương

bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động... đã và đang

làm mất lòng tin, gây bức xúc cho xã hội.

2.3.3. Tác động của các hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp

Tại Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh, trong đó

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là cơ sở pháp lý quan trọng nhất quy định

trách nhiệm của DN đối với người tiêu dùng. Cùng với đó là công tác tuyên truyền,

phổ biến pháp luật được thực hiện ngày càng đa dạng và phong phú; Đã hình thành

hệ thống cơ quan quản lý NN về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ trung ương tới

địa phương (hiện có hội bảo vệ người tiêu dùng địa phương). Ngoài ra, còn có các

hiệp hội ngành nghề trong từng lĩnh vực cụ thể, hiện có khoảng 990 tổ chức phi

chính phủ và hiệp hội kinh doanh hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam [135],

trong đó số lượng hiệp hội ngành nghề của Việt Nam hiện có 179 hội, hiệp hội và

liên hiệp [14].

Bên cạnh thực hiện chức năng phản biện xã hội, tham gia xây dựng văn bản

pháp luật phản ánh các bất cập, vướng mắc trong thực thi pháp luật, tuyên truyền,

phổ biến chính sách, pháp luật; Hướng dẫn, kiểm tra việc chấp hành luật pháp và

tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của hội viên; Phổ biến kiến thức, trao đổi thông tin về

kinh nghiệm nghề nghiệp, trợ giúp hội viên xây dựng các quy trình nghiệp vụ, các

tài liệu hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với quy định của pháp luật…

Thì các tổ chức này còn có vai trò là mang tính chất đại diện kêu gọi, bảo vệ quyền

lợi cho cộng đồng, dân cư cũng như người lao động, người tiêu dùng nói riêng hay

những nhóm người yếu thế trong xã hội nói chung; Thay mặt cộng đồng, người dân,

các tổ chức này đóng vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động quản lý

của NN, tiến tới xây dựng xã hội dân sự có chất lượng, thực sự phục vụ lợi ích cộng

66

đồng; Tư vấn, tuyên truyền và tổ chức tập huấn về quyền và nghĩa vụ trong từng

lĩnh vực pháp luật có liên quan đến TNXHDN, đặc biệt là đóng góp ý kiến cho việc

hoàn thiện chính sách, pháp luật về TNXHDN.

Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia công tác bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng đã có nhiều nỗ lực, cố gắng triển khai hoạt động, dần khẳng định

vai trò là cầu nối giữa người tiêu dùng với cơ quan quản lý NN và cộng đồng DN

nói chung và DNNN nói riêng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các quyền

của người tiêu dùng không chỉ được NN bảo vệ mà còn nhận được sự bảo vệ từ các

tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, các tổ chức chính trị, các hội tổ chức xã hội -

nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân (trong đó có bản thân người

tiêu dùng). Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt

trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có trách nhiệm tuyên

truyền, giáo dục, động viên nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng và thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động thúc đẩy DN thực hiện TNXH, thì các

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn những hạn chế nhất định nên mức tác động

chưa cao, như: Nhận thức về vai trò, vị trí của các hội chưa theo kịp yêu cầu mới

của đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế; Một số cấp Hội hoạt động không

hiệu quả, mang tính hình thức, thiếu sáng tạo, tiếng nói ở địa phương, ở ngành,… ít

có sức nặng, thậm chí không dám lên tiếng bảo vệ hội viên khi cần thiết, do sợ va

chạm, thiếu bản lĩnh và hiểu biết luật pháp; Thiếu chế tài và những quy định cụ thể

để thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên,

thành viên; Nội dung và phương thức hoạt động của một số hội, liên hiệp hội còn

nghèo nàn, lúng túng, có biểu hiện xơ cứng; Công tác điều hành, phối hợp thiếu

năng động, sáng tạo, chưa theo kịp xu thế phát triển; Đội ngũ cán bộ hoạt động

trong các hội, liên hiệp hội vừa thiếu, vừa yếu, thiếu kinh nghiệm và ít có cơ hội để

nâng cao trình độ chuyên môn; Nguồn kinh phí ít, không ổn định và do phải nhận

tài trợ từ các DN nên khả năng tác động tiêu cực đến hoạt động của hội.

2.3.4. Tác động của người lao động và người người tiêu dùng

* Tác động của người lao động

Người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, là

nhân tố cấu thành và có vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại

67

trong mọi công việc của DN. Nếu muốn tạo ra động lực làm việc tốt nhất cho người

lao động, và để họ thực sự trở thành tài sản có giá trị cao nhất trên bảng tổng kết tài

sản của DN, thì DN cần tạo ra cảm giác và thực sự mang lại cơ hội công bằng để

mỗi người lao động trở thành một đối tác của DN. Các DN kinh doanh đẳng cấp

quốc tế luôn nỗ lực xây dựng môi trường làm việc kích thích tinh thần người lao

động và phát triển cảm giác cho họ nghĩ mình như là người sở hữu DN, họ không

thuần tuý là người làm công ăn lương. Công cụ được sử dụng phổ biến là các chính

sách chia sẻ lợi nhuận, quyền mua cổ phần, tạo điều kiện thuận lợi để họ triển khai

các ý tưởng, tạo những điều kiện để phát triển lâu dài,…Thực chất đó là TNXHDN.

Mặc dù, người lao động là đối tượng xã hội chịu sự tác động từ các chính

sách của DN, phụ thuộc vào nhận thức người chủ về họ. Tuy nhiên, họ cũng có vai

trò tác động trở lại các chủ trương chính sách của DN, trong đó có tác động đến việc

thay đổi hoạt động nhận thức và thực hiện TNXH. Hay nói cách khác là họ có vai

trò quan trọng trong việc thúc đẩy các DN nhận thức và thực hiện TNXH.

Với Việt nam, lực lượng lao động dồi dào và chất lượng đã thay đổi ngày

một tốt hơn cả về năng lực chuyên môn cho đến kỹ năng mềm. Trong giai đoạn

cạnh tranh và phát triển kinh tế, người lao động đã được pháp luật, các hội tổ chức xã

hội nghề nghiệp… bảo vệ. Và do đang tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do

(FTA), trong đó một số hiệp định thương mại thế hệ mới như hiệp định Đối tác Tiến bộ

và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương CPTPP, hiệp định Thương mại tự do Việt Nam -

EU… Một trong những nội dung của các tổ chức này là yêu cầu rất cao về việc "đối

xử" với người lao động. Bởi lẽ đây là lực lượng trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng

hóa, dịch vụ trong thương mại, nên trước hết họ phải là người được hưởng lợi, được

chia sẻ thành quả. Và do hội nhập, phát triển người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn

môi trường làm việc tốt cho mình… Đó là những nguyên nhân buộc DN phải có những

chính sách, nhằm tạo những điều kiện tốt nhất để phát huy vai trò và giữ chân người

lao động. Đặc biệt là các DNNN không thể thờ ơ trước vấn đề TNXH nếu muốn thu

hút và giữ được nguồn lao động có chất lượng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động là một trong

những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của DN và do người lao động là một đối

tượng hữu quan đặc biệt, vừa là một bộ phận không thể tách rời của DN, vừa là một

68

lực lượng thành viên quan trọng của xã hội, nên chất lượng cuộc sống của họ cũng

thể hiện mức độ phát triển của xã hội.

Nhiều người lao động đã mạnh dạn đấu tranh với người sử dụng lao động để

đòi lại quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình hoặc khởi kiện ra tòa lao động các

cấp yêu cầu bảo vệ quyền lợi. Minh chứng thể hiện qua việc tăng lên nhanh chóng

của số vụ đình công trong thời gian qua. Tuy nhiên, đây cũng là biểu hiện bế tắc

trong quan hệ lao động, nhất là khi có xung đột về quyền và lợi ích giữa người lao

động và người sử dụng lao động mà không được giải quyết kịp thời.

Thế nhưng, bên cạnh những mặt đạt được thì người lao động còn có những

hạn chế trong việc tự bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình, và chính nó đã

làm hạn chế trong việc đấu tranh làm thay đổi nhận thức cũng như áp dụng những

vấn đề TNXH của các DN. Ví như do bản thân người lao động không nắm được

quyền tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là quy định

bắt buộc của NN, chưa nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc tham gia các

loại bảo hiểm đối với bản thân. Cá biệt một số người lao động còn cho rằng, việc

đóng bảo hiểm ảnh hưởng tới thu nhập bản thân khi đồng lương chưa cao, trong khi

họ còn phải chi phí nhiều khoản cho đời sống sinh hoạt.

Những kiến thức pháp luật hạn hẹp, lại không biết đường đi nước bước khi bị

"xâm phạm" hoặc ngại kiện cáo, các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người lao động

chưa phát huy hết vai trò của mình, thậm chí trong nhiều trường hợp không đồng

hành cùng người lao động trong đấu tranh… Do đó, họ không dám đấu tranh đòi

quyền lợi hợp pháp của mình vì sợ mất việc làm.

Do nền nếp, kỷ cương làm việc bị buông lỏng, việc phân loại công chức chưa

bảo đảm tính khoa học, khách quan, còn dựa trên cảm tình cá nhân, bè phái, dẫn đến

hậu quả sai lệch trong việc bố trí, sử dụng, quy hoạch và đề bạt cán bộ, không đáp ứng

đúng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Đấy cũng là nguyên nhân gây ra tình

trạng chán nản, bất bình đối với những cán bộ có năng lực, từ đó họ xin nghỉ việc ra

làm nơi khác, để được tự do thoải mái hơn chứ không muốn đấu tranh đòi hỏi.

Bên cạnh đó, dù chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp, mức thu nhập từ lương

của người lao động chưa đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình. Việc trả lương

còn nặng về chủ nghĩa bình quân "sống lâu lên lão làng", không phản ánh đúng năng

69

lực, nhất là chưa tương xứng với năng lực và kết quả làm việc của những người tài.

Thế nhưng, họ không có những cách thức đấu tranh nào để đòi hỏi quyền lợi...

Chính những nguyên nhân trên, nên còn nhiều DNNN thờ ơ, còn vi phạm

TNXH là điều khó tránh khỏi.

* Tác động của người người tiêu dùng

Người tiêu dùng chính là người mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ do các

DN cung cấp, đây là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại

của DN. Khi đưa bất kỳ một quyết định mua sắm nào, người tiêu dùng có quyền

được tự do tham khảo, chọn lựa sản phẩm mình muốn mua và sử dụng theo đúng

nhu cầu và mục đích của mình. Chính từ nhu cầu mua sắm, DN sẽ lên kế hoạch đưa

ra nhiều sản phẩm, dịch vụ đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao

của người tiêu dùng, đồng thời tăng tính cạnh tranh giữa các DN. Cùng với đó,

người tiêu dùng có thể đưa ra những ý kiến đóng góp hữu ích và chính xác về sản

phẩm và dịch vụ mà mình sử dụng. Tùy thuộc vào thị hiếu và ý kiến thu thập được

từ phía người tiêu dùng, DN có thể điều chỉnh lại phương pháp sản xuất, hoàn thiện

sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của họ. Chính lẽ đó, người tiêu dùng có vai trò

quan trọng trong việc thúc đẩy các DN thực hiện TNXH.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một xu thế mang tính toàn

cầu, đặc biệt là ở các nước phát triển như khối EU (cũ), Mỹ, Nhật, Canada, Úc…

Người tiêu dùng ở các quốc gia này không chỉ là "người tiêu dùng thông minh" mà

họ còn là những "người tiêu dùng nhân văn". Họ vừa quan tâm đến chất lượng, giá

cả sản phẩm, dịch vụ theo đúng nhận dạng của "người tiêu dùng" và nâng lên một

cấp: Đó là quan tâm đến phương thức DN làm ra các sản phẩm đó thế nào?. Họ muốn

biết rõ những sản phẩm họ dự định mua có thân thiện với môi trường sinh thái, có tốt

cho sức khỏe cộng đồng, lao động làm ra những sản phẩm này có được đối xử công

bằng, nhân đạo không?... Nhiều phong trào bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và môi

trường phát triển rất mạnh, chẳng hạn phong trào tẩy chay chất phụ gia gây ung thư

nhằm vào các công ty sản xuất bột ngọt, sản xuất sữa; Phong trào tẩy chay sản phẩm sử

dụng lông thú, tẩy chay sản phẩm bóc lột lao động trẻ em nhằm vào hãng Nike hay

Gap; Phong trào đòi công bằng cho người lao động nhằm bảo đảm điều kiện an toàn

lao động và giá mua nguyên liệu của nông dân ở các nước Thế giới thứ ba… Các

70

phong trào đó đã trở thành một trong những bài học để đời làm thay đổi hướng đi và

cách quản lý hình ảnh cho nhiều thương hiệu lớn trên thế giới, và ít nhiều cũng tác

động đến thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng Việt Nam, kể cả các DN.

Tại Việt Nam, ngày 31 tháng 7 năm 2009 Bộ Chính trị đã ra thông báo kết

luận số 264-TB/TW về tổ chức cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng

Việt Nam", đây là một cuộc vận động mang tính xã hội rộng lớn, mọi người, mọi nhà,

mọi tổ chức, cơ quan đều tham gia như là nhiệm vụ của tổ chức, của công dân trong xã

hội thể hiện lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Theo Điều 38 và Điều 43 Hiến pháp Việt Nam năm 2013: Mọi người có

quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; Có quyền được sống trong môi trường

trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc

sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng. NN có chính sách bảo vệ môi trường

[107]. Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện hành, người tiêu dùng có

8 quyền cơ bản. Đồng thời, tại Điều 9, Luật cũng quy định thêm 2 nghĩa vụ chính

của người tiêu dùng [106].

Năm 2014, tổ chức JICA (Nhật Bản) đã ký kết hợp tác với Cục Quản lý cạnh

tranh triển khai nhiều giải pháp thiết thực như: Tăng cường kiến thức cơ bản về

Luật Bảo vệ Quyền lợi người tiêu dùng đến các cơ quan quản lý, tổ chức, cá nhân;

Nâng cao năng lực tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng thông qua chương trình đào tạo

tại Nhật Bản; Xây dựng cẩm nang tư vấn...

Năm 2016, nhằm cụ thể hóa và tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến

pháp luật và các chính sách về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cũng như huy động,

tập trung sự quan tâm, hưởng ứng, tham gia của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 15/3 hàng năm là Ngày

Quyền của người tiêu dùng Việt Nam. Cùng với đó là các phương tiện truyền thông,

các mạng xã hội cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục,

phổ biến pháp luật và các chính sách về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…

Với các chủ trương chính sách và pháp luật đó, Việt Nam đã đạt được một số

kết quả tích cực trong củng cố nhận thức cho người tiêu dùng, hoàn chỉnh cơ sở pháp lý

và triển khai thực hiện các chủ trương chính sách, pháp luật của NN trong việc bảo vệ

quyền của người tiêu dùng, cả về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; Kiểm soát hợp đồng

theo mẫu, điều kiện giao dịch chung và giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng.

71

Người tiêu dùng "thông minh", họ không những là chân rết đầy trách nhiệm của

các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, mà còn là "tai, mắt" có tầm bao phủ rộng

khắp các cơ quan quản lý, bảo vệ môi trường, lao động, quyền con người… Người tiêu

dùng ý thức TNXHDN không chỉ bảo vệ lợi ích cho chính mình mà còn mang lại lợi

ích cho cộng đồng xã hội. Với nhận thức ngày càng cao đã tác động ít nhiều tới việc thực

hiện TNXH của các DN, cụ thể: Khuyến khích DN tăng cường công nghệ sản xuất xanh

và đạo đức kinh doanh; Quy chuẩn và minh bạch hóa các chỉ tiêu chất lượng; Phát triển

các dịch vụ hậu mãi thân thiện, tiện lợi, chất lượng cao... Mặt khác, DN muốn tồn tại,

phát triển phải thay đổi nhận thức, đánh giá lại những tác động từ các hoạt động sản xuất

kinh doanh của chính mình và phải chịu trách nhiệm, nghĩa vụ với những hành động của

mình đối với cộng đồng dân cư và rộng hơn là xã hội, chính phủ và môi trường ngay tại

nơi DN hoạt động hoặc tại nơi mà họ thu được lợi nhuận (thị trường).

Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa người tiêu dùng và DN, thông thường lợi

thế nghiêng về phía DN. Hiểu rõ thực tế này, luật pháp nhiều nước đã có những cơ

chế hết sức rành mạch và mạnh mẽ để bảo vệ người tiêu dùng. Cùng với đó là hoạt

động tích cực của các tổ chức xã hội, trong đó nòng cốt là các hội đóng vai trò đại

diện và bảo vệ người tiêu dùng cũng như không thể thiếu sự hiểu biết về pháp luật

và kinh nghiệm ứng xử của bản thân người tiêu dùng. Tuy nhiên, những vấn đề này

ở Việt Nam đều chưa đủ mạnh.

Luật pháp ở nhiều nước luôn tạo điều kiện, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

đơn giản, dễ dàng. Đồng thời có những chế tài nghiêm khắc, đủ sức răn đe đối với

các DN cố tình làm ăn gian dối, cố tình trốn trách nhiệm với khách hàng. Nếu sản

phẩm xâm hại đến người tiêu dùng, thì không chỉ có người sản xuất mà cả người

trực tiếp bán sản phẩm cũng bị truy cứu trách nhiệm. Đặc biệt, luật pháp không chỉ

yêu cầu bên gây ra thiệt hại phải bồi thường trực tiếp cho người tiêu dùng, mà còn

áp dụng nhiều hình phạt bổ sung nghiêm khắc khác để bảo đảm bản án mang tính

răn đe cao. Trong khi đó, ở Việt Nam pháp luật chưa hoàn thiện, phần lớn người

tiêu dùng chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm để tự bảo vệ mình, các hiệp hội

có chức năng… chưa hoạt động một cách hiệu quả, thủ tục khởi kiện rất phức tạp,

phải chờ đợi rất lâu mới được giải quyết và có khi tòa xử xong, người bị hại cũng

chẳng đòi được quyền lợi của mình. Đó là chưa kể nhà sản xuất, kinh doanh dịch vụ

thường có nhiều nguồn lực hơn để tìm nhiều cách xoay trở tình thế sao cho có lợi

72

nhất về họ… Việc liên kết để đấu tranh chống lại những việc làm sai trái của DN

vẫn chưa được thể hiện… Chính tinh thần, và những hành vi đó chưa đủ sức tác

động đến DN phải thực hiện TNXH một cách nghiêm túc.

Tiểu kết chương 2

Tác giả khái quát những vấn đề lý luận chung về TNXHDN; Về hội nhập

quốc tế và những tác động của nó đến việc thực hiện TNXHDNNN; Khái quát

những vấn đề về DNNN và nêu ra, phân tích những trách nhiệm mà DNNN phải

thực hiện đối với xã hội và nhận diện những nhân tố tác động đến việc thực hiện

TNXHDNNN.

Có thể nói, những vấn đề lý luận căn bản về TNXHDN nói chung và

TNXHDNNN nói riêng trong quá trình hội nhập quốc tế được trình bày trong

chương này là cơ sở để tác giả nghiên cứu phân tích những thành tựu, hạn chế và

nguyên nhân của nó trong việc thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian

qua và chỉ ra định hướng trong thời gian tới.

73

Chương 3

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

3.1. THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN

NAY - THÀNH TỰU VÀ NGUYÊN NHÂN

3.1.1. Thành tựu thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp

Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

* Thành tựu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong việc

kinh doanh hiệu quả nhằm bảo toàn phát triển vốn

Hiệu quả của các DNNN trong việc kinh doanh sẽ tạo cơ sở vật chất quan

trọng góp phần điều tiết và định hướng nền kinh tế phát triển bền vững theo con

đường xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

Quá độ lên chủ nghĩa xã ở Việt Nam "… là một quá trình cách mạng sâu

sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về

chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ

quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan

xen" [51, tr.70]. Xây dựng thời kỳ quá độ, chính trị đóng vai trò hàng đầu và chi

phối toàn bộ sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, định

hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ không chỉ

do định hướng chính trị chi phối, mà còn được chi phối bởi cơ sở kinh tế bên trong,

được bảo đảm bởi một kết cấu kinh tế mà trong quá trình vận động, tự nó có xu

hướng xã hội chủ nghĩa, và do đó, nó làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày

càng lớn mạnh lên. Và có thể khẳng định, một trong những nhân tố quan trọng làm

nhiệm vụ đó chính là các DNNN.

Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) từ đường lối, chính sách đúng đắn

của Đảng và NN, cùng với sự nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của toàn thể nhân dân nền

kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục ở mức khá. Đổi mới của Việt Nam là đổi mới

có nguyên tắc, trong đó nguyên tắc cơ bản hàng đầu là giữ vững mục tiêu, lý tưởng

74

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể đất nước, qua các Đại hội VI, VII, VIII, Đảng và

NN Việt Nam đều khẳng định xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và Đại hội

IX, X, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định xây dựng nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó

kinh tế NN đóng vai trò chủ đạo.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII:

Cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công

cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả cao các chính sách ổn định vĩ

mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; Tạo nguồn

thu lớn cho ngân sách nhà nước; Đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát

triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế;

Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội [7].

Có thể thấy chủ trương nhất quán và kiên định của Việt Nam là theo đuổi

mục tiêu và con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, trong đó kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo, DNNN giữ vị trí nòng cốt và là một

lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế NN.

Tuy nhiên, do có sự nhầm lẫn giữa NN và kinh tế NN nên có ý kiến cho

rằng: Chỉ có NN mới làm chức năng chủ đạo, chứ kinh tế NN thì không thể giữ vai

trò chủ đạo. Cũng do có sự đồng nhất giữa DNNN và kinh tế NN nói chung, nên có

ý kiến cho là DNNN không thể giữ vai trò chủ đạo được bởi nó có hàng loạt những

khuyết điểm trong hoạt động.

Ở đây, khi nói kinh tế NN thì nên hiểu có hai bộ phận cấu thành: DNNN và

kinh tế NN phi DN (đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, của cải,

tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách NN, các quỹ quốc gia). Thành phần kinh tế

không chỉ bao hàm giác độ sở hữu, mà còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh

hợp tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Do

đó, thành phần kinh tế NN không chỉ bao hàm DNNN, mà còn bao hàm sức mạnh

kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của NN, bao hàm

khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của NN, bao hàm sự gắn kết

75

hợp lý của hệ thống DNNN, tài chính NN, luật pháp và hiệu lực quản lý của NN.

Kinh tế NN không làm chức năng quản lý của NN, nhưng chính nó là công cụ quan

trọng, là sức mạnh kinh tế mà NN nắm lấy và đưa vào để làm chức năng quản lý

của mình. Trong hai bộ phận cấu thành đó, DNNN là bộ phận trụ cột nhất, và

DNNN như một công cụ, một thực lực kinh tế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị

trường, qua đó NN thực hiện các chức năng xã hội của mình, đó là lực lượng nòng

cốt trong phát triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng đều

tiên tiến nhất, thể hiện ưu việt hơn hẳn chủ nghĩa tư bản, tạo nên năng suất chiến

thắng và có đời sống vật chất, tinh thần cao hơn chủ nghĩa tư bản để hiện thực mục

tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Có thể nói, đó là

TNXH quan trọng nhất của DNNN trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Và để

trở thành một công cụ, một thực lực kinh tế Đảng xác định:

Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền

tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn

mực quốc tế, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn

lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp để doanh

nghiệp nhà nước giữ vững vị trí nòng cốt và là một lực lượng vật chất

quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và

thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội [7].

Với những chủ trương chính sách của Đảng, trước yêu cầu khách quan trong

phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, DNNN đã thực hiện TNXH và đạt những kết

quả cụ thể:

Một là, DNNN bước đầu đạt được những hiệu quả và đóng góp quan trọng

cho ngân sách Nhà nước:

Với chủ trương của Đảng và trước tình hình mới, với yêu cầu khách quan

trong phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, nên số lượng DNNN đã giảm, cùng với

đó là phạm vi hoạt động cũng càng ngày càng giảm đi. Nếu năm 1990 có 12500

DN, thì đến nay còn 718 (tính đến10/2016, chiếm khoảng 0,67%) [11].

Việc giảm bớt số lượng không có nghĩa là giảm sức mạnh kinh tế của

DNNN: Sắp xếp, sáp nhập, giải thể những DN không cần thiết là để tập trung cho

những DN thực sự cần thiết cho quốc kế dân sinh, tập trung thay đổi năng lực quản

76

trị, đầu tư công nghệ, cùng với đó là thực hiện công khai, minh bạch và gia tăng khả

năng cạnh tranh để thích ứng với cơ chế thị trường, cũng như yêu cầu hội nhập. Đó

là những điều kiện quan trọng giúp nâng cao vai trò nòng cốt của DNNN trên nhiều

mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm cho kinh tế NN thật sự là chủ đạo, là lực

lượng nòng cốt bảo đảm cân đối vĩ mô, tạo điều kiện ổn định kinh tế - xã hội trong

quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

Biểu đồ 3.1. Thống kê số lượng doanh nghiệp nhà nước

14000

12500

12000

10000

6852

8000

5600 5266 4773

6000

3806 3867

4000

1700 1309 949 797

781

2000

718

0

1990 1996 1998 2000 2002 2004 2005 2008 2011 2013 2014 2015 2016

Biểu đồ 3.1: Thống kê số lượng doanh nghiệp Nhà nước

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Thực tế những năm qua đã cho thấy, mặc dù số lượng giảm mạnh, lĩnh vực,

địa bàn thu hẹp, trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn.

Thế nhưng DNNN có bước phát triển quan trọng về quy mô, doanh thu, lợi nhuận

và nộp ngân sách NN trung bình mỗi năm tăng khoảng 22 nghìn tỷ đồng (Biểu đồ

3.3). Tổng tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn cũng liên tục tăng, góp phần

ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế (Biểu đồ 3.2). Nếu năm 2011 DNNN

có tổng tài sản 2.093.907 tỷ đồng [23], thì đến cuối năm 2016, theo báo cáo hợp

nhất của 583 DNNN thì: Tổng tài sản là 3.050.088 tỷ đồng, tăng 4% so với năm

2015 (xét trong cùng số lượng 583 DNNN năm 2015, là 3.043.687 tỷ đồng) [24],

tổng doanh thu: 1.520.667 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế: 139.144 tỷ đồng, nộp ngân

sách NN: 251 nghìn tỷ đồng [90]. Từ 2007 đến nay, DNNN đã đóng góp từ 26 -

30% GDP, tạo nguồn thu quan trọng cho đất nước, đóng góp lớn vào phát triển hạ

tầng ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện ASXH...

77

Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng

119.9

120

115.6

113.62

113

115

111.7

112

111.5

114.7

110.5

109.9

108.7

110

110.2

108.4

107.1

106.5

106.7

105

100

95

2014

2015

2016

2013 Tổng số Doanh nghiệp

NN

Ngoài NN

FDI

Biểu đồ 3.2: Tốc độ phát triển vốn của doanh nghiệp

Nguồn: [142].

Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng

300

256.308

217.208

250

184.599

174.236

200

139.7

150

100

50

0

2013

2014

2015

Dự tính 2016 Thực tế 2016

. Đóng góp của DNNN vào ngân sách

Biểu đồ 3.3: Đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước vào ngân sách

Nguồn: [25].

Theo kết quả Bảng xếp hạng V1000 năm 2016, DNNN đóng góp 60% tổng

số thuế thu nhập DN (tăng lên mức đáng kể so với tỉ lệ 45% của năm 2015) [130].

Trong top 10 DN nộp thuế lớn nhất năm 2016 (xếp theo thứ tự): 1, Tập đoàn Dầu

khí Việt Nam; 2, Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel; 3, Tổng công ty Khí Việt

Nam; 6, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam; 7, Ngân hàng Công thương Việt

Nam; 8, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; 9, Tổng công ty Viễn thông

Mobifone; 10, Tổng công ty thăm dò và khai thác dầu khí (PVEP) [163]; Top 5 DN

xếp hạng VNR500 (DN lớn nhất Việt Nam) năm 2016: 1, Tập đoàn Dầu khí, 3, Tập

đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, 4, Tập đoàn Điện lực, 5, Tập đoàn Xăng dầu.

78

Với tốc độ tăng trưởng và những đóng góp cho thấy, DNNN vẫn giữ vai trò

chủ đạo trong nền kinh tế có đủ sức thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, khắc phục

những khiếm khuyết của thị trường, là công cụ vật chất để NN can thiệp vào kinh tế

thị trường điều tiết thị trường theo mục tiêu của NN đã đặt ra và theo đúng định

hướng chính trị của NN.

Hai là, DNNN đã kinh doanh có hiệu quả trong những ngành, lĩnh mang lại

ít lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư:

Bên cạnh hoạt động kinh doanh đóng góp vào ngân sách, thì DNNN còn

nhiệm vụ hoạt động chính trị - công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã

hội do NN giao không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra, còn có loại nằm giữa hai loại

trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ

tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng…). Do đó có thể thấy, vai trò và TNXHDNNN,

từ đó cũng nói lên tầm quan trọng của nó. Nó hoạt động trong những ngành, lĩnh

vực kinh doanh mang lại ít lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận mà các thành phần

kinh tế khác không đầu tư, phục vụ nhu cầu chung của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích

công cộng, đảm bảo ANQP, ASXH.

Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật cơ bản, thông qua cạnh tranh

nguồn lực kinh tế sẽ được phân bổ một cách tự nhiên. Tính tự nhiên của các nguồn

lực được rút khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm hoạt động kém hiệu quả, di

chuyển đến những nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu quả, lợi nhuận cao,

những lĩnh vực có hệ số rủi ro thấp, vốn đầu tư ít thu hồi nhanh… Tất cả những

khuyết tật của cơ chế thị trường sẽ làm giảm hiệu quả xã hội của hệ thống kinh tế.

Do vậy, DNNN có vai trò quan trọng trong việc khắc phục tính tự nhiên của việc

dịch chuyển nguồn vốn đầu tư, đảm bảo lợi ích công cộng cũng như an ninh kinh tế.

Thực tiễn thế giới đã cho thấy, không phải lúc nào thị trường cũng giải quyết

tốt việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế, sự thất bại của thị trường sẽ mang đến

những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở những quốc

gia đang trong giai đoạn công nghiệp hóa như Việt Nam. Cụ thể, trong những năm gần

đây với các cơn "sốt" nhà đất, chứng khoán, lương thực, thực phẩm; Giải quyết khủng

hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v... là minh chứng rõ nét về sự thất

bại của thị trường trong việc phân bố nguồn vốn đầu tư, nguồn vốn để khắc phục

những hạn chế đó. Về thuộc tính của kinh tế thị trường, cho đến nay vẫn bộc lộ 3

79

khuyết tật lớn: 1, luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng

thừa hoặc khủng hoảng thiếu; 2, vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, DN ít quan tâm

đến lợi ích toàn cục, lợi ích cộng đồng như gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn

tránh luật pháp, gian lận thương mại v.v… là những điển hình; 3, kinh tế thị trường về

bản chất là mô hình làm giàu cho thiểu số. Để khắc phục những khuyết tật đó, NN

không bao cấp, và đồng thời cũng không tạo ra những rủi ro cho DN bằng các quyết

định hành chính. Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam trong quản lý nền kinh tế thị

trường, tuy chưa hoàn thiện, nhưng cũng đã phủ kín hầu hết các lĩnh vực. Hiệu lực và

hiệu quả quản lý NN về kinh tế chưa cao còn do sự can thiệp của NN, ở nhiều cấp

chính quyền khác nhau, không phù hợp với sự vận động của thị trường. Nhưng mặt

khác, NN lại thiếu công cụ và cơ chế kiểm soát - giám sát, chế tài chưa đủ mạnh để bảo

đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ "luật chơi" đã đề ra. Do đó,

cùng với công cụ kế hoạch và các chính sách điều tiết vĩ mô, việc thành lập và sử dụng

các tổ chức kinh tế của NN chính là để khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường bằng

lực lượng vật chất của NN. Lực lượng này thực hiện vai trò bổ khuyết và trên một số

ngành ở thời điểm nhất định để dẫn dắt thị trường, cung cấp tốt hơn các loại "hàng hoá

và dịch vụ công cộng": Cung cấp kết cấu hạ tầng gồm hạ tầng "cứng": Giao thông vận

tải, cung cấp điện nước, bình ổn giá lương thực thực phẩm v.v...; Hạ tầng "mềm": Dịch

vụ thông tin, bưu chính - viễn thông, tài chính, v.v...; Các dịch vụ và hàng hoá công

cộng: Chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, v.v...; Là lực lượng

quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo

đảm nhiều sản phẩm phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa và phát triển bền vững. Đây

chính là TNXH vô cùng quan trọng của các DNNN.

Ba là, DNNN bước đầu đầu tư có hiệu quả vào những lĩnh vực kinh doanh đòi

hỏi vốn lớn và thu hồi chậm mà các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư:

Một số DN kinh doanh không vì lợi nhuận, tập trung vào lĩnh vực, ngành nghề

cung cấp hàng hoá công cộng, độc quyền tự nhiên (Chẳng hạn như ngành điện, nước

hay việc kiểm soát một nguồn tài nguyên thiên nhiên nào đó), đảm bảo năng lượng,

lương thực thực phẩm, ANQP, đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý

nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện bảo đảm cân bằng về

đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng

thiết yếu. Chính TNXH này càng cho thấy tầm quan trọng DNNN, và sự tồn tại của nó

80

là một tất yếu khách quan. Vì vậy, đánh giá DNNN không chỉ dựa vào lời lỗ trước mắt

mà phải tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội lâu dài. Để DNNN phát huy vai trò nòng cốt,

đòi hỏi NN phải có những quốc sách thích hợp, tôn trọng quy luật kinh tế khách quan,

để DN không là gánh nặng cho NN về kinh tế.

Bốn là, DNNN là công cụ ngăn chặn độc quyền, phân phối lại thu nhập quốc

dân và cung cấp hàng hoá cho những thiệt hại kinh tế:

Ngoài lý do tạo cho chính phủ "cây nỏ thần" để giải quyết các vấn đề kinh tế

- xã hội quan trọng trong những giai đoạn đặc biệt như cạnh tranh, khủng hoảng

kinh tế, khắc phục thiên tai… DNNN còn có trách nhiệm điều tiết đời sống kinh tế -

xã hội. Đó là ngăn chặn độc quyền của khu vực tư nhân trong một ngành công

nghiệp nào đó có khả năng gây thiệt hại chung cho xã hội, là phân phối lại thu nhập

quốc dân, cung cấp hàng hoá cho những thiệt hại kinh tế.

Sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà sản phẩm của chúng được tiêu dùng

mang tính xã hội không thương mại như giao thông đường thuỷ, bảo tồn những

công trình kiến trúc mang tính lịch sử, bảo vệ phong cảnh thiên nhiên,… Những sản

phẩm này được coi là thuộc về cộng đồng, khu vực tư nhân không thể cung cấp vì

nó không có quyền sở hữu chúng, do đó NN giao DNNN đảm nhiệm.

Chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước những ngành thuộc kết cấu hạ

tầng, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế trong đó có khu vực tư nhân,

sản xuất những hàng hoá này đòi hỏi nguồn vốn lớn, thu hồi chậm nên không hấp

dẫn các khu vực ngoài NN tham gia. Chính vì phải đảm nhận việc cung cấp những

loại hàng hoá này nên thu nhập tài chính của DNNN thường được đánh giá thấp hơn

thu nhập thực tế, vì không tính đến những lợi ích bên ngoài DN.

Như vậy, những kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cùng kết quả thực

hiện trách nhiệm chính trị - công ích của DNNN nêu trên cho thấy DNNN đã góp

phần giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động cung ứng sản

phẩm, dịch vụ công ích và công tác chi nhằm thực hiện các chính sách ASXH. Rõ

ràng, những hoạt động TNXH mà các DNNN dày công thực hiện một mặt góp phần

không nhỏ trong việc tạo nên hình ảnh thiện cảm, định hướng tiêu dùng cho khách

hàng và sự hợp tác bền vững giữa các đối tác kinh doanh. Mặt khác, giúp DNNN

bảo toàn vốn, tăng trưởng doanh thu, nộp thuế ngày càng cao những năm gần đây

và cả trong tương lai.

81

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện TNXH

như trên thì DNNN vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém.

* Thành tựu thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong

việc kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và tăng cường củng cố sức mạnh

an ninh quốc phòng của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Một trong những quy luật cơ bản của cách mạng Việt Nam là phát triển kinh

tế - xã hội đi đôi với tăng cường củng cố ANQP, đây là hai nhiệm vụ chính trị quan

trọng xuyên suốt luôn đồng hành với nhau trong mọi thời kỳ lịch sử, là sự kế thừa

truyền thống lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Trong đó, ANQP là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong quá

trình đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi

tình hình thế giới, tình hình khu vực có nhiều biến động phức tạp: Tranh chấp chủ

quyền biên giới, đáng chú ý là tình hình Biển Đông vẫn tiềm ẩn nguy cơ khó lường,

không loại trừ có đột biến. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá quyết liệt Việt

Nam bằng chiến lược "Diễn biến hòa bình", với nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc,

nguy hiểm: Thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "phi chính trị hóa" lực lượng

vũ trang, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, gắn

phát triển kinh tế - xã hội với củng cố ANQP là rất quan trọng. Trong đó tập trung

xây dựng sức mạnh quốc phòng, nhằm bảo đảm đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ

chiến tranh xâm lược; Trực tiếp và thường xuyên đấu tranh làm thất bại mọi âm

mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" và các hoạt động lợi dụng "dân chủ", "nhân

quyền", nhằm chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; Bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền đất nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn

xã hội; Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ với

các nước trên thế giới… là yêu cầu khách quan và phù hợp với xu thế thời đại. Và

vai trò của DNNN nói chung cũng như DN ANQP nói riêng là lực lượng cơ bản

quyết định sức mạnh ANQP. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng và đồng thời nó

cũng là một trong những trách nhiệm của DN đối với xã hội.

Gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố ANQP là chủ trương chiến lược hết

sức quan trọng, được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội của

Đảng. Và để có sức mạnh ANQP thì Đảng, NN luôn xem việc phát triển kinh tế là cơ

sở là nền tảng. Và ngược lại, ANQP vững mạnh sẽ tạo điều kiện, môi trường ổn định

82

cho phát triển kinh tế và bảo vệ những thành quả phát triển đã đạt được. Như vậy, khó

có thể có nền quốc phòng vững mạnh khi kinh tế xã hội không phát triển.

Việt Nam thuộc các nước đang phát triển, công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước mới đạt được những kết quả bước đầu, thu nhập tính theo

GDP/đầu người còn thấp... Vì vậy, việc huy động tiềm lực kinh tế - kỹ thuật và tài

chính của đất nước để phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, ANQP, trật tự, phòng, chống

tội phạm sẽ gặp không ít khó khăn, đòi hỏi phải xử lý hài hòa giữa nhu cầu phát

triển kinh tế, bảo đảm "khoan sức dân" với tăng cường sức mạnh quân sự, quốc

phòng, phòng, chống tội phạm. Do đó, hiệu quả kinh tế - xã hội của các DNNN nói

chung DN ANQP nói riêng có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng - là lực lượng nòng

cốt để tạo tiềm lực kinh tế - kỹ thuật và tài chính để phục vụ nhiệm vụ ANQP. Đây

cũng là một trong những nhiệm vụ chính trị - xã hội hàng đầu của DNNN nói

chung, DN ANQP nói riêng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Vậy những

thành tựu đạt được thể hiện trách nhiệm với xã hội cụ thể như sau:

Một là, DNNN bước đầu thực hiện tốt trách nhiệm trong phát triển kinh tế đóng

góp cho ngân sách, từng bước tự chủ cũng như phát triển công nghiệp quốc phòng:

Được sự quan tâm của Đảng, NN, thời gian qua các DNNN nói chung DN

ANQP nói riêng đã sản xuất kinh doanh giữ được ổn định và phát triển, nộp ngân

sách liên tục tăng. Trong đó DN ANQP có tốc độ tăng trưởng khá, năm sau cao hơn

năm trước, tỷ lệ lãi tăng cao. Với các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đạt được 5 năm gần

đây: Doanh thu tăng 179%, lợi nhuận trước thuế tăng 476,5%, nộp ngân sách tăng

517%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 102% [138], trong đó có những

DN đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong sản xuất, kinh doanh, với doanh thu xuất

khẩu đạt vài chục triệu USD/năm [91]. Năm 2015, đã nộp ngân sách trên 44.000 tỷ

đồng, riêng Viettel góp 37.000 tỷ đồng [66].

Là lực lượng sản xuất, làm kinh tế đã tham gia xây dựng các công trình trọng

điểm về hạ tầng giao thông, thủy lợi, thủy điện của quốc gia, như khôi phục tuyến

đường sắt Bắc - Nam, nâng cấp tuyến Đông Trường Sơn từ Quảng Trị vào đến Đông

Nam Bộ với hơn 1900 km, xây dựng tuyến đường chiến lược trên vành đai biên giới

phía Bắc từ Quảng Ninh đến Lai Châu với trên 1100 km, tham gia xây dựng đường dây

500 KV Bắc - Nam, thủy điện Hòa Bình... Cùng với đó, ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ

xây dựng các nông trường, lâm trường, các khu kinh tế mới dọc tuyến biên giới địa bàn

này; Thành lập các đoàn kinh tế chuyên canh lúa ở Tây Nam Bộ, từ Long An, Đồng

83

Tháp, tứ giác Long Xuyên, vào đến vùng Cà Mau; Trên miền Bắc hình thành các nông

trường, lâm trường như Hàm Yên - Bắc Quang, Nam Long Đại, Con Hà Nừng...

Việt Nam từ việc phải dựa vào nguồn cung cấp vũ khí, trang bị kỹ thuật của

nước ngoài thông qua cơ chế viện trợ quân sự là chủ yếu, bước vào thời kỳ hội

nhập, nội lực kinh tế đất nước đã phát triển, đủ sức tự bảo đảm cho các nhu cầu của

lực lượng vũ trang, thông qua cơ chế mua bán quốc tế hoặc đầu tư cho công nghiệp

quốc phòng về nghiên cứu, sản xuất. Năng lực nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, sửa

chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, trình độ công nghệ của ngành được nâng lên cả về bề

rộng lẫn chiều sâu. Hiện nay, công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được hầu hết các

loại vũ khí, khí tài, đạn dược thuộc trang bị của sư đoàn bộ binh, các loại khí tài

quang học, kính nhìn đêm, máy thông tin cấp chiến thuật (Xem phụ lục 5).

Hai là, DNNN đã góp phần quan trọng trong thực hiện trách nhiệm kết hợp

xây dựng củng cố ANQP với xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, làng, bản, nhất là ở

vùng sâu, vùng xa:

Bên cạnh phát triển kinh tế đóng góp cho ngân sách, phát triển công nghiệp

quốc phòng thì DN ANQP còn được giao tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện

chính sách hậu phương quân đội, góp phần xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, làng, bản,

nhất là ở vùng sâu, vùng xa đây cũng là mục tiêu xây dựng thế trận quốc phòng toàn

dân. Một mặt tạo ra tiềm lực kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác tạo tiềm lực quân sự,

quốc phòng trên các vùng, miền của Tổ quốc, đặc biệt là các địa bàn xung yếu, có tầm

chiến lược quan trọng. Đây là những vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính cơ

bản, lâu dài, do sự vận động và phát triển nhanh chóng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới. Cho đến nay đã xây dựng được 23 khu kinh tế - quốc phòng (Xem

Phụ lục 6). Có thể nói, chính tinh thần và TNXH của nhiều DN thời gian qua đã xây

dựng được thế trận ANQP liên hoàn từ biên cương, vùng biển đảo, đến các địa bàn

chiến lược. Trong những năm qua, những khu kinh tế - quốc phòng đã góp phần quan

trọng cải thiện từng bước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; kết

hợp đảm bảo quốc phòng an ninh ở địa bàn chiến lược, biên giới, hải đảo.

Ba là, DNNN đã thực hiện tốt trách nhiệm trong việc hội nhập kinh tế quốc

tế và chủ động giao lưu hợp tác quốc tế góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên

trường thế giới:

Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, các DN

ANQP đã tích cực đổi mới công nghệ, quản lý, từng bước nâng cao sức cạnh tranh,

84

mở rộng thị trường, khẳng định vị trí trong môi trường kinh doanh mới, vững vàng

bám trụ trên các địa bàn chiến lược, sản xuất và cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm

có chất lượng cao, phục vụ quốc phòng và xã hội. Phần lớn các DN ANQP hoạt

động có hiệu quả, hệ thống trang thiết bị và trình độ công nghệ có bước phát triển

đáng kể. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, các DN này cũng đã tham gia vào việc

xây dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam ở nước ngoài. Những thành tựu đạt được

đã góp phần xây dựng lòng tin, tạo sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và

các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, tạo cơ hội để tăng cường hợp

tác với quân đội các nước trên nhiều lĩnh vực như: Nghiên cứu phát triển khoa học

quân sự, kỹ thuật quân sự; Phát triển công nghiệp quốc phòng; Trao đổi, tiếp nhận

những thành tựu khoa học và công nghệ quân sự hiện đại; Nghiên cứu vũ khí, trang bị

kỹ thuật, nhất là vũ khí công nghệ cao; nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng quân đội

trong thời bình; nghiên cứu phương thức tác chiến hiện đại có thể vận dụng trong quá

trình xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Ngày nay, nhiệm vụ ANQP, không chỉ nhằm chống "thù trong, giặc ngoài"

như trước, mà còn chuẩn bị phòng, chống các mối đe dọa phi truyền thống như:

Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, các biến cố của thiên tai (bão, lụt, hạn hán,

động đất, sóng thần...), gây ra những thiệt hại lớn cho quốc gia, dân tộc. Vậy, để ứng

cứu và xử lý kịp thời những hậu quả do các biến cố gây ra phải dựa vào tiềm lực mọi

mặt của quốc gia, dân tộc; Trong đó, các lực lượng vũ trang mà các DN là nòng cốt.

Cùng với đó là vấn đề "an ninh sinh thái" đã được nhiều nước xem là bộ phận cấu

thành của nền an ninh quốc gia. Từ đó, tiềm lực ANQP còn huy động vào việc khắc

phục mọi biến cố do thiên tai - địch họa gây ra cho một quốc gia, dân tộc, nhằm giữ

vững môi trường hòa bình ổn định cho đất nước liên tục phát triển về mọi mặt.

Tóm lại, chiến lược ANQP đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân, của cả hệ thống chính trị mà các lực lượng vũ trang (Quân đội và Công an)

làm nòng cốt DN ANQP là cơ bản. Và để xây dựng tiềm lực ANQP vững mạnh thì

hiệu quả kinh tế là là nền tảng vật chất của các loại tiềm lực khác trên từng mặt.

Với TNXH cùng sự nỗ lực phấn đấu, thời gian qua, đã xuất hiện những

thương hiệu mạnh của các DN ANQP trong một số lĩnh vực như: Xây dựng, bưu

chính - viễn thông, bay dịch vụ, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cảng biển, đóng tàu

biển, khai thác khoáng sản, sản xuất nông lâm nghiệp… Không chỉ chiếm lĩnh thị

85

trường trong nước, một số DN quân đội đã chủ động đầu tư ra nước ngoài và thu

được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, trở thành đối tác có uy tín, góp phần tích

cực cho công tác đối ngoại quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế (Xem phụ

lục 7). Cùng với đó là hiệu quả và đóng góp kinh tế - xã hội của nhiều DN ANQP cũng

rất lớn (Xem phụ lục 8). Đó là những điểm sáng của DN ANQP, là cơ sở tạo niềm tin

cho xã hội, là động lực để DN phấn đấu cho xứng đáng với TNXH.

* Thành tựu thực hiện trách nhiệm an sinh - xã hội của các doanh nghiệp

Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Bảo đảm ASXH được xem là một trong bốn mục tiêu quan trọng hiện nay

của Việt Nam (kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm ASXH, tăng

trưởng bền vững). Trên tinh thần đó, quan điểm của Đảng và NN Việt Nam về vai

trò, tầm quan trọng của ASXH là: Đầu tư cho ASXH chính là đầu tư cho con người,

đầu tư cho phát triển, ASXH đã trở thành động lực góp phần cho kinh tế phát triển

và tăng trưởng bền vững. Như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói: "Tiền đề đầu tiên của

mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta

phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được

thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác

nữa" [84, tr.39-40].

An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức

sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã

hội và môi trường; Vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

cho nhân dân [95]. ASXH còn thúc đẩy sự ổn định chính trị - xã hội và tạo nên sự gắn

kết xã hội. Bảo đảm ASXH không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân như đã nêu

trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (Xem phụ lục 9), mà còn là một nhiệm

vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô,

phạm vi ASXH của các nước có sự khác nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm, chế độ chính

trị - xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.

An sinh xã hội là nội dung quan trọng và tất yếu trong TNXHDN, có khả

năng góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế, đồng thời không

mâu thuẫn với lợi ích kinh tế, lợi nhuận của DN. Vì khi DN thực hiện tốt ASXH sẽ

góp phần tăng năng suất lao động, hiệu quả và lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh,

thúc đẩy sự phát triển bền vững. Hơn nữa, nó còn có vai trò quan trọng thúc đẩy DN

86

thực hiện ngày càng cao các tiêu chuẩn quốc gia cũng như quốc tế về điều kiện lao

động, hỗ trợ cộng đồng… Khi DN quan tâm thực hiện ASXH tức là họ sẽ đảm bảo

tốt hơn quyền lợi, nhân phẩm, đảm bảo việc làm và tăng thu nhập, giúp người lao

động nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ… Và do đó, DN sẽ tạo ra

được một đội ngũ người lao động gắn bó, yêu thích công việc, tự hào về DN và làm

việc hết mình vì lợi ích chung của "đại gia đình".

Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế, thì một hệ thống ASXH phải

có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng chính của ASXH [102].

1. Những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro: Là những chính

sách, chương trình về thị trường lao động tích cực như đào tạo nghề, hỗ

trợ người tìm việc, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho

người lao động.

2. Những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro: Bao gồm các chiến

lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống an sinh xã hội. Nội dung

quan trọng nhất của chức năng này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên

nguyên tắc đóng - hưởng.

3. Những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro: Bao gồm các chính

sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội. Giúp các thành viên xã

hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như:

Thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già,

người tàn tật, trẻ em mồ côi, người nghèo [102]...

Để thực hiện tốt ba hợp phần đó không đơn thuần chỉ là những hoạt động từ

thiện, trợ giúp cộng đồng mà nó còn là sự cam kết của DN đóng góp cho sự phát

triển kinh tế bền vững, thông qua việc quan tâm nâng cao chất lượng lao động và

đời sống cho người lao động, cho cộng đồng và cho toàn xã hội. Như thực hiện

nghiêm túc bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trả lương thưởng;

Đào tạo lao động; Điều kiện làm việc đúng quy định… đối với người lao động, hoặc

là các cam kết với cộng đồng nơi DN đứng chân…

So với mô hình phổ biến trên thế giới, thì hệ thống ASXH ở Việt Nam

cũng hội đủ 3 hợp phần cơ bản trên. Tuy nhiên, Việt Nam có một cấu phần đặc

thù, đó là "chính sách ưu đãi xã hội". Chính sách này nhằm thực hiện mục tiêu

cao cả là đền ơn, đáp nghĩa đối với sự hy sinh, công lao đặc biệt và cống hiến to

87

lớn của những người có công với cách mạng, với đất nước; Thực hiện trách

nhiệm của NN, của xã hội chăm lo, bảo đảm cho người có công có cuộc sống ổn

định và ngày càng được cải thiện.

An sinh xã hội là trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân, DN. Đối với

DNNN thực hiện ASXH cũng chính là một trong những cách thức để giữ vững vai

trò chủ đạo của mình đối với các thành phần kinh tế khác. Và thực hiện ASXH cũng

là nội dung cơ bản và tất yếu trong TNXHDNNN hiện nay.

Đảng và NN luôn xem bảo đảm ASXH là điều kiện để bảo đảm định hướng

xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt

đẹp của chế độ. Với tầm ý nghĩa và tầm quan trọng đó, trong Cương lĩnh xây dựng

đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm

2011) và nghị quyết của các kỳ Đại hội, đặc biệt Nghị Quyết số 15-NQ/TW, ngày

1/6/2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về "Một số vấn đề về

chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020" đã đặt ra yêu cầu:

Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực

hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả

năng nguồn lực trong từng thời kỳ...; Đồng thời thực hiện có trọng tâm,

trọng điểm, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn

cảnh khó khăn; Coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên,

quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội,

phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ

toàn dân với các yêu cầu: Bảo đảm người dân có việc làm, thu nhập tối

thiểu; Tham gia bảo hiểm xã hội; Bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh

đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu nhập

thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo,…); Bảo đảm cho người dân tiếp

cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở,

nước sạch, thông tin,…), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm

cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân [6].

Cùng với các chủ trương thì việc thể chế hóa vấn đề ASXH cũng dần được

hoàn thiện như: Luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật giáo dục, Luật bình đẳng

giới, Pháp lệnh về ưu đãi người có công, về người cao tuổi, về người tàn tật, Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế (năm 2014)… Và Hiến pháp

88

năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền ASXH cơ bản cho người dân (Điều 34:

Công dân có quyền được bảo đảm ASXH; Điều 59: NN tạo bình đẳng về cơ hội để

công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH).

Từ những chủ trương của Đảng và NN, thì diện thụ hưởng chính sách ngày

càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực

xã hội ngày càng lớn. Và vai trò cũng như việc thực hiện TNXH của các DNNN

ngày càng quan trọng, đã và đang góp phần cơ bản vào việc ổn định và phát triển

đất nước, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao.

Một là, DNNN góp phần quan trọng trong thực hiện những chính sách,

chương trình về thị trường lao động, đào tạo; Hỗ trợ người tìm việc, tự tạo việc làm

hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động:

Chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI) của Việt Nam đang đứng thứ 79

trong tổng số 129 nước [141]. Trong giai đoạn 2001 - 2010, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi

đi học tăng nhanh, trong đó mẫu giáo 5 tuổi tăng từ 72% lên 98%; Tiểu học từ 94% lên

97%, trung học cơ sở từ 70% lên 83%, trung học phổ thông từ 33% lên 50%; Quy mô

đào tạo nghề tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,69 lần, giáo dục đại học

tăng 2,35 lần. Năm 2010, số sinh viên cao đẳng và đại học trên một vạn dân đạt 227;

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của thị trường

lao động [133]. Nếu 1945 tỷ lệ người dân Việt Nam mù chữ lên tới hơn 95%, thì đến

năm 2000 đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học [17].

Về lao động, từ 15 tuổi trở lên cả nước tính đến thời điểm 01/01/2016 là

54,61 triệu người, trong đó lao động trong DNNN chiếm 9% (Biểu đồ 3.4) [142].

Về thu nhập của lao động làm công hưởng lương liên tục tăng trong suốt giai

đoạn 2007-2016. Theo số liệu được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố,

thu nhập bình quân năm 2016 là 6,03 triệu đồng/tháng, tăng 5,4% so với năm 2015.

Trong đó, DNNN có mức thu nhập bình quân cao nhất là 7,75 triệu đồng/tháng, tăng

2,78% so với năm 2015. Tiếp đến là Công ty cổ phần có vốn góp của NN là 6,48 triệu

đồng, DN dân doanh là 6,04 triệu đồng, DN FDI là 5,7 triệu đồng (Biểu đồ 3.5). Hiện

cao hơn khối DN tư nhân khoảng 41% và cao hơi khối DN FDI khoảng 29%, (Năm

2007, bình quân 1 lao động thu nhập 28 triệu đồng/năm, tương ứng với 2,3 triệu

đồng/tháng. Năm 2016 hơn 50 triệu đồng, tương đương 2.215 USD) [142].

89

Đơn vị tính: %

100

88.46

78.11

80

54.94

54.43

60

50.85

40.92

33.54

32

33

40

28.8

24

38.97

22

13.82

12

20

9

8

3.83

0.67

0.8

0

2000

2005

2015

2016

Nguồn vốn

Số Doanh Nghiệp Doanh thu

Số Lao động Nộp ngân sách

Biểu đồ 3.4: Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của doanh nghiệp Nhà nước

Nguồn: [142].

Đơn vị tính: triệu đồng/người/tháng

7.75

8

7.04

5.7

6.03

5.47

5.53

6

5.47

4.99

4

2

0

2015

2016

Mức chung

DN NN

DN FDI

DN Tư nhân

Biểu đồ 3.5: Thu nhập bình quân

Nguồn: [142].

Hai là, DNNN bảo đảm trách nhiệm trong việc thực hiện các chính sách bảo

hiểm như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, v.v...

Theo Quyết định 959/QĐ-BHXH ngày 09/09/2015 về Bảo hiểm xã hội, bảo

70808817

69973000

64600000

Số người tham gia BHYT

Số người tham gia BHXH

12349001

12319866

11645851

9219753

10345827

10286401

Số người tham gia BH thất nghiệp

2014

2015

30/4/2016

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc (điều 4,13,17), thì Kết quả đạt được:

Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ tham gia các loại hình bảo hiểm Nguồn: [9].

90

Trong đó DNNN là thành phần kinh tế thực hiện tốt nhất, chỉ số ít doanh

nghiệp vi phạm.

Ba là, DNNN đóng góp phần lớn vào cứu trợ và trợ giúp xã hội như: Thất

nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ

em mồ côi, người nghèo:

Số hộ nghèo giảm từ 29% năm 2002 xuống còn còn dưới 4,5% năm 2015

[33]; Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 năm 2000 lên mức 0,728

năm 2014 [37], xếp thứ 116/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới.

Các chỉ số sức khỏe cơ bản của người dân được cải thiện đáng kể như: Tuổi

thọ trung bình tăng từ 72,9 tuổi năm 2010 lên 73,3 tuổi năm 2015, tỉ số tử vong mẹ

giảm từ 68/100.000 trẻ sinh sống năm 2010 xuống khoảng 58,3/100.000 trẻ sinh

sống năm 2015, tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm từ 15,8‰ năm 2010 xuống

còn 14,73‰ năm 2015, tỉ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 23,8‰ năm 2010

xuống còn 22,12‰ năm 2015, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân

giảm từ 17,5% năm 2010 xuống khoảng 14,1% năm 2015 [26].

Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012 -

2015 tiếp tục phát triển, tính đến cuối năm 2014 đã có 84,5% người dân nông thôn

sử dụng nước hợp vệ sinh [62].

Năm 2015 Việt Nam đã hoàn thành 8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên

kỷ (MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển.

Bốn là, DNNN đã từng bước thực hiện tốt chính sách đối với người có công:

Cả nước hiện có 1.384.143 người có công đang được hưởng trợ cấp hàng tháng,

tăng 94.000 người so với năm 2012; 50.280 người đã được hưởng trợ cấp một lần, tăng

34.886 so với năm 2012; tăng thêm 400.000 lượt người được điều dưỡng hàng năm;

xác nhận thêm được 639 liệt sĩ, 5.440 thương binh, 1.335 bệnh binh, giảm đáng kể tồn

đọng từ trước đến nay. Ngân sách NN dành cho việc thực hiện chính sách người có

công tăng dần qua từng năm. Năm 2012 là 25.646,5 tỷ đồng, tăng 31.011,4 tỷ đồng

năm 2014. Tính cả giai đoạn 2012 - 2015 là 119.435,5 tỷ đồng [34].

Cùng với đầu tư phát triển kinh tế, Việt Nam đặc biệt chú ý và phân bổ

nguồn lực cho giảm nghèo và phát triển xã hội. Mặc dù trong điều kiện kinh tế khó

khăn, nhưng Đảng và NN không giảm đi bất cứ một chính sách, khoản chi nào dành

cho ASXH mà còn tăng lên. Tổng kinh phí dành cho hoạt động ASXH và giảm nghèo

91

trong 6 tháng đầu năm 2016 là 4.376 tỷ đồng, bao gồm: 2.918 tỷ đồng quà thăm hỏi và

hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1.050 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 408 tỷ đồng cứu

đói, cứu trợ xã hội khác [142]. Nếu như năm 2012 tổng chi cho ASXH bằng 5,88%

GDP, thì đến năm 2015 con số này tăng lên khoảng trên 6,6% GDP [34].

Dù còn có những hạn chế và bất cập so với yêu cầu phát triển nhanh và bền

vững nhưng kết quả, thành tích mà Việt Nam đạt được về phát triển giáo dục, chăm

lo sức khỏe cộng đồng, thực hiện bảo hiểm y tế cho người dân, khám chữa bệnh cho

người nghèo, chăm sóc các bà mẹ và trẻ em, cũng như những nỗ lực giải quyết việc

làm, cải thiện mức sống và điều kiện sống cho dân cư, cứu trợ xã hội và thực hiện

phúc lợi xã hội, quan tâm tới các đối tượng yếu thế… là những minh chứng về

những tiến bộ đáng kể trong thực hiện ASXH.

Thành tựu đó được sự hưởng ứng của mọi tầng lớp nhân dân, DN, trong đó

DNNN là một bộ phận rất quan trọng đã thực hiện tốt các chính sách ASXH từ

nguồn nộp thuế. Bên cạnh nghĩa vụ nộp thuế, trong những năm qua đã có nhiều

DNNN cũng đã đóng góp riêng rất quan trọng cho ASXH. Một vài số liệu để thấy

rõ những đóng góp đó (Xem phụ lục 10).

Có thể thấy các Tập đoàn, Tổng Công ty NN đã phát huy vai trò nòng cốt

chung sức, chung lòng để ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, và đặc

biệt là đảm bảo ASXH xoá đói giảm nghèo. Đây là những DNNN đi đầu trong việc

thực hiện vấn đề TNXH.

* Thành tựu thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái của các

doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Trong hơn 30 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to

lớn. Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế đã tác động tiêu cực tới môi trường không

nhỏ và ngày càng tăng. Trước thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường

vẫn tiếp tục diễn ra đáng lo ngại, như Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần

Hồng Hà giải trình trước Quốc hội là: "Sau một loạt sự cố vừa qua có thể nhận thấy,

môi trường của ta đã đến ngưỡng không thể chịu đựng thêm được nữa" [132]. Và

nghiên cứu mới nhất về Chỉ số hiệu suất môi trường của Đại học Yale (EPI) công

bố đầu năm 2016, tính tổng quát năm vấn đề được đánh giá (nước và điều kiện vệ

sinh, chất lượng không khí, ảnh hưởng tới sức khỏe, nông nghiệp, đa dạng sinh

học và môi trường sống), thì Việt Nam xếp hạng thứ 131 trên thế giới. Trong đó,

92

với xử lý nước thải, Việt Nam xếp hạng 124/139 quốc gia. Về chất lượng không

khí Việt Nam đứng thứ 170/180 quốc gia. Cũng theo đánh giá này thì Việt Nam

nằm trong top 11 quốc gia ô nhiễm bụi nhất thế giới [68]. Những ô nhiễm môi

trường nước, không khí, đất đai ngày càng nghiêm trọng, nhất là tại các khu,

cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, khu đô thị, thậm chí ngay cả khu vực

nông thôn; nạn phá rừng; khai thác tài nguyên bừa bãi… Khiếu kiện đông người

về môi trường diễn ra gay gắt ở nhiều nơi, xuất hiện nhiều điểm nóng môi

trường. Nếu không kịp thời xử lý, giải quyết, thì sẽ gây mất an ninh trật tự. Như

vụ Vedan, Miwon, đặc biệt sự cố môi trường biển miền Trung vào tháng 4 năm

2016 đã gây ra hậu quả lớn về kinh tế, xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài,

ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ, hải sản,

làm muối, dịch vụ hậu cần nghề cá, du lịch, làm xáo trộn, gây mất an ninh trật

tự, tâm lý bức xúc, bất an trong nhân dân…

Trong quá trình xây dựng phát triển kinnh tế, Đảng và NN Việt Nam luôn

quán triệt tinh thần: "Phát triển, tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường,

phát triển bền vững. Kiên quyết không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đánh đổi môi

trường, cuộc sống bình yên của người dân" [149]. Chủ động ứng phó với biến đổi

khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; Là một

trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; Là trách

nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, DN và cộng đồng xã hội, trong đó DNNN

phải giữ vai trò chủ đạo. Đây cũng là cơ sở để hoạch định đường lối, chính sách

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ANQP và ASXH, góp phần vào sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhận thức rõ tầm quan trọng và những nguy cơ, thách thức của biến đổi khí

hậu, cạn kiệt nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, Đảng, NN Việt Nam đã có

nhiều chỉ thị, nghị quyết đề cập đến các vấn đề trên. Hiến pháp năm 2013 lần đầu

tiên ghi nhận quyền con người đối với môi trường, theo đó "mọi người có quyền

được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường" (Điều

43). Đặc biệt là hệ thống chính sách pháp luật, tổ chức bộ máy về quản lý tài

nguyên, bảo vệ môi trường sớm được hình thành, như: Luật bảo vệ môi trường,

Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng… Chính phủ cũng đã phê duyệt Chiến

93

lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến

lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược quốc gia về

Tăng trưởng xanh; Chiến lược Quản lý tổng hợp chất thải rắn... Là thành viên có

trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã sớm tham gia Công ước khung

của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto (Xem phụ lục 11).

Đồng thời, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về ứng phó với biến đổi

khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được đưa vào chương trình giáo

dục ở các cấp học và được tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện truyền thông.

Qua đó, nhận thức của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành

và toàn dân về vấn đề này đã có bước chuyển biến tích cực. Trong đó DNNN là bộ

phận đóng góp quan trọng nhất.

Một là, DNNN từng bước đầu tư ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại vào

sản xuất góp phần bảo vệ môi trường:

Từ những chủ trương của Đảng, NN với vị trí, vai trò và nhận thức của chủ

thể các DNNN, phần lớn DN đã triển khai các hoạt động thích ứng với biến đổi khí

hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ tài nguyên, môi trường và đạt một số

kết quả bước đầu. Trong đó, phải kể đến những đóng góp quan trọng của các DN thuộc

lực lượng vũ trang, mà nòng cốt là Quân đội nhân dân trong việc tham gia ứng phó,

khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; điều tra, xử lý chất độc

hóa học tồn lưu sau chiến tranh, xử lý các sự cố về ô nhiễm môi trường... góp phần bảo

vệ môi trường, cải thiện, nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Cùng với các lực lượng vũ

trang thì DNNN cũng là lực lượng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Đây

là lực lượng nòng cốt, luôn đi đầu trong việc đầu tư ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện

đại vào sản xuất giảm thiểu tác động xấu đến môi trường, đồng thời cũng là lực lượng

đi đầu trong việc chấp hành tốt pháp luật về môi trường.

Hai là, DNNN luôn đi đầu và là tấm gương tốt trong chấp hành pháp luật về

môi trường:

Nhiều DNNN luôn thực hiện các giải pháp nhằm mục tiêu tiết kiệm năng

lượng, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, sản xuất kinh

doanh hiệu quả gắn liền với trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ của

cán bộ công nhân viên và trách nhiệm với cộng đồng… Một số DNNN điển hình

trong việc bảo vệ môi trường (Xem phụ lục 12).

94

3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu thực hiện trách nhiệm xã hội

của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế

hiện nay

Ở Việt Nam, vai trò và vị trí của DNNN thời gian qua và hiện nay chủ yếu

vẫn theo định hướng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá IX năm 2001: Đó

là, DNNN giữ vị trí nòng cốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để

NN định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chủ yếu để kinh tế NN thực

hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là

chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ: Kinh doanh

theo cơ chế thị trường lấy hiệu quả kinh tế là cơ bản và thực hiện nhiệm vụ chính trị

- xã hội. DNNN là trụ cột hàng đầu của nền kinh tế, tạo ra tổng sản phẩm trong

nước để làm cơ sở điều tiết, bình ổn giá cả, khắc phục những hạn chế của cơ chế thị

trường, bảo đảm các cân đối lớn, phát triển vùng sâu, vùng xa, công bằng xã hội,

củng cố sức mạnh ANQP… Do đó, khi sử dụng DNNN là công cụ để điều tiết vĩ

mô, bình ổn nền kinh tế và bảo đảm ASXH, chúng ta phải tính đến cái giá phải trả

của việc sử dụng công cụ đó. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả của DNNN thường phải

xét tới yếu tố "làm nhiệm vụ", có nghĩa là dù không muốn thì DN vẫn phải thực

hiện nhiệm vụ ấy, vì các DN ngoài NN không làm, không muốn làm.

Với vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế như vậy, dù gặp những khó

khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế thời gian qua nhưng các DNNN đã đạt được

những thành tựu cơ bản như trên đã dẫn ra. Để có những hiệu quả đó, nó được xuất

phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất là, do vị trí, vai trò và nguồn lực xã hội đầu tư cũng như sự quan

tâm ưu ái của Đảng, Nhà nước dành cho các doanh nghiệp Nhà nước.

Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường của quá trình hội nhập quốc tế,

thì nhiệm vụ cơ bản của DN là luôn tìm những cách thức tốt nhất để phát huy hiệu quả

kinh tế. Nhưng bên cạnh hiệu quả kinh tế, DNNN từ xưa tới nay còn phải thực hiện các

nhiệm vụ chính trị - công ích. Trong cơ chế thị trường, có những ngành, lĩnh vực các

DN ngoài NN không làm, không muốn làm. Ví dụ như, các dự án ở thành phố lớn, nơi

đông dân cư thì rất nhiều DN tư nhân, DN có vốn đầu tư nước ngoài muốn làm, nhưng

các dự án ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì ít DN muốn làm, thậm chí có những dự

95

án không thể kêu gọi nổi vốn đầu tư xã hội. Vì vậy, bắt buộc phải có những DNNN để

điều tiết những méo mó đó. Vừa qua, nếu không phải Viettel đầu tư quyết liệt và với

TNXH, thì không biết đến khi nào mới có được mạng viễn thông 4G hiện đại, phủ

sóng toàn quốc phục vụ đắc lực cho kinh tế - xã hội cũng như ANQP. Hay chủ trương

xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng mà nòng cốt do các DN ANQP đảm nhận thì

rất khó có những chuyển biến tích cực để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm

nghèo, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân (trong

đó quan trọng nhất là các nơi có đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống vật chất, tinh thần

còn gặp nhiều khó khăn và là nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước), kết hợp bảo đảm

ANQP ở địa bàn chiến lược biên giới đất liền, biển đảo, trên cơ sở bố trí lại dân cư theo

quy hoạch sản xuất, hình thành các làng xã biên giới, tạo vành đai biên giới vững chắc

trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc…

Mặc dù hiện nay, Việt Nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của NN, các DN đều

bình đẳng trong kinh doanh và trước pháp luật, nhưng không có nghĩa là chúng có

vị trí như nhau trong nền kinh tế. Do là công cụ vật chất để NN can thiệp vào kinh

tế thị trường điều tiết thị trường theo mục tiêu NN đã đặt ra và theo đúng định

hướng chính trị của NN. Vì vậy, DNNN vẫn còn là "con cưng", được "yêu chiều"

về vốn, về cơ chế chính sách, về đất đai, sở hữu lượng tài sản lớn trong nền kinh tế.

Cụ thể, tổng tài sản trên 3 triệu tỷ đồng, chiếm 38% vốn đầu tư toàn xã hội.

Do là con cưng nên nhiều DNNN vẫn đang nhận được nhiều ưu đãi, đặc biệt

là đất đai, nguồn vốn, tín dụng, hợp đồng mua sắm công và cả cơ chế hoạt động;

Được hưởng vị thế độc quyền trong một số lĩnh vực then chốt hay thiết yếu của nền

kinh tế; Được sử dụng vốn NN với chi phí phải trả rất thấp... Đơn cử, như thời gian

qua nhiều DNNN khi không trả nợ tự vay, thì NN buộc phải "gánh" thay để không

ảnh hưởng đến các nhiệm vụ NN giao cho các đơn vị này. Như năm 2014, Chính

phủ ban hành 20 văn bản cho phép ngân hàng được cung cấp tín dụng vượt giới hạn

cho các DNNN, như Tập đoàn Dầu khí (PVN), Tập đoàn Than - Khoáng sản

(Vinacomin), Tập đoàn Điện lực (EVN), Vietnam Airlines… Không chỉ được ưu

tiên vốn trong nước, mà còn cả vốn vay nước ngoài. Ngoài ra, DNNN còn được ưu

đãi tiếp cận đất đai, ngân sách trực tiếp cấp vốn thông qua các nhiệm vụ chi đầu tư

phát triển, hợp đồng cung cấp dịch vụ công ích, mục tiêu ANQP… [161].

96

Qua các Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 (khóa IX), Nghị quyết Ðại

hội X của Ðảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN

và Nghị quyết số 12-NQ/TW (Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII) về tiếp tục cơ

cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong những năm qua, các cấp ủy

đảng từ Trung ương đến địa phương đã nghiêm túc tổ chức quán triệt sâu rộng và có

chương trình cụ thể triển khai các Nghị quyết đó. Chính phủ, các bộ, ngành, địa

phương, DN đã có nhiều giải pháp tích cực, đồng bộ, chỉ đạo kiên quyết và đã đạt

được nhiều kết quả quan trọng. Với các chủ trương đó, nhận thức của các cấp ủy

đảng và chính quyền về vị trí, vai trò và sự cần thiết sắp xếp, đổi mới, phát triển và

nâng cao hiệu quả DNNN trong giai đoạn mới đã được nâng lên rõ rệt, tạo được sự

đồng thuận trong cán bộ, đảng viên, người lao động trong DN và toàn xã hội. Vì

vậy, DNNN đã có những chuyển biến tích cực.

Thứ hai là, nhận thức và thực hiện trách nhiệm xã hội của những người đại

diện các DNNN ngày càng tốt hơn.

Phần lớn những người đại diện các DNNN đã nhận thức rõ kinh doanh gắn

liền với TNXH không chỉ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của DN trên con

đường hội nhập mà còn là động lực góp phần thúc đẩy tăng trưởng và thịnh vượng

ở mỗi quốc gia. TNXHDN giúp củng cố thương hiệu DN, thu hút nhân công và chỉ

ra cách thức tiếp cận các thị trường mới tiềm năng mà DN chưa kỳ vọng tới. Nó

không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân DN, mà còn có lợi cho cả xã hội.

Ví như, nhiều DNNN đã nhận thức về hoạt động ASXH là một nội dung cơ

bản và tất yếu trong TNXHDN. Xuất phát từ chính nhu cầu sự tồn tại và phát triển

của DN và được quy định bởi chính sách, pháp luật của NN cùng với tinh thần

"tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách"… của Người Việt, DN thực hiện ASXH

không đơn thuần chỉ là những hoạt động từ thiện, trợ giúp cộng đồng mang tính

phong trào mà nó còn là sự cam kết của DN đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền

vững, thông qua việc quan tâm nâng cao chất lượng lao động và đời sống cho người

lao động, cho cộng đồng và cho toàn xã hội. Hiện tượng DN thỏa mãn hay không

thoả mãn các điều kiện về: Bảo hiểm xã hội; Bảo hiểm y tế, trả lương thưởng; Đào

tạo lao động; Điều kiện làm việc đúng quy định… đối với người lao động, hoặc là

các cam kết với cộng đồng nơi DN đứng chân… được các phương tiện truyền thông

97

đề cập đến khá nhiều trong thời gian gần đây chính là những khía cạnh để đánh giá

DN có thực hiện tốt ASXH của mình hay chưa.

Vì khi DN thực hiện tốt ASXH sẽ góp phần tăng năng suất lao động, hiệu

quả và lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, tăng năng suất, thúc đẩy sự phát triển

bền vững. Hơn nữa, nó còn có vai trò quan trọng thúc đẩy DN thực hiện ngày càng

cao các tiêu chuẩn quốc gia cũng như quốc tế về điều kiện lao động, hỗ trợ cộng

đồng… Thực hiện ASXH không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi để đảm bảo

cho chính DN phát triển.

Thứ ba là, do yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập quốc tế.

Nếu làm tốt các hoạt động TNXH, thì DN trước hết đã đảm bảo cho sự phát

triển bền vững của chính mình, sau đó góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của

toàn xã hội. Phát triển bền vững là mục tiêu mà các quốc gia đều đã và đang hướng

tới, các quốc gia không thể tách mình ra khỏi mục tiêu chung nếu muốn hội nhập.

Các DN nhập khẩu ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các DN lớn, đã và đang áp dụng

các bộ quy tắc ứng xử tiêu chuẩn của thế giới nhằm đánh giá đối tác. Cụ thể, khi

nhập khẩu, họ yêu cầu DN xuất hàng phải chứng minh việc thực hiện các quy định

như giờ giấc làm việc của nhân viên đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa cuộc sống,

công việc và sức khỏe; Quá trình sản xuất không gây ô nhiễm môi trường… DN

không chứng minh được sẽ không thể trở thành đối tác của các nhà nhập khẩu lớn.

Ngược lại, uy tín của DN sẽ được nâng cao khi thực thi tốt các hoạt động TNXH và

nó cũng là yếu tố làm gia tăng tính cạnh tranh của DN.

Thứ tư là, do yêu cầu, sức ép của xã hội và các tổ chức phi chính phủ.

Với xu hướng xã hội mở, khi cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đòi hỏi yêu cầu từ

khách hàng ngày càng cao và xã hội có cái nhìn ngày càng khắt khe đối với DN thì các

DN muốn phát triển bền vững phải luôn tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi

trường thiên nhiên, môi trường lao động, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi

lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, góp phần phát triển cộng đồng,… những DN

không thực hiện TNXH có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường.

Dù DNNN vẫn còn đang nhận được nhiều "ưu ái" từ NN, tuy nhiên do sức

ép quá trình hội nhập quốc tế, của xã hội dân sự thượng tôn pháp luật, những yêu

cầu sự công bằng, bình đẳng… đã góp phần thúc đẩy làm thay đổi nhận thức cũng

như cách thức thực hiện TNXHDNNN.

98

3.2. THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ

NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -

HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

3.2.1. Những hạn chế thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp

Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

* Hạn chế trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong việc kinh

doanh hiệu quả nhằm bảo toàn phát triển vốn

Bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn không ít DNNN hiệu quả đầu tư

thấp, thậm chí nhiều DN luôn làm ăn thua lỗ, dẫn đến phát sinh những khoản nợ xấu

lớn, mặc dù đã được NN cứu trợ cho tồn tại bằng cách "khoanh nợ", "giãn nợ" hoặc trợ

cấp vốn từ ngân sách, bảo lãnh vay vốn, nhưng đang bên bờ vực phá sản; Nhiều DN vi

phạm pháp luật về môi trường, về một số chính sách đối với người lao động... Xét từ

góc độ lợi ích xã hội, những DNNN kiểu này thật sự đang là gánh nặng, cần giải quyết

càng sớm càng tốt. Do đó nhiều ý kiến nghi ngại về tổ chức được xem là "chủ đạo",

"xương sống" của nền kinh tế, là công cụ điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển

bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các hạn chế được cụ thể như sau:

Một là, hiệu quả kinh tế của nhiều DNNN còn rất thấp:

Hiện tổng tài sản của các DNNN trên 3 triệu tỷ đồng, chiếm 38% vốn đầu tư

toàn xã hội, thế nhưng chỉ đóng góp khoảng 28,8% GDP chưa tương xứng với

nguồn lực, (Tư nhân 48, FDI 17,9%, Khác 2%) (Biểu đồ 3.7) [35]. Một điểm đáng

chú ý ở đây là gần 50% đóng góp vào GDP của khu vực DNNN là từ khai thác tài

nguyên như dầu khí, khoáng sản. Và phần lớn các DN này hoạt động trong lĩnh vực

then chốt của nền kinh tế như: dầu khí, điện, sắt thép, xi măng [158].

Đơn vị tính: %

50

50

47.1

48

45

40.6

40.4

39.9

38.7

38.5

37.2

40

38

38.4

37.6

38

40

36.9

35.2

28.8

33.9

35

30

30

24.5

24.3

23.3

25.6

17.9

22

25

21.7

20

20

14.9

15

10

2

10

5

0

0

2005

2007

2009

2011

2013

2014

2015

NN

TƯ Nhân

FDI

Khác

NN

Ngoài NN

FDI

Biểu đồ 3.7: Cơ cấu vốn đầu tư và đóng góp GDP của các thành phần kinh tế

Nguồn: [158].

99

Xét về hiệu quả đầu tư, khu vực DNNN đang ngày càng suy giảm. Giai đoạn 2000 - 2006 đầu tư 7,2 đồng tạo ra được 1 đồng GDP, giai đoạn 2007 - 2012 phải đầu tư tới 9,3 đồng mới tạo ra được 1 đồng [71]. Và theo báo cáo của Vietnam Report thì năm 2014 đầu tư 100 đồng chỉ tạo ra được 6,2 đồng [163] (Biểu đồ 3.8).

Đơn vị tính: %

15

13

10

5.9

6.2

5

0

DN FDI

DNNN

DN Tư Nhân

Biểu đồ 3.8: Hiệu quả đầu tư trung bình theo khối doanh nghiệp của bảng

xếp hạng VNR500 năm 2014

Nguồn: [163].

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.10: Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Nguồn: [163].

Còn về tốc độ tăng trưởng, khối DNNN cũng ngày càng giảm (Biểu đồ 3.10).

Các số liệu trên đã cho thấy hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh của khu vực này.

Hai là, nhiều DNNN rơi vào tình trạng nợ xấu:

Theo báo cáo của Chính phủ, thì năm 2016 tổng số nợ phải trả hợp nhất của

583 DNNN là hơn 1.5 triệu tỷ đồng tăng hơn so với năm 2015 (2015 là 1.547.859 tỷ

đồng) và hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân là 1,23 lần. Nhưng vẫn còn tới 25

DNNN có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần, đứng đầu là Tổng công ty

phát triển Phát thanh truyền hình Thông tin (32,84 lần); Tổng công ty Xăng dầu quân

đội, Tổng công ty 36 (15,41 lần); Tổng công ty Cơ khí xây dựng (10 lần) [77]...

100

Với hiệu quả kinh tế thấp, thêm vào đó tình trạng huy động vốn bằng nhiều

hình thức đã đẩy nợ của nhiều DN ngày càng tăng (Xem phụ lục 13).

Số liệu của Bộ Tài chính tính đến 31/12/2015, tổng số cam kết bảo lãnh

Chính phủ xấp xỉ 26 tỷ USD, trong đó, bảo lãnh nước ngoài chiếm xấp xỉ 84% (chỉ

riêng EVN tăng nợ thêm gần 2 tỷ USD). Và điều đáng quan ngại là hàng loạt DN

được bảo lãnh nhưng kinh doanh kém hiệu quả, chậm trả nợ nên đã làm cho nợ

ngày càng tăng (Xem phụ lục 14).

Ba là, nhiều DNNN làm ăn thua lỗ lớn:

Chỉ điểm qua 12 dự án cho thấy những thiệt hại rất lớn kinh tế xã hội: Nhà

máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ tính đến ngày 31- 3-2015, tổng lỗ lên tới 1.732 tỉ

đồng; Dự án nhà máy bột giấy Phương Nam, đầu tư hơn 3.000 tỷ không thể hoạt

động do công nghệ lạc hậu và cũng không có khả năng khắc phục được, không có

hiệu quả về mặt kinh tế và không khả thi (đã dừng hoạt động); Dự án nhà máy gang

thép Thái Nguyên giai đoạn 2, dự án được phê duyệt năm 2005 là 3.843 tỷ đồng

nhưng do chậm tiến độ và ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế đã phải điều chỉnh

tăng gấp đôi lên 8.104 tỷ đồng vào năm 2013. Tuy nhiên do chưa thu xếp được vốn

vay bổ sung nên dự án vẫn tạm ngừng thi công từ đó đến nay; Nhà máy đạm Ninh

Bình lỗ 2.700 tỷ đồng; Đạm Hà Bắc, trong năm 2015 lỗ 665 tỷ đồng; Dạm DAP

Lào Cai, đến hết tháng 6/2016 lỗ 281 tỷ đồng; DAP Hải Phòng, lỗ lũy kế gần 321 tỷ

đồng, nợ vay 817 tỷ đồng; Ethanol Bình Phước, Ethanol Phú Thọ, Nhà máy Bio-

Ethanol Dung Quất, toàn bộ vốn đầu tư vào 3 dự án với tổng số tiền đã thanh toán

tính đến tháng 11/2014 là 5.401 tỷ đồng nhưng chưa có hiệu quả. Chỉ riêng Bio-

Ethanol Dung Quất đã dừng hoạt động từ tháng 4/2015, nhưng hiện chi phí bảo

quản, lương và bảo hiểm 50 nhân viên mất 2 tỷ đồng mỗi tháng; Nhà máy đóng tàu

Dung Quất, thời điểm 30/6/2016, tổng các khoản nợ phải trả vẫn còn hơn 6.893 tỷ

đồng; Dự án mỏ Quý Sa và nhà máy gang thép Lào Cai, năm 2015 lỗ 650 tỷ đồng.

Thế nhưng các chuyên gia kinh tế cho rằng: 12 dự án thua lỗ nghìn tỉ đồng chỉ là

phần nổi của băng chìm.

Và năm 2015, Kiểm toán NN cũng đã kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt

động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn và tài sản NN năm 2014 của 234 DN,

thuộc 38 tập đoàn, tổng công ty đưa ra các số liệu cho thấy rất nhiều DNNN làm ăn

thua lỗ rất lớn (Xem phụ lục 15).

101

Báo cáo của Kiểm toán NN cũng nêu, hầu hết các tập đoàn, tổng công ty

phản ánh không đúng doanh thu, chi phí. Như Mobifone chưa thực hiện đầy đủ các

quy định về khuyến mại, về xác định và báo cáo giá thành, giá cước dịch vụ viễn

thông. Tổng công ty Dầu Việt Nam kinh doanh xăng dầu chưa đúng quy định…

Một số tập đoàn, tổng công ty chưa sử dụng hết diện tích đất đang quản lý,

sử dụng không hiệu quả, không đúng mục đích, bị lấn chiếm, tranh chấp, chưa đầy

đủ hồ sơ pháp lý và chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính về đất…

Và theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 25/8/2017 sơ bộ

cả nước hiện có trên có 72 dự án có tổng mức đầu tư 42.744 tỷ đồng có dấu hiệu

đầu tư không hiệu quả. Ngoài 72 dự án, còn có gần 100 dự án đang trong diện cảnh

báo cao về khả năng đầu tư kém hiệu quả, 15 dự án có tổng mức đầu tư phải điều

chỉnh tăng so với mức đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (Tổng mức đầu

tư được phê duyệt sau cùng khoảng 22.536 tỷ đồng, tăng 2,03 lần so với tổng mức

đầu tư ban đầu) [152].

Số liệu trên đã cho chúng ta thấy những hạn chế của DNNN, chưa đáp ứng là

công cụ cơ bản để thực hiện vai trò điều tiết của NN trong nền kinh tế thị trường. Cũng

như khó khăn để NN có sức mạnh vật chất, nhằm điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế

thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra, chưa tương xứng với nguồn lực NN

đầu tư, gây mất lòng tin trong dân. Chính lẽ đó nhiều ý kiến cho rằng DNNN không đủ

sức là công cụ để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển bền vững theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường

trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Và để kéo giảm nguy cơ mất vốn, tiêu hao

nguồn lực NN cũng như của xã hội. Ngày 20/12/2016, Phó thủ tướng Vương Vình Huệ

chủ trì một cuộc họp nhằm tìm hướng tháo gỡ cho các dự án. Trong đó nhấn mạnh

"Kiên quyết xử lý các DNNN thua lỗ, các dự án đầu tư của DNNN không hiệu quả

hoặc hiệu quả thấp theo nguyên tắc và cơ chế thị trường".

* Hạn chế thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong

việc kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và tăng cường củng cố sức mạnh

quốc phòng - an ninh của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất,

xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng - thực hiện chính sách xã hội của DN

trong thời gian qua vẫn còn những mặt hạn chế, bất cập đó là:

102

- Nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp về hoạt động sản xuất,

xây dựng kinh tế của quân đội chưa thật đầy đủ, do nhiều nguyên nhân cả về khách

quan lẫn chủ quan, nên tiến độ xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng còn chậm;

- Một số DN quân đội còn lúng túng trong sắp xếp, chưa chú trọng đổi mới,

tái cơ cấu, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực

cạnh tranh chưa cao;

- Một số đơn vị chưa phát huy đầy đủ thế mạnh để tổ chức sản xuất, tham gia

xây dựng kinh tế, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng;

- Sự phối hợp giữa các cơ quan, giữa các cấp trong quản lý, chỉ đạo hoạt

động kinh tế chưa đồng bộ và chặt chẽ;

- Một số cơ chế, chính sách chậm đổi mới và chưa theo kịp sự phát triển của

thực tiễn…

- Được hưởng nhiều đặc quyền và nhiều ưu đãi của NN (những lợi thế trong

tiếp cận các nguồn lực đặc biệt nguồn lực tài chính, ưu đãi về quyền sử dụng đất, về

các loại thuế…). Tuy nhiên, còn nhiều DN chưa tận dụng lợi thế để phát triển trái

lại hiệu quả kinh tế thấp, một số còn thua lỗ làm thất thoát vốn NN rất lớn.

Như: Vi phạm nguyên tắc tài chính - ký kết hợp đồng không rõ ràng với DN

đối tác, vi phạm luật quốc tế khi đầu tư ngoài nước… khiến Công ty 75 đối mặt với

hàng loạt khó khăn, thất thoát vốn NN rất lớn (Xem Phụ lục 16).

Công ty Tây Nam thuộc Quân khu 7 - đã vi phạm luật trong ký hợp đồng ủy

quyền sai quy định cho Phạm Công Danh (Chủ tịch Tập đoàn Thiên Thanh) được

dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng 2 lô đất 302 Tô Hiến Thành và 816 Sư Vạn

Hạnh để làm địa điểm kinh doanh. Nhưng đã thế chấp, chuyển nhượng… gây thiệt

hại hơn 9.000 tỷ đồng xảy ra tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Xây dựng Việt

Nam (VNCB), vụ án vừa xét xử.

Và Báo cáo số: 428/BC-CP của Chính phủ Về hoạt động đầu tư, quản lý, sử

dụng vốn NN tại DN trong phạm vi toàn quốc năm 2015 (Thống kê các DN ANQP)

cho chúng ta thấy bức tranh ảm đạm về hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiều DN

(Xem phụ lục 17).

Với những số liệu đó cho thấy, trách nhiệm với xã hội của những DN này

còn rất nhiều hạn chế mặc dù nhận được nhiều ưu ái của NN.

103

* Hạn chế thực hiện trách nhiệm an sinh - xã hội của các doanh nghiệp

Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Bên cạnh những đóng góp cho xã hội và cộng đồng thì việc thực hiện ASXH

của nhiều DNNN còn những hạn chế nhất định. Cụ thể là việc thực hiện chính sách

ASXH chưa thực sự mang tính tự nguyện, đa số DNNN tập trung vào công tác cứu

trợ và xóa đói giảm nghèo, chưa xem xét chú ý đến nhu cầu an sinh ngày càng tăng

của nhóm cận nghèo và những đối tượng cần được trợ giúp khác, ASXH - hoạt

động quyên góp diễn ra tự phát dưới hình thức phong trào thay vì TNXH của cộng

đồng, của DN. Công tác này cũng chưa hướng vào việc xây dựng năng lực và trao

quyền để nâng cao khả năng tự bảo đảm ASXH của các tầng lớp dân cư để cùng

nhau vượt khó, vươn lên hỗ trợ nhau trong hoạn nạn. Hoạt động tuyên truyền và

nâng cao nhận thức xã hội của cán bộ, chính quyền cơ sở, của người dân về ASXH

còn yếu và nhiều bất cập.

Một là, DNNN còn nhiều hạn chế về giải quyết việc làm:

Doanh nghiệp nhà nước chỉ tạo ra số lượng việc làm là 1,4 triệu người trong

tổng số 11,8 triệu lao động đang làm việc trong các DN (năm 2015 Tổng cục Thống

kê). Những năm gần đây, số lượng lao động trong các DNNN đã giảm rất nhanh từ

mức 44% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ còn 23% trong giai đoạn 2006-2009,

và 11,9% giai đoạn 2011 - 2014 (Biểu đồ 3.10). Không những thế, tỷ lệ tạo ra việc làm

mới cũng giảm tương ứng từ -4% xuống -13% (Biểu đồ 3.11) [158]. Một trong

những nguyên nhân là do số lượng DNNN trong 3 năm qua giảm từ 1-2%/năm.

120%

100%

80%

60%

44%

40%

23%

11.9%

20%

0%

2001- 2005

2006- 2009

2011- 2014

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.10: Giảm lượng lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

104

12%

11%

7%

4%

3%

2%

-13%

1%

2%

1%

-9%

-3%

DN NN

FDI

Ngoài NN

Chung

2012

2013

2014

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.11: Tỷ lệ tạo ra việc làm mới

Nguồn: [158].

Hai là, DNNN phân phối thu nhập chưa tốt:

Đã và đang có sự bất hợp lý quỹ tiền lương trong nội bộ DN, là nguyên nhân

của sự chênh lệch quá lớn trong thu nhập giữa những người lao động trong cùng

DN và so với các DNNN khác gây ra bất bình trong xã hội. Cùng với đó là tình

trạng DN làm ăn thua lỗ nhưng lãnh đạo nhận lương cao vẫn còn phổ biến như:

Tại thành phố Hồ Chí Minh, một số DNNN trong lĩnh vực công ích đáng lẽ

phải đi đầu gương mẫu trong thực hiện TNXH. Thế nhưng tình trạng lãnh đạo nhận

lương cao bất thường, đối xử bất bình đẳng với người lao động đã gây nên dư luận

không tốt. Cụ thể: 5 DN hoạt động trong lĩnh vực thoát nước đô thị, chiếu sáng

công cộng, duy tu giao thông, công viên cây xanh đã xây dựng đơn giá tiền lương

của lao động gián tiếp không đúng quy định. Một số DN công ích đã sử dụng quỹ

lương của người lao động để chi bổ sung lương cho viên chức quản lý trái phép,

trích thêm quỹ lương cho viên chức ngoài quỹ lương được thành phố phê duyệt, dẫn

đến tiền lương của tổng giám đốc cao gấp nhiều lần so với các DNNN khác.

Sai phạm đó, Kiểm toán NN cho biết: CT1TV Chiếu sáng công cộng, lương

bình quân của cán bộ quản lý là 160 triệu đồng/người/tháng (chưa kể thưởng), trong đó

chủ tịch Hội đồng thành viên là 205 triệu đồng/tháng, giám đốc công ty 189 triệu

đồng/tháng. Tại CT1TV Thoát nước đô thị, lương bình quân của cán bộ quản lý là 111

triệu đồng/người/tháng, trong đó Chủ tịch Hội đồng thành viên là 217 triệu đồng/tháng,

giám đốc lên tới 262 triệu đồng/tháng. Nếu tính riêng một năm, thì chi phí lương cho

các vị này đã lên tới con số khó tưởng, từ 2,6-3,15 tỷ đồng/người [60], cao gấp 41 lần

so với người lao động mùa vụ (họ chỉ có 65,16 triệu đồng/năm [143]).

105

Bên cạnh đó lãnh đạo các DN này cũng đã vi phạm pháp luật trong việc hợp

đồng, sử dụng lao động, vi phạm chế độ tiền lương. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự

chênh lệch trong quỹ lương của lao động thường xuyên và lao động thời vụ. Trong

đó có nhiều lao động làm việc lâu năm nhưng chỉ được hưởng lương và chế độ

chính sách dành cho lao động thời vụ; Lương thấp, không có bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và mất rất nhiều quyền lợi khác (Xem phụ lục 18).

Tình hình nợ đọng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN theo Bảo hiểm xã hội

Việt Nam, số nợ bảo hiểm xã hội ước đến hết tháng 9/2016 lên tới 13,1 nghìn tỷ đồng.

Đây là khoản nợ không chỉ của các đơn vị khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, DN có

vốn đầu tư nước ngoài, mà bao gồm nợ của các đơn vị khu vực DNNN, tập trung ở

ngành giao thông, xây dựng và các tập đoàn đang thực hiện cơ cấu lại DN [2].

Ba là, thực hiện an toàn vệ sinh lao động trong các DNNN vẫn còn nhiều

khiếm khuyết:

Theo báo cáo của 63 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2015 toàn

quốc đã xảy 7.620 vụ tai nạn lao động làm trong đó 629 vụ tai nạn lao động chết

người, chết 666 người nhưng đến ngày 15 tháng 02 năm 2016, Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội nhận được 238 biên bản điều tra (261 người chết). Trong

đó, loại hình DNNN, đơn vị hành chính sự nghiệp chiếm 10,1% số vụ tai nạn chết

người và 9,6% số người chết [19].

Nguyên nhân do người sử dụng lao động chiếm 52,8% [19], cụ thể:

Người sử dụng lao động không xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an

toàn chiếm 25,2% tổng số vụ;

Người sử dụng lao động không huấn luyện an toàn lao động cho người lao

động chiếm 9,7% tổng số vụ;

Thiết bị không đảm bảo an toàn lao động chiếm 14,3% tổng số vụ;

Do tổ chức lao động và điều kiện lao động chiếm 2,6% tổng số vụ;

Do người sử dụng lao động không trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân trong

lao động chiếm 1% [19].

Bốn là, được hưởng nhiều ưu thế, đặc quyền, đặc lợi nhưng một bộ phận

DNNN chưa thực hiện tốt trách nhiệm ASXH:

Như các tập đoàn, tổng công ty thống lĩnh chi phối nhiều thị trường quan

trọng như điện, xăng dầu, khoáng sản, dịch vụ viễn thông, vận tải hàng không nội

106

địa, xuất khẩu lúa gạo… Khiến cho cạnh tranh diễn ra không lành mạnh giữa các

DN trong các ngành này, đã gây thiệt hại về kinh tế và ảnh hưởng xấu đến đời sống

nhân dân (Xem phụ lục 19).

Những vấn đề về điều chỉnh giá xăng dầu, giá điện... của DN các ngành này

thời gian qua cũng cho thấy sự thiếu TNXH. Nghịch lý là ở chỗ, chỉ cần giá xăng

dầu thế giới nhích lên một chút là các DN đã ngay lập tức đòi nâng giá nội địa. Và

ngay lập tức được nhà quản lý chấp thuận. Thế nhưng, khi giá thế giới giảm thì DN

và cơ quan quản lý rất chậm trong việc giảm giá nội địa… cách làm này đã làm thiệt

hại cho người tiêu dùng.

* Hạn chế thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái của các

doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi

trường sinh thái của nhiều DNNN còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần sớm khắc

phục. Như một số DNNN đã khai thác, sử dụng chưa hợp lý, hiệu quả và bền vững

tài nguyên đã khiến cho những nguồn tài nguyên này bị lâm vào tình trạng suy kiệt

một cách trầm trọng. Tình trạng phá rừng trái phép, ô nhiễm môi trường còn diễn ra

phổ biến, do xả thải không qua xử lý vào môi trường đất, nước, không khí những

lượng chất thải vô cùng lớn cùng với lượng bụi và độ ồn vượt quá nhiều lần tiêu

chuẩn cho phép… Thực tế đã cho thấy, thiệt hại về môi trường là những thiệt hại

nghiêm trọng, làm phát sinh những nguy cơ tiềm ẩn trong đó nguy hiểm nhất có thể

dẫn tới thiệt hại sức khoẻ, tính mạng, và tài sản của con người, ảnh hưởng xấu đến

an ninh, trật tự xã hội.

Điển hình của tình trạng này như tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 18 Hội đồng

Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Tài nguyên - Môi trường cho biết, hiện 5

trong 6 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong khu dân cư nhưng không chịu di dời lại là

DNNN, mặc dù thành phố đã lên kế hoạch di dời từ năm 2002. Trong đó hai cơ sở

gây ô nhiễm nghiêm trọng là: Trạm nghiền xi măng Hà Tiên 1 ở quận Thủ Đức;

Xưởng đóng tàu Ba Son [38], và còn rất nhiều DN khác (Xem phụ lục 20).

Do công nghệ kỹ thuật lạc hậu nên nhìn chung năng suất, hiệu quả kinh

doanh của nhiều DNNN còn thấp, thậm chí rất thấp [93], tiêu hao nhiều nguyên liệu

ảnh hưởng xấu tới môi trường, như:

107

Để sản xuất 1 tấn thép DNNN Việt Nam cần 800 - 1.000 kWh điện, trong khi

thế giới chỉ cần 300 - 500 kWh;

Phế phẩm ngành cơ khí ở Việt Nam là 20% - 30%, trên thế giới tỷ lệ đó là 5%;

Để sản xuất 1kWh điện (chạy than) Việt Nam tiêu hao 2.700 kCal, với các

nước khác con số đó là 1.900 kCal;

Trong công nghiệp nhẹ, tiêu hao vật chất của DN Việt Nam cao hơn của thế

giới 20% - 30%. Nhiều sản phẩm như thép, phân bón, xi-măng, kính xây dựng của

Việt Nam có giá cao hơn sản phẩm cùng loại nhập khẩu 20% - 40%...

Vì lợi ích, thiếu TNXH nên vẫn còn nhiều DNNN phá rừng, xả thải ra môi

trường không qua xử lý gây những hậu quả nghiêm trọng (Xem phụ lục 21).

3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện trách nhiệm xã

hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc

tế hiện nay

Có thể nói trách nhiệm quan trọng nhất của DNNN với xã hội là kinh doanh

có hiệu quả. Hiệu quả thì DN mới tồn tại, phát triển, là cơ sở quyết định đối với

việc định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững

của nền kinh tế, là nền tảng để thực hiện tốt các TNXH khác. DNNN là một

trong những công cụ cơ bản thực hiện vai trò điều tiết của NN trong nền kinh tế

thị trường, nhờ có thành phần kinh tế này mà NN có sức mạnh vật chất, để điều

tiết và hướng dẫn nền kinh tế thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, ANQP

đặt ra. Do đó, việc xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN cần có quan điểm toàn

diện cả về kinh tế, chính trị - xã hội. Vì vậy, hiệu quả thực tế thời gian qua của

DNNN là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, những hoài nghi, thiếu niềm tin của

một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân về hiệu quả của DNNN cũng không

phải là không có căn cứ với những số liệu được dẫn giải trên. Do đó, để nâng cao

năng lực cho các DNNN nhằm tạo cơ sở thực hiện tốt TNXH thì việc nghiên cứu

tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế yếu kém để từ đó đề xuất giải pháp phù

hợp, nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy hơn nữa TNXHDNNN đang là một trong

những vấn đề lớn, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài

của Đảng, NN Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Và theo tác giả có

các nguyên nhân hạn chế như sau:

108

* Khung pháp lý chưa vững chắc cho điều kiện kinh doanh và thực hiện

trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay

Có thể nói điểm yếu lớn nhất hiện nay dẫn đến việc DNNN thiếu TNXH là

những hạn chế trong quản lý hoạt động, lĩnh vực đầu tư và việc triển khai thực hiện

TNXHDNNN còn thiếu các chính sách pháp luật đồng bộ.

Một là, hạn chế về sở hữu và quản trị đối với DNNN:

Về sở hữu: Những quy định về đại diện phần vốn chủ sở hữu DNNN bộc lộ

nhiều bất cập. Vốn NN tại DN không phải là sở hữu riêng của bộ máy NN mà là một

hình thái sở hữu toàn dân, giao cho NN quyền đại diện kiểm soát và quản lý vì lợi ích

chung của quốc gia, dân tộc, tài sản này NN lại ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân thay

mặt NN quản lý, sử dụng. Do là tài sản công chứ không phải của một cá nhân nào, nên

việc thể hiện trách nhiệm làm chủ dù muốn dù không cũng có phần hạn chế. Một bộ

phận những người được NN phân công làm đại diện phần vốn chủ sở hữu chưa theo

kịp yêu cầu quản trị sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường. Một số chưa đảm bảo

về phẩm chất trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản NN - thiếu tài năng, kém về đạo đức

và do họ làm công việc được phân công ấy như là một công việc ăn lương nên không

thể trông mong họ đóng đúng vai người chủ DN thuộc thành phần kinh tế dân doanh.

Điều này có thể nhìn thấy rõ nhất qua thất bại của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt

Nam (Vinashin), Tổng Công ty Xây lắp Dầu Khí Việt Nam (PVC)...

Bên cạnh đó, người đại diện lại hưởng lương và các quyền lợi khác từ chính

DN, do người quản lý DN chi trả, nên họ khó thực hiện khách quan vai trò thay mặt

chủ sở hữu để giám sát hoạt động và bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu, vốn là người

quyết định lợi ích của bản thân mình. Cùng với đó là người được phân công làm đại

diện phần vốn chủ sở hữu của NN thường mang tính nhiệm kỳ: Cứ mỗi vài năm,

DNNN lại có những người chủ mới. Điều này khiến cho những người đại diện

không thể có được những kiến thức, kinh nghiệm về DN và thị trường như người

chủ của DN dân doanh. Và những quy định pháp lý cụ thể về mặt chế tài đối với

loại hành vi thuộc về vấn đề năng lực quản trị, điều hành, việc sử dụng vốn, huy

động nguồn vốn… lại chưa có hoặc chưa rõ, trách nhiệm giải trình của những người

bảo vệ lợi ích cho chủ sở hữu NN tại DN còn thấp, trước hết là các thành viên hội

đồng thành viên và kiểm soát viên ở các tập đoàn kinh tế và tổng công ty NN. Đặc biệt

cơ chế ủy quyền đi đôi với tình trạng buông lỏng quản lý, kiểm soát, việc giám sát

109

không rõ ràng, không chặt chẽ của chủ sở hữu [93], đã tạo kẽ hở cho các DNNN tự

tung, tự tác theo kiểu muốn làm gì thì làm, tùy tiện sắp xếp, bố trí nhân sự, tự ý quyết

định lương thưởng… Vì vậy, đã có nhiều trường hợp để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Về quản trị doanh nghiệp: Trước những hạn chế yếu kém, Đảng, NN, các Bộ

ngành… đã có nhiều giải pháp thay đổi cơ chế quản trị. Cơ bản nhất là ngày

17/05/2012 Chính phủ có báo cáo số 110/2012/BC-CP về Đề án tổng thể tái cơ cấu

nền kinh tế, để áp dụng quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế đối với DNNN. Báo

cáo chỉ ra cần: Tách quản trị công ty, quản lý kinh doanh khỏi quản lý NN; Đề cao

vai trò và trách nhiệm của Hội đồng quản trị, những người quản lý; Thay đổi cơ chế

tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ quản lý chủ chốt của tập đoàn, tổng công ty; Xây

dựng các quy chế quản trị nội bộ tập đoàn/tổng công ty theo chuẩn mực và thông lệ

quốc tế; Công khai minh bạch thông tin... Và để cụ thể hóa mang tính pháp quy, thì

tại Điều 90, 91 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 và tại Điều 7 Luật số

69/2014/QH13 - Luật Quản lý, sử dụng vốn NN đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại

DN. Thì NN giao quyền, trách nhiệm cho hội đồng quản trị, hội đồng thành viên

làm đại diện chủ sở hữu DN. Việc thay đi đổi lại mô hình quản lý từ bộ chủ quản

sang trao quyền cho DN "tự quyết", đề cao vai trò và trách nhiệm của Hội đồng

quản trị, những người quản lý… Nhưng trên thực tế quản trị vẫn thực hiện theo

Điều 4 Nghị định Số: 99/2012/NĐ-CP: Theo đó thì "đại diện chủ sở hữu DNNN" là

các cơ quan được Chính phủ phân cấp hoặc ủy quyền thực hiện chức năng đại diện

chủ sở hữu bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng quản trị Tập

đoàn, Tổng công ty, Công ty mẹ. Tuy nhiên, trên thực tế Thủ tướng Chính phủ, Bộ

trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với vị trí,

vai trò và trách nhiệm của mình đối với rất nhiều công việc khó có thể thực hiện hết

vai trò người "đại diện chủ sở hữu DNNN". Phần lớn trường hợp, những người

được nêu ở trên ủy quyền lại cho những người khác thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn

thay mình. Như vậy, bằng một cách thức rất hành chính, cơ chế quản lý trao quyền

cho những người giám sát, quản lý nguồn vốn NN nhưng họ lại không có điều kiện

sâu sát với DN. Các bộ phận "trung gian" dày đặc luôn tạo nên những "khoảng

cách" lớn giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân của một tỉnh thành, Bộ Trưởng của một

ngành, Thủ tướng của một Chính phủ đối với những DNNN. Tất cả các tầng đại

110

diện tạo ra một khoảng cách "diệu vợi" giữa những người chủ sở hữu cuối cùng với

những người đại diện của mình, cung cách quản lý lại nặng tính mệnh lệnh hành

chính, thủ tục giấy tờ, hội họp, báo cáo, rút kinh nghiệm… dẫn đến tính răn đe,

ngăn chặn, giám sát không có; Chưa công khai minh bạch kết quả sản xuất kinh

doanh… Chính cơ chế đó đã tạo nên lộ trình dễ dãi cho các loại kế hoạch tài chính,

chế độ kế toán, thống kê và kiểm toán được chế tác, "làm đẹp", hợp thức hóa. Và do

thiếu thanh tra, kiểm tra nghiêm ngặt hoạt động của các DNNN là cơ hội màu mỡ

để những người nắm quyền làm "ảo thuật", "phù phép" biến của công thành của tư,

biến dự án, công trình, kế hoạch kinh tế - xã hội của NN thành những mục đích của

một người hoặc một nhóm người (Điển hình là các trường hợp của Vinashin,

Vinalines, PVC...). Đặc biệt một số DN khi lâm vào khó khăn vẫn nhận được nhiều

biện pháp hỗ trợ; Xử lý chưa dứt điểm và hiệu quả các DN thua lỗ, các dự án đầu tư

không hiệu quả. Cụ thể, nhiều DN nợ cao gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, mất an

toàn tài chính, nguy cơ đổ vỡ cao nhưng không bị xử lý, hoặc chỉ xử lý phần ngọn,

khắc phục hậu quả hoặc hứng chịu hậu quả chứ chưa có cách thức, biện pháp để đấu

tranh xử lý kịp thời, nghiêm minh, ngăn chặn triệt để. Chính thiếu tính răn đe nên

các sai phạm trong các DNNN thường xuyên xảy ra, gây thiệt hại rất lớn cho ngân

sách. Chính những biệt đãi về vai trò, vị thế, và nguồn lực kể trên đã nuôi dưỡng sự

thụ động, phụ thuộc, thậm chí là ỷ lại, của các DNNN. Chính tính chất quan liêu

vốn có của hệ thống NN, dần dần làm thui chột sự chủ động, sáng tạo và tính chịu

trách nhiệm của các DNNN. Kết quả cuối cùng là sự trì trệ và kém hiệu quả.

Cùng công tác quản trị nhân sự thì quản trị về vật tư thiết bị và tài chính;

Quản trị về lao động, về khoa học… Cơ chế giám sát và tổ chức thực hiện giám sát

của các cơ quan quản lý NN về các vấn đề này đối với tập đoàn kinh tế NN, tổng

công ty cũng còn nhiều bất cập.

Hai là, DNNN chưa tách bạch được nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính

trị - công ích:

Để hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, Việt Nam đã nỗ lực không ngừng nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật

đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường của tất cả DN thuộc mọi thành

phần kinh tế, kể cả DNNN; Xóa bỏ mọi cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng trong

cơ hội kinh doanh, tiếp cận các nguồn lực và trong việc thực hiện các quy trình, thủ tục

111

hành chính; Áp dụng khung khổ và các nguyên tắc quản trị hiện đại theo thông lệ quốc

tế như xác định rõ mục tiêu thương mại và tách biệt rõ ràng với nhiệm vụ chính trị -

công ích của DNNN, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được. Tác giả xin dẫn

nhận định của ông Seck Yee Chung, Phó chủ tịch Hiệp hội DN Singapore về vấn đề

này: "Dường như ở Việt Nam, chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa các DNNN được

thành lập với những mục tiêu thương mại với mục đích tìm kiếm lợi nhuận với DNNN

phi thương mại được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ xã hội, bảo đảm quản lý

NN về tài nguyên thiên nhiên và cơ sở hạ tầng cơ bản" [10]. Cũng theo chuyên gia này,

một trong những lý do khiến một số DNNN phi thương mại hoạt động kém hiệu quả là

vì những DN này phát sinh lỗ từ những hoạt động đầu tư ngoài nhiệm vụ chính. Do đó,

thời gian qua mỗi khi bị phê phán về tính kém hiệu quả thì nhiều DNNN thường viện

dẫn các trách nhiệm chính trị - công ích mà mình phải gánh vác, cũng vì vậy nên trong

điều hành DNNN, nếu nhắm không thể thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế được giao,

thì người chịu trách nhiệm quản lý DN (tổng giám đốc) thường xin điều chỉnh một

cách dễ dàng. Do cơ chế xin-cho còn tồn tại khiến cho một số tổng giám đốc DNNN ỷ

lại, họ ít chịu áp lực về hiệu quả hoạt động của DN.

Ba là, nhiều DNNN đầu tư ngoài ngành vẫn chưa khắc phục lỗ làm cho hiệu

quả đầu tư toàn nền kinh tế thấp:

Trước những thiệt hại do DNNN đầu tư ngoài ngành, Chính phủ đã ban hành

nhiều văn bản pháp luật để điều chỉnh. Cụ thể gần đây có Nghị định số

91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và

quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp. Điều 21 Nghị định này, Chính phủ

đã "cấm" các DNNN đầu tư ngoài ngành tại các lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng,

chứng khoán, bảo hiểm… Chính phủ đã chỉ đạo, hết năm 2015 các tập đoàn, tổng

công ty phải hoàn thành thoái vốn đầu tư ngoài ngành và không có ngoại lệ. Tuy

nhiên, trên thực tế đã và đang còn nhiều tập đoàn kinh tế vẫn đầu tư không đúng

quy định. Cũng như chưa thực hiện nghiêm việc thoái vốn theo chủ trương của

Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Xem phụ lục 22).

Khi DN đầu tư đa ngành, đa nghề thì ít nhiều bản thân DN đánh mất đi lợi

thế cạnh tranh, lợi thế so sánh của mình, dễ mắc những sai lầm do sự phân tán các

nguồn lực và thiếu kinh nghiệm của bộ máy quản lý. Bên cạnh đó, việc kiểm soát

vốn đưa vào hoạt động đa lĩnh vực là rất phức tạp, nếu làm không tốt thì thất thoát,

112

lãng phí và khả năng đổ vỡ tài chính. Và thực tế hiển hiện, với khả năng tài chính có

hạn, việc đầu tư vốn dàn trải sẽ buộc DN phải tìm đến nguồn vốn mới với những

điều khoản thương mại ngặt nghèo, dễ đưa họ sa vào chiếc bẫy nợ hoặc sự lãng phí

nguồn vốn ngân sách NN và tín dụng đầu tư các cấp. Bài học đắt giá từ các dự án

ngoài ngành của Vinashin, EVN, PVN, TKV, Tập đoàn Cao su… đã cho chúng ta

thấy thực tế này.

Tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp, thất thoát vốn, thua lỗ nhiều, nợ

đọng của các DN… không chỉ là sự lãng phí nguồn lực quốc gia, mà còn ảnh hưởng

tiêu cực đến tính bình đẳng và minh bạch của môi trường kinh doanh nói chung.

Điều đó còn khiến dư luận quan ngại về việc thực hiện vai trò dẫn dắt và định

hướng cho cả nền kinh tế của các DNNN.

Bốn là, số lượng nhiều và vốn NN nắm giữ trong các doanh nghiệp còn rất

lớn nhưng vẫn chưa có cách thức quản trị để phát huy lợi thế:

Doanh nghiệp nhà nước với quy mô lớn và nhiều nhưng mô hình quản trị

hiện nay còn yếu kém, thiếu sự thanh tra, kiểm tra nghiêm ngặt đã dẫn đến nhiều bất

cập. Cho đến nay vẫn còn 718 DNNN, đây là con số quá lớn so với số lượng từ 10 đến

120 tại các quốc gia thành viên OECD, Ấn Độ 240… Tổng tài sản hơn 3 triệu tỷ đồng,

tương đương 80% GDP, so với thông lệ quốc tế quy mô DNNN chỉ tương đương 15%

GDP. Vì vậy, "Không thể nghĩ ra cách thức quản trị nào hiệu quả với quy mô tài sản

đó" [43]. Bên cạnh đó, nhiều DNNN còn né tránh sức ép cạnh tranh, được ưu ái nhiều,

còn độc quyền kinh doanh, cơ hội tiệm cận đất đai và tín dụng từ nguồn lực của NN…

Với lượng DNNN chiếm tỷ trọng lớn cộng với bất hợp lý về ngành, quy mô,

phân bố chưa hợp lý (nông nghiệp 25%, thương mại và dịch vụ 40%, trong khi công

nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo còn nhỏ) [41, tr.68], manh mún,

chồng chéo, trùng lắp trên cùng một địa bàn mang tính phổ biến dẫn đến đầu tư của

NN bị dàn trải, cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN, thậm chí giữa các đơn vị

của cùng một tổng công ty, nên đã làm lãng phí nguồn lực.

Năm là, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản lớn đối

với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của DNNN [99], gây

thất thoát lãng phí trong khai thác nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường:

Tại Việt Nam, mặc dù DNNN được xem là "đầu tàu", nhưng phần lớn đang sử

dụng công nghệ lạc hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới, trong đó 76%

113

thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm

1960-1970; 75% số thiết bị đã hết khấu hao và 50% thiết bị là đồ tân trang. Báo cáo

của Tổng cục Thống kê cho thấy tỉ lệ đổi mới công nghệ trong kế hoạch 5 năm 2011-

2015 đặt ra là tăng bình quân mỗi năm 13% nhưng kết quả chỉ tăng 10,68%/năm.

Trong khi đó trên thế giới, đổi mới công nghệ được thực hiện liên tục với tỷ lệ 30-40%,

thậm chí là 100% sau mỗi năm [78]. Thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ cho

biết, DN Việt Nam hiện nay mới chỉ dành khoảng 0,4% doanh thu hàng năm cho công

tác đổi mới công nghệ trong khi tại Hàn Quốc là 10% [131].

Như tại phiên họp Chính phủ ngày 20/12/2016 đã liệt kê nguyên nhân cơ bản

thua lỗ, kém hiệu quả của 12 dự án có vốn đầu tư trên nghìn tỷ đồng là do đầu tư

công nghệ lạc hậu, thậm chí có dự án không thể hoạt động được do công nghệ

không còn phù hợp [64] (Xem phụ lục 23).

Như vậy, với những hạn chế đó DNNN khó có thể thực hiện được vai trò làm

gương về năng suất, chất lượng, làm đầu tàu về khoa học, công nghệ trong điều kiện

cạnh tranh hiện nay và tương lai. Chính công nghệ lạc hậu, nên nhiều DN phát triển

kinh tế - xã hội chưa thực sự gắn với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Thêm vào

đó là công tác quản lý NN về môi trường có nơi, có lúc còn buông lỏng; Vai trò thống

nhất quản lý NN, điều phối nguồn lực bảo vệ môi trường của ngành môi trường còn

yếu; Chức năng, nhiệm vụ quản lý NN về bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo,

pháp luật chưa đủ sức răn đe; Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, đơn vị liên quan

trong bảo vệ môi trường thiếu chặt chẽ; Năng lực, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ quản lý bảo vệ môi trường của cán bộ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu,

nhất là ở cấp huyện, cấp xã. Nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường còn hạn chế; Xã

hội hóa bảo vệ môi trường chưa hiệu quả, thiếu cơ chế huy động, thu hút khối tư nhân

tham gia. Đó là những nguyên nhân gây ra hạn chế, yếu kém trên.

Sáu là, công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức về TNXHDN còn nhiều hạn chế:

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được xem là yếu tố quan trọng như

những yếu tố truyền thống khác, ví như: Chi phí, chất lượng và giao hàng trong

kinh doanh. TNXHDN được lồng ghép vào chiến lược của DN và trở thành điều

kiện bắt buộc để DN tồn tại và phát triển.

Tuy nhiên, khái niệm TNXHDN còn mới, các kênh thông tin về TNXHDN

hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế… Chính vì vậy đã làm cho nhiều DNNN hiểu sai đi

ý nghĩa cũng như cách thức thực hiện TNXH.

114

Trong hệ thống giáo dục quốc dân các chương trình về TNXHDN còn vắng

bóng, thậm chí còn xa lạ với sinh viên, ngay cả đối với các sinh viên thuộc các

ngành kinh doanh.

Do thông tin thiếu, vai trò định hướng dẫn dắt TNXHDN chưa rõ ràng nên

vấn đề nhận thức và hiểu biết, tiếp cận và áp dụng tại các DN chưa đầy đủ. Đây là

nguyên nhân dẫn đến việc còn nhiều cách hiểu, cách làm khác nhau gây lãng phí

thậm chí làm sai lệch đi ý nghĩa TNXHDN.

Bảy là, việc triển khai thực hiện TNXHDN còn thiếu các chính sách, pháp

luật đồng bộ, tính răn đe của pháp luật chưa cao:

Hiện Việt Nam chưa xây dựng được bộ quy tắc ứng xử TNXHDN nào, nên

một số DN muốn triển khai áp dụng một cách có hệ thống cũng rất khó khăn. Từ

nhận thức còn hạn chế cùng với TNXHDN vẫn chưa mang tính bắt buộc, nên việc

thực hiện vẫn còn là vấn đề khó với nhiều DNNN.

Hiện ý thức tôn trọng pháp luật của một bộ phận lãnh đạo DN chưa nghiêm,

thêm vào đó một số chế tài pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe, việc quản

lý NN còn chồng chéo, thiếu thống nhất, chưa có sự phối hợp tốt giữa Trung ương

và địa phương, giữa các bộ ngành - Minh chứng như: Luật Bảo vệ môi trường số:

55/2014/QH13, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015, và Bộ Luật Hình sự số:

100/2015/QH13 có hiệu lực từ 1/7/2016, đã xác định rõ hơn về tội phạm môi

trường, tính răn đe được đẩy cao hơn. Tập thể cũng như cá nhân đều bị xử phạt,

điều đó giúp DN nhận ra rằng việc xử phạt hiện nay đã không chỉ đánh vào kinh tế,

xử phạt hành chính mà còn xử phạt theo các khung hình sự. Mức phạt hành chính

đã tăng gấp đôi, lên mức 2 tỉ đồng đối với mỗi vụ vi phạm môi trường của tổ chức

hoặc cá nhân. Nhưng sự thật, nhiều DN sản xuất sẵn sàng nộp phạt thay vì đầu tư

vào hệ thống xử lý chất thải. Hay cho đến nay, với nhiều vụ gây ảnh hưởng nghiêm

trọng về môi trường nhưng vẫn chưa có vụ xử phạt hình sự nào. Vì vậy, nó chưa đủ

sức răn đe tác động đến thay đổi nhận thức cũng như thay đổi hành vi của các DN.

* Chủ thể các DNNN vẫn chưa thật sự quan tâm, chưa nhận thức đầy đủ về

TNXHDN khiến cho việc thực hiện TNXH vẫn còn tương đối khó khăn

Hiện nay, với các nước phát triển TNXHDN không còn xa lạ. Tuy nhiên, ở

Việt Nam thông tin về TNXHDN vẫn còn thiếu, vai trò định hướng dẫn dắt chưa rõ

ràng nên tiếp cận, nhận thức, và áp dụng chưa đầy đủ. Đây là nguyên nhân dẫn đến

115

việc còn nhiều cách hiểu, cách làm khác nhau gây lãng phí thậm chí làm sai lệch đi

ý nghĩa khi một bộ phận cho rằng TNXHDN đơn thuần chỉ là hoạt động "thực hiện

được thì tốt" còn bằng không thì "cũng không gây hại gì".

Một là, do nhận thức của một số đại diện chủ sở hữu DN về TNXHDN chưa

đúng, cũng như chưa đầy đủ trong điều kiện kinh tế thị trường của quá trình hội

nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Như Trương Phước Ánh đã nhận định: "TNXHDN,

nghe thì đã quen, nhưng hiểu và thực hiện thế nào cho đầy đủ vẫn luôn là câu

chuyện thời sự, của chính các doanh nhân" [3]. Nhiều doanh nhân chỉ hiểu đơn

thuần là làm các hoạt động từ thiện (như ủng hộ người nghèo, hay ủng hộ cứu trợ

thiên tai bão lụt…) trích từ lợi nhuận mà chưa hiểu thực hiện TNXH phải được tích

hợp ngay trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN và đó phải là kế hoạch

thường xuyên, dài hơi như là một chiến lược phát triển DN, nó mang lại những giá

trị tốt đẹp, bền vững cho cộng đồng và xã hội. Nhiều DNNN quan niệm khi nào

thừa tiền thì mới thực hiện, hoặc làm để đánh bóng thương hiệu, xem hoạt động

TNXH là hoạt động thụ động, phải đợi đến khi những sự việc đã xảy ra hoặc khi có

tổ chức nào đó đứng ra kêu gọi rồi mới tham gia.

Hai là, chủ thể các DNNN chỉ đơn thuần hiểu việc thực hiện TNXHDN là do

áp dụng những hệ thống quy tắc ứng xử du nhập từ quốc tế, nơi mặt bằng vật chất

cao hơn so với mặt bằng vật chất của Việt Nam. Trong khi đó DN thiếu nguồn tài

chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực TNXH, đặc biệt là các DN vừa và

nhỏ, nên họ e ngại áp dụng. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh của TNXHDN, và khi

nói đến TNXHDN, người ta liên tưởng ngay đến việc DN phải làm gì, đóng góp gì

với xã hội mà không hiểu TNXHDN khá đa dạng và phức tạp, bao gồm những cam

kết mang tính bắt buộc (sự tuân thủ quy định về pháp luật) và những cam kết mang

tính tự nguyện (thực hiện những bộ quy tắc ứng xử của DN, khu vực và quốc tế).

Thực hiện có thể bắt đầu từ việc tuân thủ quy định pháp luật về lao động ngay tại

DN gồm những tiêu chí như: Đảm bảo quyền lợi người lao động qua ký hợp đồng

lao động (thực hiện các chế độ cho người lao động), thỏa ước lao động tập thể, thực

hiện quy chế dân chủ cơ sở,… Và vấn đề môi trường bao gồm cả môi trường làm

việc (an toàn lao động, ứng xử, văn hoá DN), môi trường tự nhiên như đảm bảo

được hoạt động của mình không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh thái

(nước, khí thải, cây xanh) trong DN và ngoài DN, v.v…

116

* Vai trò và hiệu quả hoạt động của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp

còn hạn chế chưa đủ sức tác động đến việc thực hiện TNXHDNNN

Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Việt Nam đã có không ít hệ thống pháp luật

và các chính sách, điển hình như: Quốc hội đã thông qua một loạt các luật nhằm hỗ trợ

DN và người tiêu dùng, trong đó quan trọng nhất là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng đã quy định rõ, người tiêu dùng có 8 quyền cơ bản: Quyền được an toàn, quyền

được lựa chọn, quyền được thông tin, quyền được lắng nghe, quyền được tham gia xây

dựng chính sách, quyền được bồi thường, quyền được khiếu nại, quyền được tư vấn.

Cùng với chủ trương chính sách và pháp luật, còn có các hội tổ chức xã hội -

nghề nghiệp. Trong đó, nhân tố chính của quá trình đảm bảo thực hiện TNXHDN ở

Việt Nam hiện nay có thể kể đến đầu tiên là Công đoàn - đây là tổ chức chính trị -

xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên

cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đại diện cho người lao động, chăm lo và

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; Tham gia quản lý

NN, quản lý kinh tế - xã hội; Tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của

cơ quan NN, tổ chức, đơn vị, DN về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ

của người lao động; Tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình

độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vị

trí và vai trò như vậy nên Công đoàn là một trong những nhân tố kết hợp giữa NN,

DN và người lao động trong thực hiện TNXHDN. Thế nhưng, tại một số DN Công

đoàn vẫn chưa thực hiện hết các chức năng của mình được xã hội giao cho. Chính vì

vậy, dù đã có những trường hợp DNNN vi phạm (như trên) nhưng vẫn chưa thấy

tiếng nói của công đoàn. Tiếp theo là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

(VCCI). Tuy nhiên, cho đến nay dường như vai trò và hiệu quả tích cực của VCCI

mang lại cho TNXHDN tại Việt Nam vẫn còn mờ nhạt, ngoại trừ một vài khóa tập

huấn cũng như việc tổ chức trao giải thưởng TNXHDN Việt Nam hàng năm. Tiếp

đến đó là mạng lưới Global Compact Việt Nam, mục tiêu "trở thành trung tâm hàng

đầu về TNXHDN" với hơn 95 thành viên bao gồm các công ty trong và ngoài nước;

Các tổ chức phi chính phủ; Văn phòng vì sự phát triển bền vững của Việt Nam…

Trong các lĩnh vực, nội dung cụ thể số lượng các tổ chức hỗ trợ việc thực

hiện bảo vệ quyền của các bên hữu quan cũng đang được tăng cường. Hỗ trợ cho

hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được tổ chức theo hệ thống bao gồm:

117

Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas), thành viên của tổ

chức Quốc tế người tiêu dùng (CI) và 51 hội bảo vệ người tiêu dùng địa phương;

Ngoài ra, còn có các hiệp hội ngành nghề trong từng lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như:

Hiệp hội Da giày Việt Nam - Lefaso, Hiệp hội Dệt may Việt Nam - Vitas, Hiệp hội

DN điện tử Việt Nam - Veia... Nhìn chung, hiện nay có khoảng 990 tổ chức phi

Chính phủ và hiệp hội kinh doanh hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam [135],

trong đó số lượng hiệp hội ngành nghề của Việt Nam hiện là 179 [65].

Cùng các tổ chức thương mại có các cơ quan, tổ chức định chuẩn cũng đóng

góp vai trò không nhỏ trong việc thực hiện TNXHDN. Rõ ràng, những quy tắc xử

sự của DN có thể được xây dựng và ban hành bởi các cơ quan, tổ chức khác nhau.

Vì vậy, tương ứng với mỗi bộ quy tắc thường có cơ quan, tổ chức đã ban hành sẽ

chịu trách nhiệm trong việc đánh giá tình hình, mức độ thực hiện TNXHDN theo

các tiêu chuẩn đã ban hành trong các bộ quy tắc ấy - Ví dụ đối với tiêu chuẩn

SA8000 thì tổ chức SA hoặc cơ quan, tổ chức được ủy quyền sẽ có thẩm quyền

trong việc thực hiện việc đánh giá mức độ hoàn thành tiêu chuẩn SA8000 của

doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc xem xét quy định vai trò của các

cơ quan này trong việc hỗ trợ DN thực hiện TNXH cũng chưa được đề cập đến,

hầu hết các cơ quan định chuẩn này chỉ thực hiện vai trò của mình theo các mức

độ nhỏ lẻ hay trong các lĩnh vực có yêu cầu về đánh giá TNXHDN. Điều quan

trọng là cần phải xây dựng được hệ thống các cơ quan định chuẩn phối kết hợp

giúp đánh giá việc thực hiện TNXHDN, đặc biệt đối với việc thực hiện tiêu

chuẩn TNXH theo ISO 26000 hiện nay...

Và để giúp người tiêu dùng có thêm kênh tư vấn, hỗ trợ khi có thắc mắc,

khiếu nại về hàng hóa, dịch vụ vi phạm Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và

Luật Cạnh tranh… Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) có tổng đài tư vấn

miễn phí: 18006838, cùng với đó là tổng đài hỗ trợ khách hàng của nhiều DN…

Tuy nhiên, sau ba năm Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực, thực

tế hội chưa khởi kiện được vụ nào [75]. Trong khi đó theo số liệu của Cục Quản lý

cạnh tranh, chỉ riêng tám tháng đầu năm 2014 số vụ khiếu nại gửi đến cục lên tới 790,

gấp ba lần so với cả năm 2013. Thế nhưng nếu tính cả những vụ việc vi phạm liên quan

đến quyền lợi người tiêu dùng đã được các lực lượng như quản lý thị trường xử lý, thì

mỗi năm trên cả nước lên tới hàng chục ngàn, như năm 2013 có tới 90.279 vụ... Và số

vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam đang ngày càng tăng.

118

Vai trò chính của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp là bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp, chính đáng cho các thành viên, hội viên của mình trong khuôn khổ

pháp luật. Tuy nhiên, trong khi rất nhiều vụ việc xảy ra ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của các hội viên lại ít thấy các tổ chức hội nghề

nghiệp đứng ra bảo vệ họ. Khi dư luận tạo áp lực thì các hội nghề nghiệp này chỉ

thực hiện trách nhiệm đơn thuần là làm công văn đề nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ

quan liên quan giải quyết... Nhiều hội nghề nghiệp bỏ mặc thành viên, hội viên tự

thân vận động trong hành trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Một số tổ

chức hội, đoàn thể hoạt động hình thức, chỉ thực hiện nhiệm vụ thu hội phí, tổ chức

họp hành, sơ kết, tổng kết theo định kỳ, cuối năm làm báo cáo... [79].

Bên cạnh đó, kinh phí cho hoạt động của các tổ chức hiện nay chủ yếu là của

các DN, tương tự như nguồn kinh phí hoạt động của Công đoàn do chủ sử dụng lao

động chi trả, nên việc đi ngược lại với quyền lợi của người cấp vốn hoạt động cho

mình là điều không mấy khi được lựa chọn. Vả lại, Nghị định 99/2011/NĐ-CP

(Khoản 3 điều 25) Chính phủ quy định các tổ chức xã hội tự khởi kiện DN gian dối,

nhưng cơ chế tài chính đang ngăn cản họ thực hiện việc này. Nếu thua kiện, thì họ

phải trả toàn bộ án phí, bao gồm cả tiền luật sư, chi phí kiểm định, và các chi phí

liên quan. Nếu thắng kiện, thì họ không được hưởng tiền phạt DN vì hiện tại tiền

này được nộp vào ngân sách NN. Rõ ràng, dù thắng hay thua thì các tổ chức xã hội

dân sự đều không hoàn được chi phí, và rủi ro với họ quá cao. Thêm vào đó là quy

trình, thủ tục khiếu kiện hiện còn phức tạp, rườm rà…

Đồng thời cơ sở thành lập và hoạt động của các tổ chức này là điều lệ, quy

chế hoạt động dựa trên sự thỏa thuận, chưa có luật để quy định hoạt động chuyên

môn sâu (đã có dự thảo). Vì vậy, tính cưỡng chế chưa cao, việc bảo vệ các đối

tượng hữu quan vì thế cũng chưa triệt để.

Một vấn đề nữa đó là nhân sự quản lý các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp

chủ yếu là các đại diện quản lý của NN, hoặc DN, điều này không có tính khách

quan và độc lập về lợi ích. Nếu nhân sự được lấy từ dân cư hay các bên có liên

quan, thì sẽ có sự đồng cảm về cách nhìn của những bên yếu thế nhiều hơn, hoạt

động thực sự vì lợi ích đối kháng với việc tìm kiếm lợi nhuận của DN nhiều hơn.

Cùng với đó là tinh thần và trách nhiệm phục vụ của nhân sự trong các hội và hiệp

hội chưa thật sự như xã hội mong đợi (có thể thấy qua vụ việc công bố nước mắm

truyền thống bị nhiễm Thạch tín năm 2016 làm minh chứng).

119

Công tác truyền thông là rất quan trọng để DNNN nhận thức và thực hiện

TNXH. Truyền thông có tác dụng kết nối với cộng đồng, tuyên truyền để người dân

biết và hiểu về sản phẩm của DN. Vai trò của tuyên truyền còn được thể hiện ở việc

cung cấp thông tin để các nhà quản lý xây dựng các chính sách tạo điều kiện để các

DN thực hiện tốt TNXH. Tuy nhiên, hiện nay công tác này vẫn còn nhiều hạn chế.

* Nhận thức về quyền lợi, thói quen của người lao động và người tiêu

dùng chưa đủ sức tác động đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh

nghiệp Nhà nước

Đối với nhận thức về quyền lợi, thói quen của người lao động hiện nay:

Mặc dù pháp luật đã luôn được hoàn thiện, nhiều vấn đề phát sinh từ thực tế

đã được điều chỉnh bởi pháp luật, thế nhưng vẫn còn nhiều chính sách cụ thể với

người lao động hiện còn bất cập (về tiền lương, giờ làm thêm, bảo hiểm xã hội...

đang tồn tại nhiều phức tạp, có sự xung đột lợi ích giữa người lao động và chủ sử

dụng lao động), là kẽ hở khiến đội ngũ này chịu những thiệt thòi. Họ đang chịu

nhiều áp lực từ phía "chủ" DN, đời sống vật chất và tinh thần còn nhiều khó khăn...

Bên cạnh đó, dù chế độ, chính sách đãi ngộ quá thấp, mức thu nhập từ lương của

người lao động chưa đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình; Việc trả lương còn

nặng về chủ nghĩa bình quân "sống lâu lên lão làng", không phản ánh đúng năng

lực, nhất là chưa tương xứng với năng lực và kết quả làm việc của những người có

năng lực. Thế nhưng, một mặt do những kiến thức pháp luật hạn hẹp, lại không biết

đường đi nước bước khi bị "xâm phạm". Mặt khác họ có tâm lý ngại kiện cáo hoặc

họ không dám đấu tranh đòi quyền lợi hợp pháp của mình vì sợ mất việc làm, nên

họ chấp nhận chịu đựng, một số xin nghỉ việc ra làm nơi khác, để được tự do thoải

mái hơn chứ không muốn đấu tranh đòi hỏi.

Đối với nhận thức về quyền lợi, thói quen của người tiêu dùng hiện nay:

Với dân số hơn 90 triệu người cùng nguồn lao động trẻ dồi dào, GDP bình

quân đầu người liên tục tăng. Do đó, Việt Nam đã và đang là một thị trường kinh

doanh rất hấp dẫn cho các DN. Nắm bắt được lợi thế này, hệ thống DN sản xuất

trong nước đã nỗ lực thuyết phục người tiêu dùng mua hàng nội và tỷ trọng hàng

nội ngày càng tăng trên thị trường. Cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt

Nam, các chương trình bình ổn giá được Đảng, NN phát động và được nhiều tổ

chức, đoàn thể, DN tham gia hưởng ứng tích cực. Đây là chủ trương lớn, đúng đắn

120

của Đảng NN, nó không chỉ giúp DN trong nước vượt qua khó khăn trong bối cảnh

khủng hoảng kinh tế toàn cầu mà còn mang tính chất lâu dài khi hội nhập ngày càng

sâu, rộng với kinh tế thế giới. Cuộc vận động đã làm "đổi chiều" nhận thức của

người tiêu dùng đối với hàng nội và hàng ngoại; Tâm lý sính hàng ngoại đã giảm đi

nhiều, nhiều mặt hàng nội đã chiếm lĩnh được thị trường, được người tiêu dùng ưa

chuộng và đón nhận. Xu hướng như tẩy chay hàng giá rẻ, chất lượng kém và độc

hại, hoặc một số hàng nước ngoài "núp bóng" thương hiệu Việt để bán trên thị

trường Việt Nam cũng đã ngày càng phát triển. Từ đó, các DNNN đã chủ động,

sáng tạo trong việc xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường

theo hướng lâu dài, bền vững. Hàng hóa sản xuất trong nước không ngừng được cải

thiện, từng bước tạo dựng lòng tin với người tiêu dùng Việt.

Tuy nhiên, các số liệu khảo sát trong thời gian qua của một số tổ chức, cá

nhân cho thấy, người tiêu dùng Việt Nam do hạn chế hiểu biết về luật (Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng) nên thiếu sự chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của

mình khi bị chủ thể khác xâm phạm. Dù Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy

định người tiêu dùng có 8 quyền năng cơ bản. Nhưng, tỷ lệ chưa biết và hiểu các

quyền cơ bản của mình còn khá cao (Biểu đồ 3.12). Trong khi đó, một bộ phận hiểu

được các quyền của mình thì lại có tâm lý e ngại trong việc sử dụng các quyền của

mình, nhất là quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại. Phần

vì sợ mất thời gian, phần là do không tin vào những cơ chế khiếu nại, khiếu kiện có

sẵn, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ thực hiện việc khiếu nại. Về lý do (Xem phụ lục 24).

59% Có biết

70.5% Có biết

29.5% Không biết

75% Có biết 25% Không biết

41% Không biết

Mức độ biết về quyền của người tiêu dùng

Mức độ người tiêu dùng biết đến Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Mức độ biết đến cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 3.12: Mức độ người tiêu dùng hiểu quyền của mình

Nguồn: [15, tr.5].

121

Tâm lý ngại kiện cáo, quan niệm "vô phúc đáo tụng đình" của người tiêu

dùng, nhất là những người sống ở các vùng nông thôn vẫn còn phổ biến. Vì thế, khi

quyền lợi bị xâm phạm thì người tiêu dùng thường im lặng, không dám lên tiếng,

chỉ những trường hợp nào quá bức xúc mới khiếu nại, kiện tụng. Chính tâm lý này

chưa đủ sức tác động đến việc thay đổi nhận thức của các DNNN.

Đối với người tiêu dùng tại các nước phát triển, họ không chỉ quan tâm đến chất

lượng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các DN làm ra sản phẩm đó. Họ muốn biết

sản phẩm định mua có thân thiện với môi trường, với cộng đồng, có tính nhân đạo và

có lành mạnh không. Vấn đề này phần lớn người tiêu dùng Việt Nam chưa nghĩ tới,

phần lớn người tiêu dùng vẫn chú ý tới giá cả để quyết định mua sản phẩm, dịch vụ

hơn là lựa chọn DN thực hiện các TNXH [44] (30% sẽ mua sản phẩm rẻ hơn mà không

quan tâm tới việc DN thực hiện TNXH, 34,7% không có ý kiến về TNXHDN).

Và tại các nước phát triển, tính liên kết của người tiêu dùng cũng rất cao. Các

chiến dịch tẩy chay hàng hóa cho thấy vấn đề này, và chiến dịch tẩy chay hàng hóa

để bảo vệ quyền lợi của họ cũng là việc bình thường. Tuy nhiên, với người tiêu

dùng Việt Nam "thái độ" đối với hoạt động của DN ít khi căng thẳng. Rất ít vụ án

tập thể thưa kiện một DN tại toà về các vi phạm của họ trong hoạt động. Doanh

nghiệp có vi phạm thì công chúng chỉ viết lên báo hay tố cáo với cơ quan hữu trách,

chứ ít khi tranh chấp trực diện ngoài toà án. Điều đó cho thấy, phong trào đoàn kết

để bảo vệ lợi ích của mình dường như chưa có. Đồng thời các phong trào liên kết

tẩy chay hàng hóa vẫn còn là điều xa lạ.

Cùng với đó là thói quen tiêu xài hoang phí chuộng hình thức, thích phô

trương của một bộ phận người Việt. Theo một khảo sát trực tuyến của Niesel dựa

trên 29.000 người tại 58 quốc gia toàn thế giới thì có tới 56% số người Việt Nam được

hỏi cho biết sẽ sẵn sàng chi nhiều tiền cho hàng hiệu. Theo như kết quả này thì người

Việt thích hàng hiệu thứ ba thế giới, chỉ sau Trung Quốc đứng đầu với 74% và Ấn Độ

đứng thứ hai với 59% [127]. Chính tâm lý "sính ngoại" nên trong vài năm nay, các

thương hiệu hàng xa xỉ nổi tiếng trên thế giới đã tham gia vào cuộc đua nhằm chiếm

lĩnh thị trường Việt Nam. Sự xuất hiện ngày càng nhiều những thương hiệu đắt tiền,

cùng với những chiêu thức quảng cáo, chăm sóc khách hàng tốt khiến hiệu ứng hàng

hiệu trong tâm lý của người tiêu dùng Việt càng lớn. Thói quen này làm xuất hiện

122

nhiều loại hàng giả hàng nháy, kém chất lượng, trong khi đó chưa có biện pháp để xử

lý. Do đó đã tác động không nhỏ đến tâm lý của những DNNN làm ăn chân chính.

Tiểu kết chương 3

Với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp các ngành, sự phấn đấu của toàn xã hội,

DNNN đã thực hiện tốt các trách nhiệm của mình đối với xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh

những thành tích đạt được thì vẫn còn không ít DNNN hiệu quả đầu tư thấp, thậm chí

nhiều DN luôn làm ăn thua lỗ, nợ nhiều đang bên bờ vực phá sản; Nhiều DN vi phạm

pháp luật về môi trường, về một số chính sách đối với người lao động...

Về nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện những trách nhiệm của mình với

xã hội của các DNNN là: Bất cập trong quy định về đại diện phần vốn chủ sở hữu

DNNN, quản trị DN chưa phù hợp; Việc triển khai thực hiện TNXHDN còn thiếu các

chính sách, pháp luật đồng bộ, tính răn đe của pháp luật chưa cao; Công tác tuyên

truyền phổ biến kiến thức về TNXHDN còn nhiều hạn chế; Vai trò và hiệu quả hoạt

động của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội;

Người tiêu dùng Việt Nam do hạn chế hiểu biết về luật, ngại khiếu nại, kiện tụng.

123

Chương 4

NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Kinh doanh yếu kém là biểu hiện việc thiếu trách nhiệm cơ bản đối với xã

hội của một số DNNN, là nguyên nhân hạn chế trong việc đóng góp cơ sở vật chất

để cùng NN thực hiện các chính sách xã hội. Trước những hạn chế yếu kém, nhất là

những thất thoát vốn nghiêm trọng tại nhiều tập đoàn kinh tế NN. Đảng, Chính phủ,

các Bộ ngành… luôn quan tâm tìm những chính sách để nâng cao hiệu quả DNNN,

nhằm phát huy vai trò "nòng cốt" của nền kinh tế, làm cơ sở thực hiện tốt trách

nhiệm với xã hội. Cụ thể, từ đầu năm 2009 NN đã gia tăng đáng kể mối quan tâm

tới các chính sách phục hồi kinh tế, nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn tài sản NN đầu tư

vào DN. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 được thông qua tại Đại

hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã nhấn mạnh cải cách thể chế là một trong ba khâu

đột phá chiến lược:

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh

nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Sớm hoàn

thiện thể chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước.

Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; xây dựng một số tập đoàn

kinh tế mạnh, đa sở hữu, trong đó sở hữu NN giữ vai trò chi phối. Phân định

rõ quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn

thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp [51, tr.92].

Trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 khóa XI, Tổng

bí thư Nguyễn Phú Trọng thông báo chủ trương tái cơ cấu toàn diện nền kinh tế,

trong đó có nội dung "đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng

cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế" [144]. Thế nhưng, sự

quyết liệt cũng như chi tiết chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế bắt đầu được cụ thể

trong Kết luận số 50-KL/TW, ngày 29/10/2012, Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa XI về Đề án "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu

quả DNNN" (Xem Phụ lục 25). Tuy nhiên, một số nơi vẫn chưa nhận thức đầy đủ

124

về yêu cầu khách quan cần đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, do đó DNNN vẫn

tiếp tục mắt nhiều hạn chế yếu kém. Trước thực tế, và yêu cầu khách quan của hội

nhập, văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu: "Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp

nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt,

thiết yếu; Những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; Những lĩnh vực mà DN

thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư" [52, tr.106]. Và mục tiêu tổng quát

của Nghị quyết số 12-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN đã nêu:

Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền

tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn

mực quốc tế, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn

lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp để doanh

nghiệp nhà nước giữ vững vị trí nòng cốt và là một lực lượng vật chất

quan trọng của kinh tế NN, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội [7].

Cùng với các chủ trương, hiện nay Việt Nam đã thiết lập được khung pháp lý

tương đối đồng bộ theo hướng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt

giữa DNNN với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác; Bước đầu hoàn thiện cơ chế

quản trị DN phù hợp nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, xác định quyền

nghĩa vụ của chủ sở hữu NN đối với DN theo hướng NN chỉ thực hiện các quyền và

nghĩa vụ như các chủ đầu tư, chủ sở hữu vốn góp vào DN giống như các chủ đầu tư, chủ

sở hữu vốn thuộc các thành phần kinh tế khác (tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm).

Có thể nói, những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

NN là cơ sở, nền tảng, là những tiêu chí ràng buộc các DN phải hướng tới và phải

thực hiện để đạt được hiệu quả kinh tế cao góp phần tăng trưởng GDP, tham gia

cùng NN giải quyết những chính sách xã hội. Đồng thời đó còn là cơ sở ràng buộc

DNNN thực hiện các trách nhiệm của mình với xã hội để tương xứng với vị trí, vai

trò, nguồn lực NN đầu tư và những kỳ vọng của xã hội.

Tuy nhiên, nhiều quy định điều chỉnh việc thực hiện quyền chủ sở hữu NN

đối với DN còn sơ sài, chưa đầy đủ, đặc biệt là đối với các tổng công ty và tập đoàn

kinh tế. Hậu quả là, nhiều vấn đề phát sinh trong hoạt động của các DNNN không

125

có pháp luật để điều chỉnh hoặc điều chỉnh không đến nơi đến chốn, còn không ít

quy định có nội dung không thống nhất, mâu thuẫn với nhau. Chính vì vậy, cho đến

nay DNNN vẫn chưa phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế NN; Chưa

thực hiện được nhiệm vụ dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế. Nhìn

chung, hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng góp của nhiều DNNN còn thấp, chưa

tương xứng với nguồn lực NN đầu tư; Nợ nần, thua lỗ, thất thoát lớn. Cơ chế quản

trị DNNN chậm được đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù hợp với các thông lệ, chuẩn

mực quốc tế; Tính công khai, minh bạch còn hạn chế; Việc cơ cấu lại DNNN và

thoái vốn NN triển khai chậm, quá trình cổ phần hoá còn nhiều yếu kém, tiêu cực và

có một số khó khăn, vướng mắc về thể chế chậm được giải quyết, nhất là thể chế

định giá đất đai, tài sản. Trách nhiệm của người quản lý DNNN chưa rõ ràng; Công

tác cán bộ, chính sách tiền lương còn bất cập, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.

Việc tách chức năng quản lý NN và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn

NN tại DNNN thực hiện chậm. Cơ chế quản lý, giám sát và việc thực hiện quyền,

trách nhiệm của cơ quan và người đại diện chủ sở hữu NN chưa thật rõ ràng và phù

hợp; Đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng, phương thức hoạt động

của các tổ chức chính trị - xã hội trong DN chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu

lại DNNN [7]. Những hạn chế đó đang cản trở sự phát triển, tiềm ẩn những yếu tố

gây mất ổn định chính trị - xã hội, thiếu cơ sở đóng góp cho việc thực hiện TNXH.

Cùng với hạn chế yếu kém về kinh tế, thì việc tuyên truyền nhằm làm thay

đổi nhận thức và thực hiện TNXH của những người đại diện chủ sở hữu DNNN

cũng còn nhiều bất cập. Hay như, tinh thần phục vụ của các các tổ chức xã hội nghề

nghiệp chưa tương xứng với vai trò được xã hội giao cho cũng như nhận thức, thói

quen của người lao động, người tiêu dùng tác động chưa đủ sức mạnh đến việc thay

đổi nhận thức cũng như thực hiện TNXHDNNN.

Do đó, để nâng cao năng lực, tạo cơ sở vật chất để DNNN thực hiện tốt trách

nhiệm đối với xã hội thì cần: Hoàn chỉnh pháp luật để định vị lại vai trò và thu hẹp

phạm vi kinh doanh, hoạt động theo hướng điều chỉnh lại danh mục đầu tư và ngành

nghề kinh doanh, tập trung vào các ngành nghề chính; Đẩy mạnh quá trình cổ phần

hóa và thoái vốn NN theo cơ chế thị trường ở những ngành không phải/không trực

tiếp liên quan tới lĩnh vực kinh doanh chính hoặc NN không cần nắm giữ cổ phần

126

chi phối; Thực hiện nghiêm pháp luật, kỷ cương hành chính NN và kỷ luật thị

trường, đổi mới cơ chế khuyến khích, khen thưởng, bảo đảm DNNN hoạt động theo

cơ chế thị trường và cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế

khác, kiên quyết xóa bỏ tư duy bao cấp; Đổi mới, nghiên cứu, phát triển và tiến tới

áp dụng đầy đủ khung quản trị và kiểm soát nội bộ hiện đại theo kịp với sự phát

triển của nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Vì vậy, để đạt mục tiêu trên Đảng, NN cần xác định rõ mục tiêu, quan điểm

chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu có tính đột phá trong thời gian tới.

Bản thân DNNN, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, người lao động, người tiêu dùng

cũng cần chủ động với những giải pháp cụ thể, nó vừa có ý nghĩa cấp bách trước

mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Nhằm gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh

tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, thực hiện tốt

ASXH, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh vì mục tiêu "dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" trong quá trình hội nhập quốc tế hiện

nay. Chính vì lễ đó rất cần có những giải pháp cụ thể để thực hiện.

4.1. HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT NHẰM TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ

VỮNG CHẮC CHO ĐIỀU KIỆN KINH DOANH VÀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM

XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ

TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Khi các DN vẫn còn chưa ngộ ra rằng phát triển bền vững chính là phương

thức tối đa hoá lợi nhuận một cách hiệu quả nhất, thì những biện phát xử lý nghiêm

minh, chế tài bằng pháp luật của chính quyền đối với đối tượng sai phạm cùng việc

xây dựng một cơ chế khuyến khích dư luận đứng ra tự bảo vệ các quyền lợi chính

đáng của mình sẽ là những điều tối cần thiết để hình thành ý thức "trách nhiệm xã

hội cho doanh nghiệp" ở Việt Nam trong quá trình hội nhập. Để đạt được yêu cầu

đó, thì NN cần xây dựng nhiều những giải pháp đồng bộ.

4.1.1. Xây dựng cơ sở pháp lý để đổi mới quản trị, cơ cấu lại doanh

nghiệp Nhà nước theo những điều kiện và thông lệ quốc tế

Quy định hiện nay thì NN là chủ sở hữu đối với các DNNN, tuy nhiên "Nhà

nước" lại là một chủ thể chung chung nên vấn đề cốt lõi là sử dụng những người

"đại diện" như thế nào để đảm bảo vốn NN được quản lý, đầu tư hiệu quả. Thực tế

127

việc bầu, bổ nhiệm các chức danh quan trọng, chủ chốt trong DNNN còn mang

nặng tính hình thức và theo nhiệm kỳ khiến tâm lý "tranh thủ" quyền lực lấn át tâm

huyết, nỗ lực cống hiến… Công bằng mà nói thì việc quản lý DNNN mang những

đặc thù riêng, nhất là phải chấp hành hàng loạt những quy định riêng do NN đặt ra

với tư cách là chủ sở hữu, bên cạnh quản trị theo cơ chế thị trường của quá trình hội

nhập quốc tế. Do đó, phát hiện và sử dụng cán bộ đại diện quản lý DNNN giỏi khó

hơn nhiều so với các loại hình DN khác. Cho nên, việc xây dựng cơ chế bảo đảm để

các DNNN hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế là

rất quan trọng. Và việc đào tạo, tuyển chọn đội ngũ những cán bộ quản lý DN ngang

tầm cũng quan trọng không kém. Không thể chấp nhận những cán bộ có trình độ

chuyên môn thấp, kém năng động, thiếu trách nhiệm nhất là khi trao cho họ những DN

có số vốn lớn hàng trăm tỉ đồng và hàng nghìn lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [89, tr.273], "công việc thành công

hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [89, tr.269]. Do đó, NN cần:

Một là, tuyển dụng, bố trí, tạo môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cho

cán bộ quản lý DNNN:

Để chọn được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý DN đáp ứng được những yêu

cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc

tế, có trách nhiệm với xã hội thì:

- NN cần ban hành tiêu chuẩn cụ thể đối với từng vị trí, chức danh phù hợp

với quy mô DN và sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời phải thường xuyên kiểm

tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn đã đề ra;

- Song song với các tiêu chuẩn thì phải xây dựng chiến lược đào tạo, bồi

dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực điều hành, quản trị DN cho cán bộ. Cũng như

phải chú trọng đào tạo bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa

ứng xử, trách nhiệm với xã hội.

Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, một trong những vấn đề quan

trọng là phải tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức về kinh tế thị trường

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý DN để họ có đủ tự tin khi quyết định các

phương án sản xuất kinh doanh và điều hành DN theo yêu cầu của các quy luật kinh

tế thị trường;

128

- Cùng việc đào tạo, bồi dưỡng thì NN cần thực hiện triệt để nguyên tắc cạnh

tranh trong việc bố trí, sắp xếp nhân sự tại các DNNN, đặc biệt là vị trí quản trị,

điều hành. Bởi chỉ có cạnh tranh mới lựa chọn được cán bộ thật sự có tài, có đức để

điều hành DN phát triển nhanh, bền vững. Đồng thời, góp phần hạn chế được những

yếu kém, tiêu cực trong công tác cán bộ tại các DNNN dẫn đến thua lỗ nặng nề do

cơ cấu, bổ nhiệm khép kín như hiện nay;

- Nhà nước nên áp dụng chế độ thi tuyển để chọn giám đốc của từng DNNN

và thời hạn bổ nhiệm dựa trên những điều kiện hợp lý mà các ứng viên đưa ra khi

tham dự thi tuyển, song song tuyển chọn thì cần phải có một cơ chế đủ sức hấp dẫn

(lương, thưởng, điều kiện phát triển trong tương lai…) để thu hút và giữ những

người tâm huyết, có năng lực vào đội ngũ quản lý DN;

- Cùng việc thi tuyển thì NN cần chỉ đạo thực hiện việc thuê giám đốc điều

hành, quản lý DNNN là người trong nước và nước ngoài theo tinh thần kết luận của

Hội nghị Trung ương 3 khóa XI của Đảng [5].

Hai là, thực hiện chính sách tiền lương phù hợp với cơ chế thị trường:

- Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền thưởng, thù lao

cho người lao động và người quản lý DNNN phù hợp với cơ chế thị trường, bảo

đảm hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động. Theo đúng tinh

thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (số 11-NQ/TW, ngày

3/6/2017). Đó là cơ sở để DN thực sự chủ động trong trả lương, trả thưởng, thu hút

lao động có trình độ cao vào làm việc;

Ba là, tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra thường xuyên DNNN:

Mọi hoạt động của DNNN phải được tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra

chặt chẽ, công khai, minh bạch, bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế

khác nhằm ngăn chặn kịp thời những sai phạm, không để thất thoát, lãng phí vốn,

tài sản NN. Để thực hiện tốt các công việc này thì:

- Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế về sở hữu và chế tài về phân công,

phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu NN đối với

DNNN và vốn NN đầu tư vào DN. Trong đó, phân định rõ thẩm quyền, nghĩa vụ

của từng cấp từ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ủy ban nhân dân tỉnh,

129

thành phố trực thuộc Trung ương, nhằm thay thế Nghị định 99/2012/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 15/11/2012 về phân công, phân cấp thực hiện các quyền trách

nhiệm; Nghĩa vụ của chủ sở hữu NN đối với DNNN và vốn NN đầu tư vào DN.

Trong quá trình thực hiện những chủ trương trên, dù đã đạt được những kết

quả nhất định. Tuy nhiên, mô hình, tổ chức và cơ chế thực hiện chức năng chủ sở

hữu NN đã bộc lộ nhiều hạn chế như: Phân tán, thiếu chuyên nghiệp, phối hợp giữa

các cơ quan chức năng còn nhiều vướng mắc, lúng túng làm giảm hiệu lực, hiệu quả

quản lý, gây khó khăn cho tổ chức, hoạt động và đổi mới quản trị DNNN, chưa

phân định rõ cơ quan chịu trách nhiệm chính trong quản lý, giám sát việc sử dụng

vốn, tài sản của DN… Trước những hạn chế đó, Bộ Kế hoạch - đầu tư đã có dự thảo

nghị định quy định thành lập một cơ quan chuyên trách có tên gọi Ủy ban quản lý,

giám sát vốn và tài sản NN tại DN (gọi tắt là ủy ban), Ủy ban này sẽ quản lý các

DNNN thay vì để tại các bộ ngành. Theo dự thảo, ủy ban trên sẽ là cơ quan trực

thuộc trực tiếp Chính phủ, do Chính phủ thành lập. Vai trò của ủy ban sẽ giúp

Chính phủ quản lý, giám sát toàn bộ vốn và tài sản NN tại các DN. Bên cạnh đó, ủy

ban cũng trực tiếp thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và NN về tái cơ

cấu, thoái vốn, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN).

Có thể nói, việc sớm thành lập cơ quan quản lý chuyên là nhằm nâng dần

tính tập trung một đầu mối và tính chuyên nghiệp, thay vì kiểu tổ chức và hoạt động

vừa ôm đồm, vừa phân tán và bị quá tải như hiện nay. Đây cũng là nền tảng để thực

hiện có hiệu quả nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, quản lý sử dụng, bảo toàn, phát triển

vốn và đánh giá hiệu quả vốn NN đầu tư vào DN là phù hợp thực tế. Tuy nhiên, NN

đã quyết lập một cơ quan quản lý vốn NN tại các DNNN thì cần sớm triển khai;

- Nhà nước cần phải có chế tài cụ thể xác định rõ trách nhiệm của người

quyết định đầu tư, trách nhiệm của cơ quan thẩm định, của cơ quan quyết định đầu

tư các dự án sử dụng vốn ngân sách NN;

- Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để tăng cường minh

bạch báo cáo tài chính, thông tin tài chính, kinh doanh, điều hành tập đoàn kinh tế,

tổng công ty NN. Đồng thời, xem xét, xử lý nghiêm trách nhiệm với người quản lý

DN, người đại diện vốn NN tại DN không thực hiện đầy đủ quy định về báo cáo

giám sát tài chính. Cùng với đó là công khai trên báo chí các bộ ngành, các địa

phương không thực hiện báo cáo giám sát DNNN theo quy định;

130

- Hoàn thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng,

an ninh. Có cơ chế, chính sách đặc thù đối với DN an ninh - quốc phòng, gắn kết

chặt chẽ giữa công nghiệp quốc phòng, an ninh với công nghiệp dân sinh trong tổng

thể chính sách công nghiệp quốc gia;

- Pháp luật cần tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu NN

cùng với đó là phải đảm bảo quyền được tham gia vào hoạt động quản lý của mọi

người dân trong việc thực hiện TNXHDN như: Kiểm tra, phát hiện, tố cáo, đề nghị

xử lý những người làm ăn phi pháp, vi phạm lợi ích của nhân dân và của xã hội...

Bốn là, sớm tách bạch nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ chính trị - xã hội

của DNNN:

Khác với hoạt động của các thành phần kinh tế khác, hoạt động của DNNN

luôn có 2 mục tiêu cơ bản với 2 tính chất: Đó là mục tiêu kinh doanh thông thường như

các loại hình DN khác và mục tiêu chính trị - công ích đặc trưng riêng có của mình. Vì

vậy, NN cần nhanh chóng tách biệt rõ ràng giữa DNNN thực hiện chức năng kinh

doanh và DNNN thực hiện các nhiệm vụ chính trị - công ích. Để thực hiện thì:

- Nhà nước sớm hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, nhất là về đầu tư

công, đấu thầu, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản công;

- Pháp luật phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực hiện

chính sách xã hội;

- Đầu tư vốn của NN vào DN theo cơ chế thị trường để DNNN hoạt động

công khai, minh bạch và cạnh tranh bình đẳng lành mạnh theo pháp luật với DN

thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

đã đầu tư;

Cần xác định rõ theo các hệ tiêu chí đồng bộ và khoa học về tính chất kinh

doanh và tính chất công ích của DNNN, cũng như giữa trách nhiệm với xã hội của

các tập đoàn kinh tế NN đối với ổn định kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ sản xuất kinh

doanh, dễ dẫn đến đầu tư của tập đoàn vừa bị phân tán, vừa dễ bị lạm dụng, kém

hiệu quả. Do đó:

- Trong trường hợp DNNN vừa thực hiện các hoạt động kinh tế vì mục tiêu

lợi nhuận vừa cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công ích vì mục tiêu chính trị - xã

hội, thì mọi chi phí, vốn, doanh thu, lợi nhuận phải được công khai rõ ràng, minh

131

bạch theo các chuẩn mực cao nhất. Trong hoạt động đấu thầu, DNNN là bên tham

gia hoặc bên mời thầu, cũng phải tuân thủ theo trình tự thủ tục theo pháp luật

chung, bảo đảm công khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt.

- Nhà nước cần sớm hoàn thiện Nghị định về sản xuất và cung ứng sản

phẩm, dịch vụ công ích nhằm thay thế Nghị định 130/2013/NĐ-CP của Chính phủ

(như tại khoản 4 điều 9 - quy định về việc đầu tư ngoài ngành) hoàn thiện cơ chế tài

chính đối với DN sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, quốc phòng, an

ninh bảo đảm người lao động có mức thu nhập hợp lý, DN có lãi, thu hút được

nguồn lực của xã hội tham gia.

Năm là, cần nhanh chóng khắc phục việc đầu tư ngoài ngành của những DNNN:

Mặc dù thực tiễn thế giới đã chứng minh kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực

không phải lúc nào cũng là hạn chế: Thứ nhất, khi đa ngành, nếu nằm trong một

chuỗi giá trị, thì các tập đoàn dễ nội hóa được chi phí, qua đó giảm được chi phí.

Thứ hai, trong nhiều trường hợp, tập đoàn phát huy được nguồn lực, tận dụng cơ

hội để đạt hiệu quả cao và có lợi thế như về quy mô...

Tuy nhiên, tại Việt Nam do năng lực quản trị của một số cán bộ lãnh đạo đại

diện quản lý DNNN không theo kịp sự phát triển kinh doanh trong quá trình hội

nhập quốc tế, thiếu ý thức trách nhiệm. Cùng với đó là do thiếu cơ chế kiểm tra,

giám sát nên họ đã lợi dụng thực hiện tư lợi, lợi ích nhóm... khiến cho việc kinh

doanh đa ngành trở nên rủi ro. Rủi ro càng tăng khi đầu tư vào lĩnh vực tài chính,

ngân hàng, chứng khoán, bất động sản… Do đó, để khắc phục việc đầu tư ngoài

ngành của những DNNN thì:

- Việc thành lập và duy trì các DNNN cần đảm bảo những tiêu chí rõ ràng,

minh bạch. Chỉ những DNNN nằm trong tiêu chí "4 có, 3 không" thì tiếp tục được

duy trì và phát triển.

4 có bao gồm: DN phục vụ quốc phòng, an ninh; Lĩnh vực tạo ra hàng hóa

cực kỳ thiết yếu cho nền kinh tế (giao thông, cảng biển, sân bay, an ninh năng

lượng) đầu tư tốn kém, thu hồi chậm; Các ngành áp dụng công nghệ mới nhiều rủi

ro; Và những ngành đặc thù như chất độc, thuốc lá, rượu, v.v... mang tính độc

quyền tự nhiên.

Và 3 không là: Không đầu tư vào những ngành vì lợi nhuận đơn thuần;

Không đầu tư vào những ngành vì địa tô đơn thuần và không đầu tư tạo ra DN cạnh

132

tranh không bình đẳng với các thành phần kinh tế khác cùng ngành, cùng lĩnh vực.

Hay cụ thể chỉ đầu tư những nơi rất cần cho sự phát triển đất nước mà tư nhân

không muốn hoặc không thể làm, những lĩnh vực còn lại để tư nhân làm và NN chỉ

lo quản lý và thu thuế;

- Nhà nước cần đẩy nhanh tốc độ và kiên quyết thoái vốn đầu tư ngoài ngành

kinh doanh chính theo những chủ trương của Đảng, NN đã đề ra: Cụ thể, Quốc hội

đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng vốn NN đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN

và Luật doanh nghiệp năm 2014; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 23

Nghị định và 02 Quyết định hướng dẫn triển khai các Luật này.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành 05 Nghị định và Thủ tướng Chính phủ

đã ban hành 05 Quyết định về thúc đẩy tái cơ cấu, cổ phần hóa và thoái vốn tại DN

[155]. Mới đây, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã

ban hành thêm Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao

hiệu quả DNNN. Có thể nói: Những cơ chế, chính sách quan trọng liên quan đến tái

cơ cấu DNNN đó đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ qua đó từng bước đổi

mới cơ chế quản lý DNNN, xoá bỏ can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính đối với

quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN; Tăng tính tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần

kinh tế; Thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế… Nhưng thực tế vẫn còn nhiều

bất cập trong việc thực hiện các cơ chế, chính sách trên cần tiếp tục thực hiện. Do

đó: NN cần kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải không liên

quan đến ngành nghề chính, không góp phần làm cho ngành nghề chính lớn mạnh

mà còn làm cho nguồn lực của tập đoàn, tổng công ty bị phân tán, mang nhiều rủi ro

trong kinh doanh.

Mặc dù chủ trương thoái vốn ngoài ngành là rất quyết liệt, nhưng tại không ít

tập đoàn, tổng công ty NN vẫn "đủng đỉnh" dậm châm tại chỗ, những trường hợp

này cần phải có biện pháp xử lý kiên quyết và nghiêm minh thì mới đẩy nhanh tốc

độ thoái vốn ngoài ngành tại các DNNN.

Sáu là, tiếp tục và kiên quyết đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa DNNN:

Doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận cấu thành của kinh tế NN, do đó

DN không cần nắm tỷ trọng cao và áp đảo ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Quyết

133

định 58/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại DNNN, danh

mục DNNN thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020 đã phân định rõ những ngành

nào NN cần nắm 100% vốn, ngành nào cần nắm cổ phần chi phối, ngành nào không

cần. Chính phủ cũng đã có nhiều nỗ lực quảng bá các cơ hội đầu tư thông qua tổ chức

các IPO DN cho những nhà đầu tư ngoại. Tuy nhiên điểm nghẽn lớn nhất là rất nhiều

DNNN chưa nghiêm túc tuân thủ các quy định về công bố thông tin, điều này ảnh

hưởng đến việc thúc đẩy minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán, tạo tâm lý

không an tâm và khó thu hút nhà đầu tư. Vì vậy, cần sớm tháo gỡ vướng mắc này.

- Nhà nước quyết liệt hơn nữa trong chỉ đạo và triển khai thực hiện các giải

pháp để hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa DNNN giúp các DN có cơ cấu

hợp lý hơn, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ

công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế NN

thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để NN định hướng,

điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.

Đề án tái cơ cấu của một số bộ, ngành, địa phương tại một số DN còn chậm

so với yêu cầu: Một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty NN

chưa thật sát sao, quyết liệt trong chỉ đạo và triển khai thực hiện phương án sắp xếp,

cổ phần hóa, thoái vốn đã được phê duyệt. Do đó:

- Nhà nước cần xác định rõ chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý nghiêm đối với

người đứng đầu DN, người đại diện vốn NN tại DN và các chủ thể có liên quan

trong trường hợp cố tình sai phạm, trì hoãn, làm thất thoát vốn, nhất là không có

tiêu cực trong việc cổ phần hóa và thoái vốn NN;

- Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, đôn đốc, giám sát, tháo gỡ khó khăn,

vướng mắc cho các bộ, ngành, địa phương, DN trong việc thực hiện tái cơ cấu, cổ phần

hóa, thoái vốn NN cùng với thực hiện nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh được giao;

- Nhà nước kiên quyết sắp xếp, giải thể những DN hoạt động không hiệu

quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng khôi phục;

- Kiên quyết xoá bỏ triệt để cơ chế bao cấp của NN đối với DN thuộc mọi

thành phần kinh tế, nhất là các DNNN theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW -

Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá XII về hoàn thiện

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

134

- Nhà nước kiên quyết không dùng tiền ngân sách NN để bù lỗ, hỗ trợ cho

các dự án thua lỗ, kiên quyết không "gánh" nợ cho DNNN. Do đó, NN cần sớm thảo

luận và lấy ý kiến để sửa đổi hoàn chỉnh Luật Quản lý nợ công - Luật số: 29/2009/

QH12, năm 2009. Mục tiêu nhằm kiểm soát chặt chẽ nợ công trên cơ sở gia tăng quy

định về giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý nợ công,

quản lý rủi ro; Kiểm soát tốc độ gia tăng nợ công, bảo đảm an toàn, bền vững nợ và an

ninh tài chính quốc gia; Góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững;

- Nhà nước cần hạn chế tối đa cấp bảo lãnh cho các khoản vay mới, khống

chế hạn mức bảo lãnh theo tinh thần Nghị quyết số 05/NQ-TW - Hội nghị lần thứ tư

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, năm 2016. Đồng thời kiểm soát chặt

chẽ việc vay vốn, đặc biệt là vay nước ngoài của các DNNN;

- Trừ những trường hợp đặc biệt NN mới can thiệp, còn lại DNNN nợ tự vay

tự trả. Trong trường hợp DNNN không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá

sản theo quy định của pháp luật tương tự như các loại hình DN khác;

- Nhà nước cần tăng cường và chủ động công tác thông tin, tuyên truyền, tạo

sự đồng thuận, nhất trí cao giữa các ngành, các cấp, các DN, nhân dân trong thực

hiện nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch tái cơ cấu

nền kinh tế giai đoạn 2015 - 2020 đã đề ra.

Bảy là, hoàn thiện những chính sách và chế tài nhằm nâng cao đầu tư trình

độ kỹ thuật, công nghệ cho DNNN:

Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng, tham gia

nhiều tổ chức thương mại quốc tế, sản xuất trong nước hướng đến thị trường nước

ngoài; Các DN bước vào sân chơi chung của thế giới, đó là nền kinh tế thị trường,

môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Tăng cường cạnh tranh trên

thị trường toàn cầu đặt ra yêu cầu cấp thiết đó là phải đầu tư phát triển công nghệ kỹ

thuật hiện đại. Công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ giúp các DNNN Việt Nam nâng cao

vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, sản phẩm đáp ứng được nhu cầu cao của người

tiêu dùng, bên cạnh đó đủ điều kiện để đáp ứng các rào cản kỹ thuật trong thương

mại quốc tế. Tuy Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong nghiên cứu

khoa học, thế nhưng hệ thống đổi mới sáng tạo Việt Nam hiện nay, theo tiêu chuẩn

hiện đại chỉ mới manh nha. Năng lực khoa học, công nghệ và sáng tạo còn yếu, hệ

thống sáng tạo quốc gia còn non trẻ và manh mún nên cần được tiếp tục cải thiện,

135

để cạnh tranh và thắng thế trong cạnh tranh. Để giành được ưu thế này, không giải

pháp nào tốt hơn là phải có được những sản phẩm chất lượng tốt, giá thành thấp có

ưu thế so với các sản phẩm cùng loại, đáp ứng những tiêu chuẩn về TNXH, dịch vụ

hậu mãi và các hình thức quảng bá được người tiêu dùng quan tâm,... Muốn vậy,

DN phải tăng năng suất, chất lượng để giảm giá thành sản phẩm thông qua việc đổi

mới máy móc thiết bị, đổi mới quản trị trong sản xuất - kinh doanh.

Cùng với đó DNNN còn phải đảm nhận trách nhiệm đi đầu là lực lượng nòng

cốt trong việc điều tiết nền kinh tế độc lập tự chủ vận động theo cơ chế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng góp vào thực hiện ASXH, tạo tiềm lực để xây

dựng sức mạnh ANQP, do đó hiệu quả kinh tế được xác định là trọng tâm trong

hoạt động. Do đó:

- Nhà nước cần tạo điều kiện cho DN đầu tư đổi mới công nghệ để sản xuất

những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có chất lượng để cạnh tranh trong nước

cũng như hội nhập được vào thị trường quốc tế.

Mặc dù gần đây Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày

16/05/2016 - Về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020. Nghị quyết số 19-

2016/NQ-CP - Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh

doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 - 2017, định hướng đến

năm 2020. Đó là cơ chế chính sách thông thoán, cơ sở pháp lý quan trọng để tạo

điều kiện cho các DN đầu tư phát triển nói chung và khoa học công nghệ nói riêng.

Tuy nhiên, các chính sách liên quan đến thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ

đến nay cơ bản mới tác động theo hướng khuyến khích mà chưa có những yêu cầu

hoặc chế tài buộc DN phải dành nguồn lực nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Và cơ

chế quản lý tài chính theo quy trình xét duyệt cứng nhắc và thủ tục rườm rà như

hiện tại khiến DN rất ngại đầu tư. Do đó, tình hình thực hiện vẫn chưa được cải

thiện đáng kể. Vì vậy:

- Nhà nước phải xóa bỏ cơ chế xin - cho, đổi mới quy trình xét duyệt, tuyển

chọn và ban hành các cơ chế tài chính linh hoạt trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng.

- Chính bản thân các DNNN cần phải tích cực chủ động thực hiện, nếu

không thì NN cần có những chế tài đủ mạnh để xử lý các DNNN cố ý không thực

hiện đầu tư đổi mới phát triển kỹ thuật công nghệ hiện đại - phù hợp;

136

- Nhà nước cần có những ưu đãi cho các DN đầu tư đổi mới công nghệ sản

xuất và phát triển công nghệ thân thiện với môi trường, mua sắm các phương tiện

để xử lý rác thải, nước thải và khí thải, đầu tư thực hiện các tiêu chuẩn môi trường

quốc tế và các bộ quy tắc ứng xử về thực hiện trách nhiệm của DN với xã hội.

Bên cạnh đó, NN cần xây dựng những chế tài để xử lý nghiêm những trường

hợp lợi dụng chính sách ưu đãi đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất. Như cố tình đầu

tư công nghệ không phù hợp (điển hình qua 12 dự án thua lỗ nêu trên).

- Nhà nước cần đảo chiều việc chảy máu chất xám thành thu hút chất xám

bằng những quốc sách với những chính sách tài chính, phúc lợi… nhằm tăng cường

nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo;

- Nhà nước cần có các chính sách cụ thể để nâng cao chất lượng giáo dục ở

tất cả các cấp, tạo điều kiện nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động, chú trọng

hơn nữa năng lực kinh doanh và các kỹ năng mềm, thúc đẩy trao đổi kiến thức giữa

các trường đại học, các viện nghiên cứu của NN và khu vực DN;

- Nhà nước cần có cơ chế chính sách cho các trường đại học và cơ quan

nghiên cứu NN để làm cho các kết quả nghiên cứu của họ gắn với nhu cầu của nền

kinh tế và thị trường lao động, giải quyết những hạn chế về nguồn lực và định

hướng cũng như hỗ trợ tài chính cho các nghiên cứu công một cách có hiệu quả;

- Cùng các chủ trương, chính sách nhằm phát triển kỹ thuật công nghệ, thì NN

cần phải tiến hành soát xét lại hệ thống pháp luật về đánh giá tác động môi trường

trong các dự án đầu tư; Bổ sung quy định về chế độ trách nhiệm cho người đứng đầu tổ

chức tư vấn và thành viên hội đồng thẩm định đánh giá tác động môi trường;

- Nhà nước cần quy định việc đánh giá tác động môi trường theo hai bước

đối với các dự án thuộc đối tượng phải xin chủ trương đầu tư, và các dự án phức tạp

nhạy cảm về môi trường. Đó là, huy động sự tham gia của các cơ quan nghiên cứu,

các nhà khoa học trong quá trình thẩm định, bên cạnh đó là tăng cường công tác

tham vấn cộng đồng theo hướng công khai thông tin cho chính quyền, nhân dân địa

phương, các hộ dân bị ảnh hưởng trực tiếp, các đơn vị, cá nhân quan tâm và lắng

nghe, tiếp thu ý kiến về dự án… Việc sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý

theo nguyên tắc: "Người gây ô nhiễm phải trả tiền" và "người hưởng lợi từ môi

trường phải trả chi phí" [4], coi đây là giải pháp mang tính đột phá để huy động

nguồn lực từ xã hội, giảm gánh nặng từ nguồn ngân sách NN.

137

- Hoàn thiện pháp luật để tăng cường hiệu lực, hiệu quả cơ chế giám sát,

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, phòng, chống

thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu;

- Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng

tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên;

- Nhà nước kiên quyết không cho đầu tư đối với các dự án không đảm bảo về

môi trường và cần hạn chế việc phát triển kinh tế thâm dụng vào môi trường, can

thiệp vào tự nhiên;

Có thể nói, qua những số liệu thống kê vi phạm đã cho thấy vấn đề chấp

hành pháp luật về bảo vệ môi trường hiện chưa được các DN nghiêm túc thực thi.

Dưới góc nhìn pháp lý, nhiều luật sư và những nhà nghiên cứu khác nhận định:

Hiện mức xử phạt chưa đủ sức răn đe nên mới xuất hiện tình trạng nhiều DN sẵn

sàng nộp phạt khi bị phát hiện xả thải gây ô nhiễm môi trường. Như trên đã đề cập,

dù mức phạt hành chính đã tăng lên mức tối đa 2 tỷ đồng đối với mỗi vụ vi phạm

môi trường của tổ chức hoặc cá nhân. Nhưng sự thật nhiều DN sẵn sàng nộp phạt

thay vì đầu tư vào hệ thống xử lý chất thải, qua đó cho thấy những bất cập của công

tác quản lý vi phạm môi trường vẫn còn tồn tại… Vì vậy:

- Nhà nước cần phải xây dựng pháp luật với những chế tài xử phạt nghiêm

khắc, đủ sức răn đe đối với những đối tượng có hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Đồng thời siết chặt và kiểm soát, quản lý các hoạt động môi trường đối với các DN

đầu tư sản xuất;

- Các bộ, ngành cần nghiên cứu, rà soát, tham mưu đề xuất Quốc hội, Chính

phủ tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong phòng, chống tội phạm,

vi phạm pháp luật về môi trường, tài nguyên, an toàn thực phẩm, về không khí sạch,

về nguồn nước sạch; Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm, về quản lý

chất thải, về khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường, về bảo tồn thiên

nhiên và đa dạng sinh học… đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, phù hợp

với xu thế hội nhập quốc tế theo hướng xây dựng chế tài có tính răn đe cao để ngăn

ngừa, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm;

- Xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác quản lý và

xử lý các hành vi vi phạm. Làm rõ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy,

chính quyền địa phương để xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường kéo dài;

138

- Cần đổi mới nội dung tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm

về bảo vệ môi trường của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, DN

và mọi người dân.

4.1.2. Xây dựng những chủ trương chính sách, pháp luật để phát huy vai

trò của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp tác động thúc đẩy doanh nghiệp

Nhà nước nâng cao nhận thức, thực hiện trách nhiệm xã hội

Một là, chính sách tuyên truyền cho các DNNN về nghĩa vụ và lợi ích khi DN

thực hiện TNXH:

Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức như: Qua

các phương tiện thông tin đại chúng, các đợt tập huấn bắt buộc cho lãnh đạo DN,

các hội nghị, các hội thảo khoa học… Bên cạnh đó:

- Nhà nước cần thiết lập cơ chế giám sát đồng bộ, có sự kết hợp giữa chính

quyền và các lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt là các hiệp hội, các tổ chức phi

chính phủ và các phương tiện truyền thông;

- Nhà nước sớm hình thành nhiều kênh thông tin các vấn đề về TNXH cho

các DN, nhất là cung cấp các thông tin cập nhật về các bộ quy tắc ứng xử. Đồng

thời, cần liên tục cập nhật tư vấn các Bộ quy tắc ứng xử mới cho các DN;

- Nhà nước cần có những cơ chế chính sách, những chỉ đạo để phát huy vai

trò của các hiệp hội nghề nghiệp của hội Công thương, Văn phòng Thương mại và

Công nghiệp Việt Nam, các bộ, ngành;

- Nhà nước cần đưa vấn đề TNXHDN vào chương trình phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước, xem TNXH như là một vấn đề có tầm quan trọng quốc gia, và

lồng ghép TNXH vào các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, công bố

hệ thống quan điểm của Chính phủ đối với vấn đề thực hiện TNXHDN;

Hiện nay, trong các trường đại học dạy về kinh doanh, sinh viên chủ yếu

được trang bị về các kỹ năng cứng như các nghiệp vụ, kỹ thuật kinh doanh là chính

chứ ít khi được dạy về các kỹ năng mền như: Cách ứng xử trong hoạt động kinh

doanh, và càng hiếm được dạy về cách ứng xử có đạo đức, trách nhiệm của DN với

xã hội, với cộng đồng. Vì vậy:

- Nhà nước nên đưa những vấn đề TNXHDN vào hệ thống giáo dục đào tạo,

hệ thống dạy nghề. Không chỉ vậy, ngay từ cấp học tiểu học cần chú trọng giảng

139

dạy những bài học về TNXH, về đạo đức cư xử, lòng nhân ái, ý thức bảo vệ môi

trường… Các bài học này sẽ theo học sinh suốt những năm tháng ngồi ghế nhà

trường và nhờ vậy, những người chủ tương lai của đất nước sẽ có ý thức tốt hơn về

TNXH nói chung;

- Nhà nước cũng nên khen thưởng xứng đáng, kịp thời và chứng nhận cho

những DN thực hiện tốt những trách nhiệm đối với xã hội. Đó là phần thưởng động

lực phi vật chất, và công việc kinh doanh của DN sẽ thuận lợi hơn khi đạt được

những chứng nhận này. Đồng thời đặt ra những biện pháp chế tài quy định cụ thể

mức độ xử lý với những DN vi phạm;

- Đối với những cơ quan thông tấn báo chí cần có nhiều bài viết và tăng

cường thông tin, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng bản chất của vấn đề "trách

nhiệm xã hội" và các bộ quy tắc ứng xử.

Cần phải thông tin nhiều hơn nữa những DN làm ăn chân chính, tuyên

truyền, quảng bá những thương hiệu có uy tín đồng thời cũng phê phán mạnh mẽ

những DN không có đạo đức kinh doanh. Thông tin phải đảm bảo chính xác, trung

thực bởi vì tạo dựng một thương hiệu có khi là 5 năm, 10 năm hay cả một đời người

hoặc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Song chỉ cần một thông tin thiếu chính xác trên

báo chí là có thể "tiêu diệt" cả một thương hiệu, như vụ nước phở bẩn ở Hà Nội,

phở nhiễm độc, làm bẩn; Thông tin gạo nhiễm thạch tín, hay thông tin ăn chuối,

bưởi bị ung thư đã làm cho nhiều nông dân Việt Nam điêu đứng… Đặc biệt tháng

10/2016 Hiệp hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) đã thông tin nhiều

mẫu nước mắm truyền thống có hàm lượng arsen (thạch tín) vượt ngưỡng,… Những

tin đồn thất thiệt, thiếu khách quan, mập mờ này không chỉ gây hoang mang đối với

công chúng mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng cho người sản xuất, DN - "nạn nhân"

của tin đồn. Do đó, NN cần có những chế tài để xử lý nghiêm các trường hợp này.

Hai là, xây dựng những chủ trương chính sách, pháp luật phát huy vai trò

của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp, người tiêu dùng nhằm thúc đẩy các doanh

nghiệp Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm xã hội.

- Nhà nước sớm xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với cương

lĩnh và chiến lược kinh tế - xã hội trong điều kiện mới; Phải kịp thời bổ sung, hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý tương đối ổn định cho quá trình hoạt

140

động của DN. Hệ thống pháp luật phải rõ ràng, minh bạch, tránh chồng chéo, để

một mặt bảo đảm sự công bằng của DN, thúc đẩy sự phát triển của DN, mặt khác

không có kẻ hở để DN lợi dụng làm sai trái hoặc lảng tránh.

Trên thế giới hiện có khoảng hơn 1000 bộ quy tắc ứng xử, trong khi đó Việt

Nam chưa xây dựng được bộ quy tắc ứng xử TNXHDN nào. Tuy nhiên, DN khi

tham gia các quan hệ thương mại quốc tế đã tự nguyện cam kết một số bộ tiêu

chuẩn trách nhiệm đối với xã hội, như: Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA8000 và

WRAP; Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000; Hệ thống quản lý an toàn và sức

khỏe OHSAS 18001… Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, các hàng rào

thuế quan sẽ dần được dở bỏ ở các nước, nhất là các nước đang phát triển. Thế

nhưng, đã và đang dựng lên những hàng rào kỹ thuật để bảo hộ hàng hóa trong

nước. Để thành công trong hội nhập, TNXHDN được xem là một biện pháp hữu

hiệu. Chính vì vậy cần xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá TNXHDN của Việt Nam

dựa trên kinh nghiệm quốc tế, có tính toán điều kiện thực tế trong nước, xây dựng tổ

chức đánh giá TNXHDN độc lập và cấp chứng nhận thực hiện tốt TNXH cho các

DN. Bên cạnh đó cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức

về lợi ích do thực hiện TNXH cho các DN.

Để phát huy vai trò của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp thì:

Vai trò của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được

pháp luật thừa nhận (Nghị định số: 45/2010/NĐ-CP Quy định về tổ chức, hoạt động và

quản lý hội) nhưng sự quan tâm, tạo điều kiện hoạt động còn hạn chế, nhiều quy định

đã không còn phù hợp. Để thực hiện tốt vai trò của các tổ chức này thì:

- Nhà nước cần sớm hoàn thiện khung khổ pháp luật, hoàn thiện về tổ chức

hệ thống cơ quan quản lý NN, nâng cao năng lực cho các cơ quan thực thi, đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tăng cường công tác thanh kiểm tra, hỗ trợ

hoạt động cho các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp;

- Nhà nước cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và

hoạt động của các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức phi chính phủ được thuận lợi và

hiệu quả hơn (đã xây dựng Dự thảo Luật về Hội, đã họp bàn nhưng chưa được

thông qua);

- Đại hội X của Đảng nêu rõ:

141

Đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, tăng cường và đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, ban hành cơ chế,

chính sách, tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động đúng định hướng

chính trị, đúng pháp luật và có hiệu quả. Phát huy tinh thần tự chủ, sáng

tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong việc kiện toàn tổ chức

và đổi mới hoạt động của mình. Có cơ chế, chính sách lãnh đạo và quản

lý phù hợp với từng loại hội. Tiếp tục luật hóa các hoạt động của các

đoàn thể nhân dân và các hội [50, tr.310].

Do đó, cần đẩy mạnh thực hiện theo tinh thần chỉ đạo;

- Đối với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần

xây dựng văn bản hướng dẫn chỉ đạo về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trên địa bàn; Bố trí nhân lực và tài chính để đảm bảo công tác bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng được đảm bảo;

- Tăng cường tập huấn cho những người làm công tác bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng ở địa phương, đặc biệt là cán bộ của Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng. Nâng cao trình độ, chuyên môn cho cán bộ phường, xã, thị trấn,... về bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng. Phổ biến các tài liệu về bảo vệ quyền người tiêu dùng tới

địa phương, nâng cao khả năng tư vấn và hỗ trợ người tiêu dùng cho các cán bộ;

- Cần phát huy vai trò tích cực của các tổ chức thuộc xã hội dân sự, để một

mặt bổ trợ cho vai trò của NN, mặt khác giám sát các hoạt động của NN và DN

trong việc thực hiện TNXH, nhằm hạn chế các hành vi tư lợi, lạm dụng chức quyền

của NN hay những hành vi đi ngược lại với văn hóa, đạo đức của DN.

Điều này dẫn đến sự giám sát của cộng đồng, xã hội có thể được thể hiện

thông qua các báo cáo mà DN phải hoàn thành đó là báo cáo về hoạch toán xã hội,

kiểm toán xã hội và báo cáo xã hội. Hiện nay, dù NN có quy định việc công khai

thông tin DNNN. Tuy nhiên, vẫn chưa có khung pháp lý quy định cụ thể về trách

nhiệm xây dựng các loại báo cáo nói trên đối với DN.

Để phát huy vai trò và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì:

- Các cơ quan chức năng cần tuyên truyền Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng đến tận địa phương, tới người tiêu dùng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa thông

qua nhiều hình thức;

142

- Các cơ quan chức năng cần thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền để

mọi người dân biết đúng quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Thông tin nhanh chóng, thuận

tiện giúp mọi người dễ dàng tiếp cận thông qua đài truyền hình, phát thanh, báo chí;

- Thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu trên truyền hình, mạng xã hội

về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

- Tổng đài tư vấn hỗ trợ người tiêu dùng (1800-6338) nên được mở rộng hơn nữa

để tiếp nhận và đáp ứng nhu cầu tư vấn thường xuyên cũng như lâu dài của người dân;

- Bộ Công Thương cần có văn bản chỉ đạo các Sở Công Thương thường

xuyên tổ chức hội thảo để phổ biến kiến thức cho người tiêu dùng hiểu đúng các

quyền của người tiêu dùng cũng như thực trạng và giải pháp sắp tới. Ngoài ra, Bộ

nên phối hợp với cơ quan chức năng tiếp tục xây dựng các văn bản pháp luật và xử

lý nghiêm những hành vi của những DN vi phạm để bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng cả nước;

- Bên cạnh luật pháp cần xây dựng theo hướng đơn giản hóa các thủ tục

khiếu kiện; Quy trình, thủ tục giải quyết cần nhanh, đơn giản và cụ thể tránh phiền

hà. Thì cần đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin, hướng dẫn cho người tiêu dùng về

cách thức, phương thức và cơ quan, tổ chức mà họ có thể gửi khiếu nại, tố cáo đến;

- Với các cơ quan, tổ chức có liên quan cần nâng cao hơn tinh thần trách

nhiệm trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Các cán bộ chuyên trách của những

cơ quan tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải thực sự sát sao vào cuộc, tận

tâm phục vụ.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra thị

trường, chống buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, không

đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, vi phạm quy chế ghi nhãn, quảng cáo không

trung thực và các hành vi gian lận khác.

4.2. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CẦN NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ

BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI

NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

4.2.1. Doanh nghiệp Nhà nước cần tự nâng cao nhận thức về trách nhiệm

xã hội của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Để DN phát triển bền vững thì việc gắn với thực hiện các trách nhiệm đối với

xã hội là vấn đề được ưu tiên, là nhu cầu bức thiết của các DN nói riêng và xã hội

143

nói chung. Bởi nếu hiểu đúng và thực hiện tốt về TNXH là những mối quan hệ pháp

luật - ý thức xã hội đối với người lao động, với môi trường, người tiêu dùng, đối tác

kinh doanh, với các nhà đầu tư,… thì tất cả những điều đó chính là điều kiện tạo

nên uy tín cho DN, là cơ sở cho sự phát triển bền vững. Như vậy, TNXH có ý nghĩa

rất quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của họ, bao trùm lên mọi hoạt động

hướng đến sự phát triển bền vững của DN đó.

Đặc biệt các DN lớn hiện nay, họ đã và đang thể hiện trách nhiệm bằng cách

đưa ra những nguyên tắc, tiêu chí riêng cho sản phẩm, cho người lao động, xã hội,

môi trường và đảm bảo được chấp hành đến từng cửa hàng, chi nhánh. Như vậy, có

thể nói nhiều DN ở Việt Nam nói chung và DNNN nói riêng đã không còn thờ ơ, vì

họ hiểu đó là cách để tự bảo vệ mình và khẳng định mình.

Những bài học thực tế về hậu quả việc DN vì lợi nhuận mà bỏ mặc trách

nhiệm với những mối quan hệ trong xã hội, tổn thất đầu tiên của những DN đó là

việc khắc phục hậu quả cực kỳ tốn kém. Một cuộc đình công của công nhân sẽ dẫn

đến trì trệ sản xuất, mất những nhân tài. Phục hồi dòng sông hay trồng lại một cánh

rừng sẽ làm tiêu tốn thời gian, công sức và tiền của rất lớn, DN nếu không tính toán

trong việc bảo vệ, khôi phục thì sẽ gánh chịu những chi phí này. Thế nhưng, tổn hại

còn nặng nề hơn chính là mất đi thương hiệu: Người tiêu dùng đang ngày càng trở

nên thông thái hơn, họ sẵn sàng bỏ tiền cao hơn để lựa chọn các sản phẩm có lợi

cho sức khỏe. Bên cạnh đó, họ cũng muốn thể hiện trách nhiệm với xã hội thông

qua việc lựa chọn những DN có trách nhiệm với xã hội. Vì vậy, chỉ cần DN bị một lần

kiện cáo, một lần lên báo vì vi phạm về thuế, về chất lượng sản phẩm hay môi trường,

lao động… thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng từ chối. Và đó chính là sự đào thải khốc

liệt nhất của nền kinh tế thị trường hiện đại. Không có khách hàng, DN sẽ chết.

Việt Nam đã và đang tham gia nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, và khi CPTPP có

hiệu lực sẽ còn đặt ra những vấn đề rất lớn trong việc tuân thủ các quy định chung của

diễn đàn, đơn cử như việc sử dụng lao động cưỡng bức, lao động trẻ em… Các DN,

đặc biệt là DN muốn đưa thương hiệu ra nước ngoài cần sớm xây dựng quy trình kiểm

soát thì mới có cơ hội cạnh tranh. Do đó, để hội nhập và phát triển bền vững - thực hiện

tốt trách nhiệm đối với xã hội thì DNNN cần có chiến lược dài hơi trong xây dựng và

hoàn thiện nhận thức các tiêu chuẩn TNXHDN với những bước đi thích hợp.

144

- Các DNNN cần xem việc thực hiện trách nhiệm đối với xã hội là một chiến

lược dài hạn và luôn song hành với quá trình phát triển của DN. Và luôn xem nó

như là "triết lý kinh doanh" của DN mình.

Chương trình TNXHDN thành công phải dựa trên việc tạo dựng niềm tin, sự

ủng hộ của khách hàng và công chúng, cả cán bộ công nhân viên, các nhà cung cấp

và phân phối, các nhà đầu tư, ngân hàng, và cuối cùng là các tổ chức chính quyền.

TNXHDN phải bắt nguồn từ người lãnh đạo: Nếu những nhà quản lý không tin

tưởng vào tầm quan trọng TNXHDN, nếu họ không chủ động tiên phong hay hỗ trợ

các hoạt động TNXH tại cơ sở, nếu họ không thể hiện tính chính trực và trung thực

trong công việc cũng như trong cuộc sống cá nhân, thì TNXHDN không thể thành

công. TNXHDN cần được áp dụng trong mọi khía cạnh hoạt động của DN, cùng

với tất cả các nhóm có quyền lợi liên quan. Do đó:

- Doanh nghiệp phải đưa những vấn đề trách nhiệm đối với xã hội vào chiến

lược kinh doanh, xem việc thực hiện TNXH là nhân tố để bảo đảm sự phát triển bền

vững của DN.

- Việc thực hiện TNXH không chỉ đơn giản là vấn đề đạo đức kinh doanh

hay các hoạt động từ thiện theo cách truyền thống; TNXHDN còn là một quá trình

cải tiến liên tục và không phải lúc nào cũng đòi hỏi cần nhiều chi phí.

- Áp dụng TNXHDN bắt đầu từ những vấn đề cơ bản như bảo vệ và giữ gìn

môi trường tự nhiên xung quanh DN cũng như tạo dựng môi trường lao động -

xanh, sạch, đẹp cho đến việc tiêu thụ năng lượng và khai thác tài nguyên thiên nhiên

một cách hợp lý và tiết kiệm…

- Luôn chú ý và mạnh dạng đầu tư đổi mới công nghệ phù hợp, hiện đại theo

những tiêu chuẩn quốc tế.

- Doanh nghiệp luôn quan tâm đến việc cử cán bộ quản lý và cán bộ công

đoàn đi đào tạo các lớp về TNXHDN. Việc cử cán bộ quản lý và công đoàn đi dự

các lớp đào tạo về TNXHDN là rất cần thiết, bởi vì, chỉ có thông qua đào tạo, cán

bộ quản lý mới nắm bắt được các kiến thức nền tảng và cơ bản về TNXHDN, hiểu

rõ được lợi ích của việc áp dụng TNXH, từ đó mới quyết tâm thực hiện và tư vấn,

tham mưu cho lãnh đạo của DN thực hiện các trách nhiệm đối với xã hội, sau đó

tuyên truyền phổ biến cho người lao động trong DN.

145

4.2.2. Doanh nghiệp Nhà nước cần tự nâng cao biện pháp thực hiện

trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Để đạt hiệu quả trong hoạt động kinh tế làm cơ sở thực hiện các trách nhiệm

đối với xã hội thì các DNNN cần:

- Đổi mới công nghệ hiện là một trong nhưng yêu cầu sống còn của DN, là

cơ sở để DN hoạt động hiệu quả, cạnh tranh và hội nhập quốc tế. NN đã có những

cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương

thức đầu tư và cơ chế tài chính cho DN nói chung và DNNN nói riêng như trên đã

đề cập. Vì vậy, rất cần sự chủ động của các DN trong đổi mới công nghệ, góp phần

đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới đến gần hơn nữa với DN Việt nói riêng

và DNNN nói chung;

- Doanh nghiệp NN cần tiếp tục xây dựng những chính sách phù hợp để tạo

cơ hội phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, phát minh sáng chế, áp dụng khoa học

và công nghệ vào mọi mặt của sản xuất, đời sống. Có chính sách khuyến khích,

động viên khen thưởng và tôn vinh kịp thời với những tập thể và cá nhân có những

thành tích xuất sắc trong phong trào này.

- Doanh nghiệp NN cần đẩy mạnh xây dựng các phong trào thi đua tǎng nǎng

xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả công tác xã hội.

- Doanh nghiệp NN cần tăng cường các mối liên kết trong đổi mới sáng tạo:

Tăng cường hợp tác nghiên cứu giữa các DN và giữa DN với các tổ chức nghiên

cứu của NN, và hợp tác với các tổ chức nước ngoài.

- Doanh nghiệp NN cần có cơ chế sử dụng vốn vay và viện trợ nước ngoài để

đầu tư có hiệu quả cho khoa học và công nghệ. Đặc biệt, tích cực nghiên cứu ứng

dụng, đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, dịch vụ, từng bước nâng

cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường theo

thông lệ quốc tế.

- Doanh nghiệp NN cần thay thế dần các thiết bị, công nghệ tiêu tốn nhiều

năng lượng, nguyên, vật liệu; Từng bước loại bỏ sản phẩm không thân thiện với môi

trường để tăng cường hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững.

- Doanh nghiệp NN luôn đổi mới phương pháp quản trị DN theo hướng hiện

đại phù hợp với thông lệ quốc tế trên tất cả các mặt như: Quản trị về lao động, quản

trị về tài chính, quản trị về vật tư, quản trị về khoa học công nghệ… Trong đó:

146

+ Luôn chú trọng phát huy nhân tố con người: Thực hiện tốt các chính sách

xã hội theo quy định của pháp luật đối với người lao động;

+ Có chính sách thu hút các chuyên gia giỏi trong nước và cả của thế giới,

với những ưu đãi hợp lý về lương thưởng, phúc lợi thỏa đáng, đáp ứng nhu cầu của

cuộc sống và tạo động lực để người lao động hứng thú với công việc;

+ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công nhân kỹ thuật

được đào tạo, bồi dưỡng;

+ Xây dựng môi trường làm việc an toàn, vệ sinh, giờ làm việc và nghỉ ngơi

khoa học đúng quy định;

+ Đóng đầy đủ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp....

Để "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" thì DNNN cần có một

chiến lược cạnh tranh với các nước để giành ưu thế, trước hết ngay trên "sân nhà"

bằng việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao mang thương hiệu Việt

Nam. Bên cạnh đó, phải tạo được tâm lý xã hội, phải có một quá trình giáo dục,

luôn luôn đề cập đến yếu tố lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước bằng thái độ tiêu

dùng tôn trọng, yêu mến hàng hóa Việt Nam của chính người tiêu dùng Việt Nam.

Hiện nay, công tác tuyên truyền chủ yếu do các cơ quan, tổ chức chính trị -

xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp, báo chí làm là chính. Tuy nhiên, theo tôi, tuyên

truyền để người tiêu dùng hiểu về hàng Việt, không ai khác phải do chính các nhà

sản xuất ra sản phẩm. Ngoài ra, công tác xúc tiến thương mại của nhiều DNNN vẫn

còn thiếu tính chuyên nghiệp. Thay vì cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về sản

phẩm, hàng hóa, nhiều quảng cáo thái quá, thậm chí không đúng dẫn đến phản tác

dụng. Dịch vụ chăm sóc khách hàng chưa được coi trọng, nhiều sản phẩm chậm

được cải tiến, chưa đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, mẫu mã

cũng như giá cả.

Bên cạnh đó, kênh phân phối hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam chưa

thực sự sâu, rộng, liền mạch. Trong khi hàng ngoại không chỉ có sức cạnh tranh về

hình thức và chất lượng mà còn được cung ứng qua kênh phân phối mang tính

chuyên nghiệp. Chính vì vậy, tâm lý thích dùng hàng ngoại vẫn còn trong một bộ

phận người tiêu dùng, không chỉ những người có thu nhập cao;

147

- Cần chú trọng, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động các cơ

quan, tổ chức, cá nhân sử dụng các sản phẩm được sản xuất trong nước. Đơn cử,

ngay chính các cơ quan NN khi mua sắm công, cán bộ, công chức cần đi đầu trong

việc ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Đó sẽ là một hành động có ý nghĩa nêu gương

trong việc thực hiện cuộc vận động.

Cuộc vận động cũng chính là cơ hội tốt để DN Việt Nam đẩy mạnh tiêu thụ

sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường trong nước. Để người tiêu dùng ưu tiên dùng hàng

Việt, hàng Việt phải có sức cạnh tranh. Điều này phụ thuộc và nằm trong tay các

DN Việt. Ưu tiên dùng hàng Việt là cử chỉ yêu nước của người tiêu dùng, thì sản

xuất hàng mang thương hiệu Việt cũng là thể hiện tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc

của doanh nhân.

- Thêm vào đó khi hiệp định CPTPP có hiệu lực, hàng hóa Việt Nam có cơ

hội xuất khẩu sang các nước thành viên, thì ngược lại, hàng hóa các nước thành

viên cũng sẽ tràn vào thị trường Việt Nam, khi đó người tiêu dùng sẽ có cơ hội thực

hiện quyền lựa chọn của mình. Vì vậy, cùng với việc vận động khơi dậy lòng yêu

nước, lòng tự tôn dân tộc, bản thân hàng Việt Nam phải có sức cạnh tranh với hàng

ngoại. DN cần chủ động, sáng tạo hơn nữa trong việc xây dựng chiến lược phát

triển sản phẩm và mở rộng thị trường theo hướng lâu dài, bền vững; Mẫu mã, chất

lượng sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước không ngừng được cải tiến, từng

bước tạo dựng được lòng tin của người tiêu dùng khi lựa chọn hàng Việt.

- Xây dựng chiến lược sản phẩm đúng đắn, chọn lựa những sản phẩm mà DN

có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm theo

nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường - xã hội. Khai thác có hiệu quả các

lợi thế so sánh của quốc gia trong việc lựa chọn sản phẩm, chú trọng nghiên cứu,

phát triển và hiện đại hóa sản phẩm mới. Tìm cách để sản phẩm của DN có tính

khác biệt, độc đáo so với sản phẩm cùng loại của DN khác, như giá trị sử dụng, mẫu

mã, bao bì,.. để thu hút được nhiều khách hàng.

Xây dựng và thực hiện chiến lược marketing, làm tốt công tác nghiên cứu thị

trường, tạo được một đội ngũ những người tiếp thị giỏi. Tăng cường hoạt động

quảng cáo, giới thiệu hàng hóa của DN mình với người tiêu dùng trong nước và

ngoài nước, trong đó chú trọng đến thị trường trong nước.

148

4.3. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CÁC HỘI TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ

NGHIỆP NHẰM TÁC ĐỘNG THÚC ĐẨY CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

THỰC HIỆN TỐT TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

QUỐC TẾ HIỆN NAY

4.3.1. Phát huy vai trò tổ chức Công đoàn nhằm tác động thay đổi nhận

thức về trách nhiệm xã hội cho các doanh nghiệp Nhà nước

Công đoàn, là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và

của người lao động, là một trong những nhân tố trung tâm để kết hợp giữa NN, DN

và người lao động trong thực hiện TNXHDN. Vì vậy:

- Các công đoàn cấp trên cơ sở cần hướng dẫn, chỉ đạo, hỗ trợ giúp Ban chấp

hành công đoàn cơ sở trong việc tuyên truyền phổ biến chế độ chính sách pháp luật

(với hình thức như tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến tài liệu tuyên truyền, thông tin

truyền thanh, văn hóa - văn nghệ….), nhất là pháp luật lao động, pháp luật bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm y tế, các nội dung TNXHDN. Chú trọng truyên truyền cùng giám sát

việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với người lao động của các doanh nghiệp;

- Các công đoàn cấp trên cơ sở cần hướng dẫn, chỉ đạo, hỗ trợ giúp Ban chấp

hành công đoàn cơ sở trong việc phổ biến nội dung, chỉ đạo và giúp công đoàn cơ

sở xây dựng các chương trình hành động thực hiện TNXH. Tập hợp ý kiến, tâm tư

nguyện vọng của người lao động trong ngành để tham gia xây dựng pháp luật, các

chế độ, chính sách lao động, tiền lương, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế và các chế độ chính sách khác cho người lao động;

- Với công đoàn cơ sở cần tổ chức, sắp xếp thời gian hợp lý để tạo điều kiện

cho người lao động được tham gia các họat động xã hội, giao lưu văn hóa, văn

nghệ. Ngoài ra công đoàn cơ sở còn phát huy vai trò của mình cùng lãnh đạo DN

tham gia góp ý về quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, xây dựng quan hệ

lao động hài hòa, ổn định vì sự phát triển của DN và đời sống người lao động;

- Công đoàn cơ sở cần thể hiện rõ vai trò, chức năng đại diện người lao động

trong việc cử đại diện của mình tham gia vào các hội đồng tư vấn của DN như: Hội

đồng lương, hội đồng thi đua khen thưởng, hội đồng kỷ luật, hội đồng bảo hộ lao

động… đồng thời phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức đại hội công nhân

viên chức trong các DNNN.

149

- Công đoàn phải làm tốt hơn nữa việc chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp, chính đáng của người lao động; Tham gia quản lý NN, quản lý kinh tế - xã

hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp; Tham gia

giám sát DN trong việc ký kết hợp đồng lao động cho người lao động, đóng góp ý

kiến với DN về môi trường làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của

người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ,

kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

- Công đoàn cần tích cực, chủ động tham gia ý kiến xây dựng những văn bản

quy phạm pháp luật liên quan đến TNXHDN cũng như chủ động tham gia xây dựng

và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến

việc thực hiện TNXHDN;

- Công đoàn cần đưa những nội dung TNXHDN vào các phong trào thi đua

yêu nước cho người lao động như phong trào "Lao động giỏi", "Lao động sáng tạo",

"Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động"...; có các nội dung và hình

thức tổ chức thi đua, khen thưởng phù hợp với điều kiện thực tế của DN; Tập trung

đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, tập

hợp đông đảo người lao động ở các DN gia nhập tổ công đoàn, gắn với việc củng

cố, duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn cơ sở đã có.

4.3.2. Phát huy vai trò của các Hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp nhằm

tác động thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm xã hội

- Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần phối hợp với các ngành chức năng

đẩy mạnh tuyên truyền văn bản luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, đồng thời lồng ghép trong các buổi hội

thảo, mít tinh, kỷ niệm, nói chuyện chuyên đề. Trọng tâm là các văn bản pháp luật,

như Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP của

Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất,

buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

- Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp phải thường xuyên phối hợp với các

Báo, Đài Phát thanh - Truyền hình, đưa tin tuyên truyền những vấn đề liên quan đến

quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, kịp thời thông tin trung thực khách

quan đến nhân dân cũng như phản ánh các hành vi vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến

sức khỏe, lợi ích người tiêu dùng;

150

- Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp vận động người tiêu dùng không sử dụng

hàng nhập lậu, không tiếp tay cho hành vi sản xuất - kinh doanh hàng giả, hàng kém

chất lượng, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và hành vi vi phạm khác;

- Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần vận động DN, cơ sở kinh doanh

ký cam kết không sản xuất - kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng xâm

phạm bản quyền sở hữu trí tuệ;

- Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần thống nhất mô hình, tên gọi, và

xây dựng các cơ chế hoạt động cho các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp trên toàn

quốc phù hợp với quy định pháp luật hiện hành;

- Các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần chủ động xây dựng và đề xuất các

hoạt động hợp tác, tăng cường công tác tư vấn, hướng dẫn người tiêu dùng, kết nối

với hệ thống tư vấn, hướng dẫn của các cơ quan quản lý NN;

- Tư vấn giải quyết vướng mắc cho người tiêu dùng là nhiệm vụ trọng tâm

của hội. Vì vậy: Hội cần kịp thời tư vấn hướng dẫn giúp người tiêu dùng giải quyết

khi có yêu cầu khiếu nại, hướng dẫn về kỹ năng tiêu dùng, định hướng trong việc

lựa chọn sản phẩm, hàng hóa có chất lượng, tránh mua hàng giả, hàng nhái, hàng

kém chất lượng, hàng quá hạn;

- Hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng cần phải chú trọng và hoạt động tích

cực hơn nữa để thực hiện vai trò phản biện xã hội, tích cực kiểm tra, kiểm soát,

giám sát thị trường và đánh giá xã hội cho DN cũng như các bên hữu quan để thúc

đẩy việc thực hiện TNXHDN tốt hơn. Hay nói cách khác, ngoài những tác động bên

ngoài tạo cơ sở hoạt động, các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần phải nhận thức

và nỗ lực phát huy nội lực của mình trong vai trò là một chủ thể của TNXHDN.

Hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động không mang tính quyền lực

chính trị và hoàn toàn tự nguyện, là tổ chức phi lợi nhuận có nhiệm vụ giám sát, tiến

hành khảo sát độc lập hàng hóa và thông báo tới các cơ quan chức năng. Tuy nhiên,

cũng rất cần sự hỗ trợ của NN về nguồn tài chính và nhân lực để việc giám sát được

hiệu quả hơn, khách quan hơn. Do vậy, để hoạt động giám sát ngày càng hiệu quả,

mang lại lợi ích cho cộng đồng thì việc phối hợp giữa các tổ chức xã hội, các cơ

quan có chức năng cũng là vấn đề cần lưu ý. Ví dụ như, nếu Vinastas độc lập giám

sát mà không có sự tham gia của một số cơ quan chuyên trách ở các ban, bộ, ngành

151

trung ương thì hiệu quả mang lại không cao. Như việc kiểm soát chất cấm trong

chăn nuôi, để phát giác và làm rõ hành vi xâm hại sức khỏe người tiêu dùng,

Vinastas và thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cùng có tiếng nói

kịp thời, đưa hành vi đáng lên án này tới các cơ quan thực thi pháp luật. Hay như hệ

lụy của việc độc lập hoạt động và công bố thông tin, điển hình gần đây như vụ công

bố về việc nước mắm nhiễm Arsen;…

- Do thành lập trên cơ sở tự nguyện, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị

hầu như không có, kinh phí hoạt động theo nguyên tắc tự đảm bảo, nguồn thu của

hội không có và cho đến nay nhiều hội vẫn chưa được sự hỗ trợ kinh phí hoạt động

từ ngân sách NN. Vì vậy, Hội cần đề xuất NN thành lập Quỹ bảo vệ quyền người

tiêu dùng. Quỹ này được trích từ các khoản phạt DN vi phạm quyền người tiêu

dùng, quỹ dùng để cấp cho các Tổ chức xã hội dân sự, Hiệp hội bảo vệ quyền người

tiêu dùng sử dụng vào công việc giáo dục, khởi kiện vì mục đích công cộng, và hỗ

trợ người tiêu dùng khiếu nại, khiếu kiện;

- Hiện phần lớn hội không có cán bộ chuyên trách, các thành viên Ban chấp

hành đều công tác kiêm nhiệm, phải tập trung thực hiện nhiệm vụ chuyên môn tại cơ

quan, đơn vị nên chưa dành nhiều thời gian cho công tác hội; Phối hợp hoạt động giữa

các thành viên chưa được duy trì thường xuyên. Ngoài ra, công tác tuyên truyền và

phát triển hội viên ở cơ sở chưa được đẩy mạnh, phổ biến pháp luật liên quan đến bảo

vệ người tiêu dùng chưa đi vào chiều sâu do thiếu kinh phí. Do đó rất cần sự hỗ trợ của

NN về nhân lực để việc giám sát được khách quan và hiệu quả hơn.

4.4. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

THỰC HIỆN TỐT TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

QUỐC TẾ HIỆN NAY

4.4.1. Phát huy vai trò người lao động nhằm tác động thay đổi nhận thức

- thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước

Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong nền kinh tế với chất lượng lao động được

đánh giá không cao như hiện nay thì người lao động rất khó để giữ vị thế cân bằng

và luôn phải chịu sự phụ thuộc, quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Với

những quy định hiện hành, pháp luật lao động đã dần điều chỉnh, tạo nên mối quan

hệ lao động bình đẳng, hạn chế sự lạm quyền của người sử dụng lao động, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa người

152

lao động và người sử dụng lao động, dường như, người lao động luôn là kẻ yếu thế

hơn. Do đó, NN với tư cách là trung gian quản lý trật tự xã hội cần có những chính

sách khoa học nhằm cân bằng lợi ích trong mối quan hệ giữa người lao động và

người sử dụng lao động, xử lý nghiêm minh kịp thời những sai phạm.

Các cơ quan quản lý NN cần tăng cường công tác quản lý, trong đó chú trọng

công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện, thúc đẩy

việc hình thành các thiết chế hòa giải có trọng tài để hỗ trợ DN xây dựng mối quan hệ hài hòa, ổn định, giảm thiểu tranh chấp, đình công...

Người lao động - nhất là lao động phổ thông, lao động trình độ thấp thường

bị xâm phạm quyền lợi nhưng có khi lại không biết hoặc không có cơ chế tự bảo vệ

quyền lợi của mình nên đành im lặng cho qua. Do đó:

- Công đoàn các cấp cần thường xuyên quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của người lao động;

- Thay đổi hình thức, nội dung tuyên truyền về các quyền và lợi ích chính

đáng cho người lao động, hình thức vừa ngắn gọn dễ hiểu, vừa giải đáp những tình

huống cụ thể giúp người lao động hiểu và nắm các nội dung pháp luật dễ dàng hơn.

Việc ổn định mối quan hệ lao động hài hòa tiến bộ trong DN không chỉ tạo

môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi mà còn là yêu cầu rất cao của việc hội

nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy, người đại diện các DNNN phải luôn quan tâm chăm

lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, phải xem người lao động là

tài sản quý của mình, tạo môi trường làm việc thân thiện để xây dựng DN ngày

càng phát triển vững mạnh.

Tuy nhiên, chính bản thân người lao động cũng cần thường xuyên học tập

nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu công việc, bên cạnh đó cũng

cần quan tâm tìm hiểu luật pháp để chủ động bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của

mình. Cụ thể:

Một là, khi tham gia lao động, hai bên phải tiến hành quy trình thương lượng,

thỏa thuận và ký kết mang tính chất tập thể, thông qua đại diện của tập thể lao động

và đại diện sử dụng lao động, đây là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ lao động, trên cơ sở đó, xây

dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, cùng nhau hợp tác vì sự phát triển bền

153

vững của DN và cũng là công cụ quan trọng của Công đoàn trong việc đại diện, bảo

vệ người lao động.

Hai là, khi bị xâm phạm, người lao động phải mạnh dạn đấu tranh, đầu tiên khiếu nại lên chính DN đang làm; Nếu DN không giải quyết thì nộp đơn trực tiếp

lên phòng Lao động, Thương binh và Xã hội cấp huyện tại nơi đang làm việc.

Ba là, người lao động luôn luôn phải học tập nâng cao trình độ chuyên môn,

bên cạnh đó cũng rất cần phải học tập để có tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật

theo yêu cầu thị trường, phù hợp với yêu cầu hội nhập.

4.4.2. Phát huy vai trò người tiêu dùng nhằm tác động thay đổi nhận

thức - thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước

Người tiêu dùng ngày càng có ý thức rõ hơn về việc các sản phẩm họ mua

được sản xuất trong điều kiện môi trường và lao động như thế nào. Ý thức vấn đề

này, các DN cần đảm bảo rằng không thể đánh đổi gia tăng thương mại bằng những

tác động xấu tới môi trường hoặc vi phạm các quyền của người lao động. Và cũng

chính nhận thức cao của người tiêu dùng sẽ tạo ra áp lực đối với các DN phải thực

hiện TNXH của mình trong hoạt động kinh tế.

Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay vẫn coi trọng hai tiêu chí giá cả và chất

lượng sản phẩm để quyết định mua hàng. Tuy nhiên, phần lớn vẫn có tâm lí sính

ngoại [32], người Việt gần như đã tự mình làm mất đi quyền được dùng hàng chất

lượng tốt giá cả phải chăng.

Cuộc vận động "người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" của Mặt trận

tổ quốc từ năm 2009 là chủ trương chính sách của NN để kích cầu tiêu dùng với

hàng hóa trong nước đồng thời đó cũng chính là cơ hội để thể hiện lòng yêu nước,

lòng tự tôn tự hào dân tộc. Tuy nhiên, cuộc vận động đến nay vẫn chưa có kết quả

tốt, một trong những nguyên nhân là do DN chưa thực hiện nghiêm túc các cam kết

của mình với người tiêu dùng về chất lượng hàng hóa, chế độ hậu mãi.... cũng như

những hạn chế trong quản trị hàng hóa đến với người tiêu dùng. Để giải quyết thực

tế đó thì DNNN cần có kế hoạch đầu tư một cách khoa học và có hiệu quả hơn, các

tổ chức đoàn thể cần thường xuyên tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của tổ chức

và cá nhân chống lại tệ nạn hàng giả, hàng nhái và hàng kém chất lượng.

Đối với người tiêu dùng cần:

154

- Để bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình tốt hơn, thì người

tiêu dùng cần thay đổi nhận thức, phải chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật

bảo vệ quyền lợi của mình, cần biết rõ mình có quyền gì, khi cần thì khiếu kiện đến

đâu với những chứng lý như thế nào để được bảo vệ quyền lợi, chủ động liên hệ đến

các cơ quan, tổ chức như tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hoặc chống gian lận

thương mại để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm phạm;

- Người tiêu dùng cần làm quen với thói quen mua sắm văn minh - mua bán

có hóa đơn, mua bán không dùng tiền mặt - để có được những bằng chứng thuyết

phục về giao dịch nhằm "nói có sách mách có chứng" khi cần khiếu kiện.

- Người tiêu dùng cần xóa bỏ tâm lý e ngại khiếu kiện tập thể, khuyến khích

người dân liên kết các lợi ích nhỏ lẻ thành lợi ích đủ lớn để "xứng tầm" với chi phí

phải bỏ ra. Về hình thức, nhiều người dân có thể tham gia vụ kiện nhưng họ sẽ được

đại diện bởi một nhóm nguyên đơn, hoặc Luật sư đại diện để khởi kiện. Khi đó,

những lo lắng về "mất trật tự công cộng" hoặc "lợi dụng gây rối" của "khiếu kiện

tập thể đông người" sẽ không còn;

- Người tiêu dùng cần ý thức rõ về việc liên kết để tự bảo vệ quyền lợi của

mình. Ở mặt cá thể, người tiêu dùng luôn ở thế yếu bởi lẽ chúng ta không thể hiểu

hàng hóa bằng tổ chức, cá nhân kinh doanh - nơi cung cấp (nguồn gốc xuất xứ). Tuy

nhiên, ở số đông, người tiêu dùng có sức mạnh rất lớn và nó biểu hiện ở làn sóng

tẩy chay hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ kém chất lượng. Việc thiết lập quyền lực

mềm thông qua việc tẩy chay, tố giác những DN vi phạm, ủng hộ hàng hóa do DN

có trách nhiệm với xã hội nó có tác động mạnh hơn cả chế tài xử phạt, đối với tổ

chức, cá nhân kinh doanh vi phạm. (Tuy nhiên, cũng cần phải có biện pháp chế tài

thật mạnh, thậm chí nâng lên mức xử lý hình sự thay vì chỉ xử phạt hành chính ở

mức phạt vài chục triệu đồng như hiện nay khi các DN vi phạm pháp luật).

Một phần do thói quen chỉ quan tâm đến giá cả và nhìn qua nhãn hiệu sản

phẩm khi mua hàng, chứ không tìm hiểu kỹ xuất xứ, nhà sản xuất nên đã dẫn đến

việc mua phải hàng giả, hàng nhái. Do đó:

- Người tiêu dùng cần thường xuyên theo dõi các phương tiện thông tin đại

chúng để cập nhật những thông tin về thị trường;

- Trang bị thêm một số kiến thức tiêu dùng để đề phòng mua nhầm hàng

nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, và nói không với các loại hàng nhái, hàng giả,

hàng kém chất lượng.

155

Tiểu kết chương 4

Để DNNN khắc phục những hạn chế yếu kém trong hoạt động, phát huy vai

trò "chủ đạo" của nền kinh tế, làm cơ sở thực hiện tốt TNXH. Đảng Cộng sản Việt

Nam, Chính phủ, các bộ ngành… luôn quan tâm tìm những chính sách để nâng cao

hiệu quả: Trong đó cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh, bổ sung cơ chế,

chính sách đầy đủ và đồng bộ, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho DNNN hoạt

động, đồng thời tạo sự cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế

khác; Tiếp tục đổi mới công tác quản lý NN đối với DNNN và đổi mới hoạt động

của bản thân DNNN.

156

KẾT LUẬN

Hiệu quả kinh tế của DN nói riêng và thực hiện tốt trách nhiệm xã hội nói

chung, là mấu chốt của vấn đề phát triển bền vững đã được các nhà khoa học chứng

minh. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ngày càng trở thành vấn đề "nóng" của

các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế và xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chính vì vậy, nhận thức nghiêm

túc, khoa học vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng.

Luận án đã tập trung phân tích cơ sở lý luận chung nhất các vấn đề trách

nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước.

Khái quát lên bức tranh với những thành tựu và những hạn chế của doanh nghiệp

Nhà nước trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội, đồng thời cũng đã chỉ ra các

nguyên nhân của chúng. Thực tiễn cho thấy, nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã chú

trọng và xem đó là chiến lược kinh doanh hiệu quả, có tính lâu dài. Vì vậy, nhiều

doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được những kết quả quan trọng đã tạo những tiền đề

vật chất cơ bản để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và tăng cường củng cố sức

mạnh an ninh quốc phòng của đất nước; Luôn đi đầu và là tấm gương trong việc

bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội vẫn còn

khá nhiều doanh nhiệp vi phạm: Làm ăn không hiệu quả, gây thiệt hại về tài chính

tạo ra những khoản nợ xấu, đặc biệt là ảnh hưởng tới uy tín chính trị - xã hội, và

điều đó chứng tỏ doanh nhiệp Nhà nước chưa làm tròn trách nhiệm của mình như

kỳ vọng của xã hội.

Vì vậy, để phát huy hiệu quả kinh tế cho doanh nhiệp Nhà nước, làm cơ sở

thực hiện tốt những trách nhiệm xã hội, cần phải có một hệ thống các giải pháp

đồng bộ từ phía Nhà nước, doanh nghiệp, các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp,

người lao động và người tiêu dùng.

157

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Phu-Hop Mai (2013), "Achievements and barriers to Vietnam’s economic

development, International Journal of Economics"(Những rào cản trong

phát triển kinh tế ở Việt Nam), Finance and Management Sciences,

Volume 1, Issue 6, December 2013, Pages: 374-381. doi:

10.11648/j.ijefm.20130106.24

2. Mai Phu Hop (2015), "The reasons for violations of corporate social

responsibility in Vietnam and the solution” (Những nguyên nhân doanh

nghiệp Việt Nam vi phạm trách nhiệm xã hội và giải pháp khắc phục),

Journal of science - An Giang University, Vol. 2 (2), Pages. 47-55

3. Phu-Hop Mai (2015), "Current situation of corporate social responsibility in

Vietnam today"(Thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh

nghiệp ở Việt Nam hiện nay), European Journal of Business and Social

Sciences, Vol. 4, No. 09, December 2015. P.P. 156 - 163

4. Phu-Hop Mai (2017), "The Corporate Social Responsibility in Vietnam to Day”

(Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay),

Journal of Business and Economic Development, Vol. 2, No. 3, 2017,

Pages. 170-175. doi: 10.11648/j.jbed.20170203.15

158

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anphabe, Nielsen (2015), Những nơi làm việc tốt nhất Việt Nam, Nghiên cứu

công bố ngày 5/3/2015, Thành phố Hồ Chí Minh

2. Ngân Anh (2016), "Hơn 13 nghìn tỷ đồng nợ bảo hiểm xã hội", Báo Nhân dân,

Thứ Tư, 26/10/2016.

3. Trương Phước Ánh (2013), "Thế nào là "trách nhiệm xã hội" của doanh

nghiệp?" tại trang http://vneconomy.vn/doanh-nhan/the-nao-la-trach-

nhiem-xa-hoi-cua-doanh-nghiep-20131010091812395.htm, [truy cập

ngày 12/3/2017].

4. Ban Bí thư Trung ương (2016), Kết luận số 02-KL/TW ngày 26/4/2016 của

Ban Bí thư về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ

Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

5. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011

Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012

về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020, Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ

5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về về tiếp tục cơ cấu lại,

đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.

8. Ban Kinh tế Trung ương và Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương (2014),

Phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.

9. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2015), Quyết định 959/QĐ-BHXH ngày

09/09/2015 về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp bắt

buộc, Hà Nội.

10. Báo Kinh tế và Đô thị (2013), "Ẩn số... cổ tức vốn nhà nước", tại trang

http://kinhtedothi.vn/an-so-co-tuc-nha-nuoc-68743.html, [truy cập ngày

15/9/2017].

11. Ngọc Bích (2016), "Hội nghị toàn quốc triển khai công tác sắp xếp, đổi mới

Doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2016-2020", tại trang

159

http://www.sav.gov.vn/5040-2-ndt/hoi-nghi-toan-quoc-trien-khai-cong-

tac-sap-xep-doi-moi-doanh-nghiep-nha-nuoc-giai-doan-20162020.sav,

[truy cập ngày 11/10/2017].

12. Trần Đăng Bộ (2014), "Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Học viện Chính trị,

(26), tr.39-42.

13. Bộ Công Thương (2013), Để ngành thép, xi măng phát triển ổn định và bền

vững, Hà Nội.

14. Bộ Công Thương (2016), Danh sách các hiệp hội Việt Nam, Hà Nội.

15. Bộ Công thương, Cục Quản lý cạnh tranh (2016), Báo cáo kết quả khảo sát

người tiêu dùng, Hà Nội.

16. Bộ Giao thông vận tải (2016), Báo cáo xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội

dự án Luật đường sắt (sửa đổi), Hà Nội.

17. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người

2015 của Việt Nam, Hà Nội.

18. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Hội thảo với chủ đề Vai trò mới của doanh

nghiệp nhà nước trong nền kinh tế - Kinh nghiệm và bài học cho Việt

Nam, Hà Nội.

19. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2016), Thông báo Tình hình tai nạn lao

động năm 2015, Hà Nội.

20. Bộ Ngoại giao, Vụ Hợp tác quốc tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh

tế trong xu thế toàn cầu hoá - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

21. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2014), Cần tăng cường đầu tư vào

các công nghệ sau thu hoạch nông sản, Hà Nội.

22. Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn (2016), Tạo chuỗi liên kết cho thực

phẩm an toàn, Hà Nội.

23. Bộ Tài chính (2012), Báo cáo số 336/BC-CP ngày 16/11/2012 của Chính phủ

về tình hình tài chính và hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập

đoành, tổng công ty nhà nước năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ, giải

pháp, Hà Nội.

24. Bộ Tài chính, (2017), Tổng hợp các Báo cáo số 490/BC-CP ngày 25/11/2013; Báo cáo số 512/BC-CP ngày 25/11/2014; Báo cáo số 620/BC-CP ngày 11/11/2015;

Báo cáo số 428/BC-CP ngày 17/10/2016 của Chính phủ, Hà Nội.

160

25. Bộ tài Chính (2015), Quyết định số 2643/QĐ-BTC 14/12/2015 về việc công bố

công khai số liệu dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, Hà Nội.

26. Bộ Y tế (2015), Hội nghị tổng kết công tác y tế năm 2015, kế hoạch 2016 và

phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.

27. M. Capron, Françoise Quairel-Lanoizelée (2013), Trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp (Dịch giả: Lê Minh Tiến, Phạm Như Hồ), Nxb Tri thức, Hà Nội.

28. Chu Văn Cấp (2017), "Không thể phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước và tuyệt

đối hóa kinh tế tư nhân", Báo Công an Nhân dân, (19).

29. Kiều Châu (2016), "Kiểm toán nêu bức tranh tài chính 38 tập đoàn, tổng công

ty", VnEconomy.vn, [truy cập ngày 20/7/2016].

30. Nguyễn Thị Minh Châu (2013), "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp sản

xuất kinh doanh cá thể đối với người lao động: Nghiên cứu trường hợp ở

thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Khoa học Xã hội, (7), tr.9-18.

31. Nguyễn Thị Kim Chi (2015), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam

hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học quốc gia, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

32. Quỳnh Chi (2015), "Sính hàng ngoại hại ví người tiêu dùng", tại trang

http://www.nguoitieudung.com.vn/sinh-hang-ngoai-hai-vi-nguoi-tieu-

dung-d29652.html, [truy cập ngày 15/10/2017].

33. Chính phủ (2015), Báo cáo chất vấn trước Quốc hội về việc thực hiện các

Nghị quyết của Quốc hội, phiên chất vấn sáng ngày 16/11/2015, Hà Nội.

34. Chính phủ (2015), Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 70/NQ-

CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết

số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020,

Hà Nội.

35. Chính phủ (2016), Báo cáo số 428/BC-CP về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn

nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015, Hà Nội.

36. Nguyễn Trọng Chuẩn (2008), "Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội", Tạp

chí Triết học, (2), tr.27-29.

161

37. Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) (2015), Báo cáo chỉ số

phát triển con người năm 2014, Hà Nội.

38. Hữu Công (2015), "80% cơ sở ô nhiễm chậm di dời là doanh nghiệp nhà nước",

tại trang http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/80-co-so-o-nhiem-cham-di-doi-

la-doanh-nghiep-nha-nuoc-3256308.html, [truy cập 17/9/2017].

39. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008), "Trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước

ở Việt Nam", Tạp chí Quản lý kinh tế, (23), tr.45-48.

40. Đặng Đình Cung (2009), "Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp", Thời Báo Kinh

tế Sài Gòn, ngày 25/8/2009.

41. Đinh Thị Cúc (2014), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế

thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

42. Đào Trọng Cường (2014), Đổi mới khoa học công nghệ trong ngành than, Vụ

Khoa học và Công nghệ - Bộ Công Thương, Hà Nội.

43. Bích Diệp (2015), "Quy mô doanh nghiệp Nhà nước tương đương 80% GDP!

29/05/2015", tại trang http://dantri.com.vn/kinh-doanh/quy-mo-doanh-

nghiep-nha-nuoc-tuong-duong-80-gdp-1433559642.htm, [truy cập ngày

13/5/2017].

44. Dương Công Doanh (2015), "Nhận thức của người tiêu về trách nhiệm xã hội

của doanh nghiệp", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (217), tr.24-32.

45. Lê Đăng Doanh (2010), Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Viện Triết học, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và

hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về về tiếp tục cơ cấu lại, đổi

mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.

54. Nguyễn Độ (2015), "Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sau gần 30 năm

đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.18-21.

55. Phạm Văn Đức (2011), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong việc

thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam", Tạp chí

Nghiên cứu Kinh tế, (400), tr.55-58.

56. Phạm Văn Đức (2011), "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế,

(400), tr.20.

57. Gerd Mutz (2009), "Trách nhiệm doanh nghiệp ở Việt Nam: Sự thách thức đối

với doanh nghiệp, chính phủ và xã hội dân sự", (Người dịch: Vũ Mạnh

Toàn), Tạp chí Triết học, (02), tr.15-18.

58. Đặng Hoàng Giang, Phạm Minh Trí (2013), Đóng góp từ thiện của doanh

nghiệp và cái nhìn về khối phi chính phủ ở Việt Nam, Báo cáo tháng 10

của VCCI, Hà Nội.

59. Nguyễn Ngọc Hà (2010), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và Nhà nước

trong việc bảo đảm công bằng xã hội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế,

Viện Triết học, Hà Nội.

60. Ngọc Hà (2014), "Lương sếp 300 triệu, doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, nợ

nần", VietNamnet, [truy cập ngày 26/07/2016].

61. Lê Thanh Hà (2009), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh

Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Khoa học và

kỹ thuật, Hà Nội.

62. Lê Hồng Hải (2015), Kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia nước

sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2011-2015, Kỷ yếu Hội

nghị môi trường toàn quốc, Bộ tài nguyên và Môi trường, Hà Nội.

163

63. Nguyễn Hằng (2014), "Ngân hàng Quân đội lãi 2.278 tỷ đồng trong năm 2013,

nợ xấu tăng gấp rưỡi", Trí thức trẻ, 3/11/2014.

64. Vũ Hân (2017), "12 dự án "đắp chiếu" ngành Công thương: Ai sẽ trả khoản nợ

55.000 tỷ đồng?. Công an Nhân dân", tại trang http://cand.com.vn/doanh-

nghiep/Ai-se-tra-khoan-no-55-000-ty-dong-461269/, [truy cập ngày

07/10/2017].

65. Hiệp hội Bất động sản Việt Nam (2017), "Danh sách các hiệp hội Việt Nam",

tại trang http://yellowpages.vnn.vn/tgcls/20482245/danh-s%C3%A1ch-

hi%E1%BB%87p-h%E1%BB%99i-vi%E1%BB%87t-nam.html?i=1,

[truy cập ngày 16/10/2017].

66. Chí Hiếu (2015), "Doanh nghiệp Quốc phòng nộp gần 2 tỷ USD tiền thuế, Báo

Vnexpress", tại trang https://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/

doanh-nghiep-quoc-phong-nop-gan-2-ty-usd-tien-thue-3334719.html,

[truy cập ngày 25/10/2017].

67. Trung Hiếu (2017), "80% người tiêu dùng sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản

phẩm xanh 19/04/2017", tại trang https://www.baomoi.com/80-nguoi-

tieu-dung-san-sang-chi-tra-cao-hon-cho-san-pham-xanh/c/22056754.epi,

[truy cập ngày 15/9/2017].

68. Nguyễn Hoài (2016), "Báo động về ô nhiễm bụi ở Việt Nam", tại trang

https://www.tienphong.vn/cong-nghe/bao-dong-ve-o-nhiem-bui-o-viet-

nam-1036520.tpo, [truy cập ngày 9/8/2017].

69. Honda Việt Nam (2016), "Tổng kết hoạt động năm tài chính 2016 và Kế hoạch

phát triển năm tài chính 2017", tại trang https://honda.com.vn/post-tin-

tuc/tong-ket-hoat-dong-nam-tai-chinh-2016-va-ke-hoach-phat-trien-nam-

tai-chinh-2017-cua-cong-ty-honda-viet-nam/, [truy cập 11/10/2017].

70. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002), Từ

điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

71. Khánh Huyền, L.Hữu Việt (2016), "Khi những "quả đấm" không còn...thép",

tại trang https://www.tienphong.vn/kinh-te/khi-nhung-qua-dam-khong-

con-thep-1032326.tpo, [truy cập ngày 11/3/2017].

72. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội

của doanh nghiệp, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Viện Triết học, Hà Nội.

164

73. Thu Hương (2014), "Trách nhiệm xã hội, yếu tố quyết định xu hướng tiêu

dùng", VnEeconomy.

74. Đoàn Duy Khương (2011), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối

cảnh kinh tế toàn cầu, Hội thảo do VCCI tổ chức, Hà Nội.

75. Cầm Văn Kình (2014), "Người tiêu dùng vẫn chưa được bảo vệ", Báo Tuổi

Trẻ, (29).

76. Nguyễn Đức Lâm (2013), "Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp

ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", tại trang http://tapchiqptd.vn,

[truy cập ngày 15/3/2016].

77. Hoàng Lâm (2016), "Doanh nghiệp nhà nước nợ hơn 1,54 triệu tỷ đồng", tại

trang http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2016-10-24/doanh-

nghiep-nha-nuoc-no-hon-154-trieu-ty-dong-37123.aspx, [truy cập ngày

24/9/2017].

78. Hùng Lê (2016), "Doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tụt hậu về công nghệ",

Thời báo Kinh tế Sài Gòn, (8).

79. Vĩnh Linh (2012), "Phát huy vai trò tổ chức hội nghề nghiệp", tại trang

http://www.nhandan.com.vn/bandoc/item/1592902-.html, [truy cập ngày

16/9/2017].

80. Đỗ Thị Loan (2011), "Thực hiện TNXHDN: Doanh nghiệp nên chọn cách làm

phù hợp với khả năng", tại trang http://vccinews.vn/news/3923/.html,

[truy cập ngày 13/5/2017].

81. Nguyễn Duy Long (2016), "Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước

sau thực hiện cổ phần hóa", Tạp chí Tài chính, (10), tr.13-16.

82. Nguyễn Khánh Ly (2015), "Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp

chí Lý luận chính trị, (21), tr.29-31.

83. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Tuyết Mai (Tổng hợp) (2016), "Sếp lớn tập đoàn điện lực EVN thu nhập gần

600 triệu đồng/năm", Báo Đời sống & Pháp luật, (18).

87. Trần Mạnh, Trần Vũ Nghi (2016), "Thương hiệu Việt vươn tầm thế giới", Báo

Tuổi trẻ, 15/08/2016.

165

88. Michael E. Porter (2008), Lợi thế cạnh tranh, (Dịch giả: Nguyễn Phúc Hoàng),

Nxb Trẻ, Hà Nội.

89. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Hà Minh (2017), "Doanh nghiệp nhà nước: Tổng tài sản tăng, lợi nhuận giảm",

tại trang http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2017-10-

25/doanh-nghiep-nha-nuoc-tong-tai-san-tang-loi-nhuan-giam-49533.aspx,

[truy cập ngày 9/10/2017].

91. Đoàn Hùng Minh (2013), "Công nghiệp quốc phòng Việt Nam trong quá trình

hội nhập quốc tế", tại trang http://tapchiqptd.vn, [truy cập ngày

15/7/2016].

92. Trần Hồng Minh (2009), "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và

thực tế ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3), tr.22-26.

93. Ngô Quang Minh (2013), "Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện

nay", tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập 10/5/2017].

94. Đỗ Hoài Nam (2010), Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường,

Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Viện Triết học, Hà Nội.

95. Nguyễn Thị Nga (2012), "Tiếp cận an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay trên quan

điểm phát triển bền vững", tại trang http://www. tapchicongsan.org.vn, [truy

cập ngày 22/6/2016].

96. Phùng Thị Nga (2011), Ứng dụng chế phẩm sinh học biomix1 xử lý chất thải

nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Đề tài khoa học cấp bộ, Trung

tâm Ứng dụng Tiến bộ Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học và Công

nghệ Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.

97. Trần Văn Ngợi (2015), Thu hút và giữ chân người tài trong tổ chức - Nghiên

cứu kinh nghiệm Thế giới, Bộ Nội vụ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước,

Hà Nội.

98. Nhóm phóng viên VietnamPlus (2016), Nông nghiệp Việt: "Miếng bánh" thơm

thu hút đầu tư công nghệ cao, Hà Nội.

99. Vũ Văn Ninh (2013), "Xây dựng doanh nghiệp nhà nước xứng đáng là nòng

cốt của nền kinh tế quốc dân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 6 khóa XI", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.9-11.

100. Hoàng Phê (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

166

101. Nguyễn Minh Phong (2015), "Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững", Tạp

chí Tài chính, (28), tr.39-41.

102. Vũ Văn Phúc (2012), "An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn", Tạp chí Cộng sản, (16), tr.30-33.

103. Nguyễn Mạnh Quân (2013), "Tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước - Một số

vấn đề về nguyên tắc và phương pháp tiếp cận", Tạp chí Kinh tế & Phát

triển, (193).

104. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Luật Doanh

nghiệp nhà nước năm 1995, Hà Nội.

105. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Doanh

nghiệp nhà nước năm 2003, Hà Nội.

106. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Hà Nội.

107. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm

2013, Hà Nội.

108. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Doanh

nghiệp nhà nước năm 2014, Hà Nội.

109. Đặng Đình Quý (2012), "Bàn thêm về khái niệm "hội nhập quốc tế" của Việt

Nam trong giai đoạn mới", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, (4), tr.27-29.

110. Richard Welford (2012), Doanh nghiệp xã hội sẽ là giải pháp vững bền cho

các vấn đề toàn cầu, Kỷ yếu Hội thảo Phát triển kinh doanh bền vững ở

châu Á, Hà Nội.

111. Tập đoàn than khoáng sản Việt Nam (2013), Sản xuất sạch hơn trong khai

thác mỏ: Giảm ô nhiễm, tiết kiệm tiền, Hà Nội.

112. Nguyễn Tấn (2011), "Đề nghị đưa trách nhiệm xã hội vào trường học", Thời

báo Kinh tế Sài Gòn, (14), tr.7-9.

113. Phương Ngọc Thạch (2016), "Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Báo Nhân dân, (215), tr.51-53.

114. Lê Hữu Thành (2017), "Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo", Tạp chí Quân

đội nhân dân, (13), tr.19-23.

115. Mạnh Thắng (2015), "Tổng công ty Xăng dầu Quân đội: Sáng tạo, phát triển

bền vững", Báo Mới, (30), tr.5.

167

116. Trương Nam Thắng và Margaret Mckee (2014), "Trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế

giới, (9), tr.27-30.

117. Nguyễn Ngọc Thắng (2014), "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số

vấn đề lý thuyết và gợi ý chiến lược cho doanh nghiệp Việt Nam", Tạp

chí Nghiên cứu kinh tế, (429), tr.23-24.

118. Nguyễn Ngọc Thắng (2015), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

119. Phạm Tất Thắng (2012), "Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong hội

nhập quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (29), tr.15-18.

120. Phạm Tất Thắng (2015), "Hội nhập kinh tế quốc tế: Từ quan điểm của Đảng

đến thực tiễn", tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày

3/1/2017].

121. Tiến Thắng (2016), "Gần 2.000 công nhân ngừng việc, ném trứng thối vào

người đi làm", Báo Tuổi trẻ, 15/04/2016.

122. Nguyễn Văn Thắng (2013), "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt

Nam theo khung tham chiếu của Hiệp ước Toàn cầu (Global Compact)",

Tạp chí Kinh tế & Phát triển, (195), tr.4.

123. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập

kinh tế quốc tế với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

124. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2011), Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế

của Việt Nam trong bối cảnh mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

125. Trần Xuân Thắng (2016), Trách nhiệm xã hội là bản chất của doanh nghiệp,

Diễn đàn phong cách Doanh nhân, Phòng Thương Mại và Công Nghiệp

Việt Nam VCCI, Hà Nội.

126. Hoàng Thị Phương Thảo, Huỳnh Long Hồ (2015), "Trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp, niềm tin và sự gắn kết với tổ chức của nhân viên ngân

hang", Tạp chí Phát triển kinh tế, (26), tr.34-37.

127. Theo Khám phá (2013), "Hàng hiệu đắt tiền 'bỏ bùa' người Việt", tại trang

http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/151156/hang-hieu-dat-tien-bo-bua-

nguoi-viet.html, [truy cập ngày 27/9/2017].

168

128. Đỗ Phú Thọ (2017), "Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước", Tạp chí

Quân đội nhân dân, (28), tr.26-29.

129. Lê Thị Thơm (2016), "Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt

Nan hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (5), tr.39-42.

130. Thời báo Tài chính Việt Nam (2016), "Doanh nghiệp nhà nước vẫn là đầu tàu

đóng góp vào ngân sách", tại trang http://tapchitaichinh.vn/chinh-sach-

thue-va-cuoc-song/doanh-nghiep-nha-nuoc-van-la-dau-tau-dong-gop-

vao-ngan-sach-94200.html, [truy cập ngày 21/10/2017].

131. Thông tin Tài chính (2015), "Đổi mới công nghệ doanh nghiệp: Song hành lợi

ích và rào cản", tại trang http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-

doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/doi-moi-cong-nghe-doanh-nghiep-song-

hanh-loi-ich-va-rao-can-73207.html, [truy cập ngày 04/10/2017].

132. Hoài Thu, Thanh Bình (2016), "Môi trường đã ô nhiễm đến ngưỡng "không

thể chịu đựng thêm"", tại trang www.baogiaothong.vn, [truy cập ngày

03/10/2017].

133. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg phê duyệt Chiến

lược phát triển giáo dục 2011 - 2020, ngày 13 tháng 6 năm 2012, Hà Nội.

134. Bùi Loan Thùy (2012), "Từ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

tiến tới tạo lập giá trị chung trong hội nhập kinh tế toàn cầu", Tạp chí

Phát triển & Hội nhập, (2), tr.55.

135. L.Thư (2014), "990 tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động tại Việt Nam", tại

trang http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/151491/990-to-chuc-phi-chinh-

phu-quoc-te-hoat-dong-tai-vn.html, [truy cập ngày 12/7/2016].

136. Nguyễn Văn Thức (2008), "Vai trò của Nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã

hội", Tạp chí Triết học, (6), tr.17.

137. Võ Khắc Thường (2013), "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam và

những vấn đề còn bất cập", Tạp chí Phát triển và Hội nhập, (9), tr.45-48.

138. Trần Trung Tín (2011), "Quân đội đẩy mạnh sản xuất, tham gia phát triển kinh

tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng", tại trang

http://tapchiqptd.vn, [truy cập ngày 25/8/2017].

139. Đặng Hữu Toàn (2010), Trách nhiệm xã hội trong bối cảnh phát triển kinh tế

thị trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Viện Triết học, Hà Nội.

169

140. Trần Trọng Toàn (2016), Vai trò đạo đức kinh doanh trong phát triển doanh

nghiệp, Hội thảo về chủ đề "Đạo đức toàn cầu", Liên hiệp các Hội

UNESCO, Hà Nội.

141. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp quốc (UNESCO)

(2015), Báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người - mục tiêu

có đạt được vào năm 2015, Hà Nội.

142. Tổng cục Thống kê (2016), Tình hình kinh tế xã hội năm 2015, 6 tháng đầu

năm 2016, Hà Nội.

143. Kim Trí, Đình Phú (2013), "Vụ lương khủng ở doanh nghiệp công ích: Làm quyết

liệt ngày đêm để có kết quả trả lời cho dân biết", Báo Thanh niên, (12), tr.7.

144. Nguyễn Phú Trọng (2011), "Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế

mạc Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI", tại

trang https://baotintuc.vn/thoi-su/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-

trong-be-mac-hoi-nghi-lan-thu-ba-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-

khoa-xi-20111010194949738.htm, [truy cập ngày 10/9/2017].

145. Lê Trung (2016), "Bức xúc lương thấp, hơn 1.000 công nhân đồng loạt nghỉ

việc", Báo Tuổi trẻ, 9/7/2016.

146. Thành Trung (2016), "Tạo chuỗi liên kết cho thực phẩm an toàn", tại trang

http://bnews.vn/tao-chuoi-lien-ket-cho-thuc-pham-an-toan/19376.html,

[truy cập ngày 23/8/2017].

147. Trung tâm Đào tạo Quản lý Pháp - Việt (CFVG) (2009), Trách nhiệm xã hội

của doanh nghiệp tại Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn, Hà Nội.

148. Phạm Quốc Trụ (2011), "Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn", Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, (2), tr.49-53.

149. Đức Tuân (2016), "Thủ tướng: Kiên quyết không đánh đổi môi trường vì lợi

ích trước mắt", tại trang http://thutuong.chinhphu.vn, [truy cập

24/08/2017].

150. Hoàng Anh Tuấn (2013), "Môi trường quốc tế và chiến lược ngoại giao của

Việt Nam", tại trang http://www.tgvn.com.vn, [truy cập ngày

16/12/2016].

151. Phạm Tuyên (2016), "Vinamilk tham vọng lọt top 50 công ty sữa lớn nhất thế

giới", Báo Tiền Phong, 19/2/2016.

170

152. Nguyễn Tuyền (2017), "Hơn 42.700 tỷ đồng tiền Nhà nước có dấu hiệu đầu tư

"không hiệu quả"", tại trang http://dantri.com.vn/kinh-doanh/hon-42700-

ty-dong-tien-nha-nuoc-co-dau-hieu-dau-tu-khong-hieu-qua-20170917134

521402.htm, [truy cập ngày 10/9/2017].

153. Phạm Thị Tuyết (2012), "Ô nhiễm môi trường - trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp Việt Nam", Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, (120), tr.32-36.

154. Hoàng Tùng (2014), "Kế toán quản trị - Từ khía cạnh lợi ích doanh nghiệp đến khía

cạnh trách nhiệm xã hội", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (206), tr.41-42.

155. Tố Uyên (2017), "Doanh nghiệp nhà nước: Gấp rút xây dựng lộ trình và tổ

chức bán vốn", tại trang http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/chung-

khoan/2017-02-12/doanh-nghiep-nha-nuoc-gap-rut-xay-dung-lo-trinh-

va-to-chuc-ban-von-40642.aspx, [truy cập ngày 17/10/2017].

156. Trần Văn (2010), "Giá trị thương hiệu phải gắn với trách nhiệm xã hội", Báo

VnEconomy, ngày 5/10/2010.

157. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) (2016), Báo cáo vai trò

của Nhà nước trong hoạt động đầu tư của nhà nước, Hà Nội.

158. Viện Quản lý kinh tế Trung ương (2012), Thông tin chuyên đề tái cơ cấu và

cải cách doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội.

159. Viện Triết học (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

160. Viện Văn học (1980), Nguyễn Trãi - khí phách và tinh hoa của dân tộc, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

161. Lê Hữu Việt (2015), "Doanh nghiệp nhà nước: Ưu đãi lắm, hệ lụy nhiều", tại

trang http://www.tienphong.vn, [truy cập ngày 29/05/2017]/

162. Trần Nguyên Việt (2010), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về vấn đề

sinh thái và ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

163. Vietnam Report (2016), "Công bố V1000: 1.000 doanh nghiệp nộp thuế lớn

nhất Việt Nam 2016", tại trang http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/tai-

chinh/cong-bo-v1000-1-000-dn-nop-thue-lon-nhat-viet-nam-2016-

333684.html, [truy cập ngày 9/10/2017].

164. Thế Vinh (2016), "Doanh nghiệp nhỏ chưa chú trọng đầu tư công nghệ", Báo

Đấu thầu, (8).

165. Hà Tôn Vinh (2016), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Hãy hành động,

thôi hô "khẩu hiệu", Diễn đàn phong cách Doanh nhân, Hà Nội.

171

Tài liệu tiếng Anh

166. Abraham Maslow (1943), "A Theory of Human Motivation", Published in

Psychological Review, (50), p.370-396.

167. Andrew Crane, Abagail McWilliams, Dirk Matten, Jeremy Moon, Donald S.Siegel

(2008), Corporate Social Responsibility, Oxford University Prees.

168. Balassa, В (1967), "Trade Creation and Trade Diversion in the European

Common Market", The Economic Journal, (77), p.1-21

169. Carroll, A (1999), "Corporate social responsibility. Evolution of a Definttional

Contruct", Univercity of Gieorgia, (75), p.274-275.

170. Chen J.C, Patten D.M, Roberts R (2008), "Corporate charitable contributions:

a corporate social performance or legitimacy strategy?", Journal of

Business Ethics, (82), p.131-144.

171. JennyFu and Geoffrey Nicoll (2011), "The Milk scandal and corporate

governace in China", Canberra Law Review, (10), p.103-124.

172. Marcello Palazzi and George Starcher (1997), Corporate social responsibility

and business success, European Bahá’í Business Forum.

173. Palmer, Karen (1995), "Tightening Environmental Standards: The Benefit-

Cost or the No-Cost Paradigm?", The Journal of Economic Perspectives,

(9), p.119-132.

174. Prakash Sethi (1975), Dimensions of Corporate Social Performance: An

Analytical Framework, California Management Review.

175. Sage Publication Ltd (2012), Brief Guide to Corporate Social Responsibility, ,

European Bahá’í Business Forum.

176. Steven M. Sheffrin (2003), Economics: Principles in Action, Upper Saddle River,

New Jersey: Pearson Prentice Hall. p. 29. ISBN 0-13-063085-3.

172

PHỤ LỤC

Phụ lục 1 Mô hình Frederick Winslow Taylor và Henry Ford

Frederick Winslow Taylor (29/3/1856 - 21/3/1915), là một kỹ sư cơ khí Mỹ đã tìm ra cách nâng cao năng suất công nghiệp. Là một nhà tư vấn quản lý và ông được người ta gọi là "cha đẻ của quản lý theo khoa học".

Henry Ford (30/7/1863 - 7/4/1947) là người sáng lập Công ty Ford Motor. Ông là một trong những người đầu tiên áp dụng sản xuất kiểu dây chuyền lắp ráp trong sản xuất ô tô. Ông không chỉ làm cách mạng ngành công nghiệp sản xuất ở Hoa Kỳ và châu Âu mà còn có nhiều ảnh hưởng tới kinh tế và xã hội thế kỷ 20 tới mức sự phối hợp giữa sản xuất hàng loạt, tiền lương cao và giá thành sản phẩm thấp cho người tiêu dùng đã được gọi là "Chủ nghĩa Ford".

Nguồn: [169]. Phụ lục 2 Một số khái niệm điển hình về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Tác giả Năm 1960 Keith Davis

Nội dung Trách nhiệm của doanh nhân trong hoạt động phải có ít nhất một phần lợi ích vượt qua các lợi ích kinh tế hoặc kỹ thuật của công ty. Hay trong hoạt động, khi các doanh nhân đạt mục tiêu lợi nhuận phải trích một phần phục vụ cho các mục tiêu của xã hội. 1970 Friedman

Doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm duy nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật chơi của thị trường là cạnh tranh trung thực và công bằng. 1971

CED Committee for Economic Development

Kinh doanh có trách nhiệm cơ bản là, cung cấp sản phẩm, dịch vụ, việc làm và tăng trưởng kinh tế. Kinh doanh trách nhiệm phải thực hiện các hoạt động kinh tế bên cạnh đó cũng luôn luôn ưu tiên các vấn đề xã hội. Bao gồm bảo vệ môi trường; mối quan hệ với người lao động; đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng, đối xử công bằng. 1975 Sethi

Trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến. 1979 Archie B. Carroll TNXHDN bao phủ kỳ vọng về kinh tế, pháp lý, đạo đức, từ thiện xã hội của các doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. 2002 Ủy ban châu

Âu European Commission TNXHDN là việc doanh nghiệp đưa mối quan tâm về xã hội và môi trường vào các hoạt động kinh doanh và mối quan hệ của họ với các cổ đông của mình trên nguyên tắc tự nguyện.

173

2008 Tổ chức Lao động Quốc tế ILO

TNXHDN là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm... theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội".

2008 Ngân hàng thế giới WB

TNXHDN là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội" (NiGel Twose - Chuyên gia ngân hàng thế giới). 2010 Lê Đăng Doanh

TNXHDN đó là sự cam kết của công ty trong ứng xử phù hợp với lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng, nhà cung ứng, nhân viên, cổ đông, cộng đồng, môi trường. Theo đó, trách nhiệm được coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh, có liên quan đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. 2011

Liên minh châu Âu European Union TNXHDN được xác định là "quá trình kết hợp các vấn đề xã hội, môi trường, đạo đức, nhân quyền và các vấn đề người tiêu dùng vào trong các hoạt động kinh doanh và chiến lược trọng tâm của doanh nghiệp trong mối quan hệ chặt chẽ với các bên liên quan". 2015 Đinh Thị Cúc

TNXHDN là sự tự cam kết của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mang lại những lợi ích cho cả doanh nghiệp cũng như cho các đối tác và các đối tượng chịu sự tác động của doanh nghiệp (nhà nước, người lao động, môi trường sống, người tiêu dùng, cộng đồng...) theo những chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

Nguồn: [41].

Phụ lục 3 Hậu quả khi doanh nghiệp thiếu trách nhiệm trong bảo vệ môi trường

Thứ nhất, việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó, với các hệ thống dây chuyền công nghệ cũ thì việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một hệ quả tất yếu. Và là nhân tố cơ bản làm biến đổi khí hậu.

Thứ hai, hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển cũng làm phát sinh nhiều yếu tố ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất thải. Lượng chất thải công

174

nghiệp này dễ gây suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh như môi trường đất, môi trường nước, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của con người, tới trật tự an toàn xã hội, ANQP…

Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm phát sinh những vấn đề môi trường thông qua hoạt động nhập khẩu những sản phẩm hàng hóa không thân thiện với môi trường, trong đó có thể là những chất thải độc hại.

Chất lượng môi trường có thể làm phát sinh những chi phí cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua những vấn đề liên quan đến sức lao động, chi phí ngoại ứng đối với nguồn nguyên, vật liệu và làm tăng giá thành sản phẩm, chi phí xử lý khắc phục môi trường… từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh. Bên cạnh đó, chất lượng môi trường không bảo đảm sẽ ảnh hưởng tới tính bền vững trong hoạt động kinh doanh của DN: Đơn cử điển hình như hệ lụy của công ty Vedan (2008), công ty Tung Kuang (2010), công ty cổ phần dịch vụ Sonadezi Việt Nam (2010), công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà máy tàu biển Hyundai - Vinashin (2011), công ty cổ phần Mía đường Hòa Bình (2016), hay việc tàn phá môi trường xung quanh mỏ vàng Bồng Miêu, Phước Sơn thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh và gần đây nhất là Formosa... Nguồn: [41].

Phụ lục 4 Những văn bản luật, dưới luật liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Những quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp được cụ thể hóa trong: Luật số 69/2014/QH13 - Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Luật Quảng cáo năm 2012; Luật lao động năm 2012; Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật đầu tư năm 2014; Luật bảo vệ môi trường 2014; Luật chất lượng sản phẩm 2008. Nghị định số 132/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm; Chỉ thị số 03/2012/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN;

Nghị định số 181/2013/NĐ-CP quy định thi hành luật quảng cáo; Nghị định số 91/2015/NĐ-CP về đầu tư vốn NN vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp

Những quy định về hợp đồng lao động, tiền lương: Nghị định số 44/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động.

Nghị định số 50/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong CT1TV do NN làm chủ sở hữu.

Nghị định 51/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với thành viên hội đồng thành viên hoặc chủ tịch, kiểm soát

175

viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc, Kế toán trưởng trong CT1TV do NN làm chủ sở hữu.

Nghị định số 182/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan có thuê mướn lao động. Nghị định số 63/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính sách đối với người lao động dôi dư khi sắp xếp lại CT1TV do NN làm chủ sở hữu.

Thông tư số 17/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn xây dựng thang lương, bảng lương, phụ cấp lương và chuyển xếp lương đối với người lao động trong CT1TV do NN làm chủ sở hữu. Những quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn vệ sinh lao động:

Nghị định số 45/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động.

Nghị định số 50/2013/NĐ-CP của Chính phủ Quy định quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với người lao động làm việc trong CT1TV do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT- BLĐTBXH-BYT của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội-Bộ Y tế về hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác an toàn - vệ sinh lao động trong cơ sở lao động.

Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên. Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc.

Thông tư số 25/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại. Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục công việc không được sử dụng lao động nữ.

Thông tư số 43/2013/ TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao và tiền thưởng trong các tổ chức được thành lập và hoạt động theo mô hình CT1TV do NN làm chủ sở hữu theo quy định của luật chứng khoán.

Thông tư số 04/2015/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn việc thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp và chi phí của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

Những quy định về quy chế dân chủ, thỏa ước lao động tập thể, Công đoàn: Nghị định số 43/2013/NĐ-CP, quy định chi tiết thi hành Điều 10 của Luật Công đoàn về quyền, trách nhiệm Công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Nghị định số 60/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.

176

Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chỉnh phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính NN và đơn vị sự nghiệp công lập.

Thông tư số 29/2015/TT-BLĐTBXH, hướng dẫn thực hiện một số quy định về thương lượng tập thể, thỏa ước lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động tại Nghị định 05/2015/NĐ-CP của Chính Phủ. Những quy định về Trách nhiệm của doanh nghiệp với cộng đồng và xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, bảo vệ người tiêu dùng.

Điều 38 và Điều 43 Hiến pháp Việt Nam năm 2013: Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng. NN có chính sách bảo vệ môi trường… Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật số: 59/2010/QH12, Quốc hội năm 2011 (Điều 8. Quyền của người tiêu dùng; Điều 9. Nghĩa vụ của người tiêu dùng).

Luật bảo vệ môi trường 2014. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung;

Nghị định số 185/2013/NĐ-CP, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nghị định số 03/2015/NĐ-CP, quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường;

Nghị định số 38/2015/NĐ-CP, quy định về quản lý chất thải và phế liệu; Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao; Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại. Nghị định số 155/2016/NĐ-CP, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;

Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường; gắn kết hài hòa giữa bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 5 Năng lực nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, sửa chữa vũ khí của doanh nghiệp an ninh quốc phòng

Đặc biệt, ngành đã sản xuất được súng bộ binh thế hệ mới; Các loại vũ khí hỏa lực mạnh có điều khiển; Làm chủ công nghệ lắp ráp tên lửa phòng không tầm thấp, đóng mới các tàu quân sự hiện đại… góp phần thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Nhiều DN đã xây dựng được thương hiệu mạnh; Nhiều ngành hàng, sản phẩm kinh tế do công nghiệp quốc phòng sản xuất đã khẳng định được uy tín, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường trong nước và thế giới… Nguồn: Tác giả tổng hợp.

177

Phụ lục 6 Các khu kinh tế quốc phòng

Khu kinh tế - quốc phòng Địa điểm

Khu Kinh tế - Quốc phòng Mẫu Sơn Khu Kinh tế - Quốc phòng Bảo Lạc-Bảo Lâm Khu Kinh tế - Quốc phòng Mường Chà Khu Kinh tế - Quốc phòng Vị Xuyên Khu Kinh tế - Quốc phòng Xín Mần Khu Kinh tế - Quốc phòng Bát Sát Khu Kinh tế - Quốc phòng Sông Mã Khu Kinh tế - Quốc phòng Phong Thổ Khu Kinh tế - Quốc phòng Bắc Hải Sơn

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Khu Kinh tế - QP Bình Liêu - Quảng Hà - Móng Cái 11 Khu Kinh tế - Quốc phòng Khe Sanh 12 Khu Kinh tế - Quốc phòng Aso - Alưới 13 Khu Kinh tế - Quốc phòng Kỳ Sơn 14 Khu Kinh tế - Quốc phòng Mường Lát 15 Khu Kinh tế - Quốc phòng Cưmga 16 Khu Kinh tế - Quốc phòng Tây Giang 17 Khu KT - Quốc phòng Bù Gia Phúc - Bù Gia Mập 18 Khu Kinh tế - Quốc phòng Bắc Lâm Đồng 19 Khu Kinh tế - Quốc phòng Tân Hồng 20 Khu Kinh tế - Quốc phòng Quảng Sơn 21 Khu Kinh tế - Quốc phòng Binh đoàn 15 22 Khu Kinh tế - Quốc phòng Binh đoàn 16 23 DK-1 Lạng Sơn Cao Bằng Điện Biên Hà Giang Hà Giang Lào Cai Sơn La Lai Châu Quảng Ninh Quảng Ninh Quảng Trị Thừa Thiên Huế Nghệ An Thanh Hóa Đắc Lắc Quảng Nam Bình Phước Lâm Đồng Đồng Tháp Đắc Lắc GLai,KTum,ĐLắc ĐLắc, BìnhPhước Biển Đông

Nguồn: Tác giả tổng hợp. Phụ lục 7 Những thương hiệu mạnh của các doanh nghiệp an ninh quốc phòng Tiêu biểu là: Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel, Tổng công ty trực thăng Việt Nam, Tổng công ty Ba Son, Ngân hàng quân đội… Riêng Bộ Công an có 10 DN, trong năm 2016 các DN đều đạt được kết quả khá. Tổng doanh thu đạt hơn 3.322 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2015 và tăng 5,5% so với kế hoạch được giao năm 2016. Trong đó doanh thu phục vụ ngành đạt trên 1.249 tỷ đồng, tăng 8,7% so với năm 2015. Tổng lợi nhuận trước thuế đạt 118,56 tỷ đồng, tăng 11,3% so với năm 2015 và tăng 15,4% so với kế hoạch năm 2016. Trong năm 2016, các DN đã thu nộp ngân sách đạt hơn 180 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đạt 9,74 triệu đồng/người/tháng. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

178

Phụ lục 8 Đóng góp kinh tế - xã hội của nhiều doanh nghiệp an ninh quốc phòng

Năm 2016, doanh thu dự kiến đạt 348.911 tỷ đồng, tăng 5% so với năm 2015. Lợi nhuận trước thuế dự kiến đạt 51.895 tỷ đồng, tăng 4,5% so với năm 2015. Nộp ngân sách dự kiến đạt 43.875 tỷ đồng, tăng 3% so với thực hiện năm 2015. Thu nhập bình quân người lao động đạt 10,9 triệu đồng/người/tháng, tăng 1% so với năm 2015.

Đứng đầu vẫn là Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) với doanh thu ước đạt trên 196.650 tỷ đồng, (đạt 104,5% kế hoạch, bằng 120% so với năm 2013, chiếm tỷ trọng 67,28% doanh thu của các DN quân đội), lợi nhuận trước thuế đạt 42.224 tỷ đồng (103% kế hoạch năm, bằng 115% so với năm 2013, chiếm tỷ trọng 91,6 % lợi nhuận trước thuế của các DN quân đội. Nhà máy Z199 thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, những tháng đầu năm 2015, thu nhập bình quân đạt 7,8 triệu đồng/người/tháng). Năm 2015, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp Vạn Xuân - Bộ Quốc

phòng - Doanh thu: 525.415.801.397 đồng. - Lợi nhuận trước thuế: 34.526.123.868 đồng. - Lợi nhuận sau thuế: 29.051.067.348 đồng. - Nộp ngân sách Nhà nước: 351.999.030.190 đồng. - Thu nhập bình quân: 11.798.000 đồng/người/tháng). Năm 2015, Tổng Công ty 28 đã đạt doanh thu.

4.800 tỷ đồng. - Doanh thu: - Lợi nhuận trên: 120 tỷ đồng. - Nộp ngân sách Nhà nước: 165 tỷ đồng. - Thu nhập bình quân: 8,5 triệu đồng/người/tháng.

Cùng với tăng trưởng về sản xuất, kinh doanh, Tổng Công ty 28 luôn thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người lao động, xây dựng cảnh quan môi trường "Xanh, Sạch, Đẹp" cũng như quan tâm đến các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, ASXH, chính sách đối với người lao động, hậu phương người lao động và địa phương nơi đơn vị đóng quân tạo việc làm ổn định cho gần 1 vạn lao động.

Năm 2015, Tổng công ty Đông Bắc sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả tốt; lợi nhuận, thu nhập bình quân đều vượt kế hoạch và cao hơn so với năm 2014, cụ thể: Lợi nhuận đạt 103% so với kế hoạch, bằng 103% so với năm 2014; Thu nhập bình quân người lao động đạt 104% kế hoạch năm, bằng 105% kế hoạch năm 2014.

9.852,155 tỷ đồng. - Doanh thu: - Lợi nhuận trước thuế: 225,455 tỷ đồng. - Lợi nhuận sau thuế: 176,443 tỷ đồng. - Nộp ngân sách nhà nước: 1.270,970 tỷ đồng. Doanh thu năm 2015 của Tổng công ty Trực thăng Việt Nam.

- Doanh thu đạt: - Lợi nhuận: - Nộp ngân sách: trên 2.000 tỷ đồng. 300 tỷ đồng. 200 tỷ đồng. Doanh thu năm 2015 của Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn.

179

14.930 tỷ đồng. 1.825 tỷ đồng. - Doanh thu: - Lợi nhuận trước thuế: - Nộp ngân sách nhà nước: 407 tỷ đồng.

Đây là đơn vị góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.

Tổng công ty Xăng dầu Quân đội (Mipecorp). Từ năm 2012, hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào ổn định, tăng trưởng khá ấn tượng, luôn vượt mức kế hoạch trên giao, trở thành thương hiệu mạnh trên thị trường xăng dầu trong nước. Doanh thu bình quân hằng năm của Mipecorp khoảng 12.000 tỷ đồng. Năm 2012 lãi 18 tỷ đồng và năm 2013 lãi 71 tỷ đồng. Đặc biệt năm 2014, trong khi nhiều doanh nghiệp đầu mối liên tục gặp khó khăn, thậm chí thua lỗ thì Mipecorp lãi 143 tỷ đồng. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2015, Mipecorp đã đạt lợi nhuận 150 tỷ đồng. Từ năm 2010 đến 2014, Mipecorp nộp ngân sách NN tổng số tiền 6.204 tỷ đồng, thu nhập của người lao động đạt bình quân 7 triệu đồng/người/tháng. Bảo đảm việc làm, thu nhập ổn định cho 1.200 lao động, nộp ngân sách NN hơn 1.500 tỷ đồng/ năm. Ngân hàng Quân đội lãi 2.278 tỷ đồng trong năm 2013, năm 2015 lãi sau thuế hơn 2.500 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2014.

Ngoài thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng đơn vị, các doanh nghiệp ANQP còn tham gia tích cực vào các chương trình ASXH, đóng góp vào các "Quỹ đền ơn đáp nghĩa"; xây tặng 200 nhà tình nghĩa cho các thương binh, gia đình liệt sĩ; tham gia tôn tạo nghĩa trang liệt sỹ trên 1,2 tỷ đồng và hơn 1.000 ngày công lao động… Cùng với đó, các doanh nghiệp cũng đã triển khai 33 dự án đầu tư ra nước ngoài trên các lĩnh vực như: viễn thông, trồng rừng, khai thác khoáng sản… Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 9 An sinh xã hội trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

Được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua năm 1948, Điều 25 "Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khoẻ và các phúc lợi xã hội bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, goá phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác". Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 10 Những đóng góp quan trọng của doanh nghiệp nhà nước cho an sinh xã hội

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) từ năm 2008 đến nay đã thực hiện các chương trình ASXH với trị giá gần 1.300 tỷ đồng. Với những đóng cho ASXH đã được cộng đồng ghi nhận, được các cơ quan quản lý đánh giá tốt. Vì vậy, lần thứ 4 liên tiếp BIDV được nhận giải thưởng "Doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và phát triển cộng đồng" (từ năm 2012-2015).

180

Ngân Hàng Công Thương Việt Nam (Viettinbank) đã dành trên 5.000 tỷ đồng, được trích từ quỹ phúc lợi, tiết giảm chi phí hoạt động kinh doanh cùng nguồn đóng góp tự nguyện của gần 20 ngàn cán bộ nhân viên để hỗ trợ xây dựng nhà ở, công trình dân sinh, y tế, giáo dục, đền ơn đáp nghĩa tại hầu hết 63 tỉnh, thành trên cả nước. Đạm Cà Mau, đã dành trên 170 tỷ đồng để hỗ trợ xây dựng nhà ở, công trình dân sinh, y tế, giáo dục, đền ơn đáp nghĩa,… trên nhiều địa phương trong cả nước.

Công ty Viễn thông quân đội (Viettel) đã chú trọng đến thị trường nông thôn, hướng đến người nghèo vì mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. Đầu tư hạ tầng mạng lưới tới mọi miền của đất nước (cả nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo), với giá "bình dân", phù hợp với khả năng của người nghèo, góp phần nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền. Cùng với kinh doanh hướng đến người nghèo, Tập đoàn còn đầu tư và cung cấp dịch vụ internet miễn phí cho 39.500 trường học và cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; triển khai internet đến 98,6% học viện, nhà trường Quân đội. Hoạt động này đã tạo ra hiệu ứng xã hội tích cực, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về viễn thông và công nghệ thông tin. Hàng loạt chương trình được Viettel thực hiện hoặc tài trợ thực hiện, như: "Trái tim cho em", "Phẫu thuật nụ cười", "Nối vòng tay lớn", "Như chưa hề có cuộc chia ly", "Chúng tôi là chiến sĩ", "Quỹ tấm lòng Việt"... Đó là những hoạt động thiết thực, mang ý nghĩa xã hội to lớn và giá trị nhân văn sâu sắc, được Chính phủ và công chúng đánh giá cao. Đặc biệt, quán triệt Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, Tập đoàn đã nhận hỗ trợ 3 huyện nghèo (Bá Thước, Mường Lát - Thanh Hóa và Đakrông - Quảng Trị) thoát nghèo trong giai đoạn 2010 - 2015.

Agribank năm 2012, tổng số tiền dành cho ASXH là 333 tỷ đồng, năm 2013 trên 400 tỷ đồng, chủ yếu dành hỗ trợ ASXH trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xây nhà tình nghĩa cho người nghèo, hỗ trợ các em nhỏ đồng bào dân tộc miền núi, trao tặng sổ tiết kiệm cho các cựu nữ Thanh niên Xung phong có hoàn cảnh khó khăn… Năm 2015, Agribank tiếp tục triển khai nhiều chương trình ASXH, tập trung mạnh mẽ vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây nhà đại đoàn kết, cứu trợ thiên tai, tặng quà tết cho đồng bào nghèo, đường giao thông nông thôn… Với nhận thức đúng đắn và trách nhiệm cao đối với cộng đồng và xã hội, thực hiện các giải pháp của Chính phủ theo chỉ đạo tại Nghị quyết 11/NQ-CP, Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, mặc dù hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn nhưng Agribank đã tiết giảm chi phí hoạt động, vận động cán bộ trong toàn hệ thống đóng góp tiền lương và sử dụng các nguồn khác, chi gần 350 tỷ đồng cho công tác từ thiện, ASXH. Với việc thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh. Đến nay, Agribank đã cho vay hỗ trợ lãi suất với 42 huyện thuộc 17 tỉnh với dư nợ 2.324 tỷ đồng, số khách hàng còn dư nợ là 54.947 khách hàng. Riêng với hai huyện Mường Ảng và Tủa Chùa - Điện Biên, Agribank đã triển khai hỗ trợ 160 tỷ đồng góp phần đem đến cuộc sống mới cho người dân nơi đây.

181

Những hoạt động thiện nguyện của Agribank được cộng đồng xã hội ghi nhận và các cơ quan quản lý đánh giá cao.

Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP), từ 2009-2015, đã dành gần 600 tỷ đồng cho công tác ASXH. Năm 2015, mặc dù phải đối mặt với những thách thức hết sức to lớn do cuộc khủng hoảng suy giảm giá dầu thô trên thế giới đã ảnh hưởng mạnh đến hoạt động, doanh thu và lợi nhuận, nhưng PVEP và các đơn vị thành viên, liên doanh tiếp tục nỗ lực tham gia công tác ASXH và đã triển khai 27 chương trình, dự án tại các địa phương, tới các cơ quan, tổ chức trên cả nước với tổng số kính phí trên 100 tỷ đồng trải rộng trên nhiều mặt hoạt động. Trong năm 2014, PVEP tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương tổ chức tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, hoạt động vì người nghèo, quyên góp, trích quỹ phúc lợi, tích cực ủng hộ, giúp đỡ đồng bào nghèo có hoàn cảnh khó khăn… với tổng số tiền gần 91 tỉ đồng và hơn 377.000USD. Trong đó, tính đến tháng 11-2014, tổng số tiền mà cán bộ công nhân viên người lao động quyên góp ủng hộ là: 7,840 tỉ đồng, trong đó: ủng hộ các ngày làm thêm là 6,850 tỉ đồng, ủng hộ Biển đảo là 905 triệu đồng, ủng hộ Quỹ Phụ nữ khó khăn 85 triệu đồng. Trong năm 2015, đóng góp số tiền khoảng 100 tỉ đồng…

Nguồn: Tác giả tổng hợp. Phụ lục 11 Nghị định thư Kyoto

Nghị định về cắt giảm khí thải nhà kính được các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc ký ngày 11-12-1997 tại Kyoto (Nhật Bản), có hiệu lực từ ngày 16-02-2005. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 12 Những doanh nghiệp nhà nước điển hình trong việc bảo vệ môi trường

Tổng Công ty thăm dò khai thác dầu khí (PVEP), trong quá trình triển khai các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài là PVEP cùng với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam luôn thực hiện các giải pháp nhằm mục tiêu tiết kiệm năng lượng, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý như: Ưu tiên sử dụng các nguyên/nhiên liệu thân thiện hơn với môi trường; Ưu tiên sử dụng các công nghệ xử lý môi trường theo chu trình khép kín; Xây dựng chương trình quản lý chất thải, quan trắc môi trường cho các dự án, nghiên cứu đầu tư và phát triển các dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM)... CT1TV Dịch vụ công ích Thanh niên xung phong, được giao quản lý và bảo vệ hơn 7.000 hecta rừng Cần Giờ, với các nhiệm vụ chính là trồng mới, chăm sóc, chống việc xâm hại tài nguyên và chiếm đất rừng... đây là khu dự trữ sinh quyển thế giới đồng thời nơi đây được công nhận là một khu du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam, là "lá phổi" đồng thời là "quả thận" có chức năng làm sạch không khí và nước

182

thải từ các thành phố công nghiệp trong thượng nguồn sông Ðồng Nai - Sài Gòn đổ ra biển Ðông.

Năm 1989, Thành phố Hồ Chí Minh giao cho CT1TV Dịch vụ Du lịch Phú Thọ quản lý khai thác khu du lịch Đầm Sen, trước năm 1975, mảnh đất thuộc Công viên Văn hoá Đầm Sen hiện nay là một khu đầm lầy hoang hoá, nhưng hiện tại khu có quy mô lớn và hiện đại, trải rộng gần 50ha, bao gồm hơn 60% diện tích là cây xanh, hoa cảnh và 20% diện tích mặt hồ, trở thành một ốc đảo xanh giữa lòng Thành Phố Hồ Chí Minh.

CT1TV Cao su Dầu Tiếng, bên cạnh đóng góp về hiệu quả kinh tế thì đơn vị luôn chú ý bảo vệ môi trường, hệ thống xử lý nước thải trong chế biến được đầu tư hiện đại, thông số nước thải luôn đạt tiêu chuẩn cột A.

Công ty xi măng Chinfon, thực hiện tốt các giải pháp bảo vệ môi trường trong những năm qua không chỉ xuất phát từ trách nhiệm bảo vệ môi trường do luật pháp quy định mà còn xuất phát từ mục tiêu phát triển bền vững của công ty theo tiêu chí "Sản xuất kinh doanh hiệu quả gắn liền với trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ của cán bộ công nhân viên và trách nhiệm với cộng đồng, thực hiện nghĩa vụ công dân". Chính sách bảo vệ môi trường của công ty luôn được khẳng định và phổ biến rộng rãi toàn công ty về: Cam kết bảo vệ môi trường; Tuân thủ quy định của pháp luật; Toàn thể cán bộ công nhân viên cùng hợp sức thực hiện các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.

Công ty đã sớm chủ động xây dựng và liên tục cập nhật Hệ thống quản lý Môi trường ISO 14001 từ năm 2003 cho đến nay. Với tổng diện tích nhà máy là 85.000m2, công ty đã sử dụng 20% tổng diện tích cho việc xanh hóa, cảnh quan môi trường công ty ngày càng Xanh - Sạch - Đẹp. Trong suốt những năm qua, Công ty đã luôn chấp hành luật pháp về lĩnh vực Bảo vệ môi trường và là đơn vị luôn đi đầu thành phố trong việc nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường. Do đó doanh nghiệp được trao giải thưởng: "Thương hiệu xanh bền vững" (do Hội khoa học và kỹ thuật Việt nam trao tặng ngày 5/6/2008), "Công nghệ xanh" (do Bộ Công thương trao tặng ngày 24/9/2009)

Nguồn: Tác giả tổng hợp. Phụ lục 13 Nợ của nhiều doanh nghiệp nhà nước do thực hiện nhiều hình thức vay

Vay (ngắn hạn và dài hạn) từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là 355.819 tỷ đồng (Đứng đầu là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (134.014 tỷ đồng); Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (42.743 tỷ đồng); Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (29.997 tỷ đồng); Tập đoàn Viettel (16.313 tỷ đồng); Vinalines (14.734 tỷ đồng)...); Phát hành trái phiếu DN là 29.852 tỷ đồng; Vay nước ngoài là 348.189 tỷ đồng. Chính vì vậy các tập đoàn, tổng công ty NN hiện có tổng số nợ phải trả lên đến 1.547.859 tỷ đồng (Chính Phủ. Số 428/BC-CP. Báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015, 17/10/2016.trg8)

183

Phụ lục 14 Nhiều doanh nghiệp nhà nước được bảo lãnh nhưng kinh doanh kém hiệu quả, chậm trả nợ

Xi măng Hạ Long (52,21 triệu EUR), Xi măng Thái Nguyên (30,79 triệu EUR), Xi măng Sông Thao, Nhà máy Giấy Phương Nam (60,42 triệu EUR)... Tình hình nợ cho thấy sự dứt khoát với việc ưu đãi cho các DNNN vẫn chưa đúng như chủ trương của Chính phủ. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ công (bao gồm nợ của DNNN, nợ của chính quyền địa phương) của Việt Nam đã chiếm 61,8% GDP. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 15 Báo cáo tài chính của Kiểm toán nhà nước về quản lý, sử dụng vốn và tài sản nhà nước năm 2014 của 234 doanh nghiệp, thuộc 38 tập đoàn, tổng công ty

Vinalines lỗ 3.478,48 tỷ đồng (chỉ tính riêng các công ty con của Vinalines đã âm vốn tới gần 20.000 tỷ đồng); Tổng công ty 15 lỗ 471,1 tỷ đồng, Vinaincon lỗ 131,96 tỷ đồng, Tổng công ty Mía đường II lỗ 15,18 tỷ đồng, CT1TV In Đắc Lắc lỗ 2,95 tỷ đồng.

Một số tập đoàn, tổng công ty sử dụng tài sản sau đầu tư không hiệu quả, gây lãng phí vốn, thua lỗ, mua sắm, thanh lý tài sản không đúng quy định, còn nhiều đơn vị đầu tư không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp… Công ty Đầu tư tài chính Công đoàn Dầu khí lỗ 71,2 tỷ đồng; 7/24 Công ty do Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) đầu tư lỗ lũy kế 339,6 tỷ đồng; 6/57 Công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam lỗ 118,3 tỷ đồng…

Ngoài ra, hàng loạt công ty khác cũng trong tình trạng thua lỗ, âm vốn chủ sở hữu nhiều năm như Công ty Xi măng Hạ Long âm vốn 1.655 tỷ đồng; CT1TV Xi măng Quang Sơn (-665,39 tỷ đồng); CT1TV Xây lắp hóa chất (-23,4 tỷ đồng); Công ty Mê Kông (-54,02 tỷ đồng); Công ty Thủy sản Đông Nam (-156,46 tỷ đồng); 3/10 công ty thuộc Cienco 5 (-53,7 tỷ đồng); Công ty Thực phẩm miền Bắc thuộc Tổng công ty Thuốc lá (-166,74 tỷ đồng); Công ty Cổ phần Tổng công ty Miền Trung (-724,72 tỷ đồng); Petro Vietnam đầu tư 800 tỷ đồng vào Ocean Bank và sau đó bị mất toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông; EVN, đến cuối năm 2014, tổng tài sản công ty mẹ đạt 576,133 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 161,190 tỷ. Hệ số nợ phải trả/vốn NN đạt 2,64 lần, tương ứng số nợ phải trả vượt 425,000 tỷ đồng. Nợ nước ngoài của EVN cũng vượt 162,000 tỷ đồng; Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, có 5 công ty con lỗ lũy kế 19,1 tỷ đồng, 6 công ty liên doanh, liên kết lỗ lũy kế 54,7 tỷ đồng và 657,218 USD; Tại Hapro, có 7 công ty con lỗ lũy kế 26,9 tỷ đồng, 15 công ty liên doanh, liên kết lỗ lũy kế 94,5 tỷ đồng, 3 khoản đầu tư dài hạn khác lỗ lũy kế 69,4 tỷ đồng; Vinataba - Công ty Thực phẩm Miền Bắc lỗ 1.066 tỷ đồng… Nguồn: Tác giả tổng hợp.

184

Phụ lục 16 Những Vi phạm của Công ty 75

Cụ thể như việc đền bù cho Campuchia hơn 9 tỷ đồng ngoài dự toán sản xuất kinh doanh của đơn vị; tự ý quyết định vượt giá trần mua cây giống cao su hơn 12 tỷ đồng hiện vẫn chưa được thanh toán; không khảo sát thực tế trước khi ký hợp đồng mua đất tại Campuchia khiến Công ty 75 nhiều khả năng mất hơn 3,3 nghìn ha đất, tương đương 39 tỷ đồng; ký kết hợp đồng không rõ ràng với doanh nghiệp tư nhân Vĩnh Phúc chế biến mủ cao su SVR10 gây nợ kéo dài, nhiều khả năng không thể thu hồi hơn 2,1 tỷ đồng... Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 17 Báo cáo số: 428/BC-CP của Chính phủ Về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn NN tại DN trong phạm vi toàn quốc năm 2015 (DN ANQP)

Tổng Công ty 15 lỗ lũy kế lên tới 718,209 tỷ đồng; Xi măng X18 lỗ 38,5 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tổng công ty Đông Bắc nợ phải thu 5.782,997 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tổng công ty 36 nợ phải thu 2.727,882 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô nợ phải thu 1.759,380 tỷ đồng;

Công ty mẹ - Tổng công ty Thái Sơn nợ phải thu 1.637,280 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tổng Cty Xây dựng Trường Sơn, lỗ 72,199 tỷ đồng, nợ phải thu 1.454,215 tỷ đồng; Công ty mẹ - Công ty CT1TV Ứng dụng và sản xuất nợ phải thu 593,596 tỷ đồng;

Tổng công ty Xăng dầu quân đội lỗ 69,188 tỷ đồng; Công ty CT1TV 622 lỗ 16,458 tỷ đồng… Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 18 Phân phối thu nhập bất hợp lý trong nhiều doanh nghiệp nhà nước

Như tại EVN năm 2015, tập đoàn này chi khoảng 8,63 tỷ đồng trả lương cho các viên chức quản lý. Do đó mỗi lãnh đạo nhận 600 triệu/năm, trong khi mức nợ của doanh nghiệp này hiện nay khá cao.

Vinalines nợ phải trả hiện tại lên tới 3.580 tỷ. Tuy nhiên, năm 2015, Tổng giám đốc có thu nhập trên 880 triệu đồng, tương ứng 73 triệu đồng/tháng. Hai Phó tổng giám đốc có thu nhập lần lượt ở mức 751,721 triệu đồng, tương ứng trên 60 triệu đồng/tháng.

Công ty lương thực Miền Nam - Vinafood 2, theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ có hàng loạt những sai phạm trong quản lý điều hành, đầu tư gây thất thoát vốn, thua lỗ… Trong đó đáng chú ý là công ty mẹ đã thực hiện cho vay và bảo

185

lãnh vay vốn trái quy định cho một số đơn vị với số tiền lên tới hơn 1.700 tỷ đồng. Hậu quả là Vinafood 2 phải trả nợ thay cho một số khoản của đơn vị thành viên... với tổng số lên tới khoảng 258 tỷ đồng. Số lỗ lũy kế đến cuối 2015 hơn 948 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo đề xuất biểu báo cáo quỹ tiền lương, thù lao, tiền thưởng năm 2015, dành hơn 4 tỷ đồng cho 11 lãnh đạo. Bình quân, mỗi lãnh đạo nhận 363,6 triệu đồng/người/năm. Như vậy, mỗi lãnh đạo đã nhận 30,3 triệu đồng/người/tháng. Trong khi đó năm 2015 quỹ lương 197,7 tỷ đồng dành cho 2.850 nhân viên. Bình quân, mỗi người nhận 69,4 triệu đồng/năm, tương ứng 5,78 triệu đồng/tháng. Và kế hoạch 2016 nâng lên 45 triệu đồng/người/tháng, tăng hơn 15 triệu đồng so với năm 2015. Lãnh đạo Công ty trách nhiệm hữu hạn Xổ số kiến thiết Bình Thuận, Tiền Giang, hưởng lương 730 triệu đồng/năm… Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 19 Được hưởng nhiều ưu thế, đặc quyền, đặc lợi nhưng một bộ phận doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện tốt trách nhiệm an sinh xã hội

Trong nông nghiệp, Đảng và Chính phủ đã có những quyết sách cùng những biện pháp để cố gắng cho nông dân có được lợi nhuận 30% trong sản xuất lúa gạo, cải thiện đời sống của nông dân. Tuy nhiên đến nay mục tiêu đó không đạt được. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do DNNN thiếu trách nhiệm với nông dân. Cụ thể, hai thành viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) là Vinafood1 và Vinafood2 được nhiều "ưu ái", nắm lượng gạo xuất khẩu chiếm hơn 50% thị phần. Tuy nhiên, năng lực của hai Tổng công ty này còn nhiều vấn đề bất cập. Khâu xúc tiến thương mại, dự đoán thị trường, dự báo giá thầu của hai tổng công ty rất kém. Vì thiếu TNXH, vì lợi ích nhóm. Hai Tổng công ty này lại đi bỏ thầu giá gạo thấp rồi tự định giá thu mua lúa hàng hóa của nông dân với giá thấp khiến nông dân bị thiệt thòi.

Hay như VFA chỉ cấp quota xuất khẩu gạo chủ yếu cho Vinafood1 và Vinafood2, trong khi một số đơn vị khác độc lập làm lại không được xuất trực tiếp. Ví dụ trường hợp của Công ty Cổ phần đầu tư Vinh Phát sản xuất gạo hữu cơ xuất khẩu qua Mỹ với giá hàng nghìn USD một tấn, lại bị VFA yêu cầu phải ủy thác, nhưng khách hàng không chịu nên mất hợp đồng. Hay Công ty Trung An ở Cần Thơ được Malaysia đặt hàng 85.000 tấn gạo, nhưng VFA giao cho họ chỉ có 35.000 tấn còn 50.000 tấn thì giao cho các công ty khác. Nhưng phần của các công ty khác thì bên Malaysia cắt hợp đồng vì khi vào kiểm tra, thẩm định họ không biết đến các doanh nghiệp đó. Cách làm thiếu trách nhiệm này đã trực tiếp trúc gánh nặng lên vai người nông dân.

Nguồn: Tác giả tổng hợp. Phụ lục 20 Doanh nghiệp nhà nước làm ảnh hưởng xấu tới môi trường

Như ngành khai thác than đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Để sản xuất 1 tấn than, DN cần bóc đi từ 8 đến 10 m³ đất phủ và thải từ 1 đến 3 m³ nước thải mỏ. Chỉ tính riêng năm 2006, các mỏ than của Tập đoàn Công

186

nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam đã thải ra môi trường 182,6 triệu m³ đất đá, khoảng 70 triệu m³ nước thải mỏ dẫn đến một số vùng thuộc tỉnh Quảng Ninh bị ô nhiễm đến mức báo động như Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm phả… Khai thác đã phá huỷ hàng trăm km2 rừng, tạo ra xói mòn, bồi lấp ở các sông suối và làm ô nhiễm Vịnh Hạ Long. Một số mỏ than còn sử dụng công nghệ khai thác lạc hậu, thiếu chương trình khoa học tổng thể để xác định sự cần thiết về tăng trưởng công suất cho phù hợp với các yêu cầu bảo vệ môi trường. Do đó, môi trường đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động xấu, nước bị ô nhiễm nặng bởi chất thải rắn lơ lửng, vi trùng và bụi trong không khí v.v… Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 21 Nhiều doanh nghiệp nhà nước vì lợi ích đã phá rừng, xả thải ra môi trường không qua xử lý

CT1TV lâm nghiệp Gia Nghĩa trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, được giao hơn 22.000ha rừng tự nhiên trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa và huyện Đắk G’long để quản lý, sản xuất kinh doanh. Nhưng, tính từ năm 2009 đến nay, đã có 2.218ha bị chặt phá, biến thành trang trại, đất nông nghiệp.

Công ty Than Uông Bí (tỉnh Quảng Ninh) với hành vi phá 7.812m2 rừng phòng hộ tại khu 6, tiểu khu 62 rừng phòng hộ hồ Yên Lập, thuộc xã Tân Dân, huyện Hoành Bồ.

CT1TV Lâm nghiệp Sơn Ðộng (Công ty Lâm nghiệp Sơn Động) lợi dụng việc được giao thực hiện dự án cải tạo rừng tự nhiên để nhập nhèm phá, bán hơn 20ha rừng trên địa bàn xã Bồng Am - Sơn Ðộng (Bắc Giang).

CT1TV Lâm trường Cư M’Lanh (Công ty Lâm nghiệp Cư M’Lanh), huyện Ea Súp tỉnh Đắk Lắk được tỉnh giao bảo vệ, quản lý 14.700 ha đất rừng. Thế nhưng công ty đã để cho hàng trăm hộ dân di cư tự do vào lấn chiếm dựng nhà, lập làng giữa rừng, để các hộ dân tự do sang nhượng hàng ngàn héc ta đất rừng mà không có biện pháp xử lý. Không chỉ để mất rừng, công ty này còn đầu tư nhiều dự án không mang lại hiệu quả gây thất thoát hàng tỷ đồng. CT1TV Lâm nghiệp Trà Tân tỉnh Quảng Nam, đã xảy ra nhiều sai phạm nghiêm trọng làm mất rừng, mất đất và cả vốn của NN… Công ty Môi trường đô thị thành phố Hạ Long xả nước thải trực tiếp ra vịnh Hạ Long. Xử lý rác thải không đúng quy trình gây gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

CT1TV xử lý và chế biến chất thải Phú Thọ (tỉnh Phú Thọ) đã nhiều lần bị các ngành chức năng của tỉnh Phú Thọ xử phạt hành chính vì gây ô nhiễm môi trường, những biểu hiện bất minh khi thuê vận chuyển chất thải độc hại (bụi lò thép).

CT1TV Phát triển nhà và Công trình đô thị thành phố Tuy Hòa - Phú Yên đã xả thải trực tiếp ra môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của hàng chục hộ dân.

Nhà máy đạm Phú Mỹ, thuộc Tổng công ty Phân bón và hóa chất dầu khí, khu công nghiệp Phú Mỹ I, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu bị phạt 128,5 triệu đồng, do xả thải không qua xử lý ra môi trường. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

187

Phụ lục 22 Còn nhiều DNNN vẫn đầu tư không đúng quy định, chưa thực hiện nghiêm việc thoái vốn theo chủ trương của Chính phủ

Tập đoàn Petrolimex đã đầu tư tài chính ngoài ngành với tổng số tiền trên 2.255 tỉ đồng, Tổng công ty Bia - rượu - nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) là 791 tỷ đồng… Tính đến cuối năm 2015 còn hơn 17.000 tỷ đồng chưa thoái lại, nhưng lại có 8.000 tỷ đồng đầu tư tăng thêm. 8 tháng năm 2016, các DN mới thoái vốn đầu tư ngoài ngành được 2.921 tỷ đồng. Như vậy, số vốn đầu tư ngoài ngành của các DNNN cần phải thoái trong thời gian tới vẫn rất lớn. Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 23 Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu của nhiều doanh nghiệp nhà nước

Ngành khai thác Than, mặc dù được xác định là một trong những ngành đóng góp tích cực vào việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đáp ứng tối đa nhu cầu than phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày 04/12/2008, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 159/2008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ trong ngành công nghiệp khai khoáng đến năm 2015, tầm nhìn 2025". Nhưng nhìn chung, cho đến nay trình độ công nghệ Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam còn đang ở mức độ thấp và trung bình so với các nước trên thế giới .

Ngành sản xuất xi măng, phần lớn các DN vẫn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu (công nghệ sản xuất từ lò đứng, lò quay có công suất nhỏ, công nghệ Trung Quốc ). Hệ lụy như: phụ thuộc nhiên liệu, chi phí sản xuất tăng (nhiên liệu và năng lượng chiếm 45-50%. Trong khi đó cơ cấu này ở các nước trong khu vực khoảng 30-35%), chất lượng sản phẩm không đảm bảo, sức cạnh tranh thấp, sử dụng không hiệu quả tài nguyên, ô nhiễm môi trường…

Ngành Đường sắt Việt Nam đang trong tình trạng lạc hậu so với thế giới, hầu như đường sắt hiện nay đều do Pháp để lại. Đường đơn khổ 1m, đầu máy diezen tốc độ trung bình thấp, công nghệ điều hành thủ công, lạc hậu, mạng lưới thiếu kết nối, hầu như không kết nối với các đầu mối giao thông, cảng biển, sân bay, khu kinh tế. Năng lực kinh doanh yếu, tư duy bao cấp, chất lượng dịch vụ kém, doanh thu sản lượng và thị phần vận chuyển ngành đường sắt suy giảm nghiêm trọng. Do đó, thị phần vận tải đường sắt chỉ chiếm 0,7% trong khi vận tải đường bộ chiếm 62%, hành khách lại chọn loại hình đường sắt thấp, chiếm 0,4% tổng số hành khách, khoảng 11 triệu người/năm .…

Trong nông nghiệp, điển hình hiện nay là Tổng công ty Lương thực miền Nam và miền Bắc đang chỉ đóng vai trò "nhà buôn" mà chưa nghĩ đến chuyện tạo thành doanh nghiệp khoa học, bao tiêu từ vùng nguyên liệu, đầu tư tiền vào vật tư, công nghệ… để giải quyết đầu ra cho bài bản. Việt Nam nói nhiều về chế biến sau

188

thu hoạch nhưng cho đến nay chưa đầu tư được gì. Ví như, đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch hiện nay mới được 6% trong khi kế hoạch đề ra phải là 20%... Vì thế nên tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất lúa gạo với tỷ lệ khoảng 10%/năm, trái cây hiện nay khoảng 20% so tổng sản lượng … Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 24 Lý do người tiêu dùng e ngại khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại khi mua hàng hóa

Khảo sát người tiêu dùng của Cục Quản lý cạnh tranh phối hợp với Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) thực hiện từ năm 2011 đến 2015 với 3.000 bản phiếu khảo sát gởi đến 12 tỉnh, thành phố lớn của cả nước thì có 56% với tư cách là người tiêu dùng đã từng bị xâm phạm quyền lợi. Nhưng có tới 44% số người được hỏi chọn phương án "im lặng và bỏ qua vụ việc"; 20% chọn phương án "yêu cầu hỗ trợ từ cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng"; 36% thực hiện việc "khiếu nại đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ".

Lý do được người tham gia khảo sát đưa ra cho việc im lặng, bỏ qua vụ việc là vì giá trị tranh chấp nhỏ (38,56%); thấy thủ tục khiếu nại, khiếu kiện tới cơ quan có thẩm quyền phức tạp (22,05%); cho rằng đơn vị kinh doanh sẽ không giải quyết (15,2%); không biết đến quy định pháp luật có liên quan (11,1%); không biết đến cơ quan, tổ chức hỗ trợ giải quyết khiếu nại cho người tiêu dùng (41,20%)…

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Phụ lục 25 Kết luận số 50-KL/TW 06 định hướng về tái cấu trúc các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước

(i) Thoái vốn: "sớm chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước", (ii) Quản trị tiên tiến: "áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch trên cơ sở mở rộng diện niêm yết trên thị trường chứng khoán"; (iii) Minh bạch chức năng điều tiết chính sách: "chức năng hỗ trợ điều tiết vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của doanh nghiệp phải được đổi mới và thay thế bằng cơ chế đặt hàng của Nhà nước, được hạch toán theo cơ chế thị trường"; (iv) Kết thúc thí điểm tập đoàn: "kết thúc việc thực hiện chủ trương thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước; xem xét chuyển một số tập đoàn KTNN thành tổng công ty. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước lớn phải được cơ cấu lại; được kiểm toán hằng năm; tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là trong việc

189

phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp; (v) Tăng trách nhiệm của các hội đồng quản trị: "nêu cao vai trò và trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên và ban thường vụ đảng ủy’, (vi) Thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước: "nghiên cứu hình thành tổ chức thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền các địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước cấp trên của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên mà không trực tiếp chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp". Nguồn: Tác giả tổng hợp.