Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé V¡N HãA, THÓ THAO Vµ DU LÞCH
VIÖN V¡N HãA NGHÖ THUËT QUèC GIA VIÖT NAM
--------------
NguyÔn §øc Th¾ng
HO¹T §éNG BIÓU DIÔN NGHÖ THUËT
CA TRï CñA MéT Sè C¢U L¹C Bé,
GI¸O PH¦êNG T¹I Hµ NéI
LUËN ¸N TIÕN SÜ V¡N HãA HäC
Hµ Néi - 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
--------------
Nguyễn Đức Thắng
HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ CỦA MỘT SỐ CÂU LẠC BỘ, GIÁO PHƯỜNG TẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62 31 06 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Bùi Hoài Sơn 2. TS. Nguyễn Văn Lưu
Hà Nội - 2016
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án Tiến sĩ “Hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca
trù của một số câu lạc bộ, giáo phường tại Hà Nội” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các trích dẫn, số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung
thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận án
Nguyễn Đức Thắng
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. 1
MỤC LỤC ......................................................................................................... 2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ 3
DANH MỤC BẢNG - BIỂU ............................................................................ 4
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 22
1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 22
1.2. Khái lược về sự hình thành và phát triển ca trù ...................................... 32
1.3. Giá trị di sản ca trù .................................................................................. 51
1.4. Kinh nghiệm bảo tồn, phát huy di sản ..................................................... 60
Chương 2. THỰC TRẠNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ CỦA
MỘT SỐ CÂU LẠC BỘ, GIÁO PHƯỜNG TẠI HÀ NỘI ...................... 73
2.1. Thực trạng hoạt động của một số câu lạc bộ, .......................................... 73
2.2. Những khó khăn, thuận lợi .................................................................... 106
Chương 3. BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ, MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CẦN BÀN LUẬN ........................................................................................ 123
3.1. Bàn luận về quan điểm bảo tồn, phát huy di sản ca trù ........................ 123
3.2. Những biến đổi của một số câu lạc bộ, giáo phường ........................... 129
3.3. Bàn luận mô hình phù hợp cho việc biểu diễn nghệ thuật của một …...140
3.4. Bàn luận một số giải pháp ...…...……………………………….……..146
KẾT LUẬN ................................................................................................... 165
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................... 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 170
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 179
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Bộ VHTT: Bộ Văn hóa - Thông tin
Bộ VHTTDL: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
BQL: Ban Quản lý
Câu lạc bộ CLB
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GP: Giáo phường
GS: Giáo sư
NCS: Nghiên cứu sinh
NNDG: Nghệ nhân dân gian
NS Nghệ sĩ
NSND: Nghệ sĩ nhân dân
NSƯT: Nghệ sĩ ưu tú
Nxb: Nhà xuất bản
PGS.TS: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Sở VHTT: Sở Văn hóa - Thông tin
Sở VH,TT: Sở Văn hóa, Thể thao
Sở VH,TT&DL: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
TS: Tiến sĩ
Ủy ban Giáo dục, Khoa học, Văn hóa UNESCO:
của Liên hợp quốc
UNWTO: Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc
4
DANH MỤC BẢNG - BIỂU
Danh mục bảng Trang
Bảng 1.1. Tổng hợp các CLB, giáo phường, làng thôn ca trù Hà Nội 46 đã và đang hoạt động từ 1991 - 2014
Bảng 2.1. Số lượng nghệ nhân, nghệ sỹ tên tuổi của một số CLB, 79 giáo phường ca trù trên địa bàn Hà Nội
Bảng 2.2. Lịch biểu diễn của một số CLB, giáo phường 88
Bảng 2.3. Bố cục một buổi diễn của CLB và Giáo phường 89
Bảng 2.4. Nhân lực phục vụ một buổi diễn 60 phút 92
Bảng 2.5. Số lượng khách quốc tế theo quốc tịch thưởng thức ca trù 94
Bảng 2.6. Loại hình nghệ thuật truyền thống đã từng xem 100
Bảng 2.7. Loại hình nghệ thuật được ưa thích nhất 101
Bảng 2.8. Những không gian hay hình thức xem, nghe nghệ thuật 102 truyền thống mà giới trẻ lựa chọn
Bảng 2.9. Mức độ hiểu biết về ca trù 103
Bảng 2.10. Mức độ biết về thông tin ca trù trở thành di sản thế giới 104 của Việt Nam cần được bảo vệ khẩn cấp
Bảng 2.11. Đánh giá về mức giá hiện nay của CLB ca trù 105
Bảng 3.1. Phân tích ưu điểm, hạn chế của một số mô hình CLB, 144
giáo phường tiêu biểu ở Thủ đô Hà Nội
Bảng 3.2. Các biện pháp để ca trù được các bạn trẻ biết đến nhiều 155 hơn ở Hà Nội
Danh mục biểu
Biểu số 2.1. Tỷ lệ khán giả trong nước và quốc tế 95
Biểu số 2.2. Mục đích thưởng thức ca trù của các du khách 99
Biểu số 2.3. Kênh thông tin du khách đến xem ca trù 116
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc nghiên cứu đề tài luận án này xuất phát từ hai lý do chính là lý do
thực tiễn và lý do khoa học.
- Lý do khoa học
Trong tổng thể nội tại sự phát triển khoa học vấn đề nghiên cứu, đến thời
điểm này, ca trù hầu như chỉ được nghiên cứu ở khía cạnh di sản, khía cạnh
nghệ thuật, trong khi những hệ thống lý thuyết liên quan đến những biến đổi,
những xung đột gắn với bảo tồn, phát huy đối với các thiết chế văn hóa cơ
bản của nghệ thuật này là các giáo phường (hay các CLB) thì vẫn còn một
khoảng trống nhất định.
Bên cạnh đó, do đây là luận án tiến sĩ văn hóa học, nên những nghiên
cứu, kiến giải của luận án sẽ tiếp cận nhiều nhất có thể theo những nội hàm lý
thuyết của văn hóa học, với mong muốn góp phần hoàn thiện, tổng hợp và bổ
sung các luận cứ khoa học, cơ sở lý thuyết, lý luận khoa học, khái niệm có
tính chuyên sâu về di sản văn hóa phi vật thể ca trù, CLB ca trù, giáo phường
ca trù, đặc biệt là mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản với hoạt
động biểu diễn nghệ thuật ca trù qua một số CLB, giáo phường tại Hà Nội.
Mặt khác, quá trình nghiên cứu sẽ giúp NCS có được vốn kiến thức khoa
học chuyên sâu về lĩnh vực di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa phi vật
thể ca trù nói riêng, trong đó có hệ thống nội hàm lý thuyết văn hóa học gắn
với lĩnh vực nghiên cứu. Qua đó dần tích lũy kinh nghiệm và khả năng nghiên
cứu ở trình độ luận án TS văn hóa học, có được phương pháp nghiên cứu
khoa học hiệu quả và nắm bắt được các cách thức nghiên cứu để rút ra bài học
kinh nghiệm cho quá trình nghiên cứu lâu dài sau này.
- Lý do thực tiễn
6
Năm 2009, ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
cần được bảo vệ khẩn cấp. Theo công ước UNESCO năm 2003, các di sản
văn hóa phi vật thể của các quốc gia sau khi được đề cử, công nhận sẽ đăng
ký vào danh sách Di sản đại diện của nhân loại hoặc Di sản cần được bảo vệ
khẩn cấp. Di sản từ danh sách này có thể chuyển sang danh sách khác căn cứ
vào hiện trạng, sức sống của di sản. Với lộ trình đó, đến giai đoạn 2014-2015,
Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ đưa loại hình di sản văn hóa phi vật thể
này vượt qua ranh giới "cần được bảo vệ khẩn cấp”. Việc bảo tồn, phát huy
giá trị di sản ca trù để đưa loại hình di sản văn hóa phi vật thể này vượt qua
ranh giới "cần được bảo vệ khẩn cấp” không hề đơn giản. Trong suốt thời
gian qua, với nỗ lực của các nghệ nhân, các làng, thôn ca trù, các CLB, giáo
phường, đến nay, ca trù cơ bản đã giải quyết được bài toán nan giải, đó là
không bị rút tên khỏi danh mục di sản thế giới, nhưng vẫn là một di sản rất
cần được xã hội quan tâm và vun đắp, để vượt qua những kiểm soát gắt gao
của UNESCO, để đạt được danh hiệu "Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện
cho nhân loại” và quan trọng hơn là để ca trù ngày càng ăn sâu trong tiềm
thức người Việt.
Ngay sau khi ca trù được UNESCO ghi danh, năm 2010, Bộ VHTTDL
đã công bố Chương trình hành động Quốc gia bảo vệ ca trù giai đoạn 2010-
2015 với các nội dung chính: 1) Nâng cao nhận thức và năng lực của các cộng
đồng, chủ thể văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy giá trị độc đáo của ca trù; 2)
Tạo điều kiện để cộng đồng giao lưu, trình diễn, học hỏi và chia sẻ kinh
nghiệm với các cộng đồng khác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường sự
hiểu biết, góp phần bảo vệ và phát huy đa dạng văn hóa; 3) Triển khai các
biện pháp và kế hoạch cụ thể, ưu tiên kiểm kê, nghiên cứu và hệ thống hóa tư
liệu với mục đích bảo tồn bền vững di sản; 4) Xây dựng các chương trình văn
hóa, giáo dục và truyền thông đa dạng giới thiệu, phổ biến, quảng bá, nhằm
7
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của xã hội đối với việc bảo vệ di sản; 5) Ban
hành chính sách đãi ngộ, phong tặng nghệ nhân dân gian, nghệ nhân ưu tú cho
các cá nhân có tài năng xuất sắc, có công bảo vệ, có đóng góp quan trọng
trong việc giữ gìn phát huy giá trị di sản ca trù nhằm tạo điều kiện, khuyến
khích bảo tồn, truyền dạy di sản cho thế hệ trẻ; và 6) Tăng cường nguồn đầu
tư nhà nước, đi đôi với các nguồn lực xã hội góp phần bảo vệ di sản. Có thể
nói, trong 6 nội dung của Chương trình hành động Quốc gia về bảo vệ di sản
ca trù thì nội dung số 2 chính là nội dung liên quan trực tiếp đến mục đích
nghiên cứu của luận án này. Đó là vấn đề bảo tồn nghệ thuật ca trù dựa trên
khía cạnh phát huy đa dạng văn hóa, giao lưu, trình diễn, học hỏi chia sẻ
kinh nghiệm với các cộng đồng khác trong nước và quốc tế nhằm tăng cường
sự hiểu biết, góp phần bảo vệ và phát huy đa dạng văn hóa. Một trong những
yếu tố quan trọng nhất để giải quyết được vấn đề này chính là hoạt động hiệu
quả của các CLB, giáo phường ca trù trong việc giữ gìn nền nếp ca trù như
truyền thống, đồng thời tổ chức giao lưu, giới thiệu, trình diễn cho du khách
xem, nghe và thưởng thức, thấu hiểu giá trị nghệ thuật ca trù dù cho đã có sự
biến đổi không nhỏ về hình thức tổ chức hoạt động của các CLB, giáo phường
ca trù tại Hà Nội hiện nay. NCS lựa chọn phạm vi nghiên cứu nội thành Hà
Nội mà không phải khu vực khác cũng là để có được cái nhìn thấu đáo hơn
những gì đang diễn ra đối với một số CLB, giáo phường, qua đó cũng đánh
giá được sau 5 năm làm NCS, trùng khớp với 5 năm của chương trình hành
động Quốc gia, Hà Nội đã làm được những gì?
Đối với nghệ thuật ca trù ở Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói
riêng, ngoài những giá trị nổi bật đã được mọi người biết đến và thế giới tôn
vinh, cũng như những vấn đề chung của Chương trình hành động Quốc gia về
bảo vệ ca trù, cho thấy một số đặc điểm nổi bật như sau:
8
Thứ nhất, nhờ được UNESCO công nhận, ca trù giờ đây đã có một vị trí
nhất định trong kho tàng văn hóa của Việt Nam, đặc biệt là trong các loại hình
nghệ thuật biểu diễn truyền thống. Sự công nhận của UNESCO đối với ca trù
đã tạo ra “thương hiệu” riêng cho nghệ thuật biểu diễn truyền thống này. Như
vậy, sau khi có “thương hiệu”, mọi người đều trông đợi những gì đó khởi sắc
từ ca trù và trong đó, du khách khi đến với Hà Nội, ngoài biết đến các giá trị
văn hóa vật thể, phi vật thể nổi bật khác thì còn biết đến một di sản thế giới về
nghệ thuật biểu diễn truyền thống đang tồn tại ngay trong lòng Thủ đô.
Thứ hai, được công nhận ở loại hình di sản cần được bảo vệ khẩn cấp, ca
trù trở thành một nghệ thuật được thừa nhận là có nguy cơ biến mất cao.
Chính vì lý do đó, các biện pháp bảo tồn và phát huy ca trù luôn nhận được sự
quan tâm, cộng với tâm lý cần bảo tồn thận trọng di sản này (nếu không sẽ bị
biến mất hoàn toàn). Vì vậy, việc sử dụng, khai thác giá trị di sản ca trù không
phải là một việc làm đơn giản. Nhưng nếu bảo tồn quá cẩn trọng, không cho
ca trù được giao lưu, trình diễn, chia sẻ, học hỏi với cộng đồng (trong và
ngoài nước) thì cũng khó lòng mà giữ cho ca trù tồn tại bền vững được. Vì
nghệ thuật biểu diễn truyền thống hiện nay muốn phát huy giá trị thì phải có
“đất sống”, phải có cộng đồng chứng kiến, chào đón, xem, nghe và tìm hiểu.
Thứ ba, trong bối cảnh xã hội hiện nay, kinh tế phát triển, thương mại
năng động, đa chiều, văn hóa đa dạng và phức tạp, nhiều CLB ca trù đã tiên
phong, mạnh dạn đi đầu trong việc phát huy giá trị di sản thông qua các hoạt
động giới thiệu, quảng bá nghệ thuật ca trù tới du khách bằng cách tổ chức
các buổi biểu diễn ca trù cho du khách, chủ yếu theo các tour du lịch đã đặt
trước. Thực chất, đây là xu thế tất yếu của thực tế đời sống, khi nhu cầu của
khách du lịch rất đa dạng, chi phối các sản phẩm du lịch thì việc sử dụng ca
trù cho mục đích phát triển du lịch không phải lúc nào cũng được xem là một
giải pháp tốt, đặc biệt là khi các CLB, giáo phường ca trù nội thành Hà Nội
9
đã có những biến đổi nhất định về hình thức tổ chức hoạt động, trong đó có
hoạt động biểu diễn. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng để NCS
lựa chọn các CLB, giáo phường khu vực nội thành Hà Nội (mà không lựa
chọn địa phương khác) để nghiên cứu luận án.
Có thể nói, thực tế đã chứng minh khi chính các nghệ sĩ ca trù tên tuổi là
những người tiên phong thành lập các CLB ca trù trong suốt những năm qua
(từ năm 1991 đã có CLB ca trù đầu tiên là CLB ca trù Hà Nội, sau này tên
giáo phường mới xuất hiện) nhằm mục đích ban đầu là tạo cơ hội để những
nghệ nhân, nghệ sĩ, những người yêu ca trù tụ hội về sinh hoạt chung dưới
một mái nhà, và từ đó xây dựng, đầu tư, củng cố, bảo tồn thông qua đào tạo,
truyền nghề, gìn giữ và sau này, khi đã vững vàng, họ mới thông qua hoạt
động của CLB để giới thiệu ca trù với cộng đồng và bạn bè quốc tế. Như vậy,
có thể nói, các CLB, các giáo phường khi hình thành đã phần nào giải quyết
được cả khía cạnh bảo tồn và khía cạnh phát huy, đúng như tinh thần chung
của UNESCO về bảo vệ giá trị di sản.
Tất nhiên, trong mối quan hệ bảo tồn và phát huy có những mâu thuẫn
có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của nghệ thuật này. Có những tác động tốt,
nhưng cũng sẽ có những mặt trái làm ảnh hưởng đến phát triển bền vững di
sản. Thực tế cho thấy, trong mối quan hệ với du lịch, ca trù, mặc dù đã được
công nhận là di sản thế giới, nhưng vẫn chưa được các cấp, các ngành, các
doanh nghiệp du lịch quan tâm đúng mức. Ca trù vẫn là lựa chọn thứ hai, thứ
ba sau múa rối nước, quan họ hay biểu diễn âm nhạc dân tộc trong các tour du
lịch, trong các hoạt động giải trí, giao lưu văn hóa dân tộc, mà các công ty du
lịch xây dựng để quảng bá và đón khách trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó,
thực tế hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội trong phạm vi
nội, ngoại thành vẫn còn manh mún, chưa được quan tâm đầu tư bài bản, có
định hướng phát triển rõ ràng.
10
Nhìn chung, vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản qua hoạt động biểu
diễn nghệ thuật ca trù và mối quan hệ của nó với sự biến đổi về văn hóa, nghệ
thuật ca trù ở mỗi cộng đồng làng, thôn, CLB, giáo phường tại Hà Nội hiện
nay so với các giai đoạn trước đây, và NCS phải nghiên cứu để tìm ra lời giải
cho câu hỏi sau đây: Sự biến đổi về hình thức tổ chức hoạt động (trong đó có
hoạt động biểu diễn) ở mỗi cộng đồng làng, thôn, CLB, giáo phường tại Hà
Nội nói chung và một số CLB, giáo phường nội thành nói riêng hiện nay so
với các giai đoạn trước đây là như thế nào, qua đó đưa ra những vấn đề cần
bàn luận gì để phù hợp với sự biến đổi đó? Các CLB, giáo phường ca trù
trong khu vực nội thành Hà Nội phải làm gì để bảo tồn, phát huy giá trị di
sản ca trù để phù hợp với những biến đổi của các tổ chức CLB, giáo phường
trong bối cảnh xã hội hiện đại giữa lòng Thủ đô?
Với những lý do trên, NCS mong muốn nghiên cứu, đưa ra những bàn
luận về hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của một số CLB, giáo phường
tại nội thành Hà Nội, nhằm góp phần bảo tồn, phát huy và phát triển bền vững
giá trị di sản.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích
NCS mong muốn luận án đạt được những mục đích sau: 1) Xây dựng một
công trình khoa học có giá trị áp dụng vào thực tiễn, góp phần cùng các cấp,
các ngành, các chuyên gia, các nghệ nhân, các CLB, giáo phường nhận diện
thực tế biểu diễn nghệ thuật ca trù hiện nay để đưa ra những vấn đề trọng tâm
cần bàn luận và hướng phát triển bền vững giá trị di sản ca trù tại Hà Nội; và
2) Đánh giá hiện trạng, đề xuất, bàn luận mô hình hoạt động biểu diễn cụ thể
cho các CLB, giáo phường nội thành Hà Nội và một số bàn luận, kiến nghị,
giải pháp phù hợp để vừa đáp ứng được yêu cầu về bảo tồn, giữ gìn bản sắc di
11
sản văn hóa, vừa phát huy được giá trị di sản thông qua các hoạt động biểu
diễn của chính các CLB, giáo phường đó.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ chính sau đây:
- Bám sát và áp dụng xuyên suốt trong các chương, mục của luận án, hệ
thống hóa lý thuyết bảo tồn trên cơ sở kế thừa và phát triển dựa trên những
biến đổi theo thời gian qua hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà
Nội, lý thuyết phát triển bền vững. Trả lời câu hỏi nghiên cứu nêu ở trên để
cùng tìm ra hướng đi cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù qua hoạt
động biểu diễn ca trù của các CLB, giáo phường tại Hà Nội;
- Tìm ra bản chất của sự biến đổi các hình thức tổ chức hoạt động
CLB, giáo phường xưa và nay, để qua đó bàn luận, đề xuất mô hình CLB,
giáo phường ca trù phù hợp ở nội thành Hà Nội hiện nay, nhằm bảo tồn, phát
huy, phát triển bền vững giá trị di sản, trong đó có hoạt động biểu diễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo
tồn, phát huy giá trị di sản ca trù và những biến đổi của các CLB, giáo
phường tại Hà Nội thông qua hoạt động biểu diễn.
- Đối tượng nghiên cứu cụ thể luận án đề cập chính là các CLB, giáo
phường ca trù trong phạm vi nội thành Hà Nội (tập trung chủ yếu vào CLB ca
trù Hà Nội, CLB ca trù Thái Hà, Giáo phường ca trù Thăng Long).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
a) Về nội dung
- Nghiên cứu, tổng hợp, hệ thống hoá các khái niệm và vấn đề lý luận, lý
thuyết áp dụng liên quan đến ca trù và nghệ thuật biểu diễn truyền thống; di
12
sản và bảo tồn phát huy giá trị di sản ca trù; vấn đề biến đổi của các tổ chức
văn hóa CLB, giáo phường;
- Nghiên cứu thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù và những
biến đổi qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của các CLB, giáo phường
tại nội thành Hà Nội;
- Tìm ra những vấn đề cần bàn luận và kiến nghị cho ca trù Hà Nội để
vừa đáp ứng được yêu cầu về bảo tồn, giữ gìn bản sắc di sản văn hóa, vừa
phát huy được giá trị di sản. Trong quá trình nghiên cứu hoạt động của các
CLB, giáo phường ca trù thì luận án sẽ nghiên cứu sâu hai khía cạnh: Bảo tồn,
phát huy giá trị di sản ca trù và sự biến đổi về tổ chức hoạt động, trong đó chủ
yếu là hoạt động biểu diễn của chính các CLB, giáo phường đó.
- Bên cạnh đó, nghiên cứu, đánh giá những nội dung sau:
+ Nghiên cứu đánh giá của cộng đồng, khách du lịch về các hoạt động
trình diễn, giới thiệu ca trù của các CLB, giáo phường tại nội thành Hà Nội.
+ Nghiên cứu đánh giá của chính các nghệ nhân dân gian, nghệ sĩ ca trù,
các nhà quản lý CLB, giáo phường, một số nhà nghiên cứu về ca trù và nghệ
thuật âm nhạc truyền thống.
b) Về thời gian
- Luận án sẽ được triển khai với các tư liệu trong giai đoạn 2010 đến đầu
năm 2015, vì vậy, các công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù sẽ
được đề cập ở tất cả những công trình không tính mốc thời gian; các số liệu
thống kê sẽ được khảo sát từ năm 2009 đến nay (từ thời điểm nhận bằng
UNESCO và công bố chương trình hành động Quốc gia về bảo vệ di sản ca
trù); trong khi các khảo sát, điền dã, phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhanh, phỏng
vấn hồi cố, sử dụng bảng hỏi điều tra sẽ được tiến hành trong năm 2013-2014.
13
- Trong quá trình nghiên cứu, luận án cũng sẽ tìm tòi và tổng hợp tư liệu
cũng như dùng phương pháp phỏng vấn hồi cố để có được cái nhìn tổng thể
về ca trù giai đoạn trước 2010.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về ý nghĩa khoa học: Do luận án là một công trình nghiên cứu thuộc
chuyên ngành văn hóa học nên nghiên cứu sinh sẽ áp dụng một số quan điểm
lý thuyết để phân tích giá trị di sản ca trù dưới 3 góc độ: 1) Di sản văn hóa phi
vật thể được UNESCO công nhận; 2) Di sản thế giới cần được bảo vệ khẩn
cấp; và 3) “Di sản sống” của cộng đồng được phổ biến ở đô thị hiện đại,
thông qua các CLB và các giáo phường. Từ đó, mong muốn kiểm chứng các
quan điểm lý thuyết và tìm ra cách tiếp cận phù hợp nhất cho đối tượng cụ
thể là các CLB, giáo phường ca trù tại nội thành Hà Nội, những vấn đề về
bảo tồn, phát huy và những biến đổi cụ thể.
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ các kết quả khảo sát thực tiễn, luận án sẽ tổng
hợp được cái nhìn nhiều chiều từ các khía cạnh có liên quan về di sản ca trù
với vấn đề bảo tồn, phát huy, biến đổi qua các CLB, giáo phường, dưới góc
nhìn văn hóa học thông qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Đây là những kết
quả khoa học có thể được cơ quan quản lý về di sản văn hóa ở Hà Nội sử
dụng cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản ca trù.
Ngoài ra, qua nghiên cứu sự biến đổi qua hoạt động biểu diễn của
CLB, giáo phường ca trù xưa và nay, kết quả nghiên cứu của luận án hướng
tới việc thử nghiệm xây dựng mô hình CLB, giáo phường phù hợp trong bối
cảnh hiện nay, vừa phát huy, quảng bá, vừa bảo tồn được giá trị.
5. Phương pháp nghiên cứu
- NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành văn hóa
học, xã hội học, nhân học văn hóa, lịch sử văn hóa, văn hóa dân gian,…
trong đó hạt nhân chủ yếu là tiếp cận chuyên sâu văn hóa dân gian, ở đó xem
14
xét giáo phường ca trù như một hình thức sinh hoạt dân gian đã và đang tồn
tại trong cộng đồng. Bên cạnh đó, NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu xã
hội học để xem xét các câu lạc bộ - giáo phường dưới góc độ một thiết chế xã
hội, có những vai trò và chức năng xã hội nhất định, vì vậy, cần phải được
xem xét từ nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của các chủ thể có liên quan
đến thiết chế xã hội ấy;
- Đối với các phương pháp nghiên cứu cụ thể, NCS sử dụng các phương
pháp, cách thức tiếp cận sau:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp tư liệu: Các tài liệu liên quan tới
các nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về di sản,
giá trị di sản, ca trù, văn hóa - nghệ thuật ca trù, những vấn đề về CLB, giáo
phường, quá trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản và những biến đổi liên quan…
+ Tiếp cận bằng hình thức quan sát tham dự: NCS trực tiếp đến quan sát
tại một số điểm biểu diễn ca trù nhằm phục vụ du khách trong phạm vi khu
vực Hà Nội để có cách cảm nhận và đánh giá khách quan về thực trạng tổ
chức hoạt động và biểu diễn ca trù ở các địa điểm khảo sát này.
+ Tiếp cận qua điều tra bằng bảng hỏi: Hướng đến đối tượng là khách
du lịch (quốc tế và trong nước 200 phiếu); và nhóm đối tượng để so sánh
(chưa đến các câu lạc bộ - giáo phường 300 phiếu);
+ Phương pháp phỏng vấn cá nhân: Phỏng vấn các nghệ nhân, nghệ sĩ
ca trù, nhà quản lý CLB, giáo phường ca trù; nhà nghiên cứu văn hóa và âm
nhạc truyền thống, đại diện lãnh đạo quản lý nhà nước về văn hóa, du lịch,...
6. Lịch sử nghiên cứu đề tài luận án
- Về mặt lý luận, lý thuyết áp dụng
Lý thuyết áp dụng trong đề tài luận án được tiếp cận theo văn hóa học,
trong đó sẽ đề cập chuyên sâu đến tiếp cận lý thuyết văn hóa dân gian là
trọng tâm, song song là các lý thuyết về nhân học văn hóa, xã hội học văn
15
hóa, triết học văn hóa, lịch sử văn hóa. Có thể nói, xét về khía cạnh lý luận,
lý thuyết áp dụng văn hóa học thì nhiều công trình nghiên cứu trước đây ở cấp
độ luận án về ca trù cũng đã tiếp cận và nghiên cứu chuyên sâu. Nhưng để tìm
ra một công trình nghiên cứu hay một luận án nghiên cứu chuyên sâu về ca
trù tiếp cận tổng hợp các yếu tố của văn hóa học, lại chuyên về một đối tượng
cụ thể là CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội, thì hầu như chưa có công trình
nào, bởi các công trình, luận án trước đây đều chỉ đề cập đến nghệ thuật ca
trù, lịch sử ca trù hay văn hóa ca trù.
Về lý thuyết áp dụng cụ thể, NCS sẽ áp dụng lý thuyết bảo tồn dựa trên
cơ sở kế thừa và phát huy giá trị di sản, nhằm phát triển bền vững di sản ca
trù, qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật của một số CLB, giáo phường tại
Hà Nội. Với nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể thì
việc áp dụng lý thuyết này là hết sức bình thường, bởi di sản nào cũng sẽ chịu
ảnh hưởng, tác động bởi những xung đột, biến đổi trong xã hội hiện đại.
Nhưng nghiên cứu những biến đổi, xung đột để bảo tồn, phát huy qua hoạt
động của các CLB, giáo phường ca trù thì theo tìm hiểu nhiều nguồn tư liệu,
chưa có công trình nào đề cập chuyên sâu vấn đề đó. Nếu có chỉ dừng lại ở
các bài báo, bài nghiên cứu tạp chí, chưa có công trình cấp độ luận án.
- Về mặt thực tiễn
Trước hết, đề tài “Hoạt động biễu diễn nghệ thuật ca trù của một số
câu lạc bộ, giáo phường tại Hà Nội” chưa trở thành đối tượng nghiên cứu cụ
thể, chuyên sâu của công trình khoa học nào trước đó đã nghiên cứu về các
vấn đề liên quan, đặc biệt là ở cấp độ luận án TS. Nói cách khác, đây là công
trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về di sản ca trù qua hoạt động của các
CLB, giáo phường tại Hà Nội.
Các vấn đề đang đặt ra trong bối cảnh hiện nay liên quan đến đối tượng
và vấn đề nghiên cứu của luận án. Trong thời đại biến đổi toàn cầu, khoa học
16
công nghệ phát triển nhanh, quá trình toàn cầu hoá đang có tác động mạnh mẽ
đến tất cả các quốc gia, dân tộc, khu vực và tất nhiên, tác động mạnh mẽ đến
văn hóa. Việc Việt Nam được công nhận hàng chục di sản văn hóa vật thể,
phi vật thể, tư liệu trong thời gian qua đã cho thấy sự quan tâm của đất nước
tới việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Nhưng trong đó, ca trù (cùng hát
Xoan) là di sản đặc biệt cần được bảo vệ khẩn cấp thì hơn lúc nào hết, việc
giữ gìn và phát huy giá trị của nó được đặt ra một cách bức thiết. Do đó, xét
về mặt thực tiễn, đây cũng chính là vấn đề mới của đề tài luận án khi xét thấy
lịch sử nghiên cứu chưa có công trình nào đề cập cụ thể, chi tiết đến khía cạnh
phát huy giá trị di sản ca trù qua hoạt động của các CLB, giáo phường tại Hà
Nội, khi nghiên cứu hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù trong bối
cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bản sắc văn hóa
có nguy cơ bị biến đổi, mai một, mất đi những giá trị truyền thống, lại dễ bị
tác động bởi nhiều yếu tố ngoại lai.
- Đối với các công trình đã nghiên cứu trước đây và hiện nay
Ca trù là nghệ thuật lâu đời, độc đáo và có một vị trí đặc biệt trong kho
tàng âm nhạc của người Việt. Ca trù gắn liền với văn chương, âm nhạc, lễ hội,
phong tục, tín ngưỡng, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Nghiên cứu về
ca trù cũng là góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị truyền thống trong văn
hóa Việt Nam. Ca trù nhận được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà
quản lý, đặc biệt là sau khi ca trù được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp.
Ca trù là nghệ thuật mang tính bác học, nhưng lại được nuôi dưỡng và
gìn giữ trong dân gian. Không gian sinh hoạt văn hóa của ca trù rất đa dạng,
trong một vùng rộng lớn và chủ yếu ở vùng nông thôn Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ, được bảo lưu một cách trọn vẹn nhất. Sự bảo lưu của ca trù trong dân gian
từ lâu đã được một số học giả để tâm nghiên cứu, sưu tầm. Một số làng như
17
Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội), Thượng Mỗ (Đan Phượng, Hà Nội), Phú Đô
(Nam Từ Liêm), Đồng Trữ (Hà Nội), Đào Đặng (Trung Nghĩa, Hưng Yên),
Ngọc Bộ (Châu Giang, Hưng Yên), Ngọc Trung (Thọ Xuân, Thanh Hóa), Cổ
Đạm (Nghi Xuân, Hà Tĩnh),.. là nơi có đền thờ và lưu truyền nhiều câu
chuyện về sự tích các ca nữ, ca công.
Tư liệu để nghiên cứu ca trù bao gồm nhiều nguồn khác nhau, hiện đang
tồn tại trong dân gian như: tượng thờ, tự khí, câu đối, hoành phi, sắc phong,
văn bia, ca phả trong các di tích, cùng những tín ngưỡng, tập tục, kiêng kị; các
bài ca lưu truyền trong các giáo phường... Mỗi nguồn tư liệu này đều có giá
trị nhất định trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về ca trù. Tư liệu Hán Nôm về ca
trù bao gồm sách, thần tích, văn bia và khánh... đang mang một trữ lượng
thông tin lớn xung quanh nghệ thuật ca trù. Đây là mảng tài liệu rất quý và
đáng tin cậy để nghiên cứu về lịch sử ca trù, lịch sử nghiên cứu ca trù, nghệ
thuật biểu diễn và các văn bản thơ - ca trù.
Những tuyển tập như Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ
Trọng Huề; Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Hát ả đào của Trần Văn
Khê, Tuyển tập thơ ca trù của Ngô Linh Ngọc, Ngô Văn Phú, Ca trù nhìn từ
nhiều phía của Nguyễn Đức Mậu,…phải nói là những tư liệu đặc biệt về nghệ
thuật ca trù, lịch sử ca trù; Những bài khảo cứu của thời kì trước đây trên Tạp
chí Nam Phong hay sau này là những nghiên cứu của Nguyễn Xuân Diện với
Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù; Nguyễn Đức Mậu với Hát nói Nguyễn Công
Trứ… cũng là những công trình nghiên cứu quan trọng. Những tư liệu này sẽ
giúp cho các nhà nghiên cứu và biểu diễn ca trù hình dung và hiểu được về
một bộ môn nghệ thuật bác học hiện đang mai một dần. Đây cũng là nguồn tư
liệu quan trọng để chứng minh nghệ thuật ca trù là một bộ môn mang tính bác
học mà lề lối và cách thức đã nâng lên thành những chuẩn mực với tính khái
quát cao. Sử dụng nguồn tư liệu này đối với NCS là không dễ vì nhiều tư liệu
18
bằng Hán Nôm, nhiều tư liệu chỉ đề cập chuyên biệt về thể cách, nghệ thuật
ca trù, trong khi mục đích nghiên cứu của NCS không đi sâu vào nghiên cứu
ca trù ở góc độ nghệ thuật mà là nghiên cứu vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di
sản ca trù. Ngoài những phần thuộc về biểu diễn, một số tư liệu cũng có trình
bày những hiểu biết về âm nhạc ca trù theo lối hiểu cổ truyền. Những kiến
thức như vậy là cứ liệu cho nhà nghiên cứu về âm nhạc đời sau tìm hiểu âm
nhạc trong quá khứ.
Phong phú nhất trong mảng sách về ca trù trong kho tàng thư tịch Hán
Nôm là những bài thơ soạn cho ca trù. Số lượng của các bài ca trù là khá lớn.
Nhiều làn điệu rất cổ, hiện rất ít người hát và thuộc được, dường như đã thất
truyền thì ca từ vẫn còn được chép trong những sách này. Các bài ca trù này
gợi mở rất nhiều cho việc nghiên cứu, không những ở tư cách một nghệ thuật
ngôn từ, mà ở trong đó còn chứa đựng những triết lý và quan niệm nhân sinh
mới mẻ và phóng khoáng, là một tư liệu bổ ích trong việc nghiên cứu lịch sử
tư tưởng của người Việt. Thể loại hát nói hầu hết sáng tác bằng chữ Nôm và
nhiều tác phẩm đã đạt giá trị văn học rất cao. Do vậy, phải được coi là có một
vị trí xứng đáng trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Thể thơ này cũng
mang trong nó trữ lượng đáng kể về vốn sống, vốn ngôn từ, vốn thơ ca và tri
thức dân gian.
Hồ sơ trình UNESCO công nhận ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần
được bảo vệ khẩn cấp được xây dựng trong giai đoạn 2006-2009, là tài liệu
quan trọng về ca trù. Tài liệu này nghiên cứu tổng thể về văn hóa ca trù và
nghệ thuật ca trù, cũng như những thông tin tổng hợp về số lượng tỉnh, thành,
làng, xã, thôn, xóm còn lưu giữ nghệ thuật ca trù ở Việt Nam, số lượng nghệ
nhân, nghệ sĩ ca trù cũng như những tài liệu, tư liệu về nghề tổ ca trù ở một số
địa phương. Điểm nổi bật của Hồ sơ trình UNESCO này mà NCS nhận thấy
sẽ tìm tòi được một số dữ liệu quan trọng để nghiên cứu cho đề tài luận án, đó
19
là một số ý về hoạt động của một số CLB, giáo phường đã và đang diễn ra tại
Hà Nội, TP.HCM, một số tỉnh thành khác trên cả nước.
Nhìn chung, đây là những công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về nghệ thuật
ca trù trên nhiều phương diện, từ nghệ thuật biểu diễn, giá trị văn học, văn
hóa, đến đặc trưng vùng miền. Tuy nhiên, không có công trình nào đề cập
chuyên sâu đến vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị
di sản ca trù và hoạt động biểu diễn nghệ thuật của một số CLB, giáo phường
tại Hà Nội hiện nay.
Trên phương diện luận án hoặc công trình có liên quan, đối với nhóm
các công trình nghiên cứu về ca trù thì ở Việt Nam và trên thế giới, tính đến
hiện nay, đã có 02 luận án tiến sĩ nghiên cứu riêng biệt về nghệ thuật ca trù
và đã được bảo vệ thành công năm 2007 của một nghiên cứu sinh Việt Nam
(Nguồn tư liệu Hán Nôm với việc nghiên cứu ca trù của Nguyễn Xuân Diện)
và năm 2012 của một nghiên cứu sinh người nước ngoài (Lịch sử và âm nhạc
của ca trù - Alienor Anisensel - Đại học Paris Ouest-Nanterre - Pháp, do
GS.TS. Trần Văn Khê và GS.TS. Trần Quang Hải hướng dẫn). Hai luận án
này tập trung nghiên cứu học thuật và lịch sử, nguồn gốc cũng như quan tâm
đến vấn đề nghệ thuật ca trù, nhằm làm rõ và sáng tỏ lịch sử ca trù cũng như
nhiều quan điểm nghệ thuật ca trù tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có công trình
cấp độ luận văn thạc sĩ văn hóa học của thạc sĩ Lê Thị Bạch Vân, Chủ nhiệm
CLB ca trù Hà Nội là Đào nương và nghệ thuật hát ca trù, hiện đang được
nghệ sĩ tiếp nối thành luận án tiến sĩ đang trong quá trình nghiên cứu.
Bên cạnh đó, có thể kể đến Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế Hát ca trù
người Việt năm 2006 tại Hà Nội với một số công trình nghiên cứu có giá trị
về ca trù của một số học giả trong và ngoài nước như: GS.TS. Trần Văn Khê,
cố vấn khoa học dự án lập Hồ sơ Quốc gia trình UNESCO với công trình: Ca
trù - một nghệ thuật độc nhất vô nhị; TS. Yves Defrance, Giám đốc Trung
20
tâm thông tin các nhạc sĩ - Đại học Rennes, Pháp: Hát Ca trù - một hiện
tượng âm nhạc độc đáo trên thế giới; GS.TS. Trần Quang Hải, Phòng thí
nghiệm nghiên cứu âm nhạc dân tộc học, Pháp: Ca trù - Nhìn từ quan điểm
âm thanh học; TS. Bountheng Souksavatd, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu
Văn hóa Lào: Ca trù - Laođơm, nét tương đồng, dị biệt; Gisa Jahnichen, Giáo
sư âm nhạc học đại học Frankfurt, Đức: Liệu chúng ta có thể giữ được truyền
thống của nghệ thuật Ả đào? hay Cuộc thử nghiệm về hát ả đào; TS. Barley
Norton, Giảng viên Khoa âm nhạc Đại học Rockchamton, London, Anh: Phục
hồi Ca trù: Những vấn đề và thách thức; TS. Aliennor Anisensel: Những
chuyến khảo sát về ca trù ở Việt Nam [57,tr317].
Đối với nhóm các công trình nghiên cứu về bảo tồn, phát huy giá trị di
sản ca trù, có không nhiều các nghiên cứu mang tính hệ thống và chuyên sâu
về mối liên hệ giữa văn hóa, di sản văn hóa ca trù, nghệ thuật ca trù với hoạt
động của các CLB, giáo phường, đặc biệt là nghiên cứu chuyên sâu khu vực
Hà Nội. Đa số các công trình, hội thảo chỉ dừng lại ở một số quan điểm, bài
báo, bài chuyên đề viết về vấn đề cảm nhận của du khách khi đi xem, nghe ca
trù ở các CLB, giáo phường nội thành Hà Nội hoặc viết về những khó khăn
của các giáo phường, CLB ngoại thành... Trong một số các nghiên cứu về di
sản với du lịch văn hóa hoặc các vấn đề có liên quan, các học giả trong và
ngoài nước ít nhiều cũng đã có đề cập và xem xét đến mối quan hệ này nhưng
chủ yếu là làm rõ các vấn đề như: tác động qua lại giữa hai ngành như các tác
động tích cực và tiêu cực của du lịch lên cộng đồng, di sản, môi trường; định
hướng phát triển nhằm hạn chế các tác động của du lịch;...
7. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu (17 trang), kết luận (4 trang), các danh mục, bảng
biểu, phụ lục và tài liệu tham khảo (8 trang), nội dung chính của luận án được
kết cấu thành 3 chương:
21
- Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan các vấn đề nghiên cứu (51
trang);
- Chương 2. Thực trạng biểu diễn nghệ thuật ca trù của một số CLB, giáo
phường tại Hà Nội (50 trang);
- Chương 3. Nghệ thuật biểu diễn ca trù, một số vấn đề bàn luận (41
trang).
22
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Những khái niệm liên quan đến di sản
- Di sản văn hóa: Theo văn kiện được Đại hội đồng ICOMOS (Hội đồng
quốc tế các di tích và di chỉ: International Council Museum Organization and
Sites) lần thứ 11 ở Sofia (Bungari) tháng 10 năm 1966 phê chuẩn: “Di sản văn
hóa là để chỉ những di tích, những cụm kiến trúc và những di chỉ có giá trị di
sản, tạo thành môi trường lịch sử hoặc môi trường xây dựng”.
Theo Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 và Luật di
sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa
đổi, bổ sung năm 2009, thì: “Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ
khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [41,tr2]. Di sản văn hóa là
tài sản văn hóa của quốc gia, dân tộc, được lưu giữ, truyền giao cho các thế hệ
kế tiếp. Đó chính là thành quả của quá trình đấu tranh anh hùng dựng nước và
giữ nước của các thế hệ người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa VIII đã
chỉ rõ: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới
để không ngừng hoàn thiện mình…”. Di sản văn hóa Việt Nam kết tinh những
giá trị vật chất, tinh thần to lớn và sâu sắc của cả dân tộc, được chung đúc qua
quá trình lao động, dựng xây, chiến đấu bảo vệ, giữ gìn của các dân tộc trên
lãnh thổ Việt Nam. Di sản văn hóa không phải là cái gì xa lạ mà là tất cả
những cái nằm ngay trong đời sống hàng ngày, là những cái rất bình thường
23
giản dị, gần gũi và thân quen với tất cả mọi người sống trong môi trường đó.
Di sản văn hóa chính là môi trường sống, là điều kiện sống của tất cả con
người. Kho tàng di sản văn hóa Việt Nam là tài sản văn hóa của quốc gia, dân
tộc, không thuộc riêng một giai tầng xã hội nào, kho tàng đó luôn được lưu
giữ, trao truyền cho các thế hệ kế tiếp và các thế hệ kế tiếp có trách nhiệm gìn
giữ, phát triển, nâng lên những tầng cao mới.
- Di sản văn hóa thế giới: Hiện nay, Việt Nam đã có 16 di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận (tác giả sắp xếp theo không
gian vị trí địa lý), bao gồm 01 di sản hỗn hợp thế giới (quần thể danh thắng
Tràng An); 05 di sản văn hóa thế giới (Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà
Hồ, Quần thể di tích cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Khu di tích Mỹ Sơn); 10 di
sản văn hóa phi vật thể gồm nhóm di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại (7 di sản, xếp theo không gian địa lý): Dân ca Quan họ Bắc Ninh,
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và
đền Sóc, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian
văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Đờn ca tài tử Nam Bộ; nhóm di sản cần
được bảo vệ khẩn cấp (2 di sản): Nghệ thuật Ca trù và Hát Xoan Phú Thọ và
01 di sản đa quốc gia là Nghi lễ và trò chơi kéo co.
Việt Nam còn có 6 di sản tư liệu theo chương trình kí ức thế giới là Mộc
bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, 82
bia đá thời Lê - Mạc tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội và mới đây nhất,
ngày 19/5/2016, Việt Nam có thêm 02 di sản tư liệu "Thơ văn trên Kiến trúc
cung đình Huế" và “Mộc bản trường học Phúc Giang” (Hà Tĩnh) được công
nhận là di sản ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương 2016.
Ngoài ra, Việt Nam còn có 2 di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO
công nhận là Vịnh Hạ Long và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng.
24
- Di sản văn hóa vật thể: Di sản văn hóa vật thể là những sản phẩm vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, một phần do thiên nhiên, trời đất
ban tặng cho con người và chúng được hình thành lên trong tiến trình lịch sử
dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam. Kho tàng di sản văn
hóa vật thể luôn hiện diện trong đời sống của đông đảo các tầng lớp nhân dân,
trở thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu của đời sống xã hội. Theo
Luật di sản văn hóa thì di sản văn hóa vật thể bao gồm: hệ thống di tích lịch
sử - văn hóa; hệ thống danh lam thắng cảnh; hệ thống di vật; hệ thống cổ vật;
và bảo vật quốc gia [41,tr3].
- Di sản văn hóa phi vật thể: Theo Luật di sản văn hóa: “Di sản văn hóa
phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và
không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện
bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức khác” [41,tr3]. Di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam bao gồm: tiếng
nói - chữ viết; các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học; kho tàng ngữ
văn truyền miệng; kho tàng diễn xướng dân gian và các loại hình nghệ thuật
truyền thống; lối sống, nếp sống, phong tục tập quán; kho tàng lễ hội truyền
thống Việt Nam; tri thức dân gian về nghề thủ công truyền thống; và hệ thống
tri thức văn hóa dân gian khác.
Theo Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003: Di sản văn
hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri
thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các
không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong
một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của
họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật
thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi
25
với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử
của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua
đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của
con người. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét đến những di sản
văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện Quốc tế hiện hành về quyền con
người, cũng như những yêu cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng,
các nhóm người và cá nhân, và về phát triển bền vững. Ngoài các phạm vi
trong định nghĩa nêu trên, di sản văn hóa phi vật thể còn được công ước đề
cập đến với các loại hình:
(a) các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là
phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể;
nghệ thuật trình diễn; (b)
tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội; (c)
tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; (d)
nghề thủ công truyền thống. (e)
Có thể nói, nếu như di sản văn hóa vật thể là những hiện vật mang ý
nghĩa lịch sử của nhân loại trong quá khứ thì di sản văn hóa phi vật thể lại là
những truyền thống văn hóa đang sống, trong đó chứa đựng phong tục tập
quán và những trải nghiệm cuộc sống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nếu như di sản văn hóa vật thể mang tính cố định và không thay đổi thì
di sản văn hóa phi vật thể lại mang tính động và liên tục thay đổi theo thời
gian. Nói cách khác, nếu như di sản văn hóa vật thể là “di sản chết” thì di sản
văn hóa phi vật thể là “di sản sống”. Thực tế ở nhiều quốc gia và ngay tại Việt
Nam, các định nghĩa và khái niệm về văn hóa phi vật thể thường trái ngược
nhau và do di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm mang tính lịch sử, xã hội và
văn hóa của một địa phương, nên phương pháp bảo tồn và phát triển di sản
văn hóa phi vật thể ở địa phương này không thể áp dụng một cách dễ dàng ở
26
địa phương khác. Do đó, mặc dù các định nghĩa về di sản văn hóa phi vật thể
đã được giải thích trong Công ước năm 2003, khái niệm về di sản văn hóa phi
vật thể gồm nhiều dạng thức khác nhau và cách hiểu hay nhận thức của mỗi
quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể luôn thay đổi là điều cần thiết.
Một trong những nội hàm quan trọng mà Công ước đề cập đến là chỉ bản
thân cộng đồng mới có thể quyết định cái gì mới là một phần trong di sản của
họ và không một nhà nghiên cứu, chuyên gia nào có thể làm thay cộng đồng.
Một nguyên tắc cơ bản của Công ước là không thứ bậc nào có thể được đặt ra
để phân biệt di sản phi vật thể của cộng đồng này là tốt hơn, giá trị hơn, quan
trọng hơn hoặc hay hơn so với di sản của bất kỳ cộng đồng nào khác.
- Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp: Theo Công ước
2003, việc lập ra danh sách các Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ
khẩn cấp mang mục đích rất rõ rằng:
a. Với quan điểm thực hiện các biện pháp bảo vệ thích hợp, Ủy ban cần
phải thiết lập, cập nhật và công bố Danh sách các Di sản văn hóa phi vật thể
cần được bảo vệ khẩn cấp và sẽ đưa những di sản loại này vào Danh sách theo
yêu cầu của các Quốc gia thành viên.
b. Ủy ban sẽ soạn thảo và đệ trình lên Đại hội đồng để thông qua các tiêu
chí đối với việc thiết lập, cập nhật và công bố Danh sách này.
c. Trong những trường hợp cực kỳ khẩn cấp - Đại hội đồng sẽ thông qua
các tiêu chí khách quan này trên cơ sở đề xuất của Ủy ban - với sự cố vấn của
Quốc gia thành viên có liên quan, Ủy ban có thể đưa một loại hình di sản liên
quan vào Danh sách đã nêu ở mục 1 ở trên.
- Quản lý di sản văn hóa: Quản lý di sản văn hóa là sự chăm sóc có hệ
thống được sử dụng nhằm gìn giữ các giá trị văn hóa của các di sản văn hóa
cho sự hưởng thụ của thế hệ hiện tại và cả tương lai [80,tr65]
27
- “Báu vật nhân văn sống”: UNESCO đã có định nghĩa như sau: “Báu
vật nhân văn sống” là những người có kiến thức và kỹ thuật ở cấp độ rất cao,
cần thiết cho việc biểu diễn hay sáng tạo các yếu tố của di sản văn hoá phi vật
thể mà các quốc gia thành viên (của UNESCO) đã lựa chọn như một bằng
chứng cho truyền thống văn hoá sống của mình và cho tinh thần sáng tạo của
các nhóm, các cộng đồng và các cá nhân hiện diện trên đất nước mình” [81,
tr388]. Việc tôn vinh các nghệ nhân bằng cách thiết lập hệ thống “Báu vật
nhân văn sống” đã được Nhật Bản thực hiện đầu tiên vào những năm 1950,
sau đó là Hàn Quốc, đầu thập niên 1960. Các nước khác như Philippines, Thái
Lan, Rumani, Pháp, Cộng hoà Séc, Bulgari cũng đã xây dựng hệ thống của
họ. Tổ chức UNESCO thuộc Liên Hiệp Quốc cũng đã thể hiện sự quan tâm
đến vấn đề này qua việc tổ chức các cuộc hội thảo với đề tài “Hệ thống Báu
vật nhân văn sống” tại Hàn Quốc vào các năm 1998, 1999, từ đó, khuyến
khích các nước thành viên thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” của
nước mình. Vì văn hoá phi vật thể không tồn tại dưới dạng vật chất và chủ
yếu được truyền thừa qua con đường truyền khẩu, nên nghệ nhân - người nắm
giữ nội dung của văn hoá phi vật thể - là rất quan trọng. Có thể nói đây là một
trong những yếu tố quan trọng nhất của sự tồn tại và phát triển loại hình văn
hoá phi vật thể. Do đó, UNESCO đã khuyến khích phát triển hệ thống “Báu
vật Nhân văn sống” với mục tiêu bảo tồn các kiến thức và kỹ năng cần thiết
cho trình diễn và sáng tạo các loại hình văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu.
Để thực hiện được điều này, các nghệ nhân cần được tôn vinh và hỗ trợ để có
điều kiện duy trì và phát triển kỹ năng và kiến thức; đồng thời có thể truyền
dạy lại các kỹ năng và kiến thức này cho các thế hệ tiếp nối.
Theo quan điểm của UNESCO, việc thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân
văn sống” không nhất thiết phải rập khuôn theo một qui chuẩn cứng nhắc nào.
Cách thức quản lý cũng phải phù hợp với tình hình và đặc điểm của mỗi
28
nước. Nói cách khác, mỗi địa phương không nên bị ảnh hưởng quá nhiều bởi
các hệ thống đã được thực hiện ở những nơi khác mà phải xây dựng một hệ
thống riêng, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương mình. Hệ thống “Báu
vật Nhân văn sống” cũng không nhất thiết phải được áp dụng trên phạm vi
toàn quốc mà có thể giới hạn ở một tỉnh, một địa phương nào đó sở hữu nhiều
loại hình văn hóa phi vật thể phong phú, có giá trị đặc biệt cần bảo vệ. Đối
tượng được công nhận cũng đa dạng, đó có thể là một cá nhân hay một
nhóm người nắm giữ các bí quyết nghề nghiệp [81,tr9].
1.1.2. Những khái niệm, quan điểm liên quan đến trình diễn nghệ
thuật, bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù
- Nghệ thuật biểu diễn: Khái niệm nghệ thuật diễn xuất, hay nghệ thuật
trình diễn, nghệ thuật biểu diễn... được dùng chỉ một nghệ thuật vốn tồn tại
bằng phương thức "diễn" trên sàn diễn bởi con người (performance). Nó bao
gồm nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật hiện đại. Nghệ thuật biểu diễn
truyền thống lại bao hàm các giá trị lịch sử, nhân văn, xã hội và được trao
truyền từ đời này qua đời khác. Tại Việt Nam, có hàng trăm loại hình nghệ
thuật biểu diễn truyền thống, trong đó có 9 nghệ thuật biểu diễn được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện (hoặc cần được
bảo vệ khẩn cấp) của nhân loại.
Thực tế, nghệ thuật biểu diễn bao gồm nhiều loại hình nghệ thuật, vì vậy
đến nay chưa có một khái niệm đầy đủ, chính xác. Mỗi khái niệm đưa ra chỉ
bao hàm được một khía cạnh nào đó. Có học giả thì quan niệm rằng nghệ
thuật biểu diễn là nghệ thuật tổng hợp, là một công trình tập thể. Tổng hợp vì
nó bao gồm cả giá trị văn học, hội họa, âm nhạc, vũ đạo; thể hiện ra trong câu
ca, nhạc nền, điệu bộ, dáng múa, phục trang, ánh sáng... Tập thể vì đây là
công sức góp lại của nhiều người, từ đạo diễn, tác giả, diễn viên đến nhạc sĩ...
Có tác giả cho rằng nghệ thuật biểu diễn là sự thể hiện sáng tạo của nghệ sỹ
29
trước khán giả, là tiếng nói từ trái tim đến trái tim, từ tình cảm đến với tình
cảm và trở thành một bảo tàng sống của dân tộc. Trong hệ thống văn bản pháp
luật cũng nêu rõ: biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là
hoạt động đưa chương trình, tiết mục, vở diễn đến với công chúng qua sự
trình diễn của diễn viên chuyên nghiệp, thể hiện hình tượng nghệ thuật, phản
ánh cuộc sống thông qua tác phẩm sân khấu, ca, múa, nhạc... [41,tr4].
- Bảo tồn: Bảo tồn di sản được hiểu là các nỗ lực nhằm bảo vệ và giữ gìn
2003, nội dung các công ước bảo tồn hai loại hình di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể là khác nhau. Công ước bảo tồn di sản văn hóa vật thể luôn nhấn mạnh
tính xác thực và giá trị của hiện vật lịch sử. Ngược lại, bởi vì các di sản văn hóa
phi vật thể liên tục thay đổi theo thời gian, nên việc xác định tính xác thực của
chúng dựa vào những đặc trưng của một kỷ nguyên nào đó là một việc làm gần
như không thể thực hiện được. Không thể so sánh và đưa ra kết luận rằng di sản
phi vật thể này quan trọng hơn hay có giá trị hơn di sản phi vật thể kia. Công ước
quốc tế năm 2003 nói rằng cần phải biên soạn một bản thống kê các di sản văn
hóa phi vật thể bao gồm hai loại: (1) Danh sách các di sản văn hóa phi vật thể
đang đứng trước nguy cơ biến mất và (2) Danh sách các di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại (Điều 16 và điều 17, Công ước quốc tế năm 2003).
Bên cạnh khái niệm bảo tồn là khái niệm "bảo vệ" được sử dụng nhằm
sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó. Theo công ước quốc tế
mục đích đề cao tính pháp lý của hoạt động tổ chức quản lý, giữ gìn, đặc biệt
là việc xây dựng, ban hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản có tính
pháp quy để xác định đối tượng và khu vực bảo vệ của các di sản, đồng thời
cũng bao hàm các hoạt động khác như tu sửa, tôn tạo, bảo quản, gia cố ...
nhằm duy trì tính nguyên gốc và sự toàn vẹn của các di sản văn hoá. Theo
điều 2.3 của Công ước, “bảo vệ” có nghĩa là tạo nên sức sống lâu dài của di
sản phi vật thể trong cộng đồng và nhóm người. Mọi hoạt động tư liệu hóa,
30
nghiên cứu, bảo tồn, phát huy, củng cố, truyền dạy được xem là hoạt động
“bảo vệ” di sản khi chúng tạo nên sức sống của di sản văn hóa phi vật thể.
- Phát huy: Phát huy giá trị di sản có nghĩa là những hành động nhằm
đưa di sản văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, coi đó như là nguồn nội lực,
tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật
chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa đối với sự
phát triển của xã hội.
Theo Công ước 2003: Nhằm bảo vệ, phát triển và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ mình, mỗi Quốc gia thành viên phải nỗ
lực nhằm:
(a) thông qua một chính sách chung nhằm mục đích phát huy vai trò
của di sản văn hóa phi vật thể trong xã hội, và sát nhập việc bảo
vệ loại hình di sản này vào các chương trình quy hoạch;
(b) chỉ định hoặc thành lập một hoặc nhiều cơ quan đủ năng lực bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ mình;
(c) tăng cường nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật cũng
như phương pháp luận về nghiên cứu nhằm bảo vệ có hiệu quả
di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là những di sản đang có nguy
cơ thất truyền;
(d) thông qua các biện pháp phù hợp về pháp lý, kỹ thuật, hành
chính và tài chính;
(e) tăng cường việc thành lập hoặc củng cố các cơ quan đào tạo về
quản lý di sản văn hóa phi vật thể và theo đó là công tác truyền
dạy những di sản này thông qua các diễn đàn và không gian
dành cho việc trình diễn hay thể hiện chúng;
31
(f) đảm bảo sự tiếp cận với di sản văn hóa phi vật thể trên cơ sở tôn
trọng các tập tục, quản lý việc tiếp cận với các phương diện cụ
thể của loại hình di sản này;
(g) thành lập các cơ quan lưu trữ tư liệu về di sản văn hóa phi vật
thể và tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận chúng.
- Phát triển bền vững được coi là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của
hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai khi đáp
ứng nhu cầu của chính họ, tức là phát triển bền vững là một quá trình đảm bảo
rằng chúng ta sẽ để lại cho thế hệ sau một lượng các tài sản vốn [tự nhiên và
con người tạo nên] không ít hơn lượng các tài sản chúng ta có hiện nay
[9,tr20].
- Xung đột: Thực tế, xung đột hầu như sẽ xảy ra giữa di sản và du lịch
khi có sự khác biệt (nhận biết được và cả trên thực tế) tồn tại giữa các bên có
liên quan và cách họ nhìn nhận về các di sản, về các nguy cơ trong việc tiếp
cận và loại bỏ; sự khác biệt trong kiểu thức hoạt động; sự khác biệt về mong
muốn và động cơ thực hiện các hoạt động cụ thể của những bên tham gia.
- Hợp tác: Hợp tác thực sự sẽ xảy ra khi có một tập hợp các mục tiêu
quản lý được đặt ra, được xác định và đồng ý bởi tất cả các bên có liên quan;
các điều kiện cần có về kinh tế của du lịch được tôn trọng đồng thời với các
quan điểm quản lý di sản văn hóa; và một hệ thống quản lý/quyền lực rõ ràng
tồn tại nhằm đảm bảo rằng mục tiêu của cả hai bên đều có thể đạt được ở mức
cân bằng nhau.
- Xung đột và hợp tác: Phần lớn các nghiên cứu trong và ngoài nước về
mối quan hệ giữa di sản văn hóa phi vật thể và phát triển du lịch đều nghiêng
theo quan điểm lưỡng phân xung đột/hợp tác (conflict/co-operation
dichotomy) hay hệ hình khoa học xung đột (conflict paradigm). Một số học
giả đã đưa ra nhiều kiểu quan hệ phản ánh các mức độ trưởng thành khác
32
nhau và những kiểu quan hệ này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tác động
như sự độc lập giữa hai bên, sự cân bằng quyền lực xuất phát từ mong muốn
chính trị khác nhau, sự đa dạng của các bên có liên quan, sự đa dạng của di
sản và sự đa dạng về đặc điểm tiêu thụ của du khách,...
- Biến đổi: Biến đổi là một thuộc tính, đồng thời cũng là phương thức tồn
tại của mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan. Heracleitus (520 -
460 tr.CN) một triết gia Hy Lạp cổ đại với câu nói nổi tiếng: “Không thể tắm
hai lần trên cùng một dòng sông, bởi vì nước mới không ngừng chảy trên
sông”; “Tất cả mọi vật đều vận động, không có cái gì tồn tại mà lại cố định”
và ngay cả “Mặt Trời cũng mỗi ngày một mới ” [29,tr116]. Biến đổi nói
chung là sự thay đổi giữa tình trạng hiện tại của nó với tình trạng trong quá
khứ, là kết quả của sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng, con người và
xã hội, thể hiện ở sự thay đổi cấu trúc hay tổ chức của xã hội, diễn ra không
đồng đều về thời gian, chịu sự tác động của các yêu tố tự nhiên và xã hội.
1.2. Khái lược sự hình thành và phát triển nghệ thuật ca trù
1.2.1. Nguồn gốc, xuất xứ của ca trù
Thời Tiền Lê, năm Thiên Phúc thứ 8 (987), Đại Hành Hoàng đế sai
Khuông Việt chế khúc để hát tiễn sứ thần phương Bắc Lý Giác về nước. Khác
với lối làm thơ, chế khúc là viết ca từ cho một ca điệu có sẵn, ca nương dựa
vào điệu mà “bẻ thành làn hát”. Một cách làm đã được giới con hát tiếp nối từ
đời này sang đời khác và trở thành truyền thống “sáng tác” của họ. Đến nay,
ngoài các thể cách hát trên thơ lục bát, lục bát biến thể, thơ bốn chữ, năm chữ
còn nhiều thể cách hát ả đào khác trên các chế khúc được ghi lại trong nhiều
tài liệu Hán Nôm và trong trí nhớ của nghệ nhân ca trù Hà Nội.
Thời Lý, năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) tại Thăng Long vua Lý Thái
Tổ định ra hát xướng, con trai gọi là Quản giáp, con gái gọi là Ả đào (dân
33
gian vẫn gọi là quản - đào). Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, nghề ca
xướng, và những người làm nghề ca xướng được nhà nước coi trọng và lập ra
tổ chức để họ hành nghề. Do vậy mà nghệ thuật quản - đào ngày càng phát
triển và hoàn thiện. Thời bấy giờ ở Thăng Long các tổng Tả Nghiêm (sau đổi
là Kim Liên), tổng Hữu Túc (sau đổi là Đông Thọ) thuộc huyện Thọ Xương
đều có các tổ chức quản - đào chuyên đi hát trong cung ngoài phủ. Vào thời
này, nghệ thuật quản - đào là nghệ thuật duy nhất được cả triều đình lẫn ngoài
dân gian trọng dụng. Vào những ngày lễ tết, ngày kị thánh, ngoài dân gian thì
tổ chức những cuộc hát thờ thần ở các đền miếu, trong cung đình, nhà vua
cũng các bề tôi xem các con hát trong cung biểu diễn. Trong cung có 100
nhạc kỹ chuyên nghề ca hát.
Thời Trần (1225 - 1400), âm nhạc có quản giáp, ả đào ngày càng thịnh
hành, ngày càng thể hiện vai trò “bao sân” trong đời sống xã hội.
Thời Lê Sơ, Thiệu Bình năm thứ 4 (1437), vua Lê Thái Tông sai Lương
Đăng định ra quy chế lễ nhạc. Quy chế đó được vua chấp thuận, từ đấy triều
đình cấm không được dùng tục nhạc (tức nhạc giáo phường) song song với
nhã nhạc như những thời đại trước đó. Sinh hoạt nhạc quan - đào thu hẹp dần
quy mô và phân chia thành hai bộ phận Nhạc bát âm và Hát ả đào. Nhạc bát
âm đánh trong tế tự, rước sách, múa may. Nhạc ả đào hát cầu thánh, mừng
vua, hát chúc phúc dân làng.
Từ niên hiệu Hồng Đức (1470) đến niên hiệu Đức Nguyên (1675), nhà
Lê đã định lệ và thi hành định lệ: Bộ Lễ trông coi thự Đồng văn, Nhã nhạc và
cả tục nhạc (còn gọi là dân nhạc). Ngoài dân gian, những người hành nghề âm
nhạc phải sinh hoạt trong một tổ chức mới gọi là ty giáo phường. Thời kỳ
này, Nho giáo hưng thịnh, lễ nhạc được đề cao, thi ca rất được ưa chuộng.
Đặc biệt thơ văn chữ Nôm phát triển rộng khắp, rất nhiều tác phẩm thơ Nôm
được các cô đào quê ở các giáo phường tạo nên các điệu hát, điệu ngâm làm
34
phong phú biểu mục các thể cách âm nhạc Ả đào. Cùng với thơ Nôm, một
hiện tượng văn hóa quan trọng khác cũng sinh ra ở thời này, đó là đình làng
và văn hóa đình. Đình làng là nơi để các giáo phường có dịp trình diễn nghệ
thuật phục vụ các sự kiện quan trọng của cả làng. Nghệ thuật trình diễn phục
vụ cúng tế ấy là những canh hát thờ thần, mà sau này người ta quen gọi là hát
cửa đình [57,tr99].
Giai đoạn Lê Sơ (1428 - 1527) nhà Lê đã xây dựng được nền nhã nhạc,
tách tục nhạc “trả về” dân gian. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XVI từ đời Quang
Hưng (1578) tức là từ niên hiệu thứ 3 của Lê Mục Tông (1562) trở đi, khi
quan nhạc (thứ âm nhạc được triều đình chính thức công nhận và chỉ dùng
cho vua quan) càng ngày càng suy, tục nhạc hay dân nhạc (tức nhạc giáo
phường dân gian) lại thịnh hành, đến nỗi tất thảy các lễ tiết của triều đình
cũng trong dân gian đều dùng loại nhạc ấy. Sự tái tham gia của nghệ thuật
giáo phường vào nơi triều chính không chỉ nhằm mục đích phục vụ các lễ tiết
triều đình giống như chức năng của Nhã nhạc, ngược lại, nó còn là tác nhân
lôi cuốn các bậc đại nho vào cuộc chơi hát ả đào bằng tất cả sự say đắm và tài
thi ca của mình. Những cuộc tao ngộ thơ nhạc giữa các bậc đại nho, danh nho
và hàn nho với các ca nương ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã làm nảy
sinh một hình thức điệu mới trong ca trù, đó là hát nói có tác giả. Thể hát nói
của ca trù ra đời là bước ngoặt có tính đột biến làm cho ca trù trở thành một
ngành nghệ thuật hấp dẫn, lôi cuốn mọi tầng lớp xã hội mà đặc biệt là sự tham
gia của các bậc túc nho. Thể hát nói đã trở thành điệu hát thống trị trong các
cuộc trình diễn và tao ngộ ca trù. Hát nói ra đời đã đưa ca trù tới đỉnh cao của
nghệ thuật thơ - nhạc; hát nói đã tạo điều kiện cần và đủ để các cô đào lớn
tuổi, giỏi nghề ở các vùng quê ra phố thị mở nhà hát cô đầu [57,tr133].
Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX nhu cầu nghe hát cô đầu
phát triển rầm rộ khắp nước. Nhiều đào nương ở nông thôn đua nhau ra Hà
35
Nội và các tỉnh thành, phố thị mưu sinh. Người nhiều tiền thì thuê địa điểm
mở nhà hát, người ít tiền thì đi hát thuê. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
phát triển quá nóng nhà hát cô đầu ở các đô thị Việt Nam thời bấy giờ. Riêng
Hà Nội, chỉ trong ít năm đầu thế kỷ XX, vài chục nhà hát, quán hát đã mọc ra
ở các phố Khâm Thiên, Ngã Tư Sở, Long Biên, Cầu Giấy, Gia Lâm, Gia
Quất, Hà Đông. Để thu hút khách, các chủ nhà hát đã chiêu mộ thêm những
cô gái trẻ không biết hát làm công việc chiêu đãi khách gọi là cô đầu rượu.
Thế là cô đầu rượu đã tự nguyện hóa thân thành con mồi câu khách. Chiêu
thức này đã phát huy hiệu quả mạnh mẽ, nó lôi kéo nhiều khách đến nhà hát
không để nghe hát, chỉ để nhâm nhi chén rượu, tẩu thuốc, có cô đầu đấm bóp,
chuyện trò. Lối chơi tha hóa này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng người
đứng đắn, yêu thích nghệ thuật ca trù từ bỏ nhà hát, người thích thói dung tục
kéo đến nhà hát ngày một đông. Thế là cô đầu và nhà hát cô đầu bị dư luận xã
hội lên tiếng công kích rất mạnh mẽ. Có lúc, có nơi người ta gọi nhà hát cô
đầu là “cô đầu nhà thổ”, cô đầu bị xã hội khinh rẻ [57,tr172].
Từ biến thái tệ hại này, quần chúng coi cô đầu là nghệ thuật trụy lạc làm
băng hoại đạo đức xã hội. Vì vậy, ngay sau cách mạng tháng Tám (1945)
thành công, họ đã từ bỏ nhà hát và nghề hát cô đầu. Tất cả các địa điểm sinh
hoạt cô đầu dần đóng cửa. Các tổ chức giáo phường ở làng quê, tổ chức quản
ca ở đô thị tan rã. Đào kép tản mát khắp nơi, làm những nghề khác để mưu
sinh. Nghệ thuật ca trù dần từng bước suy thoái [57,tr195].
1.2.2. Danh xưng trong nghệ thuật biểu diễn ca trù
Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền và nghệ thuật biểu diễn truyền
thống Việt Nam, có lẽ ít có thể loại âm nhạc và loại hình nghệ thuật biểu diễn
truyền thống nào lại có tính đa diện như nghệ thuật ca trù. Trải theo dòng
chảy của thời gian, tùy theo từng không gian văn hóa, không gian địa lý, hoàn
cảnh lịch sử hay chức năng xã hội đan xen mà loại hình nghệ thuật này mang
36
những tên gọi khác nhau. Căn cứ vào các nguồn sử liệu, tư liệu Hán Nôm, tư
liệu cổ, có thể thống kê một số tên gọi như sau:
- Hát ả đào: Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên: Đời vua Lý
Thái Tổ (1010-1028) có người ca nương tên là Đào Thị giỏi nghề ca hát,
thường được nhà vua ban thưởng. Người thời bấy giờ ngưỡng mộ danh tiếng
của Đào Thị nên phàm con hát đều gọi là Đào nương. Về sau những người
làm nghề ca hát như nàng đều gọi là ả đào. Trên sử liệu, những sự kiện về một
ca nương nổi tiếng chứng tỏ nghề nghiệp của bà vào thời điểm lịch sử đó đã
được phổ biến như thế nào trong xã hội. Theo đó, Ả đào được coi là tên gọi
cổ xưa nhất của thể loại âm nhạc ca trù [57,tr163].
- Hát ca trù: Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù
biên khảo: ở cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là Trù, làm bằng mảnh
tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền
mặt. Khi hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng (cồng)
và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thưởng một tiếng
chát, bên chiêng đánh một tiếng chiêng rồi thưởng cho một cái trù (thẻ). Đến
sáng đào kép cứ theo trù thưởng mà tính tiền, ví dụ được 50 trù, mà trị giá
mỗi trù ấn định là 2 tiền kẽm thì làng phải trả cho 10 quan tiền. Vì thế hát ả
đào còn được gọi là ca trù, nghĩa là hát thẻ.
Có thể nói, tên gọi ca trù thể hiện rõ tính thương mại của một loại hình
nghệ thuật - tức loại hình này đã đạt tầm nghệ thuật cao để trở thành một giá
trị hàng hóa trong đời sống xã hội. Các nghệ nhân cho biết, việc thưởng thẻ
không chỉ dành riêng cho đào nương mà còn để thưởng cả cho kép đàn. Tuy
nhiên, thường thì người ta vẫn coi đào nương là nhân vật chính. Có lẽ đây là
đặc điểm xuất phát từ thói quen trọng nhạc hát hơn nhạc đàn của người Việt.
Lệ tính tiền thù lao bằng thẻ chủ yếu sử dụng trong hình thức sinh hoạt hát
cửa đình. Còn trong các hình thức sinh hoạt khác, thường tính tiền công cho
37
đào kép dưới dạng trọn gói theo sự thỏa thuận trước - gọi là hát khoán. Theo
đó, có thể coi ca trù là tên gọi bắt nguồn từ sinh hoạt hát cửa đình.
- Hát cửa quyền: Đây là hình thức sinh hoạt nghệ thuật ca trù trong nghi
thức cung đình thời phong kiến. Theo Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ:
Hát ca trù đời nhà Lê ở trong cung gọi là Hát cửa quyền. Triều đình cắt cử
hẳn một chức quan để phụ trách phần lễ nhạc trong cung, gọi là quan Thái thường.
Hát cửa quyền được dùng vào các dịp khánh tiết của hoàng cung.
- Hát cửa đình: Đây là hình thức sinh hoạt ca trù phục vụ cho nghi thức
tế lễ thần thánh ở các đình hay đền làng. Trên thực tế, người ta còn mượn
không gian đình đền để tổ chức hát ca trù với mục đích giải trí đơn thuần.
Song, hát tế lễ vẫn là hình thức được coi trọng hơn với cả một trình thức diễn
xướng tổng hợp kéo dài. Bởi vậy, thuật ngữ Hát cửa đình vẫn được sử dụng
với hàm ý chỉ loại âm nhạc ca trù mang chức năng nghi lễ tín ngưỡng nơi
đình làng [57,tr194].
- Hát nhà trò: Trong hình thức Hát cửa đình, bên cạnh âm nhạc bao giờ
cũng có sự kết hợp của nghệ thuật múa và một số trò diễn mang tính sân
khấu. Người ta gọi đó là "bỏ bộ". Ả đào miệng hát tay múa uốn éo lên xuống,
làm bộ điệu người điên, người say rượu, người đi săn... Vì vừa hát vừa làm
trò nên gọi là hát nhà trò. Cách gọi này phổ biến ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh.
Như vậy, hát nhà trò cũng là thuật ngữ xuất phát từ hình thức phục vụ nghi lễ,
tín ngưỡng.
- Hát nhà tơ: So với các tên gọi khác của nghệ thuật ca trù, Hát nhà tơ là
một thuật ngữ ít phổ biến. Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong Việt
Nam ca trù biên khảo, thời xưa "dân chúng ít khi tìm ả đào về nhà hát chơi,
chỉ các quan khi yến tiệc trong dinh hay trong ty (tơ - ngày xưa dinh Tuần phủ
gọi là Phiên ty, dinh án sát gọi là Niết ty) mới tìm ả đào tới hát. Vì thế hát ả
đào còn được gọi là Hát nhà tơ, nghĩa là hát ở trong ty quan". Như vậy, cách
38
gọi này xác định hình thức sinh hoạt phục vụ nhu cầu giải trí của nghệ thuật
ca trù trong môi trường các nhà quan lại. Tuy nhiên, cũng trên ý nghĩa ty là tơ
thì Hát nhà tơ còn có thể được hiểu theo nghĩa khác. Theo Vũ trung tùy bút
của Phạm Đình Hổ, đời Hồng Đức (1470-1497) nhà Lê, Ty giáo phường là
một thiết chế do triều đình sắp đặt để trông coi âm nhạc chốn dân gian. Về
sau, khái niệm này còn được dùng phổ biến ở thế kỷ 17, thế kỷ 18 trong các
văn bia, khế ước. Như thế, khái niệm Hát nhà tơ - Hát nhà ty rất có thể chỉ là
cách "diễn nôm" phiếm chỉ loại âm nhạc của Ty giáo phường mà thôi.
- Hát cô đầu: Theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù
biên khảo, chữ ả nghĩa là cô, ả đào nghĩa là cô đào: "Những ả đào danh ca dạy
con em thành nghề, mỗi khi đi hát đình đám bọn con em phải trích ra một
món tiền để cung dương thầy gọi là tiền Đầu. Sau người ta dùng tiếng cô thay
tiếng ả cho rõ ràng và tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng là bậc danh ca
lão luyện đã dạy nhiều con em thành tài và được tặng nhiều món tiền đầu nên
gọi là Cô đầu" [21,tr46]. Tên gọi này của nghệ thuật ca trù chính là sự phản
ánh phần nào nhu cầu "Nôm hóa" ngôn ngữ, đồng thời phản ánh một luật tục
của giới nghề, đó là việc trọng thầy và phụng dưỡng thầy. Trong lịch sử của
nghệ thuật ca trù, có lẽ đây là tên gọi xuất hiện muộn hơn cả và được giới thị
thành biết đến nhiều hơn (có giai đoạn được gọi là cô đầu rượu) - trước khi
thể loại này biến mất khỏi đời sống xã hội vào cuối thập niên 50 thế kỷ XX.
- Hát ca công: Theo Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút: Cho đến
cuối thời Lê, ca công là danh từ được dùng để chỉ các nghệ sĩ chốn giáo
phường. Theo đó, Hát ca công hàm ý là âm nhạc giáo phường. Như thế tên
gọi này chính là sự chuyển hóa của một danh từ chỉ nghề nghiệp thành một
danh từ chỉ thể loại. Điều đó đã đủ để chứng minh vai trò quan trọng của thể
loại âm nhạc này trong đời sống xã hội của cả một giai đoạn lịch sử. Nói cách
khác, Hát ca công thời xưa là một thể loại rất phổ biến, bao trùm khắp nơi
39
chốn, phường hội của những nhạc sĩ dân gian chuyên nghiệp. Sự phổ biến đạt
đến mức người ta gọi luôn loại âm nhạc mà các nghệ sĩ thực hành bằng chính
danh người nghệ sĩ. Cũng qua Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, có thể
thấy rằng danh từ Ca công thời xưa rất thông dụng ở khắp các vùng miền Bắc.
Thế nhưng về sau, tên gọi Ca công lại chỉ được dùng phổ biến ở Thanh Hóa.
Điều đó có nghĩa trải theo năm tháng, thuật ngữ cổ xưa này đã "biến mất"
khỏi đồng bằng Bắc Bộ - trung tâm văn hóa của Đại Việt và được lưu giữ tại
vùng ngoại biên. Điều đặc biệt, vùng ngoại biên này lại vốn là một trong
những cái nôi của nghệ thuật ca trù. Hơn thế nữa, đây cũng là quê hương của
9 đời vua chúa Việt Nam. Những dữ kiện đó cho thấy nghệ thuật ca trù đã
từng chiếm giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong lịch sử âm nhạc dân tộc.
Như vậy, các tên gọi khác nhau của nghệ thuật ca trù được hình thành
theo mấy nguyên tắc sau:
+ Danh từ chỉ người nghệ sĩ thực hành âm nhạc được dùng như danh từ
chỉ thể loại: Hát ả đào, Hát ca công.
+ Tên gọi thể loại xuất phát từ địa điểm, không gian văn hóa sinh hoạt:
Hát cửa quyền, Hát cửa đình và Hát nhà tơ.
+ Tên gọi thể loại gắn với danh từ phiếm chỉ chế độ "tiền bảo hiểm" cho
đào nương lão thành: Hát cô đầu. Đồng thời, cô đầu cũng là danh từ chỉ người
ca nương giống như chữ ả đào.
+ Tên gọi thể loại xuất phát từ hành động diễn xướng sân khấu: Hát nhà trò.
+ Tên gọi thể loại hình thành từ danh từ chỉ phương thức chi trả thù lao
nghệ thuật cho đào kép: Hát ca trù.
- Quản giáp: Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì người đứng đầu trong
giáo phường gọi là ông trùm, đứng đầu các trùm là các quản giáp hoặc nếu
quản giáp là người đứng đầu giáo phường thì là kép hát, không nên hiểu
quản giáp như một chức trách. Đại Việt sử kí toàn thư viết: “…lại đổi chức
40
hỏa đầu làm chính thủ, chỉ con hát mới gọi là quản giáp”. Như vậy tên gọi
quản giáp cũng có sự biến đổi vì có ý kiến xem quản giáp có vai trò chứ
trách quan trọng nào đấy trong giáo phường.
- Giáo phường là một tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ. Cô đầu và
kép từng vùng đều có một tên họ riêng, đào, kép ở họ nào mang tên họ ấy
kèm theo tên của mình. Việt Nam ca trù biên khảo viết rằng giáo phường
trước kia có hệ thống quy ước mà các thành viên phải thực hiện. Hằng năm
tế tổ vào ngày 11 tháng Chạp, sau ngày lễ tế tổ thì ông trùm giải quyết
những công việc nảy sinh trong giáo phường. Nơi lễ tế tổ không cố định,
có thể làm ở nhà thờ, hoặc mượn đình của xã để làm lễ. Khi làm lễ có đủ
mặt các đào nương, kép hát, hát đủ các điệu và đặt tiệc mời khách quí
chứng giám, thường gọi là đám thánh sự Giáo phường còn được hiểu là nơi
dạy những người đi hát. Các tỉnh đều có giáo phường. Thăng Long ngày
xưa có thôn giáo phường thuộc tổng Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên).
Cũng có thể cho rằng giáo phường là một tổ chức nghề nghiệp vừa có tính
chất phường hội.
- Ty giáo phường là một sự liên kết, tập hợp của các giáo phường các
địa phương các xã, các giáp, các họ. Ty giáo phường mang hình thức
phường hội.
- Câu lạc bộ: Theo Từ điển tiếng Việt thì CLB là tổ chức được lập ra
cho nhóm người hoặc nhiều người cùng sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí.
Với ca trù thì khái niệm CLB là khái niệm mới được áp dụng cho thời đại
ngày nay. Thời xưa, cha ông ta chỉ gọi là giáo phường, làng thôn, nhóm ca
trù. Với ý nghĩa đó, CLB ca trù cũng là nơi để những người yêu thích ca trù
tham gia sinh hoạt, tập luyện và biểu diễn giới thiệu di sản nghệ thuật ca
trù cho các đối tượng khách thể khác.
41
Có thể nói, bản thân các tên gọi khác nhau của nghệ thuật ca trù đã cho
thấy đây là một thể loại âm nhạc rất đặc biệt. Trong nền âm nhạc dân tộc cổ
truyền Việt Nam, không có một thể loại nào lại mang nhiều tên gọi như vậy.
Mỗi tên gọi lại hàm ý gồm những không gian văn hóa, những chức năng xã
hội và những hình thức biểu hiện khác nhau của nghệ thuật ca trù. Chỉ mới
thông qua những tên gọi đó, đã có thể tìm thấy biết bao hình ảnh chân thực và
sống động của lịch sử.
Không những thế, ca trù còn được thể hiện rất đa dạng ở các làn điệu hát
múa, trong đó hát múa bỏ bộ rất được coi trọng. Bên cạnh đó, không thể
không kể đến những đặc trưng của loại hình âm nhạc được coi là bác học này:
- Ca nương - Ả đào: Ca nương - Ả đào là thành viên quan trọng của tiệc
ca trù, vai trò của ả đào là làm ca sĩ cho tiệc hát nhưng khác với ca sĩ ở chỗ ả
đào vừa hát vừa gõ phách. Ả đào là nữ giới, kép là nam giới. Hiện nay giới
nghiên cứu vẫn chưa nghiên cứu tên gọi này cũng như thời điểm lịch sử và
điều kiện lịch sử sản sinh ra nó. Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sỹ cũng nói
rằng thời Lý Thái Tổ (1010 - 1028) có người ca nhi tên là Đào thị tài giỏi, hát
hay được vua ban thưởng, từ đó về sau những người đi hát được gọi là đào
nương (tức ả đào). Về sau, quãng cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là nửa đầu thế kỷ
XX, ả đào thường được gọi là cô đầu.
Theo Nguyễn Đôn Phục trong Nam Phong tạp chí, khác với các đào
nương chốn đô thị, giới đào nương ở các miền đồng quê bên cạnh việc hành
nghề ca xướng, họ vẫn chăn tằm dệt vải hay lao động đồng áng như những
người dân thường. Sử sách không có nhiều cứ liệu bàn về vấn đề này, song
chúng tôi cho rằng đây chắc hẳn phải là hiện tượng muộn hoặc chỉ khu biệt
trong một vùng nào đó. Bởi trong bộ luật Hồng Đức, những người hành nghề
ca xướng vốn bị liệt cùng hạng với trộm cướp, nghịch đảng…, không được
xếp vào hạng dân thường.
42
- Kép, kép đàn: Kép cùng với đào là những thành viên quan trọng trong
tổ chức hát ca trù, thông thường cũng được gọi chung là đào kép, hay thời nay
gọi là ca nương - kép đàn, trong đó vai trò chính của kép là gẩy đàn (nhạc
công), đào là người hát. Một số sách nói rằng ngày xưa kép cũng có tham gia
hát, điệu hát nói do kép hát thì gọi là điệu hà nam, điệu hát trai; đào hát thì gọi
là hát gái hay nữ xướng, kép hát trước rồi đào hát lại đúng bài, đúng điệu thì
gọi là hà liễu. Có sách nói rằng khái niệm kép là do khái niệm quản giáp
phiên âm chệch mà thành. Phạm Đình Hổ trong sách Vũ trung tùy bút gọi
quản giáp là kép. Các tác giả của Việt Nam ca trù biên khảo nói rằng sổ sách
ở giáo phường ngày xưa cử đào kép đi hát các đình đám đều viết là giáp thành
kép. Hiện chưa có cách giải thích khác và cũng chưa có sự biện luận hay xác
nhận cho cách giải thích này.
- Quan viên, cầm chầu: Khái niệm quan viên trong ca trù dùng để gọi
những người tham gia nghe hát. Trong một cuộc hát ca trù, quan viên cũng có
thể tham gia cầm chầu. Họ có thể vừa là công chúng thưởng thức và cũng có
thể là thành viên của ban nhạc. Hiện nay, quan viên chính là người cầm chầu,
gõ trống chầu để vừa phối hợp diễn xướng ca trù, vừa thể hiện khen, chê đối
với đào nương.
Để tạo nên giá trị nghệ thuật âm nhạc trong ca trù, cần có sự hòa quyện
của nghệ thuật diễn xướng, các nhạc cụ và lời ca tiếng hát của đào nương,
trong đó, cỗ phách, đàn đáy, trống chầu là linh hồn của nghệ thuật ca trù:
- Cỗ phách: gồm ba phần: một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn
phách, hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Trên thế giới không đâu
dùng hai chiếc dùi mà trong đó có một chiếc tròn đầu hơi nhọn, chiếc kia tròn
và chẻ hai như ở ca trù. Gõ hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng mạnh tiếng
nhẹ, tiếng cao tiếng thấp, tiếng trong tiếng đục, tiếng dương tiếng âm. Tay
cầm phách cái, phách con, tay nào đưa lên cao tay nào để dưới thấp, động tác
43
nhịp nhàng, uyển chuyển như múa, gõ phách theo 5 khổ qui định, đoạn “lưu
không” (chỉ có tiếng đàn đáy và tiếng phách không có lời ca) cũng có lề lối…,
tất cả cho thấy đây là một nghệ thuật không tìm thấy trong các bộ gõ khác.
Tiếng phách phải rõ ràng phân minh, tiếng gõ riêng từng dùi, khi gõ hai dùi
một lượt là “chát”, hai phách âm dương chen nhau, xen kẽ, pha trộn, có nhịp
mà nghe như không có nhịp, có mà như không, thực mà như hư [57,tr237].
- Đàn đáy: Chỉ dùng duy nhất trong ca trù. Thùng đàn hình chữ nhật hay
hình thang, mặt đàn bằng chất liệu từ cây ngô đồng, sau này có thể có nhiều
chất liệu khác. Đàn đặc biệt ở chỗ, gọi là đàn đáy mà không có đáy, cần rất
dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây
đàn. Đàn mắc ba dây tơ, cách nhau một quãng bốn, đánh dây không nhấn cho
tiếng trầm, bấm phím thành tiếng cao. Không có cầu đàn ở đầu đàn trước khi
quấn dây vào trục, nên trên đàn đáy có cách nhấn khác thường: “nhấn chùn”
lẽ ra phải có độ cao hơn một quãng 2 thì lại phát ra một âm đồng độ cao mà
màu âm khác. Phím đàn gắn theo thang âm chia quãng 8 thành 7 quãng đồng
đều, thể hiện dễ dàng quãng ba trung bình giữa thứ và trưởng, một quãng đặc
thù của lưu vực sông Hồng thường gặp trong hát ru, hát nói và sa mạc. Nhạc
công phải đánh rõ tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, tay trái phải biết cách nhấn,
rung, nhấn chùn, bấm 3 dây khi đàn chữ “dinh dinh dinh”. Khi chân phương
khi dìu dặt, khi mạnh khi nhẹ, tiếng đàn phụ họa theo lời ca chẳng những có
nét nhạc, mà còn tạo nên “hồn nhạc” [57,tr30].
- Trống chầu: Trống chầu ca trù khác trống chầu trong Tuồng, từ kích
thước đến cách đánh. Kích thước và hình thức rất gần trống đế của Chèo
nhưng cách đánh và chức năng hoàn toàn khác. Dùi trống không gọi là “dùi”
mà là “roi chầu”. Roi chầu bằng gỗ, dài hơn dùi trống khác. Người đánh trống
cầm roi trong tay mặt, gõ vào tang trống - gọi là “chát”, đánh roi sát trên mặt
trống - gọi là “tom”. Người cầm chầu gọi là “quan viên”, phải sành ca trù, biết
44
rõ các khổ đàn, khổ phách, biết đàn thế nào là hay, hát thế nào là “khuôn”, là
“hàng hoa” và không đánh trống “bịt” miệng ả đào, lại phải nắm rõ các công
thức xuyên tâm, song châu, liên châu, hạ mã, lạc nhạc để khen chê, thưởng
phạt đúng nơi đúng cách, dáng ngồi, tay cầm roi, tay vịn mặt trống phải
phong lưu đài các. Nghe tiếng chầu, thính giả biết giá trị và phong cách của
người cầm chầu.
Không có loại trống nào giữ ba chức năng như trống chầu trong ca trù:
1) Tham gia vào cuộc diễn bằng những tiếng trống mở đầu, chấm câu, kết
thích; 2) Khích lệ nghệ sĩ, phê phán, khen thưởng để ca nương kép đàn thêm
hào hứng; và 3) Hướng dẫn thính giả vì không phải ai cũng biết giọng ca tiếng
đàn hay ở chỗ nào và hay đến đâu. Tiếng trống chầu của người sành điệu giúp
cho thính giả biết thưởng thức và trở nên sành điệu hơn [57,tr30;31].
1.2.3. Các CLB, giáo phường ca trù ở Việt Nam
Hiện nay, cả nước có 16 tỉnh, thành phố có hoạt động của các CLB, giáo
phường ca trù. Đại đa số nằm ở các tỉnh, thành Bắc Bộ đến Hà Tĩnh, Quảng
Bình và TP.HCM. Tổng cộng có hơn 60 CLB, giáo phường, nhóm ca trù đang
hoạt động. Như vậy, so với trước khi được công nhận là di sản thế giới thì số
lượng CLB ca trù đã tăng lên đáng kể, nhưng số lượng nghệ nhân ca trù lão
làng đã tiếp tục giảm xuống do nhiều cụ đã mất. Năm 2014, số lượng nghệ
nhân ca trù trên 80 tuổi ở Việt Nam hiện chỉ còn 4 - 5 nghệ nhân so với 21
nghệ nhân tại thời điểm trước khi ca trù được UNESCO công nhận.
Tại Hà Nội, có gần 20 CLB, giáo phường ca trù đã và đang hoạt động ở
cả nội và ngoại thành. Ở một số địa phương lân cận Hà Nội, có thể kể đến các
CLB như: Làng ca trù Đào Đặng ở xã Trung Nghĩa, TP. Hưng Yên; Ninh
Bình có CLB ca trù đền thờ Nguyễn Công Trứ, CLB ca trù Cố Viên Lầu; Bắc
Ninh có CLB ca trù Thanh Tương, làng Thanh Khương (Thuận Thành), CLB
45
ca trù Tiểu Than (Gia Bình) và CLB ca trù Đông Tiến (Yên Phong)… ); Hà
Tĩnh có CLB ca trù Nguyễn Công Trứ, CLB ca trù Cổ Đạm;
Ngoài ra, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Bình,
Thanh Hóa, Quảng Bình, TP.HCM… cũng có một số CLB ca trù hoạt động
thường xuyên dưới dạng bảo tồn, phát huy vốn cổ cha ông để lại tại các làng,
thôn, tổ dân phố của các địa phương. Ở TP.HCM, ca trù xuất hiện dưới hình
thức CLB chủ yếu là do các nghệ nhân phía Bắc do đặc thù cuộc sống đã tập
hợp lại và truyền lại cho con cháu, giới trẻ qua CLB ca trù TP.HCM, với
khoảng 60 nghệ sĩ sinh hoạt đều đặn hàng tuần.
Quá trình hình thành các CLB, giáo phường cơ bản như sau:
- Trước năm 1991, hoạt động ca trù ở Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở hoạt
động theo làng xã, giáo phường, theo họ tộc và gia đình hay theo nhóm người.
- Ngày 28/4/1991, CLB ca trù Hà Nội đã được thành lập và trở thành
Câu lạc bộ ca trù đầu tiên trên cả nước.
- Tháng 11/1993, Bộ VHTT đã ra quyết định số 15638/QĐ-BVHTT về
việc thành lập CLB ca trù Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện về kinh phí và
địa điểm nên ngay sau đó, CLB đã bị giải thể.
- Năm 1995 trở đi, nhiều CLB ca trù ở Hà Nội và nhiều địa phương trên
cả nước đã được thành lập như ở Hà Tây cũ, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc
Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, TP.HCM.
- Từ 2005 trở lại đây, một số CLB, giáo phường được thành lập hoặc tổ
chức thêm hoạt động biểu diễn cho khách du lịch. Đến nay, cả nước có trên
60 CLB, giáo phường ca trù ở 16 tỉnh, thành phố.
1.2.4. Các CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội
Có thể nói, sau một thời gian dài ở trong khoảng lặng, vắng bóng và bị
mai một cũng như bị biến thể, với nỗ lực phục dựng nền nghệ thuật bác học
cổ truyền dân tộc, với chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với vấn
46
đề bảo tồn và phục hưng nghệ thuật dân tộc, từ khoảng những năm 70, 80 của
thế kỷ XX, nghệ thuật ca trù bắt đầu được quan tâm trở lại. Một số ca nương
Hà Nội xưa như Nguyễn Thị Phúc, Phạm Thị Mùi, Đinh Thị Bản, Phạm Thị
Chúc, Quách Thị Hồ, Phó Thị Kim Đức,… lại được giới âm nhạc Thủ đô chú
ý đến, trong đó nổi bật nhất là hai giọng ả đào lừng danh của nghệ nhân Phạm
Thị Mùi và NSND Quách Thị Hồ. Bên cạnh đó là những nghệ nhân kép đàn,
trống chầu nổi tiếng như nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi, nghệ nhân Nguyễn Phú
Đẹ (người Hưng Yên nhưng tham gia hoạt động ca trù Hà Nội từ rất lâu). Kể
từ đó, ca trù có dấu hiệu hồi sinh. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX và thập niên
đầu của thế kỷ XXI, một số CLB do các cá nhân, gia đình, làng xã tổ chức
xuất hiện. Nghệ thuật ca trù tại Hà Nội chủ yếu vẫn được hoạt động trong các
CLB, giáo phường, các nhóm, trung tâm như: CLB ca trù Hà Nội, Giáo
phường ca trù Thái Hà, Giáo phường ca trù Lỗ Khê, nhóm ca trù Tràng An,
Giáo phường ca trù Thăng Long, CLB ca trù Chanh Thôn, CLB ca trù Ngãi
Cầu, Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long… Với sự chỉ dạy của các lão làng
thế hệ trước, thế hệ ngày nay đã có những ca nương, kép đàn là niềm tự hào
của ca trù Hà Nội như nghệ sĩ Lê Thị Bạch Vân, Phạm Thị Huệ, Nguyễn
Thúy Hòa,…
Bảng 1.1. Tổng hợp các CLB, giáo phường ca trù Hà Nội
CLB/GP ca trù
Địa chỉ
Chủ nhiệm
Giáo phường ca trù Thái Hà (năm 1993 ra mắt CLB Thái Hà)
Phố Thái Hà, Hà Nội và số 27 Thụy Khuê
TK XV
Làng Lỗ Khê, Đông Anh
Giáo phường ca trù Lỗ Khê Giáo phường ca trù Phượng Xã
Thời gian thành lập TK XIX Nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi đời thứ 7 của cụ tổ ca trù Thái Hà đầu thế kỷ XIX, có nhà thờ tổ ca công Tổ nghề ca trù từ thế kỷ XV, có đình thờ ca công Phượng TK XVIII Tổ nghề ca trù từ thế kỷ
47
CLB/GP ca trù
Địa chỉ
Chủ nhiệm
Thời gian thành lập
huyện
XVIII, có đình thờ ca công
Cách, Quốc Oai Từ Liêm
2005
Xã Phú Nghĩa, Chương Mỹ
Cách, CLB ca trù Phượng Cách ngày nay. Giáo phường ca trù Phú Đô xưa và CLB ca trù Phú Đô ngày nay Giáo phường ca trù Đồng Trữ xưa, CLB Ca trù thôn Đồng Trữ nay
TK XVII Tổ nghề ca trù từ thế kỷ XVII, có đình thờ ca công từ những Truyền đời năm 1880, có Quán Đồng Trữ thờ Tổ mẫu ca trù Truyền đời
Thượng Mỗ, Đan Phượng
TK XVIII 2005
14 Cát Linh
1991
Nghệ sĩ Bạch Vân
Hà Đông
1995
Sở VH-TT Hà Tây cũ
14/07/2000 Nhóm nghệ nhân
Giáo phường Thượng Mỗ xưa, CLB ca trù Thượng Mỗ ngày nay CLB Bích Câu đạo quán (đã dừng hoạt động) CLB ca trù Hà Tây (đã dừng hoạt động) CLB ca trù UNESCO (hoạt động không thường xuyên)
CLB Ngãi Cầu
2004
Truyền đời
CLB ca trù Yên Nghĩa
2005
CLB ca trù Ðông Duyên
2005
Truyền đời, có miếu thờ tổ ca trù Truyền đời
Nhóm nghệ nhân
2006
Bảo tàng dân tộc học Việt Nam Xã An Khánh, Hoài Đức Xã Yên Nghĩa, Hà Đông Đông Duyên, Thường Tín 25 Tông Đản
Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long (đã dừng hoạt động) CLB ca trù Chanh Thôn
Phú Xuyên
2007
2010
Nghệ nhân Nguyễn Thị Ngoan Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ
Giáo phường ca trù Thăng Long
87 Mã Mây (đầu năm 2015 chuyển về đền Quan Đế 28
48
CLB/GP ca trù
Địa chỉ
Chủ nhiệm
Thời gian thành lập
CLB ca trù Hà Nội
2010
Nghệ sĩ Bạch Vân
Hàng Buồm) Đình Kim Ngân, 42-44 Hàng Bạc Khâm Thiên
2010
Nghệ sĩ Kim Đức
2011
Nghệ sĩ Bạch Vân
Nhóm Ca trù Tràng An (hoạt động không thường xuyên) “Bạch Vân Ca trù và những người bạn” (đã dừng hoạt động)
2012
Không gian Âm truyền nhạc thống V6 - 34 Hoàng Cầu Ngõ 310 Nghi Tàm, Tây Hồ
Hướng dẫn giới thiệu: Nghệ nhân Nguyễn Văn Mậu Viện Âm nhạc
Viện Âm nhạc
2013
thuật Không gian nghệ Ngọc Châu (Hoạt động không thường xuyên) Trung tâm Phát triển nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc Viện Âm nhạc CLB ca trù Phú Thị
Phú Thị, Gia
2013
Truyền đời
Lâm
Nguồn: Tổng hợp của NCS, năm 2014
Để làm rõ hơn quá trình hình thành và phát triển của các CLB, giáo
phường trong nội thành Hà Nội, xin giới thiệu một số CLB, giáo phường là
CLB ca trù Hà Nội, giáo phường Thăng Long, giáo phường Thái Hà và một
không gian ca trù đã một thời vang bóng, để lại nhiều ấn tượng là trung tâm
văn hóa ca trù Thăng Long.
- CLB ca trù Hà Nội: Ngày 28/04/1991, tại Văn Miếu Quốc Tử Giám,
CLB ca trù Hà Nội được ra mắt do sáng kiến của NSƯT Lê Thị Bạch Vân.
Đây là tổ chức CLB đầu tiên có giấy phép của cơ quan nhà nước, được Giám
đốc Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội (trước đây) ký quyết định thành lập. Với
những nỗ lực của NSƯT Bạch Vân và các thành viên, CLB ca trù Hà Nội đã
49
giúp hình thành những bước đi ban đầu cho việc phục hồi nghệ thuật ca trù
bằng việc tập hợp được những nghệ nhân tiêu biểu của nhiều giáo phường
trong cả nước, tổ chức các đêm diễn giới thiệu, quảng bá nghệ thuật ca trù,
sưu tầm các bài bản cũ, vận động các địa phương khôi phục lại nghệ thuật ca
trù, mở lớp dạy đàn hát trống chầu và làm thơ hát, nói cho thế hệ trẻ, vận
động các nghệ nhân giỏi nghề truyền dạy nghề cho con cháu trong dòng họ.
CLB tổ chức biểu diễn định kỳ vào tối thứ Tư, thứ Sáu và Chủ nhật tại Đình
Kim Ngân số 42 - 44 Hàng Bạc. Theo NSƯT Lê Thị Bạch Vân, chủ nhiệm
CLB, hiện số hội viên trong và ngoài nước là hơn 300 người, gồm cả những
cộng tác viên và những người yêu thích được học môn nghệ thuật đặc biệt
này. CLB đào tạo được nhiều ca nương trẻ. CLB ca trù Hà Nội có vai trò quan
trọng trong việc kết nối các nghệ nhân tên tuổi từ các vùng quê Hải Phòng,
Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương và Hà Nội được nhiều
người biết đến, được nhiều giải thưởng của các cấp, các ngành.
- Giáo phường ca trù Thái Hà: Giáo phường này hoạt động như một
giáo phường ca trù của thời xưa và ca trù Hà Nội may mắn còn một gia tộc ca
trù (không phải là cả làng ca trù như Lỗ Khê, Chanh Thôn, không phải chỉ là
CLB đơn lẻ) như thế. Với 7 đời nối nghiệp cầm ca, từ đầu thế kỉ XIX ở làng
Thụy Khuê (nay là phố Thụy Khuê) đã có gia đình ca công ra đời, với chức
năng như một giáo phường xưa. Đời thứ nhất, cụ Nguyễn Đức Ý sinh năm
1820; đời thứ hai, Nguyễn Đức Bồi; đời thứ ba, Nguyễn Thị Tuyết. Là một ca
nương nổi tiếng trong cung đình, cụ Nguyễn Thị Tuyết đã được triều đình ban
thưởng đất tại Thái Hà để xây dựng đình Ca công làm nơi ca hát của cả dòng
tộc. Đời thứ tư, Nguyễn Văn Xuân tay đàn đáy nổi tiếng Bắc Hà. Đời thứ năm
Nguyễn Văn Mùi sinh năm 1931, một tay trống chầu đĩnh đạc. Giữa thời buổi
nhạc giải trí, nhạc thời trang chiếm lĩnh sân chơi, thu hút lớp trẻ, cụ đã hướng
con cháu đi theo nghiệp tổ. Đời thứ sáu Nguyễn Văn Khuê sinh năm 1962,
50
Nguyễn Mạnh Tiến sinh năm 1970, hai kép đàn danh tiếng và ca nương
Nguyễn Thúy Hòa sinh năm 1973. Theo sự xác nhận của Vũ Nhật Trung và
Nguyễn Xuân Diện thì ca nương Nguyễn Thúy Hòa được NSND Quách Thị
Hồ trực tiếp dạy hát. Đời thứ bảy của CLB ca trù Thái Hà là Nguyễn Thu
Thảo và Nguyễn Kiều Anh sinh năm 1994, hai “ca nương nhí” có nhiều triển
vọng trở thành đào nương xuất sắc. Theo NSƯT Nguyễn Văn Khuê, năm
1989 nhóm ca trù Trẻ thành lập và tháng 5 năm 1993 đặt thêm tên ngoài giáo
phường còn có tên CLB ca trù Thái Hà, do nghệ nhân trống chầu Nguyễn Văn
Mùi làm chủ nhiệm. Trước năm 1993, giáo phường này chỉ phổ biến trong
phạm vi gia đình và những người thân thiết. Giáo phường đã được các nước
như Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Triều Tiên, Nhật Bản mời sang biểu
diễn. Các điệu ca trù thường hát là tỳ bà, thét nhạc, cung bắc, thiên thai, hát
mưỡu, hát nói, chừ khi, bắc phản, chúc hỗ, kể chuyện, ngâm thơ, hát giai, hát
ru, thổng… Giáo phường cũng được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế.
Tại “Liên hoan dân ca truyền hình toàn quốc - Khu vực I năm 2009” tổ chức
tại thành phố Bắc Ninh, với điệu “Hát nói gửi thư”, Nguyễn Kiều Anh đã
giành một trong hai giải cao nhất của liên hoan. Gia tộc của họ đang cùng
nhiều đào kép trẻ của Hà Nội và cả nước là lớp người tiếp bước của các bậc
tiền nhân để duy trì và phục hưng ca trù.
- Giáo phường ca trù Thăng Long: Tiền thân là CLB ca trù Thăng Long
được thành lập tháng 8 năm 2006 tại Hà Nội do ca nương Phạm Thị Huệ cùng
hai người thầy của mình là nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc và nghệ nhân
Nguyễn Phú Đẹ đồng sáng lập và ca nương Phạm Thị Huệ là chủ nhiệm. Trải
qua nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động CLB, đến năm 2011, ban chủ
nhiệm CLB đã quyết định chuyển đổi mô hình từ CLB sang giáo phường và
đặt tên là giáo phường ca trù Thăng Long. Với khá nhiều lần thay đổi địa
điểm, từ địa điểm quen thuộc ở ngôi nhà cổ 87 Mã Mây đã được giáo phường
51
ca trù Thăng Long chọn là nơi biểu diễn hàng đêm vào thứ Ba, thứ Năm và
thứ Bảy thì đầu năm 2015, do nhà cổ 87 Mã Mây được sử dụng vào mục đích
khác nên giáo phường đã phải chuyển địa điểm sáng đền Quan Đế (28 Hàng
Buồm). Hiện nay, giáo phường này đã và đang đào tạo nhiều ca nương trẻ.
Đây là mô hình giáo phường phát triển từ hình thức CLB đầu tiên ở Hà Nội
cũng như ở Việt Nam, với mong muốn hướng đến mô hình một giáo phường
ca trù, góp phần bào tồn, phát huy giá trị di sản ca trù.
- Trung tâm văn hóa ca trù Thăng Long (đã dừng hoạt động): Trung tâm
văn hóa ca trù Thăng Long do Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại
Nguyên Lai liên kết với Bảo tàng Cách mạng Việt Nam tổ chức thành lập và
ra mắt ngày 3/4/2009, do bà Nguyễn Lan Hương làm Giám đốc. Trung tâm
được xây dựng theo mô hình nhà hát tổ chức biểu diễn ca trù chuyên nghiệp
với sức chứa 100 khách. Trung tâm được chia thành 3 không gian: không gian
triển lãm giới thiệu về ý nghĩa của nghệ thuật ca trù; không gian giới thiệu
một số làng nghề truyền thống Việt Nam; không gian biểu diễn ca trù. Và
chính không gian biểu diễn ca trù này là mơ ước của rất nhiều nghệ nhân ca
trù hiện nay mà không thể có được, với sự đầu tư bài bản, công phu và đúng
nghĩa một không gian đẳng cấp dành cho nghệ thuật bác học này. Tiếc rằng,
do nhiều lí do, hiện nay, Trung tâm này đã không còn tồn tại, để lại sự nuối
tiếc của các nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù Hà Nội và công chúng.
1.3. Giá trị di sản ca trù
GS.TS. Yves Defrance, Đại học Rennes ở Pháp, trong Hội thảo quốc tế
về ca trù năm 2006 tại Hà Nội, cho rằng: “Ca trù là một thể loại âm nhạc
thính phòng… bị chi phối bởi một giọng hát nữ. Lời ca có nhiều chữ Hán…
không phải người Việt Nam nào cũng có thể hiểu được hết nghĩa… Kỹ thuật
tinh tế trong thơ ca là sự phản chiếu một văn hóa trí thức cao” [57,34]. Bởi
kén người nghe, nên dù ca trù mang chiều sâu nghệ thuật, bản sắc văn hóa
52
dân tộc, nhưng việc đưa ca trù vào hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là tại Thủ đô Hà Nội, nơi được coi là cái nôi phát triển của ca trù.
Ca trù được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần được
bảo vệ khẩn cấp vào ngày 01/10/2009 tại Abu Dhabi, các Tiểu vương quốc Ả
rập thống nhất (UAE). Ca trù được đánh giá như sau: Ca trù đã trải qua một
quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn trong không
gian văn hóa đa dạng gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù
thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính
sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ
chức giáo phường. Những giáo phường này đã duy trì các cộng đồng có quan
hệ mật thiết, tạo nên nét đặc trưng cho ca trù. Mặc dù trải qua nhiều biến động
lịch sử, xã hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị nghệ thuật
đối với văn hóa Việt Nam.
1.3.1. Giá trị âm nhạc, nghệ thuật trình diễn, văn học, giải trí
- Giá trị âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn
Có thể nói, về nghệ thuật âm nhạc, ca trù là tên gọi chung của rất nhiều
điệu hát bài bản cần phân loại như: bắc phản, mưỡu, hát nói, gửi thư, đọc thơ,
thổng, dồn, đọc phú, chừ khi, hát ru... Số lượng điệu hát đến nay vẫn chưa
được xác định. Theo Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù
biên khảo thì ca trù có 46 điệu hát, các điệu như: dóng chinh phu, mã thượng
kiều, trở tay ba, xướng tầng, nói huỳnh, dựng huỳnh... không còn ai nhớ nữa
[21,tr93]. Với số lượng không xác định, tam sao thất bản và sự hình thành
chúng lại trải dài qua một tiến trình lịch sử khiến cho công việc tìm một vài
điệu hát cổ nhất nào đó, thời gian cũng như nơi sản sinh ra nó, sự liên quan
mật thiết và cái xuyên suốt giữa các điệu càng trở nên khó khăn. Tìm ra một
vài điệu cổ nhất của ca trù từ đó ngược quá trình từ dạng thái hoàn chỉnh lần
về dạng thái nguyên sơ cũng là con đường tìm ra nguồn gốc ca trù. Theo
53
hướng như thế đòi hỏi phải loại những điệu hát dễ dàng xác nhận là không
phải hình thành từ thời cổ sơ như hát nói. Với các điệu hát này, ngoài truyền
thuyết ra không có sự xác nhận tương tự qua thư tịch cổ vì vậy truyền thuyết
là tư liệu duy nhất được sử dụng tham khảo, ít ra là góp phần vào việc khoanh
vùng "di chỉ" để tìm kiếm.
Hát ca trù được chia làm ba lối chính, theo cách chia của các nhà nghiên
cứu ca trù, nhạc học, là: Hát chơi, hát cửa đình, hát thi. Hát chơi gồm: bắc
phản, mưỡu, hát nói, gửi thư, đọc thơ, dồn, đọc phú, hát ru... Hát cửa đình
gồm: giáo trống, giáo hương, dâng hương, thét nhạc, hát giai, đọc phú, đọc
thơ, gửi thơ, đại thạch... Hát thi gồm: giáo đầu, ca đàn, thơ cách... Thét nhạc
là khúc hát cổ nhất còn lưu truyền được; nhưng ngược lại, Phạm Đình Hổ
trong Vũ trung tùy bút thì nói thét nhạc là loại mới thêm ra sau này chứ không
phải có từ thời Hồng Đức như cung nam, cung bắc, cung đại thực (tức đại
thạch), cung hoàng chung... [31,tr59]. Điều đó cho thấy chính từ trong các thư
tịch đáng tin cậy, với một điệu thức, đã có sự xác định khác nhau với một độ
chênh khá dài về thời gian, song cũng từ đây đã có thể xem thét nhạc thuộc về
thời cổ. Cấu trúc một đêm hát thì thét nhạc được hát đầu tiên tạo nhạc cảm
cho đêm hát nhưng thứ tự này không phản ánh mặt thời gian ra đời của các
điệu hát.
Những bài hát nói nổi tiếng của ca trù phải kể đến: "Tự tình", "Hơn nhau
một chữ thì", "Phận hồng nhan có mong manh", "Nhân sinh thấm thoắt"...
của Cao Bá Quát; "Ngày tháng thanh nhàn", "Kiếp nhân sinh", "Chơi xuân
kẻo hết xuân đi", "Trần ai ai dễ biết ai"... của Nguyễn Công Trứ; "Hồng
hồng, tuyết tuyết" tức "Gặp đào Hồng đào Tuyết" của Dương Khuê; “Hương
Sơn phong cảnh” của Chu Mạnh Trinh; "Gặp xuân",“Xuân tình”, “Chưa
say” của Tản Đà; "Hỏi phỗng đá", "Duyên nợ" của Nguyễn Khuyến; "Chơi
chùa Thày" của Nguyễn Thượng Hiền; “Hát cô đầu” của Trần Tế Xương.
54
Ngoài ra còn có những làn điệu khác như "Tỳ bà hành" (bản diễn Nôm của
Phan Huy Vịnh theo cổ bản của Bạch Cư Dị). Những điệu huê tình, gửi thư,
bắc phản, hát giai... cũng thuộc thể ca trù [57,tr108-109].
Ca trù vô cùng kén khách, kén không gian biểu diễn. Có lẽ ngoài hát
Tuồng có những kỹ thuật phong phú và độc đáo, còn các bộ môn ca nhạc cổ
truyền, kể cả Nhã nhạc cung đình hay một số loại hình nghệ thuật biểu diễn
truyền thống khác của Việt Nam có thể hiện nét thính phòng như ca Huế hay
bác học như đờn ca tài tử, thì cũng không có kỹ thuật thanh nhạc phức tạp,
tinh vi như ca trù. Đào nương hát không há miệng to, nhìn cứ như mím môi,
không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi ra mà phải “ém hơi” trong cổ, phải biết
“ậm ự” mà lời ca nghe vẫn rõ ràng, hát phải “tròn vành rõ chữ”. Như hát
trong cửa đình không cần ngân nga; hát chơi có cách đổ hột, đổ con kiến,
khác hẳn cách luyến ngân “tahir” trong cổ nhạc Ba Tư, “tremolo” trong nhạc
Âu, “yodel” trong nhạc Thụy Sĩ. Đổ hột làm cho câu hát thêm duyên, có khi
như tiếng nức nở, thở than.
- Giá trị giải trí, ngoại giao
Giá trị nghệ thuật của ca trù còn thể hiện trên phương diện ngoại giao.
Theo tư liệu bản rập của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, văn bia bản huyện giáo
phường lập đoan bi ký, bản rập mang số ký hiệu 15639 - 15640 đang được
lưu trữ tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (tấm bia này hiện để tại đình
xã Đức Lạp, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), thì bia được tạo vào niên
hiệu Long Đức 3, dưới thời Lê, tức là năm 1734, ghi nhận một sự kiện đặc
biệt: dùng ca trù trong đón tiếp ngoại giao. Đây được xem là một thông tin
hiếm hoi và duy nhất về chuyện giới thiệu âm nhạc ca trù của nước ta với bên
ngoài.
Giá trị di sản ca trù còn được thể hiện trên khía cạnh giải trí. Thời xưa,
hát ca trù để vua, quan và nhân dân thưởng thức, giao lưu và sinh hoạt cộng
55
đồng làng xã. Thời Pháp thuộc, hát ca trù ở nội thành Hà Nội bị biến thể
thành hát cô đầu, rồi cô đầu rượu để phục vụ mục đích giải trí (theo khía cạnh
giải trí không lành mạnh trong thời kỳ đó) của giới ăn chơi. Ngày nay, có
những du khách nước ngoài khi nghe hát ca trù ở CLB ca trù Hà Nội đã phải
thốt lên và ngạc nhiên khi trong một không gian thính phòng tĩnh lặng kiểu
phương Tây nhưng lại rất Việt là đình Kim Ngân, nghệ sĩ - ca nương hát ca
trù mà tưởng như đang thưởng thức các giai điệu opera với âm thanh trong
trẻo, vang và rõ. Theo nhiều du khách nước ngoài khi nghe ca trù, hầu hết đều
có chung một nhận định rằng, ca trù là một loại hình âm nhạc đạt đến độ điêu
luyện về kỹ thuật thanh nhạc kết hợp với các loại nhạc cụ đơn giản và hát ca
trù như là hát thính phòng, hát opera của châu Âu.
- Giá trị văn học
Ca trù với lịch sử lâu đời nên đã để lại cho đời sau một kho tàng vô giá
về giá trị văn học. Ca trù được các nhà sử học, các nhà nghiên cứu âm nhạc
nghiên cứu, tìm tòi chủ yếu qua các tài liệu Hán Nôm. Hầu hết các loại hình
nhạc cổ Việt Nam đều có sự phối hợp giữa thơ và nhạc. Trong dân gian, vè,
đồng dao có thơ ba chữ, bốn chữ; hầu hết các bài dân ca hát ru, hò, lý, đối ca
nam nữ, lời ca của các làn điệu chèo, hát văn là thơ lục bát (một câu sáu chữ,
một câu tám chữ), lục bát biến thể (hai câu lục bát có thêm những tiếng đệm
có nghĩa hay vô nghĩa để cho nét nhạc và tiết tấu hai câu thơ thay đổi), song
thất lục bát (hai câu bảy chữ tiếp theo câu lục bát). Trong nhạc truyền thống
bác học có thơ lục bát, lục bát biến thể, lại có thêm các thể thơ theo Đường
luật ngũ ngôn thất ngôn. Ca trù sử dụng tất cả các thể thơ trên, ngoài ra còn
dùng thơ tám chữ không có trong thi ca cổ, chỉ sau này mới thông dụng trong
thơ mới Việt Nam. Thơ tám chữ dùng trong Hát nói, gồm mười một câu chia
làm ba khổ.
56
Ca trù là một loại nhạc thính phòng, nhưng trong khi các loại nhạc thính
phòng khác, bài ca có nét nhạc cố định, nếu đặt lời mới cũng phải tuân theo
nét nhạc đó thì riêng với ca trù, trong các “lối” hay “thể” (khoảng 15 thể hát
chơi, 12 thể hát cửa đình), giai điệu không cố định mà tùy theo thanh giọng
của lời thơ. Thành ra, những bài Gửi thư, Hát ru, Bắc phản, Mưỡu có những
giai điệu khác nhau, cùng một thể hát nói có cả trăm bài. Mỗi loại thơ đều có
nét nhạc và tiết tấu đặc biệt tạo ra nhiều thể trong ca trù. Lục bát và lục bát
biến thể có trong Mưỡu, Bắc phản, Xẩm huê tình, hay ngâm theo Sa mạc hoặc
Bồng Mạc, thơ tám chữ trong hát nói.
1.3.2. Giá trị phản ánh một số giai đoạn lịch sử, văn hóa, xã hội ở một
số phạm vi nhất định
Như đã phân tích, di sản văn hóa phi vật thể không “nhất thành bất
biến”, chúng nhất định phải hàm chứa những nhân tố mang tính lịch sử, phản
ánh một phần nào đó một số giai đoạn lịch sử, đồng thời lại phải mang hơi thở
của thời đại lịch sử mà chủ thể văn hóa cũng như chủ sở hữu di sản văn hóa
phi vật thể đang sống, làm việc và sáng tạo, với di sản ca trù, điều đó thể hiện
qua hàng ngàn năm. Di sản văn hóa phi vật thể ca trù được sáng tạo ra, được
bảo lưu và chuyển giao qua nhiều thế hệ là cả một quá trình sàng lọc và sáng
tạo không ngừng nghỉ của lớp lớp các nghệ nhân, nghệ sĩ. Các thế hệ được
thừa hưởng các giá trị di sản văn hóa ca trù do cha ông để lại, đồng thời các
thế hệ về sau sẽ phải có trách nhiệm chọn lựa những gì là tinh hoa nhất để bảo
lưu, chuyển giao trên cơ sở kế thừa.
Ca trù xuất hiện trong xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ thứ XI, sau
đó được thể hiện rõ nét ở thế kỷ XV thời nhà Lê. Ca trù với những tên gọi
khác như hát nhà tơ, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát ả đào, hát cô đầu,… đều
thể hiện những giai đoạn lịch sử khác nhau, những không gian văn hóa khác
nhau ở nông thôn, làng xã phong kiến Việt Nam thời xưa hay ở các đô thị với
57
các tổ chức giáo phường, nhóm, hội. Cái tên ca nương cũng có sự thay đổi
theo thời cuộc: từ ả đào, cô đầu, ca nương, đào nương,… đều phần nào đó
phản ánh thực trạng lịch sử văn hóa giải trí của xã hội phong kiến Việt Nam.
Tất nhiên, có thể nói, phạm vi phản ánh những giá trị đó không lớn, chỉ hạn
hẹp trong một số không gian cung đình, đô thị, giáo phường, làng thôn có
nghệ thuật ca trù. Thực tế, trong các giai đoạn phong kiến, ca trù không phải
là nghệ thuật đại chúng, đa dạng công chúng, đa dạng người nghe nên sẽ có
giá trị phản ánh một số giai đoạn lịch sử nhất định nhưng sức ảnh hưởng
không lớn.
Di sản ca trù đã trải qua nhiều giai đoạn với những biến đổi nhất định về
nhiều mặt, trong đó có khía cạnh tổ chức không gian sinh hoạt và hoạt động.
Từ những nhóm ca nương, kép đàn nhỏ ở một số làng xã đồng bằng Bắc Bộ
và khu vực Bắc Trung Bộ đến những làng, thôn ca trù mà ở đó nhà nhà đều
biết hát, biết đàn như một số làng ca trù Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội), Chanh
Thôn (Phú Xuyên, Hà Nội), Cổ Đạm (Nghi Xuân, Hà Tĩnh),… Sự biến đổi và
phát triển đó, sau một giai đoạn lịch sử, đã hình thành nên những giáo phường
ca trù ở làng xã nông thôn Việt Nam thời kì phong kiến. Cùng với nó là sự
phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam, đô thị chính là nơi mà các ca
nương, kép đàn tìm đến để lập nên các nhóm, hội ca trù, dần dần lớn mạnh và
tạo lập các giáo phường tại đô thị để ca hát cho khách nghe.
Thời Pháp thuộc, trong khi ở các làng quê, ca trù vẫn âm ỉ tồn tại với sự
gìn giữ của các giáo phường, làng thôn ca trù thì ở nội thành Hà Nội, một
mặt, những giáo phường hay tổ họ ca trù như tổ họ Thái Hà vẫn âm thầm gìn
giữ cốt cách, nền nếp giáo phường của tổ họ mình, thì một mặt, nhiều nhóm
ca trù vì mưu sinh cuộc sống, vì thực trạng xã hội thời kì đó, nghệ thuật ca trù
phần nào đó đã biến thể và không còn là sự tinh khiết đơn thuần của một loại
hình âm nhạc bác học nơi các làng quê, giáo phường nữa, mà đã biến đổi
58
phần nào đó ở nội thành Hà Nội thành loại hình diễn xướng góp vui cho
khách làng chơi. Vẫn có những nhóm ca trù tại nội đô Hà Nội thời kì đó
không đi theo sự biến đổi ấy, nhưng chỉ là số ít, còn đa số, do thời cuộc,
những phố “đèn đỏ” một thời như Khâm Thiên, Cầu Giấy, Ngã Tư Sở…
[49,64] đã ra đời dành cho các quan lại Pháp, dân chơi, dân hút thuốc phiện,
vì nơi đó, ca hát chỉ là thứ yếu, mà nổi bật lại là những ả đào như gái làng
chơi, với tiền, rượu và thuốc phiện.
Điều quan trọng là dù ở chốn thị thành đô hội có những biến thể, biến
dạng những lề thói của nghệ thuật ca trù, thì ở các vùng quê, làng xã, vẫn âm
thầm lặng lẽ bảo tồn, gìn giữ ca trù, kể cả những ngày tháng ca trù ở trong
khoảng không im lìm nhất (giai đoạn đất nước sau Cách mạng tháng Tám
1945 đến hết thời kì bao cấp).
Tổ chức giáo phường, phường hội của ca trù cũng rất đặc biệt. Đó là tổ
chức có quy củ, nề nếp, có sắc phong, gia phả lưu giữ truyền thống ca trù của
dòng tộc. Tổ chức này có chức năng tập hợp các nhóm ca trù lại thành một
giáo phường để sinh hoạt và biểu diễn, thể hiện rất rõ tính quy mô, tính tổ
chức xã hội cao trong sự phát triển của lịch sử đất nước, đặc biệt là qua lịch
sử phát triển đô thị Việt Nam thời phong kiến. Giờ đây, ca trù đã trở lại đúng
với vóc dáng của nó, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ngành văn hóa, sự
chung tay của cộng đồng và sự nỗ lực lớn để gìn giữ của các nghệ nhân.
1.3.3. Giá trị văn hóa, giáo dục, tín ngưỡng
Ca trù là nghệ thuật truyền thống độc đáo trong văn hóa Việt Nam. Sự
linh hoạt trong cách trình diễn ca trù cũng như lối thưởng độc đáo bằng thẻ
(trù) được coi là một nét văn hóa đặc biệt, đó là nét đẹp trong văn hóa thưởng
thức nghệ thuật của ông cha.
Ca trù được biểu diễn nhiều ở đình làng hay nhà thờ tổ, góp phần củng
cố, làm phong phú và dầy thêm bản sắc văn hóa đình làng, văn hóa tộc họ ở
59
các làng quê Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đình là nơi sinh
hoạt cộng đồng của cả làng, nơi ấy không chỉ là nơi để bàn việc làng việc
nước, mà còn là nơi thờ Thành hoàng làng và còn là nơi để các giáo phường,
làng thôn, nhóm ca trù họp bàn, sinh hoạt chuyên môn, có dịp thì trình diễn
nghệ thuật phục vụ các sự kiện của làng hàng năm.
Tuy nhiên, việc thường xuyên của đình làng vẫn là nơi tổ chức các lễ hội
làng hàng năm vào dịp xuân thu nhị kỳ. Nghệ thuật trình diễn phục vụ cúng tế
là những canh hát thờ thần, mà sau này người ta quen gọi là hát cửa đình. Di
sản ca trù đã góp phần cộng hưởng cùng những đặc trưng văn hóa khác tạo
nên một nét văn hóa rất Việt Nam, đó là văn hóa đình làng, coi đình làng
không chỉ là một trung tâm hành chính, một trung tâm tín ngưỡng thể hiện
phong tục tập quán làng xã, đạo đức, gia phong truyền thống mà còn là một
trung tâm văn hóa, một “nhà hát” cộng đồng làng xã. Đó chính là giá trị chiều
sâu văn hóa của di sản ca trù đóng góp vào bản sắc văn hóa làng xã, phường
hội trong xã hội Việt Nam thời xưa.
Qua nghệ thuật ca trù, có thể thấy người Việt muốn giãi bày, chia sẻ tình
yêu đất nước, quê hương, cuộc sống và những tự sự đời thường vào các câu
thơ trong lời hát ca trù. Qua đó thể hiện lòng yêu thơ ca. Mỗi bài thơ được
phổ nhạc lại có những âm điệu riêng, dấu ấn riêng, khiến người thưởng thức
luôn chìm đắm với tiếng hát hòa cùng tiếng trống phách trầm bổng. Ca trù
chính là một trong những nghệ thuật truyền thống mà tiếng hát của nó thể
hiện sâu sắc lời thơ. Ca trù thể hiện trong đó phần nào những ứng xử đạo đức,
những phong tục tập quán, những bản sắc văn hóa của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trong đó có Thăng Long - Hà Nội.
Không những vậy, với gia phong, cốt cách, luật tục của các giáo phường,
làng thôn ca trù trong xã hội phong kiến ở cả làng quê và đô thị, ca trù không
chỉ mang giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa mà còn mang giá trị giáo dục đạo
60
đức, giáo dục những phong tục tập quán cho các thế hệ đời sau. Thể cách, sự
khuôn mẫu, phép tắc của ca trù đã được các bậc cha ông lão làng trong nghề
truyền lại cho con cháu và cứ thế, từ đời này qua đời khác, các làng, thôn,
giáo phường ca trù vẫn giữ được bản sắc văn hóa cộng đồng, giá trị giáo dục
truyền thống họ tộc, gia đình, giá trị giáo dục bằng lời ca, tiếng hát. Cho đến
ngày nay, nhiều CLB, giáo phường ca trù vẫn còn giữ được những cốt cách
ấy. Thế hệ trẻ luôn được truyền dạy một cách bài bản, có chiều sâu văn hóa và
có tính giáo dục cao. Một ca nương trẻ có thể không khó để học được 1 hoặc
2 thể cách đơn giản, nhưng để học được cả 6 thể cách như các cụ lão làng
truyền dạy thì không đơn giản, nó đòi hỏi tính kiên trì, nhẫn nại và sự nghiêm
túc trong học tập, rèn luyện. Không chỉ là các thể cách với nhiều từ ngữ lời
thơ theo dạng Hán Nôm, mà còn là phong cách, ứng xử, sự kính trên, nhường
dưới, sự chỉn chu trong đầu tóc, cách ăn, cách mặc của một ca nương, kép
đàn,… đã tạo nên giá trị giáo dục rất hay mà nghệ thuật ca trù đã góp phần
đem lại cho các thế hệ.
Có thể nói, không có nhiều loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống
Việt Nam lại vừa thể hiện giá trị nghệ thuật, giá trị văn hóa, giá trị văn học,
giá trị giáo dục đạo đức, phong cách,… như nghệ thuật ca trù.
1.4. Kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản và di sản ca trù
1.4.1. Kinh nghiệm trên thế giới đối với một số di sản văn hóa phi vật
thể là nghệ thuật biểu diễn truyền thống
Mỗi di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) đều chứa đựng trong đó
những nội dung riêng biệt, độc đáo không trùng lặp. Ở đó phản ánh, lưu giữ
đặc trưng lịch sử dân tộc, đặc trưng nhân cách, phẩm giá, thế giới tinh thần,
đạo đức tâm lý con người qua các thời kỳ lịch sử, sự đặc sắc của phong tục
tập quán… của các dân tộc.
61
Ở Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, bảo tồn và phát huy
giá trị di sản và du lịch trong mối quan hệ phổ biến hiện nay của thế giới ở
những nơi có di sản được quan niệm là hoạt động du lịch có vai trò chuyển tải
một cách sinh động, trung thực, thuyết phục và hấp dẫn những giá trị nội dung
di sản và di sản tạo nên sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch nhân văn, trong đó
có tài nguyên phi vật thể. Không chuyển tải được nó, khách du lịch hay người
chiêm nghiệm, người thưởng thức giá trị di sản chỉ còn tìm thấy cái vỏ bề
ngoài, cái vỏ kiến trúc, cái vỏ ngôn ngữ… của các di sản. Nó vừa làm nghèo
nàn đi các giá trị văn hóa dân tộc trước mắt khách du lịch, vừa hạn chế tính đa
dạng của du lịch. Du lịch chỉ còn là phương thức giải trí, bồi bổ sức khỏe,
nghỉ ngơi, thư giãn mà giảm đi ý nghĩa, tác dụng của sự tự bồi dưỡng tâm
hồn, tự giáo dục nhân cách, tự làm phong phú thế giới tinh thần, tình cảm -
thẩm mỹ của con người.
Ở một vài nước, các điểm du lịch, các di sản văn hóa có thể không nhiều,
không có gì thật đặc sắc nhưng họ đã biết khai thác sinh động các di sản đó,
làm nổi bật được tính độc đáo của nó trong sự tiếp nhận của khách du lịch nên
hiệu quả của các di sản văn hóa, các điểm du lịch đó lại rất cao. Ở Trung
Quốc, họ giới thiệu di sản thế giới “Kinh kịch” bằng việc kết hợp giới thiệu
loại hình diễn xướng truyền thống của Trung Quốc với việc đưa du khách trải
nghiệm các không gian cung đình xưa, nên du khách sẽ rất thích thú.
Trên thực tế, có rất nhiều quốc gia đã thành công trong việc đưa các loại
hình di sản văn hóa vào phát triển du lịch, đặc biệt là các di sản văn hóa phi
vật thể, phải kể đến Trung Quốc, một đất nước rộng lớn ngay sát cạnh chúng
ta. Từ xưa, người Trung Quốc đã có câu nói: Ăn Quảng Châu, mặc Tô Châu,
sống Hàng Châu, chết Liễu Châu, trong đó, không thể không kể đến một điển
hình về giới thiệu di sản văn hóa vật thể, phi vật thể rất thành công của Hàng
Châu, đó là Tống Thành. Điểm nhấn khiến Tống Thành thu hút hàng chục
62
triệu lượt khách tham quan để rồi mãn nguyện khi ra về đó chính là chương
trình biểu diễn nghệ thuật “Tống Thành Thiên Cổ Tình” do đạo diễn tài danh
Trương Nghệ Mưu dàn dựng với thông điệp: “Hãy cho tôi 1 ngày, tôi sẽ trả
lại bạn 1.000 năm”.
Ở Nhật Bản, hàng năm, Festival Tohoku Rokkon cũng là một trong
những điển hình quan trọng cho việc bảo tồn, phát huy và phát triển bền vững
giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Ở đây là bảo tồn giá trị di sản phi vật thể lễ
hội. Đó là festival hội tụ sáu lễ hội lớn của 6 thành phố trong tỉnh Tohoku.
Liên hoan theo hình thức giới thiệu các nét văn hóa phi vật thể lễ hội truyền
thống hàng năm thu hút gần 300.000 người tham gia và khoảng 400.000
khách tham quan các thành phố Sendai, Morioka, Fukushima.... Du khách đến
dự rất đông vì họ được hòa cùng không gian lễ hội toàn thành phố, đến quận
nào cũng có lễ hội tưng bừng, đường phố nào cũng tràn ngập vũ công và tiếng
trống với hơn 30.000 vũ công và 30.000 tay trống được huy động.
Có thể nói, kinh nghiệm bảo tồn của Trung Quốc và Nhật Bản là bảo tồn
có trọng tâm, trọng điểm, có chiến lược và kế hoạch dài hạn chứ không phải
bảo tồn theo kiểu mạnh ai nấy làm như một số địa phương tại Việt Nam, kể cả
Hà Nội. Bên cạnh đó là kinh nghiệm quảng bá, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phi vật thể mà chúng ta cần xem xét và nghiên cứu học hỏi. Điều đáng
lưu ý là những lễ hội này cũng chưa phải là di sản thế giới, nhưng giá trị cộng
đồng, giá trị trong lòng công chúng, trong lòng du khách của nó thì rất lớn. Và
với di sản ca trù thì những cách bảo tồn, phát huy được đề cập nêu trên cũng
có thể được nghiên cứu, áp dụng.
1.4.2. Kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản phi vật thể và di sản ca trù
a. Kinh nghiệm bảo tồn di sản hát Xoan Phú Thọ:
Tháng 11/2013, Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số 2058/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần
63
bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (Giai đoạn 2013-2020).
Đề án này được phê duyệt chính là văn bản quản lý nhà nước quan trọng nhất
cho việc định hướng bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ để
thoát khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp năm 2015.
Một trong những mục tiêu quan trọng của Đề án là tiếp tục giữ gìn, lưu
truyền, phổ biến, phát huy cho thế hệ mai sau những giá trị độc đáo mang tính
xã hội, nhân văn, những phong tục, tập quán tốt đẹp về Hát Xoan gắn với tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Nâng cao nhận thức và lòng tự hào trong
cộng đồng, trách nhiệm của các thế hệ, nhất là của thế hệ trẻ trong việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa Hát Xoan. Từng bước bảo tồn phát huy giá trị
hát Xoan trở thành sản phẩm du lịch văn hóa hóa tâm linh đặc trưng, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Trong đó, đề án có đưa ra một số mục tiêu cụ thể:
- Phấn đấu đến năm 2015 đưa Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần
bảo vệ khẩn cấp và trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Năm 2015 đã đào tạo được lớp nghệ nhân kế cận tại các phường Xoan gốc kế
tục lớp nghệ nhân cao tuổi trong việc truyền dạy cho lớp trẻ tại cộng đồng.
- Năm 2015-2020: Tập trung đầu tư tu bổ, phục hồ cho 5 di tích tại các
phường Xoan gốc ở thành phố Việt Trì, khôi phục các lễ hội, tục lệ Hát Xoan
truyền thống nhằm xây dựng thành không gian văn hóa hát Xoan gắn với Tín
ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương.
- 100% người có công bảo tồn, giữ gìn và truyền dạy Hát Xoan được tôn
vinh và hưởng chế độ đãi ngộ theo quy định.
Thời gian qua, tỉnh Phú Thọ đã phối hợp với Bộ VHTTDL và các đơn
vị, tổ chức có liên quan thực hiện tập trung vào các hoạt động phục hồi, bảo
tồn, truyền dạy và thực hành; Tăng cường mở rộng sưu tầm, nghiên cứu, kiểm
kê, tư liệu hóa và số hóa; Đưa giáo dục Hát Xoan và trường học; Nâng cao và
64
phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, ngành trong việc bảo vệ Hát Xoan;
Tu bổ các di tích trọng điểm có gắn với hát Xoan; Thành lập trung tâm bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Phú Thọ; Xây dựng cơ chế, chính
sách đãi ngộ nghệ nhân và các phường Hát Xoan.
Tỉnh Phú Thọ cũng đang nỗ lực chuẩn bị các điều kiện để thực hiện các
mục tiêu cho giai đoạn 2015-2020: Phát huy giá trị của Hát Xoan và Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong hoạt động phát triển du lịch; Tiếp tục
đầu tư khôi phục, tu bổ các di tích liên quan đến Hát Xoan đã xuống cấp và
cần đầu tư; Đầu tư cơ sở hạ tầng tại các địa phương có phường Xoan gốc và
vùng lân cận để phục vụ nhu cầu phát triển du lịch. Trong đó có các dự án
thành phần để thực hiện gồm: Dự án Sưu tầm, nghiên cứu, kiểm kê, tư liệu
hóa, số hóa các bài bản, tư liệu về Hát Xoan giai đoạn 2013-2020; Dự án
Truyền dạy các bài Xoan cổ trong cộng đồng giai đoạn 2013-2020; Dự án
Phục hồi, bảo tồn các diễn xướng Hát Xoan, các tục lệ, nghi thức, lễ hội Hát
Xoan gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
giai đoạn 2013-2020; Dự án Quy hoạch, tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích liên
quan đến Hát Xoan và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ giai
đoạn 2013-2020; Dự án Nâng cao năng lực, quản lý cho các phường, câu lạc
bộ Xoan; xây dựng chế độ, chính sách liên quan đến bảo tồn và phát huy giá
trị của di sản Hát Xoan; Dự án Tuyên truyền, quảng bá di sản văn hóa phi vật
thể cần bảo vệ khẩn cấp - Hát Xoan Phú Thọ giai đoạn 2013-2020.
Đến nay, UBND tỉnh đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và phát huy
giá trị di sản văn hóa thuộc Hội Di sản văn hóa Việt Nam (CCH) hoàn thành
báo cáo về tình trạng Hát Xoan trình các cấp có thẩm quyền và Việt Nam đã
gửi hồ sơ, báo cáo đề nghị Ủy ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể xem xét, xác nhận Hát Xoan đã ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn
cấp. Kết quả nghiên cứu, xây dựng Báo cáo với những minh chứng cụ thể cho
65
thấy sự phục hồi mạnh mẽ của Hát Xoan kể từ khi được UNESCO công nhận
và Việt Nam, đặc biệt là chính quyền và cộng đồng tỉnh Phú Thọ đã có những
nỗ lực vượt bậc để đưa Hát Xoan ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp.
Có thể nói, di sản hát Xoan Phú Thọ đã nhận được sự quan tâm đặc biệt
của các cấp thẩm quyền trong nỗ lực đưa di sản thoát khỏi tình trạng cần được
bảo vệ khẩn cấp. Khác với ca trù, di sản hát Xoan chỉ nằm trong địa bàn tỉnh
Phú Thọ nên công tác quản lí, định hướng, điều hành và tổ chức thực hiện
việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản sẽ dễ dàng hơn. Ca trù cũng rất cần học
tập kinh nghiệm của hát Xoan, đặc biệt là lộ trình triển khai, mục tiêu cụ thể
và các dự án thành phần rất cụ thể nêu ở trên.
b. Kinh nghiệm bảo tồn ca trù ở một số địa phương tại Việt Nam
Các địa phương như Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh… đều
có những kinh nghiệm thực tiễn quý báu về bảo tồn, phát huy giá trị di sản.
NCS xin nêu ra 3 điển hình về bảo tồn, phát huy giá trị di sản của thành phố
Hải Phòng, tỉnh Hà Tĩnh, nơi có làng ca trù Cổ Đạm, một trong những cái nôi
ca trù của Việt Nam và tỉnh Hưng Yên, địa phương ca trù ngay cạnh Hà Nội.
- Thành phố Hải Phòng
Ngày 14/1/2015, tại đình Hàng Kênh, nhờ sự quyết tâm phục dựng của
nghệ nhân lão làng ca trù Nguyễn Phú Đẹ 92 tuổi và CLB ca trù Hải Phòng,
canh hát cửa đình - lối hát thờ và được coi là gốc rễ của ca trù đã phục dựng
thành công.
Phục dựng nghệ thuật ca trù cổ là một trong những mục tiêu quan trọng
của bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù, được chương trình hành động quốc
gia về bảo vệ di sản ca trù đề cập. Tuy vậy, kể từ sau khi được vinh danh, đã
không có bất cứ tổ chức, cá nhân hay cơ quan quản lí nhà nước nào quan tâm
việc phục dựng một trong những nghệ thuật gốc quan trọng bậc nhất của ca
trù do cha ông đã sáng tạo và để lại, đó là nghệ thuật hát cửa đình. Sau thời
66
gian tìm tòi cả trong tư liệu văn bản, tư liệu Hán Nôm, những bản ghi âm và
tìm hiểu từ với lớp nghệ nhân cũ, hiện chỉ còn duy nhất nghệ nhân Nguyễn
Phú Đẹ nhớ được trình thức hát cửa đình. Theo nghệ sĩ Bạch Vân, Cụ Đẹ là
kép đàn duy nhất còn sống từng thực hành hát cửa đình vùng Hải Dương thời
xưa và có thể giúp phục dựng lại hình thức hát độc đáo này [Phỏng vấn sâu
T12.2014]. Không có nguồn tài trợ nào, chỉ có sự trăn trở và nỗi lo mất đi
vĩnh viễn hình thức hát cửa đình, CLB ca trù Hải Phòng đã tích cực chủ động
tìm đến nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ và bắt đầu phục dựng trong 6 tháng cuối
năm 2014. Lối hát cửa đình được phục dựng với 14 thể cách chia làm 5 lớp
diễn, bắt đầu từ màn múa Tứ linh từ ngoài sân đình, dàn nhạc bát âm trước
cửa và 14 thể cách, các ca nương và đào kép của CLB Hải Phòng đã thu hút
đông đảo công chúng đón xem.
Tuy nhiên, việc phục dựng thành công canh hát cửa đình thực chất mới
chỉ là nỗ lực của cá nhân cụ Nguyễn Phú Đẹ và vài chục nghệ nhân ca trù
thuộc CLB ca trù Hải Phòng. Nhưng rõ ràng, nếu như CLB, giáo phường ca
trù nào trên cả nước cũng quan tâm đến việc phục dựng lối hát cổ để gìn giữ
cho muôn đời sau như CLB Hải Phòng thì chắc chắn, bảo tồn ca trù đã ngày
càng tốt hơn. Đây cũng chính là cách thức bảo tồn, là mô hình phục dựng với
cách tiếp cận trực tiếp với nghệ nhân lão thành mà các CLB, giáo phường ở
Hà Nội cần quan tâm.
- Tỉnh Hà Tĩnh
Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh đã đúc kết được các vấn
đề trọng tâm trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù của tỉnh Hà Tĩnh
như sau:
Thứ nhất, là phải thống kê được số lượng nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù. Hạn
chế của ca trù chính là nó chỉ có một bộ phận công chúng hâm mộ, ít phổ cập,
số lượng người hâm mộ ít. Bên cạnh đó, ca trù là loại hình nghệ thuật truyền
67
khẩu, do mai một hàng trăm năm, nên việc tìm lại những nghệ nhân, những
đào nương bậc thầy có nhiều năm được đào tạo một cách nghiêm chỉnh trong
dòng họ ca trù cổ xưa để truyền lại cho hậu thế là vô cùng phức tạp, khó khăn.
Hơn nữa, bản thân các nghệ nhân này trong hàng chục năm qua mặc cảm với
thái độ của xã hội cũ nên không xuất đầu lộ diện. Hơn nữa, việc thuyết phục
các nghệ nhân biểu diễn cũng rất khó (thực tế này rất rõ ở Kỳ Anh). Đó là vấn
đề khó nhất trong việc đi tìm nghệ nhân. Bên cạnh đó, sau khi tìm được đào
nương giỏi thì phải tìm được những kép đàn giỏi, mà thực tế lại rất hiếm.
Thứ hai là song song với việc tìm nghệ nhân thì phải xây dựng lại "giáo
khoa về ca trù". Tuy nhiên sách vở, thư tịch còn lại giúp ích cho việc nghiên
cứu ca trù phần lớn chỉ dựng lại được lịch sử hình thành và phát triển, còn
những sách dạy học ca trù như thế nào thì hầu như không có. Việc truyền dạy
ca trù phần lớn thông qua hình thức truyền khẩu nên việc tam sao thất bản
không phải là ít. Vì vậy, chúng ta nên mời các cụ nghệ nhân biểu diễn rồi thu
băng lại sau đó nghiên cứu định tính tập hợp và tìm cột cờ trong bó đũa, kết
hợp với các thư tịch cổ còn lại có liên quan đến ca trù đem đối chiếu so sánh
và chọn một mốc chuẩn trong việc tạo dựng thành một cuốn giáo trình dạy ca
trù thật hoàn chỉnh cả về đàn hát lẫn phách.
Thứ ba là khi đã có nghệ nhân và "giáo trình dạy ca trù rồi" thì phải tổ
chức đào tạo và tạo môi trường truyền khẩu, nhân rộng. Đó cũng chính là cái
gọi là không gian văn hóa để nuôi dưỡng ca trù. Ở Cổ Đạm, Nghi Xuân đã có
những hình thức đào tạo rất hay như: Các bà, các mẹ còn nhớ những bài hát
ca trù cổ xưa được ghi âm lại các làn điệu đó cho các đào nương trẻ tập luyện.
Các nghệ nhân kiểm tra nhịp phách, giọng hát của từng người, uốn nắn từng
ly từng tí, sau đó mới truyền nghề hát ca trù. Bên cạnh hình thức CLB, ở Nghi
Xuân đã thí điểm đào tạo các lớp múa, các lớp hát cho các học sinh phổ
thông. Từ mô hình ở Cổ Đạm Nghi Xuân, cần nhân rộng ra ở nhiều địa
68
phương và khi đã ổn định mô hình có thể đưa ca trù thành một môn học ngoại
khóa của các trường phổ thông trong toàn tỉnh.
Thứ tư là phải có cơ chế, chính sách cụ thể đối với việc bảo tồn, phát
huy giá trị ca trù ở Hà Tĩnh. Đó là kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị ca trù ở
Hà Tĩnh giai đoạn từ nay đến 2015; Các chính sách hỗ trợ về kinh tế; Chính
sách về đào tạo và tổ chức. Đặc biệt là xây dựng chương trình đào tạo chuẩn
về ca trù [Nguồn: Sở VH,TT&DL Hà Tĩnh].
Với những vấn đề trọng tâm trên, Hà Tĩnh hy vọng có thể sẽ thực hiện
được việc Bảo tồn và phát huy giá trị di sản ca trù bằng các hoạt động văn
hóa du lịch và thể nghiệm đưa ca trù vào trường học. Như vậy thì ca trù sẽ lại
quay trở lại và tiếp tục mang sứ mệnh tạo thành những nguồn cảm hứng bất
tận cho những nét đẹp của truyền thống văn hoá Hà Tĩnh.
- Tỉnh Hưng Yên
Tỉnh Hưng Yên có 3 CLB ca trù, nhưng UBND tỉnh và Sở VH,TT&DL
đã rất nỗ lực trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Theo kế hoạch
hành động về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể hát ca trù giai đoạn 2014-2020
của tỉnh, các Sở, ban, ngành liên quan, ủy ban nhân dân các huyện, thành phố
chủ động triển khai thực hiện một số nhiệm vụ giải pháp trọng tâm, bao gồm:
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch kiểm kê, nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hoá
di sản văn hoá phi vật thể hát ca trù. Trên cơ sở đó, đánh giá kết quả, dự báo
các tác động ảnh hưởng và thách thức trong công tác bảo tồn để đưa vào khai
thác sử dụng giá trị của hát ca trù.
Thứ hai, thường xuyên tuyên truyền, giới thiệu hát ca trù trong cộng
đồng để nâng cao nhận thức; quảng bá cho khách tham quan du lịch thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng, sách, báo, văn hoá phẩm và các
chương trình hoạt động ngoại khoá của các trường phổ thông và chuyên
nghiệp; chỉ đạo điểm một số CLB trên địa bàn thành phố Hưng Yên, huyện
69
Khoái Châu, Văn Giang tổ chức hoạt động biểu diễn hát ca trù để quảng bá,
đồng thời phục vụ khách theo tuyến du lịch sông Hồng, sau đó nhân rộng ra
toàn tỉnh. Tổ chức định kỳ liên hoan hát ca trù; tham gia các liên hoan hát ca
trù trong khu vực và toàn quốc.
Thứ ba, củng cố, duy trì hoạt động và thường xuyên kết nạp những thành
viên mới ở các CLB đã có; hướng dẫn thành lập CLB đối với những địa
phương chưa có CLB mà có người biết đàn, hát ca trù với yêu cầu mỗi CLB ít
nhất có 1 kép đàn, 2 đào, 1 quan viên thành thạo từ 2 làn điệu trở lên; duy trì
sinh hoạt, luyện tập thường xuyên để nâng cao chất lượng nghệ thuật, đủ khả
năng trình diễn phục vụ đông đảo các tầng lớp nhân dân và khách du lịch;
nghiên cứu, đề xuất thành lập Trung tâm Nghệ thuật truyền khẩu Phố Hiến
trong đó hát ca trù, hát Trống quân làm chủ đạo.
Thứ tư, hàng năm tổ chức các lớp huấn luyện nhằm phổ biến kiến thức
và truyền dạy, nâng cao trình độ cho các thành viên của các câu lạc bộ và hạt
nhân văn nghệ của một số địa phương trong tỉnh; cử và tạo điều kiện cho các
hạt nhân nòng cốt tham gia các lớp huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo ca trù do
Bộ VHTTDL tổ chức; khôi phục sinh hoạt hát, tế cửa đình để trình diễn phục
vụ lễ hội tại các di tích, ưu tiên các địa phương đã có truyền thống hát ca trù;
tổ chức trình diễn tại các lễ hội, hội thi, liên hoan hằng năm do tỉnh tổ chức;
khuyến khích truyền dạy theo phương pháp truyền thống và tự học qua băng,
đĩa, đài; đảm bảo mỗi CLB truyền thống biểu diễn trung bình 30 - 40
buổi/năm, mỗi buổi biểu diễn trung bình đạt 100 người xem trở lên.
Thứ năm, xây dựng hồ sơ đề nghị phong tặng các danh hiệu cho các
nghệ nhân; hỗ trợ các CLB ca trù duy trì sinh hoạt, truyền dạy và thực hiện
chế độ đãi ngộ cho các nghệ nhân cao tuổi được Nhà nước, Hội Văn nghệ dân
gian phong tặng danh hiệu [Nguồn: Sở VH,TT&DL Hưng Yên].
70
1.4.3. Một số bài học vận dụng cho bảo tồn, phát huy và cho hoạt động
biểu diễn ca trù tại Hà Nội
Từ kinh nghiệm của bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ
(một di sản cũng ở tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp như ca trù) và kinh nghiệm
bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù của các tỉnh, thành Hà Tĩnh, Hưng Yên,
Hải Phòng, có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm cho Hà Nội trong
bảo tồn và phát huy giá trị di sản ca trù nói chung và qua hoạt động cấp độ
CLB, giáo phường nói riêng như sau:
Thứ nhất, di sản ca trù Hà Nội cũng có mô hình các CLB, giáo phường
khá giống với mô hình tổ chức các CLB, phường Xoan ở Phú Thọ về tổ chức
hoạt động sinh hoạt CLB. Vì vậy, bên cạnh chương trình quốc gia về bảo vệ
di sản ca trù mà Hà Nội đang thực hiện với 6 nội dung đã được đề cập ở phần
mở đầu, Hà Nội nên học tập kinh nghiệm của Phú Thọ ở 2 nội dung: Học tập
kinh nghiệm tổ chức hoạt động sinh hoạt, bảo tồn, phục dựng cấp CLB,
phường Xoan Phú Thọ; Học tập những kết quả thành công mà các dự án
thành phần mà Phú Thọ đã hoàn thành giai đoạn 2013-2015.
Thứ hai, cả hai địa phương Hà Tĩnh và Hưng Yên đều tuân thủ rất tốt,
bám sát chương trình hành động Quốc gia về bảo vệ ca trù do Bộ VHTTDL
đã ban hành năm 2010. Vì vậy, để làm tốt, trước hết, Hà Nội cần phải bám sát
chương trình hành động này, nhưng phải biết vận dụng, áp dụng vào những
đặc điểm thực tế của Hà Nội. Ví dụ: các CLB, giáo phường nội thành có hoạt
động không giống với các CLB, giáo phường ngoại thành, nên cần có kế
hoạch, chiến lược hành động phù hợp với điều kiện của Hà Nội.
Thứ ba, các tỉnh đều rất quan tâm đến hoạt động kiểm kê nghệ nhân, tư
liệu, làn điệu, công tác phục dựng, truyền dạy, đào tạo,… tức là rất quan tâm
đến các yếu tố để phục vụ cho công tác bảo tồn. Tuy vậy, hoạt động phát huy
dù cũng đã được đề cập nhưng còn hạn chế do đặc thù của các CLB trong các
71
tỉnh này chỉ dừng ở việc sinh hoạt nội bộ trong cộng đồng làng thôn, cụm dân
cư, chưa phát huy nhiều qua hoạt động biểu diễn, có chăng chỉ là qua một số
chương trình giao lưu ở các trường học,… Điều này thì Hà Nội có thể áp
dụng thực tế vào những làng, thôn, giáo phường ca trù ngoại thành.
Thứ tư, Hà Tĩnh có mô hình đưa ca trù vào các trường học, đặc biệt là
vào trường nghệ thuật, Hà Nội có thể xem xét nghiên cứu mô hình này dựa
trên đặc thù của mình. Hải Phòng có mô hình phục dựng gắn với các nghệ
thuật ca trù cổ, ca trù Hà Nội cũng rất cần quan tâm đến cách tiếp cận này.
Nhìn chung, với đặc thù nhiều loại hình tổ chức hoạt động CLB, giáo
phường, Hà Nội sẽ khó học hỏi được theo một mô hình CLB nào của Hà Tĩnh
hay Hưng Yên, nhưng trên bình diện tổng thể, Hà Nội hoàn toàn có thể học
tập được những ưu điểm mà Hà Tĩnh, Hưng Yên đã thành công trong hơn 4
năm qua. Vì vậy, bài học vận dụng ở đây có thể nhận định là: khi đã trở thành
di sản thế giới thì điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để nó “sống” được
trong lòng công chúng, trong lòng du khách, trong lòng cộng đồng, tức là phải
phát huy được giá trị của di sản. Vấn đề này cho thấy, ca trù đã và đang tìm ra
được lời giải cho bài toán phát huy giá trị, bằng chính hình thức mà vốn dĩ
xưa kia cha ông ta đã sáng tạo ra, đó là mô hình tự dân gian diễn xướng
thông qua hoạt động biểu diễn (qua đó góp phần bảo tồn) ở các không gian
là các CLB, giáo phường.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đề cập đến cơ sở lý luận và tổng quan các vấn đề nghiên cứu
liên quan đến đề tài luận án là những vấn đề có tính bản lề, cơ sở để qua đó áp
dụng hệ thống lý thuyết, bản chất các khái niệm, các quan điểm vào trong
nghiên cứu luận án.
Việc nghiên cứu nội hàm di sản văn hóa phi vật thể và hệ thống khái
niệm liên quan đến nghệ thuật biểu diễn, diễn xướng, nghệ thuật truyền thống,
72
bảo tồn, phát huy di sản ca trù, lịch sử hình thành và phát triển của ca trù,
danh xưng trong nghệ thuật ca trù, những giá trị của di sản ca trù, những kinh
nghiệm và một số vận dụng vào bảo tồn, phát huy di sản ca trù là những vấn
đề cốt lõi, trọng tâm, có tính khái quát về lý luận, liên quan trực tiếp đến mục
đích nghiên cứu của đề tài luận án.
Các khái niệm, quan điểm được đưa ra nhằm làm rõ hơn những luận
điểm, bản chất của các vấn đề gắn với ca trù, giá trị di sản ca trù, không gian
văn hóa giáo phường, CLB của ca trù xưa và nay, những quan điểm về bảo
tồn, phát huy, phát triển bền vững, những xung đột, mâu thuẫn, những kinh
nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản…, nhằm liên kết các vấn đề cần
nghiên cứu trong luận án để tìm ra mô hình và giải pháp phát huy hiệu quả
hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội, góp phần bảo tồn,
phát huy giá trị di sản thế giới này.
Những khái niệm, quan niệm, danh từ riêng, một số thuật ngữ được tác
giả trích dẫn từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, hầu hết đều là những nguồn tư
liệu chính thống, đáng tin cậy, qua đó tổng hợp được các vấn đề và có sự liên
kết giữa các phần của chương.
Những vấn đề được nêu ra ở chương 1 có ý nghĩa thiết thực để kết nối
với những vấn đề ở chương 2 (tập trung vào thực trạng biểu diễn nghệ thuật
ca trù của một số CLB, giáo phường ca trù Hà Nội) và chương 3 (với những
vấn đề cần bàn luận, trao đổi cũng như tìm ra các giải pháp phù hợp, khả thi).
73
Chương 2
THỰC TRẠNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ
CỦA MỘT SỐ CÂU LẠC BỘ, GIÁO PHƯỜNG TẠI HÀ NỘI
2.1. Thực trạng hoạt động của một số CLB, giáo phường tại Hà Nội
2.1.1. Các loại hình tổ chức CLB, giáo phường tại Hà Nội
Bên cạnh các giáo phường ca trù nổi tiếng một thời nay không còn nữa
như giáo phường Tả Nghiêm (83 Phố Huế) hay trong giai đoạn Pháp thuộc
như giáo phường Khâm Thiên, giáo phường Kim Liên, giáo phường Cầu
Giấy, Ngã Tư Sở với các nhóm hát cô đầu, thì Hà Nội ngày nay có hàng chục
CLB, giáo phường ở cả nội và ngoại thành, được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất: Các giáo phường ca trù hoạt động theo tổ nghề truyền
đời những vẫn giữ được bản sắc giáo phường: giáo phường ca trù Lỗ Khê
(ngoại thành), giáo phường Thái Hà (nội thành); Hai giáo phường này cũng
đã thành lập các CLB ca trù Thái Hà, CLB ca trù Lỗ Khê để phục vụ việc sinh
hoạt văn hóa, biểu diễn giới thiệu là chính.
- Nhóm thứ hai: Các giáo phường ca trù xưa và bây giờ chỉ còn hoạt
động dưới hình thức CLB: giáo phường Đồng Trữ, Phượng Cách, Phú Đô,
Thượng Mỗ, Yên Nghĩa,... (đều ở ngoại thành Hà Nội);
- Nhóm thứ ba: Các giáo phường nhưng phát triển từ hình thức CLB
ngày nay thì chỉ có giáo phường Thăng Long;
- Nhóm thứ tư: Các CLB ca trù thành lập mới: CLB ca trù Hà Nội, trung
tâm văn hóa ca trù Thăng Long, CLB ca trù UNESCO, CLB ca trù Phú Thị,...
Xét về hoạt động tổ chức CLB, giáo phường ca trù, có thể chia thành 2
nhóm sau:
74
- Hoạt động hướng theo tổ nghề, để phần nào đạt được như giáo phường
xưa có các giáo phường, CLB thuộc nhóm 1, nhóm 3 và phần nào đó là các
CLB của các làng thôn ca trù ở nhóm 2.
- Hoạt động biểu diễn phục vụ du khách để phát huy giá trị di sản: Thời
gian qua, tổ chức hoạt động thiên về biểu diễn phục vụ du khách có giáo
phường ca trù Thăng Long, CLB ca trù Hà Nội, CLB ca trù Bích Câu Đạo
quán (trước đây), giáo phường ca trù Thái Hà, ...
Như vậy, có thể nói, trong các CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội thì
giáo phường ca trù Thái Hà và giáo phường ca trù Thăng Long chính là mô
hình phức hợp được cả 2 loại hoạt động trên, vừa bảo tồn, gìn giữ theo tổ
nghề, quan tâm đến phục dựng, truyền nghề, đào tạo bài bản, vừa khai thác,
phát huy, biểu diễn, quảng bá giá trị di sản.
Với các CLB, giáo phường hoạt động như ca trù như Thái Hà, Lỗ Khê,
Đồng Trữ, Yên Nghĩa,... có thể dễ nhận thấy, đây là những điển hình cho việc
gìn giữ vốn cổ của ca trù. Làng tổ nghề (giáo phường) ca trù Lỗ Khê dù có
nhiều biến động về thời gian, lịch sử và kinh tế, xã hội nhưng ca trù vẫn luôn
là cốt cách tinh thần của người dân Lỗ Khê. Đó là niềm tự hào của bao thế hệ
ở đây. Hoạt động truyền nghề và giữ gìn lề thói, hương ước ca trù của làng
vẫn được duy trì. Đây chính là giá trị quan trọng trong khía cạnh bảo tồn, cần
được quan tâm đúng mức của các cấp, ngành liên quan. Trong khi đó, giáo
phường ca trù Thái Hà chính là một tộc họ ca trù được gìn giữ bởi các gia
đình mà cụ Nguyễn Văn Mùi đứng đầu, lưu truyền qua hàng trăm năm vẫn cơ
bản giữ được bản sắc của một giáo phường ca trù theo nguyên gốc, với nền
nếp, gia phong, truyền thống và công tác duy trì truyền nghề cũng như gìn giữ
vốn ca trù cổ luôn được giáo phường quan tâm. Ca trù Đồng Trữ vẫn hy vọng
75
sẽ được phục dựng một phần như ngày xưa, để mãi xứng danh với câu ca lưu
truyền trong vùng:
Hỡi cô thắt dải bao xanh,
Có về Đồng Trữ với anh thì về.
Đồng Trữ có gốc cây đề,
Có vực tắm mát, có nghề cầm ca.
Bên cạnh đó là nhiều điển hình của việc bảo tồn, gìn giữ vốn cổ ca trù
khác tại Hà Nội.
2.1.2. Nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù với việc bảo tồn, phát huy di sản
Ở Việt Nam lâu nay đã có một số danh hiệu vinh danh nghệ nhân, nghệ
sĩ biểu diễn nghệ thuật hay các ngành nghề thủ công truyền thống. Chẳng hạn
các danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú dành cho các nghệ sĩ biểu
diễn nghệ thuật chủ yếu trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Việc Nhà nước
tôn vinh nghệ nhân cũng đã được đề cập đến trong Điều 26 chương III của
Luật di sản văn hoá, ghi rõ: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối
với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống,
bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt” [41,tr2].
Vào năm 2003, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã công nhận đợt I
danh hiệu Nghệ nhân Dân gian cho 15 người. Đến nay, đã có hàng trăm nghệ
nhân dân gian được Hội công nhận. Dù chưa phải là sự công nhận chính thức
từ cơ quan quản lý nhà nước, nhưng việc các nghệ nhân được phong tặng, tôn
vinh trong thời gian qua cũng đã phần nào khích lệ, động viên các nghệ nhân,
đặc biệt là những người lớn tuổi đang có nguy cơ mai một.
Năm 2009 (trước thời điểm UNESCO công nhận là di sản thế giới), cả
nước có 21 nghệ nhân ca trù tuổi cao ở độ 70 - 90 tuổi, hiện nhiều nghệ nhân
76
đã mất, chỉ còn khoảng vài nghệ nhân ca trù lão làng, trong đó riêng Hà Nội
chiếm khoảng 40-50% số lượng nghệ nhân. Tại Hà Nội, khi nghệ thuật ca trù
bắt đầu được quan tâm và khôi phục trở lại trong giai đoạn gần đây thì có khá
nhiều thế hệ nghệ nhân ở Hà Nội đã ra đi. Họ mang theo nhiều vốn tài sản là
những điệu, những giọng hát, những hiểu biết tường tận về không gian trình
diễn, về cách hát, cách đàn, cách múa, cách diễn trò ở những thời vàng son
nhất của nghệ thuật ca trù. Những người làm công tác sưu tầm âm nhạc Việt
Nam đã kịp thu thanh vào đĩa làm tư liệu giọng ca của các nghệ nhân lão làng,
nổi tiếng như Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Chúc, Nguyễn Thị Phúc, Phạm Thị
Mùi, Đinh Thị Bản, Phó Thị Kim Đức hay ghi lại những tiếng đàn, tiếng
trống chầu của các nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ, Nguyễn Văn Mùi. Hiện nay,
Viện âm nhạc cũng đã xuất bản đĩa hát hai giọng ả đào lừng danh là Nghệ sĩ
nhân dân Quách Thị Hồ (hát kiểu phồn hoa đô hội là lối hát hàng huê) và
Nghệ nhân dân gian Phạm Thị Mùi (hát chân quê là lối hát khuôn). Đây có
thể coi là những tài sản âm thanh vô giá giúp tìm hiểu, nghiên cứu những sắc
thái riêng của ca trù Hà Nội. Nó còn là căn cứ giúp phục hồi đúng phong cách
ca trù Hà Nội do các nghệ nhân ở thế hệ cuối cùng tiếp thu của cha ông và
sáng tạo trong quá trình hành nghề.
NSND Quách Thị Hồ (1909-2001) quê ở làng Ngọc Bộ, xã Long Hưng,
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà là đào nương duy nhất của ca trù được
nhà nước phong tặng danh hiệu NSND và cũng là nghệ sĩ ca trù duy nhất ở
Việt Nam được trao tặng giải thưởng tại Liên hoan quốc tế Âm nhạc truyền
thống Châu Á, tổ chức tại Bình Nhưỡng năm 1983. Rời làng quê lên Hà Nội
lập nghiệp khi mới mười tám đôi mươi, chỉ hơn năm sau, bà đã trở thành đào
nương nổi tiếng bởi giọng hát cao sang và tài ứng đối thơ phú mỗi khi ngồi
vào chiếu hát. Bà là người đại diện số một của phong cách hát hàng huê, lối
hát bay bướm, xử lý câu chữ tiếng đàn khi to nhỏ, lúc nhanh chậm, khi bổng
77
khi trầm hòa quyện, tạo ra cảm giác có nhịp mà như không, như không mà có
nhịp, khuôn phép đấy mà không gò bó. Bà là người nghệ sĩ đạt tới đỉnh cao
của tay phách, đỉnh cao của lối hát nảy hạt ca trù đưa ca trù trở thành nghệ
thuật thanh nhạc bất hủ. Là người nghệ sĩ sinh ra từ ca trù, lớn lên và trưởng
thành từ ca trù, bà không tham gia vào các loại hình nghệ thuật truyền thống
khác, điều đó đã giúp bà giữ gìn trọn vẹn giọng ca trù để ngày nay muốn so
sánh sự khác nhau về phong cách hát ca trù với các loại hình ca hát truyền
thống khác chúng ta có đủ căn cứ để đối chiếu. Có thể nói, NSND Quách Thị
Hồ đã gắn cả cuộc đời mình với nghiệp cầm ca. Bà đã góp phần quan trọng
trong việc bảo tồn, phát huy di sản ca trù, đặc biệt là gìn giữ và truyền lại cho
đời sau vốn cổ ca trù quý giá mà bà đã tích lũy được sau nhiều năm cống
hiến.
Nghệ nhân Phạm Thị Mùi (1919 - 2005), nguyên quán thôn Lỗ Khê, xã
Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Bà là người tiêu biểu cho phong cách Hát
khuôn của giáo phường Lỗ Khê. Những điệu Hát mở, Hát giai, Hát lót, Bỏ bộ,
Hát phú là những thể cách âm nhạc hát nghênh thần do vậy buộc đào kép phải
hát khuôn để đảm bảo tính nghiêm trang của lễ thức. Hát khuôn là hát nhịp
điệu khuôn phép, phách đánh rõ ràng, ngân nga láy luyến không thừa, không
được hát “õng ẹo”, chỉ những người chuyên hát cửa đình như bà mới thể hiện
hết cái thần của lối hát khuôn. Vào những năm cuối đời bà đã kịp truyền lại
một số thể cách hát và hát múa cho con cháu trong CLB ca trù Lỗ Khê.
Người học trò cưng của bà là cô đào Phạm Thị Mận, cô đào sáng giá của Lỗ
Khê hôm nay, đã thừa hưởng được một phần gia tài nghệ thuật ca trù cửa đình
của bà truyền lại.
Sau những lão làng ca trù Việt Nam và Hà Nội là các nghệ nhân Quách
Thị Hồ, Phạm Thị Mùi, Nguyễn Phú Đẹ,… giới ca trù Hà Nội ngày nay còn
nhiều nghệ nhân, nghệ sỹ tài danh khác như: nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi
78
giáo phường ca trù Thái Hà, Nguyễn Thị Vượn sinh năm 1927, nghệ nhân
Nguyễn Thị Khiếu sinh năm 1928 ở Chanh Thôn, xã Văn Nhân, huyện Phú
Xuyên, Hà Nội; NNDG Nguyễn Thị Chúc sinh năm 1930, NSƯT Phó Thị
Kim Đức, sinh năm 1931, ở thôn Ngãi Cầu, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Họ
đang là những bậc thầy truyền dạy nghệ thuật ca trù trong các CLB như: CLB
ca trù Tràng An, CLB ca trù Thăng Long, CLB ca trù Chanh Thôn….
Bên cạnh những nghệ nhân ca trù cao tuổi còn có sự đóng góp rất lớn
của các nghệ sĩ thế hệ sau đó như Lê Thị Bạch Vân, Phạm Thị Huệ, Nguyễn
Thị Thúy Hòa, Phạm Thị Mận,… Đây đều là những ca nương chính của các
CLB ca trù trên địa bàn Hà Nội, trong đó, NSƯT Lê Thị Bạch Vân là chủ
nhiệm CLB ca trù Hà Nội. Sau hơn 30 năm đằng đẵng theo nghiệp ca trù,
nghệ sĩ Bạch Vân nổi danh là ca nương hàng đầu đất Hà thành. Mọi kỹ thuật
của ca trù, từ cách lấy hơi, nhả chữ, nhả câu, chuốt phách cho nảy, giòn, cho
tình tứ đến những kỹ thuật khó, những bài hát cổ và cả những thần thái của ca
nương, nghệ sĩ Bạch Vân đều được các nghệ nhân tài danh như NSND Quách
Thị Hồ, NSƯT Phó Thị Kim Đức hết lòng truyền dạy. Nghệ sĩ Bạch Vân đã
cùng cụ Chu Văn Du, Phó quản ca giáo phường Khâm Thiên xưa (nay đã
không còn tồn tại), nghệ nhân đàn đáy đồng thời là thầy dạy lúc đó thành lập
nên CLB ca trù Hà Nội và phát triển cho đến hôm nay. Ca nương Phạm Thị
Huệ là chủ nhiệm CLB ca trù Thăng Long. Vốn là giảng viên bộ môn nghệ
thuật đàn tỳ bà, Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam, với đam mê nghệ thuật
ca trù, ca nương Phạm Thị Huệ đã xin theo học và trở thành một trong những
học trò xuất sắc nhất của NNDG Nguyễn Thị Chúc và NNDG đàn đáy
Nguyễn Phú Đẹ. Phạm Thị Huệ không chỉ là một đào nương tài sắc vẹn toàn
mà còn là nghệ sĩ ca trù duy nhất từ trước đến nay có khả năng vừa đàn vừa
hát. Năm 2011, ca nương Phạm Thị Huệ đã được tổ chức World Master ghi
danh tên tuổi vào danh mục Nghệ nhân thế giới của tổ chức này. Sinh ra trong
79
một gia đình có truyền thống là giáo phường Ca trù Thái Hà và là đệ tử học
được nhiều điều nhất từ cố NSND Quách Thị Hồ, Thúy Hòa vẫn luôn được
đánh giá là một giọng ca hay, đẹp của ca trù Hà Nội cũng như cả nước.
Liên hoan ca trù toàn quốc 2014 đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng
công chúng với nhiều gọng hát nhỏ tuổi tham gia. Một liên hoan toàn quốc
mà có tới 30% nghệ sĩ tham gia là các cháu nhỏ dưới 14 tuổi cho thấy ca trù
đã thực sự đang được chính các CLB, giáo phường, làng thôn ca trù ở mọi
miền đất nước quan tâm, đào tạo và vun vén. Có cháu nhỏ 4 tuổi đã biết cầm
chầu đánh trống để biểu diễn trong liên hoan khiến người xem vô cùng ngạc
nhiên. Nhiều cháu nhỏ không chỉ hát được một số thể cách ca trù cổ, mà còn
biết múa bỏ bộ khá điêu luyện. Trong đó, lượng nghệ sĩ trẻ ca trù của Hà Nội
cũng chiếm tới 40%. Thế hệ đào nương trẻ có ca nương Nguyễn Kiều Anh,
thứ hệ thứ bảy của CLB ca trù Thái Hà (giải vàng Liên hoan ca trù toàn quốc
lần I năm 2005, giải A Liên hoan Dân ca toàn quốc năm 2009 và một số giải
vàng tại các cuộc thi do Thành phố Hà Nội tổ chức), ca nương nhí Nguyễn
Huệ Phương (con gái của nghệ sĩ Phạm Thị Huệ, Huy chương bạc Liên hoan
ca trù toàn quốc; Giải Ba cuộc thi Đàn hát dân ca năm 2008; Giải Nhì Đàn hát
dân ca năm 2009; Giải Nhì Liên hoan CLB ca trù toàn quốc 2009 cùng rất
nhiều giải thưởng tập thể).
Bảng 2.1. Số lượng nghệ nhân và nghệ sỹ tên tuổi trực tiếp tham gia
hoặc cộng tác cho CLB, giáo phường tại Hà Nội
Tên CLB
STT 1 2 3 4 5 CLB ca trù Hà Nội Giáo phường ca trù Thái Hà Giáo phường ca trù Thăng Long Giáo phường ca trù Lỗ Khê CLB ca trù Chanh Thôn Số nghệ nhân, nghệ sỹ 6 6 9 10 7
Nguồn: Tổng hợp điều tra của NCS, năm 2014
80
Vấn đề chính là nếu nhìn vào số lượng nghệ nhân, nghệ sĩ tên tuổi của
bảng trên thì có thể thấy rằng, ca trù Hà Nội đang được phục hồi và phát triển
tốt khi mà vẫn còn nhiều tên tuổi nghệ nhân, nghệ sĩ tham gia trực tiếp hoặc
cộng tác cho các CLB, giáo phường. Nhưng thực tế là có những nghệ sĩ ca trù
có thâm niên trong nghề thì vừa cộng tác cho CLB này, vừa tham gia hoạt
động biểu diễn cho CLB, giáo phường kia, trong khi số lượng nghệ sĩ trẻ
được đào tạo bài bản lại quá ít, nên nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù vẫn là lực lượng
chính để bảo tồn nghệ thuật này. Họ chính là những thế hệ nghệ nhân, đào
nương, kép đàn ca trù tên tuổi, có thâm niên lâu năm hoặc chí ít cũng theo
nghiệp ca trù hàng chục năm. Thực tế cho thấy, thế hệ “đại thụ” của ca trù đã
không còn nhiều, các bí kíp đàn, hát phần nào đã bị mất, bị mai một, nhưng
vẫn rất cần nuôi dưỡng, rèn giũa một thế hệ trẻ tài năng và hết lòng đam mê
ca trù thì mới mong góp phần để ca trù không còn xếp vào hàng “cần được
bảo vệ khẩn cấp” nữa.
Tại Liên hoan ca trù toàn quốc năm 2014, Chủ nhiệm CLB ca trù
Thượng Mỗ Nguyễn Thị Tam cho biết: Để thành nghề, các ca nương, kép đàn
phải mất ít nhất 5 năm khổ luyện, và ngoài sự khổ luyện, đòi hỏi rất nhiều yếu
tố khác như quan viên (người đánh trống chầu) vừa phải có trình độ thẩm âm,
vừa phải am hiểu văn học vì tiếng trống chầu trong ca trù như lời bình phẩm
cả tiếng phách, tiếng hát, tiếng đàn và lời thơ, còn đào nương ngoài việc học
đàn, học múa, học phách, học ca phải có con mắt thơ, tâm hồn thơ để luyến
láy cho tròn, cho thể hiện được đầy đủ cung bậc cảm xúc của lời hát. Do đó,
ca trù là một trong những môn nghệ thuật kén người học. Đây chính là
nguyên nhân cơ bản khiến ca trù Thượng Mỗ nói riêng, các CLB ca trù truyền
thống nói chung sẽ gặp rất nhiều khó khăn để phục dựng ca trù ngay tại làng,
thôn của mình [Phỏng vấn sâu, Tháng 8.2014].
81
Cũng hoàn cảnh đó, xót xa, đau đáu trước sự mai một của nghề tổ,
những bậc cha chú của dòng họ Nguyễn Duy (dòng họ truyền đời của tổ nghề
ca trù giáo phường Thượng Mỗ xưa, làng Thượng Mỗ ngày nay) đã dành
không ít công sức, tiền của trong thời gian qua để mở lớp truyền dạy ca trù
miễn phí cho những ai yêu môn nghệ thuật truyền thống này. Con cháu trong
làng học thì khuyến khích, người ngoài yêu thích mà muốn học thì càng
khuyến khích hơn. Với phương châm học ra học, chơi ra chơi, học từ gốc, căn
bản đến những bài ca trù khó nhất, sau khoảng 7 năm từ ngày bắt đầu đào tạo
năm 2007, đến nay CLB ca trù Thượng Mỗ đã có hơn 30 thành viên và những
thành viên đó đều là các nghệ sĩ trẻ của CLB.
2.1.3. Công tác giữ gìn, đào tạo và phục dựng di sản ca trù
Giáo phường ca trù Thăng Long hiện là nơi mà có nhiều nghệ nhân,
nghệ sĩ ca trù ở Hà Nội và các tỉnh lân cận tham gia với tư cách thành viên
hoặc cộng tác viên dài hạn nhất. Một trong những lý do cơ bản là chủ nhiệm
giáo phường là nghệ sĩ Phạm Thị Huệ luôn rất quan tâm đến việc tìm cách
khôi phục lại những hoạt động hay nền nếp của giáo phường trước đây. Đó là
hoạt động tìm lại các văn tự cổ ca trù xưa nói về tổ chức phường hội, giáo
phường để chắt lọc cách vận hành giáo phường mà cha ông đã dày công gây
dựng những mô hình cổ để áp dụng vào giáo phường ngày nay trong bối cảnh
xã hội hiện đại. Dù không có được cái danh là “tổ nghề ca trù Bắc Bộ như Lỗ
Khê, hay đất tổ ca trù Bắc Trung Bộ làng Cổ Đạm, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, hay
một họ tộc ca trù truyền thống hàng trăm năm như giáo phường ca trù Thái
Hà, nhưng giáo phường ca trù Thăng Long vẫn coi việc tìm lại vốn cổ để bảo
tồn, gìn giữ là ưu tiên hàng đầu, bên cạnh việc duy trì hoạt động biểu diễn
theo mô hình một CLB.
82
Trong khi đó, đất tổ ca trù Lỗ Khê thì vẫn còn giữ được truyền thống của
một làng (giáo phường) ca trù theo nếp xưa. Làng cổ ca trù Lỗ Khê (Đông
Anh, Hà Nội) hàng năm, cứ đến dịp đầu năm lại làm lễ giỗ tổ ở nhà thờ ca
công, nơi được coi như là không gian linh thiêng nhất của làng thờ ông tổ ca
trù. Lỗ Khê có truyền thống giáo phường, có nền nếp gia phong, có gia phả
các họ tộc ca trù trải qua nhiều thế hệ. Lỗ Khê cũng là nơi còn lưu giữ nhiều
tư liệu về ca trù theo thể thơ, văn xuôi, đàn, phách cổ,…
Các CLB, giáo phường như Thái Hà, Thăng Long, Lỗ Khê, Chanh Thôn,
Đồng Trữ, Yên Lộ... cũng rất chú trọng tập trung vào việc bảo tồn, gìn giữ giá
trị nguyên gốc của ca trù cổ, bao gồm chủ yếu các hoạt động sau:
- Giữ gìn nề nếp, gia phong, cốt cách ca trù thông qua việc xây dựng
hương ước, trông giữ những tư liệu ca trù quý, đào tạo, truyền nghề cho con
cháu,... theo hướng một giáo phường ca trù gốc vẫn thường xuyên làm.
- Dựng lại các bài khúc vũ cổ để rèn dạy con cháu, vì đó là ca trù cổ, ca
trù gốc mà đã bị mai một nhiều sau nhiều thế kỉ.
- Biểu diễn và tham dự các chương trình giao lưu ca trù, liên hoan ca trù,
quảng bá ca trù ở nước ngoài.
- Truyền dạy hát cửa đình, hát nhà tơ,... tới các đình làng cổ nội thành Hà
Nội và những nơi có nhu cầu.
Một trong những nghệ nhân đàn đáy hàng đầu Việt Nam đã ngoài 90
tuổi như cụ Nguyễn Phú Đẹ, dù đã rất yếu nhưng hàng ngày vẫn dành những
tâm huyết và sức lực ít ỏi còn lại để quan tâm đến vấn đề phục hưng nghệ
thuật ca trù cho đất nước và cho Hà Nội. Tại Liên hoan ca trù toàn quốc 2014,
cụ Nguyễn Phú Đẹ đã đến dự cả chương trình khai mạc và cụ đã rất vui về
những gì các thế hệ con, cháu, chắt đang thể hiện trên sân khấu, đặc biệt là cái
nôi ca trù của cả nước - Thủ đô Hà Nội. Theo nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Đặng
83
Hoành Loan, trước kia, ngoài khoảng hai mươi nghệ nhân, thì có rất ít người
biết hát ca trù. Đến nay, dù mười bảy, mười tám nghệ nhân trong số đó đã mất
nhưng chúng ta đã xây dựng được đội ngũ kế cận khoảng 300 người, trong đó
có nhiều ca nương, kép đàn trẻ ở Hà Nội. Riêng với các ca nương trẻ, lúc đầu
họ chỉ biết hát có 3 điệu cơ bản đó là: Hát nói, hát xẩm, hát ru, nhưng hiện
nay họ đã biết hát tới 12 điệu trong khi tổng thể ca trù chỉ có trên 40 điệu ca
trù. Đấy là chưa kể, trước năm 2005, cả nước chỉ có 2 tay đàn thực thụ, thì
nay đã có 8 tay đàn chắc chắn [phỏng vấn sâu, T8.2014].
Những kết quả trên đã chứng tỏ được năng lực hồi sinh của ca trù và hơn
hết là sự nỗ lực rất lớn của những người nắm giữ di sản quý báu này, trong đó
có vai trò của các nghệ nhân và các CLB, giáo phường Hà Nội. Làng ca trù
Lỗ Khê và Chanh Thôn cũng là những làng ca trù nổi tiếng với việc truyền
dạy ca trù và cung cấp cho một số CLB, giáo phường ở nội thành Hà Nội
tham gia biểu diễn nhiều tài năng nhất. Giáo phường cũng đã và đang xây
dựng chính sách đào tạo nghệ nhân trẻ để một ngày, các thế hệ tương lai sẽ
không bỡ ngỡ để tiếp thu và phát huy được tài năng.
Hoạt động truyền nghề cho con cháu của các CLB, giáo phường ca trù
Hà Nội trong thời gian qua đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Từ chỗ, tại các
không gian biểu diễn ca trù như ở Bích Câu Đạo quán từ năm 1991 - 2000 chỉ
có các cụ nghệ nhân, các nghệ sĩ lớn tuổi biểu diễn phục vụ khách, thì hiện
nay, ở các điểm biểu diễn trong nội thành Hà Nội, các nghệ sĩ trẻ đã chiếm tỷ
lệ 60%. Nguyên nhân bảo tồn thì đã rõ, nhưng một trong những nguyên nhân
quan trọng đó là người nghệ sĩ biểu diễn không chỉ có “thanh” mà còn phải
có “sắc”, dù nghề tổ ca trù luôn dạy các con cháu học ca trù là “nhất thanh,
nhị sắc”. Vì đòi hỏi của thời cuộc, để đáp ứng phục vụ du khách nên ở CLB
ca trù Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng Long, số lượng nghệ sĩ trẻ lên sập
gỗ ngồi hát, ngồi đàn, ngồi cầm chầu ngày một tăng. Bên cạnh đó, các CLB,
84
giáo phường này không chỉ tuyển chọn các ca nương có giọng hát hay ở ngoại
thành hay các tỉnh lân cận, mà còn phải có thêm nhan sắc, xinh đẹp để du
khách đến với không gian ca trù phố cổ sẽ không chỉ “nghe”, mà phải “xem,
ngắm, nhìn” nữa.
Mặt khác, bên cạnh việc trẻ hóa, các giáo phường, CLB ở Hà Nội cũng
đã rất quan tâm đến việc đào tạo các thế hệ trẻ đang ở độ tuổi mẫu giáo, tiểu
học. Liên hoan ca trù toàn quốc 2014, Hà Nội giới thiệu tại Liên hoan 1 bé
trai 5 tuổi biết đánh trống chầu, 1 ca nương 6 tuổi hát chính cho 1 bài ca trù
của giáo phường Lỗ Khê, 1 dàn ca nương, hát múa bỏ bộ chỉ tầm 10 tuổi của
giáo phường Thăng Long, hay những cháu, chắt của cụ Nguyễn Văn Mùi (chủ
nhiệm giáo phường ca trù Thái Hà) cũng thể hiện rất tuyệt vời trên sân khấu,
điển hình là ca nương trẻ Kiều Anh.
Hoạt động truyền nghề, đào tạo nghề của các giáo phường thường được
chú trọng, quan tâm hơn các CLB trong phạm vi nội thành Hà Nội. Điển hình
là các giáo phường Thái Hà, Lỗ Khê, Thăng Long thời gian qua đã luôn quan
tâm đến đào tạo, truyền nghề và giúp thế hệ trẻ củng cố, hiểu biết giữ gìn nền
nếp, lề thói của giáo phường, trong khi CLB ca trù Hà Nội thì hầu như chỉ tập
trung vào khía cạnh phát huy giá trị di sản. Các giáo phường rất quan tâm đến
việc dựng lại các bài ca cổ, thể phách cổ, khúc vũ cổ để rèn dạy con cháu, vì
đó là ca trù cổ, ca trù gốc mà đã bị mai một nhiều sau nhiều thế kỉ. Việc quan
tâm này được nhìn nhận như một tín hiệu tích cực trong việc bảo tồn giá trị di
sản ca trù vì ở khía cạnh phát huy, nếu sử dụng các khúc vũ, thể phách, bài ca
cổ để biểu diễn thì rất khó đến được với du khách, công chúng, mà vẫn phải
biểu diễn những bài ca, điệu múa có nét mới.
Theo nghệ sĩ Bạch Vân, một em nhỏ muốn học được đầy đủ nhất những
tinh túy của ca trù thì sẽ học cả đời, nhưng để biểu diễn được, để các nghệ
85
nhân yên tâm cho trình diễn thì phải mất từ 3 - 5 năm. Khó nhất vẫn là ca
nương vì ngoài giọng hát, còn phải nhớ các thể cách, các làn điệu cổ, làn điệu
mới, đặc biệt là nhịp phách, nhịp gõ [Phỏng vấn sâu, tháng 5.2013].
2.1.4. Thực trạng tổ chức hoạt động biểu diễn nghệ thuật của một số
CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội
Hiện nay, tại Hà Nội, khu vực phố cổ và nội thành có 2 CLB, giáo
phường nổi bật nhất trong làng ca trù Thủ đô được đề cập đến thường xuyên
trên báo chí và được du khách quan tâm, đến thưởng thức, đó là CLB ca trù
Hà Nội (địa điểm biểu diễn ở số 42-44 Hàng Bạc) của nghệ sĩ Bạch Vân làm
chủ nhiệm và Giáo phường ca trù Thăng Long (địa điểm biểu diễn giai đoạn
2011-2014 ở nhà cổ số 87 Mã Mây, từ đầu năm 2015 đến nay là đền Quan Đế
số 28 Hàng Buồm) do nghệ sĩ Phạm Thị Huệ làm chủ, và phần nào đó là giáo
phường ca trù Thái Hà (địa điểm biểu diễn tại gia tộc ở số 72 Thụy Khuê) do
nghệ nhân trống chầu nổi tiếng Nguyễn Văn Mùi làm chủ.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, điền dã, phỏng vấn sâu, quan sát trực tiếp với
vai trò khán giả và như một nhà nghiên cứu, NCS nhận thấy dù cho đây là các
đơn vị hoạt động đều đặn nhất Hà Nội, hay theo thuật ngữ của giới biểu diễn
nghệ thuật thì là “đỏ đèn” thường xuyên, nhưng thực tế, các CLB, giáo
phường này hoạt động khá khó khăn và luôn phải tự mày mò, tìm hướng đi
cho mình. Xuất phát điểm là Nhóm ca trù Việt, các nghệ sĩ, nghệ nhân đã
thành lập nhóm với mong ước được chia sẻ với nhau, đồng thời để giới thiệu
cho du khách, giữ nghề cha ông bao đời truyền lại. Sau đó, thành lập Trung
tâm văn hóa ca trù Thăng Long, có nhà hát riêng, khang trang, được đầu tư và
làm bài bản tại số 25 Tông Đản. Nhưng do những mâu thuẫn không thể khắc
phục, mỗi người đường ai nấy đi.
86
Hiện nay, nếu xét trên khía cạnh phát huy, giới thiệu, quảng bá giá trị di
sản thế giới ca trù thì mô hình các CLB ca trù là mô hình phổ biến, và có hiệu
quả nhất. Tuy vậy, vai trò bảo tồn đối với các CLB ca trù chưa được chú
trọng, vì hầu hết các CLB ở nội thành Hà Nội được thành lập thời gian qua
vẫn mang tính thương mại, hoặc có đào tạo nhưng chưa thực sự có hệ thống,
bài bản, khuôn cách như trước đây, nên để tìm được mô hình có được cả 2
yếu tố bảo tồn và phát huy thì không hề dễ dàng. Vai trò bảo tồn giá trị, nghệ
thuật, tính nguyên gốc, tính cộng đồng thuộc về các CLB, giáo phường ca trù
ở các thôn, xóm ngoại thành là chủ yếu, trong khi vai trò phát huy giá trị phần
lớn thuộc về các CLB, giáo phường ca trù nội thành, bởi có như vậy mới giới
thiệu, quảng bá được ca trù đến với bạn bè thế giới.
Hoạt động của phát huy, quảng bá của CLB ca trù Hà Nội, giáo phường
ca trù Thăng Long và giáo phường ca trù Thái Hà chủ yếu tập trung vào:
- Biểu diễn nghệ thuật ca trù phục vụ du khách tại 2 địa điểm chính ở
phố cổ Hà Nội và tại chính không gian giáo phường ca trù Thái Hà.
- Biểu diễn tại những nơi khách có nhu cầu và các chương trình quảng
bá, biểu diễn ở nước ngoài.
- Xây dựng thương hiệu, marketing, quảng bá sản phẩm để các đối tác
gửi khách đến và du khách đi lẻ biết đến và thưởng thức.
- Phối hợp với các làng, thôn, phường ca trù lâu đời trên địa bàn Hà Nội
như làng ca trù Lỗ Khê, làng ca trù Chanh Thôn, làng ca trù Ngãi Cầu, An
Khánh, Đồng Trúc, Yên Lộ và một số làng thôn, CLB ca trù ở các tỉnh lận
cận như Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang,... để tìm nguồn nghệ nhân tài
năng, đào tạo, truyền nghề cho thế hệ trẻ.
Có thể khẳng định, ở khía cạnh phát huy, quảng bá ca trù thì các CLB,
giáo phường ca trù hiện nay đang hoạt động đã có những đóng góp to lớn.
87
Vấn đề là, khi hầu như du khách đến xem biểu diễn đều là khách quốc tế thì
đồng nghĩa khía cạnh phát huy giá trị, quảng bá sẽ ra sao nếu chính người
Việt chúng ta đứng ngoài cuộc? Những gì các CLB, giáo phường ca trù đã
làm trong suốt thời gian qua với nội lực, sự yêu nghề, tận tâm để đem ca trù
đến được với bạn bè thế giới là rất đáng trân trọng và ghi nhận. Nhìn chung,
Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cần phát huy hơn nữa các điểm biểu
diễn, giới thiệu văn hóa truyền thống như thế, để qua đó, phát huy giá trị di
sản trong hoàn cảnh bài toán bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể ca trù của chúng ta vẫn đang gặp nhiều khó khăn và lại không có một
không gian chuẩn là nhà hát di sản ca trù.
Dù cho, trong cuộc sống hiện đại với bộn bề lo toan thì việc các CLB ca
trù Hà Nội, giáo phường ca trù Thăng Long thực hiện chức năng quảng bá,
phát huy, đưa yếu tố thị trường vào trong hoạt động biểu diễn để du khách,
công chúng biết đến nhiều hơn cũng là điều đáng trân trọng, bởi có như vậy
thì các CLB, giáo phường đó mới sống, “đỏ đèn” , duy trì và phát triển được.
Không những thế, một yếu tố quan trọng khác để phát huy giá trị di sản
ca trù chính là việc quảng bá qua các chương trình khác, ngoài không gian
biểu diễn hàng ngày ở phố cổ của các CLB, giáo phường. Trong nhiều năm
qua, Giáo phường Thái Hà còn là một điểm “biểu diễn lưu động” rất hiệu quả.
Giáo phường Thái Hà thường xuyên được các tổ chức quốc tế, các liên hoan
văn hóa, Festival du lịch,… mời tham dự và biểu diễn ở châu Âu, Mỹ, Úc,
Nhật Bản để giới thiệu di sản ca trù, đặc biệt là từ khi ca trù được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. CLB ca trù
Hà Nội thì thường xuyên được các Đại sứ quán các nước tại Hà Nội mời đến
biểu diễn ngay tại không gian sứ quán. Trong đó, có trường hợp đặc biệt như
ngài đại sứ Israel đã mê ca trù đến nỗi, ông quyết định làm thẻ hội viên CLB
88
ca trù Hà Nội và thường xuyên giới thiệu bạn bè, khách du lịch đến từ đất
nước của ông đến xem, nghe ca trù.
Không thể không nhắc đến yếu tố thương mại, thị trường cũng đã len lỏi
vào những CLB, giáo phường, làng ca trù cổ, bởi đó là yếu tố tất yếu. Các
nghệ nhân ca trù cổ ở Lỗ Khê, Chanh Thôn, Thái Hà, Thăng Long... ngoài
thời gian đào tạo, truyền nghề, biểu diễn tại nhà, tại đình làng, vẫn phải dành
thời gian đi biểu diễn, tham gia các nhóm ca trù để kiếm thêm thu nhập. Với
các nghệ nhân, điều quan trọng nhất là phải bảo tồn và phát huy được di sản
độc đáo, đảm bảo tính bền vững và tính lan tỏa trong cộng đồng, trong đời
sống hàng ngày.
2.1.4.1. Lịch biểu diễn ca trù hàng ngày
Trong bối cảnh cạnh tranh với nhiều vấn đề khó có thể đi đến thống nhất,
nhưng cả hai đơn vị CLB ca trù Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng Long đã
sắp xếp để có được lịch biểu diễn đan xen trong tuần:
Bảng 2.2. Lịch biểu diễn của một số CLB, giáo phường
CLB ca trù Hà Nội 20h - 21h, tối thứ 2,4,6 hàng tuần
Giáo phường ca trù Thăng Long 20h - 21h, tối thứ 3,5,7 hàng tuần
Giáo phường ca trù Thái Hà Theo đặt hàng của một số công ty lữ
hành hoặc tổ chức quốc tế
CLB, giáo phường khác Không có lịch cố định
Nguồn: Tổng hợp của NCS, năm 2014
Việc thống nhất này cũng cho thấy, các đơn vị biểu diễn nghệ thuật ca
trù trước đó đã vấp phải việc chồng lấn lẫn nhau về thời gian biểu diễn, gây ra
tình trạng mạnh ai lấy làm, bên này cạnh tranh (đôi khi không lành mạnh) với
bên kia. Tuy vậy, xét về mặt kinh tế thì việc để trống 1 buổi tối Chủ Nhật
89
hàng tuần không có hoạt động biểu diễn chính là vấn đề cần quan tâm. Trong
khi, ngay tại Hà Nội, ngày thường hay Chủ nhật thì múa rối nước, một môn
nghệ thuật biểu diễn truyền thống vô cùng đặc biệt của Việt Nam, lại đỏ đèn
hàng ngày. Các điểm múa rối nước không chỉ có các buổi diễn tối, mà còn
đáp ứng mọi nhu cầu biểu diễn của du khách thông qua đặt tour của các công
ty lữ hành, do đó, rất linh hoạt và thuận lợi. Với nghệ thuật ca trù, khó có thể
có lợi thế so sánh với múa rối nước vì nhiều lí do. Dẫu biết rằng, ca trù là
nghệ thuật rất kén khách nghe và kén không gian biểu diễn, luôn có những giá
trị riêng, có bản sắc Việt Nam và có một chất âm nhạc đẳng cấp, nhưng có lẽ,
đã đến lúc các CLB, giáo phường ca trù cùng nhau hoạt động cả tối Chủ nhật,
xem năng lực cạnh tranh và năng lực marketing của mình như thế nào, tạo
thêm thu nhập và để kín buổi trong cả tuần, tiến tới biểu diễn nhiều buổi khác
nhau trong ngày theo đặt hàng của các công ty lữ hành.
2.1.4.2. Nội dung một buổi biểu diễn
Nội dung, bố cục một buổi biểu diễn ca trù tại CLB ca trù Hà Nội và
giáo phường ca trù Thăng Long cơ bản là giống nhau.
Bảng 2.3. Bố cục một buổi diễn của CLB và giáo phường
Thời gian
CLB Hà Nội 60 phút 5 phút 20-25 phút 10-15 phút Giáo phường Thăng Long 60 phút 5 phút 20-25 phút 10-15 phút
15 phút 15-20 phút
Thời gian/1 ca diễn Mở đầu (giới thiệu bằng song ngữ Việt - Anh) Trình diễn phần 1 Giới thiệu về nghệ thuật ca trù, các loại nhạc cụ, mời du khách khám phá dụng cụ âm nhạc và chơi thử, tập thẩm âm,... Trình diễn phần 2 (Riêng GP Thăng Long có biểu diễn thêm nhạc cụ dân tộc và có thể đưa thêm hát hầu đồng) Kết thúc, xin ý kiến của khách, chia tay khách 5-10 phút 5-10 phút
Nguồn: Tổng hợp của NCS, năm 2014
90
- Ở phần mở đầu, khi du khách đã ổn định, MC giới thiệu bằng tiếng
Việt trước rồi dịch luôn sang tiếng Anh (những chương trình đặc biệt chỉ toàn
là du khách của một nước không nói tiếng Anh thì CLB, GP sẽ nhờ phiên
dịch của đoàn). Phần mở đầu bao gồm:
+ Giới thiệu khái quát lịch sử, nghệ thuật ca trù Việt Nam;
+ Giới thiệu nghệ nhân, nghệ sĩ biểu diễn: Ca nương, kép đàn, quan viên,
nghệ sĩ hỗ trợ;
+ Giới thiệu lần lượt các loại nhạc cụ cơ bản của nghệ thuật ca trù;
+ Giới thiệu nội dung bố cục buổi diễn;
+ Một số lưu ý với du khách tham dự như tắt chuông điện thoại, không
gây tiếng ồn trong không gian, không nhai kẹo cao su, không đặt những câu
hỏi không liên quan đến nghệ thuật ca trù (đặc biệt là câu hỏi liên quan đến
chính trị, lịch sử chiến tranh, xung đột,...);
+ Mời nghệ sĩ biểu diễn phần 1.
- Ở phần biểu diễn, MC đóng vai trò là người giới thiệu từng ca khúc và
điệu múa trong chương trình. Các yếu tố cơ bản của phần này là:
+ Các nghệ sĩ thường trình diễn các làn điệu ca trù nổi tiếng như Gửi
thư, Bắc phản, Mưỡu nói, Anh Khóa,... và tất nhiên là không thể thiếu những
câu hát kinh điển trong nghệ thuật hát ca trù mà nhiều người Việt vẫn hát khi
nhắc đến nghệ thuật này: Hồng hồng, tuyết tuyết,...mới ngày nào chưa biết cái
chi chi, mười lăm năm thấm thoắt có xa gì, ngoảnh mặt lại đã đến kì tơ liễu...
Có thể nói, đây là một trong những bài điển hình về nghệ thuật hát ca trù. Từ
trước đến nay, khoảng trên dưới 100 năm, những nhà nghiên cứu văn học và
yêu thích nghê thuật ca trù đã biết khá rõ những bài thơ nói của tiến sĩ Dương
Khuê (1839-1902) trong toàn bộ di sản văn chương và thơ ca của cụ ở nửa thế
kỉ XIX trong thiên niên kỉ trước, nhưng ít ai đánh giá đúng giá trị đích thực
phẩm chất Dương Khuê trong mảng văn chương được thể hiện bằng loại ca
91
trù, đặc biệt là bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết. Nhiều người trong chúng ta hầu
như chỉ biết cái nghĩa đen của lời ca mà có thể không hiểu gì hoàn cảnh và
tâm trạng của tác giả, bối cảnh lịch sử cụ thể mà cụ Dương Khuê đã trải qua.
Xem như vậy, bài ca trù Hồng Hồng Tuyết Tuyết có hai nghĩa. Ngoài mối
tình “trái khoáy” của một ông già với một cô đào trẻ, tác giả Dương Khuê còn
gửi gắm tâm trạng của mình. Chính tâm trạng ấy cũng đủ làm nổi bật phẩm
chất cao quý của một nhà nho, một viên quan đương thời trong sạch, có tấm
lòng yêu nước, trăn trở với thế sự éo le lúc đó của đất nước. Thông qua giai
điệu âm nhạc, mà chủ yếu chỉ vẻn vẹn mấy nốt chính là Si, Sol, Sị, Sị sol, Si,
người nghệ nhân nhạc công đàn Đáy đã rất khéo biến hóa để tôn thêm cho lời
thơ bay bổng và đi vào lòng người.
+ Sau khoảng 20-25 phút “ngẩn ngơ” nghe ca trù, du khách đã được trải
nghiệm nghệ thuật đặc biệt này. Một trong những nội dung quan trọng nhất
trong một buổi diễn ca trù ở phố cổ là phần các CLB, GP giới thiệu chuyên
sâu về nghệ thuật ca trù giữa giờ. Du khách sẽ được trải nghiệm bằng cách tập
gõ phách, gõ trống, chơi thử đàn đáy và đặc biệt là tập thẩm âm theo giọng
điệu ca trù dưới sự chỉ dẫn của nghệ nhân. Những du khách nước ngoài đã rất
thích thú với trải nghiệm và coi đây là phần thú vị nhất trong toàn bộ nội dung
biểu diễn nghệ thuật ca trù. Họ tập đi tập lại từng câu mà nghệ nhân dạy.
Những câu hát quen thuộc khách thường tập là “hồng hồng, tuyết tuyết”, “mới
ngày nào”, “ngoảnh mặt”,... Rõ ràng, cùng với việc dùng tay tập các nhạc cụ,
bộ gõ thì việc tập thẩm âm để hiểu được độ khó, độ nảy, độ luyến láy, độ bác
học thính phòng... của nghệ thuật ca trù Việt Nam là những điều mà các CLB,
GP đã làm rất tốt phục vụ nhu cầu của du khách.
- Vào phần cuối của chương trình, du khách sẽ được nghe một, hai bài ca
trù đặc biệt nữa và xem màn hát múa bỏ bộ độc đáo của nghệ thuật này.
92
Trong một số chương trình, các CLB, giáo phường còn đưa thêm hát
văn, hát múa hầu đồng vào cuối chương trình, tách bạch với phần 1 chuyên về
ca trù, để vừa quảng bá thêm cho du khách thấy được sự phong phú của nghệ
thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam, vừa làm chương trình ấn tượng hơn
với du khách và đặc biệt là du khách luôn vô cùng thích thú với 15 phút nhảy
múa hầu đồng mà các nghệ sĩ trình diễn.
Một trong những nội dung sau buổi diễn là phần CLB, GP gửi phiếu
khảo sát ý kiến du khách. Đây được coi là nội dung thể hiện sự cầu thị của các
nghệ sĩ, nghệ nhân ca trù.
2.1.4.3. Nguồn nhân lực cho một buổi diễn ca trù
Nguồn nhân lực phục vụ chính cho một buổi biểu diễn của một CLB,
giáo phường ca trù tại phố cổ trong khoảng 60 phút được thể hiện trong bảng
dưới đây:
Bảng 2.4. Nhân lực phục vụ một buổi diễn 60 phút
Ca nương
03 người, nữ giới GP Thăng Long, số lượng ca nương khoảng 6-7 người
02 người, nam giới Kép đàn
02 người, nữ giới
Đàn tranh, đàn nguyệt và một số loại nhạc cụ dân tộc
Trống chầu 01 người, nam giới, cao tuổi
MC và phụ tá ngôn ngữ cho MC 02 người, nam hoặc nữ
Người bán vé ngoài cửa 01 người
Kê dọn bàn ghế, bảo vệ và các công việc khác cho 1 buổi diễn Trực tiếp các nghệ nhân, cộng tác viên thực hiện
Tổng 11 người
Nguồn: Tổng hợp của NCS, năm 2014
93
Trong tổng số 11 người trực tiếp tham gia phục vụ cho 1 buổi diễn thì có
khoảng 3 thành viên là cộng tác viên. Các cộng tác viên là sinh viên các
trường đại học trên địa bàn Hà Nội, có trình độ ngoại ngữ chủ yếu là tiếng
Anh, vừa yêu thích nghệ thuật ca trù, vừa mong muốn đóng góp cho hoạt
động của các CLB, giáo phường, vừa kiếm thêm thu nhập dù không đáng kể.
Với Giáo phường Thăng Long thì lượng nhân lực có thể nhiều hơn.
Trong các nghệ nhân trực tiếp biểu diễn thì thông thường ở mỗi CLB đều
có 1 nhóm bao gồm 01 ca nương, 01 kép đàn, 01 trống chầu là những nghệ
nhân lớn tuổi, có thâm niên cao trong nghề nghiệp và đã có tên tuổi trong làng
ca trù. Những nghệ nhân này chính là xương sống của một CLB, giáo phường
bởi du khách khi nghe ca trù luôn thích được xem, nghe các nghệ nhân có
trình độ điêu luyện. Thông thường, nghệ nhân trống chầu thường là cao niên,
lâu năm trong nghề, có khả năng nghe, thẩm âm, bắt lỗi ca nương khi hát,
khen, thưởng và phản ánh lỗi sai hay hát chưa đúng của ca nương. Số nghệ
nhân còn lại thì đều khá trẻ, có hình thức đẹp, có duyên, tạo được ấn tượng
cho khách nghe. Đa phần cũng đã được trải nghiệm biểu diễn thực tế khoảng
2-3 năm trở lên và có những kỹ năng âm giọng, âm điệu và biểu diễn đạt trình
độ tối thiểu.
2.1.4.4. Lượng khách
CLB ca trù Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng Long có lịch biểu diễn
cố định và thường xuyên nhất hiện nay trên địa bàn thành phố với 3 buổi diễn
1 tuần. Tuy các địa điểm này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phục vụ
khán giả vì giao thông không thuận lợi, nằm ở trong các khu phố cổ nhỏ hẹp,
xe du lịch 30 - 45 chỗ đi vào rất bất tiện, bị cản trở bởi các quy định cấm về
giao thông nội đô Hà Nội, cơ sở vật chất cũng chưa thật sự rộng rãi, tiện nghi
nhưng trên thực tế, các đơn vị này đã rất cố gắng để có được lượng khán giả
94
ổn định mỗi đêm diễn. Có những đêm số chỗ ngồi của CLB ca trù Hà Nội kín
chỗ với 35 - 40 ghế ngồi, đây quả là một con số mơ ước của những nghệ sĩ
làm ca trù vì thường xuyên lượng khách trung bình đến 1 điểm biểu diễn/1
buổi tối chỉ là 10 - 15 khách. Có buổi chỉ có duy nhất 1 khách nhưng các nghệ
sĩ vẫn biểu diễn hết mình vì khán giả.
Bảng 2.5. Số lượng khách quốc tế theo quốc tịch thưởng thức ca trù
STT Quốc tịch Số lượng Tỉ lệ (%)
1 Singapore 6 6.98
2 Nhật Bản 8 9.3
3 Hàn Quốc 6 6.98
4 Trung Quốc 6 6.98
5 Mỹ 18 20.93
6 Pháp 9 10.47
7 Úc 8 9.3
8 Anh 15 17.44
9 Nước khác 17 20.12
Nguồn: Tổng hợp khảo sát thống kê của NCS, tháng 11/2013
Trong số gần 100 khán giả là khách quốc tế được tổng hợp sau 5 buổi
diễn tại câu lạc bộ ca trù Hà Nội thì du khách Mỹ chiếm 20,93% và chiếm tỷ
lệ cao nhất; sau đó đến du khách Anh chiếm 17,44%; du khách Pháp chiếm
10,47%; du khách Úc và Nhật cùng chiếm 9,3%; du khách Trung Quốc, Hàn
Quốc và Singapore cùng chiếm 6,98%; và du khách đến từ các quốc gia khác
(Ả rập Sau đi, Thái Lan, Malaysia, Canada, ...) chiếm 11,62%. Điều này cho
thấy phần lớn du khách nước ngoài đến thưởng thức ca trù là khách du lịch
phương Tây, khách phương Đông chiếm số lượng không nhiều. Sở dĩ có sự
95
chênh lệch như vậy là do các nước phương Tây có nền văn hóa khác biệt hẳn
so với Việt Nam, nên du khách sẽ hứng thú thưởng thức ca trù nhiều hơn.
Những kết quả bước đầu như vậy đáng được ghi nhận, là dấu hiệu đáng
mừng, nhưng số lượng khách còn rất ít so với nghệ thuật Múa rối nước. Tại
hai điểm biểu diễn này, phần đông khán giả đến thưởng thức ca trù đều là
khách du lịch quốc tế. Theo phiếu điều tra với 200 phiếu cho 200 khán giả,
chỉ có 2% khán giả là người Hà Nội, 8% khán giả là khách du lịch trong nước
nhưng khán giả là du khách nước ngoài lại chiếm đến 90%.
2% 8%
Người Hà Nội
Du khách trong nước
Du khách nước ngoài
90%
Nguồn: Tổng hợp điều tra của NCS, tháng 11/2013
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ khán giả trong nước và quốc tế
Qua số liệu phân tích trên, có thể thấy khán giả đến với ca trù phần lớn là
khách du lịch (98%). Trong đó, khách du lịch nước ngoài chiếm số lượng lớn
(90-95%%), trở thành khán giả chính, chủ chốt của chương trình.
Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Giới trẻ Việt Nam hiện nay ít quan tâm đến nghệ thuật, âm nhạc biểu
diễn truyền thống nói chung, ca trù nói riêng, mà hầu như chỉ quan tâm đến
nhạc thị trường, nhạc trẻ, sôi động và hướng ngoại.
96
- Người lớn tuổi hay một bộ phận lớp trẻ có thể quan tâm đến ca trù
nhưng khó có thể thích, mặn mà nhiều với nghệ thuật ca trù là vì ca trù là một
thể loại âm nhạc thính phòng mang tính bác học, kén người nghe, có niêm
luật trong lời ca, nhịp đàn rất khó hiểu, lời ca có nhiều chữ Hán, không phải ai
nghe cũng hiểu được, khó có thể cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp, cái độc
nhất vô nhị của ca trù. Bên cạnh đó, do cách hát ca trù cần độ nảy, giòn, đòi
hỏi kỹ thuật và người ca nương phải học rất lâu mới luyện được cách hát; tuy
nhiên với người thưởng thức và không hiểu biết nhiều về ca trù thì cách hát
“ư hự” không dễ để thẩm thấu ngay với các khán giả trẻ Việt Nam.
- Do giá vé để vào xem ca trù tại các điểm này còn cao, vé tại CLB ca trù
Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng Long là 200.000 đồng hoặc 10 đô la Mỹ
cho 1 vé thưởng thức 60 phút. Tất nhiên, theo nghệ sĩ Bạch Vân thì bà sẵn
sàng giảm 50% giá vé vào cửa cho khán giả Việt là học sinh, sinh viên hoặc
có thể miễn phí.
- Không gian biểu diễn thì nhỏ bé, lại thể hiện trong không gian đình,
đền, nhà cổ nên nhiều bộ phận giới trẻ Việt Nam không thích điều đó, nhưng
khách nước ngoài thì rất thích.
Ngược lại, du khách nước ngoài lại rất thích và có ấn tượng tốt về ca trù.
Nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Chi phí 10 đô la Mỹ không phải cao so với 1 vé đi xem nghệ thuật biểu
diễn truyền thống ở quốc gia của họ.
- Âm nhạc của ca trù là âm nhạc thính phòng, bác học, kén người nghe
những với người nước ngoài, đặc biệt là phương Tây, Mỹ, Úc,... họ rất thích
vì họ nghe họ thấy cảm thụ được phần nào đó, dù có khoảng cách lớn về mặt
ngôn ngữ.
97
- Tâm lý đi du lịch của khách nước ngoài bao giờ cũng muốn tìm hiểu về
văn hóa, con người nơi đến, và hẳn là những gì liên quan đến truyền thống
của một dân tộc sẽ được du khách quốc tế quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt với
ca trù, một môn nghệ thuật mà ở đó các nghệ sĩ mặc những bộ áo dài truyền
thống, với phong cách cổ xưa, lại được biểu diễn trong các đình, đền, nhà cổ
là vô cùng khác lạ. Điều khác lạ hơn nữa là số lượng nghệ sĩ cũng như nhạc
cụ của bộ môn nghệ thuật đó là rất ít. Và dù khác biệt về ngôn ngữ đi chăng
nữa thì các du khách nước ngoài vẫn rất ấn tượng với ca trù.
2.1.5. Đánh giá của du khách về hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù
tại nội thành Hà Nội
Đánh giá của du khách quốc tế qua trang du lịch hàng đầu thế giới hiện
nay Tripadvisor.com với tên miền tại Việt Nam là Tripadvisor.com.vn (trang
web uy tín hàng đầu Việt Nam về tìm kiếm thông tin và đánh giá của du
khách về các điểm du lịch. CLB ca trù Hà Nội đứng số 1 trong nhiều tháng
năm 2014): 60% rất hài lòng khi nghe ca trù; 40% hài lòng. Như vậy, trên
trang thông tin du lịch uy tín như Tripadvisor.com.vn dành cho du khách khi
đến Việt Nam thì 100% du khách đã thể hiện sự hài lòng với các buổi diễn ca
trù ở Hà Nội, trong đó có CLB ca trù Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng
Long, đa phần là thể hiện sự thích thú tuyệt vời với nghệ thuật này.
Trên mạng internet đã có những đánh giá như vậy, trong thực tế thì như
thế nào? Trong những lần khảo sát tại ngôi nhà cổ số 87 Mã Mây và Đình
Kim Ngân số 42 - 44 Hàng Bạc, rất nhiều du khách nước ngoài đã nói rằng
đây là một trải nghiệm văn hóa rất đáng yêu, âm nhạc thì dịu dàng mê hoặc
lòng người, là một cách rất thú vị để tạm rời xa phố phường Hà Nội ồn ã.
Để cảm nhận được rõ hơn suy nghĩ, đánh giá của du khách, xin được
trích đăng một số phản hồi của khán giả nước ngoài và Việt Nam khi nghe ca
98
trù (theo phiếu điều tra và phỏng vấn sâu của chính tác giả tại CLB ca trù Hà
Nội, giáo phường ca trù Thăng Long): “Thật xúc động trước sự bảo tồn văn
hoá dân tộc của nước bạn”- John Watt, Mỹ. “Màn trình diễn xuất sắc nhất!
Âm nhạc tuyệt vời nhất! Những nghệ sỹ tài năng nhất”- Sudarat, Thailand.
“Xin chào! Cảm ơn các bạn đã cống hiến màn biểu diễn tuyệt vời này. Tôi
cảm thấy thật vinh dự khi được xem buổi biểu diễn và có cảm giác như mình
là một phần trong đó. Các nhạc sỹ, ca sỹ, vũ công thật xuất sắc! Tôi rất xúc
động khi biết các bạn đã lao động rất chăm chỉ để gìn giữ nghệ thuật này. Xin
cảm ơn!”- Meredith, Australia. “Chúng tôi đến từ Canada. Thực sự chúng tôi
không biết nhiều về âm nhạc của các bạn. Nhưng sau hôm nay, chúng tôi sẽ
trở về nhà và đem theo những cảm xúc, những trải nghiệm về buổi biểu diễn
này. Cảm ơn tất cả các bạn!”- Cam, Mỹ. “Giàu truyền thống. Giai điệu tuyệt
đẹp”- Kazuja Ogiwara, Nhật Bản; “Không thể tin nổi, nghe ca trù qua tivi,
qua internet khác hẳn với nghe ca trù trực tiếp ở không gian như thế này, quá
thú vị, dù bản thân tôi không hiểu lời ca đào nương hát lắm”, Nguyễn Hạnh
Thục, du khách từ TP.HCM; [Tổng hợp từ phiếu đánh giá].“Em sẽ rủ bạn bè
đi xem, nếu như cô Bạch Vân giảm giá vé hoặc miễn phí cho sinh viên, vì có
nghe trực tiếp mới thấy giá trị của di sản này”, Nguyễn Thanh Mai, Khoa Du
lịch, Đại học Công nghiệp Hà Nội [Phỏng vấn sâu, tháng 3.2014].
Như vậy, có thể cảm nhận, nếu có một không gian ca trù phù hợp, có
những chương trình giao lưu ca trù tại các trường đại học, trong những nhà
văn hóa, nhà hát của các trường, thì giới trẻ là sinh viên cũng sẽ không thờ ơ,
vô cảm với nghệ thuật truyền thống là di sản thế giới này. Với 200 khách
được điều tra, 100% khách tỏ thái độ hài lòng và có tới khoảng 60% trong số
đó cảm thấy rất hài lòng. Chỉ cần đọc lại những dòng nhận xét trên đây của du
khách nước ngoài cũng có thể cảm nhận được ca trù của chúng ta hấp dẫn với
họ như thế nào và thật sự, nghe họ nhận xét, mỗi người Việt chúng ta lại thấy
99
thật tự hào, nhưng cũng thật chạnh lòng khi mà ngay tại Hà Nội, mảnh đất
văn hóa hàng vài nghìn năm, khán giả thờ ơ với ca trù, trong khi khách nước
ngoài lại ngợi ca.
Chủ yếu khách đến nghe ca trù tại các CLB là du khách nước ngoài, có
ấn tượng khá sâu sắc với bộ môn nghệ thuật độc đáo này nên họ tỏ thái độ hài
lòng là điều dễ nhận thấy. Tuy nhiên, các khán giả đều bày tỏ mong muốn các
CLB có thể mở rộng địa điểm tổ chức biểu diễn của mình để có thể phục vụ
cho du khách được nhiều hơn.
Một điều đáng mừng nữa trong kết quả điều tra khảo sát, 100% khán giả
quốc tế khi được hỏi đều muốn xem ca trù vào lần sau và nếu như bạn bè,
đồng nghiệp, người thân xin lời khuyên cho việc họ nên xem thể loại văn hóa
truyền thống nào của Việt Nam thì đều muốn giới thiệu ca trù. Đây chính là
nguồn động lực, niềm hy vọng của không chỉ những nghệ nhân đã và đang
giữ gìn, phát huy nghệ thuật ca trù mà còn của cả các công ty, doanh nghiệp
lữ hành cho một tương lai ca trù được nhiều người biết đến, góp phần đẩy
mạnh hoạt động du lịch văn hóa của Thủ đô Hà Nội.
5%
5%
Giải trí Học tập, nghiên cứu Mục đích khác
90%
Nguồn: Tổng hợp điều tra của NCS, tháng 3/2014
Biểu đồ 2.2. Mục đích thưởng thức ca trù của các du khách
100
Trong tổng số 200 khán giả được hỏi về mục đích đến để xem, nghe ca
trù, có 90% khách đến với mục đích giải trí, 5% cho mục đích học tập và
nghiên cứu, và 5% cho mục đích khác. Rõ ràng, đại đa số khách đến xem,
nghe ca trù là khách du lịch, lại đa phần là khách quốc tế nên việc có 90% là
giải trí, chỉ có 5% là nghiên cứu, tìm hiểu thì cũng dễ hiểu. Trong đó, đáng kể
là có một số lưu học sinh nước ngoài đang học tập về âm nhạc, văn hóa tại Hà
Nội cũng thường xuyên đến thưởng thức, tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu.
Với người Việt Nam: NCS đã tập trung khảo sát thông qua bảng hỏi với
những câu hỏi đóng, câu hỏi mở và phỏng vấn trực tiếp 300 người (không
trực tiếp xem như 200 khán giả ở trên), có kết quả điều tra khảo sát như sau:
Bảng 2.6. Loại hình nghệ thuật truyền thống đã từng xem
Loại hình nghệ thuật Số lượng Tỉ lệ
Ca trù 24.3 73
Múa rối nước 61.0 183
Nhạc cụ dân tộc 47.3 142
Xẩm 12.0 36
Hát văn 27.0 81
Khác 32.0 96
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS, tháng 3/2014
Như vậy, với 300 người được khảo sát, có tới 61.0% người đã từng xem
múa rối nước, 47.3% người từng xem các biểu diễn nhạc cụ dân tộc trong khi
đó, chỉ có 24.3% người được hỏi cho biết đã từng xem, nghe ca trù và tới 95%
trong số đó là đã từng xem sơ qua trên ti vi, đài tiếng nói và một số công cụ
mạng xã hội. Chỉ có 5% là đã từng xem, nghe trực tiếp biểu diễn ca trù trong
một khung cảnh nhất định. Trong số những người cho biết đã từng xem ca trù,
có 46 người là nữ (63.0%) và 27 người là nam (37.0%).
101
Bảng 2.7. Loại hình nghệ thuật được ưa thích nhất
Số lượng Tỉ lệ (%) Loại hình
Ca trù 14 4.7
Múa rối nước 147 49.0
Nhạc cụ dân tộc 57 19.0
Xẩm 5 1.7
Hát văn 8 2.7
Quan họ 18 6.0
Hát chèo 3 1.0
Khác 45 15.0
Không trả lời 3 1.0
Tổng số 300 100.0
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS, tháng 3/2014
Số liệu bảng trên cho thấy rằng múa rối nước và nhạc cụ dân tộc là hai
loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống được yêu thích nhất và đối chiếu
với kết quả trình bày ở Bảng 1 cho thấy sự hợp lý khi tỉ lệ trong số 300 người
được điều tra cho biết họ đi xem hai loại hình nghệ thuật này là nhiều nhất.
Trong số 73 người đã từng đi xem ca trù, chỉ có 14 người cho biết họ thích
nhất ca trù, chỉ chiếm có 20% (trên tổng số số người đã từng đi xem) trong
khi có tới 80% số người đã từng đi xem múa rối nước nói rằng họ thích múa
rối nước nhất. Hai con số khá chênh lệch này có thể phần nào phản ánh việc
ca trù là một loại hình nghệ thuật khó tiếp cận đối với người xem hơn so với
các loại hình nghệ thuật có tính dân gian, phổ thông hơn là múa rối nước hay
biểu diễn các nhạc cụ dân tộc. Trong tương quan với giới tính, trong số 14 đối
tượng khảo sát khẳng định ca trù là loại hình nghệ thuật truyền thống họ ưa
thích nhất, có tới 11 người là nam (78.6%), chỉ có 3 người là nữ (21.4%).
102
Khi tìm hiểu về địa điểm mà thanh niên, học sinh, sinh viên Hà Nội
thường tìm đến để tìm hiểu và thưởng thức các cuộc biểu diễn nghệ thuật
truyền thống, đợt khảo sát cho thấy kết quả ở Bảng 2.8 dưới đây.
Bảng 2.8. Những không gian hay hình thức nghệ thuật
truyền thống mà giới trẻ lựa chọn
Có Không Tổng (%) Loại hình Số Số địa điểm Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%) 100.0% lượng lượng
Nhà hát 32 10.7 268 89.3 100.0%
Một không gian 135 45.0 100.0% 165 55.0 văn hóa
Trên ti vi 151 50.3 149 49.7 100.0%
Trên internet 125 41.7 175 58.3 100.0%
Qua sách, báo 48 16.0 252 84.0 100.0%
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS, tháng 3/2014
Có 55.5% trong số 300 số người được khảo sát cho biết họ thường hay
xem ở một không gian văn hóa, 50.3% thường xem trên ti vi trong khi chỉ có
10.7% thường xem ở nhà hát. Internet cũng là một kênh khác mà 41.7%
người lựa chọn để xem các loại hình biểu diễn nghệ thuật này. Như vậy,
dường như một địa điểm quan trọng nhất, truyền thống nhất của các loại hình
biểu diễn nghệ thuật truyền thống ở nước ta lại không phải là nơi người dân
hay du khách lựa chọn để thưởng thức mà thay vào đó, họ xem các chương
trình biểu diễn nghệ thuật này qua ti vi. Lý do về giá vé, về thói quen hưởng
thụ nghệ thuật hoặc khoảng cách địa lý cần được xem xét để lý giải cho việc
người dân không thường đến nhà hát để xem các cuộc biểu diễn nghệ thuật
truyền thống và thay thế địa điểm này bằng hai phương tiện truyền thông tiện
103
lợi hơn là tivi và internet. Đây là điểm những người xây dựng các chương
trình biểu diễn hoặc những nhà quản lý muốn phát triển các loại hình nghệ
thuật này sâu rộng hơn trong công chúng phải lưu ý và tìm hiểu kỹ hơn.
Với nhiều loại hình nghệ thuật, không gian biểu diễn của loại hình đó
đóng vai trò quan trọng không kém so với chính buổi trình diễn. Với rối nước,
cảm nhận của người xem sẽ rất khác khi xem rối ở một nhà biểu diễn/nhà hát
so với khi xem rối ở thủy đình hay ao làng của một làng quê truyền thống Bắc
Bộ. Tương tự thế, nếu xem ca trù qua tivi hay internet, người xem không thể
có thưởng thức trọn vẹn được thần thái của những nghệ sĩ biểu diễn ca trù và
sự tinh tế và biến đổi phức tạp trong một bài biểu diễn như khi xem trực tiếp
tại các giáo phường hoặc nhà biểu diễn chuyên biệt dành cho ca trù. Thói
quen thưởng thức nghệ thuật biểu diễn truyền thống, đặc biệt là ca trù phần
nào sẽ quyết định đến mức độ quan tâm và hiểu biết của mọi người đối với
loại hình nghệ thuật đó.
Bảng 2.9. Mức độ hiểu biết về ca trù
Mức độ hiểu biết về ca trù Số lượng Tỉ lệ %
Không hiểu gì 53 17.7
Hiểu vì đã nghiên cứu 31 10.3
Hiểu rất ít 216 72.0
Tổng 300 100.0
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS
Số liệu điều tra cho thấy có tới 72.0% người được hỏi có hiểu biết rất ít
về ca trù. Một tỉ lệ nhỏ (10.3%) cho biết họ có hiểu biết về ca trù do có quan
tâm và tìm hiểu về loại hình nghệ thuật này.
Như đã nhấn mạnh, ca trù là một loại hình nghệ thuật truyền thống khó
tiếp cận nhất đối với phổ thông đại chúng. Để có thể mở rộng số lượng người
104
thưởng thức loại hình này, làm cho họ hiểu đúng và cảm nhận đúng về ca trù
là một phần việc quan trọng.
Với thông tin về việc ca trù trở thành di sản thế giới của Việt Nam cần
được bảo vệ khẩn cấp, cuộc khảo sát cho thấy một kết quả khả quan là có tới
88.3% người được hỏi biết đến thông tin này và trong số này thì có tới 63.4%
là nữ còn nam chỉ chiếm 36.6%.
Bảng 2.10. Mức độ biết về thông tin ca trù trở thành di sản thế giới
của Việt Nam cần được bảo vệ khẩn cấp
Số lượng Tỉ lệ % Mức độ
Không biết 14 4.7
Biết 265 88.3
Đã nghe nói nhưng 21 7.0 không quan tâm
Tổng 300 100.0
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS, tháng 3/2014
Mặc dù tỉ lệ người được điều tra đã từng đi xem biểu diễn ca trù và ưa
thích ca trù nhất so với các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống khác
như múa rối nước, tuồng, chèo,… là khá thấp, nhưng lại có tới 87.3% người
được điều tra bày tỏ mong muốn đoàn nghệ thuật ca trù đến trình diễn tại
trường họ đang theo học. Tỉ lệ người xem thấp, ưa thích thấp nhưng mong
muốn được tiếp cận loại hình nghệ thuật này lại cao có thể được lý giải bởi
năng lực tiếp cận khán giả của loại hình nghệ thuật này thấp chứ không phải
do loại hình này không có chỗ đứng trong lòng khán giả, đặc biệt là khán giả
trẻ là thanh niên, sinh viên đang học tập và sinh sống tại Hà Nội, là những đối
tượng mà nhiều năm vừa qua được cho là gắn chặt mối quan tâm và thói quen
tiêu dùng với văn hóa của xã hội hiện đại và xa rời nghệ thuật truyền thống.
105
Con số này có thể là một kết quả có tính động viên và khích lệ cao đối với
những người làm công tác bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền
thống nói chung, nghệ thuật ca trù nói riêng về khả năng tồn tại và phát triển
mạnh mẽ trong giới trẻ ở Hà Nội. Điều này cũng được khẳng định khi có 262
người được hỏi (87.3%) mong muốn có các đoàn nghệ thuật ca trù về trường
biểu diễn. Trong số những người này, có 66.8% (175 người) là nữ còn nam
chỉ chiếm 33.2% (87 người).
Bảng 2.11. Đánh giá về mức giá vé hiện nay
của CLB, giáo phường ca trù tại nội thành Hà Nội
Số lượng Tỉ lệ % Mức độ
Rẻ 5 1.7
Phù hợp 101 33.7
Cao 171 57.0
Quá cao 23 7.7
Tổng 300 100.0
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS, tháng3.2014
Có 62.7% người được hỏi cho rằng mức giá hiện nay của CLB ca trù là
cao và quá cao so với định mức chi tiêu của thanh niên, sinh viên đang sinh
sống ở Hà Nội. 33.7% cho rằng mức giá đó đã phù hợp. Tuy nhiên, kể cả khi
số lượng người cho rằng đó là mức giá phù hợp khá cao, chiếm tới 1/3 lượng
người được hỏi đồng ý thì việc trên một nửa trong tổng số 300 sinh viên được
hỏi cho rằng đó là giá cao là một vấn đề mà những người làm công tác quản
lý và phát triển loại hình nghệ thuật này phải lưu ý. Nhận thức ngày càng cao
về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát triển các loại hình nghệ thuật biểu
diễn truyền thống trong đời sống đương đại trong nhiều năm vừa qua đã đang
đặt ra một xu hướng là sự khôi phục và phổ biến ngày càng mạnh mẽ của các
loại hình nghệ thuật này với một trong những đối tượng khán giả quan trọng
106
là thế hệ trẻ. Giai đoạn đầu của quá trình phổ biến này phải thực hiện tốt được
được công tác tiếp cận càng nhiều càng tốt khán giả trẻ, và vì vậy, giảm giá
thành của vé vào cửa các buổi biểu diễn cũng là một trong những biện pháp
hữu hiệu để thu hút hơn nữa thanh niên và sinh viên có mối quan tâm nhiều
đến các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống.
2.2. Những khó khăn, thuận lợi trong hoạt động biểu diễn nghệ
thuật ca trù tại Hà Nội
2.2.1. Những khó khăn
Ca trù vẫn đứng trước nhiều thách thức, trong đó thách thức lớn nhất là
làm sao để giữ gìn và phát huy được giá trị văn hóa, nghệ thuật ca trù. Là hình
thức nghệ thuật rất chuyên nghiệp, bác học, việc đào tạo nghệ nhân ca trù đòi
hỏi phải có thời gian, có quy trình nghiêm ngặt, lâu dài. Thêm vào đó, âm
nhạc đi kèm ca trù cũng rất phức tạp, không gian trình diễn cũng không thể
diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc mà cần có đặc trưng riêng. Để bảo tồn và phát huy
được những giá trị của ca trù thì cần phải có các nghệ nhân lão luyện, cơ sở
vật chất hạ tầng đáp ứng đủ nhu cầu của du khách. Và tác giả sẽ đề cập đến
những vấn đề khó khăn sau đây:
2.2.1.1. Liên quan đến chế độ đãi ngộ, sự ủng hộ và chia sẻ khó khăn với
các nghệ nhân ca trù
Có thể nói, nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù chính là cốt lõi của vấn đề bảo tồn
và giữ gìn giá trị di sản phi vật thể vô cùng quan trọng này. Một số không nhỏ
trong số họ vừa là chủ thể biểu diễn giới thiệu, vừa là chủ thể giữ gìn vốn quý
bằng cách làm thầy truyền lại cho thế hệ sau, vừa đóng vai trò là cầu nối về
vốn ca trù giữa quá khứ và hiện tại, vừa là nhà quản lý, vừa là người làm kinh
doanh và rất nhiều công việc có liên quan đến ca trù. Nhưng có thể thấy, nếu
những con người tâm huyết như cụ Phạm Thị Mùi (Giáo phường ca trù Lỗ
107
Khê), cụ Nguyễn Văn Mùi (Giáo phường ca trù Thái Hà), nghệ sĩ Bạch Vân
(CLB ca trù Hà Nội), nghệ sĩ Phạm Thị Huệ (Giáo phường ca trù Thăng
Long) mà không cháy hết mình cho bảo tồn thứ tài sản quý giá cha ông để lại,
không tìm mọi cách để duy trì sinh hoạt câu lạc bộ, giáo phường, không dành
thời gian truyền dạy, truyền nghề ca nương, kép đàn, không tự marketing để
có nguồn khách, không tự mày mò để có một đêm diễn chiều được lòng các vị
khách nước ngoài khó tính, ... thì thật khó để có thể tự tin nghĩ đến việc bảo
tồn và phát huy được di sản văn hóa ca trù trong bối cảnh hiện nay.
Theo NCS, với các nghệ nhân, nghệ sĩ thì ca trù như là đứa con tinh thần
nên không thể bỏ được, dù nhiều lúc họ cũng đã có ý định buông xuôi. Nhưng
lương tâm, sự yêu nghề, sự lo lắng đến một di sản thế giới cần được bảo vệ
khẩn cấp có thể không còn được UNESCO công nhận nữa, đã khiến cho
những nghệ nhân, nghệ sĩ như Bạch Vân, Phạm Thị Huệ, Thúy Hòa, …
không thể khoanh tay chờ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức quốc tế, các nhà tài trợ hay gần nhất là cơ quan quản lý nhà nước. Vừa
qua, Nghị định số 62/2014/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về xét tặng danh
hiệu "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ưu tú" trong lĩnh vực di sản văn hóa
phi vật thể ra đời dù khá muộn (sau 10 năm mới hoàn thiện) nhưng vẫn là một
nghị định cần thiết để tôn vinh những cống hiến của nhiều nghệ nhân di sản
văn hóa phi vật thể nói chung và nghệ nhân ca trù nói riêng. Những người đã
mất như cụ Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Chúc sẽ không được chứng kiến giá
trị của họ được tôn vinh, nhưng hy vọng, những nghệ nhân đang còn sống sẽ
cảm thấy được quan tâm, động viên nhiều hơn. Nhưng dù là danh hiệu gì đi
nữa thì điều quan trọng nhất vẫn là chính sách đãi ngộ, chế độ để các nghệ
nhân yên tâm với việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù.
Đặc biệt, chính sách hỗ trợ nghệ nhân tham gia đào tạo ca trù cũng chưa
có. Do đó, theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sự “vực dậy” ca trù được
108
như ngày nay phần lớn là nhờ sự nỗ lực của những người đang trực tiếp nắm
giữ di sản này, hay nói đúng hơn là công lao của phần lớn các nghệ nhân, vì
yêu ca trù nên dù không có sự hỗ trợ nào nhưng họ vẫn đam mê truyền thụ và
khơi dậy tình yêu ca trù cho thế hệ trẻ. Thực tế này cho thấy cần sớm có
những chính sách hỗ trợ cụ thể đối với các nghệ nhân ca trù. Nếu đời sống
của nghệ nhân “gạo cội” luôn khó khăn, chưa được hưởng chế độ bảo hiểm xã
hội, chế độ bảo hiểm y tế… thì có lẽ, ca trù khó có thể giữ mãi được “phong
độ” như đã được gây dựng suốt 5 năm qua. Nếu ngành Văn hóa có những
chính sách kịp thời thì có lẽ ca trù còn phát triển mạnh hơn nữa. Bởi vì, chí ít,
khi có được danh hiệu nghệ nhân ưu tú thì các nghệ nhân cũng cảm thấy vẻ
vang trong cộng đồng.
2.2.1.2. Trong công tác truyền nghề, đào tạo nghệ thuật ca trù
Nếu chỉ nhìn vào Liên hoan ca trù toàn quốc 2014 với lượng nghệ sĩ ca
trù trẻ chiếm tỷ lệ lớn để đánh giá là công tác đào tạo, truyền nghề đã đạt hiệu
quả cao thì cần phải xem xét lại. Với khoảng 300 nghệ sĩ trẻ hiện diện ở
khoảng 60 CLB, làng thôn, giáo phường ca trù toàn quốc, thì con số đó chưa
phải là nhiều, tính trung bình chỉ có 5 người/CLB. Ở Hà Nội, tỷ lệ nghệ sĩ ca
trù trẻ được đào tạo, truyền nghề trong thời gian qua đã có những dấu ấn đáng
kể, nhưng lại không đồng đều và vẫn còn nhiều bất cập đáng phải suy nghĩ.
Nếu như công tác đào tạo, truyền nghề ở giáo phường Thái Hà, Thăng
Long là khá tốt với nhiều hạt nhân quan trọng đã cho ra “lò” trong thời gian
qua thì một số làng, thôn ca trù ngoại thành lại gặp không ít khó khăn. Ngay
tại đất tổ nghề ca trù Lỗ Khê, cả làng có hàng nghìn hộ dân, nhưng nếu để
kiểm đếm xem có bao nhiêu trẻ em trong làng biết hát ca trù, hoặc thích ca trù
thì con số đó sẽ rất nhỏ. Còn để tìm ra người trẻ hát được 3 thể cách hay cao
hơn là 6 thể cách thì rất ít. Nghệ sĩ trẻ Quỳnh Vân, người sinh ra từ làng ca trù
109
Lỗ Khê và đang đầu quân cho CLB ca trù Hà Nội cho biết rằng, thế hệ trung
tuổi tầm 40,50 hiện chỉ còn mấy ca nương, kép đàn giỏi như Phạm Thị Mận
(người được xem là giỏi nhất Lỗ Khê cũng như Hà Nội về hát thờ thánh, học
(kép đàn hàng đầu Hà Nội hiện nay), Nguyễn Phương Thảo, Phạm Ngọc Hân,…
trò giỏi của nghệ nhân Phạm Thị Mùi), hay nghệ nhân Nguyễn Văn Tuyến
Còn ở thế hệ khoảng 25-30 tuổi thì hiện chỉ có Quỳnh Vân là số ít người tham
gia các CLB, giáo phường ở Hà Nội, vì yêu nghề, nhưng cũng vì thu nhập,
bởi nếu không ra phố cổ Hà Nội ca hát thì ở Lỗ Khê sẽ không có ai đến xem
[Phỏng vấn sâu, tháng 4.2014].
Trong những lớp dạy ca trù thời gian qua do Học viện Âm nhạc Quốc
gia tổ chức, các nghệ nhân Phạm Thị Mận, Nguyễn Văn Tuyến,… đã mạnh
dạn đứng trên bục giảng dạy để truyền đạt cho các nghệ nhân trung tuổi, trẻ
tuổi có đam mê ca trù. Dù cho hiện nay, giáo phường ca trù Lỗ Khê đang tích
cực đào tạo, truyền dạy cho thế hệ trẻ, những người chủ yếu là con cháu của
các gia đình có cha mẹ, ông bà là nghệ nhân ca trù, trong khi các em nhỏ, bạn
trẻ khác thì thường không mấy mặn mà với nghệ thuật này. Thực trạng đào
tạo, truyền dạy ca trù ở Lỗ Khê cũng giống với các làng, thôn ca trù khác như
Chanh Thôn, Đồng Trữ, Yên Lộ,…ở Hà Nội.
Trong khi đó, mô hình như CLB ca trù Hà Nội thì lại chủ yếu tập trung
vào hoạt động biểu diễn, quảng bá, phát huy nghệ thuật ca trù. Nghệ sĩ Bạch
Vân cũng rất mong muốn có được thời gian và điều kiện để truyền dạy, nhưng
do thời gian hàng ngày phải lo “cơm, áo, gạo, tiền” cho nghệ nhân, cộng tác
viên, các chi phí khác nên nghệ sĩ thường tìm tòi các tài năng ca trù ở các giáo
phường, làng thôn, kể cả các tỉnh khác về CLB để đào tạo thêm [Phỏng vấn
sâu, tháng 4.2014].
110
Để đào tạo được một bạn trẻ hay một em nhỏ hát ca trù mà là hát khuôn
(gọi là biết hát) thì chỉ khoảng 4 tháng, nhưng đào tạo thành một nghệ sĩ ca
trù thực thụ thì mất khoảng 3 năm, thậm chí 5 - 6 năm. Điều này cho thấy, số
lượng người thích ca trù để theo học đã rất ít, nhưng trong số người thích ca
trù đó, để đào tạo ra một nghệ sĩ thực sự còn khó khăn và gian nan hơn nhiều.
Nghệ sĩ Phạm Thị Mận của Giáo phường ca trù Lỗ Khê cho rằng, nói về ca
trù, người Lỗ Khê chưa bao giờ thiếu đam mê, nhưng lo lắng nhất là ngay cả
những nghệ nhân đàn đáy giỏi như anh Nguyễn Văn Tuyến đều không sống
được bằng hát ca trù, nên sẽ không thể chú tâm đến đào tạo, truyền nghề, mà
sẽ phải lo sinh nhai [Phỏng vấn sâu, tháng 8.2014].
2.2.1.3. Về không gian, địa điểm biểu diễn nghệ thuật ca trù
Theo như rất nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, nghiên cứu nghệ
thuật biểu diễn truyền thống và các chuyên gia về di sản văn hóa thì Hà Nội
hiện nay đang rất cần một hoặc một số nhà hát di sản để giúp công chúng đến
gần hơn, hiểu và yêu ca trù cũng như các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền
thống hơn nữa.
Đây là một thực tế để cho thấy, việc quy hoạch và xây dựng những
không gian biểu diễn ca trù như những nhà hát thực sự là điều rất quan trọng.
Hà Nội và cả nước hiện nay chưa có một không gian nhà hát riêng cho ca trù.
Dù cho đã có lúc, giai đoạn 2008 - 2011, có 1 nhà hát ca trù tư nhân thuê mặt
bằng ở tầng 2 Bảo tàng lịch sử quốc gia, được đầu tư bài bản, có sân khấu
rộng, không gian đúng chất ca trù cổ, hệ thống âm thanh chất lượng, có không
gian bên ngoài giới thiệu khá khoa học, chi tiết về lịch sử ca trù Việt Nam.
Nhưng do những điều kiện khách quan, lượng khách ít, hỗ trợ của quản lý nhà
nước không có, nên năm 2011 thì không gian này đã đóng cửa và giờ đây,
không còn một không gian ca trù nào như thế nữa.
111
Khi đó, với mô hình này, có thể khẳng định nghệ nhân ca trù Hà Nội đã
có được một điểm biểu diễn chất lượng nhất, không gian nhà hát phù hợp nhất
và đảm bảo được tính đẳng cấp, bác học trong nghệ thuật thanh nhạc của ca
trù khi diễn xướng. Chỉ tiếc, thời gian tồn tại của nhà hát này quá ngắn ngủi.
Nó là hệ quả của việc đây là nhà hát do tư nhân xây dựng, đầu tư, thuê mặt
bằng, và khi không hiệu quả, có sự mâu thuẫn, nhà hát này đã phải đóng cửa.
Theo nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan thì ngay sau khi ca trù được
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp
năm 2009, Hà Nội đã chủ động tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm để tìm cách
giải quyết những khó khăn, bất cập của ca trù, đặc biệt là khó khăn về địa
điểm biểu diễn. Đã có nhiều lời hứa hẹn, nhưng đến thời điểm năm 2014 (5
năm sau), vẫn chưa có một tín hiệu nào cho thấy ca trù sẽ có không gian
riêng, như là một nhà hát di sản ca trù [Phỏng vấn sâu, tháng 8.2014].
Hiện nay, được sự giúp sức của BQL phố cổ Hà Nội và UBND quận
Hoàn Kiếm, nghệ sĩ Bạch Vân và CLB ca trù Hà Nội đã có một trụ sở được
coi là tạm chấp nhận được tại không gian mái đình cổ Kim Ngân, số 42 - 44
Hàng Bạc, trong khi nghệ sĩ Phạm Thị Huệ và Giáo phường Thăng Long thì
đã mượn được không gian nhà cổ số 87 Mã Mây để làm nơi biểu diễn, sinh
hoạt cho giáo phường Thăng Long mỗi tối. Tuy vậy, đến cuối năm 2014,
BQL phố cổ Hà Nội đã thông báo thu hồi lại không gian nhà cổ 87 Mã Mây
để phục vụ mục đích khác. Giáo phường Thăng Long đã phải cùng BQL phố
cổ bàn bạc và tìm được địa điểm mới là Đền Quan Đế số 28 Hàng Buồm. Ở
các không gian này, với ưu điểm là không gian bên trong khá yên tĩnh, ít tiếng
động ngoài đường ảnh hưởng vào dù nằm ngay cạnh phố cổ, lại cổ kính,
mang bản sắc kiến trúc cổ Việt Nam nên du khách quốc tế rất thích. Đặc biệt
không gian đình Kim Ngân còn là nơi mà du khách tìm hiểu thêm về nghề
kim hoàn, nghề chạm bạc, khảm bạc nổi tiếng của nghệ nhân Hà Nội qua nơi
112
thờ ông tổ nghề kim hoàn phố Hàng Bạc. Nhưng với giáo phường Thăng
Long thì sẽ khó khăn bởi địa điểm ở Mã Mây đã trở nên quen thuộc thì lại
phải di chuyển sang địa điểm mới.
Trong khi đó, giáo phường ca trù Thái Hà của gia đình cụ Nguyễn Văn
Mùi biểu diễn tại gia là chủ yếu với không gian khá hẹp, nhỏ. Còn lại, giáo
phường Thái Hà chủ yếu liên kết với Trung tâm văn hóa Pháp L’Espace Hà
Nội để đảm bảo không gian biểu diễn. Và trong một buổi biểu diễn ca trù do
trung tâm này tổ chức năm 2013, người ta mới chợt nhận ra rằng, để tạo lập
một không gian biểu diễn ca trù theo không gian truyền thống giáo phường
xưa là không khó, vấn đề nằm ở cách làm của người quản lý di sản này.
Với các nghệ sĩ, những người dốc công sức ra để phát huy giá trị di sản
thì cả hai không gian nêu trên chỉ là tạm thời, hay chính xác là không có
không gian khác nên đành phải sử dụng những địa điểm như vậy. Các địa
điểm đó vừa nhỏ, vừa hẹp lại ven đường phố cổ cũng rất bé, ô tô chở khách
du lịch không thể đến tận nơi được. Các nghệ sĩ đã rất chạnh lòng và ao ước
có được một nhà hát múa rối khang trang như cơ ngơi ven bờ Hồ Hoàn Kiếm
của nhà hát múa rối Thăng Long, hay được nhà nước quan tâm đầu tư riêng
một nhà hát cho ca trù, với không gian diễn xướng phù hợp.
2.2.1.4. Về nguồn thu, nguồn khách trong biểu diễn nghệ thuật ca trù
Trong quá trình điều tra khảo sát thực địa tại điểm biểu diễn của giáo
phường Thăng Long, tổng số ghế ngồi có thể xếp được tại đây tối đa là 25
ghế, nhưng hầu như trung bình 1 buổi chỉ có khoảng 10 - 15 khách. Giáo
phường Thăng Long thực tế thường đông khách hơn CLB ca trù Hà Nội. Ở
không gian đình Kim Ngân, không ít buổi diễn chỉ có 1 vài khách, cá biệt có
duy nhất 1 khách, nhưng tập thể cán bộ, nghệ sĩ vẫn phục vụ bình thường.
Với một tuần chỉ có 3 buổi nên nguồn thu từ bán vé của các CLB, giáo
113
phường là rất hạn chế dù giá vé đã là khá cao, 10 đô la Mỹ/1 khách. Tiền thu
được từ 1 buổi diễn trung bình chỉ khoảng 1.500.000 - 2.000.000 đồng, trong
khi phải thanh toán cho nghệ sĩ, MC, người bán vé, bảo vệ… theo buổi diễn
với khoảng 10-13 nhân lực/1 buổi. Bên cạnh đó lại còn những chi phí khác
như in ấn tập gấp, quảng cáo mạng, điện, nước,… Tóm lại, khó khăn là không
nhỏ, nhưng lòng đam mê với việc bảo tồn, phát huy giá trị ca trù thì không
bao giờ cạn trong lòng các nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù.
Thực tế là với hình thức sinh hoạt CLB thì mọi người tham gia sẽ phải tự
nguyện đóng góp kinh phí để duy trì hoạt động, nhưng những người tham gia
sinh hoạt CLB ca trù thì đều là nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù với thu nhập thấp,
đến với các CLB, giáo phường ngoài mục đích sinh hoạt thì còn mục đích
kiếm thêm thu nhập, nên các CLB, giáo phường đều phải thu tiền của du
khách và thể hiện qua vé. Ở CLB ca trù Hà Nội, tiền vé thu về sẽ không có
khấu trừ thuế mà sẽ để chi trả cho các nghệ sĩ biểu diễn, cho tiền điện, nước,
cho cộng tác viên, cho quảng cáo, marketing. Nghệ sĩ Bạch Vân cho biết, chị
cũng hiểu là CLB không được bán vé mà là hình thức sinh hoạt tự nguyện,
nhưng CLB ca trù Hà Nội chẳng khác gì một nhà hát biểu diễn chuyên nghiệp
nên đành phải lấy vé làm cốt lõi duy trì hoạt động, nếu không thì sẽ không thể
tồn tại và rất mong muốn nhận được những tài trợ hàng năm của các tổ chức,
cá nhân [Phỏng vấn sâu, tháng 12.2014].
Được biết trong khi CLB ca trù Hà Nội không có bất cứ một nhà tài trợ
nào, thì hiện nay, giáo phường ca trù Thăng Long lại đang may mắn được 2
đơn vị hỗ trợ kinh phí hoạt động và đào tạo, truyền nghề là Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam và của Quỹ Ford. Nhưng dù có tài trợ thì giáo phường Thăng
Long vẫn phải bán vé giống mức vé CLB Hà Nội, cho thấy hoạt động CLB ca
trù nội thành Hà Nội rất khó khăn, nhiều trở ngại và nếu chỉ là sinh hoạt như
những loại hình CLB khác thì các CLB ca trù nội thành sẽ khó tồn tại được.
114
Hiện nay, dù chỉ có 2 điểm biểu diễn chính trong nội thành Hà Nội và
với việc đã chia sẻ mỗi điểm biểu diễn 3 buổi tối cách ngày, nhưng việc cạnh
tranh giữa hai CLB này vẫn không tránh khỏi, tất nhiên là cạnh tranh lành
mạnh về việc tìm nguồn khách. Trong khi CLB ca trù Hà Nội chủ yếu tập
trung vào chất lượng biểu diễn và ca nương, kép đàn với tinh thần “nhất
thanh, nhị sắc” thì giáo phường ca trù Thăng Long lại quan tâm cả hai vấn đề
“thanh”, “sắc” và phong cách trình diễn, giới thiệu, tính bài bản, chuyên
nghiệp nên du khách sẽ cảm thấy ấn tượng hơn và giáo phường Thăng Long
cũng có nguồn khách tốt hơn, nguồn thu cao hơn. Nhưng dù như thế nào, các
CLB, giáo phường này vẫn rất khó khăn. Trong khi chi phí trả điện, nước cho
BQL phố cổ cũng không ít, chi phí trả cho ca nương, kép đàn, trống chầu,
cộng tác viên cũng không nhỏ, ngoài ra còn chi phí hoa hồng cho các đơn vị
giới thiệu, phí quảng bá, in ấn tờ rơi, tập gấp,… tất cả đều thể hiện một điều,
nếu không có sự quan tâm, hỗ trợ của đơn vị tài trợ, hoặc sự chung tay của cơ
quan quản lý nhà nước thì các CLB, giáo phường này sẽ rất khó khăn để phát
triển, qua đó mới có thể làm tốt vai trò bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù,
góp phần đưa ca trù thoát khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp. Còn ngược lại,
nếu để các CLB, giáo phường luôn ở trong tình trạng khó khăn như hiện nay
thì ngay cả chức năng phát huy giá trị di sản còn khó chứ chưa muốn nói đến
chức năng bảo tồn, phục dựng, truyền nghề và đào tạo.
2.2.1.5. Khó khăn trong việc đưa nghệ thuật ca trù đến với công chúng
người Việt Nam của các CLB, giáo phường Hà Nội
Mặt khác, như đã có sự tổng hợp đánh giá ở trên, hiện nay, công chúng
người Việt Nam thật sự không mặn mà với các loại hình nghệ thuật biểu diễn
truyền thống nói chung, ca trù nói riêng. Công chúng là giới trẻ, thanh niên,
học sinh, sinh viên thì càng khó tiếp cận bởi thế hệ này đang có quá nhiều
115
điều mà âm nhạc thế giới, phim ảnh, mạng xã hội trên internet… hấp dẫn họ
trong cuộc sống.
Công chúng Việt Nam, kể cả người lớn tuổi thì đa phần không hiểu ca
trù là gì, chỉ đã từng nghe hát ca trù, lứa trẻ thì càng không. Nếu hỏi khán giả
trẻ Hà Nội về ca sĩ Kiều Anh thì giới trẻ sẽ biết và sẽ nhắc đến việc Kiều Anh
đã từng biểu diễn 1 bài hát ca trù theo phong cách hiện đại trong cuộc thi
Vietnam Got Talent 2013, và tất nhiên, họ cũng không hiểu ca trù là gì và
nghệ thuật truyền thống đó như thế nào.
Rõ ràng, để ca trù đến với công chúng nước ngoài đã khó, nhưng ngay
trong lòng Hà Nội, để ca trù đến với công chúng Việt lại khó hơn gấp nhiều
lần. Đây chính là vấn đề mà theo tác giả, rất cần có một luận án hay một công
trình nghiên cứu quy mô, chuyên sâu riêng biệt về việc làm thế nào để ca trù
đến với công chúng và giới trẻ Việt Nam.
2.2.1.6. Trong công tác tuyên truyền, quảng bá hoạt động biểu diễn
Nếu truy cập vào trang website du lịch nổi tiếng thế giới
tripadvisor.com.vn thì trong những tháng gần đây, CLB ca trù Hà Nội luôn
dẫn đầu trong danh mục các điểm vui chơi giải trí, biểu diễn nghệ thuật, di
sản ở Hà Nội, giáo phường ca trù Thăng Long đứng thứ 4. Điều đó cho thấy,
cả hai đơn vị đã rất nỗ lực để quảng bá, tuyên truyền bằng nhiều hình thức.
Nhưng đó chỉ là bề nổi, còn lại là rất nhiều những khó khăn trong công tác
này, dù đây chính là vấn đề sống còn để có được nguồn khách, từ đó có doanh
thu và tái đầu tư, bảo tồn, phát triển.
CLB ca trù Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng Long có một đội tình
nguyện viên rất nhiệt tình, hết mình cho các hoạt động của CLB. Đội tình
nguyện của CLB ca trù Hà Nội với 30 thành viên hầu hết đều là các bạn trẻ, là
sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn Hà Nội, đã là những
116
thành viên rất tích cực, năng nổ quảng bá ca trù với du khách trong và ngoài
nước với thế mạnh là khả năng ngoại ngữ cùng sự say mê đóng góp cho ca
trù. Không chỉ tham gia giới thiệu ca trù trực tiếp cho khách du lịch tại điểm
biểu diễn hàng đêm mà đội ngũ tình nguyện viên còn thực hiện chiến dịch
quảng bá gián tiếp thông qua các mạng xã hội rất phổ biến hiện nay như
Facebook, Twitter hay trên các Website. Theo thống kê của tác giả trong ngày
20/9/2014 thì có hơn 1.600 lượt yêu thích trên Facebook của CLB ca trù Hà
Nội, 5.809 lượt yêu thích trên Facebook CLB ca trù Thăng Long.
Nếu như ở cấp vĩ mô, ca trù có lợi thế là di sản thế giới thì có thể sẽ
nhiều người biết đến, nhưng trên thực tế, du khách khi đến Hà Nội thì 100%
sẽ biết đến múa rối nước, còn chỉ một phần biết là có biểu diễn ca trù. Hà Nội
có thể có chương trình quảng bá chung chung các loại hình di sản nhưng để
Hà Nội có riêng các chương trình quảng bá về ca trù thì rất khó. Còn ở cấp độ
hỗ trợ quảng bá, tuyên truyền cho các CLB, giáo phường trong nội thành để
có nguồn khách thì hầu như không có bất cứ một chương trình nào, các CLB
sẽ phải tự thân vận động.
10%
30%
Qua trung gian giới thiệu Tự tìm hiểu, đi ngang qua Khác
60%
Nguồn: Tổng hợp điều tra của NCS, tháng 3/2014
Biểu đồ 2.3. Kênh thông tin du khách đến xem ca trù
Biểu đồ trên cho thấy, có tới 60% du khách khi được hỏi đều trả lời rằng,
họ biết đến các điểm biểu diễn ca trù ở phố cổ qua việc tự tìm hiểu, đa phần
117
trong số 60% đó là đi ngang qua phố cổ, thấy quảng cáo giới thiệu và mua vé
vào xem, vì tò mò là chủ yếu. Chỉ có 30% là qua trung gian giới thiệu như
công ty lữ hành hay khách sạn nơi khách ở giới thiệu.
Ở đây, vai trò trung gian để đưa nguồn khách đến các điểm biểu diễn
này chính là vai trò của ngành du lịch Thủ đô, cụ thể hơn là vai trò của các
công ty lữ hành quốc tế ở Hà Nội. Đã có cuộc hội thảo có sự góp mặt của các
công ty lữ hành Hà Nội về việc tìm giải pháp cho nguồn khách đến với các
CLB ca trù thì các công ty lữ hành đã tỏ ra rất chia sẻ, quan tâm, nhưng sau
đó thì trong các tour du lịch của họ, chỉ có múa rối nước được đưa cố định
vào trong các chương trình du lịch, còn ca trù dù là di sản thế giới cũng không
thể được đưa vào, do các công ty lữ hành cảm thấy không yên tâm đưa khách
đi nghe một loại hình nghệ thuật mà chính lãnh đạo các công ty lữ hành cũng
không thích hoặc không mặn mà.
Thiết nghĩ, Sở Văn hóa, Thể thao và Sở Du lịch Hà Nội cần nghiên cứu
kĩ hơn việc khuyến khích các công ty lữ hành trên địa bàn thủ đô quan tâm
hơn nữa đến các điểm biểu diễn ca trù phố cổ, vì nếu có cả sự chung tay của
cơ quan quản lý nhà nước và các công ty lữ hành thì mới có hy vọng, ca trù sẽ
“đỏ đèn” hàng ngày.
2.2.1.7. Trong công tác tổ chức quản lý
Thực tế cho thấy, việc quản lý hoạt động của các CLB, giáo phường ca
trù trong nội thành Hà Nội hiện nay không hề dễ. Nếu như CLB, giáo phường
nào cũng sinh hoạt theo kiểu làng, thôn, xóm hay theo kiểu gia đình, họ tộc
như Lỗ Khê, Thái Hà, Chanh Thôn thì không khó để quản lý vì nó là một thiết
chế văn hóa đã được hoàn chỉnh ngay tại không gian văn hóa của họ mà chính
các nghệ nhân là chủ thể. Nhưng các CLB ca trù hiện đang hoạt động gắn với
118
du lịch thì công tác quản lý hoạt động, công tác giám sát, kiểm tra hoạt động
truyền nghề, đào tạo thế hệ trẻ, giữ vốn ca trù cổ là rất khó khăn.
Dù cho các CLB, giáo phường đã được kiểm kê và thuộc lĩnh vực quản
lý chuyên môn của ngành văn hóa, của Viện Âm nhạc và cho thấy trách
nhiệm và cam kết trong việc bảo vệ di sản, tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng
hiện nay là tình trạng “cha chung không ai khóc”, các CLB, giáo phường chủ
yếu là tự thân vận động. Theo dữ liệu điều tra trước đó, ngay sau khi ca trù
được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn
cấp, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội (nay là Sở Văn hóa, Thể thao)
đã có chương trình hành động bảo vệ ca trù theo Chương trình hành động
nhưng tất cả hầu như mới chỉ dừng lại ở chính sách mà chưa thực sự đi vào
thực tế. Trong 6 nội dung chương trình hành động quốc gia về bảo vệ ca trù
thì có thể nói, Hà Nội chưa làm được những điều quan trọng như việc đưa ca
trù thực sự đến với công chúng, lan tỏa trong cộng đồng, giáo dục thế hệ trẻ,...
Viện Âm nhạc Quốc gia cũng không có dự án âm nhạc nào với Hà Nội về
việc quản lý ca trù. Trong những năm vừa qua, những việc mà đội ngũ quản
lý di sản đã làm được so với kế hoạch, chương trình đặt ra mới chỉ là kiểm kê,
lên danh sách các nghệ nhân ca trù… Hầu như hiện nay tại Hà Nội, các CLB
ca trù đều tự quản lý, tự truyền và dạy nghề cũng như biểu diễn ca trù.
Qua thực tế khảo sát điền dã, công tác quản lý di sản văn hóa phi vật thể
nói chung và quản lý di sản ca trù cần được bảo vệ khẩn cấp nói riêng của Hà
Nội còn hạn chế. Việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của ca trù thiếu sự quan tâm và quản lý một cách lỏng lẻo; các cuộc thi,
chương trình biểu diễn ca trù diễn ra thưa thớt, không thường xuyên. Ví dụ
như Liên hoan ca trù Hà Nội được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, nhưng
phải 12 năm sau, năm 2012, Liên hoan ca trù Hà Nội mới được tổ chức lần
thứ hai. Hạn chế này còn được thể hiện trong việc thiếu quan tâm đến các
119
nghệ nhân - những lực lượng nòng cốt giữ gìn và bảo tồn nghệ thuật ca trù,
ngay như việc để có một chế độ đãi ngộ với các nghệ nhân, nghệ sĩ và có
những chính sách cho các CLB ca trù sau nhiều năm “nâng lên, đặt xuống” thì
tới nay các nghệ nhân vẫn tiếp tục phải chờ đợi. Một điều không hiếm gặp là
các nghệ nhân dân gian ca trù không biết làm gì với danh hiệu của mình vì họ
không nhận được chế độ đãi ngộ gì ngoài cái danh hiệu đó.
Điểm mà Hà Nội đã làm được trong thời gian qua là Sở Văn hóa, Thể
Thao và Du lịch Hà Nội (nay là Sở Văn hóa, Thể Thao) đã đưa ra dự án
“Nghiên cứu, truyền dạy, phát huy và kiểm kê ca trù”. Theo đó, dự án tập
trung vào công tác nghiên cứu, kiểm kê và trình diễn ca trù. Dự án gồm 4 nội
dung chính: công tác nghiên cứu khoa học, công tác truyền dạy trong cộng
đồng, công tác phát huy ca trù trong đời sống và công tác kiểm kê.
Một trong những nguyên nhân được một số nhà nghiên cứu lý giải việc
ca trù Việt Nam nói chung và ca trù Hà Nội nói riêng đều đang để tình trạng
các CLB, giáo phường tự quản lý là chính, tự truyền và dạy nghề cũng như tổ
chức biểu diễn, đó là nếu như hát Xoan, Quan họ, nhã nhạc cung đình Huế dễ
quản lý hơn vì chỉ nằm trong 1 địa phương (cùng lắm là 2 địa phương như
quan họ), thì ca trù có mặt rộng khắp cả nước ở 16 tỉnh thành.
2.2.2. Những thuận lợi
Ca trù giờ đây đã là một di sản thế giới và nghệ thuật ca trù sau rất nhiều
năm được khôi phục lại đã dẹp bỏ được những quan niệm sai lầm do nạn cô
đầu rượu trước kia để lại. Bên cạnh niềm vui của một di sản thế giới mà Việt
Nam nói chung và Hà Nội đang sở hữu thì những điều đang diễn ra là rất
đáng mừng bởi chính những quan niệm sai lầm, không hay trước kia mà công
chúng quay lưng với ca trù.
120
Đảng và Nhà nước, đại diện là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với đơn
vị chức năng là Cục Di sản văn hóa và các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
các địa phương có ca trù, trong đó có Hà Nội, đã phần nào đó bắt đầu quan
tâm đến công tác bảo tồn di sản ca trù. Điển hình là Chương trình hành động
quốc gia về bảo vệ di sản ca trù và đưa ca trù thoát khỏi tình trạng cần được
bảo vệ khẩn cấp được ban hành ngay trong năm 2010. Một số công ty, doanh
nghiệp lữ hành cũng bắt đầu quan tâm, lồng ghép những buổi biểu diễn ca trù
vào chương trình du lịch của mình, vừa tạo một điểm mới trong chương trình
du lịch văn hóa, vừa góp phần giữ gìn và bảo tồn ca trù. Thời gian qua, nghệ
thuật ca trù đã tạo được sự chú ý của không chỉ các nhà nghiên cứu văn hóa,
âm nhạc mà với cả cộng đồng quốc tế thông qua các chuyến lưu diễn, các hội
chợ, các Festival, những nghiên cứu khoa học. Được biết, CLB ca trù Thái Hà
rất nổi tiếng với các chuyến lưu diễn sang châu Âu, Mỹ, Úc phục vụ khách
quốc tế.
Tất nhiên, không thể không nhắc đến những thuận lợi từ chính chủ thể
văn hóa ca trù đem lại, đó là niềm tự hào, tinh thần, ý thức giữ gìn giá trị
truyền thống của các nghệ nhân, những CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội
đang ngày đêm tìm cách gìn giữ, bảo tồn nghệ thuật truyền thống, đồng thời
khai thác, phát huy giá trị di sản ca trù. Vai trò đó vừa là động lực, vừa là cơ
hội để các CLB, giáo phường phát triển.
Cùng với sự hội nhập, mở cửa của đất nước khi hội nhập trong bối cảnh
toàn cầu hóa, ca trù với những nét đẹp riêng độc đáo của mình đang có rất
nhiều cơ hội để không những quảng bá giới thiệu hình ảnh đến với bạn bè
quốc tế mà còn lưu giữ được những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc bên cạnh
những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ. Suy cho cùng thì văn hóa
chính là cội nguồn của dân tộc, phát triển du lịch văn hóa qua di sản ca trù
cũng chính là cách để giữ gìn và phát huy những nét đẹp xưa cũ đó.
121
Tiểu kết chương 2
Có thể nói, ca trù Hà Nội chưa xứng với tiềm năng và vị thế mà ca trù
Hà Nội đáng ra phải có. Số lượng CLB, giáo phường, làng thôn ca trù lớn
nhất cả nước, nhưng hoạt động riêng lẻ, manh mún, tự phát và thiếu định
hướng, theo kiểu “mạnh ai nấy làm”, thiếu một “sợi dây gắn kết” với nhau để
tạo thành một khối vững chắc, có sự chia sẻ, giao lưu, học tập lẫn nhau. Mô
hình CLB, giáo phường như CLB ca trù Hà Nội, giáo phường ca trù Thăng
Long, giáo phường Thái Hà thể hiện sự tích cực trong khai thác, phát huy,
quảng bá giá trị di sản ca trù Hà Nội, nhưng với tỷ lệ CLB, giáo phường của
cả Hà Nội thể hiện được vai trò phát huy thông qua biểu diễn nghệ thuật quá
ít ỏi so với một không gian đồ sộ mà ca trù Hà Nội đang có.
Công tác bảo tồn ca trù Hà Nội cơ bản vẫn được thực hiện nhờ nỗ lực
của các giáo phường, làng thôn ca trù như Thái Hà, Thăng Long, Lỗ Khê,
Chanh Thôn,… nhưng thực tế, đó vẫn là sự bảo tồn của từng thiết chế làng xã,
giáo phường riêng lẻ, chưa có nhiều dấu ấn của định hướng, hỗ trợ bài bản,
khoa học của các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh một số thời cơ, thuận
lợi, sau 5 năm, ca trù Hà Nội vẫn gặp quá nhiều khó khăn, thách thức, thể
hiện ở các khía cạnh như: Chưa quan tâm hỗ trợ nghệ nhân, nghệ sĩ ca trù;
khó khăn về các điểm biểu diễn, không gian biểu diễn, nhân lực biểu diễn,
nguồn thu hạn chế, khó khăn trong quảng bá và thiếu sự liên kết hợp tác của
các công ty lữ hành, vấn đề đào tạo, truyền nghề, khó khăn trong phục dựng
hương ước, quy ước giáo phường, khó khăn khi công chúng Việt Nam, giới
trẻ thờ ơ với ca trù và một số nghệ thuật truyền thống khác… Tất cả cho thấy,
để ca trù Hà Nội thoát khỏi tình trạng cần được bảo vệ khẩn cấp và phát huy
được giá trị di sản, thì Chương trình hành động mà Hà Nội áp dụng, vận dụng
để bảo vệ di sản ca trù phải được thực thi hiệu quả hơn nữa, có sự quan tâm,
122
sâu sát hơn của các cơ quan quản lý, và có được một chiến lược tổng thể, dài
hạn hơn cho bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù Hà Nội.
Cùng với những định hướng và kế hoạch hành động một cách cụ thể, dài
hơi, quyết liệt của Hà Nội trong việc bảo tồn, phát huy ca trù thời gian tới,
NCS cũng mong muốn qua thực trạng được đề cập ở chương 2, đặc biệt là
qua những vấn đề đúc kết được ở trên, sẽ tìm ra được những vấn đề bàn luận,
luận giải về mô hình, giải pháp phù hợp cho hoạt động của một số CLB, giáo
phường Hà Nội nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù.
123
Chương 3
BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ, MỘT SỐ VẤN ĐỀ BÀN LUẬN
3.1. Bàn luận về quan điểm bảo tồn, phát huy di sản ca trù qua hoạt
động biểu diễn nghệ thuật của một số CLB, giáo phường tại Hà Nội
Di sản văn hóa phi vật thể, tồn tại phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và
hành vi của các chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu di sản. Trong những
trường hợp cá biệt, chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu di sản là một cộng
đồng cư dân, thì ý chí, khát vọng, nhu cầu, thậm chí lợi ích của họ cũng có tác
động không nhỏ đến sự tồn vong của di sản văn hóa phi vật thể. Chính họ là
nhân tố quyết định những di sản văn hóa phi vật thể nào cần được bảo tồn,
phương cách bảo tồn, sử dụng và khai thác chúng nhằm thỏa mãn nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của cá nhân và cộng đồng.
UNESCO, với nhận thức mới, coi đa dạng văn hóa là một đặc tính phổ
quát toàn nhân loại, có khả năng tạo nên một thế giới phong phú và đa dạng,
điều này làm tăng các lựa chọn và nuôi dưỡng khả năng và giá trị của con
người. Vì thế, đa dạng văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển bền
vững cho các cộng đồng, các dân tộc và quốc gia.
Có thể nói, đa dạng văn hóa có nghĩa là có nhiều cách thức khác nhau,
thông qua đó nền văn hóa của các nhóm người và xã hội tìm ra cách biểu đạt,
những biểu đạt này được tuyên truyền trong mỗi nhóm xã hội, cũng như giữa
các nhóm người và các chế độ xã hội với nhau. Đa dạng văn hóa được thể
hiện không chỉ bằng những cách thức khác nhau, trong đó di sản văn hóa của
nhân loại không những được thể hiện, bồi đắp và chuyển tải qua nhiều thể loại
biểu đạt văn hóa, mà còn được thể hiện bằng những cách thức sáng tạo nghệ
thuật, sản xuất, phổ biến, phân phối và hưởng thụ cho dù sử dụng bất cứ
phương tiện và công nghệ nào.
124
Nhìn chung, di sản văn hóa Việt Nam mang “tính dân gian” rất rõ rệt.
“Tính dân gian” trong di sản văn hóa phi vật thể lại càng đậm đặc hơn và Di
sản ca trù là ví dụ điển hình. Văn hóa dân gian cho khả năng khai thác kho
tàng tri thức bản địa và kho tàng tri thức cha ông ta để lại cho ca trù không hề
nhỏ. Riêng các kho tư liệu chữ Hán của ca trù cũng rất đồ sộ.
Có nhiều quan điểm khác nhau về bảo tồn và phát huy giá trị di sản nói
chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng. Trước đây, trên thế giới và tại
Việt Nam vẫn tồn tại 2 quan điểm cơ bản được nhiều học giả, chuyên gia
thống nhất, đó là Bảo tồn nguyên vẹn và Bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
Với quan điểm bảo tồn nguyên vẹn thì các học giả đã cho rằng, điều quan
trọng nhất trong bảo tồn chính là “đóng cửa”, không để bên ngoài xâm nhập
tới các sản phẩm văn hóa, các thiết chế di sản, khép kín và giữ gìn để tránh
mọi tác động bên ngoài làm phương hại đến chúng. Điều này, với một số di
sản nhất định thì mang lại một số kết quả rất tốt, vì nhờ cách bảo tồn đó, trong
nhiều năm qua, thế giới và Việt Nam vẫn lưu giữ được nhiều di sản nguyên
gốc, nhiều sắc thái văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhiều nhà
nghiên cứu thì văn hóa nói chung, trong đó có văn hóa phi vật thể luôn gắn bó
với đời sống, con người, với môi trường xã hội. Do đó, nó luôn biến đổi để
phù hợp với mọi thay đổi của cuộc sống. Bởi vậy, bảo tồn theo khuynh hướng
này bộc lộ hạn chế là làm khô cứng các sản phẩm văn hóa.
Với quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa thì cần phải có cách thức quản
lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một ngành công nghiệp văn hóa
với những logic quản lý đặc biệt, phù hợp với tính đặc thù của các di sản hoặc
cụ thể hơn là quan tâm di sản văn hóa để phát triển du lịch, để khẳng định tính
đa dạng trong sáng tạo của con người. Bên cạnh đó, một số tác giả cũng cho
rằng cần quan tâm làm thế nào lưu giữ được các di sản văn hóa thông qua
125
cách tiếp cận mới và phương tiện kỹ thuật mới. Nhìn chung, quan điểm này
dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải được thực hiện sứ mạng lịch sử của mình ở
một thời gian và không gian cụ thể. Khi di sản ấy tồn tại ở thời gian và không
gian hiện tại, di sản ấy cần phát huy giá trị văn hóa - xã hội phù hợp với xã
hội hiện tại và phải loại bỏ đi những gì không phù hợp với xã hội ấy.
Rõ ràng, có thể hiểu một cách đầy đủ và đúng nghĩa khi đặt hoạt động
bảo tồn trong mối quan hệ với phát huy, phát triển bền vững. Ngoài việc lưu
giữ để không mất đi các giá trị văn hóa, bảo tồn còn phải biết lựa chọn trong
các hiện tượng đang có nguy cơ bị mất đi, những yếu tố, những khả năng tiềm
ẩn để làm cho chúng tồn tại cùng với sự phát triển đi lên của cuộc sống. Mục
đích sâu xa của bảo tồn là đưa di sản văn hóa vào cuộc sống để phát huy giá
trị của chúng. Nói cách khác, di sản ca trù muốn bảo tồn và phát huy được thì
cần phải có công chúng. Khi có công chúng, hoạt động biểu diễn nghệ thuật
ca trù mới có thể có đất diễn, có người xem, nghe và có sự quan tâm. Như
vậy, theo NCS, quan điểm trên cần phải được nhìn nhận một cách linh hoạt.
Tuy vậy, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể phải đảm
bảo được tính bền vững của di sản. Tính bền vững phản ánh khả năng ổn
định của các thành phần và bộ phận cấu thành di sản. Ví dụ, di sản ca trù,
ngoài thành phần vô cùng quan trọng cần phải bảo tồn là di sản âm nhạc ca
trù, thì còn có thành tố quan trọng không kém để phát huy các giá trị âm nhạc
đó là các thiết chế làng, thôn, giáo phường, CLB ca trù cả ở thành thị và nông
thôn. Bên cạnh đó là vai trò của từng nghệ nhân, nghệ sĩ, các tổ chức xã hội
có liên quan, các tài liệu, tư liệu ca trù cổ,… Những tác động của các hoạt
động bên ngoài như thương mại, du lịch, môi trường, xã hội công nghệ,… đến
di sản có điều tích cực như tạo hiệu quả đối với việc tiến hành nghiên cứu,
xếp hạng, tôn vinh giá trị của di sản, tạo nên hiệu quả kinh tế trực tiếp và gián
tiếp, nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
126
- xã hội quốc gia và địa phương, nhưng cũng không ít tác động tiêu cực mà có
thể dẫn đến phát triển di sản thiếu tính bền vững như sự suy thoái môi trường,
hư hại di sản văn hóa, tệ nạn xã hội, gây dịch bệnh… Bên cạnh đó, nó còn
chịu chi phối bởi không gian sống của chính di sản. Bởi lẽ, di sản văn hóa phi
vật thể không chỉ gắn bó với các chủ thể văn hóa mà còn hòa quyện vào
không gian sinh thái - nhân văn, nơi chúng được sáng tạo ra và đang hiện diện
trong đời sống đương đại của cộng đồng. Với ca trù, các CLB, giáo phường,
các làng, thôn ca trù chính là các không gian sống của di sản. Nhưng trên thực
tế, các không gian sống là các thiết chế văn hóa này sẽ không thể tồn tại, phát
triển độc lập được, mà sẽ phải chịu ảnh hưởng của các không gian văn hóa, xã
hội, không gian tự nhiên, nhân văn, không gian thương mại, kinh tế. Do đó,
các chủ thể văn hóa ca trù là các nghệ nhân, các CLB, giáo phường sẽ phải
bảo tồn bằng cách giữ gìn nền nếp ca trù cổ, phục dựng tốt các loại hình ca trù
mà cha ông để lại, nhưng lại vẫn phải hài hòa với sự phát triển của thời đại, để
cộng đồng chấp nhận được. Trong quá trình phát triển của nghệ thuật ca trù
tại Hà Nội, sự sáng tạo trong các hình thức biểu diễn, giới thiệu, có những
điều một số CLB, giáo phường đã làm khá sáng tạo. Ví dụ, trong 1 buổi diễn,
các CLB, giáo phường vẫn dành 80% thời lượng để giới thiệu giá trị di sản ca
trù, 20% còn lại để giới thiệu kèm theo một số nghệ thuật biểu diễn truyền
thống khác để nâng cao tính hấp dẫn cho buổi diễn, bớt sự nhàm chán. Giáo
phường Thăng Long trong quá trình biểu diễn còn giới thiệu 1 - 2 tiết mục
đàn bầu, đàn tranh, đàn tỳ bà, cuối buổi còn trình diễn nghệ thuật hát văn, hầu
đồng. Còn thực tế, nếu bảo thủ, cứng nhắc tất yếu sẽ bị đào thải, loại trừ, thậm
chí tàn lụi, vì bản chất của các di sản văn hóa phi vật thể là cộng đồng, công
chúng hay chính bản thân chủ thể sẽ khó có thể hài lòng và chấp nhận sự
đông cứng và bất biến.
127
Nhìn chung, theo quan điểm của NCS và cũng là khung lý thuyết áp
dụng xuyên suốt trong luận án, bảo tồn di sản cần được bảo vệ khẩn cấp
như ca trù thì cần phải kế thừa, đi kèm với khai thác, phát huy giá trị của nó
trong đời sống xã hội cụ thể, nhưng phải dựa trên những xung đột, biến đổi
đã diễn ra và đảm bảo tính bền vững. Bảo tồn cần phải quan tâm đến những
đặc điểm xã hội trong từng thời điểm cụ thể, tức là phải lựa chọn để bảo tồn
những gì phù hợp với thời đại với những biến đổi sâu sắc, đa dạng. Tác giả
luận án rất đồng thuận với quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa để phát huy
giá trị vì ca trù chính là một di sản phi vật thể, lại cần được bảo vệ khẩn cấp,
nếu mong muốn bảo tồn nguyên vẹn trong bối cảnh toàn cầu hóa, thời đại
công nghệ, xã hội phát triển như ở Việt Nam hiện nay thì sẽ không thể làm
được, vì đó là một “di sản sống”, có chiều dài lịch sử, cũng đã trải qua nhiều
thăng trầm với nhiều thời cuộc, giai đoạn xã hội khác nhau (ví dụ: ca trù tồn
tại, phần nào bị biến sắc dưới một hình thức khác là ả đào, cô đầu thời kì Pháp
đô hộ đầu thế kỉ XX). Do đó, bảo tồn và phát huy chính là yếu tố then chốt để
ca trù thực sự sống trong lòng cộng đồng, công chúng.
Đối với di sản ca trù, áp dụng vào thực tế hiện trạng di sản này dựa trên
khía cạnh bảo tồn và phát huy nên là:
- Bảo tồn gắn với các thiết chế giáo phường, CLB, làng thôn ca trù tại
cộng đồng: Di sản ca trù về bản chất được thể hiện ở chính các thiết chế thôn,
làng, giáo phường, gắn liền với cuộc sống hàng ngày của người dân và cộng
đồng. Sau này, khi xã hội phát triển thì hình thức sinh hoạt cộng đồng ca trù
cũng có những thay đổi, biến đổi nhất định. Vẫn còn đó những giáo phường,
làng, thôn, xóm ca trù ở nông thôn, ngoại thành, và thêm vào đó là những
CLB, giáo phường với mô hình tổ chức hoạt động đã có những biến đổi trong
nội thành. Tuy vậy, dù ở không gian nào thì ca trù cũng luôn thể hiện vai trò
đặc biệt quan trọng trong cộng đồng. Do đó, việc bảo tồn gắn với chủ thể văn
128
hóa ở làng thôn, giáo phường, CLB là cách tốt nhất để cho di sản này được
sống trong lòng cộng đồng.
- Chú trọng phát huy giá trị di sản ca trù cũng gắn với các thiết chế giáo
phường, CLB, làng thôn ca trù tại cộng đồng : Bảo tồn giá trị di sản văn hóa
ca trù là tìm cách làm cho nó có thể sống thực sự trong lòng công chúng, cộng
đồng, tồn tại trong đời sống thực, còn phát huy các giá trị di sản là để đưa giá
trị văn hóa đến với cộng đồng, giúp cộng đồng phát triển văn hóa, tăng thu
nhập, hiểu biết hơn về giá trị di sản. Phát huy các giá trị di sản văn hóa ca trù
thì phải biết kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của đời trước để lại,
làm cho các giá trị của di sản văn hóa thấm sâu, lan tỏa vào đời sống cộng
đồng xã hội, đó là cách bảo tồn tốt nhất. Phát huy giá trị di sản văn hóa ca trù
là để phát triển trong chính cộng đồng, đó là các CLB, giáo phường, thôn làng
ca trù, một mặt là phát triển giao lưu văn hóa, một mặt là phát triển kinh tế.
Để phát huy giá trị di sản văn hóa ca trù thì phải biết mở rộng giao lưu văn
hóa để làm giàu thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong
bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, tức là phải khuyến khích các mô hình
CLB, giáo phường đã và đang tiên phong trong việc bảo tồn, nhưng lại phát
huy thông qua các hoạt động du lịch, hoạt động biểu diễn cho du khách hoặc
hoạt động tổ chức các chương trình biểu diễn khác tại các liên hoan nghệ
thuật, liên hoan du lịch, festival văn hóa trong và ngoài nước. Tuy vậy, vẫn
phải phát huy các giá trị di sản văn hóa nhằm mục tiêu phát triển du lịch bền
vững, phục vụ tích cực cho công tác bảo tồn di sản văn hóa ca trù.
Điểm nhấn mạnh về quan điểm bảo tồn, phát huy di sản ca trù ở đây là:
- Di sản ca trù là di sản phi vật thể thuộc loại hình nghệ thuật biểu diễn
truyền thống, được cộng đồng gìn giữ, kế thừa và phát huy nên nó phải tiếp
129
tục được chúng ta tìm tòi các cách thức để nó còn sống mãi trong công chúng,
trong cộng đồng.
- Di sản văn hóa phi vật thể ca trù là một lựa chọn quan trọng cho phát
huy giá trị di sản văn hóa. Đó là di sản sống, lại đang sống trong bối cảnh hiện
đại hóa kinh tế đất nước, bối cảnh xã hội trong không gian tổng thể của toàn
cầu hóa nên cần bảo tồn nhưng lại phải phát huy được đầy đủ giá trị của nó,
nhưng phải là phát triển bền vững, chịu sự chi phối bởi công ước bảo vệ di
sản của UNESCO.
- Kế hoạch bảo tồn di sản không thể tách rời khỏi các chiến lược phát
triển khác, trong trường hợp này là phát huy, phát triển hoạt động của các câu
lạc bộ, giáo phường, phát triển hoạt động du lịch văn hóa với nghệ thuật biểu
diễn truyền thống, trong đó ca trù là trọng tâm.
- Trong trường hợp phát huy qua hoạt động biểu diễn ca trù tới du khách,
thị trường bao gồm cung và cầu, thì nguồn lực ca trù chịu tác động bởi cả hai
yếu tố. Và một trong những yếu tố quan trọng của nguồn lực thị trường, đó là
các doanh nghiệp lữ hành, các trung gian quảng bá giới thiệu ca trù tới du
khách và bản thân các du khách trong và ngoài nước.
3.2. Bàn luận những biến đổi của các CLB, giáo phường tại Hà Nội
Nhiều nhà nghiên cứu di sản văn hóa Việt Nam đã cho rằng, thiết chế
chịu trách nhiệm quản lý di sản văn hóa phi vật thể và không gian đi kèm
phải bao gồm nòng cốt là những cá nhân thuộc cộng đồng. Nói cách khác,
thiết chế đó phải được xây dựng từ cộng đồng và dựa trên cộng đồng. Trong
di sản ca trù có thiết chế thời xưa là giáo phường, làng, thôn ca trù, còn ngày
nay, tồn tại thêm hình thức CLB, nhưng nòng cốt vẫn là các nghệ nhân ca trù,
hay nói cách khác là cộng đồng. Đó là sự biến đổi thiết chế rõ rệt nhất.
130
Có thể thấy, cách quản lý theo hình thức CLB ca trù ở Hà Nội được triển
khai từ những năm 1991, sau này là giai đoạn phát triển nhiều CLB hơn (2005
- 2006 đến nay), là một mô hình cộng đồng khá hiệu quả, rất gần với mô hình
“Giáo phường” truyền thống, giúp ca trù được bảo tồn trong một môi trường
sống mới, dù cho môi trường sống đó còn quá nhiều khó khăn và tồn tại.
Trên thực tế, với mô hình thời kì mới là CLB, với những nỗ lực và tâm
huyết của cộng đồng, nghệ nhân, với sự ủng hộ của các địa phương, các ban
ngành liên quan, Hà Nội và một số địa phương phía Bắc và Bắc Trung Bộ đã
có được một không gian thiết chế cho nghệ thuật ca trù, tìm được môi trường
thực hành và diễn xướng trong thời gian chuyển tiếp chờ đợi UNESCO công
nhận theo tiêu chí mới, cho dù vẫn còn nhiều thách thức.
Theo quan điểm được đặt ra để bàn luận ở phần 3.1 của luận án, bảo tồn
di sản cần được bảo vệ khẩn cấp như ca trù trên cơ sở kế thừa những điều tốt
đẹp mà ông cha ta đã dày công gây dựng, và cần phải đi kèm với khai thác,
phát huy giá trị của nó trong đời sống xã hội cụ thể, nhưng phải dựa trên
những biến đổi đã diễn ra để bảo tồn, kế thừa và phát huy cho phù hợp.
Ca trù đã có một chỗ đứng vững chắc trong kho tàng âm nhạc, nghệ
thuật, văn hóa truyền thống Việt Nam. Vì vậy, để bảo tồn, kế thừa được
những điều mà người xưa đã truyền lại là không đơn giản. Rất cần có những
đối chiếu để tìm ra sự biến đổi về tổ chức và mô hình hoạt động xưa và nay,
qua đó tìm ra những điểm tích cực để phát huy, những điểm chưa phù hợp để
bàn luận, trao đổi và kiến nghị và tìm ra một mô hình CLB, giáo phường phù
hợp nhất đối với một số CLB, giáo phường nội thành Hà Nội hiện nay.
3.2.1. Tổ chức làng xã, giáo phường ca trù thời xưa
Theo TS. Nguyễn Xuân Diện, giáo phường ca trù được tổ chức quy củ,
chặt chẽ. Quyền lợi lớn nhất của giáo phường được xác nhận trong một tấm
131
bia đá dựng ngay trước cửa đình là được quyền giữ cửa đình này. Đào nương
và kép đàn đều phải thuộc các giáo phường. Mỗi giáo phường là một họ, được
đặt tên cụ thể và lối gọi này chỉ dùng trong giáo phường với nhau. Xưa, nhiều
giáo phường được đặt dưới sự quản lý của Ty giáo phường.
Theo đó thì Ty giáo phường là một tổ chức quản lý hoạt động ca xướng
tương đương cấp huyện. Giáo phường các xã thuộc về Ty giáo phường của
huyện. Ty giáo phường huyện quản lý hoạt động của các giáo phường các xã
trong huyện. Mỗi huyện thường có một Ty giáo phường mà người đứng đầu
là một ông trùm. Ty giáo phường phân chia việc giữ các cửa đình trong huyện
cho các giáo phường. Việc giữ này được truyền từ đời này sang đời khác. Các
giáo phường này được phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng này, hoặc
được phép tùy ý mời giáo phường khác đến hát giúp trong những ngày tiệc
của làng và hưởng quyền lợi. Đặc biệt, giáo phường sẽ được hát trong lễ xông
đình trong dịp hoàn thành công việc tu tạo sửa chữa đình làng. Ngược lại,
giáo phường cũng phải có một số trách nhiệm đóng góp vào các nghi thức hát
xướng tế lễ của làng, theo mức độ quy định giữa làng xã sở tại với giáo
phường. Quyền lợi của giáo phường được xác định bằng một tấm bia đá đặt
trang trọng ngay trước cửa đình làng mà giáo phường được quyền hưởng lợi.
Việc giữ cửa đình này được truyền từ đời này sang đời khác, tuy nhiên nếu
cần tiền để lo việc quan hoặc để chi dùng các việc, giáo phường có thể sang
nhượng lại quyền này cho quan viên trong chính làng xã có đình, từ đó làng
xã này không phải trả tiền cho giáo phường như quy định trước đó nữa.
Trong giáo phường xưa, việc thờ kính thầy dạy rất được xem trọng. Trò
coi thầy như cha mẹ, “sống tết, chết giỗ”. Những ả đào già có tài thường dạy
dỗ được nhiều học trò thành nghề và rất được kính trọng. Mỗi khi các học trò
đi hát được trả tiền công vẫn thường trích ra một khoản tiền để góp với giáo
phường cung dưỡng thầy. Đối với giáo phường, tất cả các công việc như lễ tế
132
tổ hằng năm, các lệ kiêng tên tổ ca trù, việc thờ thầy, việc chia tiền hát, lệ mở
xiêm áo để công nhận một cô đào bắt đầu được hành nghề đều được tổ chức
và tuân thủ nghiêm ngặt và tự nguyện. Chính cách tổ chức giáo phường như
thế đã tạo nên những nét đẹp nhân văn của giáo phường, khiến cho đào kép
ngày xưa rất được cộng đồng làng xã trân trọng và kính nể.
Như vậy, từ những căn cứ nêu trên, có thể nói, thời xưa, ngay từ khi hình
thành nghệ thuật ca trù thì không gian ca trù chính là không gian tại các làng,
xã, thôn xóm ở các vùng quê đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nhưng tổ
chức giáo phường chưa được hình thành cụ thể và có luật lệ như sau này.
Nhiều làng quê đều có giáo phường. Sau đó, với sự phát triển của đô thị và
nhu cầu cuộc sống mưu sinh, nhiều nhóm ca trù từ các làng quê đã chọn các
đô thành làm chốn sinh nhai để diễn xướng, từ đó, dần dần đã tạo lập nên
những giáo phường do những nhóm người làm nghề ca xướng thường cụm
nhau lại thành từng cộng đồng nghề nghiệp trong các phường xóm riêng biệt.
Xét về giáo phường ca trù lâu đời ở Hà Nội thì có thể kể đến giáo phường Lỗ
Khê, Chanh Thôn, Đồng Trữ,… và sau này có giáo phường Thái Hà.
Trong các giáo phường, bên cạnh việc ca hát, học âm nhạc thì do yêu
cầu tổng thể của nhiều hình thức diễn xướng, các đào nương còn được đào tạo
cả về kỹ năng của nghệ thuật múa, trình diễn và nhiều kiến thức bổ trợ khác,
như học các thể thơ văn của ca trù. Về vấn đề này, cho đến nay, các tài liệu
vẫn chưa thống nhất được việc các đào nương có "biết đọc, biết viết" hay
không. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng thơ ca trong ca trù đã đạt tới tầm cao
trong nền văn học nghệ thuật dân tộc. Để hát xướng và truyền cảm được các
bài thơ đó, đào nương tất phải có một trình độ hiểu biết nhất định về thơ ca
nói chung, văn tự nói riêng. Trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, việc
"học chữ" vốn là "lĩnh vực" chỉ dành riêng cho nam giới (tức nói chung mọi
người phụ nữ đều mù chữ). Bởi vậy trình độ "biết đọc, biết viết" văn thơ (nếu
133
có) của đào nương hẳn là do quản giáp hay các ông trùm nơi giáo phường
truyền thụ. Hiện tượng này tỏ ra phù hợp với giai đoạn phát triển đỉnh cao của
ca trù - khi mà nghệ thuật thơ ca trong đó đã vượt quá tầm bình dân.
Về mặt địa bàn cư trú, theo Nguyễn Đôn Phục trong Nam Phong tạp chí
thì các giáo phường thời xưa là những tổ chức xã hội có tính thống nhất.
Trong khắp các vùng từ miền Bắc vào tới Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình hầu như vùng nào cũng tồn tại vài làng ả đào trong mỗi huyện lỵ.
Tùy từng hoàn cảnh cụ thể, các làng ả đào trong một huyện hoặc vài ba huyện
liên kết lại với nhau thành một giáo phường. Như vậy, mỗi giáo phường bao
giờ cũng là sự tập hợp của nhiều họ nghề truyền thống.
Trong mỗi giáo phường, người ta bầu ra một kép đàn có đủ tài đức song
toàn làm người thủ lĩnh, sắp đặt mọi công việc của giáo phường, gọi là ông
trùm hàng huyện (tức Quản giáp). Bên cạnh đó là hội đồng trị sự của giáo
phường bao gồm các ông trùm họ ở từng làng xã (còn gọi là trùm cửa đình).
Người quản giáp thời xưa được chính quyền công nhận như một thứ chức
dịch và có quyền điều khiển mọi công việc trong mỗi giáo phường. Các giáo
phường chia nhau ra giữ những cửa đình, cửa đền trong mỗi vùng cư trú làm
chỗ sinh nhai. Về mặt xã hội, đây là một tổ chức phường hội rất ổn định trật
tự. Các giáo phường không bao giờ “xâm phạm” đất làm ăn của nhau. Mọi
đầu mối, sự vụ của đào kép trong phường đều do quản giáp sắp đặt, điều
hành. Bên cạnh đó, trong mỗi giáo phường đều tồn tại những luật lệ truyền
thống như những luật tục kiểu làng xã.
Theo Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên khảo
thì trong lịch sinh hoạt thường niên, bao giờ các trùm phường cũng phải hội
họp một lần để làm lễ tế tổ nghề. Sau ngày tế tổ, nếu có những sự vụ phải giải
quyết, hội đồng các ông trùm sẽ cùng họp bàn, phân xử mọi việc trong nội bộ
mỗi giáo phường. Trong các giáo phường, bên cạnh sự ổn định, thống nhất
134
quy củ nghề nghiệp, tất cả mọi thành viên đều phải đảm bảo những quy tắc xã
hội và luân lý gia đình như những người dân bình thường. Chẳng hạn, theo
Việt Nam ca trù biên khảo thì con gái lấy chồng phải nộp cheo cho phường.
Luật lệ bắt buộc mỗi khi đi hát đình đám thì chồng đàn vợ hát, anh đàn em
hát, hoặc bố đàn con hát, đào kép phải trông nom bảo ban nhau. Cô nào mượn
nghề hát xướng để làm việc bất chính, Quản giáp tức khắc mời các vị đàn anh
đàn chị trong phường họp lại tuyên bố tội trạng: nhẹ thì bắt vạ nộp tiền xung
vào quỹ của phường, nặng thì đuổi ra khỏi phường, lại thông cáo cho các
phường khác biết để không phường nào cho vào ở nữa. Vì thế lúc hát, ả đào
không dám nhìn ngang nhìn ngửa, không dám công nhiên nói chuyện với
quan viên, sợ mang tiếng cho gia đình.
Theo phong tục chung của xã hội thời xưa, các đào kép trong giáo
phường khi đi hát đều buộc phải kiêng tên húy của thành hoàng làng, thần chủ
đền, miếu hay các vị quyền cao chức trọng nơi họ diễn xướng. Bên cạnh đó,
họ còn phải kiêng tên húy của chính những vị thần linh tổ nghề Ca trù. Khi
hát đến những từ nào trong lời ca mà trùng âm với tên húy thì họ phải tìm
cách đọc trại đi. Cách đọc trại như thế nào thì tùy từng nơi. Có nơi quy định
song có nơi lại tùy vào mỗi người. Nhưng thường thì người ta hay bắt chước
lối đọc trại phổ biến cho tiện sử dụng và để người nghe dễ bề đối sánh ngữ
nghĩa. Chẳng hạn cứ thấy đào nương hát chữ huê thì khán giả hiểu ngay đó là
chữ hoa, chữ Biệc được hiểu là Bạch (tên húy Bạch Hoa công chúa); hay chữ
Lễ đọc là Lỡi (tên húy Đinh Lễ), Đông đọc là Đương (tên húy Đông Phương
Sóc)... Riêng với những tên húy tổ nghề, giáo phường đặc biệt coi trọng, "ai
vô ý nói đến coi như là đã xúc phạm thần minh, không những phải nộp vạ mà
còn bị cảnh cáo và truất ngôi thứ trong phường".
Việc tập hợp thành một tổ chức riêng, chứng tỏ ngay từ thời kỳ đầu, ca
trù đã manh nha hình thành tính chất chuyên nghiệp. Giáo phường đứng đầu
135
có người đứng đầu trông coi, quản lý các công việc, gọi là quản giáp. Ví dụ
khi các quan có yến tiệc muốn gọi ả đào vào hát, thì phải sức trước cho quản
giáp lựa chọn người. Các làng tế, lễ hay tư gia có việc vui mừng muốn tổ
chức hát ả đào cũng phải điều đình trước với quản giáp. Tiền công hát của đào
kép do giáo phường thu giữ và chia theo quy định, bao giờ cũng để lại một
phần dùng cho giáo phường chi tiêu vào các công việc chung, gọi là tiền rút.
Ngày nay vẫn còn có nhiều dấu vết chứng tỏ sự tồn tại của giáo phường.
Thăng Long xưa có thôn chuyên hát ả đào gọi là thôn Giáo Phường, thuộc
tổng Tả Nghiêm (nay là khu vực xung quanh các phố Huế, Trần Xuân Soạn,
Mai Hắc Đế), ở số 83 Phố Huế nay vẫn còn đền thờ tổ có ba chữ “Giáo
phường Từ” trên cổng.
Càng về sau, cùng với sự phát triển của ca trù, tổ chức giáo phường cũng
có những phân hoá. Trong khi giáo phường ở nông thôn vẫn giữ các truyền
thống lâu đời thì các giáo phường ở thành thị biến đổi dần với sự nới lỏng các
quy tắc luật lệ và đến đầu thế kỷ XX, tổ chức giáo phường chỉ còn là hình
thức, các nhà hát cô đầu mới là nơi quản lý sinh hoạt và hoạt động nghề
nghiệp của đào nương.
Như vậy, có thể thấy tổ chức giáo phường xưa có một số biểu hiện cụ thể
như sau:
- Thứ nhất, giáo phường xưa thể hiện tính nền nếp, tổ chức hoạt động
chặt chẽ, quy củ và có thiết chế văn hóa cụ thể, được cộng đồng và xã hội
thừa nhận. Hầu hết các tổ chức giáo phường đều có nhà thờ tổ ca công và tổ
chức các hoạt động lễ nghi theo nề nếp ca trù cổ ở đó cũng như ở đình làng.
- Thứ hai, cũng để đối trọng với sự miệt thị của một số đối tượng trong
một số giai đoạn lịch sử của xã hội phong kiến, tự thân các nghệ sĩ phải hình
thành một không gian văn hóa cộng đồng có giá trị tương đương như một đơn
vị xã hội - một mô hình nhỏ trong mô hình làng xã. Từ hệ thống luật tục cho
136
đến mọi phong hóa đạo đức xã hội đều được xây dựng trên một nền tảng
tương đồng với cộng đồng làng xã, đủ để đảm bảo lòng tự trọng, giữ gìn sự
trong sạch - thanh danh của giới nghề.
- Thứ ba, trong những giai đoạn lịch sử nhất định, giáo phường là một tổ
chức xã hội đầy tính nhân văn, che chở đùm bọc cho thân phận lớp người bị
coi là “xướng ca vô loài”. Bởi theo quy luật tồn tại, sự hà khắc của xã hội tất
khiến cho tầng lớp những thầy đàn - con hát buộc phải co cụm, cố kết lại với
nhau thành những thân nghiệp cùng hội cùng thuyền.
- Thứ tư, tổ chức giáo phường là sự biểu hiện phương thức hoạt động
chuyên nghiệp của nghệ thuật ca trù. Trong giáo phường, các khâu cơ bản của
một quá trình nghệ thuật bao gồm đào tạo, truyền nghề - gửi tới các giáo
phường hoặc nhóm ca trù - biểu diễn, giới thiệu - hưởng thụ được thực hiện
một cách tự giác với một hệ thống tác nghiệp nhà nghề của các thời kì phong
kiến xưa.
3.2.2. Những biến đổi của CLB, giáo phường ở nội thành Hà Nội
Nói đến tổ chức hoạt động ca trù ở nội thành Hà Nội hiện nay thì chỉ có
3 CLB, giáo phường là CLB ca trù Hà Nội, giáo phường Thái Hà và giáo
phường Thăng Long. Bên cạnh hàng chục giáo phường, CLB ở ngoại thành
Hà Nội thì 3 CLB, giáo phường kể trên là những hạt nhân quan trọng của ca
trù Hà Nội. Nếu như giáo phường ca trù Thái Hà có sự hình thành và phát
triển từ năm 1820 với 7, 8 đời nối nghiệp cầm ca thì giáo phường Thăng Long
và CLB Hà Nội chỉ mới hình thành và phát triển được vài chục năm.
Giáo phường ca trù được tổ chức một cách chặt chẽ và quy củ. Người
trong giáo phường phải tuyệt đối tuân thủ các quy định nghiêm cẩn cũng như
phong tục và luân lý. Nếu đào kép nào vi phạm, họ sẽ bị các bậc cao niên đuổi
ra khỏi giáo phường và thông báo cho các giáo phường khác biết để không
giáo phường nào cho vào nữa. Khi một đào nương, kép đàn lên giáo phường
137
tức là đặt cho mình kỷ luật, không phải như là mô hình CLB thì đào nương,
kép đàn sẽ làm việc, sinh hoạt theo sở thích. Do đó, để tìm ra sự biến đổi mô
hình tổ chức hoạt động của một số CLB, giáo phường ca trù Hà Nội kể trên,
tác giả sẽ đối chiếu với những vấn đề thuộc về bản chất sinh hoạt, hoạt động
của các giáo phường ca trù xưa để có những đánh giá, so sánh cụ thể.
- Giáo phường ca trù Thái Hà bản chất là một họ tộc ca trù truyền đời
tại Hà Nội gần 200 năm qua. Giống như giáo phường lâu đời có tổ nghề ca trù
Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội) có nhà thờ tổ ca công, giáo phường Thái Hà
cũng đã được chế độ phong kiến đương thời cho dựng nhà thờ ca công ở đất
Thái Hà hiện nay từ giữa thế kỷ XIX. Trải qua hàng trăm năm với gần chục
đời cha truyền, con nối trong dòng họ, đến nay, giáo phường ca trù Thái Hà
vẫn xứng đáng được coi là một trong những niềm tự hào của ca trù Hà Nội vì
truyền thống lịch sử lâu đời của một giáo phường trong phạm vi nội thành.
Tên gọi CLB ca trù Thái Hà cũng vẫn được sử dụng những năm qua.
Thứ nhất, một số hoạt động sinh hoạt nghệ thuật, biểu diễn, giới thiệu của
giáo phường như hình thức của một CLB ca trù. Thứ hai, tên gọi đó chủ yếu
là để cho giáo phường sử dụng trong các hoạt động giao lưu nghệ thuật quốc
tế, các chuyến lưu diễn, các hoạt động quảng bá, giới thiệu văn hóa truyền
thống Việt Nam. Thứ ba, đôi khi việc gọi CLB như một thói quen của cộng
đồng, vì từ “giáo phường” vẫn còn khá xa lạ trong ngôn ngữ của người Việt
nói chung, Hà Nội nói riêng.
Như vậy, có thể nói, giáo phường Thái Hà vừa là một giáo phường ca
trù cổ đúng nghĩa, vừa là một mô hình CLB ca trù để truyền dạy, sinh hoạt
cho con cháu trong dòng họ và cho những người yêu ca trù, để biểu diễn, giới
thiệu cho du khách.
138
Với những căn cứ nêu trên, có thể thấy những biến đổi cơ bản sau một
giai đoạn lịch sử gần 200 năm của giáo phường ca trù Thái Hà thể hiện trên
những vấn đề sau:
Thứ nhất, giáo phường Thái Hà do trước đây chỉ là một tổ họ lập lên ở
vùng đất Thái Hà (Hà Nội ngày nay) nên trải qua quá trình đô thị hóa mạnh
mẽ của Hà Nội, diện tích giáo phường bị thu hẹp, con cháu trong tổ họ đã
phải chia tách ở nhiều nơi trong nội đô nên sinh hoạt giáo phường không còn
được tập trung như trước nữa. Điển hình là nhà thờ tổ ca công thì đang nằm
trên đất Thái Hà, nhưng gia đình cụ Nguyễn Văn Mùi, đời thứ 7, lại đang ở
Thụy Khuê.
Thứ hai, dù đã cố gắng giữ gìn nề nếp, giáo dục, đào tạo cốt cách, gia
phong, rèn giũa nghệ thuật ca trù cho con cháu trong dòng họ nhưng ít nhiều
các tư liệu cổ ca trù bị mất mát, sinh hoạt truyền thống lâu đời đã bị mai một
do ảnh hưởng sâu sắc bởi xã hội hiện đại. Nhiều con cháu trong họ tộc đã
không còn theo nghiệp ca trù. Số ít con cháu theo nghiệp như ca nương nổi
tiếng Kiều Anh thì nhiều khi biểu diễn ca trù trước công chúng cả nước, Kiều
Anh đã phải kết hợp với âm nhạc hiện đại để làm cho ca trù hay hơn, dễ nghe,
dễ hiểu hơn và đến gần công chúng hơn.
Thứ ba, việc tổ chức biểu diễn, giới thiệu theo hình thức của một CLB ca
trù ở trong và ngoài nước, cho cả bạn bè quốc tế cũng là sự biến đổi to lớn của
giáo phường, mang tính chất thời cuộc.
- Giáo phường ca trù Thăng Long là hình ảnh của một giáo phường ca
trù đã có những biến đổi rất lớn so với bản chất giáo phường trước đây. Nếu
như các giáo phường trước đây được ra đời dựa trên các làng thôn ca trù có
các nhóm ca hát tập hợp lại thì giáo phường ca trù Thăng Long lại ra đời dựa
trên việc chuyển đổi (và phần nào đó là nâng cấp) từ CLB lên giáo phường.
Với tiền thân là CLB ca trù Thăng Long với mô hình hoạt động như mô hình
139
CLB ca trù Hà Nội ngày nay, nghệ nhân Phạm Thị Huệ đã cùng các nghệ
nhân cao tuổi quyết tâm gây dựng lại mô hình giáo phường của các cụ để lại,
với mục đích chính là tìm lại bản sắc không gian văn hóa ca trù cổ, hoạt động
có tôn ti trật tự, có quy củ và để giới trẻ sau này biết được một tổ chức giáo
phường sẽ như thế nào, vận hành, tổ chức hoạt động biểu diễn ra làm sao.
Đây chính là những biến đổi căn bản mô hình giáo phường ca trù, từ mô
hình giáo phường ca trù xưa đến việc hình thành CLB ca trù rồi dần
chuyển hóa thành mô hình giáo phường ca trù nội thành thời nay.
Với mục tiêu đó, năm 2011, giáo phường ca trù Thăng Long ra đời. Dù
không có được cái gốc tổ họ ca trù có nhà thờ ca công như ở Lỗ Khê, Thái
Hà, lại chưa được nhiều chuyên gia, nghệ nhân thừa nhận đó là giáo phường,
nhưng giáo phường ca trù Thăng Long đã quyết tâm gây dựng để làm tốt
những điều mà một giáo phường xưa vẫn làm, đó là: Đào tạo, truyền nghề;
gìn giữ, phục dựng tư liệu cổ để truyền dạy cho con cháu; phục dựng các quy
định của một giáo phường xưa;… Bên cạnh đó là vẫn phát huy giá trị di sản
qua việc tổ chức biểu diễn, quảng bá, giới thiệu.
Như vậy, có thể vào thời điểm này, giáo phường Thăng Long chưa được
giới chuyên gia, nhà nghiên cứu, các nghệ nhân ca trù lão thành và các CLB,
giáo phường khác thừa nhận là giáo phường, kể cả là giáo phường trong đô
thị, nhưng việc làm của giáo phường Thăng Long rất đáng được biểu dương
vì nếu làm đúng, làm tốt thực sự các hoạt động tổ chức như một giáo phường
thì sau này, các thế hệ con cháu chúng ta sẽ cảm nhận được đó là một giáo
phường ca trù đúng nghĩa và sẽ có trách nhiệm bảo vệ không gian văn hóa ấy.
- CLB ca trù Hà Nội là một mô hình tổ chức sinh hoạt, giao lưu văn hóa,
nghệ thuật cho những người cùng có sở thích và có khả năng biểu diễn nghệ
thuật ca trù theo đúng nghĩa của 1 CLB. Nếu như giáo phường ca trù Thăng
Long chuyển đổi mạnh mẽ để tiến tới mô hình giáo phường thì CLB ca trù Hà
140
Nội lại mang theo tư duy khác, đó là chỉ cần giới thiệu, biểu diễn thật tốt,
đúng bản sắc ca trù Việt cho du khách xem, nghe và hiểu được giá trị của
nghệ thuật ca trù. Với quan niệm đó, nghệ sĩ Bạch Vân đã gây dựng CLB ca
trù Hà Nội theo mô hình giới thiệu, biểu diễn và là nơi sinh hoạt tập thể của
những người yêu ca trù trên khắp cả nước, kể cả bạn bè quốc tế suốt từ năm
1991 đến nay. Có thể khẳng định rằng, nghệ sĩ Bạch Vẫn cũng rất muốn có
một giáo phường ca trù Hà Nội đúng nghĩa giáo phường xưa nhưng nghệ sĩ
chưa làm được vì nhiều lí do khách quan và chủ quan, nhưng quan trọng nhất
vẫn là mô hình giáo phường thời phong kiến là rất chặt chẽ, có tôn ti trật tự,
có tính tổ chức thứ bậc cao, có hương ước, quy ước, có những quy định
nghiêm ngặt,…
Với mô hình CLB thì rõ ràng, đó là sự biến đổi lớn nhất so với các giáo
phường xưa vì quan điểm đặt biểu diễn giới thiệu lên hàng đầu, trong khi
giáo phường lại đặt quan điểm bảo tồn, gìn giữ, phục dựng, truyền nghề lên
hàng đầu. Qua việc giới thiệu sơ lược những biến đổi căn bản của mô hình tổ
chức hoạt động các CLB, giáo phường nội thành Hà Nội nêu trên, có thể thấy
rằng, các nhà chuyên môn, các nghệ nhân, các nhà quản lý ca trù cần cùng
nhau bàn luận để tìm ra một mô hình CLB, giáo phường phù hợp cho một số
CLB, giáo phường nội thành Hà Nội.
3.3. Bàn luận về mô hình phù hợp cho hoạt động biểu diễn nghệ
thuật của một số CLB, giáo phường ca trù tại nội thành Hà Nội
Thực tế, qua nghiên cứu các mô hình thiết chế văn hóa phi vật thể, sẽ
không có một mô hình mẫu nào có thể áp dụng chung cho tất cả các lĩnh vực
di sản văn hóa phi vật thể, mà quan trọng là sự chủ động tham gia của cộng
đồng chủ thể để họ tham gia trực tiếp vào việc quản lý, thực hành và truyền
dạy di sản với tư cách là những chủ thể thực thụ, trong đó cộng đồng đóng vai
trò nòng cốt và các cơ quan hữu quan đóng vai trò tư vấn, định hướng, hỗ trợ
141
quản lý, cần tiếp tục triển khai các hoạt động nâng cao năng lực tự quản lý và
bảo vệ di sản cho cộng đồng. Nghệ thuật - di sản ca trù cũng không nằm ngoài
những vấn đề trên.
Ca trù là một nghệ thuật truyền thống nhưng lại rất “kén”. Một là “kén”
khách nghe vì không dễ để nghe và hiểu ca trù với nhiều ca từ Hán Nôm khó
hiểu. Hai là “kén” địa điểm, không gian biểu diễn vì nếu biểu diễn nơi đông
đúc, tấp nập hay không gian ồn ã thì ca trù không phù hợp, chỉ hợp nhất với
các không gian yên tĩnh, sâu lắng và có hồn quê, làng xã hoặc hồn không gian
kiến trúc cổ. Vậy nên, để lựa chọn mô hình phù hợp cho các CLB, giáo
phường ca trù ngày nay là cả một vấn đề lớn, với nhiều phức tạp và cần phải
có sự nghiên cứu nghiêm túc để lựa chọn. Mô hình đó theo tác giả cần hội tụ
được cơ bản 4 yếu tố:
- Việc tổ chức hoạt động giống như hoặc được một phần cốt lõi của một
giáo phường xưa, đặc biệt là nêu cao kỷ luật, tôn ti, trật tự và phép tắc, lễ
nghi.
- Có được 2 không gian cơ bản: Không gian biểu diễn phù hợp với ca trù
dạng một nhà hát di sản và không gian giáo phường đảm bảo tính bảo tồn, gìn
giữ ca trù. Nếu một địa điểm mà hội tụ được cả hai loại không gian này thì rất
tốt, còn nếu không thì phải là hai không gian riêng lẻ với chức năng khác
nhau.
- Có khả năng phát huy, quảng bá giá trị di sản như một CLB kiểu như
CLB ca trù Hà Nội của ngày nay để biểu diễn, quảng bá tới khách du lịch và
công chúng.
- Có được sự đầu tư, quan tâm của nhà nước, các tổ chức, cá nhân, mạnh
thường quân, có được một thế hệ nghệ nhân kinh nghiệm kết hợp với nghệ
142
nhân trẻ tài năng, và được công chúng, người thưởng thức dễ chấp nhận hơn,
dễ thưởng thức hơn.
Quả thực, để đảm bảo được bốn yếu tố nêu trên là quá khó đối với một
CLB, giáo phường hiện nay ở Hà Nội bởi tất cả đang ở tình trạng có cái này
nhưng lại thiếu cái kia.
Thời phong kiến, không gian văn hóa của ca trù vẫn nằm trong thiết chế
làng, xã, thôn, xóm với tên gọi là các giáo phường. Nếu ở thành thị (ví dụ ở
Thăng Long xưa) thì ca trù tồn tại dưới hình thức các nhóm ca trù, rồi cao hơn
là các phường hội ca trù, qua thời gian chuyển thành giáo phường. Tất nhiên,
ngày đó không có khái niệm CLB như hiện nay. Ngày nay, cả nước có
khoảng hơn 60 CLB, giáo phường ca trù, và ¼ trong số đó là ở Hà Nội.
Nhưng thực tế, từ CLB ca trù đến giáo phường ca trù là cả một con đường
dài, và hoàn toàn khác biệt về tổ chức, lề lối. Tức là những người đặt ra giáo
phường Ca trù Thăng Long phải hiểu biết được đầy đủ giáo phường là gì, hoạt
động, tổ chức, làm việc như thế nào, đồng thời phải ý thức sâu sắc việc giữ
gìn nghề tổ, cả về mặt nghệ thuật lẫn tổ chức và đạo đức nghề nghiệp.
Mô hình giáo phường mà áp dụng vào điều kiện hiện nay thì rất khó đạt
được đúng bản chất giáo phường như trước đây. Ở Hà Nội, như đã phân tích,
giáo phường Lỗ Khê và Thái Hà chính là hai mô hình giáo phường tiêu biểu
nhất, gần tiệm cận nhất đến mô hình giáo phường thời phong kiến. Lỗ Khê là
mô hình giáo phường làng, xã, thể hiện đất tổ nghề ca trù, có nhà thờ ca công,
có hương ước, có đình làng. Còn giáo phường Thái Hà là mô hình giáo
phường thành thị theo hướng gia đình, dòng tộc, cũng có cụ tổ 7, 8 đời và lưu
truyền qua các thế hệ nghệ thuật này.
CLB ca trù Hà Nội nhận thấy không thể mang tên giáo phường chính là
những điều rất nghiêm ngặt của một giáo phường đã đề cập ở trên. Việc nghệ
143
nhân Phạm Thị Huệ cũng đã mạnh dạn đổi tên từ CLB ca trù Thăng Long
thành giáo phường ca trù Thăng Long một phần là nguyện vọng muốn xây
dựng một giáo phường ca trù trong nội thành Hà Nội một cách nghiêm túc,
một phần là do giáo phường này đã rất quan tâm đến việc đào tạo, truyền
nghề cho thế hệ trẻ thời gian qua, đồng thời cũng quan tâm đến việc phục
dựng các làn điệu ca hát, điệu múa cổ. Nhưng như thế thì chưa đủ, vì bản chất
giáo phường như trên đã nói còn nhiều điều phải đạt được nếu muốn mang tên
là “giáo phường” thực sự. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong luận án mà NCS muốn
đề cập, đó là tìm ra một mô hình CLB hoặc giáo phường ca trù phù hợp nhất
trong bối cảnh có nhiều biến đổi của xã hội Việt Nam hiện đại như hiện nay,
chứ không chỉ dừng lại ở vấn đề tên gọi.
Rõ ràng, mô hình CLB theo kiểu CLB ca trù Hà Nội thì nghiêng về
hướng phát huy giá trị di sản ca trù qua hoạt động biểu diễn, giới thiệu cho du
khách, đầu tư, bán vé và tạo doanh số, lợi nhuận để tiếp tục duy trì, nhưng hầu
như không thể có điều kiện để quan tâm đến đào tạo, truyền nghề và các yếu
tố khác. Trong khi đó, mô hình giáo phường ca trù Thăng Long thì một mặt là
vẫn tiếp tục duy trì hoạt động biểu diễn, một mặt thì vẫn duy trì công tác đào
tạo, truyền dạy, phục dựng,… Mô hình hoạt động của giáo phường ca trù Thái
Hà lại có được những yếu tố cần thiết để là một giáo phường ca trù đúng
nghĩa, nhưng yếu tố biểu diễn, phát huy giá trị di sản phục vụ du khách lại
khá hạn chế.
Mỗi CLB, giáo phường đều có ưu điểm, hạn chế riêng. Vậy thì mô hình
nào sẽ phù hợp? Tại nội thành Hà Nội, tác giả lựa chọn 3 không gian ca trù
hay mô hình ca trù tiêu biểu để phân tích theo bảng sau:
144
Bảng 3.1. Phân tích ưu điểm, hạn chế của một số mô hình
CLB, giáo phường tiêu biểu ở Thủ đô Hà Nội
CLB/GP CLB Hà Nội
1 của
Ưu điểm tâm
- Phát huy tốt vai trò biểu diễn hoạt động. - Biểu diễn tập trung vào “thanh”, tức là nghiêng về chất lượng âm giọng. - Chu đáo, dành nhiều thời gian giao lưu, giới thiệu ca trù cho du khách.
biểu diễn,
Hạn chế
Giáo phường Thái Hà - Hoạt động theo mô hình giáo phường, theo tộc họ ca trù nên công tác bảo tồn, gìn giữ là rất tốt. - Được nhiều tổ chức quốc tế biết đến nên thường xuyên lưu diễn nước ngoài và do đó, quảng bá giới thiệu được di sản của Việt Nam. - Hoạt động biểu diễn thường xuyên hạn chế. - Nghệ nhân chủ chốt đã lớn tuổi, thế hệ kế cận có nhưng chưa đủ để đáp ứng. - Đào tạo, truyền dạy hầu như chỉ trong phạm vi dòng họ, gia đình.
- Ít quan tâm đến truyền dạy, đào tạo, phục dựng - Không gian biểu diễn hạn chế, nhân lực hạn chế, ngân sách đầu tư hạn chế. - Số lượng nghệ nhân tên tuổi còn quá ít, nghệ nhân trẻ tài năng khan hiếm.
Giải pháp khắc phục - Cần quan tâm hơn đến việc biểu diễn hàng tuần phục vụ du khách. - Đào tạo, truyền nghề rộng rãi hơn.
- Quan tâm hơn đến hoạt động truyền dạy. - Phối hợp với các làng, thôn ca trù ngoại thành hoặc các tỉnh lân cận để có được nguồn nghệ nhân kế cận. Giáo phường Thăng Long - Phát huy tốt vai trò biểu diễn hoạt động - Quan tâm đến truyền dạy, đào tạo, phục dựng. Lực lượng trẻ kế cận khá tốt. - Quan đến marketing, quảng bá, hình thức biểu diễn và đạt doanh thu khá tốt. - Nỗ lực huy động tài trợ, hỗ trợ từ bên ngoài - Vẫn còn khá nghiêng về thị trường. - Không gian biểu diễn hạn chế, nhân lực hạn chế, ngân sách đầu tư hạn chế. - Đưa đàn tranh, đàn bầu vào biểu diễn đan xen trong 1 buổi ca trù đôi khi lại không tốt cho 1 không gian ca trù. - Không gian biểu diễn không cố định. - Tiếp tục củng cố hoạt động của một giáo phường đúng nghĩa. - Dành nhiều thời gian cho việc giao lưu với du khách hơn cho 1 buổi diễn
Nguồn: Tổng hợp của NCS qua nghiên cứu thực tế
145
Với những phân tích, đánh giá ưu điểm, hạn chế nêu trên, có thể nói, để
tìm ra một mô hình phù hợp trong việc tổ chức khai thác, vận hành hoạt động
của một CLB, giáo phường ca trù ở Hà Nội là không dễ. Việc đầu tiên cần
làm của các CLB, giáo phường chính là tiếp tục phát huy điểm mạnh, xem xét
lại những hạn chế của mình để khắc phục và bổ sung kịp thời nhân sự, nguồn
lực, quảng bá,… Các CLB, giáo phường chỉ nghiêng về hoạt động biểu diễn
thì sẽ để hổng vai trò bảo tồn, gìn giữ.
Vì vậy, câu hỏi đặt ra là giữ nguyên mô hình CLB hay mô hình giáo
phường như các mô hình hiện nay, chỉ cần phát huy điểm mạnh, khắc phục
hạn chế là cách làm tốt nhất để phù hợp với điều kiện thực tế?
Theo NCS, mô hình phù hợp nhất ở nội thành Hà Nội hiện nay chính là
hoạt động như giáo phường ca trù Thăng Long, nhưng cần điều chỉnh, bổ
sung những hạn chế để vai trò bảo tồn, gìn giữ tốt hơn, trong khi công tác
phát huy giá trị di sản qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù cần tập
trung đầu tư cho cả “thanh”, “sắc”, và hình thức biểu diễn để hấp dẫn hơn
đối với du khách.
Tức là CLB ca trù Hà Nội cũng nên dần dần tháo gỡ khó khăn để phục
dựng lại không gian giáo phường phù hợp trong thời hiện đại, trong khi giáo
phường Thái Hà cũng nên gìn giữ những giá trị bảo tồn đã làm tốt và phát huy
hơn nữa nghệ thuật ca trù bằng việc tổ chức được một không gian biểu diễn
riêng biệt.
Nhưng xét trên khía cạnh thực tế cuộc sống thì có thể với CLB ca trù Hà
Nội, chỉ cần làm tốt khía cạnh phát huy giá trị di sản ca trù cũng chính là một
cách bảo tồn tốt, và đó có thể là mô hình phù hợp hơn cả trong ngắn hạn
với chính họ.
146
Về bản chất của vấn đề, tìm được mô hình phù hợp trong bối cảnh xã hội
hiện nay ở Hà Nội để vừa bảo tồn, vừa phát huy được giá trị di sản, nhưng
nghệ nhân lại phải sống được với nghề, sẵn sàng cống hiến hết mình vì nghệ
thuật đã là vấn đề nan giải, nhưng để mô hình đó thực sự ở trong lòng công
chúng, cộng đồng và được công chúng yêu thích thì sẽ còn nan giải hơn
nhiều. Hay nói cách khác, để ca trù Hà Nội là một “di sản sống’ thực sự sẽ
không hề dễ dàng. Có mô hình tốt, phù hợp rồi, nhưng thiếu sự quan tâm,
định hướng, đầu tư của các cấp, các ngành liên quan, thiếu sự chung tay của
cộng đồng thì dù mô hình bảo tồn, phát huy giá trị di sản tốt bao nhiêu đi
chăng nữa thì cũng sẽ không thể phát triển bền vững được.
Rõ ràng, hệ thống các giải pháp cơ bản được đề cập và bàn luận ở phần
dưới đây có thể góp phần giải quyết những khó khăn nêu trên.
3.4. Bàn luận một số giải pháp
3.4.1. Giải pháp đối với công tác quản lý nhà nước
3.4.1.1. Giải pháp tổng thể
Theo lộ trình, chỉ còn vài tháng nữa là Việt Nam phải báo cáo với
UNESCO về tình hình triển khai chương trình hành động quốc gia về bảo vệ
di sản ca trù thoát khỏi tình trạng khẩn cấp, nhưng hiện nay, chúng ta vẫn còn
gặp quá nhiều khó khăn, trở ngại khi tổ chức thực hiện chương trình này. Có
địa phương thì rất quyết liệt, rốt ráo tìm ra giải pháp để phục hưng ca trù,
nhưng nhiều địa phương thì vẫn “bỏ bê” ca trù, hoặc có làm nhưng chưa thực
sự có chiến lược, kế hoạch bài bản. Hà Nội là một điển hình của việc đó.
Phải thừa nhận rằng, qua gần 5 năm từ khi ca trù được vinh danh, Hà
Nội đã có động thái bảo vệ di sản này, bằng chứng là đã xây dựng kế hoạch
hành động bảo vệ dựa trên việc triển khai Chương trình hành động quốc gia
do Bộ VHTTDL ban hành, nhưng vấn đề là từ kế hoạch để đi đến thực tiễn và
triển khai cụ thể là cả một quá trình, và đã bộc lộ sự yếu kém cũng như sự
147
thiếu kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, gìn giữ di sản ca trù. Nhắc đến hiện
trạng quản lý di sản ca trù hiện nay, nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu, nghệ
nhân, các nhà báo chuyên viết về văn hóa, di sản đã phải thốt lên với nhiều
cụm từ nghe khá đau xót: “Hà Nội bỏ bê ca trù từ lâu rồi”; “Hà Nội đang là
khoảng trống lớn về bảo vệ di sản ca trù”; “Ca trù Hà Nội, giật mình vì không
ai quản lý”; “Ca trù Hà Nội như trước ngã ba đường”, “Ca trù Hà Nội thiếu
người đứng mũi chịu sào”…[NCS tổng hợp từ báo chí, năm 2014].
Vậy thì vấn đề nằm ở đâu? Phải chăng đó là sự yếu kém hoặc không yếu
kém nhưng chưa thật sự quyết tâm để lo lắng bảo vệ giá trị di sản? Hay là vấn
đề cơ chế?
Trao đổi với những người làm công tác quản lý di sản ở Hà Nội, NCS
nhận thấy, các cán bộ này cũng không hề thờ ơ với di sản, nhưng theo họ,
đúng là có sự thiếu kinh nghiệm và những điều không dễ khi bảo tồn, phát
huy các giá trị di sản phi vật thể, trong đó có ca trù, nhất là khi hoạt động
CLB, giáo phường ở nội thành đã có những biến đổi nhất định thời gian qua.
Nếu như các di sản vật thể thì không khó vì dễ định lượng, còn di sản phi vật
thể lại rất khó vì nhiều nội dung trong đó là định tính. Hà Nội và nhiều địa
phương đang gặp phải vấn đề là đụng đâu mắc đó, đặc biệt mắc lớn nhất là
mắc về vấn đề chi ngân sách cho bảo vệ di sản ca trù. Hà Nội có thể chi rất
nhiều kinh phí cho bảo tồn, phục dựng các di sản văn hóa vật thể là các công
trình kiến trúc cổ, các không gian tôn giáo, tín ngưỡng cổ như chùa, đền, đình,
miếu, thành cổ,… nhưng lại không biết xếp ca trù vào hạng mục nào trong chi
ngân sách cho công tác bảo tồn, đào tạo, truyền nghề, phục dựng,…
Như ở phần kinh nghiệm bảo tồn phát huy giá trị di sản ca trù mà
chương 1 đã đề cập, công tác bảo tồn, phát huy của nhiều địa phương trên cả
nước về ca trù trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Mô
hình của Hà Tĩnh và Hưng Yên cho thấy, nếu quyết tâm làm một cách bài
148
bản, khoa học, có chiến lược, kế hoạch cụ thể thì việc phục hưng, bảo tồn,
phát huy ca trù tại mỗi địa phương là không khó. “Kim chỉ nam” của mỗi địa
phương chính là khung định hướng căn bản từ Chương trình hành động quốc
gia mà Bộ VHTTDL đã ban hành năm 2010, vấn đề là cách vận dụng vào
từng địa phương. Thực ra, với bất kỳ địa phương nào, chỉ cần làm đủ và tốt
với 5 nội dung giải pháp nêu trên như Hưng Yên đã làm hoặc 5 nội dung giải
pháp mà Hà Tĩnh đang triển khai (đã đề cập ở phần kinh nghiệm chương 1)
thì chắc chắn, ca trù sẽ được phục hưng và thoát khỏi tình trạng cần được bảo
vệ khẩn cấp. Nhưng với Hà Nội thì khác, ngoài việc làm tốt những giải pháp
giống như các tỉnh bạn thì Hà Nội cần phải quan tâm mạnh mẽ hơn đến yếu tố
bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù qua hoạt động của một số CLB, giáo
phường đang hoạt động trên địa bàn, đặc biệt là khu vực nội thành, bởi đó
chính là sự khác biệt của ca trù Hà Nội với các tỉnh, thành khác ở Bắc Bộ khi
mà chỉ Hà Nội mới có các CLB, giáo phường ca trù có tổ chức biểu diễn hàng
ngày cho du khách đến xem, nghe và thưởng thức. Nếu như công tác bảo tồn
và phát huy của các địa phương khác là khó khăn một thì Hà Nội sẽ khó khăn
gấp nhiều lần. Đặc thù ca trù Hà Nội là không gian rộng lớn, ở nhiều quận,
huyện nội ngoại thành, với nhiều loại hình giáo phường, CLB, làng thôn, xóm
ca trù, lại không chỉ phải quan tâm đến bảo tồn theo nhiều hình thức khác
nhau, mà còn phải phát huy giá trị với các hoạt động biểu diễn phục vụ du
khách. Vì vậy, như bài học vận dụng ở chương 1 đã nêu ra thì Hà Nội sẽ tiếp
thu và vận dụng kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù như sau:
- Với các giáo phường, CLB, làng thôn ca trù ở vùng ngoại thành: Hà
Nội nên học tập những kinh nghiệm bảo tồn, phát huy đã thành công của Hà
Tĩnh, Hưng Yên, Bắc Giang,…bởi xét về không gian thì đều là những không
gian gắn với nông thôn, làng xã, phù hợp để vận dụng, tiếp thu kinh nghiệm.
149
- Với những giáo phường, CLB nội thành: một mặt, Hà Nội vẫn quan
tâm đến kinh nghiệm bảo tồn mà các địa phương đã làm tốt, một mặt phải có
chiến lược, chương trình hành động riêng cho công tác phát huy thông qua
hoạt động biểu diễn ca trù ở nội thành.
Tóm lại, giải pháp đưa ra là bên cạnh việc đã làm thời gian qua là rà
soát, kiểm kê tổng thể trên quy mô toàn thành phố, thì phải lên phương án bảo
tồn và phục dựng, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ cho nghệ nhân và hoạt
động của các thiết chế ca trù trên toàn địa bàn, có kinh phí lâu dài cho việc
đào tạo, truyền nghề thì Hà Nội cần phải phân loại các loại hình, không gian
tổ chức biểu diễn để qua đó xem xét xem loại hình nào thiếu cái gì để bù lấp
hỗ trợ đúng những chỗ thiếu đó, đồng thời tập trung quan tâm hỗ trợ đặc biệt
cho một số CLB, giáo phường nội thành đang gặp rất nhiều khó khăn.
3.4.1.2. Giải pháp cụ thể đối với công tác quản lý nhà nước
a) Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của
Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL
- Đã hết thời hạn 5 năm Việt Nam cần báo cáo UNESCO về công tác
bảo tồn, bảo vệ giá trị di sản thoát khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp, Cục
Di sản văn hóa dù đã yêu cầu các địa phương rà soát tổng thể, có báo cáo
đánh giá chi tiết theo nội dung 6 mục lớn của chương trình hành động Quốc
gia về bảo vệ ca trù đã ban hành năm 2010, nhưng cần yêu cầu nêu rõ những
việc đã làm được, đạt bao nhiêu % hạng mục công việc; những việc chưa làm
được với nguyên nhân, lí do cụ thể; những kiến nghị đề xuất với Bộ
VHTTDL. Yêu cầu các địa phương cung cấp những cách làm đã đạt hiệu quả
trong thời gian qua, những giải pháp đã áp dụng được vào thực tiễn và những
mô hình tổ chức CLB ca trù đã thực hiện hiệu quả. Sau đó, Cục DSVH sẽ
tổng hợp tổ chức Hội thảo toàn quốc, mời tham gia các điển hình tiêu biểu,
150
chia sẻ thông tin, cách làm hay cho các địa phương khác đang gặp khó khăn
trong bài toán tìm lời giải bảo tồn, phát huy.
- Tiếp tục xây dựng thông tư hướng dẫn cụ thể, thiết thực hơn về chi
ngân sách cho hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù với những điều
khoản áp dụng thực tế, phù hợp với tổng thể và có thể vận dụng vào các địa
phương cụ thể. Ngoài hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các CLB, giáo phường,
nghệ nhân, nghiên cứu hỗ trợ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho các nghệ
nhân trên toàn quốc, kể cả nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ tài năng, điều mà cách đây
hàng chục năm, các chuyên gia đã đề cập nhưng đến nay vẫn chưa làm được.
- Duy trì hệ thống đào tạo, truyền nghề thành 3 cấp (hiện nay chỉ có 1
cấp duy nhất là đào tạo ở Viện Âm nhạc với 2 loại đối tượng phổ thông và
nâng cao, tác giả luận án sau khi nghiên cứu mạnh dạn đề xuất mô hình tổ
chức 3 cấp này):
+ Cấp 1: Hỗ trợ 1 phần kinh phí để chính các nghệ nhân các CLB, giáo
phường, làng thôn ca trù tự đào tạo cho các nghệ sĩ trẻ, mới học.
+ Cấp 2: Tỉnh, thành phố hỗ trợ kinh phí để mở lớp đào tạo cấp tỉnh,
thành cho các nghệ sĩ trẻ đã học ở cấp 1, có sàng lọc để đào tạo ở cấp 2.
+ Cấp 3: Lựa chọn các học viên chất lượng ở cấp 2 đã được đào tạo để
tổ chức các khóa đào tạo cấp Quốc gia do Viện âm nhạc Quốc gia tổ chức như
mô hình thời gian qua nhưng phải kéo dài thời gian hơn là khoảng thời gian 2-
3 tuần/1 khóa hiện nay. Các khóa này nên mời các giảng viên là những nghệ
nhân, nghệ sĩ tên tuổi như Bạch Vân, Phạm Thị Huệ, Thúy Hòa, Nguyễn Văn
Tuyến, Nguyễn Thị Mận,… tham gia đào tạo ở các nội dung khác nhau theo
sở trường của từng nghệ nhân.
Sau khi đào tạo bài bản theo 3 cấp như vậy, các nghệ sĩ trẻ được lựa
chọn lại tiếp tục được học khóa nâng cao và giảng viên là những cây đại thụ
hiện nay còn sống như cụ Nguyễn Văn Mùi, cụ Phó Thị Kim Đức,…
151
Theo các chuyên gia, các nghệ nhân lão làng, đào tạo tất cả các cấp độ
này để thành một nghệ nhân thực thụ phải mất 5-7 năm, chứ không chỉ là 3-4
tuần như ở Viện Âm nhạc hiện nay, theo nghệ nhân Phạm Thị Huệ thì chỉ như
“cưỡi ngựa xem hoa” thôi, không thể cho ra biểu diễn ở ngoài phục vụ du
khách được.
Nếu làm cẩn thận được như vậy thì sẽ vừa khoa học, bài bản, vừa không
dàn trải, đại trà như một số khóa đào tạo tại Viện Âm nhạc hiện nay. Ở Viện
Âm nhạc, học viên chia làm 2 loại lớp: Lớp phổ thông dành cho những người
mới học; lớp nâng cao dành cho những người đã học rồi nhưng chưa đạt trình
độ biểu diễn hoặc chưa đạt trình độ chuẩn (ví dụ phải đảm bảo 1 học viên khi
tốt nghiệp phải thành thạo 6 thể cách: tỳ bà, cung bắc, gửi thư, miễu nói, hát
nói, thét nhạc, bắc phản như nhiều nghệ nhân đề nghị). Với cách làm địa
phương và nhà nước cùng phối hợp đào tạo tác giả đề xuất nêu trên sẽ giúp
được cho nhà nước giảm tải được một lượng học viên không nhỏ được các địa
phương gửi lên học nhưng lại phải thẩm định lại trình độ rồi phân lớp. Cách
làm đó cũng giúp cho các địa phương phải chủ động công tác đào tạo của
mình, tránh tình trạng đẩy việc lên cấp trung ương. Và bản chất của vấn đề là
ở đây là, để làm được 3 cấp độ đào tạo thì Viện Âm nhạc và Cục Di sản văn
hóa phải ban hành được “sách giáo khoa về ca trù”, trong đó nêu được cấp độ
nào học nội dung nào, khi đó, có “sách giáo khoa” là tài liệu chuẩn thì các địa
phương sẽ chủ động giải quyết được cấp độ 1, cấp độ 2.
Được biết, công tác nghiên cứu khoa học sẽ tập trung nghiên cứu âm
nhạc, lời ca, lịch sử, sinh hoạt và các cách thức trình diễn ca trù và Viện Âm
nhạc sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện nghiên cứu, biên soạn, xuất bản cuốn
sách Những điệu hát ca trù phổ thông, có đĩa nhạc kèm theo, giúp nghệ nhân
các vùng có ca trù sử dụng khi truyền dạy, đồng thời sẽ nghiên cứu, biên
soạn, xuất bản cuốn sách Tổng tập ca trù xưa và nay. Sách là bộ tài liệu đầy
152
đủ cung cấp giới nghiên cứu, giáo dục và đào tạo học sinh, sinh viên các
trường trong cả nước những tư liệu nghiên cứu, mô tả, tản văn, những bản lời
hát ca trù Hán Nôm và quốc ngữ các thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
- Tiếp tục xây dựng và thực hiện chương trình quảng bá, phát huy giá trị
di sản ca trù ở cấp độ vĩ mô thông qua hoạt động tuyên truyền, quảng bá, biểu
diễn ở các Festival văn hóa, du lịch, các Hội chợ du lịch quốc tế, các Liên
hoan nghệ thuật truyền thống trong và ngoài nước và các hình thức quảng bá
qua truyền hình, internet,… Nên phát huy quảng bá ca trù dưới nhiều hình
thức, nhưng phải nghiên cứu cụ thể trước khi thực hiện. Ví dụ, ngày
30/5/2014, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành quyết định số 728/QĐ-
BTTTT Về việc phát hành bộ tem bưu chính "Ca trù - Di sản văn hóa phi vật
thể cần được bảo vệ khẩn cấp". Việc phát hành này cũng có điều hay, nhưng
điều dở thì không ít vì hiện nay, việc sử dụng tem thư bưu chính là rất hạn
chế, nên có lẽ, cần có những việc làm thiết thực hơn.
- Tổ chức mối liên hệ giữa ngành du lịch Việt Nam phối hợp với cơ
quan quản lý di sản ca trù để các doanh nghiệp lữ hành có chiến lược đưa
khách đến các điểm biểu diễn ca trù hàng tuần.
b) Sở Văn hóa, Thể thao Hà Nội phải nâng cao hiệu quả bảo tồn, phát
huy giá trị di sản qua hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù
- Giải pháp cho bài toán liên ngành
Nếu để tìm ra một trong những nguyên nhân quan trọng trong việc Hà
Nội vẫn đang gần như “giậm chân tại chỗ’ trong công tác bảo tồn, phát huy
giá trị di sản ca trù (ít nhất là hơn 4 năm qua) thì đó chính là công tác phối
hợp liên ngành của Hà Nội còn hạn chế, đó là:
+ Công tác phối hợp giữa Sở VHTT và các ban, ngành có liên quan khác
như thị trường, giao thông, kế hoạch đầu tư, các quận nội thành đặc biệt là
quận Hoàn Kiếm,... còn nhiều hạn chế. Thể hiện rõ nhất là một số CLB, giáo
153
phường ca trù nội thành chủ yếu hoạt động dưới sự hỗ trợ phần nào đó của
BQL phố cổ Hà Nội, còn toàn bộ các hỗ trợ khác liên quan đều không có. Vì
vậy, để đáp ứng được vai trò phát huy giá trị di sản, Sở VHTT Hà Nội cần
quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch phối hợp liên ngành trong phạm vi Hà
Nội để quản lý, điều hành và hỗ trợ, đầu tư cho các CLB, giáo phường.
+ Công tác phối hợp giữa ngành Văn hóa và ngành Du lịch của Hà Nội
trong thời gian qua là hạn chế. Việc thành lập Phòng Di sản chỉ có tác dụng
trong việc quản lý và bảo tồn di sản, trong khi vai trò phát huy thì du lịch lại
đóng vai trò quan trọng. Nhưng những kết quả phối hợp giữa lĩnh vực văn
hóa, di sản với lĩnh vực du lịch ngay trong nội bộ Sở VHTT&DL Hà Nội
trước đây gần như không có, vẫn mạnh ai nấy làm, chưa có sự bắt tay, tìm ra
giải pháp để giải bài toán phối hợp liên ngành quan trọng này. Thực tế, trong
phạm vi quản lý du lịch của mình, lĩnh vực du lịch của Hà Nội hoàn toàn có
thể hỗ trợ cho công tác phát huy giá trị di sản ca trù thông qua nhiều cách
thức, trong đó có: Các công ty lữ hành quan tâm đưa ca trù vào chương trình
du lịch; các khách sạn trên địa bàn làm trung gian giới thiệu khách du lịch
quốc tế đến với các điểm biểu diễn ca trù ở phố cổ; trung tâm xúc tiến du lịch
tập trung quảng bá, giới thiệu ca trù trong và ngoài nước...
- Các giải pháp cụ thể:
+ Thực hiện tốt, đầy đủ, kịp thời các nội dung công việc mà Chương
trình hành động quốc gia về bảo vệ ca trù đã nêu. Xây dựng kế hoạch riêng
cho Hà Nội để phù hợp với tình hình thực tế.
+ Xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản cho đối tượng đặc
thù là các CLB, giáo phường đang hoạt động thiếu sự quản lý nhà nước ở nội
thành Hà Nội như CLB ca trù Hà Nội, giáo phường Thăng Long, giáo phường
Thái Hà.
154
+ Thực hiện quy trình đào tạo, truyền nghề đã nêu ở trên phần a) dành
cho cấp độ vĩ mô, với 2 cấp độ 1,2 để lựa chọn được 1 thế hệ tài năng gửi đào
tạo cấp Quốc gia.
+ Tiếp tục duy trì liên hoan ca trù Hà Nội 2-3 năm/1 lần để qua đó có cái
nhìn tổng thể về thực trạng phát triển ca trù Thủ đô để đưa ra các giải pháp
phù hợp. Không nên để ngắt quãng khá lâu như thời gian qua (6-8 năm/1 lần).
Tìm kiếm các nhà tài trợ cho các kỳ liên hoan, đặc biệt là các Quỹ quốc tế liên
quan đến văn hóa, bảo tồn di sản.
+ Xây dựng phương án hỗ trợ nghệ nhân ca trù Hà Nội với việc tạo lập
một quỹ dành riêng cho các nghệ nhân cao tuổi và lập chế độ bảo hiểm cho
các nghệ nhân này, ít nhất là như thế.
+ Ca trù phải được bảo tồn “sống” bằng nhiều cách, không chỉ là biểu
diễn “suông” mà còn phải thực hiện quay hình, ghi tiếng thật cụ thể mỗi lần
trình diễn cho đến việc nghiên cứu sâu vào âm nhạc ca trù. Điều này, Sở
VHTT có thể giao cho Trung tâm Thông tin của Sở tổ chức ghi hình, ghi âm
và lưu đĩa DVD, VCD để gìn giữ lâu dài.
+ Cân đối ngân sách xây dựng một không gian di sản riêng cho ca trù
dưới dạng một nhà hát ca trù, mô hình giống như Trung tâm Văn hóa ca trù
Thăng Long đã từng làm khá thành công và được dư luận, các chuyên gia
đánh giá cao.
+ Nghiên cứu chuyên sâu, lựa chọn mô hình không gian tổ chức hoạt
động CLB, giáo phường phù hợp trong nội thành để tìm ra mô hình tổ chức
hoạt động tốt nhất, vừa bảo tồn, vừa phát huy được giá trị di sản, để hỗ trợ
ngược lại cho các CLB, giáo phường hiện nay, đảm bảo phát triển bền vững.
+ Giao cho lĩnh vực Du lịch của Hà Nội tích cực quan tâm, tìm giải pháp
để liên kết với các điểm biểu diễn ca trù nội, ngoại thành để các doanh nghiệp
155
lữ hành gửi khách thường xuyên đến các CLB, giáo phường, tránh tình trạng
mạnh ai nấy làm, manh mún, tự phát như hiện nay.
+ Giao cho lĩnh vực giáo dục Hà Nội và thành đoàn Hà Nội tổ chức các
chương trình giao lưu tìm hiểu về ca trù ngay tại không gian nhà văn hóa của
các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông, tiểu học,… để phổ biến
giá trị nghệ thuật này tới giới trẻ. Đây cũng chính là một trong những vấn đề
trọng tâm mà Hà Nội cần phải thực hiện nằm trong Chương trình hành động
quốc gia về bảo vệ ca trù.
Năm 2014, cuộc thi “Khám phá các Di sản thế giới ở Hà Nội - Thành
phố vì hoà bình” do Sở VH,TT&DL Hà Nội tổ chức nhân kỷ niệm 10 năm
Ngày Di sản Văn hoá Việt Nam và kỷ niệm 15 năm Thủ đô Hà Nội được
UNESCO vinh danh là Thành phố vì hoà bình, trong đó có di sản ca trù. Ban
tổ chức khuyến khích người dân tham gia tìm hiểu và thể hiện các quan điểm,
ấn tượng của mình về di sản văn hoá của Thủ đô theo cách của riêng mình
như viết bài, dựng phóng sự, clip đồ hoạ, hoặc thể hiện dưới dạng bài tìm
hiểu, công trình nghiên cứu, dự án hoạt động… Đây cũng là hình thức giúp
cho ca trù được người dân, công chúng quan tâm, tìm hiểu sâu hơn.
Theo khảo sát điều tra 300 bạn trẻ Hà Nội của NCS thì ngoài các câu hỏi
đóng, phiếu điều tra còn đưa ra một số câu hỏi mở nhằm có thêm thông tin
sâu hơn về đánh giá của giới trẻ Hà Nội với khả năng phát triển của ca trù. Ý
kiến cá nhân của các học sinh, sinh viên, thanh niên về các biện pháp có thể
thực hiện để giúp ca trù được tổng hợp và phân loại thành các nhóm ý kiến
dưới đây:
Bảng 3.2. Các biện pháp để ca trù
được các bạn trẻ biết đến nhiều hơn ở Hà Nội
Biện pháp đề xuất Số lượng Tỉ lệ
Diễn tại giao lưu, tìm hiểu ca trù tại 88 29.3
156
các trường ĐH, CĐ, THPT Quảng cáo trên tivi, các phương tiện
thông tin, đặc biệt là các trang mạng 110 36.7
xa hội dành cho giới trẻ.
Đưa vào hoạt động ngoại khóa của 19 6.3 sinh viên, học sinh phổ thông
Mở thêm các chương trình biểu diễn 81 27.0
Sáng tác thêm các bài phù hợp với 13 4.3 thị hiếu giới trẻ
Khác 150 50.0
Nguồn: Tổng hợp khảo sát điều tra của NCS, tháng 5/2014
Ngoài những nhóm đề xuất trên, nhiều bạn trẻ đã cung cấp các ý kiến
thực tiễn như là những biện pháp để ca trù có thể tiếp cận được với lượng
thanh niên, sinh viên rộng hơn trên địa bàn Hà Nội. Nhìn chung, việc đưa các
biểu diễn ca trù vào các chương trình phát sóng thường xuyên hơn của ti vi
hay các phương tiện thông tin (internet, radio,…) được lựa chọn là biện pháp
hữu hiệu nhất theo quan điểm của chính đối tượng mà ca trù đang hướng tới.
Trực tiếp hơn, đưa các cuộc biểu diễn ca trù này vào biểu diễn tại các trường
đại học, cao đẳng cũng được các bạn sinh viên ủng hộ.
Dưới sự chủ động của khoa Việt Nam học của Đại học Thăng Long, Hà
Nội, ca trù, xẩm đã được mời về để giao lưu với sinh viên các chuyên ngành
và nhận được sự đồng cảm, chia sẻ cũng như hưởng ứng rất tốt của các bạn
trẻ. Hiện đã có khá nhiều sinh viên trường này làm khóa luận tốt nghiệp liên
quan đến ca trù, xẩm và xin làm cộng tác viên cho một số CLB, giáo phường
tại Hà Nội.
157
3.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả biểu diễn nghệ thuật ca trù của
một số CLB, giáo phường nội thành Hà Nội
3.4.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức biểu diễn
Sở VHTTDL Hà Nội cách đây 3 năm cũng đã thành lập Phòng Quản lý
di sản văn hóa nên hy vọng đây cũng sẽ là địa chỉ liên hệ của các CLB, giáo
phường ca trù tại Hà Nội và cũng sẽ là bước đột phá quan trọng để công tác
bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù của một số CLB, giáo phường nội thành
có được sự quan tâm đầu tư hơn. Tuy vậy, từ kế hoạch đến hành động sẽ
không hề dễ dàng khi mà đến thời điểm này, hoạt động biểu diễn ca trù gắn
liền với du lịch của Hà Nội gần như vẫn là con số 0. Các điểm biểu diễn như
CLB ca trù Hà Nội, giáo phường Thăng Long, Thái Hà, Lỗ Khê cũng chưa hề
nằm trong danh mục trọng tâm, trọng điểm văn hóa của Sở VH,TT&DL. Tất
cả hầu như chỉ dừng ở kế hoạch, còn thực thi thì chưa thấy. Các CLB, giáo
phường phố cổ vẫn chưa nhận được sự hỗ trợ thường xuyên nào của ngành
văn hóa, du lịch Hà Nội. Điển hình như việc giáo phường ca trù Thăng Long
đã biểu diễn ở 87 Mã Mây trong nhiều năm, du khách đã quen thuộc với địa
điểm này thì đầu năm 2015 đã phải trả lại địa điểm chuyển về đền Quan Đế
(28 Hàng Buồm).
Vì vậy, giải pháp được đề xuất là:
Thứ nhất: Các CLB, giáo phường không nên đợi chờ vào sự quan tâm
(và thực tế là tư khi thành lập, họ cũng không trông chờ vào điều này), ủng
hộ, đầu tư về cơ chế, chính sách, đãi ngộ, tài chính cho hoạt động tổ chức biểu
diễn của mình, mà hãy chủ động tìm hướng đi, hoàn thiện những điều đang
hạn chế để tổ chức biểu diễn cho chất lượng, hấp dẫn.
Thứ hai: Các CLB, giáo phường cần đẩy mạnh hoạt động quảng bá để
thu hút du khách, cũng không thể thu hút được nhiều khách trong nước, nên
tập trung vào mảng khách quốc tế. Tập trung qua các trung gian giới thiệu
158
như công ty lữ hành, các khách sạn phố cổ có khách quốc tế,…Sẵn sàng trích
tỷ lệ % cho các trung gian giới thiệu hoặc giảm giá vé.
Thứ ba: Tập trung đầu tư, quan tâm đến đội ngũ cộng tác viên tiếng Anh
và có thể có thêm một số cộng tác viên ngoại ngữ khác như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Ý, Đức,…vì đội ngũ này rất quan trọng,
một mặt đội ngũ cộng tác viên giúp giới thiệu song ngữ ngay tại không gian
biểu diễn, một mặt họ sử dụng vốn ngoại ngữ để giúp CLB, giáo phường
tuyên truyền, quảng bá trên internet ở các trang mạng xã hội, các website du
lịch nước ngoài, du khách sẽ biết nhiều hơn đến các điểm biểu diễn.
Thứ tư: Cải thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hình thức biểu diễn để
hấp dẫn hơn với du khách. Ví dụ, hiện ở CLB ca trù Hà Nội khi biểu diễn ca
trù thì hình thức vẫn khá đơn điệu, cả buổi 60 phút chỉ có hát, múa ca trù và
15 phút giới thiệu, cho du khách khám phá nhạc cụ, bộ gõ,…1 buổi diễn ca
trù của CLB Hà Nội đôi khi chỉ xoay quanh 3 nghệ sĩ Bạch Vân (chủ chốt) và
2 nghệ sĩ trẻ, trong khi đó, giáo phường Thăng Long lại có đội ngũ đào nương
trẻ đẹp và phong phú hơn nên mỗi buổi diễn có khoảng 5 - 6 đào nương biểu
diễn, trang phục đẹp, ấn tượng. Bên cạnh đó, giáo phường Thăng Long rất
quan tâm đến mảng biểu diễn ca trù kết hợp với trình diễn 10 - 15 phút/buổi
về âm nhạc dân tộc độc đáo của Việt Nam như biểu diễn đàn tranh, đàn tỳ bà,
đàn bầu,… Không những thế, vào cuối chương trình, giáo phường này còn rất
hợp lý khi đưa thêm 10 phút hát văn và nhảy đồng vào để cho du khách có
cảm giác hưng phấn trước khi chia tay, hiệu quả rất cao.
Thứ năm: Thường xuyên kết nối với các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán
tại Hà Nội để tổ chức biểu diễn phục vụ du khách. Giáo phường Thái Hà đang
làm rất tốt mảng này. CLB Hà Nội cũng thường xuyên được các đại sứ quán
mời. Hoạt động này vừa quảng bá được di sản thế giới của Việt Nam, vừa
giúp cho các CLB có thu nhập, lại có nguồn khách ổn định.
159
Thứ sáu: Các CLB, giáo phường, sau mỗi buổi diễn, phải xin ý kiến của
du khách để qua đó, có được đánh giá xác thực nhất chất lượng buổi diễn của
mình, rút kinh nghiệm và phục vụ tốt hơn.
Cuối cùng: Nếu có khả năng đầu tư hoặc có nhà đầu tư quan tâm đầu tư
cho 1 nhà hát di sản đảm bảo cho ca trù biểu diễn phù hợp thì đây chính là
điều tốt nhất và là cơ hội lớn nhất để thoát khỏi những khó khăn hiện nay. Các
công ty lữ hành cũng rất mong muốn có được điều này vì họ rất ngại đưa
khách vào trong các phố cổ như Mã Mây (sau này là Hàng Buồm), Hàng Bạc
vì sự khó khăn về di chuyển giao thông.
3.4.2.2. Tiếp tục quan tâm đến đội ngũ nghệ nhân, nghệ sĩ và duy trì
công tác phục dựng, gìn giữ vốn cổ để đáp ứng yêu cầu biểu diễn nghệ thuật
Đã từng có nhiều câu hỏi đặt ra là ca trù hiện nay đã thực sự có thế hệ
kế cận chưa, khi thế hệ truyền dạy chưa được đãi ngộ và tạo không gian
truyền dạy? Bảo tồn di sản chính là bảo tồn nghệ nhân, bởi nghệ nhân là chủ
thể, lại là báu vật nhân văn sống, là chủ thể thực hành, truyền dạy di sản.
Không có các liên hoan, không có chế độ đãi ngộ, không có không gian để
truyền dạy thì các nghệ nhân gìn giữ di sản chỉ bằng tình yêu với nghề liệu di
sản có sức sống lâu bền?
Tâm sự của nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Phú Đẹ ở tuổi gần 85 khiến
không ít người suy ngẫm: “Bao nhiêu năm làm nghề có ai quan tâm gì đâu.
May mắn được cái Huy chương vàng ở Liên hoan ca trù toàn quốc, có chút
tiếng, anh em bà con chú ý đến. Yêu nghề thật, muốn truyền dạy cho con cháu
thật nhưng vấn đề kinh tế eo hẹp quá, không biết sống bằng cách gì để bảo
tồn” [Phỏng vấn sâu, tháng 8/2014].
Thế hệ kế cận cụ Đẹ, nghệ sỹ Bạch Vân nổi tiếng đất Hà Thành bởi
niềm đam mê ca trù. Nghệ sĩ Bạch Vân đã phải rất vất vả để có thể duy trì
CLB ca trù Hà Nội sinh hoạt định kỳ ở Bích Câu đạo quán (phố Cát Linh) từ
160
năm 1991 và hiện nay là ở 42 Hàng Bạc. CLB ca trù Hà Nội cũng rất muốn
mở mang mảng truyền dạy, đào tạo vì Bạch Vân chính là một trong những
nghệ nhân nổi tiếng nhất của làng ca trù và là một trong những nghệ nhân giỏi
nghề nhất. Trong khi ở 42 Hàng Bạc thì Ban Quản lý phố cổ và UBND
Phường Hàng Bạc chỉ cho mượn địa điểm này vào buổi tối. Không gian đó
không thể là không gian cho CLB sinh hoạt 24/24 được vì dù sao, đình Kim
Ngân là địa điểm văn hóa tín ngưỡng của người dân Hàng Bạc. Tại điểm 87
Mã Mây cũng tương tự như vậy. Rất may là nghệ sĩ Phạm Thị Huệ có được
một số nguồn tài trợ và có được những địa điểm khác để truyền dạy cho thế
hệ kế cận. Người nghệ nhân là trung tâm của giá trị di sản: báu vật nhân văn
sống vì thế, bảo tồn cũng phải tập trung vào trung tâm đó. Nghệ nhân thầy,
nghệ nhân trò hiện nay đều sống bằng các nghề khác, còn hoạt động nghề chỉ
là bởi tình yêu, không có sự bảo trợ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, công tác phục dựng, khơi dậy vốn ca trù cổ thông qua các
hoạt động sưu tầm, tổng hợp tư liệu Hán Nôm, tư liệu cổ gia truyền và thông
qua hoạt động truyền nghề cho thế hệ trẻ là rất quan trọng. Các CLB, giáo
phường ca trù ngoại thành sẽ dễ quan tâm đến vấn đề này hơn, trong khi đó
với điều kiện thực tế về không gian, thời gian, một số CLB, giáo phường nội
thành đã gặp không ít khó khăn trong việc phục dựng, bảo tồn vốn cổ dù họ
đã có nhiều cố gắng. Trong trường hợp này, vai trò của Sở VH,TT Hà Nội là
rất quan trọng.
3.4.2.3. Chú trọng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động truyền nghề, đào tạo thế
hệ kế cận để đáp ứng yêu cầu biểu diễn nghệ thuật
Thực tế là, có rất nhiều cách để bảo tồn, không chỉ là nghiên cứu mà còn
phải đưa ra biểu diễn trước công chúng để phát huy, đó cũng chính là một
cách bảo tồn hiệu quả. Việc biểu diễn này còn có giá trị trong việc giảng dạy,
đào tạo các thế hệ sau vì được học trực tiếp là hàng đầu. Mặt khác, công
161
chúng cũng cần được đào tạo để thưởng thức thì mới có khán giả. Song, nếu
không có nhà hát di sản thì không thể thực hiện được. “Tại sao các loại hình
nghệ thuật khác như chèo, tuồng thì có nhà hát trong khi ca trù lại không có
được một nhà hát di sản?”, đây là thắc mắc của bao thế hệ nghệ nhân Hà Nội.
Các CLB, giáo phường Hà Nội hiện nay chỉ đào tạo, truyền nghề qua “gà
nòi” của gia tộc, làng xã mình hoặc qua một số nơi gửi gắm. Công tác truyền
nghề được làm theo kiểu hiểu biết gì dạy thế, không có giáo trình, tư liệu phụ
trợ, dạy theo bản năng và khả năng hiểu biết của nghệ nhân.
Vấn đề đào tạo của các CLB, giáo phường có tổ chức biểu diễn ở nội
thành Hà Nội còn liên quan đến vấn đề “đầu ra” của các thế hệ kế cận được
đào tạo. Nếu như ở giáo phường Thăng Long, đầu ra cho các nghệ sĩ trẻ đã
được thu xếp khi mà nghệ sĩ nào đạt yêu cầu thì sẽ được cho ra ngồi sập gụ để
biểu diễn, dù là ca nương, kép đàn, cầm chầu hay múa. Nhưng ở giáo phường
Thái Hà thì lại có những khó khăn khi con cháu của cụ Nguyễn Văn Mùi khi
được đào tạo bài bản thì lại ít có “đất dụng võ” khi mà thi thoảng giáo phường
này mới có buổi biểu diễn.
Nếu đào tạo theo kiểu ăn sổi thì các nghệ nhân sẽ không nỡ làm thế, mà
nếu đào tạo bài bản, đúng theo kiểu đào tạo của giáo phường xưa thì mất
khoảng 5 - 7 năm cho 1 nghệ nhân, ít hơn thì cũng phải 2 - 3 năm, điều đó sẽ
khiến cho các CLB, giáo phường đành có đâu làm đó, chứ không thể xác định
trước là sẽ phải đào tạo bao nhiêu người, trong bao lâu vì vấn đề “cơm, áo,
gạo, tiền” mà thôi.
Vì vậy, hoạt động truyền dạy, đào tạo thế hệ kế cận này chính là một
trong những mấu chốt của vấn đề bảo tồn, bảo vệ lâu dài, bền vững ca trù nói
chung và hoạt động của CLB, giáo phường nói riêng. Chỉ cần giả sử, khi nghệ
nhân Bạch Vân lớn tuổi, không đủ khả năng biểu diễn hàng tuần như hiện nay
thì nghệ nhân kế cận đã đủ sức gánh vác trọng trách là người quản lý, điều
162
hành, lại là người ca nương chính, cầm trịch cho CLB ca trù Hà Nội? Sẽ rất
khó! Chưa kể là một lớp thế hệ ca nương, kép đàn, trống chầu phải tài năng
đồng đều thì mới có thể cùng biểu diễn chất lượng, không thì sẽ bị “lạc nhịp”
trong nghệ thuật ca trù.
3.4.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, liên kết với du lịch
Bên cạnh việc xây dựng ca trù trở thành một sản phẩm du lịch, cần có
giải pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá nghệ thuật ca trù, ở đây
là với cấp độ quảng bá của một số CLB, giáo phường.
Thực tế, khó có thể đòi hỏi những giáo phường Lỗ Khê, Chanh Thôn hay
kể cả Thái Hà bỏ chi phí ra để tuyên truyền, quảng bá cho ca trù, để thu hút
du khách, vì không thể có nổi bất kì một nguồn kinh phí nào để làm việc này.
Ngay cả kinh phí duy tu bảo dưỡng nhà thờ họ Ca công mà Lỗ Khê cũng
không có, phải đi xin nhà nước. Chính vì thế, công tác quảng bá nếu có thì chỉ
do CLB ca trù Hà Nội và giáo phường ca trù Thăng Long thực hiện mà thôi.
Về mặt marketing, các CLB, giáo phường cần có nhiều phương thức như
phát hành các tập gấp, tờ rơi, những quyển sách nhỏ giới thiệu một cách khái
quát nhất về nghệ thuật ca trù. Những ấn phẩm thông tin văn hóa, du lịch này
sẽ được gửi tới các kênh trung gian giới thiệu, PR cho hoạt động biểu diễn ca
trù như các khách sạn phố cổ Hà Nội, nên tập trung vào các khách sạn mini.
Bên cạnh đó là các điểm kinh doanh lữ hành phố cổ như Sinh Café, Open
tour, Kim tour, Bufaloutour,… hướng tới đối tượng khách lẻ, tây ba lô, khách
đi theo nhóm nhỏ. Thực tế cho thấy, đối tượng khách này vẫn là đối tượng
chính của các CLB, giáo phường phố cổ hiện nay.
Đối với khán giả trong nước, cần giới thiệu ca trù trên các phương tiện
thông tin đại chúng như đài báo, tivi, và cần tăng thêm thời lượng phát sóng
cho những chương trình này. Nhưng thực tế, đây lại không phải là việc làm
của CLB, giáo phường, mà phải là việc làm của cơ quan quản lý nhà nước để
163
hỗ trợ quảng bá, xúc tiến giới thiệu ca trù tới công chúng trong nước để họ
yêu ca trù hơn. Các CLB, giáo phường chỉ có thể tìm cách tổ chức liên kết với
các trường học để nhờ lực lượng cộng tác viên giới thiệu ca trù, tổ chức giảm
giá vé cho học sinh sinh viên, đôi khi miễn phí để ca trù dễ dàng đến với công
chúng, giới trẻ hơn.
Bên cạnh các hình thức đưa ca trù vào biểu diễn giới thiệu trong các
chương trình, tuần lễ văn hóa, du lịch thì hình thức quảng bá tốt nhất đối với
các CLB, giáo phường vẫn là qua khách du lịch. Nếu như 1 khách nước ngoài
yêu thích ca trù thì khi về nước, họ sẽ giới thiệu cho bạn bè, người thân, điều
này sẽ rất hiệu quả.
Tiểu kết chương 3
Bàn luận và luận giải những vấn đề liên quan đến di sản ca trù nhằm bảo
tồn, phát huy, phát triển bền vững di sản là việc không dễ để đi đến thống
nhất bởi nhiều quan điểm khác nhau. Việc đánh giá được đúng bản chất sự
biến đổi hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù tại Hà Nội, đặc biệt là
khu vực nội thành thì sẽ còn khó hơn.
Ở chương 3, với việc đưa ra những quan điểm về bảo tồn, phát huy và áp
dụng khung lý thuyết theo cách tiếp cận của văn hóa học là bảo tồn trên cơ sở
kế thừa, nhưng phải phát huy được một cách bền vững dựa trên những biến
đổi về tổ chức hoạt động, không gian văn hóa của các CLB, giáo phường ca
trù. Cùng với những so sánh và đưa ra sự biến đổi của giáo phường xưa và
nay, NCS đã cố gắng vận dụng những lý thuyết văn hóa học, nhân học văn
hóa, xã hội học văn hóa và phần nào đó là quản lý văn hóa để nghiên cứu,
đánh giá những vấn đề đặt ra, qua đó tìm ra mô hình tổ chức hoạt động phù
hợp cho các CLB, giáo phường để hiệu quả nhất, giúp được cho CLB, giáo
phường tồn tại, phát triển bền vững, lại vẫn bảo tồn, phát huy được giá trị di
sản.
164
Bên cạnh đó, những giải pháp đặt ra cần bàn luận cũng là những vấn đề
mà tác giải mong muốn các chủ thể văn hóa là các CLB, giáo phường, các
nghệ nhân nghiên cứu, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế, đồng thời để các cơ
quan quản lý nhà nước về di sản cần tập trung vào những nhóm giải pháp gì?
165
KẾT LUẬN
Khi giới thiệu, phát huy một loại hình di sản văn hóa phi vật thể mà chỉ
đơn thuần giới thiệu bản thân nghệ thuật đó thì sẽ không đạt được mục đích.
Nhưng nếu giới thiệu, phát huy di sản đó song hành cùng bối cảnh xã hội, văn
hóa và lịch sử lưu truyền, bảo tồn và phục dựng sẽ được công chúng cảm thụ
và hiểu được ý nghĩa của di sản văn hóa đó. Bằng cách này, có thể thấy rằng
việc giới thiệu và truyền bá một di sản văn hóa phi vật thể bởi các cá nhân,
các nhóm người hoặc các cộng đồng được đánh giá và trân trọng. Họ là
những chủ thể văn hóa trực tiếp sáng tạo, sở hữu và tham gia vào các sinh
hoạt văn hóa. Họ được xem như những người thực hành di sản văn hóa phi
vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể muốn tồn tại phụ thuộc rất nhiều vào nhận
thức và hành vi, ý chí, khát vọng, nhu cầu và tất nhiên, lợi ích của họ cũng có
tác động không nhỏ đến sự tồn vong của di sản văn hóa phi vật thể. Và di sản
ca trù cũng đã và đang được giới thiệu, truyền bá như thế qua hình thức các
CLB, giáo phường.
Là một trong những niềm tự hào về nghệ thuật biểu diễn truyền thống
mà cha ông ta đã để lại cho hậu thế, nhưng di sản ca trù lại đang là nỗi trăn trở
của những nghệ nhân, là nỗi lo lắng của đội ngũ chuyên gia, nhà nghiên cứu
đã gắn bó lâu năm với nghệ thuật này, là sự bức xúc của dư luận, báo chí và là
bài toán hóc búa trong công tác bảo tồn, phát huy của các nhà quản lý về di
sản văn hóa. Như vậy, ca trù có được sự quan tâm rất lớn của các đối tượng
có liên quan và câu hỏi đã được đặt ra ở phần mở đầu của luận án đã phần nào
được giải đáp trong 3 chương.
Nhưng trên thực tế, để câu hỏi đó được giải quyết một cách thỏa đáng,
chỉ một chương trình hành động quốc gia về bảo vệ di sản ca trù là không đủ,
mà phải là chương trình hành động đồng thời của 16 tỉnh, thành có ca trù,
166
trong đó có Hà Nội và sự chung tay của cả cộng đồng, sự nỗ lực vượt khó của
các nghệ nhân, các CLB, giáo phường, làng thôn ca trù. Khi mà các nghệ
nhân ca trù lão làng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, khi mà chính sách đãi ngộ
không tốt, khi mà các nhà quản lý vẫn còn mơ hồ trong việc làm thế nào để
bảo tồn, phát huy, khi mà các nhà nghiên cứu, chuyên gia luôn ở trong trạng
thái yêu ca trù, biết là nên làm gì những không thể làm được gì vì thiếu nhiều
thứ, trong đó có cả cơ chế và tài chính, và khi mà cộng đồng, công chúng
chưa thực sự yêu ca trù thì rất cần những mô hình, những giải pháp để phục
hưng nền nghệ thuật này, trong đó có hoạt động của một số CLB, giáo
phường ở Hà Nội, một thành tố quan trọng góp phần cho công cuộc phục
dựng, bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Ngoài phần mở đầu (nêu rõ các vấn đề từ lý do, mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu, phạm vi, đối tượng, phương pháp, lịch sử nghiên cứu), kết luận,
danh mục các bảng biểu, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận án có kết cấu 3 chương với tinh thần xuyên suốt là bám sát mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, trả lời được các câu hỏi nghiên cứu và cố
gắng ở mức tối đa trong việc thể hiện một luận án chuyên ngành văn hóa học
với việc áp dụng hệ thống lý thuyết của văn hóa học như văn hóa dân gian,
nhân học văn hóa, xã hội học văn hóa, lịch sử văn hóa, triết học văn hóa. Kết
cấu 3 chương đi từ bản chất, cơ sở lý luận, lịch sử hình thành và phát triển ca
trù tại Việt Nam và Hà Nội, những quan điểm, luận cứ, kinh nghiệm (chương
1) đến thực trạng, những khó khăn, thuận lợi (chương 2), bàn luận quan điểm
bảo tồn, phát huy, những biến đổi căn bản của các tổ chức CLB, giáo phường
Hà Nội, bàn luận mô hình phù hợp và những giải pháp khả thi để áp dụng vào
trong thực tế (trong chương 3).
Có thể nói, tất cả những vấn đề nêu trên được đề cập ở chương 1 đều là
những vấn đề cốt lõi, trọng tâm, có tính khái quát, mang tính cơ sở lý luận và
167
có liên quan trực tiếp đến mục đích nghiên cứu của đề tài luận án. Cùng với
những định hướng và kế hoạch hành động một cách cụ thể, dài hơi, quyết liệt
của Hà Nội trong việc bảo tồn, phát huy ca trù thời gian tới, NCS cũng mong
muốn qua thực trạng được đề cập ở chương 2, đặc biệt là qua các vấn đề đúc
kết, góp phần bàn luận được mô hình, giải pháp phù hợp cho hoạt động của
một số CLB, giáo phường Hà Nội nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù.
Từ những vấn đề đã được đề cập và phân tích, có thể tổng hợp lại những
nội dung chính mà Hà Nội đã và đang gặp phải trong việc bảo tồn, phát huy
giá trị di sản ca trù như sau:
Thứ nhất, Hà Nội đang thiếu một hành lang pháp lí liên quan đến cơ chế,
chính sách cụ thể đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị ca trù ở Hà Nội, đó là
chiến lược, kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị ca trù ở Hà Nội trong ngắn hạn
và dài hạn đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 rất cần được sớm ban hành, các
chính sách hỗ trợ về kinh tế, chính sách về đào tạo và tổ chức cũng như đãi
ngộ tới các nghệ nhân cũng cần được đưa vào thực tiễn.
Thứ hai, công tác bảo tồn giá trị di sản ca trù theo chương trình hành
động quốc gia về bảo vệ di sản ca trù cũng chưa được Hà Nội làm tốt. Vẫn
chưa có nhiều chương trình hành động cụ thể, thiết thực của riêng Hà Nội,
mang đặc trưng cách làm của Hà Nội. Những kinh nghiệm từ Hà Tĩnh, Hưng
Yên rất đáng được học hỏi, vận dụng.
Thứ ba, hoạt động biểu diễn nghệ thuật ca trù của các CLB, giáo phường
nội thành và công tác phát huy giá trị di sản ca trù của Hà Nội còn nhiều hạn
chế. Hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù Hà Nội, Thăng Long trong
nội thành chưa được quan tâm đúng mức, chưa có chính sách đầu tư, phối hợp
để hoạt động phát huy đó được đẩy mạnh.
Thứ tư, công tác phối hợp liên ngành của Hà Nội còn nhiều bất cập. Nếu
hai lĩnh vực cơ bản là văn hóa (trong đó có di sản văn hóa) và du lịch mà chưa
168
thể chung tay hướng đến mục tiêu cùng bảo tồn, phát huy giá trị di sản thì khó
có thể thành công được.
Thứ năm, Hà Nội có nhiều CLB, giáo phường, làng thôn ca trù nhất cả
nước với sự đa dạng, phức tạp về không gian, mô hình, cách thức tổ chức hoạt
động ở cả ngoại thành và nội thành, nên sẽ gặp khó khăn hơn các địa phương
khác trong công tác bảo tồn phát huy. Tuy vậy, Hà Nội lại chưa có được
những hoạch định khoa học cho từng khu vực, không gian để làm tốt hơn.
Thứ sáu, Hà Nội cần định hướng cho các CLB, giáo phường nội thành
xây dựng, vận hành, hoạt động theo mô hình mà tác giả đã đề cập ở chương 3.
Bên cạnh đó là quan tâm đầu tư xây dựng nhà hát di sản ca trù ở nội thành để
có được không gian biểu diễn thực sự phù hợp với ca trù.
Với những tìm hiểu và nghiên cứu trong luận án, tác giả đã bước đầu
hoàn thành được những nhiệm vụ và mục tiêu đề ra. Luận án là công trình
nghiên cứu chuyên sâu đầu tay của tác giả về lĩnh vực di sản phi vật thể và
đặc biệt là ca trù nên sẽ không tránh khỏi những nhận định chủ quan, phiến
diện và có thể còn chưa đi vào trọng tâm một số vấn đề nghiên cứu.
169
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đức Thắng (2014), “Để ca trù sống cùng du lịch”, Tạp chí Du lịch,
tháng 11, tr. 41-46.
2. Nguyễn Đức Thắng (2015), “Về hoạt động của CLB, giáo phường ca trù nội
thành Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa học, số 1 (17), tr.61-65.
3. Nguyễn Đức Thắng (2015), “Giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản ca trù
qua các câu lạc bộ, giáo phường nội thành Hà Nội”, Tạp chí Nghiên cứu văn
hóa, số 11, tr.70-73.
170
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1.1. A.A Radugin (2004), Văn hóa học - Những bài giảng, Vũ Đình Phòng dịch,
Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2010), Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb TP.HCM,
TP.HCM
3. Đặng Văn Bài (2007), “Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể - từ góc nhìn toàn
cầu hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2, tr.6-17.
2.4. Nguyễn Chí Bền (2004), “Bảo tàng với việc bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa phi vật thể”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 7, tr.24-26.
3.5. Nguyễn Chí Bền (2005), “Bảo tồn di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà
Nội, những vấn đề phương pháp luận”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4,
tr.31-36.
4.6. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
7. Nguyễn Chí Bền (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể ở
Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
8. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Dân
tộc, Hà Nội.
5.9. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay
(Trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà
Nội.
6.10. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa: Con người với thiên nhiên, xã hội
và thế giới siêu nhiên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên thế giới, Đại Hội đồng
171
UNESCO, họp tại Paris ngày 17-10 đến 21-11-1972, kỳ họp thứ 17
12. Công ước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể (2003) kèm hướng dẫn thực
hiện công ước 2003, Đại hội đồng UNESCO chính thức thông qua tại
phiên họp thứ 32 tại Paris và bế mạc vào ngày 17 tháng 10 năm 2003.
7.13. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học Văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội
8.14. Đoàn Văn Chúc (2004), Văn hóa học, Nxb Lao động, Hà Nội.
15. Phạm Duy (1972), Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam, Nxb Hiện đại, Sài
Gòn.
9.16. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Viện Văn hóa và
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
17. Nguyễn Xuân Diện (2000), Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
18. Nguyễn Xuân Diện (2007), Lịch sử và nghệ thuật Ca trù, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
10.19. Đại Việt sử ký toàn thư (2004), bản dịch, Tập 1, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
20. Đặc khảo ca trù Việt Nam (2006) Viện Âm nhạc, Hà Nội
11.21. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1962), Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb Sài
Gòn, Sài Gòn.
22. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
1.23. Evans, Grant (chủ biên) (2001), Bức khảm văn hóa châu Á - tiếp cận Nhân
học, Cao Xuân Phổ dịch, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
24. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam trong
tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172
25. Chu Hà (1980), Hát cửa đình Lỗ Khê, trích đoạn Sự tích tổ sư giáo
phường của Đông các học sĩ Đào Cử, soạn năm 1476, Sở VHTT Hà
Nội, Hà Nội.
26. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2001), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
27. Bùi Trọng Hiền (2005), “Không gian văn hóa - các chức năng văn hóa xã hội
và những hình thức biểu hiện của nghệ thuật Ca trù”, Thông báo khoa
học Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, số 16.
28. Hiến chương quốc tế về bảo tồn và trùng tu (2004), Nxb Xây dựng, Hà Nội.
29. Lê Phụng Hoàng (Chủ biên), (1999), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo
dục, TPHCM.
30. Phạm Đình Hổ (1972), Vũ trung tùy bút, Đông Châu, Nguyễn Hữu Tiến,
Trương Chính dịch và chú thích, Nxb Văn học, Hà Nội.
31. Phạm Đình Hổ (1989), Vũ trung tùy bút, Nxb Trẻ và Hội nghiên cứu giảng
dạy văn hóa TP.HCM.
32. Hội Folklore châu Á (2006), Giá trị và tính đa dạng của Folklore châu Á,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
2.33. Tô Duy Hợp (chủ biên) (2000), Sự biến đổi của làng xã Việt Nam
ngày nay ở đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc
nhìn giá trị học, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
3.35. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
36. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội
37. Nguyễn Văn Hy, Phan Văn Tú (1998), Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
173
4.38. Phạm Khiêm Ích (chủ biên) (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỷ
XX, 2 tập, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
40. Trần Văn Khê (1960), Hát Ả đào, Bách khoa số 81, 82, 83, Sài Gòn.
5.41. Luật di sản văn hóa (2001, sửa đổi, bổ sung 2009)
42. Luật du lịch (2005)
6.43. Lê Hồng Lý (chủ biên) (2010), Quản lý di sản văn hóa với sự phát triển du
lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
44. Mancacaritadipura (2014), “Nghiên cứu, bảo tồn âm nhạc truyền thống
và những bài dân ca trong một thế giới đang thay đổi thông qua
các trường hợp nghiên cứu ở Indonesia và Việt Nam”, Tạp chí
Văn hóa học, số 4 (14), tr.31-37.
45. Morin, Edgar (2006), Tri thức về tri thức - Nhân học về tri thức, Lê
Diên dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Đức Mậu (2003), Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
47. Nguyễn Đức Mậu (2009), Hát nói Nguyễn Công Trứ, Nxb Nghệ An, Nghệ
An.
48. Nguyễn Đức Mậu (2010), Ca trù Hà Nội trong lịch sử và hiện tại, Tủ sách
1000 năm Thăng Long, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
49. Hoàng Minh (2014), “Văn hóa dân gian và phương pháp tiếp cận diễn
xướng”, Tạp chí Văn hóa học, số 4 (14), tr.96-98.
50. Nguyễn Thụy Loan (1993), Lược sử âm nhạc Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Nhạc
viện Hà Nội, Hà Nội.
174
51. Nguyễn Văn Lưu (1998; 2008), Thị trường du lịch, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội
7.52. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
8.53. Phan Ngọc (2007), Một nhận thức về văn hóa Việt Nam, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
9.54. Nguyễn Tri Nguyên (2000), Văn hóa - tiếp cận từ vấn đề và
hiện tượng, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
10.55. Nguyễn Tri Nguyên (2006), Văn hóa - tiếp cận lý luận và thực tiễn,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
11.57. Nhiều tác giả (2008), Hát Ca trù người Việt, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế,
Viện Âm nhạc.
12.58. Nhiều tác giả (2010), Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt
Nam: Những cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM,
TP.HCM.
13.59. Nguyễn Đôn Phục (1923), “Khảo luận về cuộc hát Ả đào”, Tạp chí
Nam Phong, số 70, tr12-40.
14.60. Lương Hồng Quang, Nguyễn Tuấn Anh, Phạm Nam Thanh (2000),
“Thực trạng văn hóa nông thôn đương đại và những xu hướng biến
đổi”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 8, tr 55-61.
61. Phạm Quỳnh (1923), “Văn chương trong lối hát Ả đào”, Tạp chí Nam Phong
số 69, tr 24,25.
62. Phan Thuận Thảo (2008), “Về việc thiết lập hệ thống “Báu vật nhân văn
sống” ở Việt Nam”, Tạp chí Sông Hương, số 233, tr 7-9.
15.63. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
175
16.64. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
TP.HCM, TP.HCM.
17.65. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
18.66. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19.67. Nguyễn Văn Tiệp (2006), “Bàn về mối quan hệ giữa văn hoá học
và nhân học từ phương pháp tiếp cận”, Báo cáo tại Hội thảo khoa học
Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn
hóa học của Đại học quốc gia TP.HCM, TP.HCM.
68. Võ Quang Trọng (2010), Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể
ở Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
69. Tuyển tập thơ ca trù (1987), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
70. Trần Quốc Vượng, Nguyễn Vinh Phúc, Lê Văn Lan (1994), Tìm hiểu di sản
văn hóa dân gian Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
71. Trương Tửu (1994), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
72. UNESCO - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (2002), Tính
đa dạng của Văn hóa Việt Nam: Những tiếp cận về sự bảo tồn, Hà Nội.
73. Viện Văn hóa (1987), Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ
thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
74. Thái Bá Vân (1995), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật, Hà Nội
75. Viện Văn hóa (2001), Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn
hóa ở Thủ đô Hà Nội trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
76. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở
nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
176
77. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn
học, Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Anh
78. Cultural Heritage Specialist Guide (2007), Training and Certification
Programme for UNESCO World Heritage Sites (Chương trình đào tạo
và chứng nhận di sản thế giới của UNESCO).
79. Nguyen Van Luu (2001), “Tourism: an Important Bridge between Man and
Cultural Heritage. In Cultural heritage, Man and Tourism - Report of
the Asia-Europe Seminar” (Du lịch, một cầu nối quan trọng giữa con
người và di sản văn hóa, báo cáo Hội thảo Á - Âu về di sản văn hóa,
con người và du lịch), Hanoi, Vietnam 5-7 November 2001 (pp. 100-
104). Belgium: University of Liege, Laboratory of Anthropology of
Communication.
80. UNESCO (1972). Convention Concerning the Protection of the World
Natural and Cultural Heritage (Tài liệu hội nghị về bảo vệ di sản văn
hóa và thiên nhiên thế giới của UNESCO, nguồn: UNESCO.com)
81. UNESCO (2007), “Guilines for the Establishment of National “Living
Human Treasure” systems (Hướng dẫn Thiết lập Hệ thống “Báu vật
nhân văn sống” cấp quốc gia)”, Bảo tồn và Phát huy Di sản Văn hoá
Phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr.398.
* Tài liệu tiếng Pháp
82. Aliénor Anisensel (2006), "Le sens d’une tradition élitiste dans le Vietnam
contemporain - Pratiques, apprentissages et esthétiques du chant ca
trù” (Ý nghĩa một truyền thống của giới tinh hoa ở nước Việt Nam hiện
đại - Thực hành, học nghề, mỹ học của điệu hát ca trù), Kỷ yếu Hội
177
thảo khoa học quốc tế Hát ca trù người Việt, Viện Âm nhạc, Hà Nội.
83. Aliénor Anisensel (2007), “Tambour et effet de vie dans la tradution du Ca
trù” (Sức hấp dẫn của trống chầu trong nghệ thuật truyền thống ca trù) 3ème Congrès du Réseau Asie IMASIE, Hội thảo khoa học, Paris 26-
28.09.2007.
84. Aliénor Anisensel (2009), Chanter le ca trù au village de Lỗ Khê (Nghệ
thuật ca trù ở làng Lỗ Khê), Péninsule 59.
20.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
178
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
--------------
HOẠT ĐỘNG BIỂU DIỄN NGHỆ THUẬT CA TRÙ
CỦA MỘT SỐ CÂU LẠC BỘ, GIÁO PHƯỜNG TẠI HÀ NỘI
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2016
179
MỤC LỤC
Trang
Phụ lục 1. Phiếu điều tra khách du lịch và giới trẻ Việt Nam 180
Phụ lục 2. Danh sách những người được phỏng vấn sâu 185
Phụ lục 3. Tổng hợp những đánh giá thú vị, ấn tượng đặc biệt 186
của du khách về các buổi biểu diễn ca trù
Phụ lục 4. Tổng hợp một số tài liệu, tư liệu về ca trù 192
Phụ lục 5. Hệ thống ảnh minh họa cho luận án 207
180
Phụ lục 1
PHIẾU ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ
Your full name:........................................................................................................... Birth Year:………… Sex:…….. Male:……. Female ………Nationality…………….. Email:………………………………………………. Facebook: ……………………………… Hi, Sir/ Madam. We welcome you to Viet Nam. We kindly request you to take a few minutes to participate in this survey of non residents, which is conducted anonymously.
Your evaluations and comments are going to be used to develop tourism
industry in Hanoi and preserve the traditional music “Ca tru”.
Please answer the questions below as truthfully as possible. Circle the number
that best describes your feeling about each question in which 1= not satisfied
at all and 4 = totally satisfied.
1. How many times have you visited Hanoi (Vietnam) for traveling?
a. The first time b. Two- three times c. More than two times
2.Have you seen Puppet Performance in Hanoi?
a. Already b. Not yet
3.How many times have you seen Catru Performance?
a. Once time b. 2-3 times c. Not yet
3.Which source of information did you find of Ca Tru Performance from?
a. Your friends who had visited Viet Nam b. Tourism Company c. Guide book d. Internet e. Facebook f. Accidently, when you go through
181
g. Ca Tru is the famous Culture Heritage h. Others: ……………..
1 2 3 4
Were you satisfied with the
performances? 1 Bạn có hài lòng với các tiết mục biểu
diễn?
Were the artists well prepared?
2 Các nghệ sĩ có chuẩn bị kỹ càng cho buổi
diễn?
Were your questions answered clearly?
3 Các nghệ sĩ có nhiệt tình trả lời các câu
hỏi của bạn không?
Do you think that the use of performing
time and talking time with audiences
was appropriate? 4
Bạn có nghĩ thời gian của buổi biểu diễn
và giao lưu với khán giả là phù hợp
không?
Did you find the centre facilities
suitable? 5
Bạn có thấy cơ sở vật chất nơi biểu diễn
tốt không?
6 On a scale of 1 to 4 how do you rate
182
your overall satisfaction with these Ca
tru performances in which 1= not
satisfied at all and 4 = totally satisfied?
Theo thang điểm từ 1 đến 4 (4 là cao
nhất), bạn đánh giá về mức độ hài lòng
chung với chương trình như thế nào?
How you think of 10USD per person?
Very Expensive (4); Expensive (3);
Reasonable (2); Cheap (1) 7
Bạn cảm thấy mức giá 10USD/1 khách
như thế nào?
How you think of organization , service of
Ca Tru Club?
8
Quý khách thấy công tác tổ chức, phục vụ
của CLB Ca trù như thế nào?
Your goals for watching Ca tru performances?
Bạn đến xem buổi biểu diễn Ca trù với mục đích gì?
9 a. Entertain (Giải trí)
b. Study, examine (Học tập, nghiên cứu)
c. Others (Mục đích khác)
Would you like to watch Ca tru performances for the next time?
10 Bạn có muốn xem tiếp các buổi biểu diễn Ca trù vào lần sau?
a. Yes (Có) b. No (Không)
183
If you were dissatisfied with any aspect, please comment further:
Nếu bạn không hài lòng với bất cứ điều gì, xin vui lòng ghi rõ tại đây:
11
How could this Ca tru performance be improved?
12 Bạn muốn chương trình biểu diễn được thay đổi như thế nào để phù
hợp với nhu cầu của bạn?
If your friends, colleagues or relatives ask for advice as to where
they should go to watch traditional music of Vietnam, would you
recommend Ca tru?
13 Nếu được bạn bè, đồng nghiệp, người thân xin lời khuyên cho việc họ
nên xem thể loại nhạc truyền thống của Việt Nam, bạn có sẵn sàng
giới thiệu Ca trù với họ?
a. Yes (Có) b. No (Không)
184
PHIẾU ĐIỀU TRA
Những thông tin thu được từ phiếu điều tra sẽ được sử dụng để phục vụ phát triển du lịch
Hà Nội và bảo tồn, phát triển nghệ thuật Ca trù.
Họ và tên: Nghề nghiệp: Tuổi:
Email: Facebook:
Xin hãy lựa chọn đáp án phù hợp cho câu hỏi dưới đây bằng cách khoanh tròn hoặc gạch
chân cho từng thông tin dưới đây.
DÀNH CHO CÁC BẠN TRẺ TẠI HÀ NỘI
1. Bạn đã từng đi xem những loại hình nghệ thuật biểu diễn nào sau đây?
a.Ca trù b. Múa rối nước c. Nhạc cụ dân tộc d. Xẩm e. Hát văn f. Khác
2. Bạn thấy thích loại hình nào nhất, vì sao?
.................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
3. Bạn đã từng xem, nghe ở đâu?
a. Một nhà hát b. Một không gian văn hóa c. Trên tivi d. Trên internet e. Trên sách, báo
4. Bạn có biết Ca trù là di sản thế giới của Việt Nam cần được bảo vệ khẩn cấp?
a. Biết b. Không biết c. Đã nghe nói nhưng không quan tâm
5. Bạn có hiểu biết về nghệ thuật Ca trù
a. Không hiểu gì b. Hiểu rất ít c. Hiểu vì đã nghiên cứu
6. Bạn có mong muốn được các đoàn nghệ thuật Ca trù về biểu diễn tại Trường
học của bạn nếu bạn là Sinh viên?
a. Không b. Mong muốn
7. Hiện nay, các CLB Ca trù tại Hà Nội có mức giá là 10USD/1 khách quốc tế, 200.000
VNĐ/1 khách Việt Nam, nếu là sinh viên, học sinh thì giảm giá khoảng 50%, tức còn
100.000 VNĐ cho 1 buổi biểu diễn 60 phút, theo bạn, mức giá này thế nào?
a. Rẻ b. Phù hợp c. Cao d. Quá cao
8. Theo bạn, để Ca trù được nhiều bạn trẻ ở Hà Nội biết đến hơn thì cần phải làm gì?
………………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………..
Xin trân trọng cảm ơn bạn
185
Phụ lục 2
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN CHO LUẬN ÁN
TT Tên
Địa chỉ
Điện thoại
1 NS Bạch Vân
Chủ nhiệm CLB
0962.637.267
ca trù Hà Nội
Phỏng vấn sâu 2013-2015
2 NS Phạm Thị Huệ Chủ nhiệm GP ca trù
01223266897
Thăng Long
Phỏng vấn sâu tại 87 Mã
Mây và tại Liên hoan ca trù
toàn quốc 2014
3 NS Nguyễn Thu
GP ca trù Thăng Long
0906.266.897
Thủy
Phỏng vấn tại 87 Mã Mây
năm 2014
4 Nguyễn Thị Tam
Chủ nhiệm CLB ca trù
Phỏng vấn tại Liên hoan ca
Thượng Mỗ
trù toàn quốc 2014
5 Nghệ nhân
Chủ nhiệm GP ca trù
Phỏng vấn tại Liên hoan ca
Nguyễn Văn Mùi
Thái Hà
trù toàn quốc 2014
6 NS Phạm Thị Mận Giáo phường ca trù Lỗ
Phỏng vấn tại Liên hoan ca
Khê
trù toàn quốc 2014
7 NS Quỳnh Vân
Giáo phường ca trù Lỗ
Phỏng vấn sâu tại Lỗ Khê
Khê
năm 2014-2015
8 Nhà nghiên cứu
Chuyên gia
Phỏng vấn tại Liên hoan ca
Đặng Hoành Loan
trù toàn quốc 2014
9 Ông Trương Minh
PGĐ Sở VHTTDL Hà
0913.027.999
Tiến
Nội
Phỏng vấn 2014-2015
10 Ông Nguyễn Văn
Giám đốc Trung tâm Xúc
0912.880.402
Quang
tiến Du lịch Hà Nội
Phỏng vấn 2014-2015
186
Phụ lục 3
NHỮNG ĐÁNH GIÁ, CẢM NHẬN CỦA DU KHÁCH
VỀ CA TRÙ HÀ NỘI
1. “Tôi đến Việt Nam vài ngày trước và tôi thực sự rất thích thú với
chuyến đi này. Tôi hy vọng cuộc du ngoạn này của mình sẽ còn nhiều điều
thú vị phía trước”- Janas, Đức
“Cảm ơn các bạn về buổi tối thú vị này. Tôi đã thực sự được sống trong
“Tôi rất thích màn biểu diễn ấn tượng này. Các bạn đã làm rất tốt” - Jim “Cảm ơn vì sự chia sẻ những giai điệu trong buổi tối hôm nay. Tôi sẽ
“Thực sự là một màn trình diễn ấn tượng. Rất vui vì được gặp tất cả các
“Buổi trình diễn thật ấn tượng và cảm động. Nhưng sẽ tuyệt hơn nếu
2. không gian âm nhạc tuyệt vời”- Helena, Germany (4, Dec 2011) 3. “Tôi có mặt ở đây như một sự tình cờ nhưng tôi thực sự rất vui vì đã được lắng nghe những giai điệu tuyệt vời. Cảm ơn vì khoảng thời gian khó quên này”- Maya 4. 5. nhớ mãi khoảng thời gian này”- Jim, Mỹ 6. bạn” 7. “Tôi đặc biệt yêu thích sự mềm mại và ngọt ngào trong giọng ca của Lê Thi. Tôi hy vọng có dịp quay lại để thưởng thức màn biểu diễn của cô ấy một lần nữa. Chúc may mắn”- Silvie 8. “Tôi cảm thấy thực sự xúc động khi được gặp và lắng nghe nghệ sỹ ca trù lớn tuổi nhất Việt Nam biểu diễn. Tôi cũng yêu quý tất cả các nghệ sỹ khác trong buổi diễn này. Đây thực sự là một kỷ niệm khó quên trong chuyến du lịch tại Vietnam”- Carla 9. hàng ghế khán giả không quá sát sân khấu”- 10. “ Tôi ước sao cuốn sách du lịch của mình có các thông tin về đình làng Kim Ngân, Hàng Bạc, cái nhà gì đó kiểu như nơi sinh hoạt cộng đồng của các bạn, để tôi có thể khám phá di sản văn hoá và lịch sử của Hà Nội ngay từ những ngày đầu tôi đặt chân tới Việt Nam. Cảm ơn”- Miclulla, USA 11. “Màn trình diễn rất hay. Tôi thực sự thích thú khi lắng nghe âm nhạc và thưởng thức vũ điệu truyền thống của Việt Nam. Thật tuyệt khi được tìm hiểu thêm về văn hoá cũng như truyền thống dân tộc của các bạn thông qua âm
187
“Cảm ơn rất nhiều vì những trải nghiệm thú vị này. Tôi cảm thấy rất
“Một buổi tối tuyệt vời! Tôi cực kỳ hứng thú với không gian âm nhạc
“Một buổi biểu diễn rất hay. Chúng tôi rất hứng thú với các loại nhạc
“Chúng tôi đã rất hứng thú với buổi biểu diễn. Trang phục biểu diễn
“Buổi biểu diễn thực sự rất thú vị. Tôi thấy thật may mắn có mặt tại
nhạc. Cảm ơn vì trải nghiệm ấn tượng này. Chúc các bạn thành công”- Amy&Will, UK 12. thích thú với những màn trình diễn của các nghệ sỹ”- Britney Luoma, USA 13. và vũ điệu này”- Ian Holly, UK 14. “Cảm ơn các bạn rất nhiều. Tôi cảm thấy rất may mắn khi tìm được một nơi đáng quý như thế này tại Hà Nội! Tôi hy vọng sẽ có dịp quay trở lại nơi này và tôi sẽ kể cho các cháu của mình về âm nhạc của các bạn- thứ âm thanh tuyệt đẹp mà tôi đã tìm thấy nơi ĐÂY”- Renner Larson, USA 15. “Một không gian âm nhạc vô cùng đặc biệt, những giai điệu độc đáo nhất và đầy kỹ thuật. Cảm ơn vì đã mang đến một buổi biểu diễn tuyệt vời. Hẳn các bạn đã phải luyện tập rất chăm chỉ”- Megan Smith- Canada/ May 12, 2013. 16. “Buổi biểu diễn thật ấn tượng. Thật thú vị khi được thưởng thức một dòng nhạc tuyệt vời. Đây chính là tài sản quý cho thế hệ tương lai”- Peter, Australia/May 2013 17. cụ. Cảm ơn các bạn rất nhiều” 18. “Cảm ơn các bạn rất nhiều về buổi biểu diễn âm nhạc truyền thống thực sự hấp dẫn và xúc động. Chúng tôi tha thiết hy vọng rằng dòng nhạc này sẽ được thế hệ trẻ tiếp nối và duy trì” - M&M/ Thụy Điển 19. “Tôi sẽ không bao giờ quên những cảm xúc, sự lôi cuốn và sức hấp dẫn của buổi biểu diễn tuyệt vời này. Xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới tất cả các nghệ sỹ và lời chúc trường tồn đến bộ môn âm nhạc truyền thống đặc biệt này. Xin cảm ơn”- Gregory (Chicago,USA)& Nagota(Nhật Bản). 20. rất đẹp. Cảm ơn.”- …Đan Mạch. 21. đây” - ….Canada. 22. “Màn trình diễn âm nhạc và văn hóa đặc biết ấn tượng. Cảm ơn các bạn rất nhiều về sự chia sẻ nét văn hóa truyền thống tốt đẹp này cũng như cho chúng tôi cơ hội để trải nghiệm. Tôi ước mong được quay lại để có cơ hội khám phá và học hỏi thêm”- Cameron (USA)
188
“Thực sự bị lôi cuốn bởi những giọng ca tuyệt vời nhất. Cảm ơn các
“Một buổi tối thú vị! Chúng tôi thấy rất hứng thú. Cảm ơn rất nhiều”-
“Tôi không thể diễn tả được cảm xúc! Quá thú vị! Cảm ơn vì đã gìn
“Màn biểu diễn tuyệt vời! Thật thú vị khi được lắng nghe một thứ âm
23. “Thật thú vị! Đây thực sự là cơ hội để nâng cao hiểu biết về văn hóa truyền thống. Và thật tuyệt khi các bạn trẻ đang tiếp nối và phát triển nó”- Chris, Australia (01, Apr, 2012) 24. bạn”- Nicole, Thụy Điển. 25. Mark, Jack, Australia 26. giữ nét đẹp văn hóa này”- Michael Mana- USA 27. Tôi không phải người hâm mộ CA TRÙ nhưng tôi phải thừa nhận rằng buổi biểu diễn hôm nay thực sự rất lôi cuốn. Tôi nghĩ mình đã trở thành người hâm mộ đích thực của môn nghệ thuật này sau đêm nay. Tuyệt vời!”- Bill Stower, USA( 25 Apr, 2014) 28. nhạc rất “Việt””- Kerrie (Melbourne, Úc). 29. “Lời chào thân ái từ nước Đức (Regensburg). Tôi yêu mến tập thể diễn viên và buổi biểu diễn Ca trù. Đây chính là đỉnh cao nghệ thuật âm nhạc Việt”
30. Ronald Gorgod: “Art form that is entertaining but may disappear”
Ca tru is a very old Vietnam art form that sometimes takes many years to learn. At present there are only 20 members in the club. Found Ca Tru to be entertaining and very different from what we westerners are used to in our music.
Ca trù là một loại hình nghệ thuật Việt Nam rất cũ mà đôi khi phải mất nhiều năm để tìm hiểu. Hiện nay chỉ có 20 thành viên trong câu lạc bộ. Tìm thấy ca trù phải được giải trí và rất khác với những gì chúng tôi người phương Tây được sử dụng để trong âm nhạc của chúng tôi.
31. “A Must See”, Eidell W.
In the middle of the bustling old quarter, you are transported to the past. If you want to experience something authentic and get away from the "tourist" experience, I highly recommend you see the performance at the Ca Tru Club. You may or may not like the traditional instruments and singing, but you will have experienced a truly cultural event. I was disappointed at the small audience (maybe two dozen people), especially compared to the large
189
numbers of people I had seen at the water puppet performance. Then again, the intimate nature of the performance was an added bonus. The more "modern" musical trio was fantastic, if I had been in Hanoi longer I would have gone back for a second time.
Ở giữa khu phố cổ nhộn nhịp, bạn sẽ được vận chuyển đến quá khứ. Nếu bạn muốn trải nghiệm một cái gì đó xác thực và nhận được từ các "du lịch" kinh nghiệm, tôi khuyên bạn nên xem việc thực hiện tại các Câu lạc bộ ca trù. Bạn có thể hoặc có thể không thích nhạc cụ truyền thống và ca hát, nhưng bạn sẽ phải trải qua một sự kiện thực sự văn hóa. Tôi đã thất vọng ở khán giả nhỏ (có thể hai chục người), đặc biệt là so với một số lượng lớn những người tôi đã nhìn thấy ở biểu diễn múa rối nước. Sau đó, một lần nữa, tính chất thân mật của buổi trình diễn là một tiền thưởng thêm. Càng âm nhạc bộ ba "hiện đại" là tuyệt vời, nếu tôi đã có mặt tại Hà Nội còn tôi đã có thể đi lại trong một thời gian thứ hai.
32. Christina: very interesting”
I feel like this is the moment i am discovering another culture but also myself. this is so special kind of art music. amazing!
Tôi cảm thấy như đây là thời điểm tôi đang khám phá nền văn hóa khác mà còn bản thân mình. đây là loại rất đặc biệt của âm nhạc nghệ thuật. tuyệt vời!
33. Groovek: “Educational”
Fun and educational. I am happy to have spent my money there to support this group. They're very talented and it was a fun show to attend.
Vui vẻ và giáo dục. Tôi vui mừng đã tiêu tiền của tôi ở đó để hỗ trợ nhóm này. Họ rất tài năng và đó là một chương trình thú vị để tham dự.
34. Peter Sampras: “Fine experience - go see it!”
Bought ticket at the door on night of the performance, more or less on an impulse, and can say it was a night that will long stick in memory. For me the best part was a long interaction with the performers after the show. They patiently answered questions and were happy to pose for photographs with guests. Lovely, lovely people.
190
For me the music itself, uniquely Vietnamese, is of a type that might for some people (like me) taken in small doses. Rather like American Blue Grass! A number of Vietnameseme people told me that the music is boring and they see plenty of it as "filler" on local television. Too bad. They should see it live at least once in their life.
Though the young lady who introduced each song/poem did an excellent job, I suggest that one visit the Ca Tru Club web site before attending. At the bottom of their page is an outstanding short video that gives a solid understanding of what Ca Tru is, its history, the roles of each player and significance of each instrument.
Mua vé tại cửa đêm về hiệu suất, nhiều hơn hoặc ít hơn trên một xung, và có thể nói đó là một đêm dài mà sẽ dính vào trong bộ nhớ. Đối với tôi phần tốt nhất là một sự tương tác lâu dài với những người biểu diễn sau khi chương trình. Họ kiên nhẫn trả lời câu hỏi và đều vui vẻ chụp ảnh với khách. Đáng yêu, những người đáng yêu. Đối với tôi, âm nhạc riêng của mình, duy nhất Việt Nam, là một loại mà có thể cho một số người (như tôi) thực hiện với liều lượng nhỏ. Chứ không phải như Mỹ Blue Grass! Một số người Vietnameseme nói với tôi rằng âm nhạc là nhàm chán và họ nhìn thấy rất nhiều của nó là "phụ" trên truyền hình địa phương. Quá xấu. Họ nên xem nó sống ít nhất một lần trong cuộc sống của họ. Mặc dù người phụ nữ trẻ, những người giới thiệu mỗi bài hát / bài thơ đã làm một công việc tuyệt vời, tôi đề nghị một truy cập vào trang web Câu lạc bộ ca trù trước khi tham dự. Ở dưới cùng của trang của họ là một video nổi bật ngắn cung cấp cho một sự hiểu biết vững chắc về những gì ca trù là, lịch sử của nó, vai trò của mỗi người chơi và ý nghĩa của từng nhạc cụ.
35. Steammilk: “10 USD to preserve this place”
I admitted that I didn't enjoy Ca Tru that much. But overall experience was okay and the fees are acceptable. The day I visited this show was Sunday, and there are only few visitors. (3 foreign couples + 1 Vietnamese gal). You will sit in front of the stage and can enjoy closely with the show. Recommend and need help to support this Ca Tru .. Actually I did enjoy it for the first 15 minutes. But the show looked similar for other parts. Still it is worth a visit.
191
Give it a try and help this place. (search Google to find why it need to be preserved).
Tôi thừa nhận rằng tôi không thích ca trù nhiều. Nhưng kinh nghiệm tổng thể là bình thường và lệ phí được chấp nhận. Ngày tôi đến thăm chương trình này là Chủ nhật, và chỉ có vài du khách. (3 cặp vợ chồng nước ngoài + 1 cô gái Việt Nam) Bạn sẽ ngồi trước sân khấu và có thể thưởng thức chặt chẽ với chương trình. Giới thiệu và cần sự giúp đỡ để hỗ trợ này ca trù .. Trên thực tế tôi đã thưởng thức nó trong 15 phút đầu tiên. Nhưng chương trình trông tương tự như cho các bộ phận khác. Vẫn còn đó là giá trị một chuyến viếng thăm. Cung cấp cho nó một thử và giúp nơi này. (Tìm kiếm Google để tìm lý do tại sao nó cần phải được bảo quản)
36. Tuabui: “A kind of Art”
It is a kind of a very famous traditional culture of Vietnamese people. Just listening, and you will be driven to the very unique atmosphere!
Nó là một loại của một nền văn hóa truyền thống rất nổi tiếng của người Việt Nam. Chỉ cần nghe, và bạn sẽ được đưa tới bầu không khí rất độc đáo!
Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả
192
Phụ lục 4
GIỚI THIỆU MỘT SỐ TƯ LIỆU CA TRÙ CỔ
1. Thần tích đền Lỗ Khê (xã Liên Hà, Đông Anh, Hà Nội)
Xưa, thời vua Thái Tổ triều Lê, lúc đất Long Biên vẫn còn là của nước
ta, có người ở động Hoa Lư huyện An Khang, phủ Trường Yên, đạo Thanh
Hóa, họ Đinh, tên húy là Lễ, tổ tiên được phong tước vị, đời này qua đời khác
được hưởng phúc ấm, lấy người ở bản quận, theo vua Thái Tổ khởi nghĩa ở
Lam Sơn, cầm cự với quân giặc Vương Thông đến mười năm ở ven biển. Vợ
họ Trần, tên gọi Minh Châu, con nhà nhiều đời thi lễ, nối dõi trâm anh, kể
cũng thật môn đăng hộ đối.
Ngày ấy, Đinh công tới huyện Nga Sơn phủ Hà Trung, đạo Thanh Hóa,
thấy một cái động ở gần biển, gọi là động Bích Đào, người thời bấy giờ gọi
động đó là động Thần Tiên. Ông vào xem, lúc mặt trời chưa đứng bóng, bèn
nằm phía dưới trước cửa động, hồn phách tựa mơ, thấy hai ông già ngồi dưới
gốc cây đào, chơi cờ nói cười vui vẻ. Một người trong đó tự xưng: “Ta vốn ở
trên điện Thừa Hoa, tên là Đông Phương Sóc, ngày ngày thường xuống chơi ở
cung tiên trên biển.” Người đó nói: “Nhà người phúc đức to lắm, được đất tốt,
sinh con ắt là quý tử. Trời đã định rồi, sẽ gặp và sánh duyên cùng nàng tiên
biển.” Nói xong cưỡi mây bay lên giời. Đinh công chợt tỉnh, biết là mơ, liền
ứng khẩu đọc bài thơ:
Hải thượng quần tiên sự diểu mang,
Bích Đào động lý thái hoang lương.
Càn khôn nhất ngộ cùng Đông Sóc,
Vân thủy song nga lão bắc phương.
Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nguyệt,
Sa diêm vô vị viết thu sương.
193
Thế nhân nhước tác Thiên Thai mộng,
Thùy thức Thiên Thai triệu báo trương
Dịch:
Chuyện các nàng tiên trên biển thật mơ màng,
Trong động Bích Đào quá hoang vu lạnh lẽo.
Giữa cảnh trời đất một lần gặp gỡ Đông Phương Sóc,
Đôi mắt xanh trong mãi nhìn về phương Bắc
Trống đá rền vang lay động bắc tranh ban mai,
Hạt muối như nhạt bở bở đậu hạt sương thu
Người đời ví thử là giấc mộng Thiên Thai.
Ai biết đâu đây là điềm báo
Ngay ngày hôm đó, Đinh công cùng với các binh sĩ trở về đồn sở. Lúc
này vua Thái Tổ bèn sai Đinh công đem quân lên tuần phòng các đạo ở phía
Bắc để ứng phó quân Minh. Khi đi đến địa đầu trang Lỗ Khê, huyện Đông
Ngàn, phủ Từ Sơn, Đinh công thấy một cuộc đất sơn thủy hữu tình, tiếng đàn
phương loan hòa quyện, nghĩ bụng đây là nơi phong cảnh đẹp. Ngay ngày
hôm đó truyền nhân dân và binh sĩ xây dựng đồn sở để đóng quân. Mấy tháng
sau, một đêm vợ Đinh công là Trần thị đêm nằm ngủ bỗng mở thấy một con
rắn xanh từ dưới đất chui lên, leo vào lòng, quấn quanh thân mình. Bà giật
mình sợ hãi tỉnh dậy, từ đó Minh Châu có mang. Ngày mùng sáu tháng tư
năm Quý Tỵ, bà sinh ra một người con trai, thân hình dài rộng, mặt mũi khôi
ngô. Đinh công biết sinh ra được người con như thế này là nhờ đắc địa, bèn
đặt tên là Dự, chăm bẵm hài nhi, lòng ông không còn khắc khoải. Bấy giờ
đương là mùa xuân, vào thượng tuần tháng giêng, vua Thái Tổ sai sứ mang
thư đến lệnh cho ông đi đánh giặc Minh ở Lạng Sơn. Ông bèn tập trung quân
lính cùng kéo tới đánh một trận lớn nhưng chưa phân thắng bại. Thế rồi ông
trở về đạo Kinh Bắc, ở lại trang Lỗ Khê. Ngày tháng trôi qua, chàng Dự lên
194
mươi hai tuổi, thiên tư đĩnh ngộ, học vấn tinh thông, cầm kỳ thi họa, đàn hát
ngón nghề đều tinh khéo, chưa anh tài nào địch nổi.
Những ngày xuân đẹp trời, chàng dạo chơi đó đây, tìm hoa thơm cỏ lạ
đến những nơi giáo phường sành tay đàn giọng hát. Khi tới huyện Gia Bình
phủ Thuận An, nghe nói ở trang Đông Cứu có rặng núi sừng sững soi bóng
xống dòng sông, trên đó có chùa Thiên Thai. Chàng bèn đến vãng cảnh, tình
cờ gặp một người con gái, giọng nói và dung nhan đều tuyệt hải, có thể nói
“chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường.” Chàng Đinh Dự ướm hỏi: “Nàng ở
đâu tới mà hai ta gặp gỡ nơi đây?”. Người con gái ấy đáp: “Thưa, Đường Hoa
Tiên Hải là thiếp, người ở động Nga Sơn, Thanh Hóa, nhân lúc nhàn rỗi giở
nghề đàn ca hát xướng khắp giáo phường.” Nghe xong chàng Dự cười: “Thật
là kỳ ngộ, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nay bậc đế vương đức
hòa hợp ở trên, dạy dân ta hòa hợp ở dưới, vậy nên ta để lòng ở xứ Bắc này
nơi giáo phường lễ yêu nghĩa trọng. Cầm ca là nghiệp hai ta cùng theo đuổi
đó.”
Thế rồi Đường Hoa và chàng Dự kết duyên vợ chồng. Sau ngày đó họ
đưa nhau trở lại trang Lỗ Khê lập giáo phường, cha mẹ đều rất vừa ý. Khoảng
một năm sau, họ dạy cho dân biết nghề đàn hát. Bấy giờ vua Lê Thái Tổ sai
sứ giả mang thư đến, nói rằng giặc minh rất đông, chia thành nhiều ngả kéo
vào nước ta. Vua kế cùng lực kiêt, chả lẽ bó tay chịu thua. Nhà vua vì lo quá
mà đổ bệnh, bèn triệu vời Đinh Lễ cấp tốc trở về Thanh Hóa để vua tôi bàn
định kế sách tiến công. Ngay ngày hôm đó hai vợ chồng ông cùng con trai và
nhân dân đem quân về Thanh Hóa. Không ngờ hai cha mẹ Đinh Lễ, Minh
Châu giữa đường lâm bệnh rồi chết. Đinh Dự cùng binh sĩ rước thi hài về quê
cũ, chọn đất tốt mai táng. Thế rồi vợ chồng Đinh Dự cùng đến nơi đồn sở của
Thái Tổ, tâu: “Cha mẹ thần do số trời định đoạt, đã mất cả rồi. Thần xin tự
nguyện đàn hát làm vui, giải bệnh cho bệ hạ”. Nhờ thế bệnh của nhà vua qua
195
khỏi. Thái Tổ quyết chiến một trận, giặc bị bắt sống rất nhiều, quân Minh bị
dẹp tan. Khi lên ngôi Hoàng đế, Thái Tổ nhớ đến các bậc công thần nghĩa sĩ,
bèn cho vời vợ chồng Đinh Dự về kinh đô dự tiệc yến ẩm ban tước thưởng
công.
Bấy giờ bỗng Đường Hoa nói với chồng mình là Đinh Dự rằng: “Thiếp
vốn do tinh anh vượng khí của trời đất chung đúc nên, biến hóa vô thường,
tính linh sáng suốt, thiếp cùng các bậc diệu nữ và đám quân tiên dắt dẫn thao
lược, biến hóa duyên lành, chu du thiên hạ. Thiếp từng đi khắp Nam Bắc
Đông Tây, truyền dạy cho các phường bằng sức lực suốt cả cõi đời, những
muốn lưu truyền tiếng thơm muôn thuở. Năm tháng ngày giờ đã mãn hạn ở
trần thế, thiếp xin từ tạ phu quân để trở về thượng giới”. Nói rồi đọc luôn câu
thơ:
Trần phong tiêu tấu cửu trùng thiên
Tịch kích thành môn tuyệt khả liên
Nghĩa chủ báo sinh thần trượng tiết
Thời nhân hốt vị giáo phường hiền
Dịch nghĩa:
Buổi sáng dâng tấu tâu với triều đình
Buổi chiều đánh giặc ngoài cửa thành, thật đáng kính nể
Bề tôi tiết nghĩa đã đền ơn vua chúa
Người đời bỗng đều khen người của giáo phường tài giỏi.
Dịch thơ:
Sáng ra dâng tấu triều đình
Chiều về khiến giặc ngoại thành thất kinh
Bề tôi nguyện hiến dâng mình
Giáo phường tài giỏi dân tình ngợi khen.
196
Nàng đọc xong, liền bay vào cõi không, biến mất. Thế rồi chồng nàng
là Đinh Dự tưởng nhớ tình nghĩa vợ chồng bị trời đoạt đi, bèn bái tạ nhà vua
và đọc một bài thơ:
Lũy thế quân ân hốt khiết nhiên
Hiếu trung nhất tiết lưỡng kiêm tuyền
Hạc quy hoa biểu thiên niên tại
Vạn nhất tri tấm thác lão thiền
Dịch nghĩa:
Đã bao đòi ơn vua đâu dám thờ ơ
Đức hiếu và trung vẹn toàn cả hai
Hạc đã bay về trời, nhưng dấu tích còn muôn đời
Lỡ có điều gì thì lòng này chỉ biết gửi gắm ông trời.
Dịch thơ:
Ơn vua đâu dám thờ ơ
Hiếu trung con nguyện phụng thờ cả hai
Hạc đi, dấu vết nào phai
Ông trời gửi gắm nay mai tấc lòng
Đọc xong chàng ngửa mặt lên trời than rằng: “Biết làm sao được nữa.
Cũng cùng một lẽ.” Đinh Dự liền đập đầu vào cột điện nhà vua, biến thành
con rắn xanh vừa to vừa dài, bò quanh cột rồi biến mất. Nhà vua nghĩ rằng hai
vợ chồng nhà này là bề tôi trung nghĩa. Đinh Dự cùng Đường Hoa hóa một
ngày. Ngày hôm đó là ngày 13 tháng 11.
Vua Thái Tổ có thơ rằng:
Lộ kinh cổ miếu đảo liên thiên
Hạ tưởng trung thần báo quốc niên
Thùy vị đắc trung hoàn thất hiếu
Đắc trung tiện thị hiếu kiêm tuyền.
197
Dịch:
Đi qua miếu cổ vào cầu cúng,
Bèn nhớ đến bậc trung thần đền nợ nước năm xưa.
Ai bảo được trung thì mất hiếu,
Có trung thì mớ có hiếu vẹn tròn.
Dịch thơ:
Đường qua miếu cổ, tiện dừng chân
Bèn nhớ trung thần đền nợ nước
Ai bảo được trung thì mất hiếu
Có trung, hiếu mới vẹn muôn phần.
Ngay ngày hôm đó, nhà vua truyền lệnh ra toàn cõi nước Nam, lệnh
cho thần dân các giáo phường lên kinh đô rước mỹ tự về dựng từ đường để
thờ tự.
Nhà vua chuẩn ban lệ của đình nước Nam, như sau: Mùa xuân khai hạ
cầu phúc được 300 mạch tiền, giáo phường được nhận để sắm sửa đèn nhang.
Việc thờ cúng của giáo phường cũng y theo lệ đó. Đến thời Hoàng đế Lê
Thánh Tông, nhà vua ghi chép công tích của các công thần, phổ hiệp vần
thành lời ca nhằm tôn vinh những điều tốt đẹp ấy, gồm các tác phẩm:
- Quân đạo thần tiết (Đạo của nhà vua, tiết tháo của bề tôi)
- Quân minh thần lương (Vua sáng tôi hiền)
- Dao tưởng anh hiền (Tưởng nhớ các bậc anh tài)
- Kỳ thí (Hiền tài xuất sắc)
Nhà vua còn phong tặng Đinh Dự là “Thanh Xà Đại Vương”, Đường
Hoa là “Mãn Đường Hoa Công Chúa” và ban cho đền thờ giáo phường ở Lỗ
Khê, đạo Kinh Bắc một bản điển chương chế độ thờ cúng: “Ôi, vẻ vang
thay!”
198
Lệ tục ngày sinh ngày hóa và chữ húy cấm kỵ như sau:
- Cấm dùng bốn chữ Lê, Châu, Dự, Hóa.
- Lệ tục ngày sinh: Ngày sinh mùng 6 tháng 4. Lễ cúng, trên đặt mâm
cỗ chay, dưới đặt mâm cỗ thịt bê bò, xôi, rượu, xướng ca mười ngày.
- Lễ tục ngày hóa: Ngày 13 tháng 11. Lễ cúng, trên đặt mâm cỗ chay,
dưới đặt mâm cỗ thịt lợn đen, xôi, rượu.
Ngày lành tháng giữa xuân năm thứ 7 niên hiệu Hồng Đức (năm 1476),
Đông các đại học sĩ, bề tôi Đào Cử soạn bản chính.
Ngày lành tháng giữa thu năm thứ 4 niên hiệu Vĩnh Hựu (năm 1740),
Quản giám bách binh [thần] tri điện hùng lĩnh thiếu khanh, bề tôi Nguyễn
Hiền sao lại bản chính.
Tháng 4 năm thứ 11 niên hiệu Bảo Đại (1936), Ngọc Liên Khai sao lại.
2. Giọng hát đào nương
Người đóng vai trò quan trọng đưa nghệ thuật thơ – nhạc tới công
chúng là đào nương. Muốn thể hiện hết cái hay của thơ, đào nương phải am
tường tho phú. Chẳng thế mà các cuộc thi Ca trù hàng năm ở đình làng, môn
khảo thi đầu tiên dành cho các đào nương là phải làm 1, 2 câu thơ, phú. Muốn
thể hiện hết cái thần của nhạc người đào nương phải có giọng cao, trong sáng,
tiếng hát phải tròn trĩnh, mượt mà, không để lép tiếng, không được ngắt khúc;
tay phách phải uyển chuyển khi nhanh khi chậm, khi mau khi thưa hợp với
câu chữ câu thơ, hợp với từng khổ của đàn. Phách được coi là giọng hát này
thứ hai của đào nương. Tất thảy những yêu cầu này đã được ghi lại trong các
tài liệu Hán Nôm, đại lược: Giọng hát đào nương phải là giọng con kiến, tức
giọng cao, vang, trong trẻo. Kỹ thuật hát phải hội đủ 5 yêu cầu:
- Vói: hát cao, trong sáng
199
- Xuyến: tiếng phải tròn trĩnh, mượt mà
- Dằn: tiếng hát phải đều đặn không có tiếng to, nhỏ, tiếng lép
- Thét: hát như bay cao lên
- Rẫy: tiếng hát rền không ngắt khúc.
Khi phối hợp với đàn phải đạt 3 yêu cầu:
- Quán: giọng hát, nhịp phách, tiếng đàn phải khớp nhau
- Khuôn: hát và đàn phải khớp điệu, đúng cung bậc.
- Diệu: bắt vào câu phải tự nhiên, thể hiện lời ca phải linh hoạt.
Những người đào nương tài hoa, hội đủ yêu cầu nghệ thuật ấy ở Hà Nội
xưa nay không được người đời ghi lại, ta chỉ còn gặp họ trong các bài hát nói
của Dương Khuê như cô đầu Hai, cô đầu Phẩm, cô đầu Cúc, cô đầu Oanh, cô
đầu Cần và cô đào ở Hàng Cót được Phạm Quỳnh nhắc tới trong bài diễn
thuyết của ông ở Hội Khai Tiến Đức năm 1923. Nếu may mắn, họ có được
lưu danh trong sử sách thì chúng ta cũng không thể nhận biết được cái tài hoa
của họ đến đâu, bởi giọng hát, tiếng đàn của họ nào có lưu lại được. Âm thanh
không lưu lại được thì giới làm nhạc chẳng biết dựa vào đâu để đưa ra những
lời khen chê thỏa đáng.
3. Các tác gia hát nói Hà Nội
Hát nói là thể thơ và cũng là thể cách âm nhạc được giới sành điệu và
những người sành nghề Ca trù sáng tạo vào những năm cuối thế kỷ XVIII.
Hát nói ra đời là bước ngoặt có tính đột biến làm cho Ca trù trở thành một
ngành nghệ thuật hấp dẫn, lôi cuốn mọi tầng lớp xã hội mà đặc biệt là sự tham
gia của các bậc túc nho. Hát nói đã trở thành điệu hát thống trị trong các cuộc
trình diễn và tao ngộ Ca trù. Cho đến nay giới nghiên cứu thi ca đánh giá cao
Hát nói, coi nó là tiền đề, là cơ sở để thơ mới Việt Nam ra đời vào thế kỷ XX;
coi nó là nơi để các nhà thơ được thỏa mã chí ngang tàng, tính hào hoa vương
200
chút phóng đãng trước cuộc đời. Một số tác gia Hát nói nổi tiếng sinh ra ở Hà
Nội, sống ở Hà Nội và viết những bài thơ Hát nói về Hà Nội, phải kể đến:
Nguyễn Công Trứ, sinh ngày mùng 1 tháng 12 năm Mậu Tuất (1778),
tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là vị quan song toàn
cả văn lẫn võ. Trong triều đình nhà Nguyễn ông đã giữ các chức: Hình bộ Thị
lang, Hình bộ Tả thị lang, Hình bộ Viên ngoại lang và các chức Tri huyện Mỹ
Hào, Tham hiệp tỉnh Thanh Hóa, Doanh điền xứ tỉnh Nam Định, Tổng đốc
An Giang, quyền Án sát tỉnh Quảng Ngãi. Xét như vậy, ông không phải người
Hà Nội. Nhưng, với gần một trăm bài Hát nói, ông đã làm cho nghệ thuật Hát
ả đào trở thành nghệ thuật thi ca. Các bài: Chí nam nhi, Chơi là lãi, Thú say,
Ngao du thỏa chí, Thú tổ tôm, Mượn rượu làm vui, Ngất ngưởng... đã tạo
được những dấu ấn không phai mờ trong ký ức người nghe cũng như trong
cuộc đời ca hát của các đào nương Hà Nội.
Có hai bài ông viết riêng cho Thăng Long là Tràng An hoài cổ và Tây
Hồ hoài cổ. Tây Hồ hoài cổ là bài Hát nói với bút pháp thư họa để vẽ lòng
mình trước cảnh cô tịch của Tây Hồ một đêm trăng. Nội dung bài hát:
Mưỡu:
Dập dìu trăng mạn gió lèo,
Lỏng ngâm vân thủy (a) lơi chèo yên ba (b)
Hát nói:
Cảnh Tây Hồ khen ai khéo vẽ,
Chốn thị thành riêng một vẻ lâm tuyền (c)
Bóng kỳ đài (d) trăng mặt nước như in,
Làn thảo thụ (e) che bên tòa cổ sát. (f)
Chiếc cô vụ, mảnh lạc hà (g) bát ngát,
Hỏi năm nào vũ quán điếu đài. (h)
201
Mà cỏ hoa man mác dấu thương đài, (i)
Để khách rượu làng chơi ngơ ngẩn.
Hương tiêu Nam quốc mỹ nhân tận,
Oán nhập đông phong phương thảo đa (k)
Tranh thiên nhiên một áng yên ba,
Để khiển hứng câu ca chén rượu.
Buồm nửa lá trăng thanh gió dịu,
Chùa nơi đâu một tiếng chuông rơi, Tây Hồ cảnh biết mấy mươi1
Phan Huy Vịnh (1799 - 1870) tự là Hàm Phủ, quê ở làng Thụy Khê,
huyện Yên Sơn, Sơn Tây, Hà Nội. Ông đã từng giữ chức án sát tỉnh Quảng
Bình, Lại bộ Tả thị lang và Lễ bộ thượng thư. Ông đã để lại cho giới Ca trù
bản dịch Tỳ Bà Hành từ nguyên tác cùng tên của nhà thơ Trung Quốc đời
Đường Bạch Cư Dị. So với 2 bản dịch chép trong Ca trù tạp lục, Bản dịch
của Phan Huy Vịnh đạt đến sự hoàn thiện một thể cách. Bản Diễn âm Tỳ Bà
Hành (khuyết danh) được cổ nhân chú thích: “đọc thì dùng bậc năm cung, sau dùng Bắc phản, trước đó nên dùng lối hát thổng để mở đầu”2
Cụ Phan không theo cung cách này. Cụ đã chia toàn bài thành chín khổ,
mỗi khổ 8 câu thơ, cộng một khổ dồn và một khổ kiệt. Cứ hát hết mỗi khổ,
tiếp vào khổ sau thì đầu khổ thường là điệu ngâm Sa mạc rồi vào phách hát.
Thảo thụ: cỏ cây, f) Cổ sát: chùa cổ, g) Cô vụ lạc hà: Bài Đằng vương các tự của Vương Bột đời nhà Đường:
Lạc hà dữ cô lộ tề phi/ Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. Nghĩa là: Ráng buổi chiều với con cò lẻ cùng
bay/ Nước mùa thu với trời thẳm cùng một mày, h) Vũ quán Điếu đài: Quán múa hát và đài câu cá của chúa
Trịnh, i) Thương đài: Rêu xanh, k) Hương tàn người đẹp phương Nam hết/ Buồn thấy gió đông thỏi vào cỏ
thơm nhiều (chú thích theo Đỗ Bằng Đoàn – Đỗ Trọng Huề, sđd
2 Ca trù tạp lục. Kho sách Viện nghiên cứu Hán Nôm – VHv. 2940. Đinh Văn Minh dịch.
Lối phân chia đã tạo ra sự cân đối cần thiết để người nghe không những 1 a) Thủy vân: mây nước, b) Yên ba: khói sóng, c) Lâm tuyền: rừng và suối, d) Kỳ đài: đài dựng cột cờ, e)
202
không chán mà còn kịp nhận ra sự tiến triển của câu chuyện giữa quan Tư mã
Giang Châu với cô đào trên bến Tầm Dương. Tỳ Bà Hành được coi là thể
cách độc bản không chỉ ở văn thơ mà còn ở tính hoàn thiện cấu trúc, một cấu
trúc không có tiền lệ. Có thể gọi là cấu trúc Phan Huy Vịnh.
Cao Bá Quát (1809 - 1854) tự là Mẫn Hiên, biệt hiệu Chu Thần, quê ở
làng Phú Thị huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông từng giữ chức Hành tẩu bộ Lễ,
Chủ sự bộ Lễ. Ông nổi tiếng văn chương tài hoa, chẳng vậy mà người đời
phong ông là “thánh Quát”. Thánh Quát đã để lại cho giới Ca trù những bài
Hát nói: Chén rượu tiêu sầu, Nghĩ đời mà chán, Hơn nhau một chữ thì, Phận
hồng nhan có mong manh, Nhân sinh thấm thoắt, Núi cao trăng sáng, Nghĩ
tiếc cho ai, Nhớ giai nhân, Tự tình, Mấy khi gặp gỡ, Tài hoa là nợ, Trải khắp
đường đời, Thanh nhàn là lãi, May rủi, Bà Nguyễn Thị Kim, Hà Tín, Chữ
nhàn là chính. Đặc biệt các bài Nghĩ đời mà chán, Người đẹp không thấy hai
lần và Thế sự thăng trầm của ông đã được NSNN Quách Thị Hồ thu thanh,
Nxb Âm nhạc phát hành trong hai album Ca trù: NSND Quách Thị Hồ và
NSND Quách Thị Hồ - Đào nương bậc nhất thế kỷ XX.
Nguyễn Khuyến (1835 - 1910), biệt hiệu Quế Sơn, quê ở làng Yên Đổ,
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông làm quan Đốc học tỉnh Thanh Hóa, Bố
chánh tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và giữ chức Bắc Thành Thượng biện.
Ngoài các bài hát nói Mẹ mốc, Cô sen mơ bóng đè, Duyên nợ, Đùa ông đồ Cự
lộc, Anh giả điếc... thì bài Hỏi phỗng đá của ông được coi là bài Hát nói mẫu
mực. Toàn bài là sự liên kết hai thể cách âm nhạc: Mưỡu và Hát nói.
Mưỡu là thể cách âm nhạc độc lập, ra đời từ rất sớm trong tục hát thờ
thần nơi tông miếu, đền, đình. Phần lớn lời nhưng bài hát Mưỡu thường
không có tác giả và được hát trên thơ lục bát. Hát nói có tác giả ra đời muộn
hơn và thường do các bậc túc nho sáng tác. Trong bài Hỏi phỗng đá, Mưỡu là
203
thể cách âm nhạc thứ nhất, gồm 4 câu lục bát chia thành hai khổ nhạc (người
trong giới gọi là mưỡu kép):
Khổ đầu, 2 câu đầu:
Người đâu tên họ là gì?
Khéo thay chích chích chi chi nực cười.
Khổ hai, 2 câu tiếp:
Giang tay ngửa mặt lên trời,
Hay là còn nghĩa sự đời chi đây.
Sau Mưỡu là thể cách Hát nói, gồm 11 câu, chia 5 khổ và khổ kiệt (câu kết)
Khổ một, 2 câu:
Trông phỗng đá lạ lùng muốn hỏi,
Cớ làm sao len lỏi đến chi đây.
Khổ hai, 2 câu tiếp:
Hay tưởng trông cây cỏ nước non này,
Chi cũng rắp chen chân vào hội lạc.
Khổ ba, 2 câu tiếp:
Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc,
Thương hải thùy tri ngã diệc âu3
Khổ bốn, 2 câu tiếp:
Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,
3 Núi xanh tự cười đầu sắp trắng như chim hạc (già rồi)/ Biển xanh ai biết ta cũng như chim âu (chim âu ví người ẩn dật) (Chú thích theo Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, sđd).
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác
204
Khổ năm, 2 câu tiếp (khổ năm tốc độ hát nhanh hơn, tục gọi là hát phách dồn)
Duyên kỳ ngộ là duyên tuổi tác, chén chú, chén anh, chén tôi chén bác,
Cuộc tỉnh say say tỉnh cùng nhau.
Khổ kiệt (câu kết)
Nên chăng đá cũng gật đầu.
Năm khổ Hát nói Hỏi phỗng đá khớp với 5 khổ đà (khổ sòng, khổ đơn,
khổ giữa, khổ rải, khổ dồn (còn gọi là lá đầu) và câu kết bài khớp với khổ kiệt
là sự sáng tạo tài tình của tác giả. Có thể coi Hỏi phỗng đá là bài hát nói có
cấu trúc hoàn chỉnh nhất trong các bài hát nói của cụ Tam nguyên.
Dương Khuê (1836 – 1898) hiệu Vân Trì, quê làng Vân Đình, phủ
Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (Hà Nội). Ông làm quan Tri phủ huyện Bình Giang,
tỉnh Hải Dương, Án sát tỉnh Hải Phòng (thành phố Hải Phòng). Gặp đào
Hồng đào Tuyết là bài Hát nói nổi tiếng của ông, bài hát gây nhiều tranh cãi
thú vị trong giới Ca trù: rằng thanh sơn là núi xanh hay Thanh Sơn là quê
hương của hai cô đào Hồng, đào Tuyết; đào Hồng đào Tuyết là hai cô đào hay
mà một, ông gặp họ lúc họ bao nhiêu tuổi, để mười lăm năm sau họ thành
thiếu nữ?... Còn đối với giới Ca trù, Gặp đào Hồng đào Tuyết là bài hát vào
nghệ, bài hát không thể thiếu trong biểu mục Ca trù của hầu hết các cô đào
quê, đào tỉnh từ cuối thế kỷ XIX đến nửa cuối thế kỷ XX. Ngoài ra ông còn
có các bài Gặp cô đầu cũ, Tặng Cô đầu Hai, Tặng cô đầu Phẩm, Tặng cô đầu
Cú, Tặng cô đầu Cần, Thăm cô đầu ốm, Vợ ghen với cô đầu Oanh, nói hớt,
Cái dại, Ở nhà hát ngẫu hứng, Thăm chùa gặp tiểu. Đặc biệt bài Hương Sơn
phong cảnh là bài hát nói phá thể, gồm 25 câu, miêu tả chi biết toàn cảnh
Hương Sơn từ khói, ráng gió, trăng, núi, bậc đá đến người cắt cỏ, nươi đi săn,
người đánh chài, người kiếm củi nơi Hương Cảnh một thời yên ả. Nhưng số
205
phận bài Hát nói này đã bị bài hát nói cùng tên của Chu Mạnh Trinh làm mất
dần chỗ đứng trong giới đào nương Hà thành.
Chu Mạnh Trinh (1862 – 1905) tự là Cán Thần, biệt hiệu Trúc Vân,
quê ở làng Phú Thị, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ông làm quan tri phủ
Lý Nhân, quan Án sát Hà Nam, Hưng Yên, Bắc Ninh. Ông đã để lại cho giới
Ca trù Hà Nội bài Hương Sơn phong cảnh. Nội dung bài hát:
Bầu trời cảnh Bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non nước nước mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải.
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mọng.
Này suốt Giải Oan này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Kinh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy khúc uốn thang mây.
Hẳn giang sơn còn đợi ta đây,
Mà tạo hóa đã rắp tay sắp đặt.
Lần trường hạt niệm nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức xiết bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu.
Bài hát đã trở thành bài ca “phải thuộc” của không biết bao nhiêu thế
hệ đào nương Hà Nội từ trước tới nay. “Ông tài hoa phong nhã, chữ tốt, đàn
206
và hát đều giỏi, trống cô đầu rất hay”. Có lẽ vì vậy mà giới Ca trù Hà Nội coi
ông là thi nhân Ca trù của đất Hà Thành.
Nguyễn Khắc Hiếu (1888 - 1939), hiệu Tản Đà, quê ở làng Khê
Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (Hà Nội). Ông hợp tác với Phạm
Quỳnh viết nhiều bài cho Tạp chí Nam Phong, làm chủ bút Tạp chí Hữu
Thanh, chủ bút An Nam tạp chí. Ngoài những tác phẩm văn học, thơ, ông
cũng là tác giả của rất nhiều bài Hát nói lừng danh: Chưa say, Say, Lại say,
Trời mắng, Nhớ Gia Cát sáu lần ra Kỳ Sơn, Gặp xuân, Xuân tình, Hơn nhau
một chén rượu mời, Cánh bèo, Đời đáng chán và Hỏi gió.
Cùng với các tác giả Hát nói lừng danh trên đây, Hà Nội còn có:
- Dương Lâm (1849 - 1920) hiệu Vân Hồ, là em Dương Khuê.
- Nguyễn Thượng Hiền (1867 - 1926) hiệu Mai Sơn, quê ở làng Liên
Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
- Trần Lê Kỷ (1864 - 1920) ở làng Bát Tràng, huyện Văn Giang, Hà
Nội.
- Dương Tự Nhu (1876 - 1930) con của Dương Khuê.
- Trần Tán Bình (1869 - 1953) quê ở làng Do Lễ, huyện Thường Tín,
Hà Nội.
- Hoàng Cảnh Tuân (1872 - 1959) quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ
Liêm, Hà Nội.
Cùng rất nhiều tác giả khác nữa, họ là những bậc túc nho, giỏi giang
quốc ngữ, say đắm Ca trù và cũng đã viết nên nhiều tác phẩm Hát nói để đời.
207
Phụ lục 5
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Hình 1. Một văn bia xác nhận quyền lợi của giáo phường hát ca trù thời xưa
Hình 2. Hát ả đào ngày xưa
208
Hình 3. Những cô gái hát cửa đình (hát ca trù, ả đảo) một lối hát vào dịp lễ hội ở đình làng Hà Nội ngày xưa
Hình 4. Ca trù một thời đã bị đánh đồng với các loại hình sinh hoạt thiếu lành mạnh (giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX)
209
Hình 5. Lễ đón nhận bằng UNESCO ghi danh ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
Hình 6. Ca trù là một loại hình nghệ thuật độc đáo, có giá trị đặc biệt trong kho tàng âm nhạc truyền thống Việt Nam, gắn liền với lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, văn chương, âm nhạc và tư tưởng của dân tộc
210
Hình 7. Một số nhạc cụ trong ca trù
Hình 8. Động tác cúi đầu chào khách của một cô đào trước khi được biểu diễn
211
Hình 9. Giáo phường Thăng Long đẩy mạnh hoạt động đưa ca trù đến với công chúng (Trong ảnh là cố nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc, ca nương Phạm Thị Huệ và nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Phú Đẹ)
Hình 10. Một buổi biểu diễn của CLB ca trù Hà Nội
212
Hình 11. CLB ca trù Thái Hà với bảy đời nối nghiệp cầm ca (trong ảnh là ca nương Kiều Anh trong một chầu hát cùng ông nội - nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi và bác ruột - NSƯT Nguyễn Văn Khuê)
Hình 12. Tiết mục múa Bỏ bộ của CLB Ca trù Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội) trong Liên hoan Ca trù toàn quốc năm 2014
213
Hình 13. Những buổi biểu diễn ca trù cũng thu hút hàng trăm du khách trong và ngoài nước
Hình 14. Du khách thích thú với việc sử dụng các loại nhạc cụ ca trù
214
Hình 15. Du khách thích thú ghi lại những cảm xúc sau buổi biểu diễn
Hình 16. Những dòng cảm nghĩ của du khách sau khi nghe hát ca trù
215