VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU THỦY

THƠ MỚI (1932 - 1945) TỪ GÓC NHÌN

PHÊ BÌNH SINH THÁI

Ngành: Lí luận Văn học

Mã số: 9 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

2- TS. Phạm Phƣơng Chi

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1- PGS. TS Lƣu Khánh Thơ

Hà Nội, 2020

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong

bất cứ công trình nào khác

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận án

Bùi Thị Thu Thủy

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 6

1.1. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài ................................................. 6

1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây .................................................................. 6

1.1.1.1. Thời kỳ đầu ................................................................................................. 6

1.1.1.2. Thời kỳ phát triển ........................................................................................ 7

1.1.2.Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây ...................................... 9

1.2.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam ................................................... 13

1.2.1.Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên cứu văn

học ở Việt Nam ..................................................................................................... 13

1.2.2.Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt

Nam ...................................................................................................................... 21

Chƣơng 2: PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN ...... 31

VĂN HỌC ............................................................................................................ 31

2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học ....... 31

2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái ..................................................... 31

2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” .................................... 36

2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái ................................................................. 42

2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển ............................................. 42

2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái .............................................. 46

2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên

ngành .................................................................................................................... 51

2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba................................. 51

2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành ......................... 52

2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái ..................... 58

Chƣơng 3: NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ

NHIÊN VÀ CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI ................................................ 63

3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể ........................................................................ 63

3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người ........................ 63

3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an về sinh thái của con

người .................................................................................................................... 73

3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể ............................................................................ 86

3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị .................................. 86

3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại .............. 95

Chƣơng 4: NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG THƠ MỚI

............................................................................................................................ 105

4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................................. 106

4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca .................................................. 106

4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................ 107

4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái .............................................. 107

4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam

............................................................................................................................ 116

4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lí luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái

............................................................................................................................ 122

4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới .......................................................... 129

4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái..................... 129

4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới ........................................................... 132

4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa ........................................................ 132

4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn .................................................................... 139

4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian .................................................................. 144

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đến nay, những hiểm họa về suy thoái môi

trường đã trở nên trầm trọng. Điều đó đặt ra những vấn đề liên quan đến sự tồn

vong của nhân loại. Và đây là lí do vì sao trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện khái

niệm phát triển bền vững với chủ trương phát triển kinh tế nhưng không làm tổn

hại đến môi trường sinh thái vì các thế hệ tương lai. Trong địa hạt khoa học xã

hội và nhân văn cũng đã xuất hiện khái niệm phê bình sinh thái. Về bản chất đó

là bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây được xem

là một hướng nghiên cứu mới có tính liên ngành, ngày càng có ảnh hưởng lớn.

1.2. Phê bình sinh thái còn gọi là nghiên cứu xanh xuất hiện ở Tây Âu rồi

lan rộng ra toàn cầu. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển phê bình sinh thái thể

hiện rõ những tiềm năng và đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp

cận, giới thiệu, ứng dụng, nghiên cứu.

1.3. Hiện nay, những nghiên cứu dựa trên nền tảng phê bình sinh thái chủ

yếu hướng đến các sáng tác văn học đương đại, nghiên cứu những sáng tác văn

học trước đó còn hạn chế, đặc biệt tập trung nghiên cứu nhiều vào thể loại văn

xuôi mà chưa có nhiều nghiên cứu về thơ. Với lí do đó, chúng tôi muốn soi rọi

lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu một thực thể quan trọng của văn học

Việt Nam thế kỷ XX là Thơ mới.

1.4. Gợi ý từ phê bình sinh thái khi nghiên cứu Thơ mới chúng tôi nhận thấy

theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có thể xem văn học sinh thái xuất hiện

từ thời kỳ lãng mạn. Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản với sự phát triển như vũ bão đã

lộ dần mặt trái đen tối của sự tàn phá, hủy hoại môi trường tự nhiên. Các nhà lãng

mạn đã sớm dự cảm về những hư tổn mất mát đó và đưa chúng vào văn học đương

thời. Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) mặc dù xuất hiện muộn hơn so với văn học

lãng mạn phương Tây nhưng cũng ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược

và khai thác thuộc địa. Nền văn minh công nghiệp xuất hiện đã bước đầu tàn phá

tự nhiên và môi trường sống. Trong văn học lãng mạn có một khuynh hướng viết

về đồng quê. Trong đó, nhiều nghệ sỹ coi sự trở về với thiên nhiên, thôn dã như

1

một nẻo đường tìm kiếm sự bình yên, thể hiện thái độ phản ứng lại sự ngột ngạt

của đời sống đô thị. Chúng ta có thể tìm thấy ở Thơ mới một tấm mạng sinh thái

mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh giao cảm hài hòa…Những vần thơ

viết về thiên nhiên, tự nhiên trong Thơ mới cũng có ý nghĩa đánh thức sự gắn kết

giữa con người với môi trường nhân tính của tự nhiên, thanh tẩy, ngăn cho con

người không trượt vào con đường tha hóa, để từ đây rung lên hồi chuông cảnh tỉnh

về khủng hoảng sinh thái.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài xem xét phê bình sinh thái, một hướng tiếp cận văn học xuất phát từ

phương Tây sẽ có những thích hợp hay sự khác biệt gì khi được nhìn nhận

trong sự tương quan với văn học Việt Nam, đặc biệt là với Thơ mới.

Đề tài muốn khám phá Thơ mới từ một góc nhìn mới, đó là sự gắn kết của

trường phái thơ này với các vấn đề môi sinh, môi trường và tự nhiên. Từ đó, đề

tài khẳng định giá trị trường tồn và sự đa diện của Thơ mới. Thơ mới có giá trị

ngay cả khi được khám phá dưới những cách tiếp cận xuất hiện sau sự ra đời và

phát triển của nó rất nhiều.

Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn

khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với

Thơ mới, giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ

phận thơ ca đó. Luận án của chúng tôi không nhằm xác định Thơ mới như một

chỉnh thể sinh thái. Bởi lẽ trọng tâm của Thơ mới là bộc lộ cái tôi cá nhân và sự

cô đơn của con người. Nhưng nghiên cứu trào lưu văn học này với công cụ là

phê bình sinh thái chúng tôi muốn khám phá thêm các ý nghĩa, giá trị của Thơ

mới. Do vậy, lí thuyết phê bình sinh thái sẽ góp phần soi tỏ những khía cạnh

khác nhau của khuynh hướng văn chương sinh thái trong Thơ mới. Theo đó,

Thơ mới được hình dung như một trường hợp để chứng minh sự hữu dụng của

phê bình sinh thái trong việc nghiên cứu thực tiễn văn học Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan tình hình nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới

và ở Việt Nam.

2

- Phân tích sự ra đời và phát triển phê bình sinh thái trên thế giới, từ đó

đưa ra nhận định riêng về sự phát triển và nội hàm của phê bình sinh thái.

- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.

- Tìm hiểu ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm trực tiếp, gián

tiếp thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.

-Vận dụng những tri thức của phê bình sinh thái để cắt nghĩa lý giải mối

quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. Từ đó khẳng định những

đóng góp của Thơ mới một cách đầy đủ, toàn diện hơn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự khảo sát chính ở tuyển

tập: Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân (biên soạn),

1999, NXB Hội nhà văn, Hà Nội - (tập 1, tập 2 - 1401 trang).

Ngoài khảo sát các diễn ngôn phê bình sinh thái trong Thơ mới chúng tôi

cũng khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong văn học các giai

đoạn trước và sau nó, nhằm làm nổi bật cũng như rõ hơn sự khác biệt của mối

quan hệ trên trong Thơ mới.

4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu

Dựa trên nền tảng của các tri thức nghiên cứu hiện đại trong khoa học xã

hội và nhân văn, dựa trên tri thức của phê bình sinh thái và những đặc trưng cơ

bản của bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra Thơ mới, chúng tôi lựa chọn các phương

pháp nghiên cứu:

- Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các yếu

tố cấu thành nên hệ thống, trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ

được bộc lộ rõ. Áp dụng phương pháp này, chúng tôi tiếp cận một cách hệ

thống các yếu tố cấu thành tạo nên chỉnh thể Thơ mới từ phương diện nội dung

và nghệ thuật từ đó cho thấy cái nhìn khái quát, tổng thể về Thơ mới dưới sự soi

chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.

3

- Phương pháp thống kê: Bằng quá trình thống kê chi tiết, cụ thể những

dấu hiệu sinh thái trong các sáng tác Thơ mới, phương pháp này giúp chúng tôi

phân loại, mô tả được tổng thể mối quan hệ giữa tự nhiên và con người cũng

như bao quát rõ hơn những yếu tố ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong các

tác phẩm Thơ mới.

- Phương pháp liên ngành: Luận án vận dụng kết quả của nhiều chuyên ngành

như: triết học, văn hóa học, tâm lý học, sinh học, sử học, địa lý, chính trị, đạo đức...

Bởi lẽ, phê bình sinh thái vốn dĩ là một phương pháp nghiên cứu mang tính liên

ngành. Kết hợp tri thức các ngành khoa học trên đề tài mong muốn hướng đến khái

quát một bức tranh đa diện về mối quan hệ tự nhiên và con người những năm 1932

– 1945 của giai đoạn Thơ mới ra đời và cũng để tránh cái nhìn đơn giản, một chiều

cho những kết luận rút ra trong quá trình nghiên cứu.

- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Vận dụng phương pháp tiếp cận văn hóa

học trong nghiên cứu, luận án muốn đề cập đến vấn đề con người trong Thơ mới

nhìn từ góc độ văn hóa ứng xử với tự nhiên. Trong cách ứng xử giữa con người với

tự nhiên qua các giai đoạn văn học từ văn học dân gian sang văn học trung đại và

hiện đại đã có sự thay đổi do văn hóa cũng biến chuyển theo thời gian.

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại cũng giúp

nhìn nhận rõ hơn tác giả, lịch sử văn học, giọng điệu...là những căn cứ chân

thực để soi rọi Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái.

- Phương pháp so sánh: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự

nhiên trong Thơ mới, luận án cũng tiến hành so sánh với văn học dân gian, văn

học trung đại và văn học hiện đại, đương đại nhằm tìm ra những nét tương

đồng cũng như khác biệt trong mối quan hệ trên.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Thơ

mới từ lý thuyết phê bình sinh thái.

Luận án đã tổng thuật, phân tích, đánh giá chi tiết, cụ thể các công trình

nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, chỉ ra vị trí và xu

hướng phát triển của phê bình sinh thái nước nhà trong thời gian hiện nay.

4

Luận án không nhằm trả lời Thơ mới có phải là văn học sinh thái hay

không mà chủ yếu chỉ ra những giá trị đa diện, ý nghĩa của Thơ mới dưới sự soi

chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.

Dưới lý thuyết phê bình sinh thái, luận án đã khám phá trên những bình

diện cơ bản về mối quan hệ con người và tự nhiên trong Thơ mới: Tự nhiên với

tư cách như một khách thể và như là chủ thể; Đồng thời, luận án đã khám phá

hệ thống ngôn ngữ sinh thái cùng biểu tượng cơ bản trong Thơ mới tiêu biểu là

biểu tượng vườn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Ý nghĩa lý luận: Luận án tập trung trả lời câu hỏi Thơ mới có thể đóng

góp gì cho phê bình sinh thái, tức là khi được xét trong trường hợp cụ thể là thơ

ca về thiên nhiên của Thơ mới thì phê bình sinh thái có thể cần phải bổ sung

điều gì; từ trường hợp của Thơ mới, có thể bình luận, bàn luận thêm gì về phê

bình sinh thái. Một lí thuyết của thế giới, được sinh ra trong một bối cảnh lịch

sử xã hội khác Việt Nam, khi đem quy chiếu đến thơ ca Việt Nam - vốn cũng

được ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội đặc trưng - chắc chắn sẽ có nhiều

điểm phát hiện mới, khám phá mới. Nghiên cứu Thơ mới từ góc nhìn phê bình

sinh thái để phần nào cho thấy sự mới mẻ này sẽ là một đóng góp về lí luận của

đề tài và Thơ mới vì thế cũng có thêm giá trị lí luận.

Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm

và nghiên cứu về phê bình sinh thái cũng như muốn khám phá thêm những giá

trị của Thơ mới (1932 -1945).

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung

chính của luận án gồm 4 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận văn học

Chương 3: Những bình diện sinh thái của mối quan hệ tự nhiên và con

người trong Thơ mới

Chương 4: Ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong Thơ mới

5

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài

1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây

Cho đến nay phê bình sinh thái đã trở thành một xu hướng nghiên cứu liên

ngành và không ngừng mở rộng.Trên đại thể, phê bình sinh thái đã trải qua hai

giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất gắn với thời kỳ lãng mạn; Giai đoạn thứ hai là sự

gặp gỡ các diễn ngôn sinh thái và diễn ngôn hậu thực dân sinh thái. Đây là

hướng nghiên cứu văn học khởi nguồn từ Mỹ vào những năm 1960 - 1970 và

mở rộng ra các nước phương Tây. Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ

giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nếu như phê bình nữ quyền xem xét ngôn

ngữ với văn học dưới góc độ của ý thức về giới, phê bình Marxist đưa ý thức về

các hình thái sản xuất và các tầng lớp kinh tế vào việc đọc văn bản thì phê bình

sinh thái lại lấy cách tiếp cận lấy trái đất - tự nhiên làm trung tâm khi phân tích

tác phẩm văn học.

Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những

năm 70 của thế kỷ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của

văn học chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì

các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và

văn học với môi trường. Cũng từ đây phê bình sinh thái trở thành một lĩnh vực

nghiên cứu văn học được quan tâm trên thế giới.

1.1.1.1. Thời kỳ đầu

Năm 1973, Raymond Williams – học giả người Anh công bố cuốn Nông

thôn và thành thị (The country and the city). Đây là công trình được xem là

khởi đầu của nghiên cứu phê bình sinh thái ở nước Anh.Tác giả đã làm rõ mối

quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong văn học Anh từ lập trường của chủ

nghĩa chỉnh thể sinh thái. Ông đã chỉ rõ đó là mối quan hệ vừa chứa đựng sự

mâu thuẫn lại vừa thống nhất.

Năm 1985, Frederick O. Waage cho ra đời cuốn sách Dạy văn học môi

trường: tài liệu, phương pháp và tiềm năng phát triển (Teaching environmental

literature materials methods resources). Với “mục đích thúc đẩy mọi người

6

tăng cường quan hệ và hiểu biết sâu hơn về vấn đề môi trường trong văn học”

[143] cuốn sách đã như một gợi ý cho các giáo sư Mĩ mở các môn học liên

quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này.

Năm 1989, tại Mỹ đã dành một bản tin có tên Bản tin sáng tác về đề tài tự

nhiên trong văn học Mỹ (The American nature writing newsletter) để đăng tải

những bài viết về phê bình sinh thái. Và cũng năm này, trong Đại hội “Hội văn

học miền Tây”, học giả Cheryll Glotfelty công bố báo cáo Vì một nền phê bình

văn học sinh thái (Toward an ecological literary criticism) và Lough với bài

Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái học (Revaluing nature:

Toward and ecological criticism), với hai báo cáo nói trên các học giả đã góp

phần đề xướng và làm sống lại thuật ngữ phê bình sinh thái.

Năm 1990 đánh dấu sự ra đời bộ sách đồ sộ có tên Cuốn sách viết về tự nhiên

(The norton: book of nature writing) do Robert Finch và John Elder chủ biên.

Cuốn sách dày gần 1000 trang đã giới thiệu những tác phẩm quan trọng viết về tự

nhiên của các nhà văn Âu Mĩ từ thế kỉ XVIII. Đây có thể xem như là một tài liệu

quý bổ sung hữu ích cho người nghiên cứu tìm hiểu về văn học sinh thái.

Có thể nhận thấy, thời kỳ đầu những nghiên cứu về văn học và môi trường

đã bắt đầu được chú ý và ngày càng gia tăng trên thế giới. Song hầu như chỉ tập

trung vào các nghiên cứu ở Anh và Mỹ đặc biệt là miền Tây nước này. Nhiều

công trình tập trung viết về cái hoang dại, sự hiển linh của cá nhân, chỉ ra sự hài

hòa, cân bằng giữa con người với thiên nhiên – những thứ thực ra là do văn hóa

con người và ngôn ngữ con người tạo ra chứ không phải là thực tế thiên nhiên

có như vậy. Chính vì thế, các nhà phê bình sinh thái gọi đây là giai đoạn tụng ca

phê bình sinh thái.

1.1.1.2. Thời kỳ phát triển

Phê bình sinh thái ra đời ở Hoa Kì và bắt đầu phát triển mạnh vào những năm

90. Đặc biệt là sự ra đời của Hội nghiên cứu văn học và môi trường (The

Association for the study of study of literature and environment), gọi tắt là

ASLE được thành lập ở trường đại học Nevada Mĩ vào năm 1992. Đây là một

tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, thường xuyên tổ chức

7

các cuộc thảo luận, xuất bản các tập san của hội, giới thiệu những thành quả phê

bình sinh thái mới nhất.

Năm 1993, tạp chí Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường

(Interdisciplinary studies in literature and environment) gọi tắt là ISLE ra đời.

Tạp chí sau đó trở thành cuốn sách học thuật có tính hạt nhân trong lĩnh vực

phê bình sinh thái, mỗi số đều có dung lượng hàng trăm trang. Cùng với sự ra

đời của ASLE, ISLE đã làm tăng tính học thuật cho các thành quả nghiên cứu

phê bình sinh thái.

Năm 1998, tại Luân Đôn, R. Kerridge và N. Sammells chủ biên tuyển tập

Viết về môi trường: Phê bình sinh thái và văn học (Writing the

environment:Ecocriticism and literature). Tác giả là những nhà phê bình sinh

thái Âu Mỹ đã giới thiệu phê bình sinh thái từ góc độ nhân văn, thể hiện nhiều

lập trường nghiên cứu của các nhà phê bình sinh thái.

Phê bình sinh thái phát triển thực sự mạnh mẽ và sâu rộng. Hàng loạt các

công trình nghiên cứu ra đời khiến văn học môi trường trở thành hiện tượng văn

học mang tính toàn cầu. Đặc biệt phê bình sinh thái còn trở thành môn học

trong nhiều trường đại học ở Anh và Mỹ. Đại học Naveda là trung tâm giảng

dạy và nghiên cứu văn học sinh thái của toàn nước Mỹ. Ở đây tập hợp nhiều

giáo sư, nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu văn học sinh thái. Bên cạnh đó là

các trường đại học như Virginia, Arizona, Georgia, Oregen….đều là cơ sở quan

trọng của phê bình sinh thái.

Năm 2000, cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái với sự

công bố hàng loạt công trình phê bình sinh thái xuất sắc như Tính đa ngành

trong nghiên cứu văn học viết về tự nhiên (Father afield in the study of nature –

oriented literature) của Patrick D. Murphy; Cuốn Chủ nghĩa môi trường trong

văn học Mỹ (American literary environmentalism) của David Mazel; Bài ca trái

đất (The song of the earth) của Jonathan Bate; Tuyển tập nghiên cứu xanh; từ

chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái (The green studies reader: From

romanticism to ecocriticism) của Laurence Coupe; Ý thức nơi chốn của Thoreau: Những tiểu luận về văn học môi trường Mỹ (Thoreau’s sense of pace:

Essays in American environmental writing) của Richard J. Schneider …Với sự

8

ra đời của rất nhiều các tác phẩm phê bình sinh thái nói trên đã cho thấy tiềm

năng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu này.

Năm 2008, Scott Slovic cho xuất bản cuốn sách Đi xa để suy nghĩ: Nhập

thế, xuất thế và trách nhiệm của phê bình sinh thái (Going away to think:

Engagement, retreat, and ecocritical responsibility). Tại đây, tác giả đã đề xuất

trách nhiệm của sinh thái chính là sự dung hợp của hai luồng tư tưởng “nhập

thế” và “xuất thế”, nghĩa là nhà phê bình sinh thái cần tham gia vào việc hưởng

thụ tự nhiên nhưng cũng nêu cao tinh thần chăm sóc và bảo vệ tự nhiên.

Năm 2009, Peter Barry cung cấp thêm một công trình có đề cập đến một vấn

đề lý thuyết mới của phê bình sinh thái bao gồm các vấn đề như: chủ nghĩa nhân

văn tự do, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc… Lý thuyết nhập môn: Giới

thiệu về lý thuyết văn học và văn hóa (Beginning theory: An introduction to

literary and cultural theory). Cũng trong năm này nhiều chuyên luận đã đề cập đến

phê bình sinh thái đô thị như Tự nhiên của đô thị: Phê bình sinh thái và môi

trường đô thị (The nature of cities: Ecocriticism and urban environments)của

Michael Bennett và David W. Teague; Xem xét lại công viên đô thị: Không gian

công cộng và đa dạng văn hóa (Rethinking urban parks: Public space and cultural

diversity) của Setha Low, Dana Taplin và Suzanne Scheld.

Khởi nguồn ở Anh và Mỹ, phê bình sinh thái đã mở rộng nghiên cứu ra

toàn cầu. Nếu như phê bình sinh thái manh nha hình thành khoảng từ những

năm 70 của thế kỉ XX, phát triển mạnh khoảng từ năm 1990 đến năm 2007 thì

sang khoảng năm 2008 vẫn trên đà phát triển đó phê bình sinh thái đã có nhiều

sự chuyển hướng trong nghiên cứu, mở rộng nhiều hơn tới các vấn đề giới,

chủng tộc và giai cấp cũng như nhấn mạnh đến các góc nhìn liên văn

hóa…Điều đó càng chứng tỏ sự hứa hẹn phê bình sinh thái là một hướng nghiên

cứu phát triển và mang tính toàn cầu. Song trên hết, chúng ta phải thừa nhận ý

nghĩa đúng đắn của sứ mệnh phê bình sinh thái: “Góp phần thay đổi thái độ

nhân loại với tự nhiên”.[76]

1.1.2. Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây

Việc mở rộng kinh điển sinh thái để bao gồm tất cả các nền văn học trên

thế giới với sự đóng góp của các nhà phê bình toàn cầu được coi như là một cột

9

mốc gần đây nhất trong thực hành phê bình sinh thái. Mặc dù, thành viên của

Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) cho đến nay phần lớn là

các học giả nổi tiếng Anh, làm việc trên các văn bản tiếng Anh nhưng cũng đã

có những nỗ lực đáng chú ý nhằm khám phá các vấn đề môi trường và hướng

đến phê bình môi trường trong các truyền thống văn học ở Châu Á, đặc biệt là

Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nền văn học tiếng Hán. Nói cách khác, phê bình

sinh thái có gốc gác trong các tác phẩm lý thuyết cuối thế kỷ XX của Raymond

Williams ở Anh, Lawrence Buell ở Hoa Kỳ, Kate Rigby và những học giả khác

ở Úc nghiên cứu phê bình sinh thái cổ điển chủ yếu dựa trên văn bản tiếng Anh.

Phải đến bộ tuyển tập gần đây Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập có phê

bình: Các nền văn học, các nền văn hóa, và môi trường (East Asian

ecocriticisms: A critical reader (literatures, cultures, and the environment. New

York: Palgrave Macmillan, 2013) của S. Estok và W. Kim mới có chú ý tới các

tác phẩm văn học và nhà văn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung

Quốc. Bên cạnh đó, cuốn Mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học

Đông Á (Ecoambiguity: environmental crises and East Asian literatures,

University of Michigan Press, 2012) của Karen Thornber phân tích khủng

hoảng môi trường trong văn học Đông Á, đặc biệt, cuốn sách tập trung phân

tích vào văn học mang tính sinh thái của toàn bộ khu vực này từ thời cổ điển

cho đến hiện tại. Bà nhấn mạnh đặc tính “nước đôi” hay là sự “nghịch lí” trong

các xã hội Đông Á, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, trong quan niệm

của họ về tự nhiên. Bà đưa ra một ví dụ về việc song hành tôn kính thiên nhiên và

việc khai thác hay bóc lột thiên nhiên trong văn hóa các nước Đông Á. Cái nghịch lí

sinh thái đó tiếp tục thách thức các xã hội trên toàn thế giới [139]. Cuốn Phê bình

sinh thái Đông Nam Á: Lí thuyết, thực hành và triển vọng (Southeast Asian

Ecocriticism: Theories, practices, prospects, Maryland: Lexington Books, 2018) do

John Ryan biên tập bao gồm các bài viết phân tích các tác phẩm văn học các nước

Đông Nam Á từ góc nhìn của phê bình sinh thái.

Còn nữa, trên thế giới đã có vô số các công trình nghiên cứu tập trung khai

thác văn học của các khu vực phi phương Tây và thuộc nhiều thời kì khác nhau

từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra đây bài viết nghiên cứu của Scott

10

Slovic, người sáng lập Hội văn học và môi trường thế giới, Phong cảnh trong

phê bình sinh thái và văn học môi trường Trung Quốc: Sự xuất hiện của một

nền văn minh sinh thái mới (Landmarks in Chinese ecocriticism and

environmental literature:the emergence of a new ecological civilization) đăng

trên tờ Khoa học xã hội Trung Quốc ngày nay (Chinese social sciences today

press) số ra ngày 31/7/2013. Bài viết tập trung phân tích các vấn đề sinh thái,

thế giới môi trường trong truyền thống thơ Trung Quốc - từ thơ Đường cho đến

thơ hiện đại, thơ đương đại Trung Quốc. Trong bài viết, tác giả đề cập đến một

loạt các trung tâm nghiên cứu và hội thảo nghiên cứu văn học, văn hóa qua các

thời đại của Trung Hoa từ góc độ phê bình sinh thái.

Thú vị hơn là đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm văn học cổ

đại của Ấn Độ, như sử thi Ramayana, từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra

đây cuốn sách Phê bình sinh thái và sử thi Ramayana của Tulsidasa (LAP

Lambert Acad. Publ., 2011) của Pankaj Sharma, bài nghiên cứu Phê bình sinh

thái trong các truyền thống phương Tây và phương Đông (IUP Journal of

English Studies Vol. 7, No. 1, March 2012) của Mishra, Raj Kumar nghiên cứu

tác phẩm của Kalidasa và Valmiki từ lăng kính của phê bình sinh thái. Học giả

Aiyer, K. R. có một loạt bài viết nghiên cứu sử thi Mahabharata từ góc nhìn

sinh thái, đó là bài nghiên cứu Đạo trong Mahabharata như là cách phản ứng

đối với sự khủng hoảng môi trường: một dự đoán (Dharma in the Mahabharata

as a response to ecological crises: A speculation. The Trumpeter, số 9 năm

2009) và bài viết Một cái nhìn sinh thái xã hội về vài đoạn trong sử thi

Mahabharata (A social ecological perspective on some episodes from the

Mahabharata, Indian Journal of Eco-criticism 2 năm 2009).

Trong bài viết gây tiếng vang Quá trình xanh về sự phản kháng trong thơ

Ả rập: Diễn giải một số bài thơ Ả rập chọn lọc từ góc độ phê bình sinh thái

(Greening of resistance in Arabic poetry: An ecocritical interpretation of

selected Arabic poems, The Southeast Asian Journalof English Language

Studies – Vol 21(1): 13 – 22), Hamoud y’ahya Ahmed phân tích một số bài thơ

Ả rập từ lăng kính phê bình sinh thái để khám phá cách thức môi trường tự

nhiên là một lực định hình cá thể và góp phần vào sự xanh hóa phong trào phản

11

kháng thông qua các cộng đồng sinh học trong thế giới Ả rập. Tiền đề của bài

báo xuất phát từ những khẳng định của phê bình sinh thái gần đây về ranh giới

linh hoạt mềm dẻo, có thể tràn qua được, của lĩnh vực này và về khả năng ứng

dụng của nó như là một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể đọc bất cứ văn bản

văn học nào. Bài viết tập trung vào các bài thơ Ả rập để xem xem các nhà thơ

Ả rập đã gắn bó với môi trường tự nhiên và được thể hiện ra sao trong các bài

thơ của mình. Bài viết dựng lại việc những nhà thơ Ả rập đã nỗ lực như thế nào

để biểu hiện theo kiểu sinh thái về sự phản kháng trong thơ Ả rập. Từ đó, bài

viết kết luận về sự hiện diện sâu sắc và gắn bó của thế giới tự nhiên trong việc

miêu tả những phản kháng của con người đối với việc lấn chiếm đất đai.

Sự phát triển của phê bình sinh thái ở các nước bên ngoài phương Tây thể

hiện rõ nhất ở việc xuất hiện các hội văn học và môi trường ở các nước như

Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Trung Quốc. Các nhánh của ASLE đã được

thành lập tại Nhật Bản, Anh, Úc/New Zealand, Hàn Quốc, Ấn Độ và Đài Loan,

với các hiệp hội liên kết ở Châu Âu và Canada. ASLE đã tổ chức lần đầu tiên

hội nghị bên ngoài Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2017 tại Victoria, British

Columbia. Điều này có nghĩa, ở bên ngoài trung tâm Anh và Mỹ đã hình thành

nhánh hay trường phái phê bình riêng của họ và được hàm ẩn ở các cụm từ,

đồng thời cũng là tiêu đề của nhiều bài báo, nhiều công trình sách học thuật như

“Phê bình sinh thái Nhật Bản”, “Phê bình sinh thái Trung Quốc”, “Phê bình

sinh thái Đài Loan”, v.v… (mà không phải là “Phê bình sinh thái ở Nhật Bản”,

“Phê bình sinh thái ở Trung Quốc” hay “Phê bình sinh thái ở Đài Loan”). Điều

đó có nghĩa, đây là những nhánh phê bình sinh thái và chúng có những đặc

trưng riêng cho từng nền văn hóa, từng nền văn học cũng là phê bình sinh thái

của riêng nền văn hóa, nền văn học đó. Cụ thể, các nhóm hay nhánh phê bình

sinh thái này dù là xuất phát từ truyền thống, niềm tin của người bản địa về mối

liên hệ giữa văn chương và thiên nhiên thì chỉ trở thành một lí thuyết phê bình

văn học khi được tiếp nhận từ Hoa Kì và Anh quốc từ những năm 1990. Và

điều này cấu tạo nên lịch sử đặc trưng của các nhánh phê bình sinh thái đó:

chúng có những giai đoạn chuyển biến, chúng gắn với nền văn học và với tình

hình chính trị, xã hội và lịch sử bản địa.

12

Nhưng, với các nhà lí thuyết phê bình sinh thái, mặc dù phê bình sinh thái

đã có những “mầm chồi” hiện đang mọc lên trên khắp hành tinh và “nhiều chồi

đã ra hoa” [106, 108] ở bên ngoài Anh - Mỹ, nhưng có một số câu hỏi cơ bản

được giải quyết, trong đó phổ biến nhất là các câu hỏi: Liệu lý thuyết và thực

hành phê bình sinh thái có được hiểu ở các nước bên ngoài Anh - Mỹ giống như

là ở Anh - Mỹ? Những khái niệm trung tâm của phê bình sinh thái như thiên

nhiên, đồng quê, hoang dã có nghĩa giống với các khái niệm đó trong phê bình

sinh thái ở Mỹ và Anh? Thách thức nào đặt ra trong việc dịch các thuật ngữ và

các khái niệm của phê bình sinh thái sang các ngôn ngữ và văn hóa khác? Việc

nghiên cứu các truyền thống văn hóa và văn học không phải tiếng Anh có làm

thay đổi hay có tác động gì đối với hình thức phê bình sinh thái ở Anh - Mỹ vốn

chủ yếu dựa trên nền văn hóa, văn học bằng tiếng Anh? Và liệu việc nghiên cứu

phê bình sinh thái ở các nền văn hóa, văn học không phải tiếng Anh có thể đem

lại một diện mạo mới cho lí thuyết phê bình thái để không bị trói buộc vào ngôn

ngữ tiếng Anh và mô hình văn học và văn hóa Anh - Mỹ?[106, 108 -122].

Phần sau của chương này nói riêng và các phần tiếp theo của cả luận án

nói chung hi vọng góp phần giải đáp lại phần nào các câu hỏi trên của các nhà lí

thuyết phê bình sinh thái. Điều đó có nghĩa, việc khảo sát phê bình sinh thái ở

Việt Nam cũng như việc tiếp cận Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái ở đây

được đặt trong mối tương quan với các câu hỏi về sự phát triển của phê bình

sinh thái trên thế giới.

1.2. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam

1.2.1. Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên

cứu văn học ở Việt Nam

Nằm trong xu hướng “trổ mầm” và “nở hoa” của phê bình sinh thái ở các

nước bên ngoài Anh - Mỹ, phê bình sinh thái cũng xuất hiện và phát triển ở

Việt Nam như là một hướng tiếp cận văn học. Người viết sẽ khảo sát các tài liệu

về phê bình sinh thái Việt Nam và những công trình dịch, tổng thuật, giới thiệu,

viết về lí thuyết phê bình sinh thái để xác định vị trí của phê bình sinh thái trong

nghiên cứu văn học sinh thái nói riêng và trong đời sống nghiên cứu văn học

nói chung ở nước nhà. Việc khảo sát tài liệu ở đây bao gồm việc tổng hợp, phân

13

tích, diễn giải các tài liệu thứ cấp cùng các công trình dịch và viết về phê bình

sinh thái ở Việt Nam. Cụ thể, các tài liệu được khảo sát là các công trình phân

tích văn học từ góc độ phê bình sinh thái, các tài liệu diễn giải về phê bình sinh

thái bằng tiếng Việt. Loại của tài liệu được khảo sát bao gồm sách, bài tạp chí

đăng trên báo giấy, bài tạp chí trên báo điện tử, các luận văn thạc sĩ, các luận án

hướng đến lí thuyết phê bình sinh thái hay nghiên cứu văn học Việt Nam với sự

tập trung toàn bộ hay phần nào đó vào các phương diện môi trường của các tác

phẩm. Tổng số tài liệu nghiên cứu văn học Việt Nam về phê bình sinh thái từ

góc độ lí thuyết là 27 bài (Bảng 1 đính kèm) và ứng dụng nghiên cứu phê bình

sinh thái được khảo sát bao gồm 77 tài liệu (Bảng 2 đính kèm).

Qua khảo sát hai bảng, người viết nhận ra hướng tiếp cận văn học trong

mối liên quan đến môi trường ở Việt Nam có sự tương hợp với nội dung của

phê bình sinh thái ở giai đoạn thứ nhất, đó là sự quan tâm đến quang cảnh thiên

nhiên, đến sự đối lập giữa văn hóa (đô thị - hiện đại hóa) với thiên nhiên (đồng

quê - hoang dã). Điều thể hiện này cũng là nguyên nhân ở sự tiếp nhận phê bình

sinh thái Việt Nam (dịch thuật, tổng thuật) chủ yếu hướng tới nội dung thiên

nhiên của phê bình sinh thái cổ điển.

Cụ thể, bảng 1 cho thấy phê bình sinh thái đã được giới thiệu (dịch thuật,

tổng thuật), phân tích (các bài viết mang tính lí luận) ở Việt Nam, dù không

sớm nhưng khá dồi dào và cập nhật. Công trình Phê bình sinh thái – cội nguồn

và sự phát triển của tác giả Đỗ Văn Hiểu năm 2012 là một bản tổng hợp dịch

thuật công phu từ tiếng Trung có tên Tuyển tập văn luận văn học sinh thái

Trung Quốc và thế giới của nhiều tác giả. Trong bản tổng thuật này, Đỗ Văn

Hiểu giúp cho độc giả Việt Nam hiểu thêm những định nghĩa kinh điển của

phương Tây về phê bình sinh thái, đó là định nghĩa của Cheryll Glotfelty, Karl

Kroeber, Jonathan Levin, và Donald Worster. Trên cơ sở các định nghĩa về phê

bình sinh thái của các học giả, cuốn sách có những lược thuật sự phát triển,

phân tích cội nguồn tư tưởng sâu xa của phê bình sinh thái. Quan niệm con

người sống hài hòa với tự nhiên được người dịch nhấn mạnh có gốc gác từ quan

điểm triết học cổ đại đến các các học giả của trào lưu lãng mạn Phương Tây và

14

các nhà sinh vật học, các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt tư tưởng

sinh thái phương Đông cổ đại.

Năm 2015, Đỗ Văn Hiểu tiếp tục công bố bản dịch Văn học sinh thái và lí

luận phê bình sinh thái, dịch từ cuốn Đương đại tây phương tối tân văn luận

giáo trình của Vương Nhạc Xuyên. Bản dịch đã góp phần chỉ ra nguyên nhân

xuất hiện của văn hóa sinh thái chính là do từ sự mất gốc của văn hóa hiện đại

và căn bệnh của chủ nghĩa tiêu dùng. Đồng thời chỉ ra tính thực tiễn của văn

hóa sinh thái. Thông qua bản dịch chúng ta thấy tác giả bài viết cũng miêu tả tỉ

mỉ quỹ tích phát triển của lí luận sinh thái và chỉ ra được 6 đặc trưng cơ bản của

phê bình sinh thái và khẳng định “Tóm lại, phê bình sinh thái coi quan hệ giữa

văn học và môi trường tự nhiên là lĩnh vực nghiên cứu của mình, một mặt nó

buộc phải nghiên cứu “tính văn học”, mặc khác lại phải tiếp cận vấn đề “tính

sinh thái”[85, 6]. Trong bài viết khác như Phê bình sinh thái khuynh hướng

nghiên cứu văn học mang tính cách tân (2012), Tính “khả dụng” của phê bình

sinh thái (2016), Phê bình sinh thái ở Trung Quốc nhìn từ Việt Nam (2017), tác

giả đã làm rõ phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu văn học mang tính

cách tân trên nhiều phương diện, trước hết đó là sự cách tân về tư tưởng nòng

cốt. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra rằng phê bình sinh thái mang một sứ mệnh

mới là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán văn hóa, chỉ ra căn

nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. Đồng thời phê bình sinh

thái cũng được xây dựng trên nguyên tắc mĩ học riêng, chủ trương của mĩ học sinh

thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên. Sự tập hợp này cho thấy các

công trình lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam đã bao phủ một cách toàn diện

và cập nhật quan điểm của học giả phương Tây về sự phát triển (liên ngành, sự

phát triển bên ngoài phương Tây, và sự mở rộng đến các vấn đề bên ngoài thiên

nhiên đến các vấn đề nữ quyền, hậu thuộc địa) của phê bình sinh thái. Đặc biệt,

qua các công trình nghiên cứu nêu trên, điểm chung nhất là các tác giả đều cố gắng

xác lập lý thuyết về phê bình sinh thái, bước đầu chỉ ra phương pháp nghiên cứu và

định hướng thực hành phê bình sinh thái. Đặc biệt các học giả đều nỗ lực cổ vũ

ứng dụng, nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam bởi phê bình sinh thái có

nhiều tiềm năng để khai thác hay mang tính cách tân và có tính khả dụng cao trong

15

nghiên cứu hiện nay. Có thể thấy, những công trình dịch thuật về phê bình sinh

thái của Đỗ Văn Hiểu là một sự “đánh động” hay là một sự mời gọi hấp dẫn đối

với tư duy về nghiên cứu văn học đã có ở Việt Nam để từ đó sẵn sàng đón nhận

một hướng tiếp cận văn học mới.

Đến cuốn Phê bình sinh thái là gì ? (2017) do Viện văn học chủ trương

xuất bản, phê bình sinh thái ở Việt Nam đã được tiếp cận với diện mạo đa dạng.

Cuốn sách mang tính biên dịch đã tập hợp các bản dịch và tổng thuật một số

công trình khoa học của các nhà phê bình sinh thái uy tín trên thế giới nhằm

góp phần giới thiệu phê bình sinh thái một cách có hệ thống với bạn đọc trong

nước đồng thời tổng quát và cập nhật các quan điểm phê bình sinh thái của các

nhà lí luận phê bình sinh thái phương Tây. Hầu hết các bản dịch đã tổng quan

về văn học sinh thái và phê bình sinh thái từ nguyên nhân hình thành, cội nguồn

tư tưởng và lịch sử phát triển, các bản dịch cũng góp phần giới thiệu những nhà

nghiên cứu trong và ngoài khu vực về diễn ngôn môi trường, thiên nhiên trong

văn chương Đông Á.

Qua các bản dịch và tổng thuật ở đây, có thể thấy rằng nội dung được tiếp

nhận của phê bình sinh thái ở Việt Nam chủ yếu là mối quan hệ giữa con người

và thiên nhiên. Theo đó, các vấn đề liên quan đến sự hòa hợp của thiên nhiên

được nhấn mạnh và quan tâm nhất. Phải đến cuốn sách do Viện văn học thực

hiện, những chuyển biến gần đây của phê bình sinh thái – hướng tới các vấn đề

thuộc chính trị, xã hội, lịch sử - mới được giới thiệu. Vì vậy, sự liên đới giữa

môi trường và vấn đề giai cấp, nữ quyền, dân tộc, được quan tâm về mặt lí

thuyết. Và điều này hứa hẹn một xu hướng áp dụng và phát triển phê bình sinh

thái mới ở Việt Nam.

Về sự tiếp cận văn học Việt Nam từ góc độ phê bình sinh thái, bảng 2 cho

thấy thiên nhiên là một phương diện quan trọng trong tiểu thuyết, truyện ngắn

và thơ ca Việt Nam, bao gồm cả văn học dân gian, văn học trung đại, văn học

hiện đại và đương đại. Tức là văn học giờ đây được các nhà nghiên cứu Việt

Nam, với góc nhìn của phê bình sinh thái cổ điển, nhìn nhận trong sự liên hệ

với cây cối, chim muông, hoa lá. Điều này có thể thấy rõ qua cuốn kỉ yếu Hội

thảo quốc tế Phê bình sinh thái: tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (NXB

16

Văn học, 2017). Đây là một hội thảo tầm cỡ chuyên sâu về phê bình sinh thái

thu hút nhiều học giả trong và ngoài nước tham gia. Với gần 90 bài tham luận

được in trong kỷ yếu hội thảo đã cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của giới

nghiên cứu về phê bình sinh thái. Qua khảo sát, có thể nhận ra các bài viết tập

trung đọc những phương diện của sinh thái môi trường trong đa dạng các thể

loại văn học (thơ, kịch, văn xuôi), các loại hình nghệ thuật (văn học, điện ảnh,

âm nhạc), ở nhiều thời kì (dân gian, trung đại, hiện đại và đương đại). Đối

tượng khảo sát là văn học Việt Nam, khám phá phương diện sinh thái, môi

trường trong văn học dân gian như Biểu tượng lúa trong thần thoại và nghi lễ các

dân tộc thiểu số Việt Nam (Tiếp cận từ góc độ sinh thái học nhân văn) của Nguyễn

Huy Bỉnh...; trong văn học trung đại Sáng tác của Trần Nhân Tông dưới góc nhìn

phê bình sinh thái của Trần Thị Nhung...; trong văn học hiện đại như Mối quan hệ

giữa con người với môi trường sinh thái trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 -

1945 của Trần Mạnh Tiến...,văn học đương đại Người nông dân trong văn xuôi

Việt Nam đương đại từ góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt...

Các học giả Việt Nam cũng tiếp cận văn học nước ngoài từ góc nhìn phê bình sinh

thái. Đó là Phạm Phương Chi với bài Phê bình sinh thái như là một nội dung của

phê bình hậu thuộc địa – Đọc tiểu thuyết Thủy triều đói (the Hungry Tide, 2005

của Amitav Ghosh; Vua gấu xám của James Oliver Curwood và vấn đề giáo dục ý

thức sinh thái cho trẻ em của Lê Trà My...

Phân tích sâu hơn vào bảng 2 cho thấy, các công trình lấy đối tượng là văn

học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại làm chất liệu nghiên cứu thì

hướng tiếp cận chủ yếu theo phê bình sinh thái ở làn sóng thứ nhất. Đó là những

khám phá về sự hòa hợp và sự tôn trọng giữa con người và tự nhiên. Cụ thể, đó

là các công trình khám phá câu chuyện bọc trăm trứng, biểu tượng lúa trong

thần thoại, cảnh sinh hoạt trong sử thi từ góc độ sinh thái, motif hôn nhân

người - vật trong truyện cổ tích (Đinh Hồng Hà, Nguyễn Huy Bỉnh, Lê Ngọc

Bính, Dương Nguyệt Vân) để tìm hiểu mối quan hệ “vạn vật hữu linh” như là

một tiền đề của cảm quan sinh thái trong đời sống dân gian Việt Nam. Ngay cả

các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du

cũng được các học giả Việt Nam như Hoàng Trọng Quyền, Trần Thị Thanh

17

Nhị, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Tú, Đoàn Thu Vân, Trần Thị

Nhung đọc như là những văn học thiên nhiên (nature writing) với hệ sinh thái

bao gồm các lớp động vật, thực vật đặc trưng và những hàm ẩn về sự chan hòa

và trân trọng thiên nhiên.

Sự phân tích sâu hơn của các công trình nghiên cứu, phê bình văn học Việt

Nam với sự tập trung vào vấn đề môi trường (như tóm tắt trong bảng 2) cho

thấy thiên nhiên là một lĩnh vực được quan tâm chú ý trong các sách học thuật,

các luận văn và các bài tạp chí. Với cụm từ “từ góc nhìn phê bình sinh thái”

xuất hiện trong hầu hết tiêu đề của các công trình nghiên cứu đã cho thấy thiên

nhiên trong các tác phẩm văn học Việt Nam được nhìn nhận trong một lăng

kính khác, không còn là đối tượng để khai thác, hay như là một nguồn tài

nguyên, như là một cái phông nền để con người thể hiện sức mạnh chinh phục.

Thay vào đó, với công cụ là lí thuyết phê bình sinh thái, các tác giả Việt Nam

dường như đã đặt câu hỏi: có hay không cây cối, con vật hay thiên nhiên nói

chung trong tác phẩm văn học được khai thác và vai trò trung tâm của các yếu

tố thiên nhiên ấy trong những tác phẩm văn học.

Nói đúng hơn, trong các công trình nghiên cứu của mình, các học giả Việt

Nam đã đặt thiên nhiên là nhân vật trung tâm, là chìa khóa để nhìn nhận các

mối quan hệ chủ đề khác của tác phẩm. Ví dụ, công trình luận án tiến sĩ Con

người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình

sinh thái (2015) của Trần Thị Ánh Nguyệt chứng minh sau năm 1975, đặc biệt

là sau năm 1986 có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái ở Việt Nam. Tác giả

chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có

tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách tân nghệ

thuật. Tác giả khảo sát hai bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái cho

văn chương đương đại, đó là cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và xác

lập đạo đức sinh thái. Bài viết Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần

Duy Phiên của Nguyễn Thị Tịnh Thy trên Tạp chí Sông Hương, số 317, tháng

07 năm 2015 phân tích cuộc đối đầu giữa con người và côn trùng (kiến, mối,

nhện); trong cuộc chiến đó, như tác giả diễn giả, con người tự mãn sẽ thuần

hóa, trừng trị những côn trùng nhỏ bé; ngược lại, con người lại thất bại thảm

18

hại, từ đó đặt ra vấn đề giải cấu trúc nhân loại trung tâm. Bài viết Bước đầu tìm

hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh thái (2016)

đăng trên Vietvan.vn của Đại học Văn hóa Hà Nội, đã chỉ ra sự thất bại của con

người trước tự nhiên, mặc dù con người luôn khát khao chinh phục. Hay bài

viết Sinh thái môi trường trong văn xuôi Đoàn Giỏi trên Tạp chí khoa học Đại

học Văn Hiến, tập 5, số 1 năm 2017 của Nguyễn Thị Quế Vân và Lâm Hoàng

Phúc khảo sát con người và tự nhiên trong các tác phẩm Những chuyện lạ về cá,

Rừng đêm xào xạc; Đất rừng phương nam của Đoàn Giỏi. Nghiên cứu chỉ ra

thông điệp trong văn chương Đoàn Giỏi là sự thay đổi trong nhận thức về mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên, từ quan niệm “nhân loại trung tâm luận”

sang xác lập quan niệm “tự nhiên trung tâm luận”. Trần Văn Toàn đã phân tích

truyện ngắn Một lần đối chứng, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh của

Nguyễn Minh Châu và truyện Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp để khẳng

định luận điểm giải nhị phân người/tự nhiên đã khiến con – người trở thành đối

tượng của sự miêu tả trong văn học. Như vậy nhân tính đã được kiến tạo từ

điểm nhìn của tự nhiên và như thế con người hoàn toàn có thể lắng nghe, thấu

cảm sự lên tiếng của tự nhiên Giải nhị phân người/tự nhiên và diễn ngôn mới về

nhân tính (“Đọc những truyện ngắn về tự nhiên của Nguyễn Minh Châu và

Nguyễn Huy Thiệp”), Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu

(Nhà xuất bản Văn học, 2017)).

Có thể nói, với lăng kính của phê bình sinh thái, các học giả nước nhà đã

khám phá vị trí làm chủ thể của thiên nhiên trong mối quan hệ với con người trong

văn học Việt Nam. Đây là một hướng đi mới trong phê bình, nghiên cứu văn học

trên một đối tượng vốn thường được nhìn nhận như là một cấu trúc ngôn từ, nơi

khám phá thế giới con người với tất cả những phức tạp, tinh vi của nó.

Nhấn mạnh vị trí trung tâm của thiên nhiên, môi trường sinh thái trong các

công trình nghiên cứu cho thấy sự lan tỏa của cái nhìn phê bình sinh thái trong

đời sống văn chương ở Việt Nam. Một điểm nổi bật khác có thể nhận ra trong

việc nghiên cứu văn học, cụ thể hơn, từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam là

sự đối lập giữa con người và thiên nhiên – một luận điểm trung tâm của phê

bình sinh thái ở làn sóng đầu. Có thể kể đến Nguyễn Đăng Điệp với bài viết

19

Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa in trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại

tiến trình và hiện tượng, (NXB Văn học, Hà Nội, 2014, tr 31- 46): tác giả tìm

hiểu tấm mạng sinh thái: bức tranh phong cảnh thiên nhiên với tư cách Mẹ và

vẻ đẹp thanh tân; bức tranh làng quê; nơi chốn (bầu trời, mặt đất, con đường,

dòng sông, ánh trời chiều, ánh trăng thanh); vườn (đặc trưng vẻ đẹp vùng miền,

là chốn cư ngụ, là không gian tinh thần). Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài: Thiên

nhiên – nguồn cảm hứng bất tận của văn chương Phương Đông in trên (Tạp chí

khoa học ĐHSP TPHCM, số 60 - 2014) khám phá thiên nhiên trong thơ ca

Phương Đông (cỏ cây, hoa lá, động vật...), ở đó con người và thiên nhiên sống hài

hòa, giao cảm. Nhã Thuyên với bài viết Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn

Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn (Toquoc.vn, 2/12/2018) tìm hiểu hệ sinh thái

trong thơ Mai Văn Phấn: bầu trời, linh hồn...; sự hài hòa giữa con người và tự nhiên

bao bọc xung quanh cuộc sống. Tác giả Trần Mạnh Tiến với bài viết Mối quan hệ

giữa con người với môi trường sinh thái trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 –

1945 in trong Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (Nhà xuất

bản Văn học, 2017) khám phá thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sự sống, tràn đầy mĩ

cảm trong văn xuôi hiện đại Việt Nam: đó là thiên nhiên nhiều màu sắc (bờ cỏ xanh

non, cánh rừng nhấp nhô, hoa trái rực rỡ, nắng vàng lấp lánh...); đủ các âm thanh

(chim kêu ríu rít: chim gõ kiến, chim gầm nhì; chim họa mi; chim cu, chim bạc má,

sáo, yểng, vẹt, tiếng côn trùng rủ rỉ...). Tác giả đặc biệt đi sâu khai thác hình ảnh

thiên nhiên hoang sơ, huyền ảo (núi rừng, hang động, sông suối, cây cỏ, hoa lá, chim

muông, khí hậu, thời tiết...) đó là những vận động không ngừng của sự sống trong

Truyện đường rừng.

Cũng trong cuốn Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn

cầu, tác giả Hồ Thế Hà bài viết Những tiêu điểm thẩm mỹ thơ Trịnh Công Lộc

nhìn từ quan hệ sinh thái , tác giả Văn Giá Thơ của niềm “trinh tĩnh” đầu

nguồn, tác giả Phạm Phương Mai Cảm quan sinh thái trong ca từ Trịnh Công

Sơn, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương, Nguyễn Thị Linh Chi Sự thức tỉnh ý thức

sinh thái trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần... đều tập trung

khai thác xu hướng tiếp cận giải lịch sử (dehistoricized approach) đối với "thiên

nhiên", họ bỏ qua các phương diện chính trị và lí thuyết để hướng tới một cách

20

tiếp cận đầy hân hoan với văn học viết về cái hoang dã và về thiên nhiên. Hồ

Thế Hà phân tích hình ảnh thiên nhiên (đại ngàn, biển, than, đá và nước, rừng

đảo, ..) mang bức thông điệp về tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Trịnh

Công Lộc. Trong khi đó, Văn Giá khám phá hình ảnh làng quê (vườn chè, vạt

mía, bờ vườn, rừng trăng, cánh đồng, bó lạt, lưỡi hái, cánh đồng, dòng sông,

đống dấm, ...); ( rau dền gai, rau sam tím, sên đen, đom đóm ma, con trâu, con

cua càng, con dế mèn..) thiên nhiên như một sinh quyển – thi quyển với số

lượng lớn, phổ khắp tràn đầy trong thơ Trần Hùng. Còn Nguyễn Thị Hải

Phương và Nguyễn Thị Linh Chi phân tích các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc

Thuần, nhận ra thế giới thiên nhiên như khu vườn, loài hoa cánh đồng, khu

rừng, dòng sông; con dế, con thằn lằn, con gà, con nhện...hiện lên trong truyện

Nguyễn Ngọc Thuần viết cho thiếu nhi; các tác giả tập trung vào cách nhà văn

tạo dựng thế giới trong lành, tươi mát, đầy sức sống; thiên nhiên là bạn với trẻ

thơ, trẻ nâng niu, bảo vệ tự nhiên. Và Phạm Mai Phương phân tích lời bài hát

của Trịnh Công Sơn, từ đó nhận ra một thế giới quan mà ở đó các hiện tượng

thiên nhiên như giọt sương, giọt mưa, nụ hoa đều có linh hồn và con người

muốn trở về với tự nhiên, với nguồn cội thuần khiết.

Có thể thấy rõ các học giả Việt Nam khám phá văn học Việt Nam từ góc

nhìn phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là cái nhìn có nguồn gốc sâu xa

từ sinh thái bề sâu (deep ecology), nó gắn liền với sự bảo vệ và bảo tồn thiên

nhiên. Các tác giả đề cao sự ổn định tĩnh tại của thiên nhiên và mối quan hệ

biện chứng của nó với con người; họ nhận ra và đề cao khái niệm mang tính

phổ quát toàn vũ trụ về thiên nhiên và tập trung vào các văn bản viết về thiên

nhiên, cây cối một cách hiển lộ.

1.2.2. Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở

Việt Nam

Phần này của chương sẽ nói về sự hiện diện của phê bình sinh thái trong

đời sống nghiên cứu văn học ở Việt Nam như là một biểu hiện của phê bình

sinh thái ở làn sóng thứ hai. Phê bình sinh thái tiếp tục ở làn sóng thứ hai có

một đặc trưng là rời xa châu Âu trung tâm luận, hướng tới khám phá văn bản

thuộc thế giới bên ngoài châu Âu; phê bình sinh thái trở thành một hướng tiếp

21

cận văn học phi phương Tây của các học giả phương Tây và ở ngoài phương

Tây. Một đặc trưng của phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai là việc hướng tới

các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử.

Cụ thể, ở Việt Nam, trước và sau khi Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái Tiếng

nói bản địa, Tiếng nói toàn cầu do Viện văn học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội

Việt Nam) tổ chức (tháng 12 năm 2017), một loạt các công trình phê bình sinh thái ở

Việt Nam xác định các mối bận tâm thuộc con người trong mối quan hệ với môi

trường sinh thái: đó là vấn đề môi trường đô thị và khu vực cận đô thị trong các văn

bản văn học thuộc tất cả các thể loại chứ không chỉ là văn học chuyên viết về thiên

nhiên và sự hoang dã. Các học giả Việt Nam không còn nhìn nhận con người và

thiên nhiên đối lập nhau mà cho rằng con người là một bộ phận trong chu trình thiên

nhiên, do đó, mọi sự biến đổi của đời sống con người sẽ tác động đến thiên nhiên.

Hàm ẩn trong những luận điểm mang tính phản biện và phân tích về môi trường của

các học giả Việt Nam qua các công trình, dường như là mối âu lo và nặng lòng về

vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên trước sự hủy hoại của thiên nhiên do tác động

của quá trình văn minh hóa.

Góp phần làm nên sự đồng vọng của phê bình sinh thái ở Việt Nam với làn

sóng thứ hai của phê bình sinh thái thế giới được thể hiện trong hội thảo và trên các

diễn đàn học thuật (báo, tạp chí) là nghiên cứu của Đặng Thị Thái Hà, Trần Thị Ánh

Nguyệt, Nguyễn Thùy Trang, Hỏa Diệu Thúy, Lê Thị Hường, Đinh Trí Dũng-Lê

Thanh Nga, Hoàng Tố Mai, Nguyễn Hương Thủy, Đỗ Hải Ninh với những khảo sát

văn xuôi Việt nam đương đại trong mối liên hệ với các vấn đề môi sinh, môi trường,

đất đai do quá trình phát triển Việt Nam theo hướng hiện đại hóa, văn minh hóa. Ví

dụ, Đặng Thị Thái Hà đã đọc tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn Ngọc Tư nêu lên luận điểm về sự thất bại của con người trước tự nhiên,

mặc dù con người luôn khát khao chinh phục, trong đó ở không gian thôn dã, người

nông dân chán ruộng đồng, chối bỏ chốn đồng quê, vì lợi ích trước mắt con người

phá hủy không gian làng mạc; sự phát triển đô thị và hiểm họa của quá trình đó đối

với môi trường sống; đô thị hóa gắn với ánh sáng, tiện nghi, vật chất nhưng nó gắn

với sự ngột ngạt, tù túng; điều này đối lập với không gian hoang dã, rừng núi mênh

mông, tự do, khoáng đạt.

22

Đặc biệt, bài viết Mơ hồ sinh thái và sự chất vấn những ảo tưởng du lịch

sinh thái trong văn xuôi đương đại – Trường hợp Nguyễn Ngọc Tư, 2017, Đặng

Thị Thái Hà đã từ lý thuyết mơ hồ sinh thái chỉ ra nghịch lý của việc say mê

thưởng ngoạn vẻ đẹp tự nhiên dẫn đến những hành động hủy diệt tàn phá hệ

sinh thái (phá rừng, xẻ núi); du lịch sinh thái tước đi vùng bờ biển của người

dân, trục xuất những người có số phận nhỏ bé ra khỏi không gian sống núi rừng

quen thuộc của họ, biến người dân bản địa thành những thứ kì lạ gây hiếu kì

cho khách...Như vậy, có một mâu thuẫn trong cách con người ứng xử với tự

nhiên hiện tại, nảy sinh sự hoài nghi về văn minh, phát triển, du lịch. Trần Thị

Ánh Nguyệt (2016, 2017) khảo sát văn xuôi Nam Bộ, tập trung vào nội dung về

sự mất cân bằng sinh thái vùng Nam Bộ (đất lở, núi lở, hạn hán, xâm ngập mặn,

nước nổi kéo dài...); cuộc sống hiện đại khiến người nông dân mất đi chỗ dựa

vào không gian sinh thái nơi đồng ruộng, họ trở nên bất an. Đinh Trí Dũng – Lê

Thanh Nga (2017) khảo sát tản văn Việt Nam đương đại, đọc ra sự phê phán

thực trạng hủy hoại tự nhiên, tàn phá môi trường, cảnh báo sự xuống cấp không

gian sống của con người, suy nghĩ đến những giải pháp với mong muốn giữ gìn

môi trường sinh thái. Hoàng Tố Mai phân tích tự truyện Cẩm Cù của Y Ban, chỉ

ra mạch ngầm sinh thái về vấn đề vệ sinh, phân bón hữu cơ, vô cơ và sự tác

động vào môi sinh và đưa ra các luận điểm về sự tác động xấu tới môi trường

của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả Lê Hương Thủy, khảo sát

các sáng tác của Đỗ Phấn, tập trung vào chủ đề đời sống đô thị bị ô nhiễm (ô

nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm khói bụi, cây xanh bị tàn phá, ô

nhiễm nguồn nước, săn bắt thú rừng, sát sinh,...), trong đó con người sống bức

bối, ngột ngạt trong nỗi bất an sinh thái và chỉ ra dự cảm và khát vọng về không

gian sống an lành. Các tác giả khác như Trịnh Đặng Nguyên Hương, Nguyễn

Diệu Linh, Nguyễn Hải Ninh v.v… đọc các tác phẩm văn học Việt Nam đương

đại (của Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Phấn, Hoàng A Sáng) trong sự liên hệ với những

tác động phá hủy của xã hội con người với thiên nhiên môi trường. Đó là hiện

tượng sông hạ nguồn bị xâm ngập mặn khiến thực vật bị tàn phá (rừng bần xác

xơ, thưa thớt), san lấp sông và sông bị sạt lở (nhiều người bị cuốn trôi bất thình

lình, thảm họa kinh hoàng, sông thượng nguồn thì rừng bị tàn phá, tuyệt chủng

23

tộc người; môi sinh bị tàn phá trước biến đổi khí hậu: mặt nước, rừng cây, động

thực vật, con người...cằn cỗi, xác xơ, tàn lụi, dạt trôi, tha hóa. Đó là sự đối lập

trong ý niệm về nơi chốn của các nhà văn Việt Nam hiện đại: ở rừng con người

sống bản năng, hoang dã; tự nhiên hùng vĩ, lộng lẫy, nguyên sơ trên cánh đồng,

rừng già. Cuộc sống mãn nguyện, sảng khoái. Nhưng môi trường sinh thái miền

rừng đang dần bị tàn phá. Ở Hà Nội, ánh trăng yếu ớt, cây cối còi cọc, động vật

bị bắt, nhốt, mất khả năng sinh tồn, cuộc sống đầy ắp xe cộ, khí thải, tiếng ồn.

Con người sống uể oải, mộng mị, cuốn theo đô thị hóa, công nghiệp hóa. Từ đó,

con người có tâm thức muốn chối bỏ đô thị, hướng về không gian hoang dã,

rừng núi mênh mông, tự do, khoáng đạt.

Có thể nói cuốn Phê bình sinh thái: Tiếng nói toàn cầu, tiếng nói bản địa

(2017) của Viện văn học, đã giới thiệu một cách hệ thống về phê bình sinh thái

(từ thuật ngữ, lịch sử phát triển cho đến các ứng dụng) với những mối bận tâm

về xã hội, chính trị, lịch sử. Bên cạnh đó, phải kể đến chuyên luận Rừng khô,

suối cạn, biển độc…và văn chương - phê bình sinh thái (2016, 2017) của tác giả

Nguyễn Thị Tịnh Thy và cuốn biên tập Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ

của Bùi Thanh Truyền (2018). Có thể nói đây là những công trình nghiên cứu

khoa học nghiêm túc, công phu có hệ thống, giới thiệu khá đầy đủ lý thuyết,

nguồn gốc, phát sinh, phát triển, sự khác nhau về các quan niệm, quan điểm của

phê bình sinh thái. Đồng thời các công trình này cũng có những thử nghiệm và

thực hành phê bình sinh thái trên một số tác phẩm tiêu biểu, từ đó đem đến cho

bạn đọc một cái nhìn vừa tổng thể vừa chi tiết từ lý thuyết đến thực hành phê

bình sinh thái.

Công trình điển hình cho xu hướng phê bình sinh thái ở Việt Nam này là

cuốn Rừng khô, suối cạn, biển độc … và văn chương (NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội 2017) của Nguyễn Thị Tịnh Thy. Đây là công trình nổi bật ở Việt Nam

cho xu hướng thứ hai của phê bình thái ở sự gắn bó của nó với các vấn đề thời

sự của đời sống xã hội, chính trị. Điều này hiển thị một cách chân thành và riết

róng ở lời mở đầu của cuốn sách, đó là khi tác giả viết: “Việt Nam là quốc gia

chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu. Ô nhiễm môi trường từ sinh hoạt

và sản xuất đã, đang và sẽ là vấn nạn, đại nạn đối với con người và vạn vật.

24

Rừng khô, suối cạn, biển nhiễm độc, cá chết, lũ lụt, hạn hán, vỡ đập, tràn

bùn…liên tục ập đến như những mối “họa vô đơn chí”. Vì thế, với động thái

trách nhiệm và lắng nghe trái đất, nghiên cứu văn học từ góc nhìn sinh thái học

chắc chắn không phải là “thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào”, cũng

không phải thương vay khóc mướn, mà là công việc cần làm, phải làm của

người trong cuộc, thể hiện sự hồi đáp của khoa học văn chương đối với tiếng

kêu cứu của môi trường sinh thái” [76,17]. Những điều “tâm sự” của nữ học giả

Nguyễn Thị Tịnh Thy với bạn đọc như là đồng vọng với lời gan ruột của Karen

Warren trong Triết học nữ quyền sinh thái: Cái nhìn phương Tây về định nghĩa

on what It is and why it matters; Lanham: Rowman&Littlefield Publishers,

và tại sao triết lí đó quan trọng (Ecofeminist philosophy: A Western perspective

Inc, 2000). Ngay mở đầu chương 1, trước khi bàn về mối liên hệ giữa các vấn

đề môi trường và vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề nữ quyền, tác giả viết “Cây,

rừng, và sự phá rừng. Nước, hạn hán, và sa mạc hóa. Sản xuất thực phẩm,

nghèo đói, và chất thải độc hại. Cuộc khủng hoảng về đa dạng sinh học, sinh

vật hoang dã, và sự ngược đãi động vật”[144]. Định nghĩa của Nguyễn Thị Tịnh

Thy về văn học sinh thái cũng cho thấy sự nhấn mạnh của tác giả đối với tinh

thần dấn thân xã hội của bộ phận văn học này: “Văn học sinh thái còn thể hiện

trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh thái, phê phán mặt trái của văn minh, phản

ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ tinh thần, nguy cơ tư tưởng và nguồn gốc xã

hội của các nguy cơ đó”[76,93].Với những băn khoăn về vấn đề xã hội, chính

trị của phê bình sinh thái, cả hai tác giả đều tham gia vào làn sóng thứ hai của

cách tiếp cận đối với văn học, văn hóa trên. Trong các bài tạp chí và các bài

tham luận tại các hội thảo như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – nhìn từ

lí thuyết phê bình sinh thái (Nghiên cứu văn học (898), số 1, 2015) và Khủng

hoảng môi trường và trách nhiệm của nhà văn; Đọc hiểu xanh về Thập giá giữa

rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê (Tạp chí khoa học - 385, Đại học sư phạm Huế,

số 8, 2016). Ở đây, Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra thực tế con người cưỡng đoạt,

tàn phá tự nhiên (rừng sâu nước thẳm, gió núi mưa ngàn, chim muông thú

hoang, vàng sa khoáng...), thiên nhiên cuồng nộ trừng phạt lại con người. Cuộc

chiến bảo vệ rừng xanh giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Mặt trái của văn minh đô

25

thị khiến tài nguyên rừng bị tàn phá, khai thác, tận diệt. Thiên nhiên hung dữ

trừng phạt con người. Trong bài viết Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng

cần khai thác của văn học Việt Nam (Tạp chí văn nghệ quân đội, số 10 năm

2014), Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra phê bình sinh thái còn là một sự “phản ứng

chậm”, các sáng tác và phê bình sinh thái nên trở thành một khuynh hướng gắn

bó thiết thực với đời sống văn chương và đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm

của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường. Các nhận định của nữ tác giả rõ ràng

là nằm trong sự chuyển hướng của phê bình sinh thái thế giới ở làn sóng thứ

hai, đó là sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, chính trị.

Công trình hệ thống tiếp theo thể hiện phê bình sinh thái ở Việt Nam cộng

hưởng với làn sóng thứ hai của phê bình sinh thái trên thế giới là cuốn Phê bình

sinh thái với văn xuôi Nam Bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên, NXB Văn hóa –

Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2018). Cuốn sách thể hiện một cách rõ nét

quan điểm “dấn thân” và “có trách nhiệm với xã hội” trong cách tiếp cận văn

chương từ góc độ phê bình sinh thái. Điều này thể hiện ở ngay định nghĩa về

phê bình sinh thái bao trùm cuốn sách này, đó là: “Phê bình sinh thái… là sự

lên tiếng của khoa học văn chương trước sự lâm nguy của môi trường, những

kết quả bước đầu của phê bình sinh thái là một minh chứng về sự nhạy cảm,

bản lĩnh, cái tâm và trách nhiệm công dân của người nghiên cứu đối với thực

trạng xã hội hôm nay” (trang bìa)[82]. Tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài

Phê bình sinh thái – khuynh hướng nhiều tiềm năng trong phê bình văn học Việt

Nam liệt kê một loạt các sự kiện lịch sử xã hội (chiến tranh, quá trình công

nghiệp hóa hiện đại hóa) như là những tác nhân gây nên sự hủy hoại về môi

trường, môi sinh ở Việt Nam. Điều đặc biệt là các sự kiện tác giả liệt kê là

những gì đang diễn ra, hay diễn ra gần đây và là những việc gây chú ý sâu rộng

với cộng đồng như sự kiện tê giác biến mất ở Việt Nam năm 2010, sự kiện voi

Tây Nguyên không có rừng để sống về tàn sát những cánh đồng, sự kiện sếu

đầu đỏ di cư hoàn toàn sang Campuchia, việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông

nghiệp đã tiêu hủy môi trường sống của thực vật, động vật.. tại các khu vực của

đất nước. Các tác giả khác như Bùi Thanh Truyền, Phạm Ngọc Lan nêu ra sự

thực về Nam Bộ với sự gánh chịu của cuộc biến đổi khí hậu toàn cầu, việc phá

26

rừng đầu nguồn, phá rừng phòng hộ do “lòng tham xé đáy” [82,156] của con

người. Như vậy, phê bình sinh thái với các học giả Việt Nam là một hành động

mang tính trách nhiệm xã hội của trí thức nước nhà trước các vấn đề môi trường

trong sự liên đới với các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử quốc gia.

Bài phát biểu đề dẫn cho hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói

toàn cầu, tiếng nói bản địa” của Nguyễn Đăng Điệp Thời đại khủng hoảng môi

trường và vai trò, vị thế của phê bình sinh thái cũng cho thấy một cách hàm ẩn

các vấn đề thuộc về chính trị, xã hội là động lực, cũng là mục tiêu của các

nghiên cứu và các sự kiện phê bình sinh thái ở Việt Nam. Lớp hiển lộ và được

cấu trúc có hệ thống trong bài viết này là những quan sát của nhà nghiên cứu về

sự ra đời, phát triển và những thành tựu của phê bình sinh thái. Cụ thể tác giả đi

vào phân tích bốn đặc trưng nổi bật của phê bình sinh thái: Thứ nhất, phê bình

sinh thái đề xuất tư tưởng lấy sinh thái là trung tâm thay thế tư tưởng coi con

người là trung tâm; Thứ hai, phê bình sinh thái kiếm tìm mối quan hệ giữa “văn

hóa” và “tự nhiên”; “văn minh” và “hoang dã”; Thứ ba, phê bình sinh thái có

hướng tiếp cận liên ngành; Thứ tư, phê bình sinh thái có đối tượng và phạm vi

nghiên cứu riêng. Lớp ý nghĩa đã được tác giả cấu trúc một cách tầng bậc trong

bài viết còn là những đánh giá chung của nhà nghiên cứu về sự phát triển của

văn học sinh thái và phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nhưng điều thú vị hơn là

những hàm ý về các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử trong cách tiếp cận các

phương diện sinh thái, môi trường trong văn học. Đó là khi tác giả khẳng định

hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu trong

việc đã tạo ra một diễn đàn khoa học để các nhà nghiên cứu trong và ngoài

nước bàn thảo, đối thoại làm sâu sắc hơn những vấn đề lí luận của phê bình sinh

thái, “phân tích và truy vấn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên”, “góp phần

làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, điều chỉnh những nhầm lẫn tai hại về môi

trường sinh thái, từ đó có những ứng xử phù hợp với tự nhiên, biết lắng nghe

tiếng nói của tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững” [18, 46]. Cách viết hàm

ẩn và kết luận của bài đề dẫn về sự hợp nhất tam vị nhất con người - xã hội - tự

nhiên như là nền tảng của xu hướng văn học sinh thái và phê bình sinh thái cho

thấy quan niệm nổi bật của phương Đông về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con

27

người là đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nói cách khác, những

khám phá và truy vấn về các phương diện môi trường, tự nhiên trong công trình

phê bình sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng là khẳng định lại quan điểm văn hóa

truyền thống của phương Đông (Nho giáo, Phật giáo) về mối quan hệ giữa con

người và thiên nhiên chứ không phải là nêu lên trách nhiệm của lịch sử, xã hội,

chính trị như là những tác nhân gây nên các vấn đề về môi trường, sinh thái.

Theo đó, các quan điểm Phật giáo đề xuất tư tưởng thiên nhân bất nhị (con

người và thế giới sinh tồn là một), hay quan điểm Nho giáo về con người và

thiên nhân hợp nhất, coi sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên là chuẩn mực

sống của nhân sinh thường được các nhà phê bình sinh thái Việt Nam đưa ra

(một cách trực tiếp hay gián tiếp) như là điểm tựa cho cách tiếp cận văn học

theo hướng phê bình sinh thái. Có thể thấy điều này trong bài viết Nghiên cứu

phê bình sinh thái hiện đại và di sản hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam

giáo (Bài viết in trong: Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong

bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học, 2014) của Trần Hải Yến;

bài viết Thiên nhiên hợp nhất, từ góc nhìn sinh thái (Phê bình sinh thái – tiếng

nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện Văn học) của

Phương Lựu, v.v... Cuốn sách do Bùi Thanh Truyền chủ biên, dù không nêu lên

một cách trực tiếp, nhưng những nhấn mạnh trong lời đề tựa như “trên cơ sở

phân tích, đánh giá bước đầu văn xuôi Nam Bộ từ góc nhìn phê bình sinh thái,

cuốn sách Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ sẽ góp phần làm sáng tỏ

thêm mối quan hệ hài hòa giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội trên

tinh thần nhân văn hiện đại vì sự phát triển bền vững của vùng đất phương Nam

hiện tại và tương lai” hay “văn học vùng đất này đã góp phần kiến dựng triết lý

tân tự nhiên của thế kỷ XXI: con người là một phần của tự nhiên vì thế phải biết

sống bình đẳng, tế nhị, hòa điệu với tự nhiên hơn là vô cảm, phá phách hoặc tìm

mọi cách để chiến thắng tự nhiên”, và đặc biệt những dòng thổn thức về thiên

nhiên “Chính trái tim biết thổn thức vì môi sinh đã giúp người viết cảm nhận

những cung bậc trầm lắng của cuộc đời. Đó là những con người đang nhẫn nại

góp phần giữ sạch môi trường sống, cả trên phương tiện vật chất lẫn tinh thần.

Từ đây, con người có thể tìm lại sợi dây thiêng liêng kết nối với tự nhiên để dệt

28

hy vọng, giấc mơ bay đến tương lai bằng tình yêu thiên nhiên và trách nhiệm

đối với chính môi trường sống của mình “âm vọng diễn ngôn của triết học

phương Đông về mối quan hệ hợp nhất con người và tự nhiên”[82].

Như vậy, phê bình sinh thái ở Việt Nam mặc dù phản ánh sự phát triển của

phê bình sinh thái thế giới qua những giai đoạn khác nhau (từ xu hướng gắn với

các văn bản thiên nhiên đến việc xem xét các vấn đề chính trị, xã hội đặc trưng

như chiến tranh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa) nhưng vẫn có những nét riêng

khi hướng đến quan điểm truyền thống về mối quan hệ hợp nhất con người - tự

nhiên. Điều này làm nên đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong sự

tương quan với phê bình sinh thái ở một số nước khác trong khu vực. Ví dụ, ở Thái

Lan, như khảo sát của John Ryan (với cách lập bảng khảo sát tương tự) chỉ ra sự

phân tích vấn đề môi trường trong các tác phẩm văn học thường được giới hạn

trong những thảo luận về chủ nghĩa khu vực, lịch sử và tôn giáo. Trong khi đó, ở

Ấn Độ, như thống kê (với bản khảo sát tương tự) của Rayson K. Alex, đã có một

số nghiên cứu về nữ quyền sinh thái và có sự nhấn mạnh vào sự cần thiết của cách

tiếp cận sinh thái hậu thuộc địa. Nhìn chung, phong trào có tổ chức về phê bình

sinh thái bắt đầu vào năm 2004 ở Ấn Độ đã chứng kiến một sự chuyển động theo

cấu trúc xã hội - chính trị - văn hóa - tôn giáo tìm ra ảnh hưởng của phê bình sinh

thái đến cấu trúc sinh thái của cộng đồng bản địa.

Điều này cho thấy phê bình sinh thái có khả năng cao được phát triển hơn

nữa trong nghiên cứu văn học Việt Nam. Sự cần thiết về các nghiên cứu phê bình

sinh thái ở Việt Nam càng được nhấn mạnh do sự nhận thức của cộng đồng trước

những thay đổi môi trường đặc biệt liên quan đến ô nhiễm không khí, vệ sinh thực

phẩm, sự phá hủy hệ thống thủy sinh và lâm sinh. Những công trình phê bình sinh

thái rất cần thiết với bộ phận văn học hiện đại Việt Nam (giai đoạn 1930-1945),

đặc biệt với bộ phận thơ. Điều đó là vì hiện tại bộ phận văn học này chưa trở thành

đối tượng của nhiều nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam. Như bảng 2 chỉ ra,

hiện chỉ có hai bài viết về Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái (của tác giả

Nguyễn Đăng Điệp và Nguyễn Thị Minh Thương). Việc khám phá bộ phận văn

học ra đời trong bối cảnh Việt Nam có những tiếp xúc về văn hóa và kinh tế với

phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ đem lại những lí giải và những tiếng nói mới về

29

lí thuyết cho phê bình sinh thái. Tóm lại, phê bình sinh thái hứa hẹn nhiều tiềm

năng phát triển trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam.

Tiểu kết

Chương này của luận án khảo sát và phân tích lí thuyết phê bình sinh thái đã

được tiếp nhận và vận dụng trong việc nghiên cứu văn học nói chung và Thơ mới

nói riêng ở Việt Nam. Luận án đặt diện mạo và sự phát triển của phê bình sinh

thái ở Việt Nam trong dòng chảy của phê bình sinh thái thế giới trên cả hai

phương diện lí thuyết và ứng dụng. Nói cách khác, luận án không liệt kê và tóm

tắt các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam một cách riêng biệt và tràn lan

mà phân tích và khảo sát chúng theo một định hướng và phương pháp nhất định.

Cụ thể, chúng tôi đặt các sự kiện, các công trình, các xu hướng tiếp nhận và

nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với sự phát triển

và diện mạo của phê bình sinh thái trên thế giới, nhằm chỉ ra các dấu mốc, các xu

hướng của phê bình sinh thái trong nước đang nằm ở đâu và có mối tương quan

gì với phê bình sinh thái trên thế giới. Mục tiêu của chương cũng để chỉ ra sự kế

tục và khác biệt của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với Phê

bình sinh thái trên thế giới. Luận điểm chính của chương đã xem phê bình sinh

thái ở Việt Nam như một biểu hiện các hướng phát triển của lí thuyết phê bình

sinh thái trên toàn cầu; đồng thời, phê bình sinh thái trong nước có đặc trưng

riêng là gắn với vấn đề xã hội, lịch sử, chính trị của Việt Nam hiện đại. Phần lớn

tiêu đề của các phần trong chương nhằm cố gắng thể hiện mối liên quan của phê

bình sinh thái ở quốc gia với phê bình sinh thái thế giới (sẽ được trình bày ở

Chương 2). Bằng cách này, người viết hi vọng phần tổng quan về phê bình sinh

thái ở Việt Nam sẽ là một đóng góp cho những tổng kết về mặt lí luận đối với

hướng tiếp cận văn học từ sinh thái và môi trường, tức phê bình sinh thái.

30

Chƣơng 2

PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN VĂN HỌC

2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học

2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái

Những bàn luận mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái phát triển về sau

chủ yếu dựa vào nội dung của phê bình sinh thái cổ điển, đó là việc đặt thiên

nhiên như là hệ quy chiếu trung tâm trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Thể

hiện rõ nhất cho điều này là khi các nhà lí thuyết về phê bình sinh thái chỉ ra các

tiền đề triết học của hướng tiếp cận văn học và trước hết là các tư tưởng triết

học của Phương Tây. Trung tâm của phê bình sinh thái như đã nói đặt ra vấn đề

quan hệ giữa con người với tự nhiên, kêu gọi tôn trọng tự nhiên. Nhưng con

người dù muốn hay không muốn vẫn phải khai thác thế giới tự nhiên để đảm

bảo sự sinh tồn của mình. Khai thác tự nhiên để phục vụ lợi ích của loài người

đã diễn ra từ thời tiền sử. Đến thời hiện đại hóa, công nghiệp hóa, và đặc biệt

trong thời đại Ánh Sáng với tư tưởng của Descartes “Tôi tư duy tức là tôi tồn

tại” cùng chủ nghĩa duy lý ra đời đã khiến con người ảo tưởng và kiêu ngạo về

sức mạnh của mình. Vì vậy mà con người cho mình cái quyền được thống trị tự

nhiên, tước đoạt tự nhiên và thiết lập tư tưởng con người là trung tâm. Hệ lụy

của sự khai thác tự nhiên vô độ phục vụ cho nhu cầu của con người đã dẫn đến

những hiểm họa về suy thoái môi trường và ô nhiễm sinh quyển một cách

nghiêm trọng. Trong guồng quay hối hả tận diệt tự nhiên, con người rất cần

phải dừng lại, nhìn nhận lại sự sai lầm của chính mình, rất cần phải lên tiếng để

cảnh báo nguy cơ sinh thái, cảnh tỉnh nhân loại hãy tôn trọng tự nhiên và bảo vệ

tự nhiên vì đó cũng là cách để bảo vệ sự sống của loài người. Ở bối cảnh này,

nhiều học thuyết của các triết gia Phương Tây đã ra đời làm nền tảng triết học

cho sự hình thành của phê bình sinh thái.

Tiền đề thứ nhất - Ý thức sinh thái (Ecological consciousness): Ý thức

sinh thái, xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XX, đây được xem là một bước phát

triển của tư tưởng nhân loại về việc nhìn nhận mối quan hệ giữa con người với

31

tự nhiên. Nếu như sinh thái học cho rằng mọi sinh vật trong tự nhiên đều có mối

quan hệ mật thiết với nhau trong đó có con người thì trên cơ sở ấy ý thức sinh

thái cũng khẳng định mọi sinh thể trong thế giới đều có mối quan hệ bình đẳng

với nhau. Đây là tư tưởng phản tư lại quan điểm cho rằng con người là trung

tâm. Bởi lẽ con người cũng là một thực thể trong vũ trụ bao la. Trong thế giới

đó, nhiều cá thể liên quan mật thiết với nhau mà con người cũng không thể tách

mình ra khỏi mối quan hệ này. Đi ngược lại quy luật là phá vỡ chỉnh thể của sự

phát triển tự nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc tìm đến con đường hủy diệt,

suy vong. Chính vì thế cần tạo ra sự phát triển hài hòa giữa con người và tự

nhiên, con người tôn trọng tự nhiên và bảo vệ tự nhiên chính là cội nguồn của ý

thức sinh thái. Và đó cũng là tư tưởng tiến bộ mà phê bình sinh thái tìm kiếm

trong các tác phẩm văn học sinh thái.

Tiền đề thứ hai - Triết học sinh thái (Ecological philosophy): Arne Naess

tác giả sinh thái học bề sâu và triết gia hậu Marxit – Félix Guattari được xem là

người khởi sướng thuật ngữ này. Theo quan điểm đó thì chỉ có một thế giới duy

nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan và độc lập với ý thức con người.

Con người là một phần của thế giới vật chất, các hoạt động sinh tồn của con

người liên quan chặt chẽ với môi trường xung quanh mình. Từ khi xuất hiện

cho đến nay thì con người luôn có khát vọng chinh phục và chế ngự tự nhiên.

Nhiều hoạt động của con người đã tác động vào tự nhiên nhưng sự lạm dụng

quá mức cũng sẽ dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái thậm chí tự nhiên còn

có thể quay trở lại “trả thù” con người. Ph.Ăngghen từng viết “Chúng ta hoàn

toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân

tộc khác,…chúng ta nằm trong lòng tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta

đối với giới tự nhiên là ở chỗ, chúng ta khác với tất cả các sinh vật khác là

chúng ta nhận thức được các quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được

những quy luật đó một cách chính xác”[dẫn theo 81;19]. Trên cơ sở đó triết học

sinh thái đã chỉ ra con người là một phần của vũ trụ và không thể tồn tại độc lập

được. Con người cần tôn trọng sự phát triển bình đẳng của mọi sinh mệnh trong

chỉnh thể tự nhiên. Triết học sinh thái đề cao quan điểm con người và tự nhiên

phát triển hài hòa.

32

Tiền đề thứ ba, một tiền đề được nhà lí thuyết phê bình sinh thái Lawrence

Buell tập trung phân tích kĩ trong bài nghiên cứu “Phê bình sinh thái, những xu

hướng đang xuất hiện” [97; 87-115], là Sinh thái học bề sâu(Deep ecology):

Buell cho rằng, đây là một khái niệm được Arne Naess nhà triết học nổi tiếng

người Na Uy khởi xướng vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Sinh thái

học bề sâu ra đời đã “phê phán” lại quan niệm của sinh thái học truyền thống

hay còn gọi là sinh thái học bề mặt (Shallow ecology). Trong quan niệm của

sinh thái học bề mặt thì thiên nhiên và môi trường, sự sống chỉ có giá trị như

công cụ cung cấp và phục vụ những lợi ích cho con người. Từ cái nhìn đó mà

con người sẽ có thái độ cư xử với thiên nhiên sao cho thiên nhiên có thể đem lại

nhiều lợi ích nhất cho con người. Như vậy, bảo vệ môi trường hay thiên nhiên

chính là để cho đời sống con người tốt hơn chứ không phải là vì bản thân môi

trường tự nhiên. Có nghĩa là con người là trung tâm của thế giới, con người lấy

sức mạnh của mình để khai thác tự nhiên phục vụ cho sự phát triển của quốc gia

mình thêm giàu mạnh. Trái ngược với quan niệm trên, Sinh thái học bề sâu mà

cha đẻ là nhà triết học Arne Naess đã chỉ ra, con người không phải là trung tâm

của vũ trụ, mọi sinh vật trong sinh quyển đều có hình thức sống như con

người,vì thế đều có giá trị nội tại và có quyền tự bảo vệ sự sinh tồn của mình:

“mọi sinh vật, dù là người, động vật hay thực vật đều có quyền sinh sống bình

đẳng và nở hoa”[dẫn theo 24;107]. Sinh thái học bề sâu nhấn mạnh sự bình

đẳng của muôn loài trong chỉnh thể sinh thái. Nghĩa là mọi sinh vật kể cả con

người đều có giá trị nội tại và có quyền được phát triển như nhau. Ở đây không

có sự phân biệt loài nào cao hơn, loài nào thấp hơn cũng như loài nào quan

trọng hơn và loài nào không quan trọng bằng. Như thế, thì theo quan điểm này,

con người không phải là trung tâm, quyền lợi con người không phải là mục đích

tối cao để chi phối các hoạt động khác. Con người cũng chỉ là một sinh vật

sống, một bộ phận trong chỉnh thể sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Cho nên cần tôn trọng sự phát triển của chỉnh thể mà không thể tự ý phá vỡ nó

bởi lẽ sự phát triển của con người và các loài sinh vật khác đều góp phần vào

việc tạo dựng những giá trị nội tại, sự đa dạng của các hình thức sống khác

nhau trong sinh quyển đóng góp vào quá trình thực hiện những giá trị nội tại

33

đó. Tóm lại, sinh thái học bề sâu lên tiếng bảo vệ tự nhiên, đòi quyền lợi cho tự

nhiên vì chính tự nhiên chứ không phải vì mục đích bảo vệ tự nhiên để mang lại

lợi ích nhiều hơn cho con người. Sinh thái học bề sâu đề cao tư tưởng bình đẳng

sinh thái trung tâm phủ nhận quan điểm con người là trung tâm. “Sinh thái học

chiều sâu chỉ việc đào sâu tư tưởng lý luận sinh thái để dò tìm những vấn đề

mang tính căn bản của sinh thái. Sinh thái học chiều sâu quan sát nguy cơ

nghiêm trọng của môi trường hiện tại, phê phán “độ nông” (Shallow ecology)

trong tư tưởng sinh thái học truyền thống, đồng thời trả lời cho câu hỏi nhân

loại sẽ đi về đâu”[24;106].

Tiền đề thứ tư - Luân lí học trái đất (The land ethic): Đây là học thuyết do

Aldo Leopoid đề xuất trong tác phẩm Niên giám xứ cát (A sand country Almanac).

Ở đây ông cho rằng thế giới tự nhiên hay trái đất có tên gọi là “cộng đồng trái đất”.

Trong quan niệm của mình Aldo Leopoid nhấn mạnh: “Cộng đồng trái đất” của

chúng ta là một thể thống nhất trong đó các yếu tố như động vật, thực vật hay

nước, không khí, đất đai và ngay cả con người đều góp phần tạo nên một chỉnh thể

hoàn chỉnh, ổn định của hệ thống sinh thái. Khi chỉnh thể sinh thái hoàn chỉnh

không bị chia tách, phá vỡ sẽ tạo nên vẻ đẹp sinh thái và đó là tư tưởng tiến bộ của

luân lí học trái đất hướng tới. Bởi lẽ, vẻ đẹp sinh thái là nguyên tắc luân lý và tiêu

chuẩn của thiện và ác. Theo ông “Khi một sự vật có ích cho việc giữ gìn vẻ đẹp, sự

ổn định, hài hòa của thể chung của sinh vật, thì nó là chính xác, và nó là sai lầm

khi đi ngược lại” [dẫn theo 27; 40]. Chính vì thế con người cần phải tôn trọng tính

chỉnh thể này để bảo vệ trái đất, bảo vệ tự nhiên.

Tiền đề thứ năm - Thuyết giải phóng động vật (Animal liberation theory).

Một giả thiết đặt ra nếu một ngày kia trên hành tinh của chúng ta xuất hiện một

loài sinh vật thông minh hơn hẳn con người và chúng cũng tàn sát, ăn thịt con

người thì loài người chúng ta sẽ kêu gào đau đớn ra sao? Lúc ấy ai sẽ lắng nghe

tiếng kêu cứu của chúng ta? Như thế, cũng rất có thể những loài động vật con

người đang ăn thịt cũng sẽ vang lên những tiếng kêu bi thương như vậy. Và đó

cũng là nền móng để Peter Singger giáo sư của trường đại học Princeton khởi

xướng ra thuyết giải phóng động vật. Năm 1975 với cuốn sách có tên Animal

Liberation (Giải phóng động vật) của Peter Singger đã gây được tiếng vang lớn

34

và trở thành cuốn sách bán chạy nhất lúc bấy giờ. Trong quan niệm của mình

ông đề cao sự bình đẳng của động vật với con người. Cùng với nhiều nghiên

cứu khác ông chỉ ra động vật cũng có thế giới nội tâm và có cảm xúc, chúng

cũng cảm thấy vui sướng, đau đớn, buồn bã, hờn giận, sợ hãi,..và chúng thông

minh hơn con người tưởng. Song điều quan trọng là động vật biết đau đớn khi

con người sát hại chúng. Như thế, động vật cũng là những sinh linh có linh hồn.

Cho nên giết hại động vật chẳng khác nào giết chết con người. Cần đối xử bình

đẳng và tôn trọng động vật. Ông khẳng định nếu con người cần có nhiều

phương thức khác nhau để tồn tại sự sống thì một trong những cách thức con

người cần phải thay đổi, dừng lại ngay là không gây thiệt hại cho động vật. Và

hành động thiết thực mà ông kêu gọi là hãy ăn chay. Thuyết giải phóng động

vật của Peter Singger đã góp phần thức tỉnh đạo đức của con người trong cách

cư xử với động vật. Kêu gọi con người yêu động vật, bảo vệ động vật và chính

là yêu môi trường sống xung quanh ta.

Tiền đề thứ sáu - Tư tưởng sinh thái học chủ nghĩa Marx và Engels: Marx

và Engels đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh nguy cơ phá hủy môi trường của chủ

nghĩa tư bản. Theo hai ông, thì chủ nghĩa tư bản và tự nhiên có sự mâu thuẫn

với nhau. Phương thức sản xuất tư bản đã lợi dụng sự phát triển vượt bậc của

khoa học kỹ thuật để khai thác, bóc lột, tận diệt tự nhiên phục vụ cho sự phát

triển của mình. Trong cuốn Phép biện chứng tự nhiên, Engels cho rằng giữa con

người và tự nhiên có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Song cần hạn chế sự

chiếm đoạt và thống trị của con người với tự nhiên. Ông cũng khẳng định một

cách biện chứng: con người luôn muốn khẳng định sức mạnh của mình và

muốn chinh phục tự nhiên nhưng muôn đời con người không bao giờ có thể

chiến thắng được tự nhiên hùng vĩ. Nếu con người càng cố gắng tận diệt tự

nhiên, khai thác để phục vụ cho lợi ích của mình thì đến một ngày tự nhiên sẽ

quay trở lại trừng phạt con người. Chính vì thế, con người không nên tìm cách

chống lại tự nhiên, coi tự nhiên là kẻ thù mà hãy sống hài hòa và tôn trọng quy

luật của tự nhiên.

Từ các nền tảng triết học trên, có thể nhận ra một luận điểm chung rằng

phê bình sinh thái, với việc đặt thiên nhiên hay sinh thái ở điểm quy chiếu trung

35

tâm trong nghiên cứu văn học, dựa trên tư duy mang tính kiểu thân rễ (rhizomic

thought) mà Gilles Deleuze và Félix Guattari phát triển trong công trình Chủ

nghĩa tư bản và Tâm thần phân liệt (Capitalism and Schizophrenia, 1972–

1980). Một bộ rễ chùm như miêu tả của Deleuze và Guattari không có điểm mở

đầu và không có điểm kết thúc, nó luôn luôn ở trung điểm, ở giữa mọi thứ, tồn

tại cùng nhau; cấu trúc rễ chùm là liên kết với nhau. Tương tự, tư duy theo kiểu

thân rễ chỉ một mạng lưới không có trật tự trên dưới, nó lan tỏa, không có điểm

cuối và không có nguồn gốc; thân rễ là kết nối với nhau, liên hợp với nhau, mở

rộng ra vô cùng và luôn trong quá trình hình thành. Nói cách khác, thân rễ được

hiểu như là một hệ thống phi trung tâm, không có trật tự cao thấp, nó hoạt động

bởi sự đa dạng hóa và sự liên kết. Tinh thần thân rễ của phê bình sinh thái thể

hiện ở chỗ các nhà sinh thái học cũng xóa bỏ mối quan hệ thứ tự, chia cắt, cố

định giữa con người và tự nhiên; thay vào đó, phê bình sinh thái đưa lại mô

hình liên kết, tương tác lẫn nhau và mang tính tạo sinh giữa con người và thế

giới tự nhiên [102].

2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối”

Các nhà phê bình sinh thái thường kể hai câu chuyện mang tính tưởng

tượng nhằm ngầm khẳng định về vai trò của văn học viết về thiên nhiên trong

sự định hình hướng tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Theo đó, một

cuốn sách tuyển chọn các tác phẩm kinh điển viết về thiên nhiên của Mỹ bị một

nhà xuất bản từ chối với nhận xét là “những câu chuyện này có cây cối ở trong

chúng”. Nhà xuất bản đã định vị mình là đang ở New York, từ chối những câu

chuyện đó bởi vì chúng có tính phương Tây và chúng có thiên nhiên ở trong

chúng. Một câu chuyện khác có một cốt truyện ngược lại, là tất cả các chuyện

kể đã được xuất bản hay ở dưới dạng bản thảo là có cây cối ở trong ấy bởi vì

chúng được làm từ thiên nhiên: thiên nhiên luôn luôn với chúng ta ở tại ngôi

nhà. Câu chuyện này cho thấy phương pháp tiếp cận cổ điển của phê bình sinh

thái là nói về văn học “cứ như là văn học có cây cối ở trong nó” [98,9-36]. Qua

đó, chúng ta thấy được điều gì về phương pháp tiếp cận văn học từ góc độ phê

bình sinh thái từ câu chuyện trên?

36

Câu chuyện trên cho thấy, phê bình sinh thái là “cách tiếp cận lấy trái đất

làm trung tâm trong nghiên cứu văn học”[111]. Đây là định nghĩa mang tính

tuyên ngôn của phê bình sinh thái, nó xác định đặc trưng của phê bình sinh thái

trong tương quan với các hướng nghiên cứu văn học khác. Tuyên ngôn này

được Cheryll Glotfelty nêu trong lời mở đầu của cuốn được gọi là sách giáo

khoa về phê bình sinh thái đó là Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu

mốc trong sinh thái văn học (The ecocriticism reader: Landmarks in lterary

ecology, Athens and London: University of Georgia, 1996) do Cheryll Glotfelty

và Harold Fromm biên tập.

Trong thực tế, phê bình sinh thái (ecocriticism), một hướng tiếp cận văn

học trong mối quan hệ với các vấn đề môi trường, sinh thái, được manh nha từ

những năm 60 ở Anh, Mỹ và phát triển rầm rộ từ những năm 90 của thế kỉ XX,

không chỉ ở phương Tây mà còn ở nhiều nước còn lại trên thế giới. Như vậy,

trước Glotfelty và nhóm tác giả của cuốn “sách giáo khoa”, các nhà nghiên cứu

văn học đã nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của văn học trong mối liên

hệ với môi trường sinh thái; sự khác nhau này phản ánh sự vận động, mở rộng

về nội dung của phê bình sinh thái.

Cụ thể, năm 1972, Joseph W Meeker, trong công trình Hài kịch sống sót:

nghiên cứu sinh thái văn học (The comedy of survival: Studies in literary ecology,

New York: Scribner's, 1972), đã kết nối nghiên cứu văn học và nghiên cứu môi

trường như là một lĩnh vực tìm hiểu khi ông phân tích hài kịch và bi kịch như là

những khái niệm sinh thái.Với khái niệm “sinh thái học văn học” (literary ecology)

[122,7], nhà học giả thuộc chuyên ngành văn học so sánh và dân tộc học này được

coi là người mở đầu những thảo luận phê bình về phê bình sinh thái. Trong khi đó,

William Rueckert được coi là người đưa lại thuật ngữ “ecocricitism” với bài viết

Văn học và sinh thái: Một thử nghiệm về phê bình sinh thái xuất bản năm 1978

(Literature and ecology: An experiment in ecocriticism" Iowa Review 9.1 (1978):

71-86). Rueckert cho rằng trong thế giới sinh thái, “cái lỗi lầm mang tính bi kịch của

con người là cái nhìn lấy con người làm trung tâm và sự thôi thúc phải thống trị,

nhân hóa và thuần phục hóa, xâm phạm và bóc lột mọi thứ thuộc về tự nhiên”

[132,113]. Ông dùng thuật ngữ “phê bình sinh thái” để chỉ cách thức tìm hiểu những

37

nền tảng giúp thế giới con người và thế giới tự nhiên có thể cùng tồn tại, kết hợp và

phát triển trong bầu sinh quyển. Đúng hơn, Rueckert dùng thuật ngữ “ecocriticism”

như là một cách phân tích văn học hướng về môi trường “environmentally minded

literray analysis” nhằm khám phá “điều gì đó về sinh thái văn học” [132,71]. Năm

1996, bài viết Đánh giá lại thiên nhiên: Về một cách phê bình sinh thái (Revaluating

nature: Toward an ecological criticism) của Glen Love khẳng định rằng “nghiên

cứu văn học, phải gắn với khủng hoảng môi trường hơn là không có phản ứng gì

với nó và văn học nên chuyển sự chú ý tới ý thức về cá thể” (ego-consciousness)

sang “ý thức về sinh thái” (eco-consciousness) [121, 201-215].

Sự bùng nổ của phê bình sinh thái như là một cách tiếp cận văn học và văn

hóa xảy ra vào những năm cuối của thập kỉ 90 thế kỉ XX. Sự bùng nổ này được

khởi đầu bằng công trình Sự tưởng tượng về môi trường: Thoreau, Văn học tự

nhiên và sự tọa thành văn hóa Mỹ xuất bản năm 1995 của Lawrence Buell (The

environmental imagination: Thoreau, nature writing, and the formation of

American culture. Cambridge, MA and London, England: Harvard University

Press) và công trình Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu mốc trong

sinh thái văn học (The Ecocriticism reader: Landmarks in literary ecology,

Athens and London: University of Georgia, 1996) xuất bản năm 1996 do Cheryll

Glotfelty và Harold Fromm biên tập. Nếu như cuốn của Buell chỉ ra các phương

diện cơ bản của phê bình sinh thái Hoa Kì trên cơ sở phân tích văn học viết về

thiên nhiên của Henry David Thoreau thì cuốn của Fromm và Glotfelty bao gồm

các bài viết được coi là những phân tích toàn diện đầu tiên về phê bình sinh thái.

Cho đến nay, định nghĩa về phê bình sinh thái của chủ biên cuốn Sách

giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu mốc trong sinh thái văn học, Cheryll

Glotfelty, vẫn được coi là kinh điển. Cái nhìn về phê bình sinh thái của

Glotfelty, theo đánh giá của nhà lí thuyết phê bình sinh thái Michael P. Cohen,

rộng hơn với cách định nghĩa đặt nền tảng của William Rueckert và Joseph

Meeker - những người coi phương pháp của phê bình sinh thái có nguồn gốc từ

khoa học về sinh thái và khoa học về sự tiến hóa của con người khi cho rằng

phê bình sinh thái là sự áp dụng các khái niệm mang tính sinh thái và sinh thái

học vào nghiên cứu văn học. Vì vậy, các nhà phê bình sinh thái phải đọc văn

38

học dựa trên hiểu biết của mình về những mô hình và các kết quả khoa học vốn

liên tục thay đổi.

Trong khi đó, đến thời của Glotfelty và Buell, phê bình sinh thái được hiểu

là một cách nghiên cứu các văn bản văn học trong sự quy chiếu với các vấn đề

của môi trường và của sinh thái. Cụ thể, Glofelty cho rằng, giống như phê bình

nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ phương diện ý thức về giới, phê bình

Marxist đưa ý thức về phương thức sản xuất v à giai cấp kinh tế vào việc đọc

các văn bản thì phê bình sinh thái “nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và

môi trường vật lí”, [111, xviii] đó là cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm

trong nghiên cứu văn học. Sự quy chiếu về các vấn đề của môi trường, sinh thái

hay chủ trương “lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học” của phê

bình sinh thái này được Glotfelty diễn đạt bằng nhiều hình thức khác nhau trong

lời mở đầu của cuốn tuyển tập như: “phê bình sinh thái lấy chủ đề của nó là mối

quan hệ qua lại giữa thiên nhiên và văn hóa, cụ thể là các vật thể văn hóa của

ngôn ngữ và văn học”, hay phê bình sinh thái “có một chân ở văn học và một

chân khác trên mặt đất” hay, phê bình sinh thái “đàm phán giữa con người và

thế giới không phải con người” [111, xix]. Có thể thấy, Glotfelty đã định hình

những cụm từ, những cách diễn đạt trở thành “câu cửa miệng” khi người ta nói

đến phê bình sinh thái, như “Phê bình sinh thái là khoa học nghiên cứu mối

quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên”, hay “nó làm hài hòa mối quan

hệ giữa nhân loại và thế giới phi nhân loại”, “phê bình sinh thái mang đến một

phương pháp nghiên cứu văn học lấy trái đất làm trung tâm”. Thế nhưng, để có

thể đọc văn bản văn học từ lăng kính của phê bình sinh thái, cần có những định

nghĩa mang tính diễn giải và chỉ dẫn cụ thể hơn.

Với Glotfelty, hướng tiếp cận của bà dường như tập trung vào xem xét

phương diện nội dung và cách thức xây dựng tác phẩm trong sự quy chiếu đến

thế giới vật lí (thiên nhiên, trái đất). Điều này thể hiện ở việc bà cho rằng,

nghiên cứu văn học theo hướng sinh thái trả lời các câu hỏi: “thiên nhiên được

thể hiện như thế nào trong tác phẩm này” [vấn đề được phản ánh]? “Vai trò của

bối cảnh vật lí trong cốt truyện tiểu thuyết là gì?” [vấn đề được phản ánh và

cách thức thể hiện], “Các giá trị được thể hiện trong tác phẩm có thống nhất và

39

hòa hợp với trí tuệ sinh thái?” [vấn đề giá trị, ý nghĩa của tác phẩm], “Các ẩn dụ

của chúng ta về đất đai đã ảnh hưởng thế nào lên cách thức chúng ta đối xử với

đất đai?” [nội dung được phản ánh], “Văn hóa đã ảnh hưởng đến mối quan hệ

của con người với thế giới tự nhiên như thế nào?” [nội dung được phản ánh],

hay “chúng ta có thể nêu ra đặc trưng thể loại của văn học viết về thiên nhiên

như thế nào?” [nội dung được phản ánh], “Nhận thức về cái hoang dại đã thay

đổi như thế nào qua thời gian?” [nội dung được phản ánh], “Phụ nữ viết về

thiên nhiên khác với đàn ông như thế nào?” [cách thức phản ánh]. Như vậy, với

Glotfelty, phê bình sinh thái là xem xét các vấn đề thiên nhiên được thể hiện

như thế nào hay thiên nhiên có vai trò gì đối với sự vận động về nội dung và

tính chỉnh thể về hình thức của tác phẩm. Bà so sánh phương pháp của phê bình

sinh thái với phương pháp của phê bình nữ quyền. Thứ nhất, nếu như phê bình

nữ quyền quan tâm tới những biểu đạt, tập trung vào việc phụ nữ được khắc họa

như thế nào trong văn học kinh điển thì các nhà phê bình sinh thái nghiên cứu

thiên nhiên được biểu đạt như thế nào trong văn học. Những khuôn mẫu về

thiên nhiên của tác phẩm được xem xét là “vườn Eden, vùng đất tinh khôi, khu

đầm lầy hay sự hoang dại man dã”. Và sự vắng mặt của thiên nhiên trong tác

phẩm cũng là một vấn đề quan trọng trong phê bình sinh thái: “thế giới thiên

nhiên ở đâu trong văn bản này” [111, xxiii]. Thứ hai, nếu như phê bình văn học

theo hướng nữ quyền luận xem xét văn học của phụ nữ có vai trò quan trọng

trong việc nâng cao ý thức phụ nữ khi nó khám phá lại, tái khẳng định và làm

sống lại văn học do phụ nữ viết thì phê bình sinh thái lại tìm hiểu thể loại văn

học viết về thiên nhiên vốn bị lãng quên. Thứ ba, phê bình sinh thái từ nữ quyền

luận dựa trên một loạt các lí thuyết để đưa ra những câu hỏi cho quá trình tạo

dựng về mặt biểu tượng của vấn đề giới và vấn đề tính dục trong diễn ngôn văn

học thì phê bình sinh thái xem xét quá trình tạo dựng về mặt biểu tượng của các

giống loài; diễn ngôn văn học đã định nghĩa con người trong sự đối lập thế giới

tự nhiên như thế nào. Glotfelty ví thiên nhiên như là “nhân vật [người hành

động] trong vở kịch” (actor in drama) chứ không phải là một phông nền cho vở

kịch đó. Và các học giả nghiên cứu văn học tìm hiểu mối quan hệ cho nhận

giữa con người và thiên nhiên (đất đai), xem xét thiên nhiên không chỉ như là

40

cái sân khấu mà trên đó câu chuyện về con người được diễn ra và thiên nhiên

còn như là một người hành động, một người tham gia vào vở kịch ấy [111, xxi].

Theo đó, với các nhà lí luận phê bình sinh thái kinh điển, trên cơ sở tập

trung vào “văn học viết về thiên nhiên” (nature writing), cụ thể là “văn học môi

trường” (environmental writing) nhằm chỉ ra “bản chất của sự biểu đạt về môi

trường” (nature of environmental representation), thao tác tiếp cận tác phẩm của

phê bình sinh thái là xem xét tác phẩm có quy chiếu về môi trường hay không?

Lawrence Buell đã cụ thể hóa hơn các bước của việc tìm hiểu sự quy chiếu về

môi trường của tác phẩm trong cuốn The environmental imagination

(Cambridge, Mass, and London: Harvard University Press, 1995) của mình. Bà

chỉ ra, các nhà phê bình sinh thái, thứ nhất, xem xét xem thế giới môi trường, tự

nhiên trong tác phẩm hiện lên như là một phương tiện, một khung nền hay là như

một nhân vật tác động đến số phận, tâm trạng con người, từ đó cho thấy số phận

con người gắn kết với diễn tiến của thế giới tự nhiên. Thứ hai, người nghiên cứu

văn học theo hướng phê bình cần tìm hiểu liệu trong tác phẩm văn học đó có coi

lợi ích con người phải luôn luôn là lợi ích hợp pháp không. Thứ ba, nhà phê bình

sinh thái tìm hiểu xem trách nhiệm của con người với môi trường có phải là một

phần trong giá trị đạo đức của tác phẩm. Thứ tư, nhà phê bình sinh thái tìm hiểu ý

thức về môi trường như là một quá trình chứ không phải là một sự bất biến hay

cái đã có, được hàm ẩn trong văn bản [94, 6-8]. Buell nhấn mạnh rằng, những

nguyên tắc này tập hợp thành một chỉ dẫn để tránh xu hướng lấy con người làm

trung tâm một cách vô tâm và thờ ơ. Miêu tả của Buell về các “văn bản môi

trường” chỉ ra các loại câu hỏi mà các nhà phê bình sinh thái muốn hỏi và được

coi như là gốc rễ của phê bình sinh thái. Việc chỉ ra các phương pháp kinh điển

của phê bình sinh thái như vậy là dựa trên chủ nghĩa lãng mạn Mỹ với tác phẩm

của Henry David Thoreau, John Muir, John Burroughs, Mary Austin, Aldo

Leopold, và Rachel Carson. Các nhà phê bình sinh thái cũng dựa vào phương

pháp đó để xem xét tác phẩm của William Bartram, John James Audubon,

Wallace Stegner, John McPhee, Edward Abbey, Gary Snyder, Annie Dillard,

Wendell Berry, Barry Lopez, và Terry Tempest Williams như là “những văn bản

môi trường”. Và việc lựa chọn các “văn bản môi trường” trên cơ sở xem xét các

41

câu hỏi trên, như nhận định của Cohen, tiếp tục là hạt nhân của các tổng tập về

“các tác giả văn học thiên nhiên Mỹ” [98, 9-36].

Như vậy, cả Glotfelty và Buell, những đại diện của các nhà lí luận phê

bình sinh thái cổ điển, đều khám phá văn học thiên nhiên giai đoạn đầu để đưa

ra những cách hiểu mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái. Nói cách khác, với

phê bình sinh thái cổ điển, các nhà phê bình sinh thái khám phá lại văn học giai

đoạn đầu, đọc lại các kinh điển từ “một điểm nhìn xanh” (green perspective).

Phê bình sinh thái được định nghĩa là công trình của những độc giả, “những

người thích leo núi;” phê bình sinh thái nắm bắt ngôn ngữ của Thoreau, đặc biệt

thứ ngôn ngữ được sáng tạo trong tác phẩm “đi bộ” để nói về thiên nhiên, về cái

hoang dã và về phía Tây. Như đánh giá của nhà lí luận về phê bình sinh thái

Dana Phillips, phê bình sinh thái cổ điển là sự kỉ niệm, chào đón, ngợi ca trong

học thuật về văn học [100]. Vì vậy, từ đây có thể xem phê bình sinh thái với tư

cách là “một phong trào tự ý thức” (self-conscious movement) vào đầu thập kỉ

90 của thế kỉ XX và trở nên phát triển phong phú trong suốt thập kỉ. Đó là một

dự án tư duy phê bình văn học theo hướng có những gắn kết nghiêm túc hơn

với thế giới tự nhiên không phải con người.

2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái

2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển

Sự xuất hiện của các công trình Chân lý của sinh thái: Tự nhiên, văn hóa

và văn học (The truth of ecology: Nature, culture, and literature in America.

Oxford: Oxford University Press, 2003) của Dana Phillips, Phê bình sinh thái

(Ecocriticism. New York: Routledge, 2012) của Greg Garrard, bài viết Nỗi

buồn trong màu xanh: Phê bình sinh thái dưới sự phê phán (Blues in the green:

Ecocriticism under critique (Environmental History, Vol. 9, No. 1 (Jan., 2004),

pp. 9-36) của Michael P. Cohen và cuộc bút chiến Estok-Robrisch cuối thập kỉ

đầu tiên của thế kỉ XXI đánh dấu bước chuyển về chính trị và lí thuyết của phê

bình sinh thái. Dana Philips, người đóng góp cho cuốn tuyển tập đầu tiên các

bài luận về phê bình sinh thái đã tiến hành một cuộc tấn công có thể nói là bạo

liệt vào phong trào phê bình sinh thái trong cuốn sách Chân lý của Sinh thái

học, xuất bản năm 2003. Một năm sau đó, như là một cách ngầm hưởng ứng,

42

Michael P. Cohen, cũng đưa lại lời phê bình của riêng mình trong bài luận được

đề cập ở trên. Greg Garrard, người từng là chủ tịch hội sinh thái Anh, với cuốn

Phê bình sinh thái, có một tổng quan mang tính phê bình về phê bình sinh thái

cổ điển. Cuốn phê bình sinh thái thứ ba của Lawrench Buell, Tương lai của phê

bình môi trường: Khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học (The future

of environmental Criticism : Environmental crisis and literary imagination

Malden, MA : Blackwell, Oxford ; Victoria. 2005) phân tích những mối lo ngại

về phương pháp của phê bình sinh thái cổ điển vốn chỉ dựa trên văn học viết về

thiên nhiên. Với các nhà lí thuyết phê bình sinh thái này, phê bình sinh thái

[nên, phải] được hiểu là một phản ứng trước vấn nạn môi trường đang bị khủng

hoảng trầm trọng, con người bị đe dọa trước sự tồn vong của chính mình với

những cảnh báo khi môi trường tự nhiên bị tàn phá và nguy cơ về sự tận diệt

của ổ sinh thái. Cũng vì vậy, mà khủng hoảng môi trường trở thành mối quan

tâm toàn cầu, buộc mọi quốc gia phải có sự liên kết lại với nhau để cùng tìm

phương thức giải quyết. Nhận thức được điều đó, dù là sự “thức tỉnh muộn

màng” nhiều ngành khoa học nói chung và văn học nói riêng đã và đang “chuộc

lỗi” với tự nhiên theo chính đặc thù của mình. Phê bình sinh thái [nên, phải]

được hiểu là nó ra đời như là một sự chuyển hướng kịp thời của nghiên cứu văn

học để tham gia vào những vấn đề nóng bỏng của nhân loại.

Cụ thể, Phillips tấn công phương pháp cổ điển của phê bình sinh thái – điều

mà Buell xác định là giai đoạn thứ nhất của phê bình sinh thái – vốn chỉ tập trung

vào văn học viết về thiên nhiên Mỹ, văn học về cái hoang dại, trải nghiệm cái hiển

linh cá nhân với những giả thiết của chủ nghĩa hiện thực đơn giản. Ông cho rằng

có quá nhiều sự mộ đạo đã được phép bao phủ lên thực hành phê bình sinh thái.

Phillips miêu tả các nhà phê bình sinh thái đã sử dụng những ẩn dụ lạc hậu từ sinh

thái học. Ông quan niệm các tu từ như “mạng lưới”, “kim tự tháp” và “hốc tường”

dùng để chỉ sự hài hòa, sự cân bằng và hòa đồng trong các khái niệm về “sự phát

triển đỉnh cao” hay sự đa đạng về giống loài, từ đó ông hướng độc giả đến lí thuyết

gần đây về sự bất ổn, sự cạnh tranh và hỗn loạn đang lấn át lí thuyết quyết định

luận hướng về cái hệ thống. Ông cũng khẳng định sự thật của sinh thái học là “sinh

thái học về sự phiền nhiễu từ tự nhiên”.

43

Đồng ý với quan điểm của Phillips, Cohen gọi giai đoạn này là “trường

phái tụng ca” trong phê bình sinh thái. Cả Cohen và Phillips đều đồng tình về

việc phê bình sinh thái cổ điển quá ngoan đạo do đó nó thất bại trong việc tạo ra

những sự phản biện nội bộ - điều cần thiết cho phát triển của chính xu hướng

trên. Cohen cho rằng, phê bình sinh thái, hiện diện về mặt tổ chức của nó là Hội

văn học và Môi trường thế giới (Association of literature and environment) cho

đến năm 1999 chủ yếu là tập trung vào sự hoang dại. Chính vì điều đó mà dẫn

đến khủng hoảng của Hội sinh thái thế giới vào năm 1999, khiến cho các học

giả của Hội phải nỗ lực tập trung không chỉ vào ngôn ngữ văn học vốn được tạo

dựng bởi văn hóa về cái hoang dại mà còn tập trung vào ngôn ngữ và diễn ngôn

đại chúng về các vấn đề môi trường vốn được xuất hiện trong các văn bản vụ

viện. Các nhà phê bình sinh thái phải tìm kiếm văn bản viết về tự nhiên trong

các tuyên bố về ảnh hưởng môi trường, bởi vì đó là nơi hầu hết những trang viết

thực sự về tự nhiên xuất hiện. Các nhà phê bình sinh thái phải tiến vào địa hạt

công cộng bằng cách khuyến khích và hỗ trợ việc viết cái thể loại văn học quan

trọng nhất, đó là thư cho một cơ quan chính phủ.

Cohen, với tư cách là một nhà lịch sử về phê bình sinh thái, tiết lộ rằng, một

hội kín được lập ra vào năm 1999 giữa các nhà phê bình sinh thái – những thành

viên của Hội văn học và môi trường – và hội này hướng đến sự đa dạng. Hội kín

đã soạn một bức thư gửi cho Ban điều hành của Hội văn học và Môi trường thế

giới nêu lên rằng “bằng chứng rõ ràng của sự phát triển quan tâm vào các vấn đề

công bằng môi trường và xã hội, vào mối liên quan lẫn nhau của chủng tộc, tầng

lớp, giới, tình dục và tự nhiên. Đã đến lúc mở rộng những nỗ lực này, phản ứng

với sự cần thiết đó, và vì thế, chúng ta thành lập một đại hội kín vì sự đa dạng”.

Như vậy, những người trình bày tại các hội thảo của Hội văn học và môi trường

nên là đại diện cho những quan điểm không chiếm ưu thế và các hội thảo đó cũng

xác định nhiều quan điểm đa dạng liên quan đến mối quan hệ liên đới của môi

trường với sự phân biệt của con người về chủng tộc, tầng lớp, giới và tình dục

cũng như xem xét xem thể loại hay văn bản thích hợp để khảo sát. Mối kết nối

giữa văn học môi trường và sự công bằng về môi trường thường bị che khuất hay

không được đánh giá cao bởi cả hai phía, đó là những nhà hoạt động, người gắn

44

kết với các chính sách và các phong trào môi trường và đấy là những học giả,

người quan tâm đến việc xây dựng lại các khái niệm về tự nhiên và xác định lại vai

trò của nghiên cứu văn học trong việc hình thành một sự cam kết mang tính phản

ứng với vấn đề môi trường. Các thành viên của Hội kín hi vọng rằng với sự đa

dạng về phương pháp – mở rộng ra các phương pháp của khoa học, múa, âm nhạc

và nghệ thuật trình diễn, các hội thảo của Hội văn học và Môi trường sẽ kết nối

chặt chẽ với các cộng đồng ở nơi mà hội thảo diễn ra, kết nối với các nhà môi

trường địa phương và các nhà hoạt động vì sự công bằng môi trường, mời họ tham

gia thiết kế và trình bày tại hội thảo.

Cùng nằm trong xu hướng phê bình đối với phương pháp tiếp cận văn học

của phê bình sinh thái cổ điển, Buell lưu ý rằng đó chính là phê bình sinh thái

Anh quốc, với công trình mở đầu là Nông thôn và thành phố (The country and

the city, 1973), đã có những sự hoài nghi về thực hành hướng về đồng quê trong

phê bình sinh thái và đã có thể triển khai một sự phản biện bằng cách hướng về

nền văn học đồng quê mang tính phức hợp hơn vốn được Leo Marx xác định

trong cuốn Cỗ máy ở trong vườn (The machine in the garden - 1964) một trong

những văn bản được coi là khởi nguồn của xu hướng phê bình sinh thái. Cuốn

sách khảo sát các vấn đề của quá trình tưởng tượng và sự biểu đạt về môi

trường; quan tâm đến quá trình tiếp nhận nơi chốn như là chiều kích nền tảng

của kinh nghiệm nghệ thuật, kinh nghiệm sống; tập trung phân tích những cam

kết về chính trị và đạo đức. Nhà lịch sử phê bình văn hóa này đã kêu gọi sự chú

ý vào sự phản ánh của văn học đối với những thời khắc lịch sử quan trọng bằng

cách giương cao quan điểm về sự phá hủy tự nhiên là do quá trình đô thị hóa và

chủ nghĩa tư bản công nghiệp.

Điểm đáng lưu ý nhất là Buell đem lại cho độc giả bản tổng kết và đánh

giá về phê bình sinh thái cổ điển với hiện trạng “bây giờ-gần đây”(near-now)

của phê bình sinh thái. Buell gọi phê bình sinh thái cổ điển, “một phong trào tự

ý thức” của thập kỉ cuối thế kỉ XX là làn sóng thứ nhất (“first wave”) của phê

bình sinh thái. Phê bình sinh thái cổ điển bắt đầu như là một hoạt động trong

phạm vi nghiên cứu văn học, đặc biệt là trong nghiên cứu văn học Anh - Mỹ

với hai thể loại: đó là chủ nghĩa lãng mạn Anh với sự tập trung đặc biệt vào thể

45

loại thơ và văn học thiên nhiên Mỹ nhất là các sáng tác theo kiểu Thoreuvian.

Theo đó, phê bình sinh thái giai đoạn đầu là một hướng tiếp cận trong phê bình văn

học, đấy là hướng nghiên cứu lấy thế giới không phải con người làm hệ quy chiếu.

Sự quy chiếu này diễn ra theo hai cách, như Buell tổng kết. Thứ nhất là cách thức

mang tính nhân văn, khi ấy con người và ý thức con người được cho là đặt trên

nền tảng cho quan hệ phụ thuộc gần gũi lẫn nhau với thế giới sinh vật không phải

con người. Buell cho rằng phê bình sinh thái cổ điển có mục tiêu là “chăm sóc trái

đất” (earthcare), phê bình sinh thái có một sự quan tâm đặc biệt đến mối gắn kết

giữa các cá thể người và thế giới không phải con người, đó là sự tiếp xúc mang

tính hiện sinh với môi trường và cách thức quy chiếu tới thế giới tự nhiên của phê

bình sinh thái cổ điển. Thứ hai là làm cho phê bình và lí thuyết văn học có được sự

cập nhật về mặt khoa học hơn, với những kết quả từ các ngành sinh thái học, sinh

học môi trường và địa chất học. Nỗ lực nhằm cộng gộp tư duy khoa học và tư duy

nhân văn có ảnh hưởng lâu dài nhất của làn sóng đầu trong phê bình sinh thái là

các công trình “về xu hướng vùng sinh học” (bioregionalism) – một kiểu tư duy

đan kết vào nhau những kết quả của sinh thái học, địa lí học, nhân chủng học, lịch

sử học, hiện tượng học và mĩ học nhằm đi đến khẳng định rằng sự trung thành

trước tiên của một con người như một công dân nên làm là trung thành với cái

vùng sinh học – hay vùng sinh thái – hơn là trung thành với quốc gia hay một đơn

vị mang tính pháp lí nào đó. Hiểu biết về sinh thái được xem như là một phương

diện tối quan trọng trong tư cách công dân.

2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái

Nếu như phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên đặc biệt nhấn mạnh vào các

không gian làng quê và không gian hoang dã hơn là không gian đô thị thì phê

bình sinh thái ở làn sóng thứ hai lại khẳng định rằng bức tường tách biệt giữa

các không gian đó là sản phẩm của lịch sử, rằng thiên nhiên là đối tượng do con

người định hình nên, và rằng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, phong cảnh

thành phố và môi trường được tạo dựng nói chung phải là một nền tảng cũng

năng sản không kém cho các công trình sinh thái. Theo Buell, đây là lí do vì sao

xu hướng vùng sinh học vẫn còn có ảnh hưởng; mặc dù hướng đến việc đem lại

giá trị đặc biệt cho các hệ thống sinh thái và các cộng đồng sinh vật trên một

46

nơi chốn có chiều kích nhỏ, nhưng nó thừa nhận ý nghĩa của môi trường ở các

đô thị là một phần của văn hóa và lịch sử vùng đó. Như vậy, với Buell, giai

đoạn hai của phê bình sinh thái mang tính tự phê bình, nó tìm cách mở rộng các

tư tưởng về “tự nhiên và môi trường” [96, 21-24]; phê bình theo môi trường bao

gồm cả môi trường “đô thị” và môi trường “được tạo dựng” có sự luồn xuyên

lẫn nhau giữa địa phương và toàn cầu. Mặc dù các nhà phê bình sinh thái vẫn

tiếp tục chú ý đến những biểu đạt về các không gian mở hơn là không gian

thành phố thì như dự đoán của Buell sự bất cân bằng này sẽ thay đổi; phê bình

sinh thái sẽ tiếp tục lí thuyết hóa các mạng lưới hay các môi trường của đô thị

như là một phần của thế giới trần tục.

Điều đáng chú ý nhất về phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai, bắt đầu từ

thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, đó là sự phản ứng lại cái được gọi là xu hướng lấy

sinh thái làm trung tâm (ecocentrism). Điều này xuất phát từ sự cộng hưởng của

phê bình sinh thái giai đoạn hai với thuyết môi trường. Nếu như phê bình sinh

thái giai đoạn đầu hưởng ứng thuyết môi trường theo xu hướng bảo tồn, đó là

hướng đến việc bảo vệ tự nhiên ở những khu vực xa xôi, ít người sinh sống thì

phê bình sinh thái giai đoạn hai gắn kết với thuyết môi trường theo xu hướng đi

cùng sức khỏe cộng đồng. Đó là việc hướng đến phong cảnh cùng sự chuyển

biến về đô thị hay công nghiệp với việc quan tâm đến các vấn đề thuộc về con

người như vấn đề an toàn lao động, sự thiêu hủy chất thải, sự phá hủy quê

hương do các lợi nhuận dầu khí v.v…. Như vậy, vấn đề đạo đức của phê bình sinh

thái giai đoạn này hướng đến xã hội (sociocentric) hơn là hướng đến sinh thái. Phê

bình sinh thái đã chuyển mối ưu tiên đến vấn đề công lý môi trường

(environmental justice), đấy là sự phân chia không công bằng về các quyền lợi môi

trường, hố sâu giữa người da trắng và người không phải da trắng, người giàu và

người nghèo. Vì thế, trong cuốn sách này, Buell vận dụng kết quả quan sát của

Ursula Heise khi dùng các thuật ngữ “phê bình môi trường” (environmental

criticism), hay “nghiên cứu văn học - môi trường” (literary - environmental

studies) hay “sinh thái học văn học” (literary ecology), “môi trường luận văn học”

(literary environment) hay “nghiên cứu văn hóa xanh” (green cultural studies) như

là những dạng thuật ngữ tắt của thuật ngữ phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái

47

thuộc làn sóng thứ hai mặc dù có hướng đến những phong cảnh bị tàn phá nhưng

nó đem đến vị trí đặc biệt cho những cộng đồng dân tộc thiểu số, ở cả trong nước

và quốc tế được thể hiện trong các văn bản thuộc thể loại nghệ thuật đẳng cấp cho

đến cả nền văn hóa bên lề. Quan tâm đến sự công bằng về môi trường, các nhà phê

bình sinh thái xem xét hai phương diện có liên quan đến nhau, đó là các vấn đề về

sự nhiễm độc và về quyền của các chủng tộc.

Một sự kiện tranh luận nổi tiếng, thu hút rất nhiều sự chú ý và mở lại

nhiều vết thương, chính thức được gán cho cái tên hiệu là “cuộc luận chiến”, -

luận chiến Estok-Robisch, điều này đã trở thành cột sóng thu lôi cho những bàn

luận về “mối quan hệ sợ hãi đầy ám ảnh của phê bình sinh thái với lí thuyết”

xuất hiện trên nhiều tạp chí. Cụ thể: Số Mùa xuân năm 2009, tạp chí

Interdisciplinary studies in literature and environment (ISLE), một bài tạp chí

được xuất bản bởi nhà phê bình sinh thái nổi tiếng là Simon Estok, tên là Quá

trình lí thuyết trong không gian của sự mở nước đôi: Phê bình sinh thái và sự

sợ hãi ám ảnh đối với sinh thái (Theorizing in a space of ambivalent openness:

Ecocriticism and ecophobia) . Estok phân tích văn học sinh thái Pháp và chỉ ra

rằng, với các nhà văn sinh thái Pháp, tự nhiên không phải là cái gì bên ngoài

con người mà là cái nằm trong mối liên hệ với con người. Điều này là phù hợp

với sự khẳng định rằng các nhà lí thuyết Xanh người Pháp có xu hướng nghiên

cứu xem bản sắc tự nhiên và con người liên kết với nhau như thế nào. Như vậy,

các nhà sinh thái văn học Pháp có cách tiếp cận không dựa vào trung tâm là

sinh thái, điều này khác với các tiếp cận lấy sinh thái hay sinh học làm trung

tâm của các triết gia môi trường người Anh - Mỹ, những người nhấn mạnh giá

trị cố hữu của tự nhiên. Nhằm vượt lên trên xu hướng lấy con người làm trung

tâm và sự phân biệt dựa trên giống loài, chứng sợ sinh thái của Estok tạo ra một

logic “trung tâm” cơ bản vắng mặt trong cái chứng sợ thiên nhiên của các nhà

văn sinh thái Pháp. Trong khi chứng sợ thiên nhiên của các nhà văn Pháp bao

gồm con người - tự nhiên, thì chứng sợ sinh thái nhấn mạnh một lịch sử dài của

việc con người chống lại tự nhiên. Thấm đẫm trong lí thuyết hệ thống, các nhà

sinh thái phi trung tâm của Pháp có thể đem lại những khung hữu ích trong việc

48

giải quyết sự hỗn độn của hiện thực mà không cần làm giảm thiểu tính phức

hợp của nó hay kêu gọi hướng tới tính ít nước đôi hơn.

Estok thừa nhận sự thất bại của phê bình sinh thái trong việc mang tính

hoạt động hiệu quả và mang tính lí thuyết hệ thống về khả năng của chứng sợ

sinh thái trong việc xác định cả hai. Chứng sợ sinh thái được dùng để chỉ những

định kiến về các phạm trù lớn và chỉ nỗi căm ghét phi lí không có cơ sở đối với

thế giới tự nhiên, nó liên quan đến khát vọng của con người trong việc điều

khiển tự nhiên, ông truy tìm sự phát triển của chứng sợ sinh thái từ thời kì đồ đá

mới cho đến thời đại hậu công nghiệp. Phân tích tác phẩm vua Lear của

Shakespear để chứng minh nguyên nhân môi trường và xã hội làm xuất hiện sự

biểu lộ của chứng sợ sinh thái trong các văn bản văn hóa và văn học. Trong khi

kêu gọi quá trình lí thuyết hóa mang tính tổng hợp, Estok giải thích rằng phê

bình sinh thái cần đưa ra “vấn đề về sự hữu hạn” để không tổn hại đến chính trị

và đạo đức của xu hướng hành động này. Estok cũng xem sự gắn kết của phê

bình sinh thái trong việc tạo ra các mối liên hệ thúc giục chúng ta hiểu “chứng

sợ sinh thái, sự ghét kết hôn, sợ đồng tính và sự phân biệt chủng loài” liên kết

nhau như thế nào. [103, 203]

Bài tạp chí như tiêu đề gợi ý, là quan điểm lí thuyết Estok, khẳng định

tiềm năng của khái niệm “nỗi sợ hãi ám ảnh” đối với sinh thái để đem đến một

điểm nhìn thống nhất trong không gian mở và nước đôi của phê bình sinh thái.

Gợi ý rằng các quá trình lí thuyết hóa cùng nổi lên không những khiến cho phê

bình sinh thái hoàn toàn được tin cẩn hơn mà còn làm cho bản thân lí thuyết trở

nên gắn kết với hành động hay chính sách dùng chiến dịch nhằm tạo ra những

thay đổi về chính trị và xã hội. Bài tạp chí đó đã tạo nên sự tranh luận sôi nổi,

nhưng sự phản ứng gay gắt nhất xuất hiện ở hai số sau của ISLE, đó là phản ứng

của nhà phê bình sinh thái S.K. Robisch với bài Lều chứa củi: Một trả lời đối

với bài “Phê bình sinh thái và nỗi sợ hãi ám ảnh đối với sinh thái” (The

Woodshed: A Response to “Ecocriticism and Ecophobia, 16.4 (Autumn 2009).

Bài báo này xem Estok như là đại diện của cỗ máy lí thuyết hiện đại “phải phá

hủy dưới hình thức phản kháng” – một công cụ tự sướng xóa đi tự nhiên và

không có gì liên quan đến hoạt động xanh. Cái xu hướng kinh viện theo kiểu

49

những người mê đắm tiếng Pháp và nước Pháp đến để hứng chịu trận đòn đau.

Hơn nữa, tác giả cũng mời những người có chung suy nghĩ liên lạc với mình

qua email để trình ra ở hội thảo thuốc đỏ để “nói về hội những người có hành

xử đạo đức với động vật hay với những kẻ giả mạo thiên nhiên những người đi

bộ ngồi này”. [130, 697-708]

Có thể nhận ra, đến Buell và các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ

hai, phê bình sinh thái quan tâm đến mối liên hệ của văn bản đối với đời sống

xã hội, chính trị và môi trường trong sự tiếp cận văn học. Buell gọi đó là “quan

hệ trao nhận giữa văn bản và môi trường”; quan hệ này được chỉ ra là có ba

hình thức: quan hệ trao nhận mang tính tu từ, quan hệ trao nhận như là trình

diễn, và quan hệ trao nhận là sự kiến tạo thế giới” [96]. Nói cách khác, nếu như

hướng tiếp cận sinh thái đối với văn học ở giai đoạn đầu tập trung xem xét nội

dung và hình thức văn học tự nhiên trong sự quy chiếu đến các vấn đề thiên

nhiên, trái đất, thì hướng tiếp cận sinh thái đối với văn học ở giai đoạn hai lại

hướng đến mối quan hệ và sự tương tác của tác phẩm với thế giới vật chất, cụ

thể là các phong trào về công bằng môi trường, công bằng xã hội. Như vậy, phê

bình sinh thái ở làn sóng thứ hai xoay quanh cách tiếp cận văn học trong mối

tương quan với sự gắn bó, cam kết với cuộc đấu tranh dai dẳng vì công bằng

môi trường xã hội, và suy cho cùng, phê bình sinh thái đặt vấn đề con người

làm trung tâm, nó xác định vấn đề về môi trường để khúc xạ các vấn đề khác

cấp thiết của con người xã hội. Và nói như Karen Warren trong cuốn sách kinh

điển về nữ quyền sinh thái, Triết lí sinh thái nữ quyền: Cái nhìn phương Tây về

nó là gì và tại sao nó lại quan trọng? (Ecofeminist philosophy: A Western

perspective on what it is and why it matters, Lanham, Md. : Rowman &

Littlefield, ©2000), “các lực tự nhiên (các sự kiện tự nhiên) gây ra các vấn đề

môi trường, nhưng đó không phải là nguyên nhân chính… nguyên nhân này

liên quan đến một phức hợp các yếu tố thuộc vụ viện, kinh tế, văn hóa và chính

trị… Quyền lợi kinh tế và quyền lợi giai cấp dẫn đầu trong các yếu tố ảnh

hưởng đến sự xuất hiện và việc xác định các vấn đề về môi trường ” (ND nhấn

mạnh) [144, 8].Lí do là vì ngay cả những học giả đặt nền tảng cho phê bình

sinh thái cũng đã thừa nhận, “chúng ta đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn

50

cầu hôm nay, không phải bởi vì các hệ thống sinh thái hoạt động như thế nào

mà bởi vì hệ thống đạo đức của chúng ta hoạt động ra sao? Đi qua cuộc khủng

hoảng, cần hiểu càng nhiều càng tốt về ảnh hưởng của chúng ta lên tự nhiên,

nhưng thậm chí hơn, nó yêu cầu sự hiểu đối với các hệ thống đạo đức và dùng

sự hiểu đó để cải tổ chúng. Các nhà lịch sử, cùng với các học giả văn học, các

nhà nhân học và các triết gia không thể tiến hành sự cải tổ, tất nhiên [điều này

cần sự tham gia thực tế của những nhóm người có quyền khác, như các nhà

hoạch định chính sách hay các chính trị gia - ND], [111, xxi].

2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và

tính liên ngành

2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba

Các nhà lí luận về phê bình sinh thái đã đề cập đến phê bình sinh thái ở

“làn sóng” thứ ba. Song những điều được miêu tả về làn sóng thứ ba của phê

bình sinh thái thường được xem là đang được thử nghiệm và dự đoán; dù vậy,

các nhà lí thuyết phê bình sinh thái vẫn khẳng định đây là hướng tiếp cận tiếp

tục có đóng góp không chỉ trong phạm vi các chuyên ngành khoa học xã học,

nhân văn mà còn cho cuộc đối thoại lớn hơn về cuộc khủng hoảng môi trường

mà con người đang đối mặt. Như William Ruddiman trong cuốn sách kinh điển

về thay đổi môi trường, Khí hậu của trái đất: quá khứ và tương lai (Earth's

climate : past and future. New York : Freeman, 2014) khẳng định, con người đã

gây ảnh hưởng rõ rệt và thậm chí quyết định đến hệ thống khí hậu kể từ khi nền

văn minh nhân loại tồn tại; mức độ carbon trong khí quyển bắt đầu tăng lên khi các

nền văn minh ban đầu chuyển đổi đất lâm nghiệp sang sử dụng trong nông nghiệp.

Vì vậy, câu chuyện về nền văn minh nhân loại đến một mức độ lớn, là câu chuyện

về những cách chúng ta phản ứng và giúp định hình khí hậu thay đổi của chúng ta.

Tất nhiên, viễn cảnh của biến đổi khí hậu mà chúng ta đang phải đối mặt là khác

nhau, cả về mức độ nghiêm trọng của hậu quả và sự đột ngột mà nó đang xảy ra.

Trong cuộc đời của chúng ta phải chăng thảm họa chung có thể so sánh duy nhất là

mối đe dọa tuyệt chủng thông qua chiến tranh hạt nhân, một mối đe dọa trong trí

tưởng tượng phổ biến, nếu không thực tế, dường như đã giảm bớt. Cảm giác của

thảm họa phổ biến này đòi hỏi một cảm giác mới về trí tưởng tượng lịch sử và sẽ

51

đòi hỏi một loạt các công cụ quan trọng và lý thuyết mới. Tuy nhiên, bất chấp

những khả năng thú vị mà chúng ta mang lại cho con người và những nhu cầu cấp

thiết mà chúng ta có thể gặp, chúng ta vẫn bị xuống hạng bên lề trong các cuộc đối

thoại chính sách công. [131]

Làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái tiếp tục dựa trên sự phát triển của

phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai, đó là sự rời xa cái nhìn thiên nhiên ở Mỹ

để hướng tới phạm vi mang tính toàn cầu hơn; phá bỏ mối quan hệ đối lập giữa

“thiên nhiên” và “con người” trong đó thiên nhiên được ưu tiên và con người

thì sa đọa; khám phá những phạm vi và ảnh hưởng về xã hội, kinh tế vật chất

của các chu trình môi trường, phân tích “cái môi trường” như là đặc tính chủ

chốt của tất cả các văn bản chứ không phải chỉ hạn chế trong văn học thiên

nhiên và mở rộng sự khảo sát không chỉ bao gồm phong cảnh hoang dã, quang

cảnh nông thôn mà còn không gian thành phố, ngoại ô và các môi trường được

kiến thiết khác. [142]

2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành

Làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái có những đặc điểm riêng, rời khỏi

những đặc trưng của phê bình sinh thái thuộc hai giai đoạn trên. Trước hết, sự

phát triển các khía cạnh chính trị của phê bình sinh thái, các nhà lí luận và thực

hành phê bình sinh thái có xu hướng di chuyển theo hướng kết hợp phê bình

hậu thuộc địa với phê bình sinh thái. Rõ ràng là các hướng nghiên cứu mới về

văn học từ các quan điểm môi trường cũng là mối quan tâm chính của các nhà

phê bình văn học hậu thuộc địa, những người giải quyết các di sản thuộc địa

trong tư tưởng kinh tế, chính trị, văn hóa. Hơn nữa, kể từ nửa sau của thiên niên

kỷ, các học giả hậu thuộc địa đã cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa phê bình

sinh thái và phê bình hậu thuộc địa, “hai lĩnh vực năng động nhất trong nghiên

cứu văn học”[124, 233]. Rob Nixon, Graham Huggan, Helen Tiffin, và Anne

Maxwell, các học giả hậu giáo "xanh" tiên phong, nhấn mạnh rằng hai trường

phái tư tưởng chia sẻ một nhiệm vụ chung về giải quyết các cuộc khủng hoảng

môi trường và liên hệ với các nhóm thống trị như là kết quả của các di sản

thuộc địa kéo dài ở các trạng thái hậu thuộc địa. Đáng chú ý, các nhà phê bình

sinh thái nhấn mạnh sự toàn cầu hóa ngày càng tăng. Như vậy, các vấn đề cùng

52

những mối quan tâm xã hội về sinh thái toàn cầu cho thấy các học giả cần phải

vượt ra ngoài phê bình sinh thái, phát triển lợi ích trong việc kết hợp các phê

bình về hậu sinh thái và môi trường. Phê bình sinh thái mở rộng ra không gian

và các tài liệu thuộc các nước hậu thuộc địa, xem xét sự nhận thức về nơi chốn

và sự gắn bó với nơi chốn từ phương diện thế giới và toàn cầu.

Cụ thể, thứ nhất, phê bình sinh thái có xu hướng gắn bó chặt chẽ với vùng

và cộng đồng, đề cao sự liên minh với nơi chốn địa phương, sự độc đáo về mặt

sinh thái. Các văn bản hậu thuộc địa phân tích theo hướng sinh thái thường ủng

hộ những điều này nhưng giống như văn học hậu thuộc địa, chúng chủ động và

năng suất hơn việc nhận thức lại địa phương và khu vực trong mối quan hệ với

những tác động của các lực xuyên địa phương, mang tính toàn cầu. Các nhà lí

luận về phê bình sinh thái thường lấy tiểu thuyết Thủy triều đói của nhà văn Ấn

Độ Amitav Ghosh như là một văn bản kinh điển của văn học sinh thái trong cái

nhìn của phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh

sự cạnh tranh giữa dự án nghiên cứu và bảo vệ loài cá heo có nguy cơ tuyệt

chủng ở vùng vịnh Bengal của các học giả thuộc thế giới thứ nhất và dự án

quốc gia, quốc tế về việc bảo vệ loài Hổ Bengal; sự xung đột này lại là cái cớ để

chính phủ Ấn Độ thực hiện các biện pháp cưỡng ép di dời đối với cư dân bản

địa. Các nhân vật của cuốn tiểu thuyết, ở cấp độ này hay cấp độ khác, là người

di dân hay là người bản địa, đều trở thành những mô hình mang tính sinh thái

về sự gắn bó với nơi chốn, điều này khác với chủ nghĩa địa phương sinh thái

văn hóa tự thân (self-contained ecocultural localism) như cách đọc sinh thái cổ

điển với tác phẩm của Wordsworth và Thoreau. Vì thế, cuốn tiểu thuyết của

Ghosh được đọc như là sự tiếp nhận cái toàn cầu trong phạm vi cái địa phương

(Đọc Heise và Verderame). Cuốn Nhận thức về nơi chốn và nhận thức về hành

tinh (Sense of place and sense of planet: the environmental imagination of the

global, New York, NY Oxford Univ. Press 2010) của Ursula Heise có thể coi là

sự phân tích toàn diện về khả năng sáng tạo lại sự gắn bó với nơi chốn ở cấp độ

hành tinh. Bà nêu lên chủ đề về sự nóng lên toàn cầu và chỉ ra một lĩnh vực

khác cho các nhà phê bình môi trường quan tâm khảo sát để phát triển lý thuyết

về một nền văn hóa sinh thái toàn cầu; điều này được cho là chắc chắn sẽ khám

53

phá đầy đủ nỗi lo ngại về sự biến đổi khí hậu. Bà cho rằng, phim và tiểu thuyết

khoa học viễn tưởng đi trước tất cả các thể loại hư cấu khác trong việc phản ánh

sự nóng lên toàn hành tinh trong hơn nửa thế kỉ qua. [140]

Thứ hai, phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba mang tính liên ngành.

Các nhà phê bình sinh thái sẽ làm việc với phổ dữ liệu và tài liệu lịch sử rộng

lớn hơn trước. Cùng với các tài liệu chuẩn mực về lịch sử văn học – như các tạp

chí, thư từ, báo chí, vv... các nhà phê bình sinh thái tương lai sẽ làm việc với

các bản đồ thời tiết, báo cáo y tế, hồ sơ giá lương thực và dữ liệu về mẫu băng

đá. Những tài liệu như vậy có thể mở rộng giới hạn sự hiểu biết chuyên ngành

của chúng. Các nhà phê bình sinh thái có thể không phải là nhà khoa học,

nhưng họ được yêu cầu là phải có một sự hiểu biết cơ bản trong các môn khoa

học vật lý, môi trường và y sinh học để phù hợp với các dự án nghiên cứu về

sinh thái. Các nhà phê bình văn học sẽ cần phải rời bỏ xu hướng tương đối và

phép ẩn dụ vốn là đặc trưng của văn học và học cách đối thoại với các nhà khí

hậu học, địa chất và vật lý theo cách riêng của mình. Điều này có ích trong việc

mở rộng đối tượng khán giả của nghiên cứu văn học.

Buell cho rằng, phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên đã mang tính liên

ngành khi nó gắn kết với hiện tượng học và sinh học tiến hóa. Trong nghiên cứu

giới, ngay cả khi chưa có thuật ngữ “chủ nghĩa nữ quyền sinh thái” thì đã tập trung

vào mối quan hệ giữa phụ nữ và môi trường. Nghiên cứu giới và môi trường ngay

từ trước những năm 1990 đã dựa vào lí thuyết về giới mang tính liên ngành chứ

không chỉ dựa vào lí thuyết văn học. Điều đó đã đạt được thành tựu lớn không chỉ

với tư cách là một dự án diễn giải văn học mà còn như là một dự án của việc khảo

sát lịch sử văn hóa. Dựa trên ý nghĩa biểu tượng đất như là phụ nữ và cái nhìn nam

quyền các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các mô hình về tính ích kỉ trong sinh thái chiều

sâu và các lí thuyết sinh thái lấy con người làm trung tâm khác. Hơn nữa, như

Buell chỉ ra, ngay từ làn sóng thứ hai, khi mà diễn ngôn hay ẩn dụ về môi trường –

thuộc bất cứ thể loại nào – cũng thể hiện tính liên ngành của phê bình sinh thái. Và

cho đến giờ, việc nhận thức lại các vật thể văn hóa được làm từ ngôn ngữ - dù vật

thể đó được cấu tạo từ ngôn ngữ một cách có thẩm mĩ, một cách triết học, tôn giáo,

54

đạo đức, chính trị hay là sự cộng gộp của tất cả - vẫn còn là trung tâm đối với phê

bình sinh thái. [97, 87-115]

Trong bài giảng về phê bình sinh thái tại Khoa Văn học, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội ngày mùng 4 tháng 12 năm 2017, Heise

Ursula (Trường Đại học California, Los Angeles) kết luận rằng kể từ năm 2010

về sau, phê bình sinh thái ở Úc, Canada, Mỹ và Tây Âu càng định hình nó như

là một phần của cái ma trận mới, thường được gọi là khoa học nhân văn môi

trường – environmental humanities (vốn thường được gọi là khoa học nhân văn

sinh thái ở Úc). Bộ môn liên ngành này tìm kiếm kết nối nghiên cứu định

hướng môi trường ở nhiều bộ môn trong khoa học nhân văn và khoa học xã hội:

triết học môi trường, lịch sử môi trường, nghiên cứu văn học môi trường, nhân

học môi trường, địa lí văn hóa, nghiên cứu giao tiếp và truyền thông, nghiên

cứu giới, nghiên cứu đô thị và nghiên cứu tôn giáo. Khả năng của cái nhìn liên

ngành đó nổi lên từ một vài yếu tố. Cái nhìn môi trường sau vài thập kỉ đấu

tranh đã tự thiết lập nó thành công ở các bộ môn như lịch sử, văn học, triết học

mà các nhà nghiên cứu có thể lờ đi cái ranh giới bộ môn với những mục tiêu

chung. Và lĩnh vực liên ngành của “nghiên cứu môi trường”, được chính thức

hóa vào những năm 1960 ở nhiều trường đại học trên thế giới không có nhiều

chỗ cho các môn thuộc khoa học nhân văn (humanities).

Nhưng quan trọng hơn, sự thiếu hụt trong các trao đổi công cộng về sự khủng

hoảng môi trường – đặc biệt là trong trường hợp những thay đổi thời tiết – khiến

nhiều nhà hoạt động về môi trường và thậm chí là các nhà khoa học môi trường

nghĩ sâu sắc hơn các câu hỏi về văn hóa, ngôn ngữ và tự sự. Trong bài giảng của

mình, Heise đã trích ý kiến của nhà lịch sử môi trường Sverker Sörlin cho là:

“niềm tin của chúng ta cho rằng khoa học một mình nó có thể chuyển con người từ

tình trạng sa lầy toàn hành tinh và lúc nào đó, khi có những niềm hi vọng lên cao

dành cho nghiên cứu và các giải pháp thu xếp công cộng mới được dẫn dắt bởi sự

khuyến khích.Tuy nhiên, sau nhiều năm kể từ hội nghị Rio năm 1992, con người

lại phải quyết định những con đường nhỏ đi đến sự bền vững. Dường như lần này

các hi vọng của chúng ta gắn kết chặt chẽ với các khoa học nhân văn”. Nguy cơ

của sự chuyển biến đó không chỉ là một sự phân tích kĩ hơn về cái thường được coi

55

như là “chiều kích nhân văn của các khủng hoảng môi trường” trong phát biểu

chính sách của các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan quốc tế. Thay vào đây,

khi khám phá các văn hóa địa phương, dân tộc, khu vực và toàn cầu về xu hướng

môi trường, các nhà khoa học nhân văn môi trường tìm cách định nghĩa lại các

cuộc khủng hoảng sinh thái. Những cuộc khủng hoảng này vốn thường được tiếp

cận như là các câu hỏi chủ yếu là về chính sách, công nghệ và khoa học – như ô

nhiễm, sự biến mất đa dạng sinh học, sự nóng lên toàn cầu – giờ đây được hiểu

như là các thách thức đối với công bằng xã hội và sự phân biệt văn hóa (người

viết nhấn mạnh).

Theo giáo sư Ursula, sự kết nối với các câu hỏi về công bằng môi trường

đang là vấn đề được tập trung trong bối cảnh mới này. Sự công bằng về môi

trường như là một phong trào nổi lên ở Mỹ vào những năm 1980, tập trung vào

sự phân bố không đồng đều của các nguồn tài nguyên môi trường và các rủi ro

môi trường giữa các nhóm dân cư khác nhau như cộng đồng người da màu (đặc

biệt là nhóm người Mỹ gốc Phi và nhóm người Mỹ gốc Mỹ La tinh) thường đối

mặt với các nền công nghiệp nguy hiểm, các khu chứa chất thải độc hại và các

khu vực chịu sự nhiễm độc không khí, nước và đất. Cùng lúc đó, các phong

trào môi trường tương tự cũng lên cao ở bán cầu Nam: nhà xã hội học

Ramachandra Guha và nhà khoa học chính trị Joan Martínez-Alier gọi đây là

"phong trào môi trường của người nghèo", cụm từ này có nghĩa là các cộng

đồng ở châu Phi, châu Á, và Mỹ La tin đấu tranh chống lại sự phá hủy rừng, sự

xói mòn, sự ô nhiễm và sự thu hồi đất của chính phủ, để duy trì sự tồn tại của

họ. Hiện nay, như Ursula quan sát, các cộng đồng thiểu số (người da màu, phụ

nữ, nhóm dân tộc thiểu số, người thu nhập thấp, v.v…) đồng thời đấu tranh

chống lại các dự án bảo tồn như khu bảo tồn đời sống hoang dã hay các công

viên quốc gia vốn được thiết lập bởi các tổ chức môi trường ở Bắc Mỹ hay Tây

Âu mà không có ý kiến của cộng đồng địa phương. Các phong trào đòi công lí

môi trường của các nhà môi trường không phải lúc nào cũng liên kết một cách

dễ dàng với nhau: gần đây nhất, trong các lĩnh vực đấu tranh xã hội mới như

công bằng thực phẩm, công bằng năng lượng và công bằng thời tiết. Những

56

cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội vì một hệ sinh thái bền vững trở nên gắn

kết chặt chẽ ở nhiều khu vực trên thế giới trong vài thập kỉ qua.

Một dẫn chứng khẳng định tính liên ngành của phê bình sinh thái ở làn

sóng thứ ba không thể không dẫn ra là bài viết gây tiếng vang Khí hậu của lịch

sử: Bốn luận điểm (Critical Inquiry Vol. 35, No. 2 (Winter 2009), pp. 197-222)

của Dipesh Chakrabarty. Trong đó Chakrabarty xem xét lại phương pháp viết

sử trong tương quan với sự thay đổi khí hậu. Tác giả khẳng định sự leo thang

của khủng hoảng môi trường và việc con người đang vận hành các chu trình

hóa - sinh học đã điều khiển hệ thống khí hậu của trái đất cho thấy những giới

hạn của những miêu tả về lịch sử con người theo kiểu lấy con người làm trung

tâm một cách truyền thống, cho dù đó là những miêu tả có xu hướng Marxist,

có xu hướng hậu thuộc địa hay là có xu hướng Foucaul. Tác giả chỉ ra bốn cách

phản ứng của phê bình sinh thái đối với thực tế về sự xuất hiện của loài người

được coi như là một nguồn ảnh hưởng lớn lên sự thay đổi về khí hậu và địa chất

của trái đất. Thứ nhất, phê bình sinh thái đem vấn đề công lí môi trường để

đánh giá, phân tích tình cảnh của những người bại trận, mất mát, bao gồm cả

thế giới không phải con người. Thứ hai, đó là việc giải thích, luận giải ảnh

hưởng xã hội và chính trị của diễn ngôn và sự tưởng tượng về quá trình nóng

lên toàn cầu. Thứ ba, đó là việc diễn giải lại các văn bản trong quá khứ với cái

nhìn gắn kết các vấn đề của sự thay đổi khí hậu do con người gây ra. Thứ tư,

đó là sự phân tích đối với mối liên hệ giữa việc tiêu thụ nhiên liệu của giai cấp

trung lưu và việc các nước đang phát triển dùng các máy móc kĩ thuật lạc hậu

do các nước phát triển thải ra làm biến đổi và bất ổn về khí hậu. Những phản

ứng này cho thấy tính liên ngành của phê bình sinh thái.

Thứ ba, phê bình sinh thái đang ngày càng có sự quan tâm đặc biệt đến

sự thể hiện động vật trong quá trình nhận thức lại của con người. Theo nhận

định của Lawrence Buell, nghiên cứu trên động vật rõ ràng là một chủ đề nóng

trong lí thuyết phê bình – “nóng hơn cả sự nóng lên toàn cầu” [97, 105]. Không

chỉ các nhà khoa học cuộc sống và nhà nhân chủng học văn hóa mà cả các nhà

thần kinh học, nhà đạo đức học, nhà lý luận, nhà lý luận pháp lý, các học giả

văn chương đều phát biểu về chủ đề nghĩa vụ của con người đối với thế giới

57

không phải con người, về tính lỏng lẻo hay sự kiên cố của đường biên giữa con

người và thế giới không phải con người, cũng như sự giao tiếp giữa các loài.

Năm 2010, Dana Phillips cùng 7 học giả ra số báo về phê bình sinh thái và

nghiên cứu động vật trên tạp chí Safundi: The Journal of South African and

American studies. Bài viết tìm hiểu các vấn đề môi trường từ sinh thái và

nghiên cứu động vật, hướng tới vấn đề bảo vệ môi trường, động vật khỏi sự đe

dọa do chính sách công kém phát triển hay do sự sở hữu mang tính lạm dụng

của con người với tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời đã diễn giải hành vi động

vật, đặc biệt là ý thức, giao tiếp và cảm xúc động vật với những đề xuất về

quyền động vật. Bên cạnh đó còn bàn về vị trí trung tâm sinh thái của động vật

ở nơi sinh tồn, nơi chúng phát triển và cũng là nơi mà chúng bị bắt phải rời đi.

Các bài viết cũng phân tích sự đứt gẫy của đời sống con người với động vật do

quá trình toàn cầu hóa; mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị, con người và

động vật; ảnh hưởng của các giả định về giới tính, chủng tộc và về tính chủ

quan trong các biểu đạt về thế giới tự nhiên; địa điểm và chính trị thuộc địa, hậu

thuộc địa, tân thuộc địa, và xuyên quốc gia vốn đặt cái địa phương trong cái

toàn cầu và cái toàn cầu trong cái địa phương; sự mất cân bằng quyền lực vốn

tiếp tục đảm bảo đặc quyền đặc lợi của thế giới thứ nhất, các nước đế quốc, và

các không gian đô thị, hạ thấp thế giới thứ ba, những kinh nghiệm hậu thuộc địa

với ngoại vi; sự kiên trì liên tục của văn học và nghệ thuật trong bối cảnh của cả

hai cuộc khủng hoảng môi trường (ví dụ như biến đổi khí hậu) và sự suy yếu về

thẩm quyền của chủ nghĩa nhân văn; nhu cầu về nghiên cứu động vật và sinh

thái học để suy ngẫm về những ý nghĩa mang tính lí luận và lịch sử trong các tài

liệu thuộc nghiên cứu hậu thuộc địa, giải cấu cấu trúc, triết học, khoa học sinh

thái và môi trường lịch sử. [101, 1-2]. Nghiên cứu các diễn ngôn về động vật

trở thành một hướng của phê bình sinh thái trong sự quan tâm của nó đối với

các vấn đề xã hội – một chủ đề bao trùm của hướng tiếp cận văn học này khi ở

làn sóng thứ ba.

2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái

Nghiên cứu phê bình sinh thái đã có nhiều cách tiếp cận và cách diễn đạt

khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cần đặt ra là cách tiếp cận này nên

58

nghiên cứu như thế nào để có thể diễn giải được các hiện tượng văn học. Nói cách

khác, với tư cách là một cách tiếp cận văn học, phê bình sinh thái nên được hiểu

như thế nào. Như đã nói, định nghĩa mang tính khái quát ban đầu của Glotfelty

được lặp lại, diễn giải ở nhiều công trình phê bình sinh thái khác nhau và mỗi cách

diễn giải này có ích trong việc giúp độc giả hình dung được cách thức nghiên cứu

một hiện tượng văn học từ góc độ sinh thái là như thế nào, để không lẫn với các

cách tiếp cận văn học khác (người viết nhấn mạnh). Sau đây xin phân tích một số

định nghĩa tiêu biểu, để từ đó rút ra những thao tác, cách thức mà người viết sẽ

vận dụng để tiếp cận Thơ mới từ góc nhìn của phê bình sinh thái.

Richard Kerridge, ông đã định nghĩa “Phê bình sinh thái (ecocriticism) là phê

bình văn học và văn hóa từ điểm nhìn của chủ nghĩa môi trường

(environmentalism). Văn bản được đánh giá từ góc độ là có ảnh hưởng nguy hại

hay có ích về mặt môi trường. Niềm tin và tư tưởng được xem xét về từ những

ẩn ý về môi trường của văn học”[117]. Ở đây, Kerridge nhấn mạnh hai phương

diện của đọc tác phẩm văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Thứ nhất, đó là tìm

các ẩn ý hay các cách diễn đạt về môi trường, về tự nhiên trong tác phẩm. Thứ

hai, đó là việc phân tích xem những ý đó hay các diễn đạt đó có thể có tác động

(tốt hay xấu) về khía cạnh môi trường. Như vậy, theo định nghĩa của Kerridge,

người làm nghiên cứu văn học cần phải có kiến thức và trách nhiệm về môi

trường để có thể thảo luận, phân tích xem văn bản văn học với các nội dung về

môi trường và thiên nhiên của nó có thể có ích gì hay gây hại gì đối với môi

trường. Yêu cầu này được Karen Thornber chỉ ra rõ ràng trong định nghĩa về

phê bình sinh thái của bà. Bà cho rằng “Cách con người tương tác với môi

trường chịu sự chi phối mạnh mẽ của những ý niệm/diễn ngôn về môi trường.

Phân tích các diễn ngôn này nằm trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất của

phê bình sinh thái – một khuynh hướng lí thuyết phê bình đang phát triển rất

năng động hiện nay, đặc biệt ở Anh, Mỹ. Đây là một lí thuyết liên ngành, kết

hợp giữa văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh

báo về môi trường.”[139]. Như vậy, giống như Kerridge, Thornber đề ra yêu

cầu về sự hiểu biết liên ngành (ngoài văn học còn có kiến thức về môi trường,

tự nhiên) trong nghiên cứu phê bình sinh thái. Điều thú vị và quan trọng trong

59

phê bình sinh thái mà Thornber và Kerridge cùng nhấn mạnh đó là những biểu

đạt về sinh thái trong tác phẩm văn học có thể có hại hay có lợi cho môi trường

sinh thái. Thornber cho rằng diễn ngôn về sinh thái phản ánh và tác động lên

cách hành xử của con người đối với thế giới sinh thái xung quanh. Điều này

được bà phân tích một cách tỉ mỉ ở đoạn tiếp theo trong định nghĩa về phê bình

sinh thái của mình. Đó là việc bà cho rằng các nhà phê bình “có thể không đưa

ra được những giải pháp trực tiếp cho những vấn đề môi trường nghiêm trọng

hiện nay”, thế nhưng việc “phân tích các diễn ngôn về thiên nhiên và môi

trường”, có thể “tác động đến tâm thức con người, điều chỉnh nhận thức, khắc

phục được những ngộ nhận về môi trường, để từ đó, có những hành động đúng

đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền vững và xa hơn, quan trọng hơn cả, là

hình thành một chủ nghĩa nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của

thiên nhiên để đối thoại với nó” (người viết nhấn mạnh)[139]. Ở đây, điều đặc

biệt là Thornber cho rằng sự phân tích cách biểu đạt về môi trường hay như

cách nói của Joseph Meeker, sự “nghiên cứu về chủ đề và mối quan hệ của sinh

vật học xuất hiện trong tác phẩm văn học” [122,7] phải bao gồm việc phân tích

hay nghiên cứu tác động của cách biểu đạt sinh thái hay chủ đề sinh thái đó đối

với việc hình thành nên ý thức sinh thái của con người và bản thân sự phân tích

và nghiên cứu đó cũng đã là một việc có khả năng hình thành nên ý thức về

sinh thái trong chính người nghiên cứu. Như vậy, cả Kerridge và Thornber nhấn

mạnh bước đầu tiên của việc phê bình sinh thái là phân tích cách biểu đạt về

thiên nhiên và môi trường trong tác phẩm văn học bước thứ hai là phân tích tác

động của cách biểu đạt đó đối với ý thức về sinh thái trong độc giả và với bản

thân hiện thực sinh thái.

Định nghĩa của Scott Slovic, người sáng lập Hiệp hội Môi trường và Văn

học thế giới có thể coi là một cụ thể hóa hai bước hay hai nội dung trong phê

bình sinh thái mà Thornber và Kerridge đề cập. Với Slovic, “Phê bình sinh thái

là chỉ hai phương diện nghiên cứu”: phương diện thứ nhất, đó là việc “nghiên

cứu lối viết tự nhiên”, nghiên cứu “hàm nghĩa sinh thái và mối quan hệ giữa

con người với tự nhiên” (người viết nhấn mạnh). Thậm chí, Slovic cho rằng

người nghiên cứu có thể phân tích mối quan hệ giữa con người và tự nhiên

60

trong bất cứ văn bản văn học nào cho dù những văn bản ấy thoạt nhìn có vẻ như

rõ ràng miêu tả thế giới phi nhân loại”. Phương diện thứ hai, đó là việc tìm hiểu

“nhận thức ngày càng lớn của xã hội đương đại về tầm quan trọng và tính dễ bị

tổn thương của thế giới phi nhân loại” thông qua sự miêu tả mối quan hệ giữa

con người và tự nhiên trong tác phẩm. [134]

Như thế, phê bình sinh thái yêu cầu người nghiên cứu phải phân tích thế giới

tự nhiên và cách diễn đạt về tự nhiên ở trong tác phẩm. Có thể thấy, Slovic cũng

nhấn mạnh hai bước trong công việc của nhà phê bình sinh thái, điều mà Kerridge

và Thornber cũng chia sẻ. Đặc biệt trong nhận định của Slovic ông nhấn mạnh

việc phân tích mối quan hệ của con người và tự nhiên trong sáng tác.

Tính đạo đức về vấn đề môi trường được thể hiện trong tác phẩm cũng đã

được William Howarth miêu tả cụ thể trong quan niệm của ông về công việc

của nhà phê bình sinh thái. Đó là “đánh giá những ưu nhược tốt xấu trong các

tác phẩm miêu tả ảnh hưởng của văn hóa đến tự nhiên, chủ trương ca ngợi tự

nhiên, lên án kẻ tàn phá tự nhiên và thông qua hành động chính trị để làm giảm

bớt sự thương tổn của tự nhiên”. [114]

Có nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái với nhiều cách diễn đạt và sự

nhấn mạnh khác nhau. Từ những khái quát này, chúng ta có thể hình dung ra

phê bình sinh thái bao gồm hai nội dung cơ bản và đây cũng là những công việc

cốt yếu mà người nghiên cứu cần tiến hành khi tiếp cận văn bản văn học, hiện

tượng văn học, truyền thống văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Thứ nhất, đó

là phân tích cách biểu đạt và nội dung về sinh thái, về mối quan hệ giữa con

người và tự nhiên, về các bài học đạo đức liên quan đến sinh thái, quá trình

nhận thức về sinh thái trong trong tác phẩm văn học. Thứ hai, là phân tích nội

dung đó và cách biểu đạt đó có thể có ảnh hưởng gì trong việc hình thành ý

thức về sinh thái và môi trường trong người đọc và có ảnh hưởng gì đến chính

hiện thực tự nhiên và môi trường.

Tiểu kết

Chương này của luận án xác định nội hàm cụ thể về hướng tiếp cận phê

bình sinh thái của đề tài. Nói cách khác, nội dung chương nhằm trả lời cho câu

hỏi tiếp cận phê bình sinh thái đối với Thơ mới là cách tiếp cận như thế nào? Để

61

trả lời cho câu hỏi trên, chúng tôi khảo sát ba vấn đề: Thứ nhất, vấn đề “trái đất

là trung tâm” với tư cách là luận điểm kinh điển của phê bình sinh thái. Ở luận

điểm này, chương lần theo sự phát triển của cách hiểu về phê bình sinh thái từ

khi mở đầu cho đến khi hoàn thiện và bùng nổ với định nghĩa vốn đã xây dựng

trên văn học viết về thiên nhiên (nature writing) được coi là kinh điển của

Cheryll Glotfelty. Thứ hai, chúng tôi phân tích sự phát triển của cách hiểu về

phê bình sinh thái thời sau Glotfelty để chỉ ra phê bình sinh thái mở rộng biên

độ để bao trùm các cách tiếp cận liên quan đến các vấn đề chính trị, xã hội, và

kinh tế như thế nào. Thứ ba, chúng tôi phân tích những cách thức tiếp cận trong

xu hướng phê bình sinh thái. Phân tích ba vấn đề trên của luận án nhằm đi đến

đề xuất cách hiểu về phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận đối với văn

học nói chung trong mối liên hệ với các vấn đề môi trường, môi sinh, sinh thái.

Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn khẳng

định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ

mới. Để nhắc lại, luận án của chúng tôi không hướng tới việc xác định Thơ mới

có là văn học sinh thái hay không mà là nhằm khám phá thêm các ý nghĩa, giá

trị của Thơ mới với công cụ là Phê bình sinh thái và quan trọng hơn, với tư cách

là một luận án thuộc chuyên ngành Lí luận văn học, chúng tôi hướng đến việc

nghiên cứu về phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết khi được nó được đặt vào

một trường hợp cụ thể là Văn học Việt Nam nói chung và Thơ mới ở Việt Nam

nói riêng.

62

Chƣơng 3

NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ NHIÊN VÀ

CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI

3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể

3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người

Tự nhiên là một trong những chủ đề thường được xuất hiện nhiều trong

văn học, đặc biệt là trong thơ dù được sáng tác bằng các ngôn ngữ trên thế giới.

Tự nhiên đã được chứng minh là một hình thức chiến lược làm gợi lên các cảm

giác, cảm xúc và sự vận động về tâm trí của nhà thơ. Các phương diện sáng tạo

hay hủy diệt, hàn gắn vết thương hay làm an dịu của tự nhiên được các nhà thơ

đưa ra một cách rõ ràng để làm nổi bật các khía cạnh khác nhau trong quan

điểm của họ về thế giới và con người. Như đã nói, phê bình sinh thái quan tâm

đến mối quan hệ giữa văn học và môi trường hay là cách thức mối quan hệ giữa

con người và thế giới tự nhiên xung quanh họ được phản ánh như thế nào trong

văn học. Cụ thể hơn, phê bình sinh thái xem xét vị trí là trung tâm hay là ngoại

vi của tự nhiên trong mối quan hệ với thế giới tinh thần và thể chất của con

người (nhân vật trữ tình, người kể chuyện, nhân vật). Và phê bình sinh thái chủ

yếu được thực hành trong văn học viết về tự nhiên. Jonathan Bate, một trong

những nhà phê bình sinh thái hàng đầu người Anh, trong cuốn sách Sinh thái

Lãng mạn (Romatic Ecology) của mình, đã lập luận rằng văn học viết về tự

nhiên là quan trọng, ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc văn bản được quy

chiếu đến cái gì đó bên ngoài kia, “cái khác” của thế giới tự nhiên", cái thế giới

lấp đầy chúng ta với tính nhân văn. Còn Garrard trong cuốn sách Phê bình sinh

thái của mình đã vạch ra các khái niệm được thảo luận nhiều nhất trong phê

bình sinh thái, đó là sự hủy diệt, thôn quê, hoang dã, sự ô nhiễm, và cái kinh

ngạc. Mặc dù những khái niệm này không phải là của riêng phê bình sinh thái

và không phải được sinh ra chỉ trong phê bình sinh thái, nhưng sự quan tâm của

phê bình sinh thái với thiên nhiên làm cho các khái niệm trên phù hợp với các

nghiên cứu văn học. [108]

63

Với luận điểm tự nhiên như là một trong những mối quan tâm chính của

phê bình sinh thái, thì đáng lẽ ra Thơ mới lãng mạn phải là đối tượng nghiên

cứu chính của xu hướng nghiên cứu này ở Việt Nam. Tuy nhiên, như chương 1

chỉ ra, phê bình sinh thái ở Việt Nam đa số là công cụ lí thuyết để khám phá

văn học Việt Nam đương đại trong mối tương quan với các vấn đề môi trường,

môi sinh. Thơ mới lãng mạn cũng chỉ là đối tượng nghiên cứu chính của đôi ba

bài nghiên cứu. Trong khi đó, thời đại lãng mạn có vai trò rất quan trọng trong

phê bình sinh thái trên thế giới. Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn

phương Tây, Thơ mới Việt Nam chắc chắn có vai trò trong sự hình thành phê

bình sinh thái ở Việt Nam; nói cách khác, Thơ mới Việt Nam là một chất liệu

đầy hứa hẹn cho các nghiên cứu theo hướng phê bình sinh thái. Các công trình

nghiên cứu Thơ mới thống nhất quan điểm về thiên nhiên trong Thơ mới “là

một khách thể thẩm mĩ để nhà thơ soi ngắm và hưởng thụ” [17, 35], đánh dấu

sự chuyển biến về thi pháp của Thơ mới với tư cách là một dấu ấn của hành

trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, cách tiếp cận phê bình sinh thái

đối với Thơ mới cho thấy thiên nhiên trong Thơ mới được tôn trọng như là một

khách thể tồn tại bên ngoài con người. Nói cách khác, thiên nhiên trong Thơ

mới không chỉ tồn tại như một đối tượng thưởng lãm của các tao nhân mặc

khách mà như là một thế giới khác, có những hiện tượng, những cấu trúc riêng

và thế giới đó có khoảng cách nhất định với thế giới con người. Nếu như trong

văn học trung đại con người và tự nhiên hô ứng, gắn bó với nhau thì đến văn

học lãng mạn con người và tự nhiên lại luôn tách rời và lúc này tự nhiên được

coi như là một khách thể.

Cụ thể, chủ thể trữ tình trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư rõ ràng

là đang đứng ở bên ngoài “rừng thu”, để lắng nghe “lá thu kêu xào xạc”, lắng

nghe “con nai vàng ngơ ngác”. Ở bài thơ Núi xa, chủ thể trữ tình cũng đứng

bên ngoài thiên nhiên; tất cả khung cảnh “mênh mông cồn cát”, “mưa mau”,

“núi xa” đều dường như là hiện lên trong mường tượng và từ trong một tâm trí

phóng chiếu đến thiên nhiên chứ không phải là một thiên nhiên hiện diện trước

con mắt vật lí. Hình ảnh vườn thôn Vĩ hiện lên như là ảo ảnh, như là mơ của

64

Hàn Mặc Tử tạo thành một chỉnh thế thế giới mà con người chỉ là ngóng vọng

về, chứ không phải là hòa mình trong đó.

Cũng như thế, trong các bài thơ Lựa tiếng đàn, Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng

sáo Thiên Thai, Bông hoa rừng, Mộng ảo hay Hồ xuân và thiếu nữ của Thế Lữ,

hình ảnh chủ thể trữ tình không phải là một phần của thiên nhiên mà như là một

người có khoảng cách xa và nhỏ bé trước thiên nhiên đang vận động theo chu

trình của nó. Đó là cảnh “sương biếc tỏa” như “hương khói đượm đầu cau”; là

ánh nắng hồng rắc trên lá, là tiếng chim nhí nhảnh trong tán lá cây; đó là ánh

chiều thu lan tỏa mặt hồ; là rặng lau già với lá khô xào xạc; là hàng tùng rủ lá,

là đám mây hồng trập trùng bên đèo; đó là dòng suối chảy làm bọt tung trắng

xóa, là dòng nước đẩy hững hờ...Thiên nhiên được miêu tả với ngôn từ thơ ca

nhất, mộng mơ nhất về những vận động theo quy luật của chúng. Trong các bài

thơ này, những sự chuyển động đầy sức sống của thiên nhiên luôn hiện ra trạng

thái mơ huyền trừu tượng. Nó hiện ra như là một thế giới riêng biệt: nó vừa vận

hành, vừa tương tác với những sự vật ở trong nó theo chiều hướng và vận tốc

của riêng mình mà chủ thể trữ tình không can thiệp, không đứng vào giữa,

không hòa mình vào mà chỉ đứng từ xa, đứng bên cạnh để nhìn, để nghe và để

cảm nhận. Chỉ có tâm thế bên ngoài như vậy, độc giả mới được cảm nhận thế

giới tròn đầy của chiếc hồ xuân, nơi có con thuyền đưa đẩy theo dòng nước, nơi

tiếng sáo diều như vắt ngang bầu trời, nơi hàng cây lặng lẽ đứng bên hồ. Hoặc

như trong bài Tiếng sáo Thiên Thai, các hiện tượng tự nhiên và các sự vật tự

nhiên như cuốn quyện, mắc díu lấy nhau: hàng cây tùng rủ rỉ, đám mây dùng

dằng bên đỉnh đèo, ánh nắng lần lữa bám lấy hàng cây không muốn tắt. Rõ ràng

là phải có một chủ thể trữ tình lặng im cảm nhận thế giới mà không có ý định

xâm nhập vào thế giới đó thì người đọc mới được cảm nhận một thế giới như

được cắt ra từ một thế giới thực vốn không ngừng vận động, không ngừng

tương tác với muôn màu, muôn vẻ như vậy.

Có thể xác định khoảng cách của chủ thể trữ tình với thiên nhiên qua sự

xuất hiện của các giới từ đặc trưng và qua sự vắng bóng trên bề mặt câu chữ của

chủ thể trữ tình trong các bài Thơ mới. Ví như trong bài thơ Trưa hè của Bàng

Bá Lân, vị trí địa lí của chủ thể trữ tình dễ dàng được hình dùng như là đang

65

ngước nhìn lên cây đa già với tán cây lan tỏa khi có giới từ “dưới” và “trong” ở

câu thơ “dưới gốc đa già, trong vũng bóng”. Giới từ “trong” trong câu thơ “Gà

gáy trong thôn những tiếng dài” kèm với tính từ “dài” miêu tả tiếng gà đủ cho

thấy khoảng cách xa và vị trí đứng bên ngoài của chủ thể trữ tình với đối tượng

thiên nhiên được miêu tả. Và cũng phải có một khoảng cách nhất định, chủ thể

trữ tình mới có thể nhìn được cánh ve bất động như bị say nắng và đàn trâu nằm

nhắm mắt nhai cỏ. Hay như trong bài thơ Đọc sách của Chế Lan Viên, mặc dù

chủ thể trữ tình được đặt vào giữa thiên nhiên “trong vườn chuối” nhưng dễ

dàng nhận thấy nhân vật trung tâm này không có tâm thế uốn nắn và diễn đạt

thiên nhiên theo ý hướng của mình; ngược lại, các sự vật được miêu tả như là

cứ vận động theo quy luật của riêng nó, bất chấp sự chờ đợi và mong đợi một

tứ thơ của con người: “Gió bay nhộn nhịp không ra lối/Hoa tàn luống cuống

chẳng nên thơ”.

Sự vận động của các hiện tượng thiên nhiên (gió, mưa, sấm, dòng chảy,

sương, vì sao, sóng) xuất hiện chân thực và nhiều sắc thái trong Thơ mới. Đó là

“sóng.. khua bãi sậy” (Trăng mơ – Thúc Tề), “gió… lướt mặt hồ” (Đìu hiu – Đỗ

Huy Nhiệm), “sương rây mơ màng” (Muôn thủa – Ngô Hòa), “sương bạc…

cuốn mặt hồ… cuốn cả non sao” (Đà Lạt đêm sương – Quách Tấn), “sương

biếc… tỏa mờ mờ” (Lựa tiếng đàn – Thế Lữ) “nước sông trồi, trôi miên man”

(Nước sông – Thao Thao), “nước sông xuôi… mưa lao mình” (Cơn giông –

Anh Thơ), “sóng nhấp nhô… sao ngà vụt…bay lên” (Tình si – Vũ Hoàng

Chương), “nước xuống ghềnh… róc rách” (Đăng lâm – Bích Khê). Có thể thấy

sự vận động của các hiện tượng thiên nhiên trong Thơ mới được miêu tả với

một tâm thế bình thản, trân trọng của chủ thể trữ tình. Điều này khác với niềm

kính sợ, tôn trọng tự nhiên vốn là thái độ chủ đạo trong mối quan hệ giữa con

người và thiên nhiên như được thể hiện trong các câu chuyện dân gian. Cuộc

sống bầy đàn, hoang dã, mông muội, nguồn sống chủ yếu từ săn bắn, hái lượm

khiến con người luôn bị chi phối và lệ thuộc vào tự nhiên. Giữa mênh mông đại

ngàn rừng rú, kì bí và dữ dội, con người hòa mình vào tự nhiên và đã tìm ra

những công cụ lao động dần tiến bộ theo thời gian, cùng với đó là sự phát triển

về tư duy và nhận thức. Nhiều câu hỏi lớn về tự nhiên mà con người liên tục

66

phải đối mặt như bão lũ, hạn hán, sấm chớp, mây mưa, động đất, sóng thần, thứ

dữ…thậm chí vì sao có trời, có đất và có con người đã thôi thúc người nguyên

thủy khát khao được trả lời. Và lẽ dĩ nhiên, chẳng có nhà khoa học nào giải

thích cho họ, cũng như vì những hạn chế trong tư duy khiến họ không thể giải

thích nguồn gốc của tự nhiên như khoa học ngày nay chứng minh cho chúng ta.

Con người luôn thấy nhỏ bé, mong manh, bất lực và sợ hãi khi đối mặt với cái

vô hạn, vĩ đại và vĩnh hằng của tự nhiên. Khi con người sống trong hang sâu,

rừng rú thì cả thế giới hiện ra trước họ đều là những điều bí ẩn. Họ bị chi phối,

tác động mạnh mẽ từ tự nhiên, họ nhận ra sức mạnh phi thường của tạo hóa. Và

như thế người nguyên thủy tin tự nhiên là một thế lực siêu phàm, thần kì.Đúng

như Vũ Anh Tuấn nhận định con người nguyên thủy “Họ tưởng cây cũng biết

nói, núi cũng biết đi và tảng đá là một chàng hiệp sĩ hóa thạch, còn dòng sông là

một cô tiên nước,…Người man rợ nhìn thấy khắp thiên nhiên một cuộc sống

giống như cuộc sống của người. Tất cả những hiện tượng tự nhiên sở dĩ xảy ra

họ đều cho là hoạt động có ý thức của những lực lượng giống người. Từ ý kiến

trên, chúng ta có thể hiểu đó chính là cái cốt lõi của thuyết “vạn vật có linh

hồn”. Từ đó nảy sinh ma thuật, tín ngưỡng vật tổ. Những tín ngưỡng đầu tiên

thường gắn với nỗi sợ hãi hoặc niềm biết ơn của con người trước tự nhiên

huyền bí”[79, 47- 48 ]. Chính vì thế họ đi giải thích nguồn gốc tự nhiên thông

qua hình tượng của các vị thần. Thế giới mênh mang, họ không hiểu vì sao có

thế giới này và chúng ta tìm thấy cách lí giải về trời và đất của người xưa qua

thần thoại Thần trụ trời. Trong quan niệm của họ trời, đất, sông, núi, gò đồi,

biển, hồ… có được như hiện tại là do công sức lao động, kiến tạo của các vị

thần gọi là Thần trụ trời. Khi cuộc sống con người có sự phát triển, người

nguyên thủy biết trồng trọt, canh tác, đặc biệt học biết trồng lúa nước. Vì lẽ đó,

họ đã di chuyển nơi cư trú từ rừng sâu ra những lưu vực sông có hệ thống thủy

lưu. Khi ấy, họ đối mặt với lũ lụt thường xuyên. Họ tự hỏi vì sao có hiện tượng

lũ lụt hàng năm ở đồng bằng sông Hồng. Và họ lí giải hiện tượng trên bằng thần

thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh qua cơn ghen dai dẳng của thần nước Thủy Tinh với

thần núi Sơn Tinh đã cướp mất vợ, mỗi khi nhớ đến mối thù xưa kia lại dâng

nước lên cao gây ra lũ lụt cho con người….Có thể thấy, trong quan niệm của

67

người xưa, họ luôn đề cao các vị thần, sùng bái thần vì họ quan niệm các thần

đều là đấng thiêng liêng chăm chỉ lao động, kiến tạo vũ trụ, ban phát sự sống

cho con người. Cho dù các vị thần có gây họa thì đó chỉ là do tính cách của thần

chứ không phải do thù ghét con người (Thần nước – Thủy Tinh trong Sơn Tinh,

Thủy Tinh vì ghen mà dâng nước; thần Mặt Trăng trong Nữ thần mặt trời và

mặt trăng vì mải chơi hay la cà xuống trần gian vì sức nóng của mình làm con

người bị hạn hán …Như thế, trong nhận thức người nguyên thủy luôn có thái độ

muốn tiến đến, xích lại gần các vị thần – mà chính vì cảm thức sùng bái tự

nhiên đã khiến người xưa suy tôn các hiện tượng của tạo hóa thành các vị thần:

Thần nước, thần sông, thần núi, thần lửa, thần gió, thần biển, thần rừng…). Các

hiện tượng thiên nhiên được cảm thụ như là những vận động theo tự nhiên trong

Thơ mới, như vậy, khác biệt so với việc được cảm thụ như là sự sợ hãi, sùng bái

tự nhiên trong văn học dân gian. Chủ thể trữ tình của Thơ mới luôn giữ một tâm

thế và vị trí địa lí có khoảng cách và đầy tôn trọng đối với thế giới tự nhiên,

chấp nhận với sự muôn màu về diện mạo và về vận động của nó.

Sự tôn trọng đó còn khiến cho không chỉ sự vận động của các hiện tượng

thiên nhiên mà thế giới thực vật, động vật cũng hiện lên một cách chân thực và

sống động trong Thơ mới. Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được nêu

lên như là những ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những

tư tưởng của con người. Nói cách khác, thiên nhiên trong thơ trung đại là biểu

tượng của những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người về xã hội và về

đạo đức [60]. Trong Thơ mới, thế giới thực vật, động vật hiện lên đa dạng và

sinh động. Đó là hình ảnh rặng liễu rủ thướt tha bên hồ (Đây mùa thu tới –

Xuân Diệu, Cành liễu bên hồ - Phạm Huy Thông), hoa thược dược xòe cánh, có

bông trà, có hoa cúc, hoa hồng khoe đủ hương sắc ở nhiều trạng thái và cấp độ

(Lạc quan – Xuân Diệu, Dăm bài ca – Phạm Huy Thông), hoa dại bên đường

làng (Đi giữa đường thơm – Huy Cận) chim họa mi hót “dìu dặt” (Dăm bài ca -

Phạm Huy Thông), “ong hút chùm hoa cải” (Hối hận – Huy Cận), tiếng chim

vành khuyên và mùi cỏ mới (Bình yên – Huy Cận), con sóc trên cành (Hoa sử -

Đinh Hùng), v.v… Có thể thấy thế giới thiên nhiên trong Thơ mới hiện lên sống

động, muôn màu. Có được điều này là vì tâm thế của chủ thể trữ tình luôn luôn

68

ở khoảng cách xa, nhìn ngắm, lắng nghe và cảm nhận thế giới thiên nhiên mà

không bao trùm, chiếm đoạt hay điều khiển nó. “Điều quan trọng là… trong

Thơ mới … thiên nhiên không bất động mà luôn luôn chuyển động. Sự chuyển

động ấy có thể mang khuôn mặt của sự úa tàn (vốn là một nét yêu thích của mĩ

học lãng mạn), có thể mang sự cường tráng hay nỗi say mê, hoặc có thể là một

hoài nhớ về vườn địa đàng và vẻ xuân thì trong ngôn ngữ mang màu sắc nhục

thể (thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê...). Nhưng tất thảy, chúng hiện lên

như hàng chuỗi kí hiệu biểu đạt các sắc màu khác nhau của sự sống. Sự sống ấy

luôn gắn liền với mặt đất, trần thế.” [17, 44].

Điều này có thể khẳng định vị trí bên ngoài và trạng thái tôn trọng, không

kiểm soát thiên nhiên của chủ thể trữ tình trong Thơ mới. Từ góc nhìn của phê

bình sinh thái, có thể thấy Thơ mới bộc lộ trạng thái tôn trọng thiên nhiên, một

cái nhìn thiên nhiên như là một chỉnh thể, một thế giới của riêng nó. Đây là một

điểm độc đáo của Thơ mới viết về thiên nhiên dưới góc nhìn của phê bình sinh

thái. Cụ thể hơn, phê bình sinh thái trên thế giới, dựa trên sự phân tích văn học

viết về thiên nhiên của Mỹ và Anh, chủ yếu đọc con người như là một phần của

thiên nhiên. Như Thoreau nhấn mạnh ở việc ông đối đầu sự tách biệt của con

người khỏi xã hội bằng cách nhìn nhận con người như một phần của thiên

nhiên. Các loài động vật đem lại cho ông sự đồng hành và chúng chấp nhận ông

như là một phần quen thuộc trong môi trường của chúng đến mức ông đã đảo

ngược cái truyền thống xây dựng bối cảnh có trong lịch sử về sự chiếm lĩnh của

người đối với thiên nhiên và ông tự coi mình là "bị chim nhốt trong lồng, bị sự

quyến rũ của thiên nhiên giam nhốt”. Ông viết, “một nơi ở không có chim

giống như thịt mà không có gia vị. Nơi như vậy không phải là nơi ở của tôi, vì

tôi thấy mình đột nhiên là hàng xóm với những con chim, không phải bằng việc

giam giữ một con chim, mà bằng cách tự nhốt mình vào lồng để gần chúng

[138]. Trải qua cuộc sống của mình trong những khu rừng, và được gợi cảm

hứng từ thế giới các loài thực vật và động vật, Thoreau chứng minh rằng con

người có thể sống thành công khi ở giữa thiên nhiên: "Con người là gì ngoài là

một khối đất sét đang tan?" [138, 246]. Các nhà phê bình sinh thái thường đọc

văn học viết về thiên nhiên như là một ẩn dụ về sự tái sinh vì văn học thiên

69

nhiên thuyết phục độc giả tìm kiếm những phương diện mới về bản thân họ và

về thế giới qua thiên nhiên. Các chu trình mùa màng, với sự tái sinh của ao hồ

sau mùa đông băng giá, sự tái sinh của chim muông, cây cỏ vào mùa xuân hoạt

động như là lời hứa hẹn cho sự sinh sôi về mặt tinh thần của con người. Thiên

nhiên làm sống động mọi vật, vì thế không cần phép thần kì nào kéo dài sự

sống. Các nhà phê bình sinh thái thường lấy sự ví von của Thoreau giữa bản thể

con người với cái ao không đáy mà chỉ có thiên nhiên mới có thể khám phá

được như là một biểu hiện tiêu biểu nhất của quan điểm lấy thiên nhiên làm vị

trí trung tâm của hướng tiếp cận văn học này. Thoreau cho rằng con người thực

sự ở trạng thái minh mẫn nhất khi họ trở về trạng thái không giới hạn như là

thiên nhiên. Nhưng thật ấn tượng, việc đọc ra xu hướng trân trọng và đề cao

như vậy đối với thiên nhiên trong văn học viết về thiên nhiên của các nhà phê

bình sinh thái cho thấy con người vẫn là trung tâm trong vũ trụ, là mối quan tâm

hàng đầu của hướng nghiên cứu này.

Sự trân trọng với thiên nhiên, vai trò và vẻ đẹp của nó được các nhà phê

bình sinh thái nhấn mạnh trên cơ sở thiên nhiên bao chứa con người như là một

phần của nó và trên cơ sở thiên nhiên nâng cao đời sống tinh thần và sự sống

con người nói chung.

Theo Schiller, văn học viết về thiên nhiên, người viết vượt qua khoảng

cách giữa thiên nhiên và ngôn ngữ bằng cách tạo ra một bức tranh thiên nhiên

vượt qua nỗi buồn, vượt qua nỗi mất mát hay vui vẻ hân hoan. Do đó, thiên

nhiên trong văn học viết về nó không phải là các khách thể thiên nhiên mà là

các ý tưởng được biểu hiện trong thiên nhiên theo cái cách mà con người yêu

thích. Vì thế, Schiller cho rằng, thiên nhiên đã biến mất khỏi con người, con

người không còn hòa hợp với thiên nhiên mà như là đối lập với nó. Và như vậy,

như nhận định của Aslaug Nyrnes, từ góc nhìn phê bình sinh thái, điều đó có

nghĩa rằng cái nhìn của con người về thiên nhiên từ thời đại lãng mạn hoàn toàn

theo xu hướng lấy con người làm trung tâm [125,75-89]. Tuy nhiên, qua những

bài thơ về thiên nhiên của phong trào Thơ mới ở Việt Nam, có thể thấy, thiên

nhiên không được nhìn nhận như là có chức năng hay liên kết gì với đời sống

của chủ thể trữ tình. Thay vào đó, chủ thể trữ tình giữ một khoảng cách với

70

thiên nhiên, để cho thiên nhiên vận động, tương tác theo nhịp, theo cách thức và

sắc màu của nó. Nhiệm vụ của chủ thể trữ tình là chuyển tải đến người đọc

diện mạo và âm thanh của thiên nhiên bằng một thứ ngôn ngữ trữ tình, nên thơ

và giàu hình ảnh. Để thiên nhiên diễn ra theo trật tự và diện mạo của nó là tiêu

chí của sự tôn trọng đối với thiên nhiên như các nhà triết học về đạo đức môi

trường chỉ ra. Như Paul W. Taylor trong một bài viết gây tiếng vang Đạo đức

của sự tôn trọng cho thiên nhiên (The ethic of respect for nature, Environmental

Ethics, Vol 3, Fall 1981) cho rằng những diễn giải về sự tôn trọng đối với thiên

nhiên từ trước tới nay vẫn bị chi phối bởi cái nhìn lấy con người làm trung tâm.

Theo đó, hành động của con người ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và những

cư dân không phải con người là đúng (hoặc sai) phụ thuộc vào một trong hai tiêu

chí: những hành động đó có thuận lợi (hoặc không thuận lợi) cho con người, hay

những hành động đó có phù hợp và hòa điệu (hoặc không phù hợp) với hệ thống

các quy chuẩn bảo vệ và thực hiện các quyền con người hay không. Từ quan

điểm con người làm trung tâm này thì tất cả phụ thuộc vào hành động và nhiệm

vụ của con người. Con người có thể có trách nhiệm đối với các hệ thống tự nhiên

sinh thái và cộng đồng sinh vật trên hành tinh của chúng ta, nhưng những trách

nhiệm này trong mọi trường hợp phải dựa trên một thực tế là sự đối xử của con

người với các hệ sinh thái và các cộng đồng sự sống (bên ngoài thế giới con

người) có thể tiếp tục thực hiện các giá trị của con người và quyền của con người

hay không. Con người không được coi là có nghĩa vụ phát triển hoặc bảo vệ lợi

ích của những sinh vật sống không phải con người mà không liên quan đến cái

thực tế đó. Trong khi ấy, như Taylor chỉ ra, với cái nhìn hệ thống đạo đức môi

trường lấy sự sống làm trung tâm thì con người có nghĩa vụ mang tính đạo đức là

tôn trọng đời sống động vật và thực vật tự nhiên như là thành viên của cộng đồng

sinh vật trên trái đất. Con người tôn trọng sự toàn vẹn của các hệ sinh thái tự

nhiên, bảo vệ các loài có nguy cơ bị tuyệt chủ, tránh ô nhiễm môi trường. Sự tôn

trọng đó xuất phát từ nỗ lực khiến cho các sinh vật duy trì và phát triển sự sống

tự thân, tự nhiên của chúng. Bởi vì mọi sinh vật đều có giá trị của chúng; nghĩa

vụ của con người với thiên nhiên khác với nghĩa vụ của con người đối với nhau.

Và lợi ích lớn nhất của thiên nhiên cũng giống như là lợi ích lớn nhất của con

71

người, như Taylor chỉ ra, “là lợi ích cuối cùng được là chính mình” [137,198].

Các nhân vật trữ tình trong Thơ mới, với sự lặng lẽ của mình để làm nổi bật âm

thanh và sự vận động của thiên nhiên, cho thấy một tâm thế giống như Taylor

miêu tả về cái nhìn lấy thiên nhiên làm trung tâm, đó là thiên nhiên được vận

hành như chính nó.

Nhấn mạnh sự tôn trọng của chủ thể trữ tình đối với thiên nhiên trong Thơ

mới như vậy là một trong những cách tiếp cận phổ biến của phê bình sinh thái,

đó là cách tiếp cận dựa trên “cấu trúc thẩm mĩ” (aesthetic construction). Theo

tổng kết của Tidita Abdurrahmani, phê bình sinh thái có những cách tiếp cận

khác nhau về vấn đề môi trường và thiên nhiên trong văn học. Thứ nhất, đó là

cách tiếp cận dựa trên “sự cấu trúc diễn ngôn”, theo đó mức độ về sự khác biệt

giữa thiên nhiên và văn hóa được xem như là phụ thuộc vào các giá trị văn hóa

cụ thể. Cách tiếp cận thứ hai là dựa trên "cấu trúc chính trị" vốn nhấn mạnh các

các quyền lợi liên quan đến quyền lực quy định sự đánh giá cao hay đánh giá

thấp đối với thiên nhiên. Cách tiếp cận thứ ba là dựa trên "cấu trúc khoa học";

cách tiếp cận này nhấn mạnh sự mô tả vận hành của các hệ thống thiên nhiên.

Và thứ tư là cách tiếp cận dựa trên “cấu trúc thẩm mĩ”; cách tiếp cận này coi giá

trị thiên nhiên nằm ở vẻ đẹp, sự phức hợp, hoặc sự hoang dã nguyên sơ của nó.

Nếu dựa trên sự phân chia giữa khái niệm "sinh thái xã hội" (social ecology) và

khái niệm "sinh thái bề sâu" (deep ecology) trong phê bình sinh thái, mối quan

hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới có thể được xem như là biểu

hiện của khái niệm “sinh thái bề sâu”. Nếu như “sinh thái xã hội” cho rằng nhu

cầu của con người và xã hội quyết định cách tiếp cận của họ đối với thiên nhiên

thì “sinh thái bề sâu” coi thiên nhiên có giá trị trong chính nó, độc lập với các

chức năng và sự hữu ích đối với xã hội loài người. Và đặc biệt hơn, “sinh thái

chiều sâu nhấn mạnh mối liên kết giữa việc lắng nghe thế giới không phải con

người (ví dụ như coi nó như là một chủ thể im lặng) và đảo ngược lại nhưng

thực hành phá hủy môi trường vì lợi ích trong xã hội hiện đại” [110, 69-91]. Sự

tương hợp của quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới với quan

điểm “sinh thái bề sâu” cũng cho thấy ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương

Đông, đặc biệt là quan điểm của Đạo giáo, đối với mối quan hệ này. Chính các

72

nhà triết học môi trường phương Tây cũng bị ảnh hưởng bởi Đạo giáo, một

cách thức sống đạt được bằng cách quan sát dòng chảy của các sự kiện tự nhiên

như nước, sương, lửa, v.v… Các nhà Đạo giáo nhấn mạnh nguyên tắc phi ngã

để hòa hợp với thiên nhiên. “Để hiểu và tôn trọng các chu trình thiên nhiên,

chúng ta cần sự chú ý mang tính Đạo giáo vào những vận hành tinh tế của các

quy tắc và các chu trình của thiên nhiên” [92, 228-237]. Quan niệm sống theo

đạo của thiên nhiên đã tán dương cái quy tắc sinh thái và tiến hóa rằng con

người là một phần của thiên nhiên và phải định hình cách sống của con người

cho phù hợp với các chu trình và vòng quay của tự nhiên.

3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an sinh thái của

con người

Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, con người đã biến đổi bầu khí quyển

của trái đất, khiến hành tinh của chúng ta trở nên khắc nghiệt hơn, mực nước

biển dâng cao, làm tan băng và tuyệt chủng diễn ra hàng loạt. Giai đoạn của sự

tác động quan sát được của con người lên các hệ sinh thái của trái đất được gọi

là Thế nhân sinh (Anthropocene). Sự thay đổi khí hậu do con người gây ra đã

ảnh hưởng đến trái đất và cũng ảnh hưởng đến văn học. Phê bình sinh thái, nhất

là ở làn sóng thứ ba, nhấn mạnh đến việc tìm hiểu những phản ứng văn học –

những phản ứng mang tính văn học – đối với các cấp độ khủng hoảng môi

trường. Lí thuyết về cách tiếp cận theo hướng phê bình sinh thái bối rối với

những sự bất ổn do sự thay đổi về thời tiết, khí hậu và trái đất vừa không phải

tự nhiên và vừa không nằm dưới sự kiểm soát của con người. Văn học đã trở

thành một công cụ thiết yếu để tạo dựng nghĩa trong thời đại của những thay

đổi về khí hậu; văn học được xem mở rộng biên độ của khoa học thời tiết vượt

lên trên phòng thí nghiệm, chuyển những dự đoán mang tính trừu tượng thành

những trải nghiệm đầy chủ quan và mang tính vật thể về nơi chốn, bản sắc và

văn hóa. Trong khi các tổ chức chính trị và kinh tế thay đổi vì cuộc đấu tranh

cho sự vững bền thì văn học buộc phải thích nghi với những ranh giới mới giữa

sự thật và sự thêu dệt, giữa thiên nhiên và kinh tế, giữa những sự lựa chọn cá

nhân và những hệ thống các hiện tượng tự nhiên lớn hơn. [141]

73

Nhà xuất bản đại học Virginia đã xây dựng series sách Dưới tín hiệu của

thiên nhiên: Phê bình sinh thái (Under the sign of nature: Ecocriticism) bao

gồm các công trình khác khảo sát những bất thường về thời tiết đã được phản

ánh ra sao và đã định hình diện mạo văn học và nghệ thuật như thế nào ở Mỹ.

Nói cách khác, đây là một chuỗi dự án học thuật kết hợp phương pháp và tư

tưởng của ngành nghiên cứu môi trường và ngành nghiên cứu văn học và văn

hóa; vấn đề thiên nhiên chủ yếu được khám phá là những bất thường thuộc về

tự nhiên và những bất thường do con người gây ra. Nằm trong series này, cuốn

Nhảy múa với thiên tai: Lịch sử môi trường, tự sự và đạo đức cho những thời

điểm nguy ngập (Dancing with disaster environmental histories, narratives,

and ethics for perilous times. The University of Virginia Press, 2015) của Kate

Rigby khẳng định những tác động tai hại của sự biến đổi khí hậu đang bắt đầu

được cảm nhận trên toàn thế giới ngày nay cho thấy sự phức tạp không thể giải

thích được trong lịch sử nhân loại và lịch sử tự nhiên. Kate Rigby tập trung vào

miêu tả phức hợp về thảm họa thiên tai. Kate Rigby đã phân tích nhiều thảm

họa có trong quá khứ, từ Cái chết Đen (Black death) của thời Trung cổ đến

những trận siêu bão của thế kỷ XXI để chỉ ra sự tương tác năng động giữa vô số

các yếu tố con người và các yếu tố không con người trong mối quan hệ nhân

quả. Tập trung vào mối liên hệ giữa những cách thức mà thiên tai bị các câu

chuyện kể về chúng định hình và đóng khung, xu hướng phản ứng của con

người trước thiên tai. Trong thực tế Rigby cũng cho thấy cách thức các tác

phẩm tự sự hư cấu mời gọi những suy ngẫm mang tính đạo đức về mối quan hệ

giữa con người với nhau, với môi trường trái đất chưa bị quản thúc bởi con

người và với các loài sinh vật khác khi đối mặt với thảm họa sinh thái như thế

nào. Một công trình khác khám phá sự phản ứng của văn học đối với những vận

động và diện mạo mang tính hủy diệt của tự nhiên là cuốn Bầu trời của nhà

máy chúng ta:Sương mù London trong tiểu thuyết Anh từ Dickens đến Woolf

(The Sky of our manufacture: The London fog in British Fiction from Dickens

to Woolf, 2016) của Jesse Oak. Cuốn sách này đạt giải thưởng danh giá nhất của

Hiệp hội thế giới về nghiên cứu văn học và môi trường (Taylor ASLE Book

Awards, Association for the Study of Literature and the Environment) năm

74

2017 giải thưởng Sonya Rudikoff Northeast Victorian Studies Association

Award) của Hội nghiên cứu Đông Bắc thời Victoria (Northeast Victorian

Studies Association) năm 2018. Sương mù ở London tạo thành khói khổng lồ

vào năm 1905, đây là một sự thừa nhận có ý nghĩa, thường được coi như là ví

dụ đầu tiên của sự thay đổi khí hậu do ngành công nghiệp hiện đại tạo ra. Cuốn

sách cũng chỉ rõ văn học Anh viết về sương mù phủ đặc thành London làm mờ

nhòe ranh giới giữa thiên nhiên và xã hội theo những cách hấp dẫn nhất. Tác

giả phân tích những miêu tả về sương mù London trong tiểu thuyết cuối thế kỷ

19 và đầu thế kỷ 20 để khám phá sự xuất hiện của những biến đổi khí hậu do

con người gây ra. Trong quá trình này, Taylor khẳng định tầm quan trọng của

tiểu thuyết trong việc tìm hiểu sự thay đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và sự

sụp đổ sinh thái. Việc tác giả xây dựng lại các con đường đi đến nhận thức của

con người về hậu quả đối với tự nhiên do nền công nghiệp gây ra đã đem lại

thêm ý nghĩa cho nhận thức đó, ấy là nhận thức mở ra một kỉ địa chất mới trong

sự biến đổi nhân loại thành một lực lượng làm thay đổi khí hậu không chỉ thay

đổi bầu không khí vật lý của chúng ta mà còn thấm trong nó những ý nghĩa

mới. Cuốn sách đã phân tích các tác phẩm nổi tiếng từ thể loại tiểu thuyết cho

đến báo chí, tranh hoạt hình, các bài viết nghiên cứu khoa học và công nghệ khí

tượng để tiết lộ một mối quan hệ kì lại giữa các thực hành mang tính văn hóa,

văn minh của con người và bầu trời trên cao của họ.

Cũng khám phá sự tham gia của văn học vào các vấn đề của môi trường là

công trình Các bóng xanh khác nhau: Văn học châu Phi, công lý môi trường và

sinh thái học chính trị (Different shades of green: African literature,

environmental justice, and political ecology, 2000) của Byron Caminero-

Santangelo. Đây là một bản phân tích chuyên sâu về sự xung đột xã hội, thay

đổi môi trường và chủ nghĩa đế quốc ở châu Phi. Cuốn sách chỉ ra di sản văn

hóa về văn học môi trường ở châu Phi vốn thường bị bỏ quên do quan niệm về tự

nhiên phương Tây và phong trào môi trường phương Tây chi phối. Dựa trên một

nghiên cứu mang tính liên ngành sử dụng các nghiên cứu hậu thuộc địa, sinh thái

chính trị, và lịch sử môi trường cũng như văn học về môi trường ở châu Phi, Byron

Caminero-Santangelo nhấn mạnh các kết nối trong văn học môi trường nơi đây,

75

nhấn mạnh cách thức các nhà văn châu Phi đã thách thức các hình thức bất công và

mang tính phá hoại về sinh thái của sự phát triển hiện đại và khai thác tài nguyên.

Với Byron Caminero-Santangelo, chủ đề thiên nhiên xanh đã tạo cơ hội cho các

nhà văn châu Phi như Chinua Achebe, Ngũgĩ wa Thiong'o, Bessie Head, Nadine

Gordimer, Zakes Mda, Nuruddin Farah, Wangari Maathai và Ken Saro-Wiwa có

thể được đặt cạnh nhau, đối thoại với nhau, để từ đó khám phá các vấn đề nan giải

cho những ai tham gia vào cuộc đấu tranh vì công lý môi trường, trong nghiên cứu

về sinh thái chính trị và trong các nghiên cứu mang tính nhân văn về môi trường,

từ đó thúc giục sự tư duy và trí tưởng tượng tiếp tục về một tương lai công bằng

hơn, bền vững hơn cho châu Phi.

Xuất bản gần đây nhất trong series về mối quan hệ văn học và biến đổi bất

thường về khí hậu là cuốn Sáng tác lại thơ sinh thái: Thơ Bắc Mỹ về thế nhân

sinh tự ý thức (Recomposing ecopoetics: North American poetry of the self-

conscious anthropocene, 2018) của Lynn Keller. Cuốn sách tập trung vào thi

pháp học sinh thái của thế kỉ XXI để phân tích các bài thơ về “thế nhân sinh”,

một giai đoạn trong đó con người ý thức rộng rãi về mức độ và sự trầm trọng

của những tác động của mình lên hành tinh. Cuốn sách tập trung vào các tác

phẩm được viết từ năm 2000 của mười ba nhà thơ Bắc Mỹ, những người cố

gắng bước qua các quy ước văn học để tìm kiếm các hình thức và ngôn ngữ phù

hợp với các vấn đề môi trường phức tạp. Keller dựa trên phương pháp thực

nghiệm ngôn ngữ và dựa vào các nguồn tài liệu văn học truyền thống để khẳng

định rằng các nhà thơ đương đại Bắc Mỹ đã phản ứng với các vấn đề môi

trường do con người tạo ra và và coi "thiên nhiên" không chỉ là một phạm trù

mang tính văn hóa và mang tính bao bọc, khép kín như thơ ca về thiên nhiên

trong truyền thống đã làm. Nghiên cứu liên ngành này mang một bước tiên

phong trong phê bình sinh thái đó là sự xem xét những tài liệu phong phú về

thơ ca môi trường đương đại. Công trình còn đem lại cho các ngành khoa học

nhân văn về môi trường những cách thức mới để hiểu các khía cạnh văn hóa

của thế Nhân sinh.

Cũng tập trung vào thể loại thơ và các vấn đề môi trường là cuốn Tạo

dựng thiên nhiên: Thơ Mỹ hiện đại, kiến trúc phong cảnh và quy hoạch thành

76

phố (Building natures: Modern American poetry, landscape architecture, and

city planning, 2017) của Julia Daniel. Cuốn sách tái hiện những ảnh hưởng của

kiến trúc cảnh quan, quy hoạch thành phố và quản lý công viên đối với thơ ca

Mỹ để xem cách thức các nhà hiện đại đã gắn kết với thế giới xanh và sân chơi

công cộng nhân tạo trong thế kỷ XX như thế nào. Các nhà thơ hiện đại đã miêu

tả công viên trong hình thức thơ ca khám phá các nguyên tắc thẩm mỹ và không

tìm được những lý tưởng dân chủ ẩn chứa trong các kiến trúc xanh. Daniel Julia

cho rằng thơ hiện đại Mỹ không chỉ nhấn mạnh tính nghệ thuật ẩn đằng sau

những biểu tượng về không gian xanh mà còn chỉ ra cách thức các công viên

đóng khung, chứ không phải là cải thiện, những bất an, lo âu của con người về

việc ngày càng đông dân cư sống và làm việc trong các trung tâm đô thị đông

đúc và không trong lành.

Như vậy, khám phá sự phản ánh và sự tham gia của văn học (ở thể loại

tiểu thuyết và thơ ca) vào những vấn đề thiên tai không còn là một vấn đề mới

trong nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Ở Việt Nam, như đã chỉ

ra ở Chương 1, những tập trung mang tính học thuật về mối quan hệ giữa văn

học và các vấn đề thiên tai (như là kết quả của nền công nghiệp hóa, hiện đại

hóa) chủ yếu dựa trên những khảo sát về văn xuôi đương đại. Thơ ca, đặc biệt

là Thơ mới lãng mạn, cơ bản được khai thác ở phương diện là phản ánh, gợi

lên, khuyến khích mối quan hệ giao hòa giữa con người và thiên nhiên; theo đó

thiên nhiên là nơi bền vững, là cội nguồn, là điểm tựa đối lập lại với xã hội, với

đô thị, với công nghiệp, với khoa học, hiện thân vật chất của đời sống tinh thần

bất ổn, vướng bận và tham vọng. Mảng thơ viết về thiên tai và các vấn đề xã

hội đi kèm chưa được chú ý nhiều, đặc biệt là từ góc độ phê bình sinh thái, chưa

được tìm hiểu trong các công trình nghiên cứu về Thơ mới.

Thơ mới trước tiên thể hiện sự ý thức của con người về các hiện tượng tự

nhiên không thuận lợi cho con người. Nói cách khác, nhân vật trữ tình trong

Thơ mới thừa nhận những hiện tượng thiên nhiên không chiều lòng người của

miền đất vùng nhiệt đới gió mùa; những phản ứng sinh lí của con người trước

khí hậu, thời tiết đặc trưng của miền nhiệt đới và ở khu vực nông thôn. Ví dụ,

77

bài thơ “Vào hè” của Anh Thơ miêu tả thời tiết oi nực, nhễ nhại và câm lặng

đặc trưng của mùa hè miền Bắc Việt Nam:

Nắng đã nực, cây vườn im thở gió

Ngõ đầy ruồi, vắng bóng bướm ong qua.

...

Trong đồng lúa cũng bắt đầu khát nước

Lũ gái tơ uể oải kéo giây gầu.

(Vào hè – Anh Thơ)

Cái kiểu nắng nực, cái hơi nóng dày đặc tạo nên một không gian đặc

quánh, ngột ngạt; không khí không chuyển động, sự vật im lìm làm cho không

gian càng tù đọng; sự xuất hiện của ruồi muỗi cho thấy không khí ẩm thấp, nhễ

nhại, không khí không thể lưu thông; không khí trưa hè như vậy rút hết sinh lực

con người, con người cũng trở nên ủ rũ, mệt mỏi, ngay cả những người trẻ tuổi

cũng trở nên “uể oải”. Bài thơ như là một sự miêu tả bằng thơ đặc trưng về địa

lí trong thời gian giữa hè của đồng bằng Bắc Bộ vốn vừa nhiệt độ cao, vừa có

độ ẩm nhiều khiến cơ thể, tâm trí con người trở nên uể oải, rã rời.

Sự thừa nhận những điều kiện thiên nhiên tất yếu nhưng bất lợi đối với

trạng thái và cơ thể con người trở thành chủ đề chủ đạo trong bài Đồng làng của

Đoàn Văn Cừ. Theo đó, những đặc trưng địa lí (về đất đai, khí hậu, mực nước,

nhiệt độ) khắc nghiệt đối với sinh hoạt của con người và với vật nuôi cây trồng

ở vùng đồng bằng miền Bắc Việt Nam được miêu tả một cách trần trụi.

Tháng sáu đêm chiều nước cạn khô

Tiếng gà xao xác gáy canh tư

...

Tháng bảy trời mưa ngập bốn bề

Sóng đồng khuya đập các bờ tre

...

Gió mưa tháng một lạnh tê người

Đất ruộng cày lên xếp luống phơi

...

Tháng chạp đương kỳ đổ ải khô

78

Chỗ gieo xỏ cuốc, chỗ phang vồ

(Đồng làng – Đoàn Văn Cừ)

Bài thơ đọc ra những đặc điểm khí hậu điển hình của miền Bắc trong

từng thời khắc. Sự xuất hiện của thời gian cụ thể trong bài thơ (“tháng sáu”,

“tháng bảy”, “tháng một”, “tháng chạp”) tạo ấn tượng về sự bất biến của những

hiện tượng khắc nghiệt từ thiên nhiên được miêu tả. Như là ngàn đời nay vẫn

vậy, tháng sáu là tháng khô hạn và nắng nóng nhất trong năm, tháng bảy là

tháng ngâu – tháng mưa nhiều nhất, tháng một là thời điểm rét nhất dù về lí

thuyết đây là mùa xuân. Và ở mỗi thời điểm, việc nước cạn khô vào tháng sáu,

mưa ngập đồng ngập ao, hay “tháng một lạnh tê người” trở nên bình thường với

con người của miền Bắc Việt Nam. Dường như là đã thành quy luật việc khí

hậu không ưu đãi con người và không ưu ái các loài sinh vật. Hơn nữa, công

việc đồng áng của con người vẫn diễn ra vào đặc trưng khí hậu của từng thời

điểm: tháng một cày đất, tháng chạp đổ ải, đập đất, gieo hạt.

Không những vậy, sự biến đổi về thổ nhưỡng theo thời gian, kèm theo đó

là sự xóa nhòa các dấu vết của con người, cũng được miêu tả như một quy luật

trong bài thơ Chiều mưa trên mộ địa của Phan Văn Dật:

Chốn ngày xưa là rộng rãi

Nước sông còn chưa lấn vào

Nay mỗi năm đất càng ngày càng lở

Mỗi ngày phô thêm vài nắm cổ lâu

Đất lở, trơ bờ thẳm

Xương tàn trôi theo nhau

(Chiều mưa trên mộ địa - Phan Văn Dật)

Diện mạo thổ nhưỡng, đắp đổi đất đai giống như sự xoay vần của vũ trụ.

Sự biến mất của cơ thể sinh học của con người (hài cốt) cũng là thuận theo tự

nhiên. Bài thơ như vậy dường như ẩn chứa một triết lí về mối quan hệ giữa con

người và tự nhiên, đó là tâm lí chấp nhận và sống chung những điều kiện khắc

nghiệt như là quy luật của thiên nhiên. Với việc đem vào thơ ca những phương

diện và điều kiện không thuận lợi cho con người của thiên nhiên -Thơ mới -

như thế, phản ánh và phát triển tinh thần hài hòa với thiên nhiên và lối sống

79

thuận theo tự nhiên của con người bất kể các phương diện bất tiện và thuận tiện

của nó. Gợi lên triết lí như vậy, Thơ mới dường như cố gắng xây dựng một

quan hệ biện chứng và gián tiếp giữa tự nhiên và văn hóa. Thơ mới, nhìn từ

phương diện này, phải chăng đang tái khẳng định con người như là một phần

của tự nhiên, hay như là một phần của cái chu trình tự nhiên giống như phần

còn lại của thế giới tự nhiên này. Thiên nhiên, như là sức mạnh vũ trụ, cũng

dường như là một không gian không yên ổn của những con người.

Ở mức độ cao hơn nữa, thiên nhiên trong Thơ mới còn trở thành lực lượng

đe dọa đời sống con người; cùng với các lực văn hóa-xã hội, thiên nhiên tham

gia vào phá hủy con người. Trong Thơ mới, con người trốn chạy khỏi đô thị bất

ổn, chết chóc và cô đơn để tìm về với thiên nhiên như là nơi cội nguồn, nơi chia

sẻ. Xu hướng đó phản ánh tư tưởng cổ điển của phê bình sinh thái ở làn sóng

đầu tiên, đó là sự phân chia nhị nguyên giữa thiên nhiên và văn hóa. Nhưng

cũng trong Thơ mới lại có những bài thơ cho thấy sự không phù hợp của tính

nhị nguyên phân đôi văn hóa và tự nhiên. Những bài thơ về thiên tai của Thơ

mới cho thấy con người vừa vật lộn và chạy trốn khỏi xã hội, vừa chống chọi

với tự nhiên.

Một loạt bài thơ trong phong trào Thơ mới nói về thiên tai của vùng quê

sông nước như là những câu chuyện kể, có sự kiện, có cốt truyện và có nhân

vật. Trong đó, hai nhân vật chính bao trùm là con người và nước, diễn biến câu

chuyện diễn ra theo một trật tự là nước tấn công con người và những phản ứng

tâm lí, sinh lí, thân thể của con người nhằm trốn chạy khỏi tự nhiên. Kết thúc

phần thắng luôn thuộc về thiên nhiên. Như trong bài thơ Mưa đêm lều vó của

Trần Huyền Trân:

Mưa lũ ao bèo mưa trắng đêm

Cây bờ ngơ ngác nước đang lên

Lều tôi kiến đã dời lên mái

Bà lão chài lo chửa có thuyền

(Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân)

Con người và sinh vật ở đây phản ứng thụ động trước lũ lụt: “cây bờ ngơ

ngác”, “kiến… dời lên mái”, và “bà lão chài lo chưa có thuyền”. Sự bất lực của

80

con người trước thiên nhiên cũng được thể hiện trong bài thơ Mưa ngàn của Hồ

Dzếnh:

Tháng tư nước lũ, mưa ngàn

Nước xuôi đem hết lá vàng gửi xuôi

Đường về: sông ngập, cầu trôi

Lối sang quê bạn xa xôi quá chừng!

(Mưa ngàn - Hồ Dzếnh)

Những sự vật thuộc về văn hóa – vật thể do con người làm ra để sinh tồn –

như “thuyền”, “lều”, “cầu”, “đường về” trở nên vô ích và thậm chí bị tàn phá

trước sự tấn công của thiên nhiên (cầu bị trôi, đường bị ngập).

Trong thơ của nữ thi sĩ Anh Thơ, thiên tai của thiên nhiên được miêu tả

như là cơn “thịnh nộ” của đất trời. Cả nắng và lũ lụt đều hiện lên ở trạng thái dữ

dội, cuồng nhiệt: “nắng suốt trời vàng rãi nắng!”. Tất cả các sinh vật sống bị vắt

kiệt sinh lực trước nắng hạn “Vườn chuối rũ héo dần trong im lặng/Những rau

bèo chết cạn cả trong ao/Ngoài đồng ruộng lúa vàng khô cháy xác” (Đại hạn).

Bão, lũ cũng được miêu tả như cơn cuồng phong thịnh nộ: “Mưa ồ ạt suốt trời

tuôn đổ thác/Gió gầm gào khắp đất quật cây lên/Sét thịnh nộ từ trời cao giáng

lại!/Và mưa gầm và gió giật cây rung/Từng hồi ốc rú dài trong sợ hãi/Trong gió

gầm rin rít lũy tre xanh” (Đêm giông tố). Cảnh đê vỡ được miêu tả như một cơn

đại hồng thủy: “Đê đã vỡ một đêm mưa tầm tã/ Nước băng sông ồ ạt chảy trôi

đồng” (Lụt). Bài thơ Tiếng sóng của Phạm Huy Thông cũng chia sẻ cảnh tượng

bão lũ hãi hùng, cơn bão lũ trở nên khốc liệt hơn khi được đặt trong không gian

đêm tối:

Có nhiều đêm tối đen như địa phủ,

Sóng dữ đội như ma thiêng kêu rú,

Đương khi, trong đám tối chớp bập bùng

Và giông gào và sấm sét đùng đùng

Hỡi sóng đêm hỗn độn lôi đình quát tháo

Cả vũ trụ như toan vùi trong trận bão!

(Tiếng sóng – Phạm Huy Thông)

81

Các động từ mạnh “ồ ạt…tuôn đổ”, “gầm gào”, “quật cây”, “giáng lại”,

“gầm…giật cây”, “rú dài”, “gầm rin rít”, “kêu rú”, “bập bùng”, “giông gào”,

“sấm sét đùng đùng”, “hỗn độn lôi đình quát tháo” nhấn mạnh cơn vần vũ

cuồng nộ của thiên nhiên. Và cả vũ trụ, trong đó có con người, trở nên nhỏ bé,

bất lực “như toan vùi trong trận bão!”. Cũng như thế, bài thơ Tình thâm của Hồ

Văn Thảo cũng cho thấy sự “ác nghiệt” của thiên nhiên:

Một làn sóng to ác nghiệt

Từ từ đập táp vào hông

Nghiêng ...rồi ngã...chú tài công

La trời: “Úy! mau mau! Chết!

...

Trong bể tối một người đang lội

Tay bồng con, tay nương vợ, chới với hụp trồi

...

Im hơi lặng...từ từ chìm đáy nước

Muốn kéo vợ, trông mình đà kiệt sức

Ráng nâng con lặn lội thẳng vào bờ

Trông ra một dãy mịt mờ

Xác người vô phúc vật vờ nơi nao

(Tình thâm - Hồ Văn Thảo)

Như một thước phim ngắn ghi lại cảnh tượng một gia đình gặp phải thủy

nạn, sóng to cuốn trôi, người chồng nỗ lực cứu vợ và con nhưng kiệt sức, vợ hi

sinh ra đi để chồng cứu con. Các bài thơ trên hàm ẩn nghĩa về nỗi hãi sợ, kinh

hoàng của con người trước thiên nhiên. Con người trở nên nhỏ nhoi, bất lực

trước vũ trụ; các vật phẩm văn hóa, văn minh của con người được miêu tả trong

trạng thái trốn chạy khỏi thiên nhiên, bất lực và bị lật đổ bởi thiên nhiên. Ở đây,

dường như con người đang ở đỉnh điểm trong đời sống của họ - nơi ranh giới

giữa cái sống và cái chết, những tù nhân của văn hóa và lịch sử này nhận ra

rằng cuộc đời của họ bị thiên nhiên cai trị; rằng họ không bao giờ có thể sống

trong một không gian thoát khỏi tự nhiên. Các bài thơ dường như là đang chứng

82

tỏ rằng con người không thể mong chờ kiếm tìm sự khuây khỏa từ văn hóa hay

là tự nhiên.

Ở trong các bài thơ về thiên tai của Thơ mới có một ý thức cao độ về

không gian và nơi chốn như là một thực tế mà tác giả trữ tình và các nhân vật

cảm nhận sâu sắc. Và như nhà phê bình như Neil Evernden khẳng định rằng

đây là cách thức phát triển câu chuyện của các cây bút sinh thái [104, 16-20].

Sự nhạy cảm của con người với địa lí nơi mình ở có thể tìm thấy trong bài thơ

Điềm ứng: lành dữ, thời tiết của Đoàn Văn Cừ. Vì vậy, các hiện tượng thiên

nhiên đều tương ứng với số phận con người hay cả một cộng đồng: hiện tượng

“gấu ăn trăng” là điềm báo “Dân tình đói kém”; “gà mái gáy” là tín hiệu của tin

gở; tương tự như thế: “Mống mọc đằng đông: trời sắp bão/Cua bò đường cái:

lụt mênh mang/Trai nước chiều hôm: sắp gió mưa/Trăng quầng: đại hạn, ruộng

đồng khô/Kiến bò lên giậu: mưa lầm lội/Trăng sáng trung thu: ứng được

mùa/Đêm tối ma trơi hiện lững lờ/Xanh lè: trời nắng, đỏ: trời mưa/Quạ kêu:

người chết, hồn sa đất/Quạ réo: đưa tin khách đến nhà”. Các sự vật thiên nhiên

như tương ứng với nhau; hiện tượng thiên nhiên này là tín hiệu của hiện tượng

thiên nhiên khác. Bài thơ như là những ghi nhận cũng như ý thức của con người

về sự chủ động và nhạy bén của các sinh vật tự nhiên hay của thế giới không

phải con người. Hơn nữa, bài thơ còn là sự tự ý thức của con người về mối liên

hệ không thể tách rời giữa sinh mệnh của mình và sinh mệnh của muôn loài với

sự liên đới giữa sinh mệnh con người và sự vần xoay của vũ trụ.

Đáng chú ý, xu hướng của mối liên hệ này chủ yếu là những điềm gở,

những tai họa. Điều này cho thấy sự bất an của con người trong vũ trụ. Trong

một bài thơ khác, Đoàn Văn Cừ gọi tên đích danh sự bất an này là Những nỗi lo

sợ phấp phỏng.. Bài thơ ngắn nhưng bao gồm những tính từ chỉ tâm trạng

thường trực của con người trước thiên tai: “trẻ già sợ”, “nhao nhác lo kè vỡ”:

Tháng sáu mưa rây chớp sáng lòa

Gió bay rơm rạ xoáy tròn xa

Trẻ già sợ bão tìm cơ tránh

Lấy cả chày chân để chống nhà

Tháng bảy vang lừng trống hộ đê

83

Trời mưa nước lũ cứ tuôn về

Người làng nhao nhác lo kè vỡ

Đêm tối còn đi chặt gốc tre.

(Những nỗi lo sợ phấp phỏng - Đoàn Văn Cừ)

Điều đáng nói ở đây là dường như cái thời điểm tháng sáu chưa đến nhưng

nhân vật và tác giả trữ tình đã phấp phỏng lo sợ về những hiện tượng thiên tai

xảy đến. Cũng giống như các nhân vật trong bài thơ, tất cả đều lo xa và thậm

chí là có những hành động thái quá nhằm đối phó lại thiên nhiên. Bão chưa đến

nhưng con người đã “chống nhà” và kè chưa vỡ nhưng người đã hối hả “đi chặt

gốc tre” thậm chí là trong đêm tối. Điều này cho thấy con người sống trong

trạng thái lo âu, bất ổn. Thiên tai và những hiểm nguy ẩn tàng trong tự nhiên

được xem như là có thể xảy ra bất cứ lúc nào và con người luôn thường trực

cảm giác bất an. Phạm Huy Thông gọi mối hiểm họa thường trực từ thiên nhiên,

hay đúng hơn là sự bất an, bất lực thường trực của con người trước thiên nhiên

như là một quy luật ngàn đời bằng câu thơ:

Trong vòng đau tự ngàn xưa nhất định

Bắt loài người phải lăn lộn quay cuồng.

(Tiếng sóng – Phạm Huy Thông)

Các sự kiện thiên tai xảy ra với con người khiến họ loay hoay và thậm chí

là chết đứng theo đúng nghĩa đen của từ này. Yi-Fu Tuan, một nhà địa lí học

nhân văn trong cuốn sách Phong cảnh của nỗi sợ hãi [147]. Miêu tả sự kết nối

kì lạ đó – sự kết nối xuất hiện giữa ý thức con người và một nơi chốn – như là

một “ý thức về nơi chốn,” nơi thỉnh thoảng các địa điểm có thể trở thành nơi

chốn xuất hiện nỗi kinh hoàng hay thành nơi phong cảnh đầy ắp những hình

ảnh đen tối của tâm trí cùng nỗi hãi sợ đối với hạn hán, động đất, lũ lụt, nạn đói

và bệnh tật mà các thành viên của một cộng đồng đều cảm thấy. Không gian

làng quê với sự xuất hiện thành quy luật của các sự kiện thiên tai như trở thành

không gian chứa nỗi sợ của những con người bị giam cầm, con người bất lực,

con người bị thất bại.

Nhưng Thơ mới về thiên tai, nhìn từ góc độ sinh thái, không chỉ phản ánh

sự vỡ mộng của con người về bản thân mình trước thiên nhiên và vỡ mộng về

84

thiên nhiên không còn là chốn đi về an bình hay như là sự bất biến. Thơ mới về

thiên tai, với tứ thơ được phát triển dựa vào sự kiện về thời tiết, phản ánh và gia

nhập vào diễn ngôn về công lý môi trường và công lí xã hội. Dễ dàng nhận ra,

các bài thơ về thiên tai đều tập trung vào khu vực nông thôn, người phải gánh

chịu thiên tai là những người có thể được xếp vào phạm trù mà Karen Warren

gọi là “những nhóm Khác thuộc loài người” trong cuốn Triết học nữ quyền sinh

thái: Cái nhìn phương Tây về triết học đó là gì và tại sao nó lại là một vấn đề

(Ecofeminist philosophy: A Western perspective on what it is and why it

matters, Karen J Warren, Lanham: Rowman&Littlefield Publishers, Inc,

2000)[144]. Theo đó, Warren gọi những người bị nhược tiểu như phụ nữ, người

da màu, trẻ em, người nghèo là những người thuộc nhóm khác và vị trí nhược

tiểu hay tình trạng bị chiếm hữu của nhóm người này có liên quan đến sự chiếm

hữu bất công đối với tự nhiên. Nhân vật thất bại và kiệt sức trước thiên nhiên

như thấy trong các bài Thơ mới là phụ nữ. Đó là cô gái thăm ruộng trong Đại

hạn và “lũ gái tơ” kéo nước giếng trong bài Vào hè của Anh Thơ; đó là người

vợ chết chìm trong Tình thâm của Hồ Văn Thảo. Sự xuất hiện của hình tượng

phụ nữ trong các bài thơ về hạn hán của Anh Thơ tương ứng một cách thú vị

với miêu tả của Karen Warren về vị trí bị chiếm hữu (sức lao động) một cách

bất công trong điều kiện hạn hán. Theo Warren, ở những nước châu Á, châu

Phi, phần lớn phụ nữ và trẻ em chịu trách nhiệm lấy nước. Sự khan hiếm nước

khiến cho phụ nữ phải đi bộ xa hơn để kiếm nước. Và trong Thơ mới, sự xuất

hiện hình ảnh những phụ nữ chán nản trong nắng hạn vừa phản ánh tình trạng bị

sở hữu sức lao động của họ - đồng áng, làm vườn bị định danh là công việc của

phụ nữ - vừa phản ánh độ rủi ro, nguy hiểm của phụ nữ trước vấn đề của thiên

tai. Warren cũng cho rằng: Trong những người chịu thiệt hại do những phá hủy

về môi trường, như người da trắng, người da màu, người nghèo, trẻ em, người

già, dân thuộc địa, dân Thế giới thứ ba và các nhóm người khác, thì phụ nữ

thường gặp những rủi ro và hiểm nguy. Từ năm 1902 đến năm 1918, đồng bằng

sông Hồng bị ngập lụt hàng năm; vào năm 1913 và 1915, nhiều trận lụt tàn phá

đã phá hủy 94.000 và 365.000 ha ruộng lúa. Trong những năm trước thế chiến

I, tiêu thụ gạo bình quân đầu người giảm và đói đã lan tràn. Tình trạng này trở

85

nên tồi tệ hơn vào năm 1916, do hậu quả của hạn hán và lũ lụt, vụ thu hoạch lúa

đã chỉ bằng một nửa vụ mùa của năm trước. Ngay cả các tỉnh phía Bắc của An

Nam-Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh cũng bị ảnh hưởng. Vào những năm

1920, những nguyên nhân tương tự đã đẩy nông dân miền Bắc đồng ý trở thành

những người lao động trong khu vực cao su phía Nam và thậm chí xa hơn trên

đảo New Caledonia [95]. Vào những năm 1936-1937, từ miền Bắc cho đến

miền Trung Việt Nam trải qua kì hạn hán bất thường và những trận lũ lụt thảm

khốc. Như miêu tả của Geoffrey C. Gunn, mùa hè năm 1937, gió mùa xuất

hiện, tạo ra những trận mưa dài trên toàn đồng bằng Sông Hồng. Ở các tỉnh như

Bắc Ninh, Hải Hương, Hưng Yên, Bắc Giang, đê vỡ đồng loạt, nước tràn ra

khắp khu vực. Điều này khiến cho việc năng suất lúa sụt giảm đáng kể. Nạn đói

đe dọa [112]. Như vậy, Thơ mới tham gia vào phản ánh điều kiện tự nhiên của

địa phương và những tác động của nó lên đời sống tâm lí, thân thể và đời sống

vật chất con người. Có thể nói, Thơ mới, dường như đồng điệu với các vấn đề

liên quan đến công lý môi trường và công lí xã hội, những vấn đề đang được

các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ hai tập trung khai thác và phát

triển trong tiếp cận văn học.

3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể

3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị

Thơ mới ra đời vào đầu thế kỷ XX, khi xã hội Việt Nam bước vào quá trình

đô thị hóa và công nghiệp hóa dưới sự cai trị về kinh tế, giáo dục và văn hóa của

thực dân Pháp. Những trí thức triều đình ngày càng trở nên không hợp thời và

trong xã hội nổi lên một tầng lớp trí thức hiện đại mới; họ là những người am hiểu

và yêu thích khoa học, địa lý và các chủ đề hiện đại khác. Giới trí thức mới của

Việt Nam ấn tượng với nền văn minh phương Tây, cố gắng, hưởng thụ nền giáo

dục phương Tây và tìm kiếm cơ hội việc làm tại các cơ sở giáo dục, hành chính sự

nghiệp của nhà nước thực dân. Hơn nữa, ở các trung tâm đô thị, nhu cầu của cả bộ

máy quan liêu của chính phủ Pháp và khu vực tư nhân cho các thư ký, thủ quỹ,

thông dịch viên, cán bộ và lao động ngày càng tăng cao. Tất cả những điều đó đã

thu hút sự di cư của những người sống ở nông thôn vào các thành phố lớn, trong

đó có những trí thức. Sức hút của thành thị đã thực sự cám dỗ thi nhân. Rời bỏ quê

86

nhà để lên thành phố không hẳn chỉ là sự di chuyển nơi chốn mà đằng sau đó là

một sự thay đổi lớn trong tư duy. Đô thị trở thành nơi nuôi dưỡng không gian sáng

tạo tự do, mong đợi để nghệ thuật nảy mầm, khát khao dựng xây một sự nghiệp

thành công. Vì thế, trong Thơ mới, đô thị trở thành một đề tài chủ đạo.

Và nhìn từ góc độ phê bình sinh thái, đô thị trong Thơ mới là đối tượng

của sự phê phán, sự từ chối để từ đó thi nhân hướng về với thiên nhiên. Biểu

hiện sinh thái hiển lộ nhất của đô thị trong Thơ mới là tính tượng trưng, tính

văn hóa, tính phi tự nhiên của nó. Tính luận đề sinh thái này của hình ảnh đô thị

trong Thơ mới có thể được thấy trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, cụ thể là

các câu thơ sau:

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi

Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng

Giải nước đen giả suối, chẳng thông giòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém

(Nhớ rừng – Thế Lữ)

Thiên nhiên ở đây bị văn hóa hóa, tượng trưng hóa. Nó không còn là

chính nó mà chỉ hiện lên như là một hiện thân cho quan điểm thẩm mĩ và hiện

thân cho sức mạnh và tài năng của con người. Ở nhiều bài thơ Thơ mới khác,

thiên nhiên đô thị chủ yếu hiện lên như là một biểu tượng; điều này, từ góc nhìn

phê bình sinh thái, là phản-sinh thái:

Gió thu ngày trắng hương vương giả

Bạc gãy hồng hoen bụi đế đô

(Hờn thặng phấn - Vũ Hoàng Chương)

Rèm quây che kín bụi đường

Chủ hàng vắt cẳng lên giường ngáy sâu

(Phố huyện – Hồ Dzếnh)

Cây mở cành xanh, nghiêng lá phơi

Bụi gieo trên lá, dội nên lời

Bâng khuâng kể lại bao câu chuyện

Của những bàn chân rỗ dấu đời

87

(Dấu chân trên đường – Huy Cận)

Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương

Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?

(Nhạc sầu – Huy Cận)

Tất cả các hình ảnh thiên nhiên ở trên (sương, bụi, lá, gió, cây) đều mang

đậm tính trừu tượng hơn là tính cụ thể, vật chất. Theo đó, bụi ở đây là bụi đời,

sương là “bụi phai tàn”, “bụi trên lá” là “bàn chân rỗ dấu đời” v.v… Như vậy,

thiên nhiên ở đây là hiện thân đậm nét của tính văn hóa – sự can thiệp của con

người, sự cắt xén, điều chỉnh của con người đối với thiên nhiên, để cho thiên

nhiên phù hợp và có lợi cho cuộc sống con người. Và theo nét nghĩa này, đô thị

là hiện thân cho sự phá hủy hay sự phản-thiên nhiên, phản sinh thái. Nói cách

khác, thiên nhiên ở đây được xem như là một hiện thân của sự tạo nghĩa hay là

kết quả của quá trình tạo nghĩa – quá trình văn hóa hóa – của con người. Mặc

dù phê bình sinh thái đang ngày càng được thừa nhận trong các cuộc tranh luận

học thuật, nó vẫn đang vạch ra những ranh giới nghiên cứu của riêng nó. Khởi

đầu bằng việc xem xét vai trò của tự nhiên và thiên nhiên với quá trình tạo

nghĩa của con người và bằng những phân tích phản biện về vai trò của văn học

và văn hóa trong sự tương tác với môi trường không thuộc thế giới con người

(non-human), phê bình sinh thái đã trở thành một ngành mới trong phê bình văn

học với những câu hỏi mới, những chủ đề mới. Và một trong những chủ đề xuất

hiện gần đây trong phê bình sinh thái đó là phê bình sinh thái đô thị (urban

ecocriticism). Với sự chú ý vào môi trường của con người và trầm tư mặc tưởng

mang tính văn hóa về ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới môi trường, phê

bình sinh thái đô thị được xem như là một sự phát triển trên phương diện lí

thuyết của phê bình sinh thái. Mặc dù các nhà phê bình sinh thái đã từ lâu nhấn

mạnh sự cần thiết của việc đưa các hệ thống đô thị vào trong nghiên cứu của

mình, nhưng có rất ít nghiên cứu tập trung vào chủ đề này; phê bình sinh thái

vẫn tập trung vào những khái niệm như “cái hoang dã” hay những khung cảnh

đồng quê vốn được xem như là chưa có ảnh hưởng của con người. Phải đến

cuốn Tự nhiên của các thành phố: Phê bình sinh thái và môi trường đô thị (The

nature of cities: Ecocriticism and urban environments) của Michael Bennet và

88

David W. Teague (1999) và cuốn Viết cho một thế giới đang có nguy cơ tuyệt

chủng (Writing for an endangered world) của Lawrence Buell , các nhà phê

bình sinh thái mới chỉ ra sự thiếu vắng cả không gian đô thị trong các nghiên

cứu về thiên nhiên, văn hóa và môi trường. Các nhà phê bình sinh thái đến lúc

này khẳng định “sự cần thiết phải nhắc các công dân thành phố vị trí của họ

trong phạm vi các hệ thống sinh thái và tầm quan trọng của điều này đối với đời

sống đô thị và văn hóa” [ 91]. Cũng như thế Buell kêu gọi sự chuyển hướng tập

trung vào “sự phụ thuộc lẫn nhau giữa phong cảnh đô thị và khu rừng rú hẻo

lánh” [95, 8]. Nghiên cứu không gian đô thị trong phê bình sinh thái truy tìm

những cơ sở vật chất thế giới đô thị và những ảnh hưởng của chúng với môi

trường trên cơ sở phân tích sự phát triển và biểu hiện diễn ngôn chúng trong

văn hóa, văn học.

Với các nhà Thơ mới, đô thị là giấc mộng phù hoa. Tác giả của Thi nhân

Việt Nam đã từng khái quát bức tranh đổi thay đó: “Trước mắt chúng ta bỗng

bày ra những cảnh lạ lùng chưa bao giờ từng thấy. Lúc đầu, ai nấy đều ngơ

ngác, không hiểu ra làm sao. Nhưng rồi chúng ta quen dần. Chúng ta ở nhà Tây,

đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe

lửa, xe đạp…còn gì nữa! Nói làm sao cho siết những điều đã thay đổi về vật

chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta” [63, 12]. Sức thu hút và cám dỗ của

đô thị hào hoa với bao điều mới lạ đã cuốn bước chân Nguyễn Bính ra đi đem

theo những hoài bão lớn lao, những khát vọng công danh.

Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh

Tôi đi dan díu với kinh thành

(Hoa với rượu - Nguyễn Bính)

Nguyễn Bính ra đi là để nuôi dưỡng mộng công danh, vì thế mà vượt lên sự

do dự, lạ lẫm là một niềm hăm hở, hồ hởi “giàu lòng tin tưởng bước tương lai”.

Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọng

Giàu lòng tin tưởng bước tương lai

(Lá thư về Bắc – Nguyễn Bính)

Bước chân đến chốn phồn hoa đô hội, thi sĩ không khỏi choáng ngợp trước

sự xa hoa, rộn rã, hào nhoáng, đông vui của nơi chốn này.

89

Phồn hoa rộn rã áo xiêm

Muôn bao hình ảnh có tìm như không

(Mười hai bến nước - Nguyễn Bính)

Cũng giống như Nguyễn Bính, Thâm Tâm đã phác thảo sự háo hức của

các thi sĩ đương thời qua bức tranh náo nức, chứa đầy hoài bão.

Thăng Long đất lớn chí tung hoành

Bàng bạc gương hồ ánh mắt xanh

Một lứa chung tình từ tứ chiếng

Hội nhau vầy một tiệc quần anh

(Vọng nhân hành – Thâm Tâm)

Trên thực tế, choáng ngợp trước vẻ lung linh của chốn đô thành không chỉ là

cảm thức riêng của thi sĩ Nguyễn Bính, Thâm Tâm mà còn là của số đông các nhà

Thơ mới cùng thời lúc bấy giờ. Thế Lữ đã từng cổ vũ các thi gia: “Tôi khuyên thơ

tìm đến thành thị/ Khuyên sống chung trong cuộc đời mới”. Hay Vũ Hoàng

Chương cũng không khước từ trước sự cám dỗ của đô thị: “Tiếng gọi phồn hoa

của buổi sớm/ Đã cuốn chàng đi chẳng trả về”. Như vậy có thể thấy, đô thị thực sự

là một không gian không chỉ mới lạ về địa lí mà còn là môi trường lí tưởng để các

thi sĩ, trí thức Tây học thời bấy giờ ấp ủ nuôi mộng nghệ thuật.

Thực dân Pháp xâm lược, đã đem đến một màu sắc mới lạ cho xã hội Việt

Nam, nhất là một quốc gia vốn quen với nền văn minh lúa nước, lạc hậu nay

được tiếp cận với những cái tân tiến, văn minh, xa hoa, tấp nập. Con người ta vì

thế dễ hi vọng và đặt niềm tin vào môi trường mới. Tất nhiên chốn phồn hoa đô

thị vì thế mà có sức cám dỗ mạnh mẽ, có sức hút ma lực để những bước chân

sẵn sàng rời bỏ làng quê mong chờ đón nhận và khám phá điều mới lạ. Với các

thi sĩ lúc ấy, thì cái Tôi cá nhân được giải phóng, được làm chủ, được mạnh mẽ

nói lên tiếng nói của mình, thích khám phá cái đổi thay. Cũng vì vậy, khi mang

trong mình tâm nguyện muốn thỏa chí tang bồng, trả nợ công danh ắt hẳn với

các thi sĩ Thơ mới gặp được môi trường đô thị giống như cá gặp nước, mong có

cơ hội thể hiện tài năng.

Thế nhưng đô thị chỉ là giấc mộng phù du của thi nhân. Càng hi vọng bao

nhiêu càng thất vọng bấy nhiêu. Bởi đô thị bên cạnh sự xa hoa, tiến bộ của nó là

90

đầy rẫy những bon chen, lọc lừa, dối trá…Đối mặt với những mặt trái đó, người

thi sĩ vốn đến với chốn đô thành khi còn mơ hồ, mộng tưởng về bản chất nên

dễ vỡ mộng, sầu đau: Đô thị - một khối sầu buồn/ Day dứt và xót xa. Bước chân

vào đời sống thành thị, các thi sĩ trẻ tuổi đã phải đối mặt với bao cảnh tượng trớ

trêu, phũ phàng. Hòa mình vào nó mới vỡ lẽ, đằng sau cái vỏ bọc phồn hoa đầy

cám dỗ kia là một xã hội ô tạp đang hiện hình trong lòng đô thị.

Đô thị là nỗi thất vọng cô đơn, lạc lõng, sầu bi. Giữa chốn xô bồ ấy, trái

tim người nghệ sĩ luôn cảm thấy bơ vơ và cô độc. Nguyễn Bính từng cho mình

là kẻ “lưu lạc” Lậy giời, trên bước đường lưu lạc/ Hai ta lưu lạc phương này/

Cũng may cho những người lưu lạc; người “lữ hành” Lữ hành bắt gặp quán

cơm; khách “tha hương” Chén rượu tha hương, giời! đắng lắm; nợ “giang hồ”

Trót thân con vướng nợ giang hồ….Trong khoảng thời gian lưu đày không thể

hòa nhập nổi, thi sĩ luôn coi mình là kẻ ở nhờ trên “đất khách”. Chân dung

Nguyễn Bính hiện ra sau những câu chữ tựa như đứa trẻ lạc đường đến chốn

phồn hoa, thuở ban đầu thích thú với những điều khác lạ, mới mẻ rồi những

cảm giác choáng ngợp đó qua đi bỗng hoảng hốt, giật mình, ngơ ngác, lạc lõng

giữa nơi chốn này. Và rồi là những ngày tháng khóc than cho thân phận mình:

Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả

Chén ứa men lành, lạnh ngón tay

(Giời mưa ở Huế - Nguyễn Bính)

Mưa xứ Huế hay là mưa trong cõi lòng. Thi sĩ khóc than cho chính thân

phận tha hương, lưu lạc, đói rách, nợ nần, túng thiếu của mình. Đó cũng là trạng

thái vừa cô đơn về tinh thần vừa thiếu thốn về vật chất của Thế Lữ giữa Hà Hội

xa hoa “Cho đến khi Hà Nội sáng trưng đèn/Mới sực nhớ: đêm nay không chỗ

nghỉ” (Người phóng đãng). Để rồi ngao ngán thốt lên trong nỗi chán chường

“Anh đến bảo tôi rằng: “Cái bước công danh/“Thực chẳng có chút nào thi vị cả/

.../“Cái sung sướng phồn hoa tôi đã chán” (Tự trào - Thế Lữ).

Đô thị đổi thay, bào mòn các giá trị truyền thống. Bước chân vào đời sống

thành thị, các thi sĩ trẻ tuổi đã phải đối mặt với bao cảnh tượng trớ trêu, phũ

phàng. Nó không hoa lệ, văn minh, tân tiến như khi họ đứng từ xa chiêm

nghiệm, tưởng tượng. Vốn xuất thân từ làng quê, cha lại là ông đồ, từng được

91

học chữ Hán, văn hóa truyền thống đã ăn sâu trong tâm thức tác giả. Nay đến

chốn đô thành, giáp mặt với những đổi thay của cách ứng xử, của lối sống,

Nguyễn Bính day dứt băn khoăn trước sự pha trộn của văn hóa cũ – mới.

Lỡ duyên búi tó củ hành

Trường thi Nam Định biến thành trường bay

(Con nhà nho cũ - Nguyễn Bính)

Nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính nhắc đến giấc mơ quan trạng. Nguyễn

Bính cũng lựa chọn con đường thành danh như vậy. Nhưng “Bây giờ thời thế

biến thiên” – hiện tại mà tác giả đang trải qua không còn như trước nữa. Hai

chữ “biến thiên” tuy ngắn gọn mà khái quát nhiều đổi thay. “Trường thi” nơi

khẳng định và vinh danh những người giỏi tài năng thì ngày nay đã thành

“trường bay”. “Trường bay” chính là cái dấu ấn hiện hữu của văn minh công

nghiệp đã phủ nhận văn hóa truyền thống. Đằng sau câu thơ là cả một nỗi niềm

day dứt đến xót xa của thi sĩ trước sự suy đồi của văn hóa truyền thống, người

tài không còn được trọng dụng, một sự mất mát tưởng như không thể lấy lại

nhất là với Nguyễn Bính người vốn khát khao mong muốn được khẳng định

mình và nặng lòng với văn hóa truyền thống. Tế Hanh trong Một làng thương

nhớ thì dự cảm đầy chua xót vì đô thị hóa cướp đi nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt

lụa truyền thống.

Nhưng một hồi tơ lụa phải ra đi

Hàng ngoại hóa giết dần hàng nội hóa.

(Một làng thương nhớ - Tế Hanh)

Tín hiệu của Âu hóa ghi dấu ấn bằng việc văn hóa tiêu dùng của người

Việt đã có sự thay đổi. Hàng hóa ngoại quốc đã “giết dần hàng nội hóa”. Động

từ “giết” mà Tế Hanh dùng không chỉ biểu thị sự chiếm lĩnh của hàng ngoại so

với hàng nội mà hơn thế đau xót hơn, sâu xa hơn chính là cái chết của văn hóa

truyền thống bị văn hóa ngoại lai cai trị. Cùng chung cảm giác xót xa, tiếc nuối

Bàng Bá Lân lại hoang hoải cho hình ảnh nông thôn đổi thay.

Mà lạ! Nương dâu đâu mất nhỉ?

Quanh làng xanh rợn bãi cà phê!

(Vườn cũ nào đâu, cô hái dâu? – Bàng Bá Lân)

92

Có thể xem như “trường bay”, “hàng ngoại”, “bãi cà phê” là dấu tích của

đô thị hóa không chỉ tồn tại ở thành thị mà đã xâm lấn và bào mòn văn hóa

nông thôn truyền thống. Đằng sau câu chữ là những dự cảm không lành của các

nhà thơ về một luồng văn hóa, một lối sống mới du nhập vào bản sắc truyền

thống vùng miền bấy lâu.

Thông qua hình ảnh một cô gái “đi tỉnh về” có sự đổi thay trên trang phục

đã khiến Nguyễn Bính có biết bao điều trăn trở trước dự cảm băng hoại của con

người về những giá trị văn hóa bị biến chất: “Hôm qua em đi tỉnh về/ Áo cài

khuy bấm em làm khổ tôi”. Sự đổi thay quá nhanh đó là căn nguyên từ đâu?

Nhà thơ không phải là người cổ hủ, bảo thủ với cái xưa cũ. Nhưng với những gì

là hồn, là cốt của dân tộc thì rất đáng nên lưu giữ. Và sự thay đổi trong trang

phục chỉ là một cái cớ để thi sĩ gửi thông điệp: hãy giữ lấy những gì là bản sắc

là truyền thống không nên đổi thay trước sự pha tạp và lai căng của hoàn cảnh.

Dường như, với sự nhạy cảm của mình thi sĩ đang xót xa cho nhiều giá trị văn

hóa khác của dân tộc sẽ bị tha hóa trước sự cám dỗ của đồng tiền và sự phức tạp

của đời sống thành thị.

Những tác động của công cuộc Âu hóa không chỉ là những đổi thay bên

ngoài không gian, bên trên trang phục khiến thi sĩ âu lo mà nó còn làm cho tình

người phôi pha, lòng người băng giá, tình yêu giả dối: “Hồn cô cát bụi kinh

thành/ Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe”. Trong cái nhìn của tác giả tâm

hồn của cô gái đã nhuốm “cát bụi kinh thành” hay là đã bị tha hóa bởi lối sống

đô thị? Hiện thân của một người con gái hiện đại đã rất khác với người con gái

truyền thống xưa kia. Trong tình yêu của người con gái thành thị cũng không

còn sự đằm thắm, thủy chung nữa mà dường như cũng bị cuốn theo lối sống xô

bồ của phố xá bon chen. Một trái tim vô cảm, dễ dàng, nhanh chóng đổi thay

như vòng quay bánh xe đô hội.

Day dứt và xót xa trước cảnh văn hóa truyền thống bị suy tàn, lòng người

bị tha hóa là nỗi niềm khắc khoải trong Thơ mới. Nỗi niềm đó đã trở đi trở lại

trong thơ các thi sĩ, tạo nên một cảm thức thường trực của một tâm hồn không

thể ép mình hòa trộn với lối sống đô thị đương thời.

93

Đô thị là cảnh phố xá đông đúc, đua chen. Sinh sống ở các thành phố lớn

là nhu cầu, ước muốn của con người. Bởi lẽ đô thị là đông vui, hiện đại nhưng

cũng đồng nghĩa với sự chen chúc, ngột ngạt. Bức tranh đô thị trong Thơ mới

qua sự cảm nhận của Thế Lữ còn chứa đựng cả sự chua xót cho thân phận mình

nơi phồn hoa, đô hội “Tôi ngược xuôi trên đường thế mịt mù/ Giữa những đám

chen chúc, dập dồn và náo động” (Lời mỉa mai). Thành phố càng náo nhiệt,

đông đúc bao nhiêu thì lòng người thờ ơ, bạc bẽo, lạnh nhạt, vô cảm bấy nhiêu

“Mỗi năm hoa đào nở/Lại thấy ông đồ già/Bày mực tàu giấy đỏ/Bên phố đông

người qua” (Ông đồ - Vũ Đình Liên).

Đô thị nơi tồn tại lối sống sa đọa, buông thả và các tệ nạn xã hội, lọc lừa

giả dối. Mặt trái của bức tranh đô thị còn hiện hữu trong khói thuốc phiện

“Khói huyền lên, khói huyền lên/Mắt say đậu ở ngọn đèn dần lu” (Ma túy –

Thế Lữ). Hay những trận rượu quên ngày tháng “Say cho cung bậc ngả

nghiêng, cho điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa và quên, quên hết” (Say đi em –

Vũ Hoàng Chương). Và thêm nữa là những đêm sa đọa cùng gái giang hồ “Ta

vừa đắm trong giấc mơ ghê tởm/Vừa buông tay ôm ấp gái giang hồ/ Đầy xác

thịt, đầy tâm hồn còn lợm/Vị chán chường tràn lấn thú chua cay” (Đêm mưa gió

– Thế Lữ). Giữa chốn phồn hoa, nơi tập trung những gì văn minh nhất, hiện đại

nhất lại là nơi bao chứa những lối sống giả dối “Mẹ ơi! Đành kiếp khác/ Mới

thoát được xót xa/ Đức trọng thua tiền bạc/ Tài cao kém lọc lừa” (Mẹ nuôi con

– Trần Huyền Trân). Cả một xã hội hỗn tạp, ô uế, nhớp nhúa xuất hiện trong

đời sống đô thị. Đó chính là mảng màu tối trong sự tưởng tượng về đô thị vốn

vẫn lung linh, xa hoa, hào nhoáng của các nhà thơ đương thời.

Rõ ràng, từ góc nhìn phê bình sinh thái, có thể thấy đô thị trong Thơ mới

là “một cơn ác mộng đô thị” [142]. Các nhà phê bình sinh thái trên thế giới đã

đọc các tác phẩm văn học viết về đô thị như là những khắc họa về môi trường,

cùng tìm hiểu sự tương tác của văn học với hiện thực vật chất của môi trường tự

nhiên. Tác phẩm văn học được xem như là một “mã văn hóa”, “mã ngôn ngữ”,

“đạo đức về môi trường” hay một “ẩn dụ mang tính văn học” về thiên nhiên.

Và trong các tác phẩm của mình, các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới đã sử

dụng một số biện pháp tu từ hay diễn ngôn “chống đô thị”; coi đô thị và làng

94

mạc là đối lập nhau. Điều này vang vọng vấn đề “tu từ chống đô thị” (anti-

urban rhetoric) và sự “ẩn ý về sinh thái đô thị” trong văn học thế giới từ nửa

cuối thế kỉ XX mà Schliephake Christopher (2005) đề cập trong bài tổng quan

của mình về hướng nghiên cứu trong phê bình sinh thái. Theo đó, những khái

niệm và giả thiết sai lầm về thành phố và cộng đồng đô thị tiếp tục có những

ảnh hưởng tiêu cực rộng lớn lên các vùng nghèo đói của thành phố, gây ra bệnh

tật và ô nhiễm. Cũng như vậy, trong Thơ mới, đô thị như một nỗi ám ảnh với sự

phát triển, lan tỏa, lấn át, che lấp làng quê và không gian thiên nhiên.

Sự đổ vỡ, hụt hẫng, thất vọng với đô thị là cảm thức chung của các thi sĩ

Thơ mới. Bi kịch đô thị đó tỷ lệ thuận với sự hăm hở của các nhà thơ những

ngày đầu nuôi giấc mộng đô thành. Càng háo hức bao nhiêu thì càng đau đớn,

lạc lõng bấy nhiêu. Quyết dứt áo ra đi tìm đến đô thành nuôi mộng công danh.

Nay mộng không thành mà kiếp nghèo thì cứ đeo đẳng. Trong nỗi niềm của kẻ

tha hương, ôm nỗi lòng sầu xứ, dường như Nguyễn Bính chưa bao giờ thấy

lòng mình được bình an, yên ổn. Thế Lữ chưa bao giờ thấy mình bớt bơ vơ. Vũ

Hoàng Chương chưa bao giờ tìm ra lối thoát cho những tháng ngày đen tối.

Trần Huyền Trân thì vỡ mộng vì đô thị giả dối....Hầu hết các thi sĩ Thơ mới khi

đối mặt với xã hội chốn đô thành thường rơi vào trạng thái mộng đẹp tan vỡ và

ôm trong mình một khối sầu buồn giữa chốn phồn hoa. Về hay ở? là câu hỏi đặt

ra nhức nhối trong lòng thi sĩ. Nguyễn Bính nhiều lần tự vấn “Sao chẳng về

đây, nỡ lạc loài/ Giữa nơi thành thị gió mưa phai”, “Sao chẳng về đây?”. Phải

chăng câu hỏi chất chứa trong lòng Nguyễn Bính cũng là lời bộc bạch nói hộ sự

trăn trở bấy lâu của các kẻ sĩ lưu lạc nơi đất khách quê người mong mỏi được

về nơi chốn bình yên xưa kia để xoa dịu đi nỗi đau hiện tại. Và nơi chốn bình

yên đó với các nhà Thơ mới, thật tương ứng với quan điểm của các nhà phê

bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là thôn dã.

3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại

Tự nhiên trong Thơ mới hiện lên vừa là quá khứ vừa là nơi lí tưởng để con

người trở về nương náu, rời khỏi cái hiện đại với những hiện thân đặc trưng của

nó là thành phố, công nghệ, là nỗi lo vật chất và sự hỗn tạp. Thơ về thôn quê

cũng là một biểu hiện của mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người trong thời

95

hiện đại trong Thơ mới. Thơ ca phác họa hay gợi lên đời sống thôn quê trong

hình thức lãng mạn và lí tưởng (pastorial poetry) từ cổ xưa đã là một công cụ

mang tính văn hóa. Trong văn hóa phương Tây, con người coi thơ ca thôn dã

như là một cách để họ trầm tư và giao kết với mảnh đất nơi mà cuộc sống của

họ phụ thuộc vào và là nơi mà các nguồn lực thiên nhiên vận hành, cũng là nơi

mà họ suy ngẫm về các mối quan hệ với nhau, với bản ngã bên trong của mình.

Thơ ca đồng quê cho đến ngày nay vẫn là những “bài hát” mà con người hát

cùng nhau với tư cách vừa là những tác giả vừa là người đọc. Ngày nay, sự

sống sót của các loài sinh vật phụ thuộc vào không chỉ những cuộc tranh luận

mà còn vào khả năng của con người trong việc tìm ra hình ảnh đúng để tái thể

hiện cách sống của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên và cách sống

của con người trong phạm vi thiên nhiên. Thiên nhiên ở đây được hiện thân qua

những sự vật cụ thể như “trái đất”, “đất đai”, “địa điểm”, và “môi trường trên

địa cầu”. Những cội nguồn đầu tiên của thơ ca đồng nội ở Hy Lạp cổ đại thiết

lập đặc trưng của nó là sự “rút lui” và “sự trở lại” - một cuộc “rút lui” vào công

cuộc tiếp xúc với thiên nhiên sống động, với nông thôn, với cái hoang dã và sự

trở lại với những hiểu biết dành cho những người đang sống trong thị trấn,

trong thành phố và thế giới hiện đại hóa. Những tác phẩm văn học đồng quê

đầu tiên ở Hy Lạp và La Mã cũng thiết lập các phẩm chất đặc trưng của thể loại

văn học này, đó là lí tưởng hóa sự điền viên và sự hoài cố về Kỷ nguyên vàng

trong quá khứ. Văn học Mỹ vẫn tiếp tục truyền thống châu Âu đó từ các tác

phẩm của nông dân thế kỷ 18 tên là Crèvecoeur, đến tác phẩm Walden của nhà

văn của Thoreau và văn học về thiên nhiên ngày nay. [110, 42-61]

Thiên nhiên trong Thơ mới hiện lên đầy hình ảnh và âm thanh. Và dù

không nói trực tiếp, những trang Thơ mới, đặc biệt là thơ viết về thôn quê, gợi

lên những đặc trưng của văn học sinh thái, được nhìn từ góc độ của phê bình

sinh thái. Cụ thể vần thơ viết về đồng nội của Thơ mới nhấn mạnh tính phì

nhiêu, sự tĩnh lặng và sự ổn định không có hiểm họa trong thiên nhiên. Đó là

những biểu đạt đầy an nhiên và chan hòa. Và có gì an hòa hơn cảnh dân gian

nghỉ việc đồng:

Thong thả dân gian nghỉ việc đồng

96

Lúa thì con gái mượt như nhung

(Xuân về - Nguyễn Bính)

Ở đây, không có hình ảnh giọt mồ hôi nào cần thiết trong bức tranh miêu

tả công việc đồng áng và trồng trọt của thôn quê. Tất cả mọi thứ như là dễ dàng

trong tầm tay người nông dân, thậm chí là ngọt ngào; ngay cả hoa của những

cây cho ăn quả rụng cũng được coi là ngọt ngào. Lúa chưa đến kì thu hoạch

cũng không được khai thác ở góc độ kinh tế mà được thi vị hóa như là lúa “ở

thì con gái”. Người nông dân không được miêu tả với vẻ tất tả mà được nhấn

mạnh ở sự thong thả ngơi nghỉ, thậm chí là đang ngây ngất cảm nhận sự vận

động của tiết trời vào xuân. Con người và thiên nhiên nông thôn trở thành chủ

thể và khách thể thơ. Phải chăng, vì thế mà chúng ta cũng bắt gặp những hình

ảnh lao động vui vẻ, lạc quan của người nông dân trong văn học.

Trên trời mây trắng như bông

Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây

Có cô má đỏ hây hây

Đội bông như thể đội mây về làng.

(Ngô Văn Phú)

Rõ ràng, hiện lên trên câu chữ là một bức tranh tươi đẹp, con người hăng

say lao động không chút mỏi mệt mà người đọc không nhìn thấy đằng sau đó là

sự vất vả, là những giọt mồ hôi rơi vì trời nóng bức, nắng chói chang. Sự bình

dị và an yên trong nền nông nghiệp sinh tồn vốn không ổn định này cho thấy xu

hướng lí tưởng về thiên nhiên là đặc trưng của văn học đồng quê nhìn từ góc độ

phê bình sinh thái nói chung.

Đồng hành cùng Nguyễn Bính trên hành trình trở về “chân quê”, tâm hồn

chúng ta bỗng trở nên bình yên hơn, tươi mát hơn khi gặp lại những bức tranh

quê giản dị mà thân thương như thế này:

Anh trồng cả thảy hai vườn cải

Tháng chạp hoa non nở cánh vàng

(Hết bướm vàng - Nguyễn Bính)

Bỏ qua những tháng buồn đau lưu lạc, những ngày đói rách, cô đơn ở chốn

đô thành để trở về làng quê, hiện lên trong thơ Nguyễn Bính là không gian an

97

lành, trong trẻo. Và ở đó chúng ta vẫn tìm thấy những nếp nhà thật bình yên.Và

hơn thế hãy để tâm hồn mình hòa trộn vào thế giới những hương hoa, những

hình ảnh thân thuộc của làng quê: nào là hoa bưởi, hoa cam “Đầy vườn hoa

bưởi hoa cam rụng”; hoa chanh “Hoa chanh nở giữa vườn chanh”; ao bèo “Lợn

không nuôi đặc ao bèo”; giếng thơi “Giếng thơi mưa ngập nước tràn”; dậu

mồng tơi “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn”;

vườn chè “Sáng giăng chia nửa vườn chè”; giàn trầu, hàng cau “Nhà em có một

giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng”…

Đâu đây, lại là bức tranh quê sống động, nô nức của người người đón xuân.

Trên đường cát mịn một đôi cô

Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa,

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc

Tay lần tràng hạt miệng nam mô

(Xuân về - Nguyễn Bính)

Con người và thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính hài hòa, nên thơ, quấn

quyện. Tất cả tạo nên một bức tranh toàn cảnh về làng quê Việt Nam. Đi vào

thơ Nguyễn Bính là nhành cây, ngọn cỏ, sự vật thân thuộc, con người luôn gắn

liền với sinh hoạt gần gũi của thôn quê. Và bức tranh quê ấy cũng là máu thịt

trong tâm khảm Nguyễn Bính. Để mỗi khi nhớ về tâm hồn thi sĩ bỗng trở nên

yên ổn và thanh tịnh vô cùng. Nó như được gột rửa khỏi những bủa vây của văn

minh kỹ trị, cát bụi kinh kỳ. Phải chăng, tìm về “chân quê”, tìm về những gì

chân chất, mộc mạc chính là quá trình đi tìm phương thuốc an thần cứu rỗi linh

hồn tác giả thoát khỏi “khối sầu đô thị”.

Những cảnh tượng đặc trưng của công việc đồng áng khác như nuôi lợn,

ươm bèo, trồng giàn cau, đắp cỏ dù cho không năng suất hay giếng bị ngập

nước – điều này không có nước sạch dùng - cũng được Nguyễn Bình lí tưởng

hóa trong giọng điệu đầy bình thản, cảm giác đem lại cho độc giả vẫn là sự tràn

đầy và sự ngơi nghỉ của thân thể và tâm hồn:

Lợn không nuôi, đặc ao bèo

Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn

Giếng thời mưa ngập nước tràn

98

Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều

(Qua nhà – Nguyễn Bính)

Hay như cách Đoàn Văn Cừ miêu tả cảnh đập lúa, một công việc nặng nhọc

của nghiệp đồng áng, cũng thơ mộng. Người nông dân đập lúa được đặt trong ánh

“trăng thanh”; cánh tay đập lúa được hình dung là vận động nhanh nhẹ nhàng, việc

không được ngủ đêm để đập lúa của người nông dân được thay thế bằng hình ảnh

ấm no “thóc rụng”, âm thanh bình an của tiếng gà gáy tàn canh:

Bóng người đập lúa dưới trăng thanh

Tay đập đều như máy rất nhanh

Thóc rụng vun đầy bên cối đá

Tiếng gà cuối xóm gáy tàn canh

(Lúa về - Đoàn Văn Cừ)

Công việc chăn trâu cũng được đặt trong bối cảnh rộn riếng hát vang:

Con trẻ chăn trâu khắp cánh đồng

Chiều về gánh cỏ hát vang sông

(Người làng – Đoàn Văn Cừ)

Phương diện năng suất hay vật chất của đời sống thôn quê không phải là mối

quan tâm của các nhà Thơ mới mà đây cũng là đặc trưng của văn học đồng quê nói

chung. Sự lí tưởng hóa đời sống đồng quê này có thể được minh chứng rõ nhất qua

câu thơ “Cảnh nhà dẫu túng vẫn êm đềm/Ngày khó nhọc nhưng tối ngủ yên” (Bữa

cơm quê - Đoàn Văn Cừ). Giấc ngủ như là sự an yên, êm đềm và đơn giản của con

người mặc cho đời sống thôn quê có nặng nhọc và vất vả đến đâu.

Thiên nhiên thôn quê trong Thơ mới, giống như trong thơ đồng quê nói

chung, đem lại hình ảnh thi vị về sự trật tự, sự bền vững và các giá trị về đồng

thuận, hài hòa – đó là đời sống ổn định. Các nhân vật trữ tình trong Thơ mới,

vừa trực tiếp và vừa gián tiếp, bộc lộ xu hướng đi về phía thiên nhiên thôn quê

để sống giản dị, để trốn khỏi những căng thẳng của sự văn minh nơi thành phố.

Sự bình dị, an yên là điều trở đi trở lại trong những câu thơ về bức tranh thôn

quê. Thoreau viết rằng ông đã đi vào rừng bởi vì ông muốn sống một cách tinh

tế, chỉ thấy trước mặt những sự kiện bản chất của cuộc sống. Hầu hết con

người, như Thoreau khẳng định, không chắc chắn về mục đích của cuộc sống

99

và "sống nhỏ bé như những con kiến" trong các thành phố bận rộn, cuộc sống

của họ "bị phân tán bởi chi tiết" trong sự nghiệp đang lên, trong các ngôi nhà và

cả trong sự giàu có. Thơ mới ở Việt Nam khắc họa sự an yên của thiên nhiên

nói chung và của đồng quê nói riêng như là một đối kháng với thành phố. Có gì

bình yên hơn buổi sáng sớm mùa xuân của Hàn Mặc Tử:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí – Bóng xuân sang

(Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử)

Không có một âm thanh sắc lạnh hay sắc màu chói sáng nào; tất cả hòa đi

trong cái tươi mới, ấm áp và bình yên của những sự vật thiên nhiên của buổi

sớm mùa xuân. Những câu Thơ mới có thể tạo ra một không gian tươi đẹp trong

đó nhân vật trữ tình khuyến khích độc giả trầm tư và thiền định về sự sống cao

hơn vốn hiện thân trong sự “im lặng của thiên nhiên”. Với các nhà Thơ mới,

luôn có độ rung của âm thanh trong sự im lặng, một sự đè nén cứ như ai đó

đang cố tình hạn chế sự lên tiếng của thế giới:

Đồng vắng nông phu, đò vắng khách

Làng chiều mây tỏa lướt màn sương

(Chiều quê –Vân Đài)

Sóng đồng khoảng vắng chuông lay

Nghiêng nghiêng đôi cánh cờ bay bóng tà

(Chiều – Giản Chi)

Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê

Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái

(Nắng thu – Nam Trân)

Không gian chiều bao trùm trong sự vắng vẻ; vận động của các sự vật dù

được miêu tả rất thơ mộng “mây tỏa lướt màn sương”, “nghiêng nghiêng đôi

cánh cò”, “nắng chiều rây vàng bột” nhưng tất cả chỉ vận động trong sự im

lặng. Song điều đó có nghĩa nhân vật trữ tình đang đem lại cho cuộc sống của

mình sức mạnh của sự nghe. Sự im lặng ở đây không phải là sự đè nén. Ngược

100

lại, sự im lặng ở đây là một cách đem lại cho con người một không gian bình

yên trong đó họ có thể trầm tư mặc tưởng về sự sống cao cả, một sự sống lắng

nghe và trân trọng sự khác biệt và sự đa dạng của muôn loài. Và trong sự im

lặng đó, có một sự hồi sinh về mặt tinh thần được phản ánh trong thiên nhiên và

trong các mùa màng. Sự im lặng là điều kiện để tác giả trữ tình tái hiện lại cái

vòng quay bất tận và luôn luôn vận động của sự sống. Như là một ẩn dụ, tác giả

trữ tình của Thơ mới dường như muốn nhấn mạnh sự cần thiết của việc tỉnh

thức về tinh thần của con người trong không gian và trong sự tương tác với

thiên nhiên. Phải chăng, Thơ mới cung cấp cho người đọc không gian mà ở đó

họ cảm nhận sự sống của mình trong sự lắng nghe và thừa nhận sự vận động

của thiên nhiên. Trở về với thiên nhiên, như Thơ mới gợi ra khi được nhìn từ

góc độ của phê bình sinh thái, con người đi về với bản ngã của mình.

Như vậy, sự trải nghiệm về cái hòa điệu, và sự bừng tỉnh trong sự trở về

với thiên nhiên chuyên chở những ý nghĩa về tính phức hợp của mối quan hệ

giữa con người với thiên nhiên và ảnh hưởng đến sự trở về với bản ngã của

chính mình. Mối quan hệ này thể hiện ở sự chìm đắm đơn thuần của con người

vào xu hướng giải thoát trong sự tán dương việc trở về với thiên nhiên. Sự trở

về với thiên nhiên đó cũng là sự trở về của con người với chính mình.

Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới nhìn từ góc độ

sinh thái trở nên phức hợp hơn với những vần thơ thể hiện sự trải nghiệm của

cơ thể về phong cảnh (bodily experiences of landscape). Như nhân vật trữ tình

trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là một ví dụ tiêu biểu cho sự trải nghiệm

về thiên nhiên được đánh dấu trong cơ thể. Gió, cánh bướm, non nước, cây, cỏ,

trời, mùa xuân có xu hướng trở thành vật thể hằn in và để lại dấu vết trên các bộ

phận của con người như “Ta muốn say cánh bướm với tình yêu/Ta muốn thâu

trong một cái hôn nhiều” hay “Ta muốn ôm/Cả sự sống mới bắt đầu mơn

mởn”/“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn” và “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào

ngươi!”/ “Cho chếnh choáng mùi thơm”, “cho đã đầy ánh sáng”/“Cho no nê

thanh sắc của thời tươi”. Rõ ràng, ở đây, nhân vật trữ tình vừa nỗ lực bật thành

lời những tâm tư khao khát của mình – do các sự vật của thiên nhiên tạo nên –

vừa nỗ lực quan sát và cảm nhận các vẻ đẹp của sự vật thiên nhiên. Sự tương

101

tác giữa thân thể, tâm trí và thiên nhiên trong thơ của Xuân Diệu tương ứng với

các những nguyên lí trung tâm của mối liên hệ giữa môi trường, thân thể và tâm

trí con người mà Robert Pepperell - một nhà triết học hậu nhân văn nổi tiếng,

chỉ ra trong cuốn sách Điều kiện hậu nhân văn của mình: [128].

a) Cơ thể con người không có đường biên;

b) Không có sự phân chia xác định nào có thể vạch ra giữa môi trường, cơ

thể, và não. Con người là có thể được nhận ra nhưng không thể xác định được.

c) Ý thức (Tâm trí) và môi trường (Hiện thực) không thể tách rời. Chúng

liên kết không thể tách rời.

d) Không có gì bên ngoài con người, bởi vì phạm vi của con người không

thể cố định.

e) Nếu chúng ta chấp nhận rằng tâm trí và thân thể hoàn toàn không thể

tách rời, và rằng thân thể với môi trường hoàn toàn không thể tách rời thì chúng

ta còn lại cái kết luận nhìn có vẻ như là lố bịch mà lại thống nhất một cách logic

rằng: ý thức và môi trường không thể hoàn toàn tách biệt.

Trong Thơ mới, sự phản ánh trên cơ thể những trải nghiệm về thiên nhiên

còn được thể hiện qua sự cộng hưởng của ngôn ngữ và âm thanh trong bài thơ.

Ví dụ, trong đoạn thơ

Cánh đồng bao la

Giãi ra xa xa

Hàng tre thướt tha

Lòng ta thướt tha

(Cánh đồng bao la – Tế Hanh)

Dấu ấn thiên nhiên trên cơ thể con người – vốn là một sự vật trừu tượng

“lòng ta” được cụ thể hóa bằng tính từ chỉ hình dạng và vận động “thướt tha” –

thể hiện bằng sự cộng hưởng của các âm “a” ở cuối câu thơ. Từ đó, biên độ

rộng “bao la” và khoảng cách “xa xa” của cánh đồng cùng vận động “thướt tha”

của hàng tre hằn lên trên sự vận động của “lòng ta”, tạo nên sự tương ứng của

thân thể với thiên nhiên xung quanh – được thể hiện qua sự lặp lại của vần và

cả sự lặp lại hoàn toàn của tính từ “thướt tha”. Hay như trong bài thơ Lời con

đường quê của Tế Hanh, tâm trạng buồn của con người được vật chất hóa thành

102

một sự vật có thể kéo lê đi khắp làng và tiếp cận với thiên nhiên. Điều thú vị là,

khi gặp thiên nhiên, cái sự vật hiện thân của nỗi buồn đó đã chuyển hóa từ trạng

thái này sang trạng thái khác, từ buồn sang vui tươi. Điều này cho thấy sự tương

ứng của thiên nhiên với sự cảm nhận của con người về bản thân mình – một sự

cảm nhận được vật chất hóa như là một sự vật có sự tương tác với thiên nhiên:

Tôi, con đường nhỏ chạy lang thang

Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng

Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng

Hương đồng quyến rũ hát lên vang

(Lời con đường quê – Tế Hanh)

Trong cuốn Bên ngoài hình bóng: tâm lý hoc sinh thái, câu chuyện và

những sự đối mặt với đất (Out of the shadow: Ecopsychology, story, and

encounters of land, 2007), Rinda West cho rằng trong văn hóa phương Tây, sự

tách biệt con người khỏi thiên nhiên đã góp phần tạo nên xu hướng phân ly lý

trí có ý thức và tâm lý nằm mơ vô ý thức hay bản chất bên trong của con người.

Sự thiếu thân mật ngày càng tăng của con người với đất đai đã dẫn đến việc

giảm khả năng tiếp cận vào các ngõ ngách của tâm lý vốn không được đánh giá

cao của nền văn hóa tư bản. West đã sử dụng quan điểm của Jung về cái hình

bóng (shadow) để khám phá xem sự ly tán này đã dẫn đến sự xa lánh và sự sụp

đổ như thế nào. Và các văn bản văn học chỉ ra việc xa lánh thiên nhiên khiến

con người cũng rời xa luôn cả thế giới vô ý thức – bản chất tận cùng của con

người – ra sao? West cho rằng việc đối diện với thế giới của mình đem lại cho

con người khả năng kết nối lại với thiên nhiên, thậm chí tạo ra những mối quan

hệ công bằng và cao quý hơn với thiên nhiên và có mối quan hệ bền vững hơn

với cộng đồng của mình. [145]

Bên cạnh đó, những bài thơ ngập tràn các sự vật thiên nhiên thôn quê của

Đoàn Văn Cừ, chủ thể trữ tình đã cấu tạo nên những khát vọng trở về với những

trải nghiệm mang tính thẩm mĩ về thiên nhiên. Đúng hơn, tính thân thể của

thiên nhiên dường như chuyên chở trạng thái cơ thể con người và tâm trí con

người được nhuốm đầy trong màu sắc, âm thanh và nhịp điệu của các sự vật

thiên nhiên: lúa trải vàng như bể kén tơ” (Ngày mùa); “Buổi sáng mây phơi

103

màu biếc lụa/Đồng non tơ ánh sáng trộn pha đều/Đàn trâu nằm mơ mộng mắt

xanh veo/Nghe gió chảy rì rào trên biển lúa/Vài đứa trẻ trên nền nhung gấm

cỏ/Tựa lưng ngồi thổi sáo dưới cây đa” (Đàn trâu); “Sương trắng rỏ đầu cành

như giọt sữa/Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa/Núi uốn mình trong chiếc

áo the xanh/ Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh” (Chợ tết). Ở đây nhân vật

trữ tình tạo nên những khao khát trở về với trải nghiệm mang tính thẩm mĩ của

thiên nhiên để tách xa với thế giới hàng hóa. Chủ thể trữ tình cảm nhận được vẻ

đẹp với một địa điểm thông qua trải nghiệm, mà chủ yếu là trải nghiệm qua các

giác quan của cơ thể như thân thể, ánh nhìn, âm thanh và cảm nhận. Việc cảm

nhận thiên nhiên hoặc cảnh quan thông qua thơ ca có thể tạo ra một kiểu hiểu

biết thú vị về không gian và do đó thay đổi cách chúng ta hiểu về thiên nhiên.

Sự kết hợp giữa trải nghiệm thẩm mỹ và ý thức về hệ sinh thái đem lại cho chủ

thể trữ tình và người đọc những quan sát về sự vận động của cơ thể trong sự

trải nghiệm với thiên nhiên, từ đó tìm cách nói ra, miêu tả lại những tình cảm

được thiên nhiên gợi lên.

Scott Slovic từng viết về hiện tượng tâm lý của "sự nhận thức" trong các

nhà văn viết về thiên nhiên đó là sự tập trung vào cái khoảnh khắc trải nghiệm

về thiên nhiên và cảnh quan bên trong của tâm trí. Nhận thức này xuất phát từ

việc người viết cảm giác được về bản thể và cái phi bản thể đi cùng với cái khả

năng gọi ra những gì đang trải ra trước mắt. Đó là một cách thức nghệ thuật

trong việc chú ý và quan sát cái khoảnh khắc trải nghiệm. Theo quan điểm của

Slovic, sự chú ý của các nhà văn viết về thiên nhiên khi họ nghiên cứu về ý

thức môi trường và cố gắng kích thích nó trong độc giả là mục tiêu nền tảng của

tất cả các tác phẩm văn học về môi trường. Nếu vậy, ngôn ngữ nói về sự trải

nghiệm của thân thể ở nơi chốn tạo ra một mô hình hữu ích cho phong trào phê

bình sinh thái hiện đại và những cuộc đấu tranh bảo tồn [134]. Như thế, thiên

nhiên trong Thơ mới là cõi đi về của con người hiện đại, là nơi con người được

trở về với quá khứ, với sự bình yên, và sự thức tỉnh của tâm trí cũng như sự

thức dậy của các giác quan cơ thể. Tất cả điều đó cho thấy sự quan sát và sự

cảm nhận của con người về vai trò chính của thiên nhiên trong những nỗ lực

của con người nhằm giải thoát khỏi những hệ lụy của đời sống hiện đại.

104

Tiểu kết

Từ cách tiếp cận của phê bình sinh thái, chương 3 của luận án đã khám

phá những phương diện trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Từ đó

cho thấy luận án không nhằm nghiên cứu Thơ mới như một đối tượng của phê

bình sinh thái mà chỉ dùng lý thuyết phê bình sinh thái để khám phá thêm

những điều mới mẻ mà các cách tiếp cận khác không hoặc chưa khám phá

ra.Trên cơ sở lý luận về phê bình sinh thái, luận án đã khảo sát, phân tích kiến

giải mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trên một số bình diện cơ bản.

Chỉ ra được quan niệm mới về thiên nhiên: thiên nhiên là sinh thể độc lập, là

chốn đi về của con người, thiên nhiên gắn bó hòa hợp nhưng có lúc là thế lực đe

dọa cuộc sống con người. Từ đây nội dung của chương mong muốn chỉ ra vị trí

và thái độ của chủ thể trữ tình Thơ mới trong quan hệ với tự nhiên. Đó là thiên

nhiên trong Thơ mới vừa như một khách thể để cho con người quan sát, chiêm

ngưỡng và thụ hưởng. Đồng thời thiên nhiên lại như là một chủ thể để con

người có thể tìm về như tìm nơi an trú ở trong đó. Có thể nói, Phê bình sinh thái

là một hướng tiếp cận mới trong văn hóa và văn học. Tuy mới được tiếp nhận

và ứng dụng ở Việt Nam chưa lâu nhưng đã hứa hẹn nhiều triển vọng. Đặc biệt

hướng nghiên cứu này có ý nghĩa “vị nhân sinh” to lớn, khi mà nước ta là một

trong những nơi bị ảnh hưởng của quá trình biến đổi khí hậu quá nặng nề. Tìm

hiểu mối quan hệ tự nhiên và con người trong Thơ mới dưới lý thuyết phê bình

sinh thái phần nào đã đem đến những cảm quan sinh thái mới cho vấn đề môi

trường sống hiện nay.

105

Chƣơng 4

NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG

THƠ MỚI

4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới

4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca

Nhà phê bình, lí luận văn học Peter Barry (1987) cho rằng ngôn ngữ giống

như một cửa sổ kính màu, vừa phản ánh hình ảnh của riêng nó và vừa có thể

được nhìn xuyên qua thế giới bên ngoài. Thừa nhận khía cạnh tham chiếu và

khía cạnh mang tính kí hiệu của văn học là một sự đánh giá quan trọng nhất đối

với phê bình sinh thái.

Hơn nữa, diễn ngôn của phê bình sinh thái từ thơ ca về môi trường và tự

nhiên được nhiều nhà nghiên cứu theo hướng phê bình sinh thái cho là có khả

năng tương hợp, giao thoa nhau. Cả hai đều quan tâm đến ý tưởng. Sự khác

nhau là thơ ca nhấn mạnh đến sự tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Để

giải quyết suy thoái môi trường, phê bình sinh thái bối cảnh hóa quan điểm

trong các diễn ngôn về sinh thái. Karrl Kroeber quan sát rằng các nhà thơ sinh

thái không phải là những nhà khoa học và không khảo sát tìm hiểu diễn ngôn

của phê bình sinh thái; họ hưởng thụ trạng thái dân chủ của một nhà thơ trong

khi các nhà khoa học phải nghiên cứu luật về môi trường cũng như phải vật lộn

với các phương pháp khoa học tiếp cận văn bản và xã hội. Kroeber khuyến

khích các nhà thơ tưởng tượng nhiều hơn, ông đề cao các ý tưởng mang tính

sáng tạo của nhà thơ. Tuy nhiên, theo Kroeber, các nhà thơ sinh thái cũng quan

tâm và phản ứng theo hướng sáng tạo với những luận điểm cơ bản của cách tiếp

cận theo hướng phê bình sinh thái. Nói cách khác, thơ ca về môi trường hay

sinh thái không phải là không có nền tảng của các tư tưởng phê bình sinh thái

[118, 16-19]. Chỉ có điều nhà thơ không ở vị trí để đưa ra một hướng dẫn thực

tế vì sự tồn tại hành tinh; sức mạnh của thơ ca không chỉ nằm ở thông điệp nó

chuyển tải mà nằm ở cách thức thông điệp đó mang đến. Thơ ca cố gắng đưa ra

trải nghiệm về trái đất qua ngôn ngữ về sự sinh tồn trên thế giới, sự thể hiện ấy

106

luôn được diễn tả một cách giàu cảm xúc và mang tính tưởng tượng [90, 199-

222]. Thơ mới không phải được sáng tác trong phong trào môi trường hay sinh

thái và khái niệm thơ môi trường (environmental poetry) hay thơ sinh thái

(ecoriticial poetry) chưa xuất hiện trong giai đoạn Thơ mới ra đời cũng chưa có

nghiên cứu nào chỉ ra điều này. Sự đề cao thiên nhiên và môi trường của Thơ

mới, như được trình bày ở chương 2, không có ảnh hưởng bởi ngành sinh thái

học hiện đại, phong trào môi trường – ít nhất là ở thời điểm đó chưa có tài liệu

nào chứng minh điều ấy. Tuy nhiên không thể phủ nhận, các tác giả trữ tình của

Thơ mới có một sự nhạy cảm nền tảng rằng thiên nhiên là thứ gì đó để trân

trọng, ngưỡng mộ và tìm hiểu. Và không chỉ vậy, cách tiếp cận theo hướng phê

bình sinh thái đối với Thơ mới có thể giúp nhìn ra sự tương đồng hay đối thoại

– qua hình ảnh và ngôn ngữ - của Thơ mới đối với các vấn đề môi trường

đương thời và với diễn ngôn của phê bình sinh thái như là một lí thuyết nghiên

cứu văn học và khoa học nhân văn hiện nay.

4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới

4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái

Tính từ chỉ màu sắc, cụ thể là các gam màu sáng và dịu nhẹ tạo thành một

vấn đề nổi bật trong ngôn ngữ các tác phẩm Thơ mới viết về thiên nhiên. Nói

cách khác, ngôn từ trong Thơ mới hầu hết tập trung vào sắc diện sáng của thiên

nhiên và thế giới sinh thái. Phổ biến nhất là các tính từ chỉ màu xanh, vàng,

hồng, trắng. Theo thống kê của chúng tôi về màu sắc chỉ thiên nhiên trong Thơ

mới, màu xanh xuất hiện 90 lần, màu vàng 68 lần, màu trắng 40 lần, màu hồng

22 lần, màu bạc 12 lần. Trong khi đó, gam màu tối xuất hiện ít: màu đen 4 lần,

màu xám 5 lần. Không chỉ mang sắc diện sáng, các tính từ chỉ màu sắc trong

Thơ mới còn chủ yếu mang nét nghĩa gắn kết với màu xanh. Tính từ xanh, như

đã nói xuất hiện với tần suất cao nhất: 90 lần. Tính từ này cũng được hỗ trợ bởi

các tính từ tương đồng với nó, đó là như màu biếc và màu lam. Màu biếc xuất

hiện 45 lần; màu lam xuất hiện 12 lần. Điều này tạo ấn tượng về thế giới thiên

nhiên và sinh thái tươi trẻ, mơn mởn, lặng lẽ một sự sống thanh xuân, mới mẻ.

Ví dụ, trong thơ Thế Lữ có các màu “sương biếc”, “ánh hồng tía rắc ngọc

châu”, “trời trong xanh,” “chân trời đỏ hây hây,” “tiếng chim xanh” (Lựa tiếng

107

đàn); “áng sương hồng”, “sương vàng tía”, “vừng cỏ xanh”, “áng sương lam”,

“sương biếc”, “rặng cây xanh”, “bình minh vàng” (Bóng mây chiều). Thơ Lưu

Trọng Lư có màu sắc “con nai vàng”, “lá vàng khô” (Tiếng thu), “quãng giời

xanh ngắt, thẳm xa, xa thẳm một màu lơ” (Thuyền mộng), “ngàn liễu xanh

xanh, con cò trắng”, “làn khói biếc” (Bâng khuâng). Thơ Hàn Mặc Tử cũng bao

gồm các tính từ chỉ màu sắc sáng, tươi, như “bóng trăng vàng”, “trời xanh ngắt”

(Nhớ nhung), “ánh trăng ngà” “sương lam” (Một đêm nói chuyện với gái quê),

“làn nắng ửng”, “mái nhà tranh lấm tấm vàng” (Mùa xuân chín). Thơ Chế Lan

Viên có “rừng xanh” (Chiến tượng), “đồng xanh vô tận” (Nắng mai), “tà áo

chuối non bay phấp phới/phơ màu xanh lấp loáng dưới sương mai” (Xuân về),

“núi lau xanh” (Thu), “cây xanh”, “xanh thẳm bầu trời” (Trưa đơn giản).

Màu xanh không phải là chủ đề xa lạ trong lí thuyết sinh thái. Trong lời

giới thiệu cho cuốn Sinh thái lăng trụ: lí thuyết sinh thái vượt lên trên màu xanh

(Prismatic ecology: Ecotheory beyond green), Jeffrey Jerome Cohen khẳng

định rằng màu xanh “đã thống trị sinh thái của chúng ta như là không có màu

sắc nào hết, như thể nó là sắc màu hữu cơ duy nhất, là huy hiệu cho bản thân

thiên nhiên”[99, xix]. Trong khi đó, thiên nhiên là nhiều màu sắc và “chính màu

xanh cũng là một màu tổng hợp của nhiều tầng lớp chuyển màu” [99, xx-xxi].

Hướng tiếp cận văn học và văn hóa theo hướng sinh thái, như nhận định của

Serpil Oppermann trong bài viết: Các màu sắc của thiên nhiên: Vật chất hình

lăng trụ trong các địa hạt tự nhiên/văn hóa” (Nature’s colors: A prismatic

materiality in the natural/cultural realms) cũng ưu tiên màu xanh hơn là các

màu sắc khác. Xu hướng này tập trung khai thác sự xâm phạm và phá hủy của

xã hội công nghiệp vào thế giới hoang dã trong khi đề cao sức mạnh tái sinh và

sự say mê đối với những quang cảnh chưa bị khai thác, và trân trọng giá trị tự

thân của các sinh vật phi nhân loại [127, 157 -172]. Cohen nhận định, hướng

phê bình sinh thái xanh có xu hướng lãng mạn hóa khi đào sâu vào sự phong

phú nội sinh của tự nhiên và tiếc nuối khi sự phong phú đó trở thành các sản

phẩm hàng hóa và bị phá hủy [99, xx].

Như phân tích của Erik van Ooijen trong bài viết Sự chuyển sang màu đen

(The dark turn), in trong (Perspectives on ecocriticism: Local beginnings,

108

global echoes. Cambridge: Cambridge Scholars Publishing, 8 May 2019) do

Haag, Ingemar, Karin Molander Danielsson, Marie Öhman biên tập thì lí thuyết

thiên nhiên xanh đề cao trạng thái làng quê, miệt vườn, và hoang sơ của thiên

nhiên. Theo đó, rừng núi và thảo nguyên, cây cối và hoa cỏ tạo thành một môi

trường có trật tự nhưng không bị công nghiệp hóa. Đó là nơi mà các cư dân

thành thị có thể tìm đến để giải thoát và tái tạo năng lượng. Môi trường tươi

xanh, từ cái nhìn của lí thuyết xanh, là một phong cảnh được đảm bảo là tách

khỏi con người; nó được chiêm ngưỡng và thưởng thức từ xa. Màu xanh tươi

sáng được coi là neo giữ lại sự lãng mạn của những mảnh đất hoang, chưa được

con người khai phá nhưng cũng hàm ẩn sự vẫy gọi, sự nồng ấm hiếu khách đối

với con người. Đó là một thế giới luôn được nhìn từ xa [113, 101-112]. Từ cách

tiếp cận sinh thái kinh điển, sự xuất hiện dày đặc của các tính từ chỉ màu sắc

tươi sáng, nhất là màu xanh trong Thơ mới cho thấy sự trân trọng của con người

đối với thiên nhiên. Các tính từ thiên về màu xanh tươi sáng, trong Thơ mới tạo

ấn tượng về thiên nhiên như là một “nơi chốn” đẹp đẽ và có đời sống tự thân,

tách biệt với thế giới con người. Do đó, dễ dàng nhận thấy tinh thần lấy thiên

nhiên và thế giới sinh thái làm trung tâm của phê bình sinh thái trong sự xuất

hiện nhiều các tính từ chỉ màu sắc tươi sáng của thiên nhiên trong Thơ mới.

Tuy nhiên, sự chiếm ưu thế của các sắc màu tươi sáng vốn chủ yếu gắn

với các sự vật liên quan đến rừng cây, đồng cỏ và miệt vườn của Thơ mới lại có

thể tạo thành một minh chứng cho phê bình trong nội bộ lí thuyết phê bình sinh

thái về màu sắc. Theo đó, sự xuất hiện của sắc màu xanh cho thấy một sự phóng

chiếu lấy cái nhìn chủ quan của con người làm trung tâm (anthropocentric

projection). Thơ mới thiếu vắng màu sắc của nhiều sự vật, nhất là những sự vật

và sự sống mạnh mẽ, dữ dội vốn không thuộc về thế giới nội đồng nhẹ nhàng

hay hoang sơ mà “có tổ chức” (disciplined) như cách nói của Ooijen. Nổi bật

với tính từ chỉ màu sắc tươi xanh và nhẹ nhàng như thế, thế giới thiên nhiên

trong Thơ mới trở thành những “đơn vị bị bách biệt hoàn toàn với hệ thống sinh

học hay thế giới tự nhiên nói chung” [ 113, 102]. Theo diễn giải của Ooijen,

cách thức giới hạn thiên nhiên vào màu xanh như thế thì sự tồn tại của các đại

dương, của không khí, của những địa vực và cả những vùng băng tuyết chưa

109

được khám phá. Và lí thuyết xanh định hình sự trân trọng đối với thế giới nội

đồng, hoa lá trong ý niệm về vẻ đẹp nhiên của con người. Trong khi đó, thiên

nhiên không chỉ có màu xanh, nó còn có màu trắng của băng đá hay màu đen

hay xám của vực thẳm. Hơn nữa, tự nhiên không cần phải được mã hóa trong

màu sắc, bởi vì “màu sắc chỉ là ý niệm của chúng ta về một cách thức trải

nghiệm cụ thể sự khúc xạ điện từ trong phạm vi các trường song nhất định và

nó được quyết định bởi cấu trúc sinh học trong cơ thể con người. “Chúng ta có

thể tưởng tượng ra vô số cách thức tồn tại trong thế giới này nơi mà các tính từ

màu sắc rốt cuộc không còn phù hợp” [113, 101]. Như thế, sự nhấn mạnh đến

màu sắc, chủ yếu là màu xanh, màu tươi sáng của thiên nhiên, cho thấy các chủ

thể trữ tình trong Thơ mới vừa nỗ lực nghĩ về thiên như là một thứ nằm bên

ngoài văn hóa con người. Nhưng mặt khác, một cách nghịch lí, sự chiếm ưu thế

của gam màu tươi sáng như thế lại cho thấy tự nhiên trong Thơ mới bị giới hạn

vào những sắc màu, những kích thước, và những hình dạng mà ý niệm của con

người cho là tự nhiên.

Khảo sát sâu hơn về sự lặp lại của các tính từ này giữa các bài thơ khác

nhau và sự gắn bó của chúng với các danh từ chỉ sự vật khác nhau càng chứng

tỏ sự chi phối, hay đúng hơn là sự chiếm ưu thế, của ý niệm con người trong

việc biểu đạt thế giới tự nhiên. Cụ thể, các tính từ chỉ màu sắc trong Thơ mới

xuất hiện tuy nhiều, nhưng không đa dạng vì chúng được lặp lại; cùng một tính

từ có thể được gắn với các danh từ chỉ sự vật khác nhau.

Ví dụ, tính từ chỉ màu sắc “biếc”được gắn với nhiều vật thể thiên nhiên.

Trong thơ Thế Lữ, có “sương biếc” (Lựa tiếng đàn, Tiếng trúc tuyệt vời, Bóng

mây chiều), “trên mặt hồ in màu ngọc biếc” (Hồ xuân và thiếu nữ), “trời biếc”

(Chiều bâng khuâng), “sương gió biếc” (Đời thái bình). Trong thơ của Lưu Trọng

Lư có “làn khói biếc” (Bâng khuâng). Trong thơ Hàn Mặc Tử có “tà áo biếc”

(Mùa xuân chín), “khói nhạt…màu xanh biếc” (Đừng cho lòng bay xa). Trong thơ

Bích Khê có “tầng khói biếc” (Dặm mòn), “làn biếc tỏa” (Ngũ Hành Sơn). Vũ

Hoàng Chương có “màu liễu biếc” (Dịu nhẹ). Thơ Xuân Diệu có “lá biếc”, “núi

biếc” (Núi xa), “xanh biếc trời cao” (Buồn trăng), “cành biếc” (Thu). Phạm Huy

Thông có “nước biếc” (Dặm bài ca), “đỉnh đồi xanh biếc” (Gió đêm xuân), “cỏ

110

cây như nhuốm biếc”, “một mỏm đá xanh biếc” (Trên bãi bể), “ánh trăng biếc”

(Cảnh liễu bên hồ), “dải mây biếc” (Tiếng họa mi). Trong thơ Chế Lan Viên có

“cỏ non biếc” (Xuân về), “núi biếc” (Mơ trăng). Anh Thơ có “cỏ non tràn biếc cỏ”

(Ngày xuân), “trời trong biếc” (Trưa hè), “ao biếc” (Rằm tháng tám). Đoàn Văn

Cừ có “trời biếc” (Làng), “cồn cỏ biếc”, “trời biếc” (Ngày mùa), “trời xanh biếc”

(Trưa), “trưa hè biếc” (Lá thắm), “trời biếc”, “khoảng biếc”, “lúa biếc” (Bình

minh), “cỏ biếc”, “bầu tranh xanh biếc” (Hè), “dòng biếc” (Thu), “trời biếc” (Cuối

thu, Ngày mùa), “mây phơi màu biếc lụa” (Đàn trâu).

Màu biếc ở đây được gắn với tất cả các sự vật, bất kể đó là sự vật trên cao

gắn với vũ trụ như “mây”, “trời”, “gió”, “khói”, “sương” cho đến các sự vật gắn

với mặt đất như “cỏ”, “sông”, “lá cây”, “ánh trăng”, “đỉnh đồi”. Không chỉ các

sự vật tự nhiên được định danh được gắn với màu biếc như “cỏ”, “trời”, “lá”,

“mây”, “đá”, “núi”, “cây lúa”, v.v…mà cả những sự vật tự nhiên mang tính trừu

tượng như “khoảng [trời, không]”, “dòng [nước, sông, suối]”, “làn biếc”, “trưa

hè biếc”, “làn biếc tỏa”. Đặc biệt, tính từ “biếc” được gắn với các sự vật không

phân biệt sự khác biệt và sự thay đổi về thời gian và không gian. Ví dụ, trong

thơ của Đoàn Văn Cừ, cụm danh từ “cỏ biếc” trong đó “biếc” là định ngữ chỉ

màu sắc xuất hiện cả bài thơ nói về mùa xuân (Chợ Tết) và cả mùa hè (Hè).

Cũng trong thơ Đoàn Văn Cừ, các sự vật có màu biếc được xuất hiện bất kể

mùa và thời điểm trong ngày. Mùa thu có “trời biếc”, “dòng biếc”; mùa hè cũng

có “trời xanh biếc”; mùa xuân cũng có “trời biếc”; bình minh có “trời biếc”,

“lúa biếc”; buổi trưa có cũng có “trời xanh biếc”.

Khảo sát trên diện rộng các bài Thơ mới nói chung có màu sắc biếc cũng

đem lại ấn tượng về sự lặp lại tương tự. Màu “sương biếc” xuất hiện trong cả ba

bài thơ Lựa tiếng đàn, Tiếng trúc tuyệt vời và Bóng mây chiều của Thế Lữ.

“Trời biếc” xuất hiện trong (Chiều bâng khuâng -Thế Lữ), trong (Trưa hè - Anh

Thơ). Đặc biệt, giữa các nhà thơ có sự xuất hiện lặp lại của cùng một cụm danh

từ có định ngữ “biếc”. Ví dụ, cụm từ “núi biếc” xuất hiện trong bài (Núi xa -

Xuân Diệu), trong bài (Mơ trăng - Chế Lan viên). Màu sắc “biếc” đều được

dùng để miêu tả vật thể “cỏ” trong thơ của Phạm Huy Thông (Trên bãi bể), Chế

Lan Viên (Xuân về), Đoàn Văn Cừ (Ngày mùa, Hè). Như vậy, có thể nói tính từ

111

chỉ màu sắc “biếc” xuất hiện nhiều và không gắn kết một cách cụ thể, đặc trưng

với một sự vật tự nhiên nào. Điều này cho thấy, tính từ này không quy chiếu

nhiều đến sự vật tự nhiên mà gắn bó chặt chẽ với những quy ước mang tính ước

lệ của con người về thiên nhiên. Tính ước lệ này diễn ra theo kiểu: đã là cỏ thì

là “cỏ biếc, đã là “trời” thì là “trời biếc”, đã là “sương” thì phải là “sương biếc”.

Màu biếc của thiên nhiên trong Thơ mới, từ góc nhìn của phê bình sinh thái về

màu sắc, không chuyển sắc diện vật chất của thiên nhiên mà chuyển tải một mã

văn hóa về thiên nhiên.

Như vậy, tri thức văn hóa và truyền thống định danh các sự vật trong thiên

nhiên, chứ không phải thiên nhiên là chủ đề chi phối trong việc sử dụng dày đặc và

lặp lại các tính từ chỉ màu sắc trong Thơ mới. Vì thế, một mặt, Thơ mới có thể

đem lại những dẫn chứng cho xu hướng “sinh thái xanh” (green ecology) với sự

chiếm ưu thế của tính từ “xanh” và các tính từ liên quan đến nó như “biếc” và

“lam”. Ở phương diện này, Thơ mới hướng đến khắc họa một thế giới thiên nhiên

và sinh thái nguyên sơ, tinh khôi và nó tồn tại tách biệt, tự thân bên ngoài thế giới

con người. Nhưng mặt khác, trên cơ sở sự gắn bó của các tính từ chỉ màu sắc với

các danh từ chỉ sự vật cũng như tần suất xuất hiện của cụm danh từ đó trong các

bối cảnh thời gian và không gian đặc trưng, Thơ mới cũng có thể gợi ý cho các nhà

phê bình sinh thái luận điểm về sự không tồn tại một thế giới thiên nhiên như là

“một nơi chốn” tách biệt khỏi địa hạt con người. Nói cách khác, thế giới tự nhiên

và sinh thái tràn ngập sắc xanh trong Thơ mới cho thấy sự hiển lộ đầy ưu thế của

mã văn hóa hay tri thức văn hóa của chủ thể trữ tình.

Mối quan hệ không tách rời của chu trình tự nhiên và chu trình văn hóa

trong các miêu tả về thiên nhiên và sinh thái của Thơ mới có thể thấy rõ hơn

khi khảo sát về mức độ đa dạng của tính từ chỉ màu sắc cũng như sự kết hợp

linh hoạt của các tính từ đó đối với thế giới động từ và tính từ. Màu xanh xuất

hiện dày đặc trong Thơ mới và được kết hợp với nhiều tính từ chỉ mức độ và

nhiều động từ khác nhau. Trong bài (Ngày xuân - Anh Thơ), cụm danh từ có bổ

ngữ là tính từ chỉ màu xanh là “lúa xanh” được gắn với sự chuyển động lan tỏa,

dàn trải mênh mang “rợn sóng tận chân mây”. Ở đây, “rợn” mặc dù là một tính

từ, nhưng do sự điệp âm với động từ “gợn” vốn hay gắn liền với danh từ “sóng”

112

nên ấn tượng gợi lên lại là sự vận động. Đặc biệt, từ nối “tận” có vai trò như là

một phụ từ chỉ hướng, chỉ mức độ lan tỏa vô định của màu xanh. Trong bài thơ

(Xuân về - Chế Lan Viên), hình ảnh quả dừa xanh được cụ thể hóa kép với hai

động từ động từ “khảm bạc” và “hớ hênh cười”; lá chuối non có màu xanh “lấp

lánh dưới sương mai”. Ở đây, dường như đang diễn ra một quá trình thử

nghiệm về ngôn ngữ nhằm diễn tả cảm nhận bằng xúc giác, thị giác và bằng trí

tưởng tượng của chủ thể trữ tình đối với thế giới tự nhiên. Đó là hình hài những

quả dừa khoe sắc xanh phủ phấn bạc và những đọt chuối non ướt đẫm sương

mai và đu đưa trong gió buổi sớm.

Không những vậy, thế giới thiên nhiên trong Thơ mới còn được hiện diện

với sự đa dạng về màu sắc và các sắc thái và vận động gắn liền với màu sắc đó.

Hầu hết các bài thơ của Đoàn Văn Cừ đều bao gồm nhiều màu sắc. Có thể nói,

dường như chủ thể trữ tình trong thơ Đoàn Văn Cừ có một hứng cảm đặc biệt

trong việc sử dụng một cách dày đặc các tính từ màu sắc khi miêu tả thiên

nhiên. Ví dụ như bài thơ Đàn trâu:

Mặt trời hôm gần khuất dưới chân mây,

Như một chiếc chiêng vàngđương bốc lửa

...

Trong ánh sáng hoàng hôn màu úa đỏ

Đàn trâu về thủng thỉnh bước trên đê

...

Hình sao Hôm trắng toát hiện trên không

Như giọt nước trong rơi trên luống cỏ

Hơi sương tím chân trời tha thướt phủ,

Những hình đen lần lượt kéo vào thôn,

Tiếng chuông chùa gọi với ánh hoàng hôn,

Liềm trăng bạc đêm hè nâng lấp ló

Những buổi sáng mây phơi màu biếc lụa,

Đồng non tơ ánh sáng trộn pha đều

Đàn trâu nằm mơ mộng mắt xanh veo

113

Nghe gió chảy rì rào bên biển lúa

...

Những buổi chiều trong khoảng nắng hồng pha

Trên dải lúa mênh mông màu cánh trả,

Đàn trâu xám họp nhau về tất cả

Như bức tranh thêu mặt vóc lam hồng

(Đàn trâu - Đoàn Văn Cừ)

Hầu hết các câu thơ đều có tính từ chỉ màu sắc (được in nghiêng). Các

màu sắc ở đây không chỉ bó hẹp trong màu xanh mà mở ra một biên độ dường

như là vô tận: màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu tím, màu đen, màu bạc, màu

hồng, màu cánh trả, màu xám. Màu xanh xuất hiện ba (3) lần trong bài thơ

nhưng có các sắc thái khác nhau: “màu biếc lụa”, “xanh veo”, “lam hồng”. Điều

đặc biệt là các màu sắc ở đây hầu hết nằm trong một quá trình của sự kết hợp về

màu sắc giữa các sự vật trong những khoảnh khắc vận động của thời gian. Màu

tím ở câu thơ “hơi sương tím chân trời tha thướt phủ” có vai trò như là một

động từ chỉ hoạt động “nhuộm tím”. Với tư cách là tính từ, màu tím ở đây

dường như là kết quả của sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời lúc bình minh,

kết hợp với màu xanh của lá cỏ.

Bức tranh làng quê sáng sớm ở đây, mượn cách diễn đạt của Henry Thoreau

trong bài giảng “Màu sắc mùa thu” (Autumnal tints), thể hiện mối quan hệ phức

hợp giữa tri thức khoa học và trí tưởng tượng. Đúng hơn, sự xuất hiện của các màu

sắc, theo quan điểm của Thoreau, là một sự chuẩn bị cho thị giác và tâm trí trong

việc nhìn thế giới vừa rất trật tự, vừa không thể dự đoán được và vì thế rất đẹp đẽ.

“Chỉ tồn tại những cái đẹp hiện ra cho chúng ta chiêm ngưỡng và vẻ đẹp đó là

nhiều đúng bằng sự chuẩn bị của thị giác chúng ta trong việc chiêm ngưỡng đó…

Cần phải có những sự chú ý khác nhau của mắt và của tâm trí để chú ý đến những

mục tri thức khác nhau” [dẫn theo 127, 159]. Như thế, các phẩm chất mang tính

hội họa của phong cảnh tương ứng với sự chuẩn bị (trí tưởng tượng, tri thức khoa

học) của người chiêm ngưỡng. Và ở đây, rõ ràng, bức tranh thiên nhiên và thế giới

sinh thái hiện lên vừa thể hiện kết quả của nhiều sự vận động trong thế giới này và

của mối liên hệ của thế giới đó với nhãn quan và tâm trí của con người. Diễn đạt

114

theo cách của Heather I. Sullivan trong bài viết “Sinh thái của các màu sắc: Thị

giác mang tính vật chất của Goethe và xu hướng hậu nhân văn sinh thái” (The

Ecology of colors: Goethe’s materialist optics and Ecological Posthumanism), tự

nhiên trong Thơ mới, khi được khảo sát từ góc độ các ngôn từ chỉ màu sắc, là

“những chu trình văn hóa-tự nhiên xuất hiện liên tục hoàn toàn quanh, qua, và

trong chúng ta” [136, 80 - 94].

Khảo sát các tính từ, động từ hỗ trợ cho tính từ “vàng” trong Thơ mới

càng chứng tỏ điều mà Sullivangọi là “những ý niệm mang tính giác quan về

các sinh vật” (sensory perception) trong Thơ mới. Điều đó có nghĩa, quang

cảnh thiên nhiên và thế giới sinh thái trong văn học hiện lên là kết quả của sự

tương tác giữa những giác quan của cơ thể con người với thế giới màu sắc, âm

thanh, mùi vị, và những vận động của thế giới vật chất. Thiên nhiên do đó hiện

lên không chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi theo những hướng quen thuộc mà các

nhà phê bình sinh thái vẫn khám phá như sự phá hủy, sự phát triển, tình trạng bị

khai thác, hay tình trạng bị ô nhiễm. Trái lại, trong sự tương tác với các giác

quan cơ thể, thiên nhiên hiện lên trong một sự vận động với diện mạo đa dạng

và thay đổi không có giới hạn, không xác định. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc

vào chu trình tương tác của các giác quan và chu trình tương tác của các năng

lượng tự nhiên, sinh thái. Lấy màu vàng trong bài thơ Ngủ với trăng của Hàn

Mặc Tử làm ví dụ.

Tiếng vàng rơi xuống giếng,

Trăng vàng ôm bờ ao...

Gió vàng đang xao xuyến

Áo vàng hỡi chị chưa chồng đã mặc đi đêm

Ở đây, màu vàng được cấu trúc lại theo một nét nghĩa mang tính bao gộp cả

về văn hóa và tự nhiên. Đó là màu sắc vừa mang tính thị giác được xuất hiện trong

điều kiện màSullivangọi là “sự lực truyền của ánh sáng mặt trời vào bầu sinh

quyển”. Nhưng màu sắc vàng ở thơ Hàn Mặc Tử còn mang tính thính giác: “tiếng

vàng rơi xuống giếng”. Trong hình ảnh “tiếng vàng rơi” có sự tương hợp của hai

giác quan thị giác và thính giác, đó là những giọt nước pha lẫn ánh trăng rơi xuống

giếng. Không chỉ vậy, màu vàng ở đây còn vận động uyển chuyển đầy quyến

115

luyến. Chủ thể trữ tình dường như nỗ lực lắng nghe và cảm nhận bằng nội cảm thế

giới bên trong của sắc vàng. Sự vận động và các sắc thái của màu vàng ở đây

tương đồng với cách miêu tả của Wolfgang Goethe về màu sắc trong cuốn Lí

thuyết về màu sắc (Theory of color). Theo đó, màu sắc là hiện thân về các biến đổi

của thiên nhiên: khi ánh sáng, khách thể, mắt nhìn, và các sự tiếp nhận cùng tham

gia thì màu sắc xuất hiện. Màu sắc không phải là cố định. Trái lại nó là đại diện

cho các chu trình không đoán trước được của thiên nhiên, các chu trình này liên

tục được vận hành bởi năng lượng mặt trời. Màu sắc hiện thân cho những sự trao

đổi của các sự vật sống vốn vận hành dựa trên sự tận dụng ánh sáng. Diện mạo của

màu sắc trong các chu trình liên quan đến thị giác con người xuất hiện như là

những sự tương tác giữa sự sống và năng lượng mặt trời. Miêu tả của Goethe cho

thấy không có sự tách biệt giữa địa hạt văn hóa và địa hạt thiên nhiên trong các

diễn đạt của con người về màu sắc của tự nhiên.

Như vậy, thế giới sắc màu trong Thơ mới hiện ra như một sinh thể sống

động, là kết quả của “những ý niệm mang tính xúc giác” (sensory perceptions)

của chủ thể trữ tình. Nói cách khác, thế giới màu sắc ở đây như là một nơi chốn

mà ở đó diễn ra sự tương tác phức hợp của các chu trình tự nhiên và chu trình

văn hóa. Có thể nói, ngôn ngữ chỉ màu sắc trong Thơ mới cho thấy sự không

tách rời, hay nói đúng hơn là mối quan hệ trao nhận, tương tác của chủ thể và

khách thể, của tự nhiên và văn hóa trong các bài thơ về thiên nhiên và sinh thái.

Điều này tương đồng với sự phát triển về lí luận gần đây trong lí thuyết phê

bình sinh thái. Đó là việc chấp nhận tự nhiên không phải là một “nơi” tách biệt

và đối lập với con người mà như là một quá trình trong đó có sự tương tác của

các quá trình hình thành ý niệm, sự vận dụng các mã văn hóa và quá trình tự

nhiên được cảm nhận qua giác quan của con người.

4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lý thuyết phê bình sinh thái ở

Việt Nam

Trong phong trào Thơ mới, có những bài thơ trực tiếp nói về mối quan hệ

giữa con người với thiên nhiên tương ứng với tư tưởng về mối quan hệ này

trong lí thuyết phê bình sinh thái. Nói cách khác, Thơ mới bao gồm trong nó,

thông qua hình thức thơ, với vần, nhịp và cách ngắt câu đặc trưng, những triết lí

116

và quan niệm đặc trưng của phê bình sinh thái. Trong bài thơ Lũy tre xanh, Hồ

Dzếnh đặt những câu thơ của mình ở cái ranh giới mong manh giữa “làng” và

“đô thị”. Ở giữa hai thế giới này hình ảnh nhân vật trữ tình được xây dựng là

một người luôn trông ngóng chung thủy với làng quê:

Làng gần đô thị, tuy nhiên

Mắt trong vẫn giữ được miền sắt son

….

Tôi yêu, nhưng chính là say

Tình quê Nam Việt, bàn tay dịu dàng

Thơ tôi: đê thắm, bướm vàng

Con sông be bé, cái làng xa xa...

(Lũy tre xanh -Hồ Dzếnh)

Nhân vật trữ tình ở trong bài thơ say sưa và tự tin tuyên ngôn lẽ sống của

mình trong mối quan hệ với thế giới đồng quê. Đó là “yêu”, “say”, “sắt son”.

Và thơ của tác giả trữ tình, như được nói lên trực tiếp, chỉ có “đê thắm”, “bướm

vàng”, “con sông be bé” và “cái làng xa xa”. Nhân vật ở đô thị những một lòng

một dạ cho thôn quê vì đó là “tình quê Việt Nam”, vì đó là yêu thương và chở

che với “bàn tay dịu dàng”.

Có thể nói, đây là những vần thơ tương ứng với quan điểm cổ điển của phê

bình sinh thái, đó là nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên như là cõi đi về, cõi

ngóng trông của con người trong thế giới hiện đại.

Rừng, không thể phủ nhận, là một đề tài của nhiều bài thơ trong phong

trào Thơ mới. Thơ Lưu Trọng Lư có nhiều bài thơ lấy rừng và các sự vật đặc

trưng của rừng làm tứ thơ. Nói cách khác, trong thơ Lưu Trọng Lư có một thế

giới rừng hiện lên thơ mộng và sống động. Đó là thế giới rừng nguyên sơ và

tĩnh mịch đến mức có thể “nghe [được tiếng] rừng thu”, nghe được tiếng “lá rơi

xào xạc” và tiếng bước chân con nai vàng đạp trên lá. Đó là thế giới sinh động,

chan hòa và bình yên giữa các sinh vật, giữa con người và động vật rừng không

có sự dè chừng.

Ngày ngày vào rừng sâu

Thổi sáo tìm bồ câu,

117

Chim ngàn, trên vai đậu

Đậu cả mái tóc sầu.

(Ngày xưa – Lưu Trọng Lư)

Con sóc trên cành

Gọi bầy ca vũ,

Ta nghe cầm thú

Vào hội đồng thanh,

Hồn nhạc mong manh

Kể lời châu thổ.

Ôi điệu u tình

Lả lướt rừng xanh

(Hoa sử - Đinh Hùng)

Ngày xưa có một người thơ,

Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo.

Chim hôm loáng thoáng qua đèo,

Cảnh chiều buông tiếng chim chiều ngân nga

(Ngày xưa – Ngân Giang)

Đó là thế giới chan hòa trong âm thanh tươi vui. Các loài muông thú đồng

thanh, tương tác tạo thành thứ hòa âm của đất trời và của ngàn năm. Trong

những bài thơ trên, rừng hiện lên là một thế giới nguyên sơ. Ở đó vẫn còn

những loài muông thú hiếm như nai, sóc, chim. Và đó còn là thế giới chưa có

sự can thiệp thô bạo của con người. Muôn thú vui tươi, chan hòa với nhau, điều

đó chứng tỏ chúng chưa trải qua sự đe dọa hay sự mất mát nào do ảnh hưởng

của văn minh như một số bài thơ khác trong Thơ mới miêu tả.

Trong các bài Thơ mới, thơ của Đinh Hùng có thể được coi như là những

luận đề bằng thơ về các đặc điểm của mối quan hệ này của thơ ca đồng nội.

Nguyễn Thị Minh Thương trong bài viết Kháng cự đô thị, trở về tự nhiên: “Mê

hồn ca” của Đinh Hùng từ góc nhìn phê bình sinh thái (Tạp chí Khoa học, Đại

học Sư phạm Hà Nội, 2018) tìm ra sự tương đồng giữa thơ Đinh Hùng với tư

tưởng của các nhà phê bình sinh thái ở ý thức kháng cự lại thành thị, “kính

ngưỡng thiên nhiên” và “trở về với tự nhiên,” tìm sự hòa giao giữa con người

118

và tự nhiên.Tác giả cho rằng, dù không phải là văn học sinh thái nhưng thơ của

Đinh Hùng “mang nội hàm tư tưởng của sinh thái, có ý thức sinh thái và tự giác

sinh thái rõ ràng”[70]. Bài viết này, nhìn nhận thơ của Đinh Hùng như là một

sự biểu hiện bằng thơ quan niệm kinh điển của phê bình sinh thái về mối quan

hệ giữa con người và thiên nhiên trong văn học đồng nội nói riêng và văn học

thiên nhiên nói chung. Đó là sự nhấn mạnh đến đối lập giữa văn hóa-văn minh

và thiên nhiên; trong đó văn hóa – văn minh được hiện thân chủ yếu qua đô thị

và thiên nhiên chủ yếu được hiện thân qua các quang cảnh đồng quê, rừng núi

tự nhiên. Trong đó, đô thị thường xem là lực tàn phá và là nơi mà con người

muốn trốn khỏi, muốn ra đi; trong khi đó, làng quê hay rừng ruộng là nơi con

người muốn tìm về như tìm về với quá khứ trong trẻo, như là tìm về cội nguồn

và như là nơi bình yên, nơi tìm thấy bản thân mình.

Và nhân vật trữ tình trong thơ Đinh Hùng cũng nhiều lần nói lên trực tiếp

cái tinh thần cơ bản của phê binh sinh thái, đó là từ bỏ thành phố để đến với

thiên nhiên và sống theo thiên nhiên, sống như thiên nhiên:

Lòng đã khác ta trở vềđô thị

Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa

… Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng

Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng

(Bài ca man rợ - Đinh Hùng)

Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe...

Thèm ăn một chút hoa man dại

Rồi ngủ như loài muông thú kia

(Những hướng sao rơi – Đinh Hùng)

Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt

Là đôi người cô độc thủa sơ khai

(Người gái thiên nhiên – Đinh Hùng)

Quên đi em, hãy sống đời cây cỏ

Từng linh hồn dan díu với hương hoa

(Trời ảo diệu – Đinh Hùng)

Tôi từ thơ trẻ biệt lều tranh

119

Rồi lớn và yêu giữa thị thành

Gió thổi bâng khuâng hồn cỏ dại

Ngậm ngùi chợt nhớ lũy tre xanh

(Lạc hướng mây Tần – Đinh Hùng)

Những câu thơ trên như lời tuyên ngôn bằng thơ, bằng hình ảnh và bằng

nhịp điệu tư tưởng mang tính sinh thái. Lời mời gọi “sống đời cây cỏ” và “ngủ

như loài muông thú” là ý tưởng về việc con người sống như thiên nhiên, là tư

tưởng lấy thiên nhiên là hình mẫu sống. Và lời mời gọi “dan díu với hương

hoa” là ý tưởng về sự giao hòa, kết nối giữa con người với thiên nhiên. Và trạng

thái của nhân vật trữ tình là luôn lắng nghe thiên nhiên, thèm cỏ dại và “cô độc

giữa sơ khai” – đó là hoài vọng điển hình của con người hiện đại hướng về

thiên nhiên như là hướng về cái bản ngã thuở ban sơ, hướng về cội nguồn của

mình. Như vậy, từ góc nhìn của phê bình sinh thái, thơ Đinh Hùng có thể nói là

những luận đề mang tính thơ ca về tư tưởng kinh điển của xu hướng tiếp cận

văn học này, đó là sự rời xa của con người đối với thành phố để gần hơn với

thiên nhiên, để sống như thiên nhiên và lấy thiên nhiên làm cõi đi về.

Vì tính luận đề về sinh thái, trong Thơ mới, ta có thể bắt gặp những câu

thơ hay những cách diễn đạt ngôn từ có thể là tuyên ngôn hay phương châm của

phê bình sinh thái hay các phong trào môi trường. Ví dụ, để diễn đạt cho tư

tưởng nhị nguyên phân đôi giữa thành thị và thiên nhiên hay giữa văn hóa và tự

nhiên, trong đó, thành thị bị phê phán như là sự suy đồi về đạo đức, nơi tha hóa

về tâm hồn, nhân cách của con người và thiên nhiên là nơi an toàn, nơi nguyên

sơ, tinh khiết, thì bài thơ Lời mỉa mai của Thế Lữ có thể được lấy để thay thế:

Trong những lúc giang hồ cay cực,

Vừng cây xanh bỗng réo rắt tiếng chim ca

Khiến cho người non nước động hồn thơ...

Tôi đứng lại, đưa tay lau mắt lệ

Mà vui ngắm cảnh tươi cười mới mẻ;

Tôi thực lòng hưởng phút say sưa

- Vì cảnh thiên nhiên không lừa dối bao giờ.

(Lời mai mỉa – Thế Lữ)

120

Trong đó, “cảnh thiên nhiên không lừa dối bao giờ” có thể trở thành tuyên

ngôn của phê bình sinh thái. Chính sự khái quát hóa các hình ảnh hay sự kiện

trong các bài Thơ mới khiến cho ý thơ và cảm xúc trữ tình của chúng dễ dàng

trở thành các ý niệm hay các tư tưởng. Như ở bài thơ trên, hoạt động khái quát

hóa có thể thấy ở cách diễn đạt “trong những lúc giang hồ cay cực” và “người

non nước động hồn thơ”. Ở đây, độc giả dễ dàng nhận ra, tác giả trữ tình dường

như hướng tới một sự vật (chốn giang hồ nào, cảnh thiên nhiên nào), một hiện

tượng cụ thể nào (sự kiện lừa lọc nào, chuyện gì hay sự vật gì khiến cho nhân

vật trữ tình rơi lệ rồi lại cười vui) mà dường như đang nỗ lực khái quát hóa

chúng lên thành một triết lí, một ý niệm về sự đối lập giữa văn hóa và thiên

nhiên, trong đó, thiên nhiên là nơi vĩnh hằng và là nơi yên ổn, an bình mà con

người có thể tin tưởng nhất. Hay ở những câu thơ như:

Em ơi, vui thú phồn hoa mãi

Có biết đồng quê đang nhớ mong

(Trở lại đồng quê – Bàng Bá Lân)

Bình minh buổi ấy gặp anh

Rủ em ra chốn đô thành xa khơi

….

Nhưng em luống nặng lòng quê

Nhớ thương cảnh cũ bốn bề núi non

(Lòng quê – Hằng Phương)

Đến bây giờ, bạn ơi! Tôi mới biết

Tôi yêu rừng sâu, mây vàng, núi biếc

(Trên bãi bể - Phạm Huy Thông)

Cùng với tôi yêu cuộc đời mộc mạc

Đầy hoa hương cùng thi vị thiên nhiên

Đối với tôi, đó là thú thần tiên

(Bóng mây chiều - Thế Lữ)

Cũng đầy cách diễn đạt hướng đến sự trừu tượng như “thi vị thiên nhiên”,

“thú phồn hoa”, “cuộc đời”, lòng quê và đầy cách diễn đạt chủ yếu dựa vào

danh từ chung (không dùng thêm các định ngữ chỉ danh cụ thể) như “rừng sâu,

121

mây vàng, núi biếc”, “bốn bề núi non”, “chốn đô thành”, “đồng quê”. Dường

như tác giả trữ tình dùng các hình ảnh trên chỉ như là một thành ngữ, một khái

niệm phổ quát. Quá trình ý niệm hóa cũng khiến cho các câu thơ đều có khả

năng trở thành những tuyên ngôn về một triết lí sống hướng về thiên nhiên. Như

vậy, Thơ mới, khi được nhìn nhận từ góc độ phê bình sinh thái, tràn đầy tiềm

năng trở thành diễn ngôn sinh thái, tham gia vào diễn ngôn và tư tưởng về sinh

thái của nhân loại ngày nay.

4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lý luận bằng thơ về sự chấn thương

sinh thái

Cho đến nay, nghiên cứu về chấn thương trong văn học không còn là vấn

đề nghiên cứu mới mẻ. Trong bài viết của mình về “Chấn thương kép trong Nỗi

buồn chiến tranh của Bảo Ninh” nhà nghiên cứu Cao Kim Lan cũng chỉ ra khi

lúc này nghiên cứu về chấn thương đang đi vào bế tắc thì “Như thế, để tìm ra

một con đường biểu đạt một vấn đề phức tạp, những phân tích tự sự chấn

thương đôi khi phải giải phóng khỏi những “công thức cơ bản” của lý thuyết

chấn thương văn học và phát triển nó trong “những tương đồng về trí tuệ, đạo

đức” hay “nhiệm vụ chính trị trong việc chống lại các hình thức bạo lực chủng

tộc và thuộc địa” [33,25]. Dựa trên quan điểm đó thì một thực tế cho thấy khi

chúng ta tưởng tượng ra ý nghĩa của thuật ngữ chấn thương, chúng ta hiếm khi

nghĩ về nạn nhân là thế giới tự nhiên-thiên nhiên. Tuy nhiên, với sự ra đời của

phong trào quyền động vật, thì các nhà phê bình ngày càng chấp nhận việc xem

thế giới sinh vật không phải con người là có cảm xúc - hay ít nhất là có thể chịu

đựng và trải nghiệm nỗi đau - và do đó xứng đáng với quyền lợi. Các nhà môi

trường luận, tranh luận rằng điều đó cũng xảy ra với động vật và các hệ sinh

thái hoang dã khác. Mặc dù các nhà nghiên cứu không tuyên bố rằng các hệ

sinh thái có cảm xúc của con người nhưng họ nhận ra sự mong manh và tầm

quan trọng về mặt sinh học của một số khu vực nhất định và rằng các hoạt động

của con người có thể ảnh hưởng xấu đến các loài ở đó. Để có thể cảm nhận

được chấn thương sinh thái, các nhà môi trường luận đã phát triển một nhận

thức rằng con người thực ra cũng bị nhốt vào hệ sinh thái giống như các động

vật khác, vì vậy khi con người phá hủy cảnh quan bằng cách thải chất thải độc

122

hại, ngăn cắt hoặc lấp đầy vùng đất ngập nước, thì những sự can thiệp đó ảnh

hưởng đến chất lượng nước uống, bóng râm và oxy có sẵn cho con người cũng

ảnh hưởng đến khả năng giảm thiểu lũ lụt bằng hệ thống thoát nước tự nhiên.

Theo cách này con người có thể cho rằng hệ sinh thái bị tổn thương sẽ làm tổn

thương con người trở lại [146, iv-v]. Các nhà phê bình sinh thái đã tìm kiếm

trong văn học những biểu đạt gợi ý về sự chấn thương của hệ thống sinh thái.

Khảo sát Thơ mới, chúng tôi cũng tìm thấy những biểu đạt ám ảnh người đọc

về sự cảm nhận nỗi đau của thế giới tự nhiên.

Quả đúng như vậy, một chủ đề nổi bật trong thơ viết về rừng nói riêng và

thiên nhiên nói chung của Thơ mới là sự mất mát, tổn thương. Ở những bài thơ

này, diện mạo của thiên nhiên hiện ra rên xiết, đau đớn như là hệ quả của một

sự can thiệp thô bạo. Đó là cảnh rừng là nạn nhân của một cuộc tàn sát: muông

thú bị sát hại “thảm lá máu chim muông loang lổ”, là cảnh lá rừng bị chà đạp

“rên rỉ” (Chiến tượng – Chế Lan Viên). Hay trong bài thơ (Khách ngàn phương

- Cẩm Lai), thế giới rừng hiện lên trơ trụi “rừng vắng, lau thưa”, chỉ có “lá vàng

reo…xao xác” và mấy lùm cây còn lại “cây tung lá” và lẻ loi tiếng chim kêu

“khắc khoải”. Muông thú trong thơ của Đinh Hùng chỉ thấy hú và khóc “Vượn

lâm tuyền khóc rợn trăng khuya” (Những hướng sao rơi) và “Rừng buổi đó

vang tiếng cười man rợ/…Ta đến đây nghe vượn núi kêu sầu” (Người gái thiên

nhiên). Đầm sen trong thơ Trần Huyền Trân chỉ còn là nước cống “Mang tiếng

đầm Liên Hoa/Là ao bèo nước cống” (Mẹ nuôi con).

Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ có thể nói là tiêu biểu nhất cho sự tổn

thương của rừng. Bài thơ thường được khai thác ở khía cạnh tượng trưng của

nó, đó là khao khát tự do của trí thức trong cảnh cùm kẹp. Tuy nhiên, bước qua

cái ý nghĩa tượng trưng đó, coi bài thơ như là một diễn ngôn về môi trường, thì

ý nghĩa trực tiếp nhất của Nhớ rừng là nó phản ánh tâm trạng của một con hổ bị

nhốt trong cũi. Đó là con hổ bị tách rời khỏi đời sống hoang dã tự nhiên để đưa

vào thành vật nuôi của con người trong công viên, hay vườn bách thú. Sự hiện

diện dữ dội của các hình ảnh thuộc về rừng mà con hổ nhớ tưởng như “sơn lâm,

bóng cả, cây già… tiếng gió gào ngàn… giọng nguồn hét núi” như là một sự

phản chiếu tình trạng sống tẻ nhạt, cùm nén của con hổ trong không gian sống

123

do con người tạo dựng lên. Hình ảnh đầy oai vệ của con hổ trong quá khứ “thét

khúc trường ca…. bước chân lên dõng dạc, đường hoàng/Lượn tấm thân như

sóng cuộn nhịp nhàng/Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc/Trong hang tối, mắt

thần khi đã quắc/Là khiến cho mọi vật đều im hơi” phản chiếu sự mất mát, tổn

thương của con vật khi phải sống trong ngôi nhà do con người tạo dựng ra. Đó

rõ ràng không được coi là không gian sống của con vật vốn đã quen ở chốn

rừng hoang và sống một cách tự do.

Hai chủ đề đối lập về rừng trong các bài Thơ mới có thể được đọc như là

sự tương đồng với tính mơ hồ trong ý niệm về bảo vệ môi trường và sinh vật

hoang dã trong phê bình sinh thái. Điều này được Bernard Williams khái quát

hóa trong nhận định: “Những gì nhiều lợi ích muốn bảo tồn chính là thiên nhiên

không bị kiểm soát, không bị định hình, hoặc không được theo chủ ý của chúng

ta, đó là một thiên nhiên, chống lại văn hóa, có thể được xem như là cái đang ở

ngoài kia. Nhưng thiên nhiên được bảo tồn là một thiên nhiên hoang dã được

xác định, được phân tách. Nghịch lý là chúng ta phải sử dụng quyền lực của

mình để bảo tồn ý thức về những thứ không nằm trong quyền hành của chúng

ta. Bất cứ điều gì chúng ta để hoang sơ thực là chúng ta đã động vào” . Lời

trích dẫn của Williams rất quan trọng vì nó chỉ ra xu hướng lấy con người làm

trung tâm trong nỗ lực bảo vệ hành tinh sẽ dẫn đến sự “tự lừa dối” và “tuyệt

vọng”. Những bài thơ tràn đầy tiếng chim muông, cây cỏ đều đặt trong bối cảnh

là những hoài niệm của nhân vật trữ tình. Đó là cảnh đã mất. Trong khi đó, sự

mất mát, tang thương của thiên nhiên hoang dại là thực tế trong hiện tại. Hình

ảnh nhuốm máu và đầy vết thương của rừng trong các bài thơ được trích dẫn

dường như là một cảnh báo về hệ quả của hành động bảo vệ sinh vật hoang dã

qua việc bắt nhốt các con vật và đặt trong công viên.

Trong bài giảng về Phê bình sinh thái ở Khoa văn học, Trường Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội năm 2017, Heise Ursula, tác giả cuốn

Imagining extinction: The cultural meanings of endangered species- Sự tuyệt

chủng mang tính tưởng tượng: Các ý nghĩa văn hóa của các chủng có nguy cơ

tuyệt chủng, NXB Đại học Chicago- giải thích rằng các nhà phê bình sinh thái

đặt câu hỏi là những mẫu tự sự nào hình thành nên các câu chuyện về các loài

124

bị đe dọa và diệt chủng ở các cộng đồng văn hóa cụ thể. Sự tuyệt chủng của các

loài không phải con người luôn luôn là vấn sự quan tâm về mặt khoa học hay

văn hóa. Trong văn hóa phương Tây, niềm tin chủ yếu cho đến đầu thế kỉ 19 là

chúa trời tạo ra động thực vật và không đơn giản là để các loài mình tạo ra biến

mất đi. Nó tiến hành khám phá về niên đại trái đất, một sự khám phá trong đó

nhiều vật hóa thạch không thể khớp với các tổ chức sinh vật đang sống trong

thế giới tự nhiên hiện nay, và cuối cùng luật tiến hóa Darwin đã dần dần thuyết

phục các nhà cầm quyền và dư luận nói chung vào thế kỉ 19 rằng các sinh vật

có lẽ đã tuyệt chủng thực sự. Trong thực tế, tất nhiên, lí thuyết Darwin giả thiết

rằng các loài bị tuyệt chủng ở tất cả các thời đại khi các loài có khả năng thích

nghi tốt hơn xuất hiện. Nhưng sự tuyệt chủng vẫn được giả thiết theo hướng

văn hóa là một thứ thuộc về quá khứ cho đến cuối thế kỉ 19, khi sự gần tuyệt

chủng của bò rừng bizon và sự tuyệt chủng của loài chim đưa thư từng rất nhiều

ở Mỹ, ví dụ, dẫn đến việc nhận thức rằng sự tuyệt chủng cũng đang xảy ra ở

hiện tại. Điều này dẫn đến việc hình thành các tổ chức đối thoại đầu tiên ở Mỹ

và châu Âu và toàn thế kỉ XX, các hoạt động đối thoại tập trung vào các loài cụ

thể được cho là đang có nguy cơ. Nhưng bức tranh thay đổi vào những năm 70

và 80 của thế kỉ XX, khi các nhà cổ sinh học như David Raup và Jack Sepkoski

khẳng định rằng sự tiến hóa về sinh học được định hình ít bởi sự tuyệt chủng

dần theo xu hướng Darwin mà nhiều hơn là sự tuyệt chủng hàng loạt, những sự

kiện cho thấy, trong một khoảng thời gian ngắn hơn 70% các loài đang tồn tại

bị tuyệt chủng. Đối lập với sự tuyệt chủng thông thường, chỉ 5 cuộc tuyệt chủng

hàng loạt như vậy xảy ra trong 3,5 triệu năm lịch sử đời sống sinh học của trái

đất. Ý nghĩa này dần sản sinh ra sự sợ hãi gia tăng giữa các nhà môi trường,

người đầu tiên nói về nỗi lo sợ này ra cộng đồng là Norman Myers, Paul và

Anne Ehrlich, và E.O.Wilson, rằng chúng ta gần đây có thể đang trải qua cuộc

đại tuyệt chủng thứ 6 do con người gây ra. Điều này dẫn đến sự xuất hiện của

thuật ngữ đa dạng sinh học như là một khẩu lệnh của phong trào môi trường

vào những năm 1980 và dẫn đến mối quan tâm thường xuyên của đại tuyệt

chủng như là một đảm bảo về phẩm chất của các phong trào môi trường, đặc

biệt là nửa bán cầu Bắc. Và “chúng ta” quy chiếu đến các cộng đồng bản xứ,

125

khu vực hay quốc gia trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và động vật có nguy cơ

hay tuyệt chủng trở thành một cách để tưởng nhớ hay than khóc điều đã mất, để

nghĩ về bản sắc tập thể riêng của ai đó trong bối cảnh bị thay đổi lớn trong quá

trình hiện đại hóa hay thực dân hóa hoặc cả hai.

Cả sự hoài niệm và sự miêu tả hiện tại cộng hưởng dường như là đang quy

chiếu đến hiện thực về sự biến mất của rừng và các chính sách mang tính thực

dân nhằm bảo tồn thiên nhiên và xây dựng công viên của chính phủ Pháp trên

đất Đông Dương. Trong bài nghiên cứu Bảo vệ rừng và phong trào môi trường

thuộc địa: Đông Dương, 1860-1945, Frédéric Thomas khảo sát tác động tiêu

cực của quá trình thực dân hóa đối với rừng Đông Dương và các dự án nhằm

tạo ra các khu vực bảo tồn, từ đây đánh giá tổng thể về hiệu quả của tám mươi

năm chính sách lâm nghiệp của Pháp ở Đông Dương và xác định chính xác các

vấn đề môi trường trong giai đoạn đó [105, 104 -136]. Để hợp lí hóa sự can

thiệp của chính quyền thực dân vào tài nguyên đất và rừng của Đông Dương,

các quan chức hành chính của Pháp miêu tả tình trạng phá hủy ở nơi này đang

ngày càng kịch liệt, động vật đặc biệt là trâu nước và các loài gia súc thì nhiễm

bệnh và chết. Điều đó dẫn đến việc nhà nước biến nhiều vùng đất tự nhiên

thành khu bảo tồn và nằm dưới sự quản thúc của chính phủ. Đến năm 1928 có

đến 6,8 phần trăm rừng ở Đông Dương bị phân loại thành khu bảo tồn và cho

đến giai đoạn cuối thời kì thực dân có sáu trăm khu bảo tồn được dựng lên ở

Đông Dương, chiếm 5.2 phần trăm diện tích đất đai ở nông thôn, 8,1 phần trăm

đất rừng. Vào năm 1926, chính quyền thực dân dự định lập khu bảo tồn một số

loài sinh vật và kế hoạch xây dựng công viên quốc gia. Mục đích của dự án này là

để bảo vệ các loài voi, tê giác, trâu rừng, nai cái v.v… khỏi sự tuyệt chủng. Và như

Aline Demay miêu tả trong cuốn Du lịch và Thực dân hóa ở Đông Dương (1898-

1939), việc thành lập các công viên quốc gia nhằm bảo vệ hệ sinh vật bản địa có

mục tiêu là thu hút khách du lịch [88, 113-115]. Và như nhận định của Thomas,

các dự án về khu bảo tồn không có mục tiêu bảo vệ môi trường rừng nhiệt đới mà

thường ưu tiên cho sự “bóc lột tự do đối với các khu vực rừng trù phú nhất”. Như

thế, các bài thơ về rừng trong Thơ mới, thực chất là sự đồng vọng về diễn ngôn đối

với những tranh luận trong cộng đồng về dự án xây dựng khu bảo tồn rừng. Hơn

126

nữa, việc nhấn mạnh vào hoài niệm về sinh vật rừng tự do, chan hòa trong quá khứ

với các sinh vật rừng bị cầm tù, bị tổn thương trong hiện tại, Thơ mới dường như

tham gia vào xu hướng phản thực dân vốn thực sự phát triển ở Việt Nam từ những

năm cuối của thập kỉ 1920 và thực sự phát triển đỉnh cao vào cuối những năm

1930. Nói cách khác, đúng như nhà lịch sử Thomas nhận định, “sự chống đối lại

chính sách bảo tồn là một yếu tố trung tâm trong sự hình thành của nhiều phong

trào độc lập dân tộc [ở Đông Dương]”[105].

Quay trở lại luận điểm về vấn đề chấn thương sinh thái, hình ảnh muông

thú – có tính nhân cách hóa được phân tích ở trên đặt ra một câu hỏi, liệu việc

biểu đạt những mất mát về thiên nhiên đó có phải là một hiện thân cho sự thống

trị của con người, rằng con người đang không cho thiên nhiên nói tiếng nói thật

sự của nó, rằng con người đang nói hộ, nói cho thiên nhiên theo cái cách hiểu

và giọng nói của mình. Khẳng định rằng một nội dung cơ bản trong mối quan

hệ giữa con người và thiên nhiên được nhìn nhận trong phê bình sinh thái. Đó là

mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên phi nhân loại có được đặc

trưng chủ yếu là chấn thương. Cụ thể, con người lạm dụng cảnh quan và làm

cạn kiệt tài nguyên, gây hại cho chính các hệ sinh thái hỗ trợ cuộc sống của

chính họ. Điều này có thể được coi là một chấn thương kép trong đó con người

làm tổn thương hệ sinh thái, sau đó lại quay lại làm chấn thương chính con

người. Việc con người không sẵn lòng thiết lập một văn hóa coi thế giới tự

nhiên phi nhân loại là một chủ thể có giá trị có khả năng trải nghiệm chấn

thương đã ngăn cản con người không hiểu được hậu quả trong hành động của

mình. Đây là một mâu thuẫn của các nhà phê bình sinh thái và các nhà môi

trường luận trong những nỗ lực nhằm đem lại cho thiên nhiên một vị trí trung

tâm – một vị trí mà đáng lẽ ra tiếng nói và những trải nghiệm, những cảm giác

của nó phải được nó tự lên tiếng, tự biểu hiện theo cái cách riêng mà con người

có thể hoặc không thể hiểu được.

Đứng trước mâu thuẫn này, các nhà phê bình sinh thái vận dụng quan

điểm của Gayatri Spivak về sự tương tác xuyên văn hóa (across cultural

communication) để khuyến khích ý niệm rằng con người cần phải cho phép môi

trường giao tiếp theo cách riêng của nó, bất kể chúng ta có hay không hiểu nó

127

một cách đầy đủ. Gayatri Spivak tuyên bố rằng, thay vì cho phép sự áp bức

thống trị, chúng ta phải cố nghĩ về một quan hệ với tự nhiên như là một hành

động yêu thương, một sự bao chứa, bao dung đối với cái khác chứ không phải

là sự khuất phục nó. Cái nhìn này không cho phép đặc quyền của nhóm hơn

nhóm còn lại; nó thừa nhận sự khác biệt và sự thất bại không thể tránh khỏi

trong việc hiểu thế giới tự nhiên; nó cho phép cả hai bên tìm hiểu và trao đổi ý

tưởng mà không cần chi phối hoặc là xin xỏ. Spivak cũng cảnh báo rằng, thiên

nhiên, môi trường, sinh thái – như con người phải thừa nhận - dù sao thiên

nhiên cũng không thể biểu đạt cho chính nó, do vậy, vị trí được coi là trung tâm

hay không của thiên nhiên chỉ nhằm cách tiếp cận của con người với thiên

nhiên. Thay vì cách tiếp cận áp đặt một cách đọc về tự nhiên thì chúng ta nên

tiếp cận dựa trên sự bình đẳng, công nhận bản thân mình cũng là thành viên của

cộng đồng sinh học. Và đặc biệt, Spivak nhấn mạnh vai trò của văn học và trí

tưởng tượng trong việc đem lại một cuộc cách mạng trong mối quan hệ truyền

thống của con người với thế giới phi con người – quan hệ thống trị, quan hệ nói

cho nó, nói thay nó. Và điều này cũng cải thiện mối quan hệ giữa những con

người, những cộng đồng với nền tảng văn hóa, xã hội khác nhau. Bà đã viết

trong chương đầu tiên của cuốn Cái chết của một bộ môn (Death of a discipline,

New York; Chichester: Columbia University Press, 2005) rằng “ở đây chúng ta

đứng bên ngoài, nhưng không phải như là một nhà nhân học; chúng ta đúng hơn

đang đứng với tư cách là một người đọc với trí tưởng tượng đã sẵn lòng, mặc dù

là không hoàn hảo, đối với những nỗ lực của cái khác như là một cái kết trong

bản thân nó [135]. Với các nhà phê bình sinh thái, đây là một gợi ý trong việc

phát triển ý niệm về sự cải thiện mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.

Nói cách khác, gợi ý của Spivak trong việc cải thiện mối quan hệ giữa con

người và con người (người thuộc nhóm đa số và người thuộc nhóm thiểu số,

người ở trung tâm và người ở ngoại biên, nhà nghiên cứu và đối tượng nghiên

cứu, v.v…) có thể là một gợi ý để cụ thể hóa vị trí trung tâm của thiên nhiên

[135, 3-14]. Đó là con người không tham gia vào một mối quan hệ với môi

trường và thiên nhiên của họ chỉ với những động cơ khai thác hoặc để đạt được

sự hiểu biết cho bản thân. Và mối quan hệ này đòi hỏi trí tưởng tượng – hiện

128

thân điển hình nhất của trí tưởng tượng là văn học. Để từ đó con người phải tiếp

cận tự nhiên để tìm kiếm mối quan hệ họ hàng và tiếp cận trong tư thế như một

người đọc, một người được chuẩn bị để sẵn sàng cho một thực tế là chúng ta sẽ

phải suy nghĩ trừu tượng để giải thích thế giới phi nhân loại, giống như khi

chúng ta đọc văn học. Sự khác biệt là bản thân phải sẵn sàng thay đổi trái ngược

với cố gắng thay đổi người khác (tôn trọng sự độc lập của văn bản văn học cũng

như tôn trọng sự độc lập của thế giới phi nhân loại). Như vậy, lý thuyết Spivak

đưa ra một giải pháp khả thi: trong mối quan hệ với trái đất, con người nên thừa

nhận họ cũng là một phần không thể xóa bỏ của chính hệ sinh thái và con người

phải cố gắng hiểu thật nhiều về những gì thế giới tự nhiên bộc lộ ra, mặc dù con

người có thể không bao giờ có thể hoàn toàn hiểu những gì họ được trông thấy.

Và sự biểu đạt trong văn học được coi là có khả năng đem lại sự tiếp cận của

con người với những chấn thương về sinh thái, những chấn thương mà ngay cả

bản thân con người đã trải nghiệm [135, 1-40]. Và như vậy, Thơ mới với

những biểu đạt có tính nhân hóa – hiện thân của trí tưởng tượng – đã động

chạm đến những chấn thương sinh thái và điều này tương đồng với những chấn

thương của con người và của dân tộc dưới các chính sách bóc lột của thực dân.

4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới

4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái

Đối với nhiều độc giả thơ ca, biểu tượng có thể gây ra sự gượng ép, áp đặt vì

một hình ảnh trong một bài thơ thường "tượng trưng cho" một thứ khác, ví

dụ con chim tượng trưng cho linh hồn. Người đọc thơ đôi khi có thể cảm thấy

họ thiếu đi chiếc “chìa khóa” để mở khóa “ý nghĩa bí mật” của những bài thơ

đầy biểu tượng và ký hiệu. Đúng là có những bài thơ yêu cầu người đọc phải có

chìa khóa như vậy. Nhưng có những bài thơ chứng tỏ rằng có nhiều thứ để nói

về biểu tượng hơn là việc dựa vào công thức tương ứng 1:1 giữa biểu tượng và

nghĩa. Các biểu tượng có thể đưa bài thơ mở ra với kinh nghiệm rộng mở hơn là

đóng chúng lại với cái khóa và chiếc chìa khóa riêng biệt. Và cơ chế của biểu

tượng trong thơ không phải là qua sự tương ứng mà là qua sự khơi gợi hay gợi

lên (evocation) – dựa vào các trải nghiệm của độc giả về thế giới. Nói cách

khác, điều khiến cho biểu tượng có thể hướng tới những trải nghiệm mang tính

129

phổ quát không phải ở trong bản thân hình ảnh mà là trong sự tương tác giữa

các hình ảnh và giữa hình ảnh với độc giả cùng những hoạt động không nằm

trong chính các hình ảnh. “Biểu tượng (tiếng Pháp: Symbole; tiếng Anh:

Symbol) có nghĩa gốc từ thời cổ Hi Lạp (Symbolum) đề chỉ dấu hiệu, sự vật

dùng để nhận biết (....) Biểu tượng trong tiếng Hán: “biểu” là biểu hiện, phô bày

ra một điều gì đó cho mọi người biết, “tượng” là hình tượng, hình ảnh (sự vật).

Như vậy, “biểu tượng” là hình ảnh, hình ảnh phô bày một ý tưởng, nội dung

nào đó, “dùng hình này để chỉ nghĩa nọ” [11,24]. Biểu tượng trong Thơ mới

cũng như thế, chúng mở ra chân trời chiêm nghiệm mang tính bao quát. Thơ

Mới không phải là nơi của những thông báo khoa học về sinh thái, về muôn loài

cụ thể nào; các nhà Thơ mới không cố gắng tạo dựng “ý thức về một nơi chốn”

(a sense of a place) qua việc phân loại cây cối hay qua việc nói đến các loài sinh

vật đặc biệt. Thơ mới dựa vào thế giới hình ảnh – công cụ đa nghĩa của biểu

tượng – nhưng điều đó không có nghĩa là Thơ mới không tập trung vào thời

điểm và không gian cụ thể. Ở chương này, chúng tôi tập trung vào chiêm

nghiệm về sinh thái, môi trường và tự nhiên.

Thơ mới có rất nhiều biểu tượng như biểu tượng về nỗi cô đơn, biểu tượng

cho những nỗi tiếc thương quá khứ, biểu tượng về văn hóa cổ truyền, biểu tượng

về dòng sông, biểu tượng về cánh đồng,...Nhưng theo quan sát của chúng tôi thì

“vườn” là biểu tượng thể hiện tính chất sinh thái rõ nhất của Thơ mới. Nghiên cứu

biểu tượng “vườn” chúng tôi hướng tới hai mục đích. Thứ nhất, biểu tượng “vườn”

chỉ nơi chốn và đây là nơi xoa dịu những đau thương của con người trong môi

trường đô thị. Thứ hai, biểu tượng “vườn” còn cho thấy diễn ngôn sinh thái của

Thơ mới tương ứng với giai đoạn đầu của phê bình sinh thái đã chỉ ra.

Hình ảnh của Vườn địa đàng huyền thoại từ lâu có một vị trí quan trọng và

bền vững trong hình ảnh văn hóa phương Tây. Trong văn học và nghệ thuật,

cũng như trong kiến trúc và quy hoạch đô thị, khu vườn được xem như là bến

cảng mang tính biểu tượng ẩn dụ, và vật lý của nơi chốn xưa cũ, nó nhắc nhở

con người về hành vi vượt ngưỡng đầu tiên của nhân loại nó duy trì những giấc

mơ không tưởng của con người về sự cứu chuộc và phục hồi. Nói cách khác, có

thể cho rằng một trong những hình ảnh môi trường hấp dẫn nhất là khu vườn;

130

khu vườn có một sự hiện diện thơ mộng, thẩm mỹ và mang tính thần thoại trên

nhiều nền văn hóa và ở mọi thời đại. Đồng thời, các khu vườn luôn là thực tế,

không gian vật chất phục vụ nhiều mục đích xã hội, kinh tế và khoa học. Cho

dù là hình ảnh thơ mộng hay không gian thực, các khu vườn luôn đại diện cho

các thực hành môi trường đa dạng về mặt lịch sử và văn hóa. Chúng nổi lên từ

những tương tác thực sự và tưởng tượng giữa các tác nhân của con người và

không phải con người.

Từ nguyên, “vườn” có nguồn gốc từ tiếng Đức cổ, “garte” có nghĩa là

được bao bọc hoặc bảo vệ bởi hàng rào hoặc biên giới. Các khái niệm hiện đại

hơn nhấn mạnh tính cách toàn diện của khu vườn. Trong cuốn Những sự hoàn

thiện hơn: Thực hành lý thuyết vườn Greater Perfections: The Practice of

Garden Theory, Thames & Hudson, 2000 John Dixon Hunt quan sát rằng "một

khía cạnh trong tham vọng làm đại diện của vườn là nó hình dung toàn bộ thế

giới trong không gian giới hạn của riêng mình". Ông gọi đó là "nhà tù của

những vườn thực vật đầu tiên"[116, 198], một ý tưởng đã duy trì các thiết kế

vườn khác trong suốt lịch sử. Nhưng điều đó cũng cho thấy tính chất biểu tượng

của khu vườn: phạm vi vườn phụ thuộc vào sự tồn tại của nó với sự tập hợp của

các vật liệu hữu cơ trong một khung thời gian và không gian cụ thể, nó ngụ ý

các điều kiện sinh thái, không gian và lịch sử sự tồn tại của con người trên

hành tinh này. Vì tầm quan trọng đó mà vườn trở thành đề tài của hội thảo lần

thứ 8 của Hiệp hội Nghiên cứu Văn học, Văn hóa và Môi trường Châu Âu.

Trong hội thảo với chủ đề Vườn: Mô hình sinh thái của không gian, lịch sử và

cộng đồng tổ chức tại Đại học Würzburg, Đức ngày 26 -29 tháng 9 năm 2018,

vườn đã được khám phá trên nhiều khía cạnh như: Việc cho rằng sự tồn tại của

con người hiện đại là về mặt sinh thái vườn thay nền kinh tế thị trường có nghĩa

là gì? Việc thay thế hệ thực vật với vườn công cộng trong đó con người đàm

phán cách họ muốn sống trong xã hội với những người khác hay với những sinh

vật khác có nghĩa là gì? Tại thời điểm này trong lịch sử, con người có thể

chuyển trọng tâm về lợi ích kinh tế và hoạt động kinh tế hiện đại từ việc khai

thác (loại bỏ các chất hữu cơ và không hữu cơ khỏi môi trường của chúng), sản

xuất (bán) và tiêu thụ (trong số những thứ được sản xuất từ các chất chiết suất)

131

đến việc thiết kế (không gian hỗ trợ cuộc sống), sản xuất (những thứ và chất

cần thiết để duy trì sự sống) và bảo trì (cơ sở vật chất và văn hóa của cuộc sống)

được không? Nếu các chu kỳ tăng trưởng (theo mùa) xác định cuộc sống trong

vườn, thì liệu sự tái chế những thứ đã được chiết xuất và được biến đổi thành

những thứ chúng ta sống sẽ xác định tương lai của sự tồn tại trên trái đất này

không? Khu vườn, một không gian lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa và là không

gian thực vật, đem đến cho con người những mô hình mới để nghĩ và sống trong

một thế giới sinh thái thách thức? Hội thảo này tập hợp các bài viết xem xét các

loại vườn và xã hội, chính trị, đạo đức, nhân chủng học, nông nghiệp, vv của họ sử

dụng (vườn hoa, vườn rau, vườn thực vật, vườn động vật, vườn đô thị, vườn bia,

mẫu giáo, cybergarden, vv). Có những bài viết phân tích quan hệ khái niệm, thẩm

mỹ, lịch sử và vật chất giữa vườn và cảnh quan, vườn quốc gia. Những bài viết

khác xem xét những tiềm năng huyền thoại và không tưởng / du dương của khu

vườn hoặc xem khu vườn như không gian xã hội / đa diện và câu hỏi về ranh giới.

Nhiều bài viết tập trung khám phá sinh thái tình cảm của khu vườn, vườn văn hóa,

vườn khoa học và giáo dục (vườn bách thú và thực vật), vườn văn học, nghệ thuật,

phim ảnh và văn hóa thị giác (các chức năng thơ ca, tự truyện, điện ảnh và biểu

tượng của họ), mối quan hệ vườn, tình dục, và kiến thức; hoặc xem khu vườn như

tài nguyên ngôn ngữ, văn hóa và giáo dục. Có những bài viết tập trung vào các ẩn

dụ chính trị và hùng biện về vườn, hay vườn trong mối quan hệ với phê bình sinh

thái, khoa học nhân văn môi trường

4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới

4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa

Hình ảnh vườn ngập tràn trong Thơ mới. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng

Điệp trong bài viết “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa” (2014) khám

phá hình ảnh vườn để cho thấy Thơ mới thể hiện một ý thức về nơi chốn. Theo

đó, vườn trong Thơ mới, như tác giả nhấn mạnh, mang tính địa lí, khu vực.

Đồng thời, tác giả cũng cho rằng, hình ảnh vườn mang ý niệm về chốn cư ngụ,

nơi thuần dưỡng và tái sinh, là nơi con người được làm vợi bớt “nỗi chơ vơ

trong những ngày dan díu với kinh thành” [17, 40].

132

Đúng là, không thể phủ nhận, từ góc nhìn sinh thái, vườn trong Thơ mới thể

hiện ý thức về một nơi chốn – và đây là sự tương ứng với lí thuyết về sinh thái ở

làn sóng đầu tiên. Thơ mới xuất hiện trong bối cảnh văn hóa Việt Nam ở đầu thế

kỷ XX. Quá trình đô thị hóa và khai thác tự nhiên, môi trường đã có dấu hiệu

manh nha dẫu là chưa mạnh mẽ như những giai đoạn về sau. Về mặt loại hình Thơ

mới, cơ bản nằm trong loại hình văn học lãng mạn, sau đó thêm yếu tố tượng trưng

và siêu thực. Khi xem xét điều này cũng là để chúng ta đặt mối quan tâm của Thơ

mới dưới cái nhìn sinh thái tương ứng văn học lãng mạn tức là giai đoạn đầu của

phê bình sinh thái. Theo các nhà phê bình sinh thái thì “Phê bình sinh thái giai

đoạn đầu gắn giá trị đặc biệt với mỹ học và quy tắc về sự gắn kết nơi chốn ở quy

mô địa phương hay vùng.”[68, 499 ] . Từ góc nhìn phê bình sinh thái, vườn trong

Thơ mới được xem như là một biểu tượng của “nơi chốn”. Khái niệm “nơi chốn”

được các nhà nghiên cứu văn chương – môi trường đặc biệt quan tâm. Họ cũng

cho rằng “những nghiên cứu văn chương – môi trường thời kỳ đầu trên thực tế

thường có thiên hướng tập trung vào môi trường ngoại ô” [68, 500].

Ở Việt Nam có hai giai đoạn đô thị hóa rõ nét: Giai đoạn đầu tiên diễn ra

đầu thế kỷ khi người Pháp tiến hành khai thác thuộc địa và thiết lập mạng lưới

đô thị lấy cái hình mẫu đô thị của phương Tây mà cụ thể là lấy Pháp làm chuẩn.

Cuối thế kỷ đặc biệt từ năm 1986 trở lại đây thì đô thị hóa diễn ra mạnh hơn,

sâu hơn và mở hơn. Cùng với giai đoạn này, đặt trong bối cảnh ngữ cảnh toàn

cầu thì mức độ tàn phá môi trường đã diễn ra rõ nét. Thơ mới ra đời vào đầu thế

kỷ XX, xã hội bấy giờ tiến đến đô thị hóa và hiện đại hóa, chịu ảnh hưởng tư

tưởng con người là trung tâm. Xin được điểm lại lời một bài báo viết về quá

trình đô thị hóa của Hà Nội: Từ năm 1888 trở đi, “Khu phố Tây” bắt đầu thành

hình sau khi chính quyền cho lấp nhiều hồ ao và giải tỏa xóm làng nằm rải rác

từ Tràng Thi – Tràng Tiền đến vùng quanh hồThiền Quang, trải dài qua khu

nhượng địa cũ. Trên đất vừa san bằng, xuất hiện các đại lộ thênh thang giữa hai

hàng cây xanh mới trồng trên vỉa hè để che bóng mát”. Như vậy, dấu ấn của sự

khai thác tự nhiên để phục vụ công cuộc đô thị hóa giai đoạn đầu tập trung chủ

yếu ở đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn… Điều này đặt ra vấn đề liên quan đến

hiện đại hóa và đô thị hóa. Mà bản chất của văn học lãng mạn là khước từ đô thị

133

để quay trở lại thời vàng son trước đây. Nằm trong quy luật chung ấy, các tác

giả Thơ mới cũng hướng tới chủ đề thiên nhiên, chủ đề đồng quê và quá khứ.

Khi tìm về thiên nhiên, về chốn đồng quê thì không gian vườn được xem như là

nơi trở về cho các thi sĩ. Trong một bản dịch Đỗ Văn Hiểu đã viết “Chủ nghĩa

sinh thái không phải xuất hiện từ con số không. Tư tưởng của nó có quan hệ

mật thiết với phong trào chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ 18. Năm 1858 cuốn sách

“Walden” của nhà văn Thoreau người Mĩ đã thể hiện quan niệm của mình về sự

hài hòa giữa con người và tự nhiên. Ông từ góc độ cân bằng sinh thái phản đối

thành thị ồn ào, tán dương thế giới tự nhiên của rừng suối”[26].

Như vậy, xem xét biểu tượng vườn trong Thơ mới có thể coi như sự trở về

với thiên nhiên, tránh xa thành thị phồn hoa và cũng từ đây vườn trở thành một

biểu tượng cho vẻ đẹp vùng miền. Nguyễn Đăng Điệp từng khẳng định “Vườn

trong Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn học văn hóa, dĩ nhiên, trước hết là

một khái niệm mang tính địa lý. Thậm chí, tính khu vực, vùng miền hắt xuống

khá rõ trong từng bức tranh phong cảnh thiên nhiên [17, 39].

Không gian vườn của một vùng quê Bắc Bộ hiện lên chân thực trong các

sáng tác của các nhà Thơ mới. Dường như thi sĩ nào cũng có một mảnh vườn

ám ảnh trong thơ của mình. Đậm nét nhất, bản sắc nhất về mảnh vườn xứ Bắc

phải kể đến những áng thơ của Nguyễn Bính.

Nhà tôi có một vườn dâu

Có giàn đỗ ván có ao cấy cần.

(Nhà tôi – Nguyễn Bính)

Mảnh vườn quê mà nhà thơ lưu giữ cũng là hình ảnh quen thuộc trong kí ức

mỗi người về những mảnh vườn xứ Bắc Bộ nơi mà người dân đồng bằng sông

Hồng xưa kia hay trồng dâu nuôi tằm. Vườn dâu còn đó cũng như một chứng tích

cho làng quê thanh bình còn đây. Một làng quê yên ả, một nơi không bị in dấu bởi

văn minh đô thị đã được Nguyễn Bính thổi vào những không gian vườn.

Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng

Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng

( Xuân về -Nguyễn Bính)

134

Bất chấp sự ồn ã của chốn kinh kỳ nơi văn minh kỹ trị đang xâm nhập vào

đời sống thì mảnh vườn quê trong trang thơ của Nguyễn Bính vẫn thật thanh

bình, nên thơ. Mảnh vườn ấy đã ướp tâm hồn thi sĩ bằng hương hoa bưởi,

hương hoa cam, những mùi hương thanh khiết, mộc mạc chân quê mà bất kỳ

khu vườn xứ Bắc nào mỗi dịp xuân về đều ngập tràn thứ hương hoa quen thuộc

đó. Vì thế mà thi nhân say đắm, vương vấn mãi mảnh vườn chốn quê nhà.

Góp thêm một nét vẽ vào bức tranh làng quê vùng đồng bằng sông Hồng

qua không gian vườn, nữ sĩ Anh Thơ đã đưa chúng ta đến một vùng quê đậm

đặc bản sắc vùng miền. Sẽ không khó nhận ra đây là mảnh vườn mỗi dịp hè về

trong các gia đình xứ Bắc.

Nắng đã nực, cây vườn im thở gió

Ngõ đầy ruồi, vắng bóng bướm ong qua

(Vào hè – Anh Thơ)

Qua những ngày hạn hán, khu vườn quê lại bừng nở trong tiết xuân về.

Trong vườn đào đã nhiều bông nở đỏ

Và đã nhiều nêu dựng khánh khua thi

(Chiều ba mươi tết – Anh Thơ)

Vườn trong sáng tác của Anh Thơ không chỉ là không gian địa lý mà hơn thế

còn là nơi níu giữ những bản sắc văn hóa, hồn cốt của một chốn làng quê Bắc Bộ .

Cùng chung cảm hứng về bức tranh làng quê xứ Bắc qua không gian

vườn. Đoàn Văn Cừ cũng đem đến cho bạn đọc những cảm xúc thân quen.

Nhà tre, mái rạ, vách bùn rơm

Cửa chắn con song mở gió vườn

Chum nước mưa vần bên cạnh chái

Dưới dàn thiên lý tỏa hương thơm

(Nhà tranh – Đoàn Văn Cừ)

Vốn là một đất nước có truyền thống nông nghiệp nên dấu ấn của nền văn

minh nông nghiệp lúa nước phủ đầy trong những mảnh vườn quê. Nào “nhà

tre”, “mái rạ”, “vách bùn rơm”, “chum nước”, “dàn thiên lý”. Đâu phải cái gì

cao sang, đi vào thơ Đoàn Văn Cừ là những hình ảnh thật gần gũi, quen thuộc.

Vẫn biết rằng, bản chất của văn học lãng mạn là hoài niệm, gợi nhớ. Hình ảnh

những mảnh vườn quê này phải chăng như một sự tôn vinh những gì rất có thể

135

không bao giờ trở lại? Điều này tương ứng với định nghĩa về vườn của hai nhà

phê bình sinh thái Annette Giesecke và Naomi Jacobs: "khu vườn là một con

người tạo ra bởi mong muốn tìm một nơi lý tưởng trong tự nhiên - một thứ

thiên nhiên thứ hai tốt bụng hơn trái ngược với thứ thiên nhiên có thể là không

thể đoán trước và khắc nghiệt" [109].

Sẽ là thiếu sót nếu như trong bức tranh về làng quê đồng bằng Bắc Bộ

thiếu đi nét vẽ khu vườn vào thu của Xuân Diệu.

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)

Bước chân của thời gian đã lưu dấu vết nơi khu vườn vào thu, lưu dấu trên

sắc lá, cành hoa. Mảnh vườn trong thơ Xuân Diệu nói riêng và thiên nhiên trong

Thơ mới nói chung đã trở thành một đối tượng thẩm mĩ, để nhà thơ soi ngắm,

phân tích, hưởng thụ vẻ đẹp của nó khác với thiên nhiên trong văn học trung đại

chưa trở thành khách thể thẩm mĩ. Cũng vì thế mà cảnh sắc trong mảnh vườn

thu ở thơ Xuân Diệu bỗng chốc trở nên sinh động, linh diệu vô cùng. “Phê bình

sinh thái yêu cầu nghệ thuật không được xa rời cội nguồn tự nhiên. Văn học

nghệ thuật phải xây dựng lại mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên thì

mới có cái đẹp”[46].Cái đẹp từ khu vườn vào thu trong thơ Xuân Diệu hay

chăng chính là cái đẹp như thế?

Qua biểu tượng vườn trong Thơ mới, chúng ta không chỉ được đắm mình

trong không gian làng cảnh Bắc Bộ yên bình, nên thơ gắn với những thói quen

sinh hoạt dân dã, giản dị của người dân nơi đây mà chúng ta còn đến với những

khu vườn Thanh (Thanh Hóa) qua những trang thơ của T.T.KH.

Ở lại vườn Thanh có một mình

Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh

Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo

Yêu bóng chim xa nắng lướt mành

(Bài thơ thứ nhất – T.T.KH)

136

Những câu thơ như lời trải lòng của thi sĩ. Dường như tất cả những gì của

thiên nhiên thuộc về khu vườn xứ Thanh (gió rụng, trăng rơi, chim xa, nắng lướt)

đều khiến tâm hồn tác giả vấn vương. Liên tiếp các điệp từ “yêu” như muốn nhấn

mạnh, khắc sâu cảm xúc sâu nặng của thi sĩ về nơi chốn thiêng liêng này. Bước

qua Thanh Hóa, trở vào miền Trung nơi có xứ Huế mộng mơ, chúng ta sẽ ám ảnh

mãi những khu vườn thôn Vĩ Dạ xanh mướt trong thơ Hàn Mặc Tử.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)

Một cảm giác tươi mát, thanh lọc khi bước vào không gian vườn thôn Vĩ

xứ Huế. Bên dòng Hương Giang êm đềm là những miệt vườn xanh mướt, anh

lành. Thích thú biết bao khi tâm hồn con người được gột rửa, tắm mát trong

không khí thanh sạch như vậy.

Khảo sát biểu tượng vườn trong Thơ mới dưới góc nhìn phê bình sinh

thái là một hành trình trở về với thiên nhiên. Qua những trang thơ của các thi sĩ

vẻ đẹp bản sắc vùng miền hiện lên chân thực, gần gũi, thân thuộc nhưng cũng

không kém phần nên thơ, tươi mát. Có thể thấy hình tượng thiên nhiên trong

Thơ mới nói chung và biểu tượng vườn nói riêng vẫn mang sắc thái địa phương

và màu sắc dân tộc cũng như dấu ấn lịch sử. Những cảnh sắc hiện lên là những

gì gần gũi, đáng yêu, sinh động, tươi nguyên của quê hương đất Việt mà không

hề ước lệ, ẩn dụ. Chúng ta vẫn thừa nhận rằng Thơ mới được xem như thuộc

loại hình văn học lãng mạn. Và phê bình sinh thái thời kỳ đầu tập trung chủ yếu

vào các sáng tác lãng mạn và chủ đề “nơi chốn”. Theo Nguyễn Thị Tịnh Thy

““Nơi chốn” – nhỏ là ngôi nhà, lớn là trái đất, vũ trụ, nhưng cụ thể là bất cứ

không gian nào cũng có thể là nơi trở về ý nghĩa tinh thần và tâm lý của nhân

loại. Xây dựng ý thức về nơi chốn, văn học sinh thái giúp con người quan tâm

và gần gũi với nơi mình sinh sống, xem đó là nơi trú ngụ của tâm hồn để từ đó

hình thành ý thức trách nhiệm” [76]. Như vậy, cũng có thể xem vườn là nơi

chốn theo nghĩa nhỏ, là nơi để các thi sĩ Thơ mới không chỉ nâng niu bản sắc

137

làng cảnh, quê hương mà còn để yêu hơn, trân trọng hơn nơi mình sinh ra, nuôi

lớn và lưu giữ bao kỷ niệm tâm hồn. Đằng sau những khu vườn yên bình, đằng

sau những bức tranh phong cảnh tươi xanh phải chăng khi chúng ta nhìn thiên

nhiên trong Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái là khi ta đang muốn đối

thoại với hiện thực, đối thoại với nền văn minh của đô thị hóa, của nền công

nghiệp đang xâm lấn ngày càng rộng vào đời sống mỗi con người. Nền đại công

nghiệp đi liền với sự hủy diệt môi trường, với khói bụi và ô nhiễm. Con người

mệt mỏi trong vòng quay cơm áo, gạo tiền. Khi ấy con người muốn tìm về thiên

nhiên, về những vùng đất yên bình, xanh mát. Đi cùng với phá hủy, để tự cứu

mình chính con người lại xây dựng ra những ổ sinh thái nhân tạo. Và những

khu vườn sinh thái, những hồ nước nhân tạo, những công viên rợp bóng

cây…mọc lên như để bù lấp đi sự thiếu hụt nguồn sinh thái thiên nhiên mà con

người hủy diệt. Lúc này đây, chúng ta dần nhận ra những vườn dâu, vườn đào,

vườn trúc, hương hoa bưởi, hoa cam, dàn thiên lý, khóm chuối, trái ổi, vại

nước… trong Thơ mới thật ý nghĩa. Đặng Thái Hà có lần chia sẻ “Không thể

phủ nhận, ngay chính những điểm nhìn về thực trạng thôn quê Việt Nam ngày

nay nhiều khi cũng không thoát khỏi áp lực chi phối sâu sắc của ý hệ lãng mạn.

Chẳng hạn, trong một văn bản phi-văn học về định hướng phát triển bền vững,

Gs. Tương Lai đã vẽ ra viễn cảnh một vùng thôn quê được quy phạm hóa bởi

bộ khung lãng mạn truyền thống: “Con người Việt Nam của thời đại công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức có thể tìm cho mình một khung

cảnh sống thư giãn để lấy lại sức khỏe và cảm hứng sáng tạo sau những thời kì

lao động căng thẳng và mệt nhọc. Đó chính là nơi làng quê thanh bình, đã làm

sống lại “những con sông quê hương” trìu mến với nước gương trong soi tóc

những hàng tre, tâm hồn tôi là một buổi trưa hè, tỏa nắng xuống lòng sông lấp

loáng...” [21]. Những hình ảnh đó lưu giữ hồn cốt làng quê, bồi đắp tâm hồn

mỗi người con đất Việt để thêm yêu, thêm trân trọng “nơi chốn” bình yên. Bởi

“Cuộc sống sẽ thi vị hơn nếu ta biết ngắm nhìn, biết lắng nghe thế giới quanh

ta. Đôi khi, điều giản dị vốn hiện hữu hằng thường lại trở thành như một phát

hiện, khám phá mới lạ (…). Và rồi, ta sẽ thấy mình đang khám phá chính mình,

nhận ra tâm hồn thanh thản, tâm cảm hướng thiện khi biết tôn trọng những sinh

138

mệnh khác ta, ngoài ta” [76, 352].Và một lần nữa xin bày tỏ sự đồng ý với quan

điểm của tác giả Nguyễn Đăng Điệp ““Sự trở về với chủ nghĩa lãng mạn” và

bài ca về vẻ đẹp thiên nhiên trong Thơ mới có thể coi là “sự tưởng nhớ trái đất”

của con người trong thời đại những cỗ xe lửa đang phì hơi khói phủ đầy làng

quê” [17, 40].

4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn

Khi đề xuất hướng tiếp cận Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái tác giả

Trần Thị Ánh Nguyệt có đưa ra gợi ý: “Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 -

1945 cần được tìm hiểu sâu hơn dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Bởi vì, văn

học lãng mạn gắn liền với quá trình đô thị, khi văn minh xâm lấn, nhiều nhà thơ

đã quay lưng bằng cách trốn vào thiên nhiên. Đây cũng là vùng văn học mà các

học giả sinh thái thế giới rất lưu tâm”[47, 29]. Thơ mới ra đời khi trong bối

cảnh thực dân Pháp xâm lược. Chúng đã thực hiện công cuộc khai thác thuộc

địa, chúng tàn phá tự nhiên, vơ vét tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt chúng đã

mang đến một nền văn minh công nghiệp với dấu ấn của đô thị hóa đang hình

thành và phát triển “Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây.

Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp…còn gì nữa! Nói làm sao

cho xiết những điều đã thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng

ta”[63, 12]. Đứng trước sự thay đổi đến chóng mặt đó, một thế hệ các nhà Thơ

mới xuất hiện đã có cùng chung cảm giác “Phần lớn các nghệ sỹ lãng mạn coi

sự phát triển của nền kỹ nghệ mới là một cách tấn công xấu xa, tàn nhẫn vào

thiên nhiên đáng yêu và vào bản chất của con người. Vì vậy họ phải đi tìm các

lối thoát, tại miền hồ thanh khiết (…), trong khu rừng hoang sơ (...). Họ tránh

xa các nơi kỹ nghệ hóa mới. Các nhà máy thép, các xưởng dệt vải..bị coi là

những nơi có lửa cháy của địa ngục, mặt trăng trong khung cảnh thuộc khu kỹ

nghệ mang màu máu, các ngôi sao rơi xuống đất tại nơi này”[78]. Như một

cách để giải thoát chính mình các nhà Thơ mới có xu hướng thoát ly thực tại,

hoài nhớ quá khứ. Và vườn là nơi để các thi nhân trải lòng. Vườn – một không

gian sinh thái thân thương, một ý niệm trong lòng mọi người về một nơi chốn

thanh sạch, thân thuộc, an lành. Đó có thể là nơi gắn với nguồn cội sinh ra và

lớn lên nhưng cũng có thể là nơi để trở về, xoa dịu tâm hồn sau bao năm tháng

139

tha hương. Khi ấy, trước hết, vườn hiện lên trong các trang thơ là hình ảnh

mảnh vườn xưa – kỷ niệm.Mộng Huyền đã từng thổn thức trở lại vườn xưa

Hôm nay trở lại vườn xưa

Nén tim rộn rã ngăn ngừa nhớ thương.

(Vườn hoang - Mộng Huyền)

Tưởng như gặp lại mảnh “vườn xưa” nữ sĩ đã vỡ òa trong cảm xúc nhớ

thương, dồn nén không nguôi. Nỗi nhớ quê hương nguồn cội bao giờ cũng được

bao bọc bởi thiên nhiên, thiên nhiên như một niềm an ủi. Hẳn là với nhà thơ

vườn là cõi đi về sau bao ngày xa cách? vườn là nơi lưu giữ bao kỷ niệm thân

yêu? vườn là chốn bình yên trú ngụ khi tâm hồn mệt mỏi? Vì lẽ đó mà các nhà

Thơ mới luôn có xu hướng ra đi để trở về. Lí giải cho nỗi nhớ của các thi sĩ

lãng mạn trong một bài nghiên cứu Đặng Thị Thái Hà có viết “Trong hình dung

của tư duy lãng mạn, mọi đối lập đều được đẩy lên thành tuyệt đối. Điều ấy

được biểu hiện cụ thể trong sự phân biệt về không gian giữa thành thị (cuồng

loạn, đồi bại, vô cảm) với thôn quê (phì nhiêu, thanh bình); và về thời gian giữa

quá khứ (thơ mộng) và hiện tại (sa ngã). Có lẽ, chính vì thế, các tác phẩm văn

học đồng quê truyền thống thường gắn với cảm thức “hoài nhớ”, hồi cố

(nostalgia). Hình tượng người tha hương lữ thứ, theo đó, thường mang tâm thế

của một kẻ bị “trục xuất” khỏi một “Thiên đường đã mất” và không nguôi hoài

nhớ về nó” [21]. Và đây có thể xem như là căn nguyên của sự “trở về” trong

thơ Nguyễn Bính. Đi qua những tháng năm ồn ã của văn minh đô thị. Hình

bóng quê nhà nơi mảnh vườn xưa vẫn day dứt trong tâm hồn thi sĩ.

Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh,

Tôi đi dan díu với kinh thành

Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới,

Chuốc mãi men cay rượu ái tình

(Hoa với rượu – Nguyễn Bính)

Cuộc sống đô thị phồn hoa nhưng xô bồ, lạnh lùng và đầy bất trắc. Thi sĩ

đã thử mình mà không thể hòa nhập được với chốn kinh thành. Bỏ lại “vườn

cam” hay là bỏ lại những gì thân thương, bỏ lại hồn quê, tình quê đã ăn sâu

trong tiềm thức thi nhân để hôm nay ra đi “dan díu với kinh thành”. Hai chữ

140

“dan díu” nghe như tội lỗi, như vụng trộm, như là ân hận…Phải chăng, sau câu

chữ là nỗi xót xa, tiếc nhớ về một chốn thôn quê yên bình mà tác giả vẫn

thường mộng nhớ như “vườn tiên giới”. Mảnh vườn xưa trong ký ức của

Nguyễn Bính đã trở thành khu vườn cổ tích, khu vườn tiên cảnh.Trong nỗi hoài

niệm của thi sĩ cũng tiếc thương cho một khu vườn thời quá vãng không còn

tìm lại được giữa thời buổi văn minh kỹ trị. Nó chỉ còn tồn tại trong tâm tưởng

cho nên với tác giả, đó vẫn là những nơi chốn đẹp đẽ nhất, do vậy mà không

gian vườn xưa trở nên lung linh hư ảo. Trạng thái bồng bềnh khiến thi sĩ có lúc

chơi vơi tự vấn.

…Hôm nay có một người du khách

Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên

(Xóm Ngự Viên – Nguyễn Bính)

Câu thơ tưởng như “vô lý” mà ám ảnh vô cùng. Mảnh vườn của Nguyễn

Bính là cảnh trong cõi nhớ. Nhà thơ bâng khuâng, lưu luyến cho một vẻ đẹp sắp

mất. Để rồi hoài nhớ quê hương trên chính quê hương. Đó là một trạng thái

khước từ đô thị hóa, khước từ khói bụi kinh kỳ của tác giả. Nguyễn Bính được

xem như là người có nhận thức sâu sắc nhất về sự đổi thay của làng quê trước

sự xâm lấn của đô thị. Ông luôn đau đáu một nỗi niềm tiếc nhớ và mong muốn

níu giữ lại hồn cốt của làng quê xưa. Và cũng vì thế mảnh vườn xưa kỷ niệm có

thể xem như một chốn đi về, một nơi lánh mình của thi nhân khỏi sự bủa vây

của “cát bụi kinh thành”. Bởi lẽ “Tự muôn đời, thiên nhiên luôn là nguồn an ủi.

Mỗi khi thấy lòng đau, lại tìm về tự nhiên như một bến bờ tĩnh lặng để nguôi

quên. Thiên nhiên là người bạn lớn vĩnh hằng của con người mà ở đó, những

muộn phiền, day dứt, đau đớn vơi đi. Thấu được nỗi chán chường cuộc sống ồn

ào quanh mình, chỉ có tự nhiên vĩnh cửu không lời là vĩnh viễn”[46].

Quay lưng với thực tại, khước từ xã hội thành thị xô bồ bát nháo các nhà

Thơ mới tìm con đường thoát ly. Tìm đến thiên nhiên, trở về vườn xưa – kỷ

niệm để gội mát tâm hồn. Không chỉ vậy, vườn với các thi sĩ còn là chốn để yêu

thương, là khu vườn tình ái. Cả một thế giới rộn ràng, tình tứ hiện lên trong

vườn thơ Xuân Diệu.

Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ

141

Phải nói yêu, trăm bận đến ngàn lần

Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân

Đem ong bướm thả trong vườn tình ái

(Phải nói – Xuân Diệu)

Với Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn cho nên thơ ông đã thể hiện trọn

vẹn một tâm hồn lãng mạn mới, muốn sống hết mình với những khát khao vô

hạn trong cái hữu hạn của kiếp người. Xuân Diệu nhận ra rằng hạnh phúc của

cuộc đời kết đọng đầy đủ nhất nơi tuổi trẻ và tình yêu. Bởi thế, ông khát khao

tận hưởng và thiết tha kêu gọi mọi người mau mau tận hưởng cái hạnh phúc

ngắn ngủi, hiếm hoi ấy. Không gian vườn qua con mắt của kẻ si tình vì thế mà

trở thành “vườn tình ái”, vườn yêu.

Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.

(Nguyên đán – Xuân Diệu)

Khi con người ta yêu nhau tâm hồn cũng nở hoa, lúc ấy cõi lòng là một

khu vườn rộn hương sắc, vườn của niềm hoan ca và với Xuân Diệu đó là khu

“vườn thơm ngát”. Còn với Hàn Mặc Tử thì đó còn là “vườn chói lọi”.

Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp

Tiết trinh còn em phúc hậu hơn thơ

(Dấu tích – Hàn Mặc Tử)

Với thi nhân lãng mạn khu vườn tình ái không chỉ ngập tràn hương thơm mà

còn phải rực rỡ ánh sáng. Ở đó, các nhà thơ vẫy vùng trong niềm yêu, nỗi nhớ.

Nhưng phải chăng đây chỉ là những khu vườn trong mộng tưởng. Bởi lẽ, Xuân

Diệu từng chia sẻ “Yêu là chết ở trong lòng một ít/Vì mấy khi yêu đã được yêu”.

Còn thi sĩ họ Hàn đau đớn “Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng/Hóa thành vũng

máu đào trong ác lặn”. Khi dịch tác phẩm “Chủ nghĩa môi trường và phê bình

sinh thái” của Richard Keridge, Phạm Phương Chi có viết “Vườn địa đàng là một

mô típ xuất hiện nhiều trong văn hóa phương Tây”[57, 129]. Như vậy, có thể xem

như trốn vào tình yêu, đến với khu vườn tình ái như một cách lánh đời của thi nhân

lãng mạn, hay cũng là sự tưởng nhớ một nơi chốn dường như đã mất. Cũng có lúc

với Thế Lữ vườn yêu đã thành vườn Bồng Lai huyền ảo.

142

Bồng Lai muôn thủa vườn xuân thắm

Sán lạn, u huyền, trong khói hương…

(Mưa hoa – Thế Lữ)

Khu vườn trong thơ Thế Lữ là một thế giới mộng ảo, lung linh vừa hư vừa

thực. Trong lòng thi nhân cảnh quê hương đã thành cõi tiên giới.

Hôm qua đi hái mấy vần thơ

Ở mãi vườn tiên gần Lạc Hồ

(Vẻ đẹp thoáng qua – Thế Lữ)

Thế Lữ sống với cảnh tiên trong tưởng tượng. Gửi tâm trí vào cõi mộng

người nghệ sĩ ấy phiêu lưu trong thế giới bồng lai như ru mình để tìm cách trốn

đời, quay lưng với cõi trần bi ai.

Khác với chốn tiên giới mộng tưởng, vườn trong thơ Hàn Mặc Tử lại gắn

với niềm tin tôn giáo và ám ảnh hơn cả trong khu vườn đó là “máu và trăng”.

“Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình.

Người thơ là bến lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo” (tựa Đau thương).

Vườn với thi nhân không còn là khu vườn quê yên bình, cũng không phải

là vườn xưa kỷ niệm để đi về và chẳng hẳn là chốn tiên giới bồng lai. Với tác

giả vườn là chốn trú ngụ của đau thương cả cô đơn về tinh thần và sự vật vã về

thể xác. Trong ý niệm của tác giả khu vườn đau thương là vườn trăng, trăng

ngập tràn, lênh láng hòa cùng sắc đỏ của máu.

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.

(Say trăng – Hàn Mặc Tử)

Góp thêm một tiếng thơ đau thương, điên loạn Chế Lan Viên cũng đưa

chúng ta đến với “vườn trăng”.

Cả một vườn trăng sáng cả muôn hương

Cho sọ ta no nê bao ý mộng

(Đầu mênh mang – Chế Lan Viên)

Khi thi sĩ lãng mạn nếm trải tận cùng nỗi đau thương và sự chán chường.,

khi người nghệ sĩ phải cay đắng thốt lên; “Trời hỡi trời!Hôm nay ta chán

hết/Những sắc màu hình ảnh của trần gian” thì có lẽ “vườn xưa”, “vườn tiên”,

143

“vườn trăng” vẫn là nơi trú ngụ và cứu vớt linh hồn cho thi nhân. Vườn như

một người mẹ trải lòng đón những đứa con tha hương trở về để xoa dịu nỗi đau.

Có lẽ chỉ khi hòa mình vào tự nhiên con người mới có cảm giác bình yên, thanh

thản, tâm hồn được giải tỏa bởi những bủa vây của đời sống xô bồ, phồn tạp, đó

là nơi ẩn náu an toàn, nơi mà cái hiện đại không thể xuyên thấu tới. Ở đây, con

người không hề thống trị thiên nhiên mà tìm về thiên nhiên như một nơi để trú

ngụ, thanh lọc tâm hồn. Sự trở về với tự nhiên, hoài nhớ một làng quê, một

nông thôn trong quá khứ không phải chỉ bắt gặp ở tâm trạng các thi sĩ Thơ mới

mà ngay trong văn học sau năm 1975, khi mà sự tàn phá môi trường, tàn phá

nông thôn càng diễn ra nghiêm trọng thì sự hoài nhớ càng trở nên da diết và

đau đáu. Song có một sự thực nếu như mảnh vườn hay thiên nhiên làng quê

trong Thơ mới vẫn là bến đợi trở về, vỗ về tâm hồn thi nhân thì trong các sáng

tác sau năm 1975, có một không gian thôn dã “phi truyền thống”, “phản lãng

mạn” về vùng nông thôn và cuộc sống thôn quê. Vốn trong ý thức mỗi người

không gian thôn dã thường gắn với ý niệm về một vùng quê yên ả, thanh bình.

Nhưng sự thực không còn như vậy. Ví như trong truyện Nguyễn Huy Thiệp đó

là không gian in dấu sự cày xới, khô cằn, tàn phá…vì thế văn bản truyện

Nguyễn Huy Thiệp luôn văng vẳng tiếng nói hoài nhớ về một làng quê yên bình

đã mất, không thể tìm lại và không thể quay về được. Cho nên, sống hài hòa

với tự nhiên, gắn bó với nguồn cội phải chăng đó cũng là tinh thần mà phê bình

sinh thái hướng tới. Bởi “Thiếu vắng thiên nhiên, tâm hồn con người trở nên xơ

cứng, lạnh lùng vậy nên cần phải trở về với tự nhiên.” [47]

4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian

“Phê bình sinh thái cũng chú ý đến cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của tự nhiên,

ngợi ca quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Tìm ra những biểu hiện này

trong văn học cũng chính là tìm mẫu lí tưởng cho thái độ ứng xử với tự nhiên [26].

Triết học sinh thái theo nghĩa rộng cũng quan niệm coi nhân loại với tự nhiên là

một, như là một phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa của vũ trụ này. Với

cách nhìn đó khi soi vào Thơ mới từ khảo sát biểu tượng vườn, chúng ta nhận ra cả

144

một thế giới tươi mới, non tơ, thanh tân, xuân sắc hiện ra trong các khu vườn của

thi gia. Thiên nhiên trong các khu vườn như một bữa tiệc trần gian để các thi nhân

thưởng ngoạn, tận hưởng, khát khao bám rễ vào cuộc đời. Cũng bởi vậy ta bắt gặp

hình tượng những khu vườn xuân,vườn trần gian.

Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn,

Làm giây da quấn quýt cả mình xuân

Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần

Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.

(Thanh niên – Xuân Diệu)

Với một quan niệm nhân sinh mới mẻ và tiến bộ, Xuân Diệu quan niệm

sống là phải làm cho cuộc đời có ý nghĩa, tích cực và nhà thơ cũng nhận ra cuộc

đời chỉ đẹp khi gắn bó cái tôi cá nhân trong mối quan hệ với cuộc đời trần thế.

Khi đứng vững trên mảnh đất trần gian, bám chặt vào hiện tại thi sĩ nhận ra

cuộc đời đẹp nhất khi tuổi trẻ, thời gian đẹp nhất khi vào xuân. Chính bởi vậy,

mùa xuân trong những khu vườn trần của tác giả bao giờ cũng rộn ràng hương

sắc và đầy sự sống, xanh non.

Đây là vườn chim nhả hạt mười phương

Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc…

(Cảm xúc – Xuân Diệu)

Hay

Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui

(Nụ cười xuân – Xuân Diệu)

Xuân Diệu cho rằng cuộc sống là một khu vườn xuân, không khó nhận ra

một thái độ ham hố, vồ vập muốn hòa hợp với thiên nhiên của thi gia. Đó là

những khu vườn tràn ngập sắc xanh, tràn ngập hương hoa thơm ngát, chim

muông reo vui. Ấy là một bầu sinh thái để không chỉ nhà thơ mà bất kỳ ai cũng

khao khát hòa mình tận hưởng. Và dấu ấn sinh thái hiện lên rất rõ trong các khu

vườn của Xuân Diệu. Có thể tìm thấy rất nhiều những cụm từ, thuật ngữ sinh

thái “gió thơm”, “đất nồng thơm”, “vườn thơm”, “xuân chín”, “tơ xanh”, “ngát

145

hương hoa”, “đồng nội xanh rì”, “cành tơ”…khiến chúng ta có cảm giác như

đứng trước một mảnh vườn xanh mát, tươi non và cũng vì thế mà tâm hồn

người trở nên thanh sạch, yên bình.

Đồng vọng cùng cảm xúc muốn thưởng ngoạn bữa tiệc trần gian trong

những khu vườn trần, Thế Lữ hoan ca, vui mừng.

Vườn trần gian, dù thâu góp cả muôn hoa

Lấy một nét cười mừng chim với gió

(Nhan sắc – Thế Lữ)

Thi sĩ Ngô Hòa cũng góp thêm một tiếng thơ reo vui.

Huế là cả một vườn hoa tươi thắm

Khi xuân về gieo rắc ánh xuân tươi

(Huế xuân – Ngô Hòa)

Vườn trần gian của thi sĩ lãng mạn bao giờ cũng trải đầy muôn hoa và rộn

ràng tiếng chim, ngào ngạt gió thơm và ngập tràn ánh sáng. Đấy là khu vườn

của niềm vui, niềm yêu sống, muốn bám rễ vào cuộc đời để tận hưởng, tận hiến.

Ca ngợi và thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên từ đó tìm cách sống hài hòa với tự

nhiên, gắn bó với cuộc đời là một thái độ sống tích cực và đó cũng là tinh thần

mà phê bình sinh thái hướng tới.

Tiểu kết

Tiếp cận theo hướng phê bình sinh thái đối với Thơ mới không chỉ đem đến

những cảm nhận mới mẻ về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mà còn có thể

giúp chúng ta nhìn ra những mối tương quan thú vị thông qua ngôn ngữ và biểu

tượng sinh thái trong Thơ mới. Bên cạnh đó, dưới góc độ nghiên cứu này, nhất là

khi chúng ta nhìn nhận về vấn đề môi trường đương thời thông qua các diễn ngôn

Thơ mới, nội dung chương sẽ góp phần đem đến những nhìn nhận, suy ngẫm,

đánh giá thêm về vấn đề sinh thái vào thời điểm Thơ mới ra đời. Trước áp lực toàn

cầu hóa, biến đổi khí hậu nghiêm trọng, văn học không chỉ trở về với chủ nghĩa

lãng mạn mà cần nêu lên những cảm quan đạo đức sinh thái theo cách thức riêng

của mình. Gợi ý từ phê bình sinh thái, chúng ta tìm thấy ở Thơ mới những bảng

146

màu sinh thái của một bức tranh thiên nhiên sinh động đầy nhựa sống; một tấm

mạng sinh thái mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh diệu kỳ qua biểu

tượng “Vườn”. Bên cạnh đó, khá thú vị khi chúng ta đọc thấy trong Thơ mới

những vần thơ như là tương ứng với lí thuyết phê bình sinh thái hay như những lí

luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái.

Không thể phủ nhận được rằng phê bình sinh thái là một trào lưu phát triển

mạnh mẽ trên thế giới. Ở Việt Nam, phê bình sinh thái đã phủ rộng nghiên cứu

lên khắp các phổ hệ văn học khác nhau: từ văn học dân gian đến văn học trung

đại, văn học hiện đại và đương đại. Điều đó, góp phần khẳng định phê bình sinh

thái là một xu hướng nghiên cứu có nhiều tiềm năng để khai thác. Chương 4 tìm

hiểu sự tương ứng giữa ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới của phê bình

sinh thái. Qua tìm hiểu cho thấy Thơ mới cũng là một thế giới ngôn ngữ và biểu

tượng chứa đựng các yếu tố sinh thái. Từ đó, cũng có thể nói, Thơ mới gợi ý

nhiều ý tưởng cho phê bình sinh thái ở Việt Nam

147

KẾT LUẬN

1. Phê bình sinh thái ở Việt Nam với tư cách là một hướng tiếp cận văn học

được du nhập vào trong nước từ những năm 2000, một phần là từ Trung Quốc và phần khác là từ Anh - Mỹ. Phê bình sinh thái ở Việt Nam có thể nói, với những thành tựu từ các cuốn sách đã được xuất bản, từ những sự kiện (hội thảo, tọa đàm) mang tính quốc gia và quốc tế, đã là một “mầm” hay một “bông hoa” của phê bình

sinh thái thế giới. Nó có lịch sử và diện mạo riêng, phê bình sinh thái trải qua ba giai đoạn phát triển: Phê bình sinh thái ở Việt Nam có xu hướng tập trung vào nghiên cứu viết thiên nhiên hay nói cách khác là “các câu chuyện có cây cối” trong

văn học. Điều này thể hiện rõ ở các nghiên cứu tập trung vào không gian làng quê,

không gian hoang dã hơn là không gian đô thị. Phê bình sinh thái ở Việt Nam cũng có một xu hướng là tập trung vào các vấn đề có tính chính trị, xã hội và kinh tế. Và

dù nằm trong xu hướng phát triển của phê bình sinh thái trên thế giới, phê bình sinh thái ở Việt Nam dường như vẫn có những nỗ lực nhằm tạo ra đặc trưng riêng

của mình, dựa vào truyền thống văn hóa phương Đông của người bản địa. Đó là quan niệm truyền thống về thiên nhân hợp nhất.

Khảo sát, tìm hiểu phê bình sinh thái ở Việt Nam bước đầu cho thấy những nghiên cứu về phê bình sinh thái của nước ta đang nằm trong sự chuyển mình của

phê bình sinh thái trong giai đoạn ba. Không bó hẹp trong các nghiên cứu Phương

Tây, khi hướng nghiên cứu chuyển dịch vào các quốc gia phi Phương Tây trong đó có Việt Nam cho thấy rõ phê bình sinh thái là một khuynh hướng phê bình văn học

có một sức ảnh hưởng sâu rộng và hoàn toàn có tiềm năng để phát triển trên toàn

cầu. Qua nghiên cứu các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam cũng góp phần

khẳng định phê bình sinh thái có nhiều tiềm năng phát triển, nhất là trong thời đại khủng hoảng môi trường cấp bách hiện nay.

2. Luận án này, như đã nói ở trên, khảo sát Thơ mới nhằm đưa ra những

thảo luận mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái, một hướng nghiên cứu và

phê bình văn học ra đời ở phương Tây và dựa trên chất liệu là văn học cổ điển

Anh - Mỹ. Những đặc trưng của Thơ mới, bối cảnh lịch sử Việt Nam trước

Cách mạng và truyền thống viết về thiên nhiên-sinh thái trong văn chương Việt

Nam là những yếu tố hứa hẹn sẽ đem đến những điểm tương đồng và khác biệt

đối với những nội dung kinh điển của phê binh sinh thái. Cụ thể, điều kiện kinh tế chính trị của một nước hậu thuộc địa, truyền thống về mối quan hệ giữa con

148

người và thiên nhiên trong văn học Việt Nam kể từ thơ ca dân gian đến văn học

trung đại, sự kế thừa và sáng tạo của Thơ mới đối với truyền thống văn chương

hiện đại của phương Tây đương thời (thơ ca lãng mạn, thơ tượng trưng, văn học hiện thực phê phán): tất cả những điều này đặt ra một vấn đề lí thuyết đối với

phê bình sinh thái. Đó là vấn đề địa phương và vấn đề toàn cầu trong phê bình sinh thái: những vấn đề thơ ca và vấn đề sinh thái ở các nước bên ngoài phương

Tây đặt câu hỏi về tính toàn cầu của lí luận phê bình sinh thái phương Tây. Và

những phân tích về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong thơ ca bên ngoài phương Tây đã phần nào đem lại những tiếng nói phản biện đối với lí thuyết phê bình sinh thái. Những tiếng nói phản biện, đúng hơn là sự khác biệt,

không ăn khớp, đến từ thế giới văn học bên ngoài phương Tây có tiềm năng lớn trong việc phát triển phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết. Và đây cũng là điều

mà các lí thuyết gia về phê bình sinh thái đã đề cập đến trên phương diện lí

thuyết và thực hành. Từ đó là tiền đề để chúng tôi đi vào khảo sát Thơ mới

(1932 – 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái.

3. Phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ mới,

giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ phận thơ ca này

như: phân tâm học, chủ nghĩa hiện đại, “góc độ quan hệ văn hóa”, “giọng điệu trữ

tình”, hay “cái nhìn so sánh”.. Đề tài này đã làm sáng tỏ thêm các ý nghĩa, giá trị của

Thơ mới với công cụ mới là Phê bình sinh thái và quan trọng hơn là có những kiến

giải về phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết khi được nó được đặt vào một trường hợp cụ thể là Văn học Việt Nam nói chung và Thơ mới nói ở Việt Nam nói riêng:

Trước hết, Thơ mới nhấn mạnh vị trí bên ngoài của con người so với chỉnh thể thế

giới thiên nhiên; các nét nguyên sơ của thiên nhiên và ý thức của chủ thể trữ tình về thiên nhiên như là một chỉnh thể mà con người nên ở vị trí đứng ngoài chứ không

can thiệp hay xen vào giữa chúng. Thiên nhiên đối lập với cái hiện đại, cái văn hóa;

con người trốn tránh thế giới đô thị. Thơ mới cũng thể hiện sự bất an của con người

trước các điều kiện không thuận tiện của thiên nhiên, từ đó phóng chiếu ra các vấn

đề về công lý môi trường và công lí xã hội. Thơ mới đã thể hiện sự tương ứng và

tính đối thoại giữa hình ảnh, ngôn ngữ với diễn ngôn mang tính lí thuyết của phê

bình sinh thái. Thơ mới viết về thiên nhiên đã dung hợp những diễn ngôn khác nhau,

đó là diễn ngôn về thiên nhiên, diễn ngôn về giới và diễn ngôn về vấn đề giai cấp, trong đó thiên nhiên được xây dựng như là một nhân vật chính dẫn đến sự lộ diện

149

của các vấn đề nan giải về xã hội và chính trị. Thơ mới có sự đồng thanh tương ứng

của các bài thơ về thiên nhiên với vấn đề môi trường đặt ra trong thời đại mà phong

trào thơ ra đời. Những bài thơ về rừng và vườn (và các động, thực vật liên quan) thể hiện sự tham gia của Thơ mới vào vấn đề môi trường của thời đại, mà cụ thể ở đây

là vấn đề rừng và bảo vệ rừng ở Việt Nam thời thuộc địa.

4. Trong xã hội hiện đại hiện nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phần

nào đó đã khiến con người ta có thái độ quay lưng với tự nhiên và tận diệt tự

nhiên quá mức khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt, suy vong trong đời sống. Bên cạnh đó, trong nhiều năm gần đây, văn học của chúng ta cũng tập trung đề cập nhiều đến những vấn đề thời thượng, chạy theo thị hiếu mà dường như ít

quan tâm đến truyền thống hòa hợp tự nhiên. Khảo sát Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái. Chúng tôi một lần nữa mong muốn được soi sáng lý thuyết

phê bình sinh thái – một trào lưu phê bình văn học mới hình thành và đang trên

bước đường hoàn thiện vào Thơ mới – phong trào thơ với những sáng tác chưa

hẳn là văn học sinh thái đúng nghĩa. Song nghiên cứu Thơ mới từ lý thuyết phê bình sinh thái chúng ta cũng khám phá thêm những điều thú vị. Với sức gợi của

tự nhiên từ hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ trong Thơ mới một lần nữa giúp

chúng ta tìm lại được truyền thống hài hòa giữa con người và tự nhiên trong văn

học Đông Á vốn đang dần tưởng bị lãng quên. Tự nhiên trong Thơ mới là nơi

thi nhân tìm thấy vẻ đẹp vùng miền, là nơi thi sĩ trở về trú ngụ, cứu rỗi tâm hồn

sau những ngày đắng cay và đó còn là bữa tiệc trần gian để nhà thơ bám rễ vào cuộc đời. Hơn hết, đằng sau đó ta nhận ra một tình yêu thiên nhiên sâu sắc của

các nhà Thơ mới. Tình yêu đó đã làm nên bức tranh đẹp về những khu vườn

bằng thơ, phủ một màu “xanh” vào không gian văn học. Biết tìm ra cái đẹp của tự nhiên, nâng niu, tôn trọng và sống hài hòa với tự nhiên là một thái độ sống

tích cực. Đối lập với hiện thực môi trường đang bị tàn phá, chúng ta sợ rằng

một ngày kia những vẻ đẹp của tự nhiên trong Thơ mới chỉ còn trong tiềm thức.

Hay chăng, đây cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh con người, con người nhận lại

và tự vấn lại mình: Hãy biết tôn trọng và sống hài hòa với tự nhiên. Chỉ như vậy

con người mới tìm thấy sự thanh sạch, yên bình cho tâm hồn.

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Bài viết: Đọc sách: Rừng khô, suối cạn, biển độc ...và văn chương (Phê

bình sinh thái của Nguyễn Thị Tịnh Thy, NXB Khoa học xã hội, H, 2017,

543 trang), đăng trênTạp chí Nghiên cứu văn học, (số 5/2017).

2. Bài viết: Vườn” trong Thơ mới (1932 – 1945) từ góc nhìn phê bình sinh

thái, đăng trên Hội thảo quốc tế: Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa tiếng

nói toàn cầu, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (12/2017).

3. Bài viết: Chân quê như một lựa chọn giá trị của Nguyễn Bính, đăng trên

kỷ yếu hội thảo quốc gia: Trăm năm Nguyễn Bính truyền thống và hiện

đại, Viện Văn học Đại học Văn Lang (7/2018).

4. Bài viết: Văn học và công lý môi trường, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

văn học, (số 3/2019).

5. Bài viết: Đặc sắc của thiên nhiên thôn quê trong Thơ mới (1932 -1945) từ

góc nhìn sinh thái, đăng trên tạp chí Khoa học, Trường Đại học Thủ Đô

Hà Nội, (số 36/2019).

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Trần Thúy Anh, (2011), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người

Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ (chuyên khảo), Hội văn nghệ

dân gian Việt Nam và NXB Lao động, Hà Nội.

2. Phạm Tuấn Anh, (2009), Sự đa dạng thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau

năm 1975, Luận án Tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội.

3. Phan Tuấn Anh, (2017), Văn học Mỹ Latin nhìn từ phê bình sinh thái,

nguồn,http://vanvn.net/tu-doi-vao-van/van-hoc-my-latin-nhin-tu-phe-binh-

sinh-thai/1701.

4. Lại Nguyên Ân, (biên soạn) (1998), Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác

phẩm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

5. BaKhtin M, (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Trần Đình Sử, Lại

Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội.

6. Trần Lê Bảo, (chủ biên), (2005), Văn hóa sinh thái – nhân văn, NXB Đại

học Sư Phạm, Hà Nội.

7. Trần Lê Bảo, (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

8. Lê Nguyên Cẩn, (2000), Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và JJ

Rousseau, Đạo gia và văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr 199-

213.

9. Lê Nguyên Cẩn, (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội.

10. Cheryll Glotfelty, Harold Fromm (chủ biên)(2014), Nghiên cứu văn học

trong thời đại khủng hoảng môi trường (Trần Thị Ánh Nguyệt dịch) Nguồn

http:tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n16166/Nghien-cuu-van-hoc-

trong-thoi-dai-khung-hoang-moi-truong.html.

11. Trịnh Bá Đĩnh, (2018), Từ ký hiệu đến biểu tượng, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

12. Nguyễn Đăng Điệp, (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.

152

13. Nguyễn Đăng Điệp, (2003), Vọng từ con chữ (Tiểu luận, phê bình), NXB

Văn học.

14. Nguyễn Đăng Điệp (2009), Huy Cận, tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục.

15. Nguyễn Đăng Điệp (2009, Hàn mặc Tử, tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục

16. Nguyễn Đăng Điệp (2010), Thi pháp học ở Việt Nam (đồng chủ biên), NXB

Giáo dục.

17. Nguyễn Đăng Điệp, (2014), Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa,

Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, NXB Văn học, Hà Nội, tr

31-46

18. Nguyễn Đăng Điệp, (2017), Thời đại khủng hoảng môi trường và vai trò, vị

thế của phê bình sinh thái, Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói

toàn cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện văn học

19. Vũ Minh Đức, (2014), Những ngon gió HuaTat của Nguyễn Huy Thiệp

nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái, nguvan.utb.edu.vn

20. Đặng Thị Thái Hà, (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái

(Qua các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn

Ngọc Tư), Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội.

21. Đặng Thị Thái Hà, (2016), Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh thái, Nguồn http://vietvan.vn/vi

/bvct/id3683/Buoc-dau-tim-hieu-truyen-ngan-Nguyen-Huy-Thiep-tu-diem-

nhin-phe-binh-sinh-thai.

22. Đặng Thị Thái Hà, (2016), Vấn đề - sinh thái đô thị trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu, Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong

bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.

23. Lê Bá Hán, (Chủ biên) (2005), Tinh hoa Thơ mới – thẩm bình và suy nghĩ ,

NXB Giáo dục.

24. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2017), Sinh thái học chiều sâu và đạo học Trung

Hoa, kỷ yếu hội thảo quốc tế: Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói

toàn cầu, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện văn học.

153

25. Đỗ Văn Hiểu, (2012), Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn

học mang tính cách tân, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Đại

học Quốc gia Hồ Chí Minh, số 15 (X2), tr 48-54.

26. Đỗ Văn Hiểu, (2016), Tính khả dụng của phê bình sinh thái,

https://dovanhieu.wordpress.com.)

27. Đỗ Văn Hiểu, (2017), Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn

học mới và ứng dụng ở Việt Nam, Đề tài NCKH và công nghệ cấp trường,

Đại học SP Hà Nội.

28. Trần Ngọc Hiếu, (2014), Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam từ

giới hạn của những cách tiếp cận đến đề nghị về những cách đọc khác, Tạp

chí Nghiên cứu Văn học, tr 14 - 26.

29. Nguyễn Xuân Hương, (2013), Triết lí nhân sinh của Hồ Chí Minh về môi

trường, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Duy Tân, Số 4 (60 – 66).

30. Trần Trung Hỷ, (2007), Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

31. Đinh Gia Khánh chủ biên, (2000), Văn học Việt Nam (thế kỉ X đến nửa đầu

thế kỉ XVIII), NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Nguyễn Xuân Kính, (2003), Con người, môi trường và văn hóa, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Cao Kim Lan, (2019), Chấn thương kép trong Nỗi buồn chiến tranh của

Bảo Ninh, Tạp chí nghiên cứu văn học, Viện văn học – Viện hàn lâm khoa

học xã hội Việt Nam, tr22 – 43.

34. Phương Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, NXB Văn học

và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội

35. Phương Lựu (2009), Vì một nền lí luận văn học dân tộc – hiện đại, NXB

Văn học, Hà Nội.

36. Phương Lựu (2013), Người mở đầu cho thi học Thiền gia, Tạp chí nghiên

cứu văn học, số 2, tr 3-11.

37. Đặng Thai Mai, (1970), Tình cảnh thiên nhiên trong tập thơ “Ngục trung

nhật kí”, Tạp chí Văn học, số 5, tr 2-15.

154

38. Hoàng Tố Mai, (chủ biên), (2017), Phê bình sinh thái là gì? Nhà xuất bản

hội nhà văn.

39. Nguyễn Đăng Mạnh, (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà

văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Đăng Mạnh, (2008), Tuyển tập phê bình văn học, NXB Đà Nẵng.

41. Vũ Quang Mạnh, (chủ biên), (2011), Môi trường và con người – Sinh thái

học nhân văn, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Na, (chủ biên), (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1,

NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

43. Nguyễn Đăng Na, (chủ biên), (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập 2,

NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

44. Nguyễn Thị Nga, (2009), Biểu tượng thiên nhiên trong thơ nữ thời kì chống

Mĩ, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7,tr 74-84.

45. Lã Nguyên, (1998), Tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn hóa nghệ thuật, Tạp

chí Văn học, (3), tr 15 -20.

46. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2014), Thiên nhiên – nguồn cảm hứng bất tận của

văn chương Phương Đông, Nguồn http://reds.vn/index.php/nghe-thuat/van-

hoc/7804.

47. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2015), Thiên nhiên và con người trong văn xuôi

Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận án Tiến sĩ, Đại học

Sư phạm Hà Nội.

48. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2016), Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc

Tư (từ góc nhìn Phê bình sinh thái),

Nguồn http://kxhnv.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/103/1420/thien-nhien-

trong-truyen-ngan-nguyen-ngoc-tu-tu-goc-nhin-phe-binh-sinh-thai-tran-thi-

anh-nguyet.

49. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2016), Hình tượng loài vật trong văn xuôi Việt Nam

sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Hội thảo khoa học Phát triển

văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.

50. Nhiều tác giả, (1996), 50 năm văn học văn học Việt Nam Cách mạng tháng

Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

155

51. Nhiều tác giả, Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (Đỗ Văn

Hiểu dịch từ tiếng Trung), http:tapchinhavan.vn.news.

52. Nhiều tác giả, (2010), Đạo phật và môi trường. Thích Nhuận Đạt dịch,

NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

53. Nhiều tác giả (2017), Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn

cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện văn học.

54. Lê Lưu Oanh, (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB Đại học

Sư phạm, Hà Nội.

55. Oliver G, (1997), Sinh thái học nhân văn, Huy Yên, Võ Bình, Đỗ Ngọc Hải

dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.

56. Huỳnh Như Phương, (2013), Mùa xuân, sinh thái và văn chương,

http:khoavanhoc-ngonngu.edu.vn

57. Richard Kerridge, (2017), Môi trường luận và phê bình sinh thái, Phạm

Phương Chi (dịch và tổng thuật), Phê bình sinh thái là gì?, NXB Hội nhà văn.

58. Rigby K, (2014), Chapter 7: “Ecocritinsim”, Imtroducing Critism at the

Twenty – First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị Thái Hà dịch, Phụ lục

luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của

Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc

sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

59. Chu Văn Sơn, (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới, NXB Giáo dục, Hà Nội.

60. Trần Đỉnh Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam. NXB Giáo

dục, Hà Nội, 1999

61. Trần Đình Sử, (2012), Một nền lí luận văn học hiện đại (nhìn qua thực tiễn

Trung Quốc), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

62. Trần Đình Sử, (2015), Phê bình sinh thái tinh thần, http:// trandinhsu.

wordrress.com

63. Hoài Thanh, Hoài Chân, (1998), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

64. Nguyễn Văn Thắng, (2004), Thiên nhiên trong phong trào Thơ mới, Kỷ yếu

hội thảo khoa học những nhà nghiên cứu Ngữ văn trẻ trường Đại học Sư

phạm Hà Nội, tr 142-148.

156

65. Nguyễn Văn Thắng (2008), Thơ làng quê trong phong trào Thơ mới, Luận

án Tiến sỹ, Đại học Sư phạm Hà Nội.

66. Trần Nho Thìn, (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.

67. Thorber K , (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học

(Hải Ngọc dịch), http:hieutn1979,wordpress.com

68. Thorber K, Buell L, Heise U, (2016), Văn chương và môi trường, Trần Hải

Yến (tổ chức bản thảo và biên tập), Lý thuyết và ứng dụng lý thuyết trong

nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội

69. Lý Hoài Thu, (2003), Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

70. Nguyễn Thị Minh Thương, (2018), Kháng cự đô thị, trở về tự nhiên: “Mê

hồn ca” của Đinh Hùng từ góc nhìn phê bình sinh thái, Tạp chí Khoa học,

Đại học Sư phạm Hà Nội

71. Nhã Thuyên, (2016), Khí quyển thơ –sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ,

bầu trời và những linh hồn, Nguồn http://maivanphan.vn

72. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2013), Tô tem sói của Khương Nhung từ lý thuyết

sinh thái, Báo cáo khoa học Đại học sư phạm Huế.

73. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2013), Phê bình sinh thái – nhìn từ lý thuyết giải

cấu trúc, Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ

biên, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội

74. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng

cần khai thác của văn học Việt Nam, Hội thảo khoa học Phát triển văn học

Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.

75. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2015), Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của

Trần Duy Phiên, Tạp chí Sông Hương, Số 317, tháng 07.

76. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc…và văn

chương-phê bình sinh thái, NXB Khoa học xã hội 57 Sương Nguyệt Ánh –

P.Bến thành – Quận I. TP. Hồ Chí Minh.

77. Trần Xuân Tiến, (2016), Tiểu thuyết Cá hồi – cảm quan phê phán con

người từ góc nhìn sinh thái,nguồnhttp://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-

157

chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/tran-xuan-tien-tieu-thuyet-ca-hoi-tu-goc-

nhin-sinh-thai.html

78. Phạm Văn Tuấn, (2006), Phong trào lãng mạn (1750 -1850), Nguồn

http://wwwvietnamdaily

79. Vũ Anh Tuấn, (chủ biên), (2012), Giáo trình văn học dân gian, NXB GD

Việt Nam

80. Lê Ngọc Trà, (2007), Văn chương thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

81. Phạm Ngọc Trầm, (2016), Nghiên cứu triết học – xã hội về môi trường sinh

thái ở Việt Nam, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99)

82. Bùi Thanh Truyền, chủ biên, (2018), Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam

Bộ, NXB Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh

83. Vemier J (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chi, Trần Chí Đạo

dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.

84. Trương Thị Mỹ Xuyên, (2010), Mùa thu Việt Nam trong Thơ mới 1932 -

1945, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Cần Thơ

85. Vương Nhạc Xuyên, (2015), Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh

thái, Nguồn http://dogiavanhieu.blogspot.com/2015/08/van-hoc-sinh-thai-

va-li-luan-phe-binh.html. (Đỗ Văn Hiểu dịch, nxb Đại học Phúc Đán,

Thượng Hải, 2008).

86. Lê Thu Yến, (2010), Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du,

Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 5, tr 10-17

87. Trần Hải Yến, (2014), Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản

hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Đạo

giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học việt Nam trong bối cảnh đổi

mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.

158

Tiếng Anh

88. Aline D, (2015), Tourism and Colonization in Indochina (1898-1939).

Newcastle upon Tyne, England : Cambridge Scholars Publishing.

89. Barry P, (1987), Issues in Contemporary Critical Theory: a Casebook,

Macmillan.

90. Bate J, (2000) The Song of the Earth. London: Picador,. 199-222

91. Bennet, M; David W. Teague (1999). The Nature of Cities: Ecocriticism

and Urban Environments. University of Arizona Press.

92. Berry, Thomas, (1994), Ecological Geography. Worldviews and Ecology.

Ed. Mary Evelyn Tucker and John A. Grim. Maryknoll: Orbis Books.

93. Brocheux, Pierre, (2015). “Colonial Society (Indochina) in 1914-1918”

International Encyclopedia of the First World War, ed. by Ute Daniel,

Peter Gatrell, Oliver Janz, Heather Jones, Jennifer Keene, Alan Kramer,

and Bill Nasson, issued by Freie Universität Berlin, 04-14

94. Buell, Lawrence, (1995), The Environmental Imagination: Thoreau, nature

writing, and the formation of American culture. Cambridge, Mass., and

London: Harvard University Press

95. Buell, Lawrence, (2003), Writing for an Endangered World, tr. 8

96. Buell, Lawrence, (2005), The Future of Environmental Criticism:

Environmental Crisis and Literary Imagination. Malden, MA: Blackwell.

97. Buell, Lawrence, (2011), Ecocriticism: Some Emerging Trends. Qui Parle,

Vol. 19, No. 2 (Spring/Summer), pp. 87-115.

98. Cohen, Michael P, (2004), Blues in the Green: Ecocriticism under Critique.

Environmental History, Vol. 9, No. 1 pp. 9-36

99. Cohen, Jeffrey Jerome, (2014) Prismatic ecology - ecotheory beyond

green.University of Minnesota Press.

100. Dana, Phillips, (2003), The Truth of Ecology: Nature, Culture, and

Literature in America. Oxford: Oxford University Press.

101. Dana, Phillips, (2010) “Introduction: Special Issue on Animal Studies and

Ecocriticism” Safundi: The Journal of South African and American Studies,

Volume 11, pp. 1-2

159

102. Deleuze, G., Félix Guattari, (1972–1980), (1977), Capitalism and

Schizophrenia. N.Y. : Viking Press.

103. Estok, Simon, (2009), “Theorizing in a Space of Ambivalent Openness:

Ecocriticism and Ecophobia” ISLE: Interdisciplinary Studies in Literature

and Environment, Volume 16, Issue 2, Pages 203

104. Evernden N, (1978), “Beyond Ecology: Self Place and the Pathetic

Fallacy”, North American Review, 263.4,; p.16-20

105. Frédéric, Thomas, (2009), « Protection des forêts et environnementalisme

colonial : Indochine, 1860-1945 », Revue d’histoire moderne et

contemporaine, vol. no 56-4, no. 4, pp. 104-136

106. Flys, Carmen, (2010), The State of Ecocriticism in Europe: panel discussio,

Ecozon@. Vol. 1. No. 1: 108-122

107. Ganaie, Altaf Ahmad, (2018), Literature and Ecology: An Experiment in

Ecocriticism, Pune Research, An International Journal in English. Vol 4,

Issue 2,

108. Garrard, G (2004), Ecocriticism Taylor & Francis 2004 .

109. Giesecke, Annette, and Naomi Jacobs, eds (2012) Earth Perfect?: Nature,

Utopia, and the Garden. London: Black Dog Publishing.

110. Gifford T. “Pastoral, Anti-Pastoral and Post-Pastoral as Reading

Strategies.” Scott Slovic (ed.), Critical insights: Nature and Environment,

Ipswich: Salam Press, pp. 42-61.

111. Glotfelty C và Harold Fromm, (1996), The Ecocriticism reader: landmarks

in literary ecology. Athens and London: University of Georgia.

112. Gunn C (2014), Rice Wars in Colonial Vietnam: The Great Famine and

the Viet Minh Road to Power. Lanham: Rowman & Littlefield.

113. Haag, Ingemar, Karin Molander Danielsson, Marie Öhman, (2019),

Perspectives on Ecocriticism: Local Beginnings, Global Echoes.

Cambridge: Cambridge Scholars Publishing, 101-112

114. Howarth, W, (1996) “Some Principles of Ecocriticism”, trong Cheryll

Glotfelty and Harold Fromm (eds), The Ecocriticism Reader: Landmarks in

Literary Ecology. Athens: The University of Georgia Press.

160

115. Huggan, Graham, (2009), “Postcolonial ecocriticism and the limits of

Green Romanticism” Journal of Postcolonial Writing Volume 45, 2009 -

Issue 1, tr. 3-14.

116. Hunt, John Dixon, (2000), Greater Perfections: The Practice of Garden

Theory. Philadelphia : University of Pennsylvania Press.

117. Kerridg, Richard; Neil Sammells, (1998), Writing the Environment:

Ecocriticism and Literture. London : Zed Books.

118. Kroeber K, (1999), Ecological literary criticism : romantic imagining and

the biology of mind. New York: Columbia University Press.

119. Leiss, William, (2007) “Modern Science, Enlightenment, and the

Domination of Nature: No Exit?” FAST CAPITALISM 2.2 http:

//www.fastcapitalism.com

120. Littleto, H. (2016), "Discursion and Excursion:" Poetry of Bodies, Place,

and Landscape in the Ecocritical Movement”. Dissertation. University of

Denver.

121. Love, Glen (1996), Revaluating Nature: Toward an Ecological Criticism.

Western American Literature Vol. 25, No. 3 (FALL 1990), pp. 201-215

122. Meeker, Joseph W, The Comedy of Survival: Literary Ecology and a Play

Ethic. Tucson: The University of Arizona Press, tr.7)

123. Niemann, Michelle, (2011), “Rethinking Organic Metaphors in Poetry and

Ecology: Rhizomes and Detritus Words in Oni Buchanan's ““Mandrake

Vehicles”” Journal of Modern Literature Vol. 35, No. 1, Re-assessing,

Breaking, Transcending Genres, pp. 99-121

124. Nixon R,(2005), “Environmentalism and Postcolonialism.” Postcolonial

Studies and Beyond. Ed. A. Loomba, S. Kaur, M. Bunzl, A. Burton, and J.

Esty. Durham, NC: Duke UP,. 233–51.

125. Nyrnes, Aslaug, (2018), “The Nordic Winter Pastoral: A Heritage of

Romanticism.” Ecocritical Perspectives on Children's Texts and Cultures:

nordic dialogues. Cham, Switzerland : Palgrave Macmillan, pp.75-89

126. Oppermann, Serpil, (2010), “The Rhizomatic Trajectory of Ecocriticism” .

Ecozon. 1, No 1.

161

127. Oppermann, Serpil, (2018), “Nature’s Colors: A Prismatic Materiality in

the Natural/Cultural Realms”. Ecocritical Aesthetics: Language, Beaty, and

the Environment. Peter Quigley and Scott Slogic. Bloomington: Indiana

University Press, 157-172.

128. Pepperell, Robert. (1997), The Post Human Condition Intellect Books,

Exeter, UK. (First Edition 1995).

129. Rigby, Kate. “Ecocriticism” trong Julian Wolfreys (ed.), Literary and

Cultural Criticism at the Twenty-First Century, Edinburgh: Edinburgh UP,

151.

130. Robisch, S.K,, (2009), “The Woodshed: A Response to “Ecocriticism and

Ecophobia, , Interdisciplinary Studies in Literature and Environment.

Volume 16, Issue 4, Pages 697–708

131. Ruddiman, William F,(2014), . Earth's Climate : Past and Future. New

York : Freeman.

132. Rueckert W, (1978), Literature and Ecology: An Experiment in

Ecocriticism

133. Scigaj, Leonard, (2015), Sustainable Poetry: Four American Ecopoets.

Lexington: The University Press of Kentucky.

134. Slovic, Scott, (1994), “Ecocriticism: Storytelling, Values, Communication,

Contact”, ASLE Conference, Salt Lake City, Utah.

135. Spivak, Gayatri Chakravorty, (2005), Death of a Discipline. New York:

Columbia University Press.

136. Sullivan, Heather I, (2014), “The Ecology of Colors: Goethe’s Materialist

Optics and Ecological Posthumanism”. Material Ecocriticism. Serenella

Iovino, Serpil Oppermann edited. Bloomington: Indiana University Press,

80-94

137. Taylor, W. Paul, (1981), “The Ethic of Respect for Nature”, Environmental

Ethics, Vol 3, Fall.

138. Thoreau, Henry David.(1854), (2004), Walden ,or Life in the woods.

Boston: Ticknor and Fields,. ebooks@Adelaide,University of Adelaide

Library, (e-text)

162

139. Thornber, Karen, (2012), Ecoambiguity: Environmental Crises and East

Asian Literatures: Michigan: University of Michigan Press.

140. Ursula, Heise, (2010), Sense of Place and Sense of Planet: the

environmental imagination of the global, New York: NY Oxford Univ

Press

141. Trexler, Adam , (2015). Anthropocene Fictions The Novel in a Time of

Climate Change. Virginia: University of Virginia Press,.

142. Verderame, Michael, (Sept. 2010), “The shape of ecocriticism to come.”

New Directions in Ecocriticism. Web.

143. Waage, Frederick (1985), Teaching Environmental Literature Materials

methods Resources. New York: Modern Language Assoc. of America,

1996.

144. Warren, Karen, (2000), Ecofeminist Philosophy: A Western Perspective on

What It is and Why It Matters. Lanham: Rowman&Littlefield

Publishers, Inc.

145. West, Rinda, (2007), Out of the Shadow Ecopsychology, Story, and

Encounters with the Land Rinda West.Virgina: The Univrsity of Virgina

Press.

146. Woolbright, Lauren, (2011), Wounded Planet, Wounded People: The

Possibility of Ecological Trauma, A Thesis Presented to the Graduate

School of Clemson University.

147. Yi-fu Tuan, (1979) Landscapes of Fear, New York: Pantheon Books,

148. Yuki, Masami, (2014) “Ecocriticism in Japan.” The Oxford Handbook of

Ecocriticism Edited by Greg Garrard. New York: Oxford University Press.

163

PHỤ LỤC

BẢNG 1: CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÍ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI

BẢNG 2: CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHÊ BÌNH SINH THÁI

BẢNG 1: CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LÍ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI

Stt

Nguồn bản dịch

Tiêu đề (năm xuất bản)

Chủ đề

Loại công trình

1 Dịch và tổng

Tác giả (dịch giả, biên tập, tác giả) - Dịch giả Đỗ Văn Hiểu

thuật

Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển – 2012 (http:tapchinhavan. vn.news)

Giới thiệu về phê bình sinh thái qua hai phần. Phần I: Phân tích các định nghĩa về nghĩa phê bình sinh thái của Cheryll Glotfelty, Karl KroeberJonathan Levin, Donald Worster. Lược thuật sự phát triển của lĩnh vực nghiên cứu phê bình sinh thái.. Phần II: Cội nguồn tư tưởng sâu xa của phê bình sinh thái. Quan niệm con người sống hài hòa với tự nhiên xuất phát từ quan điểm triết học cổ đại đến các các học giả của trào lưu lãng mạn Phương Tây và các nhà sinh vật học, các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt tư tưởng sinh thái phương Đông cổ đại. ...

2 Dịch thuật

tương

Hải Ngọc http:hieutn1979, wordpress.com

Những lai của phê bình sinh thái và văn học - 2014

and Futures” Asian A Reader

Tổng quan về văn học sinh thái và phê bình sinh thái từ nguyên nhân hình thành, cội nguồn tư tưởng và lịch sử phát triển. Giới thiệu những nhà nghiên cứu trong và ngoài khu vực về diễn ngôn môi trường, thiên nhiên trong văn chương Đông Á.

Dịch, tổng hợp từ tiếng bản Trung: Phê bình thái Âu Mĩ, sinh Nxb Học Lâm, 2008, và Phê bình sinh thái: Phát triển và nguồn gốc, trong “Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung quốc và thế giới”, Nxb Đại học công Thương Triết Giang, 2010, tr48- 60 KarenThornber, “Ecocritical Literary in East Ecocriticisms. Critical (Literatures,

1

Nghiên cứu văn

3 Dịch thuật

.

học trong thời đại

khủng hoảng môi

trường - 2014

Sự ra đời chuyên ngành nghiên cứu văn học mội trường; Địnhnghĩa phê bình sinh thái; Bàn về mối quan hệ khoa học nhân văn và sự khủng hoảng môi trường; Tình hình nghiên cứu phê bình sinh thái ở mĩ; Tương lai của phê bình sinh thái.

the Cultures, and ed. Environment), by Simon C. Estok and Won-Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan (2013). Bản dịch từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc trong trọng quan Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.

Văn học sinh thái

4 Dịch thuật

Đỗ

đại

và lí luận phê bình

sinh thái - 2015

tây “Đương phương tối tân văn luận giáo trình” của Vương Nhạc Xuyên, Nxb Đại học Phúc Đán, Thượng Hải, 2008)

Nguyên nhân xuất hiện của văn hóa sinh thái chính là do từ sự mất gốc của văn hóa hiện đại và căn bệnh của chủ nghĩa tiêu dùng. Đồng thời chỉ ra tính thực tiễn của văn hóa sinh thái. Quỹ tích phát triển của lí luận sinh thái và chỉ ra được 6 đặc trưng cơ bản của phê bình sinh thái

5

Dịch giả Trần Thị Ánh Nguyệt thttp:tapchisong huong.com.vn/ti n- tuc/p0/c7/n1616 6/Nghien-cuu- van-hoc-trong- thoi-dai-khung- hoang-moi- truong.html Dịch giả Văn Hiểu http://dogiavanh ieu.blogspot.co m/2015/08/van- hoc-sinh-thai- va-li-luan-phe- binh.html Hoàng Tố Mai “Ecocriticism”,

Bản dịch và tổng thuật đã làm rõ thế nào là

2

tổng

dịch và thuật Phê bình sinh thái là gì?

Beginning theory: An introduction to literary and cultural theory, Peter Barry (Eds), Manchester Press, University 2009.

“Environmentalism and Literature, Richard Kerridge, Neil Sammells, Zed Books, Mar 15, 1998

Phạm Phương Chi dịch và tổng thuật Môi trường luận và phê bình sinh thái

phê bình sinh thái? Thống kê những công trình nghiên cứu phê bình sinh thái đầu tiên ở Mỹ trong đó có sự phân tích, so sánh với phê bình sinh thái ở Anh. Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên; Đề xuất những cách nhìn khác nhau về một tác phâm khi nghiên cứu dưới góc nhìn sinh thái; Dừng lại và suy ngẫm; Nêu lên những gì nhà phê bình sinh thái cần làm.. Bản dịch và tổng thuật đã đưa ra: Khái niệm về phê bình sinh thái Tổng quan phê bình sinh thái ở Mỹ và Anh Trả lời các câu hỏi thế nào là môi trường luận, sinh thái học, hệ thống sinh thái, Ổ sinh thái, chuỗi thức ăn. Phân tích xu hướng lấy sinh thái làm trung tâm. Phân tích chủ nghĩa nữ quyền sinh thái, tự nhiên,văn học đồng quê, chủ nghĩa lãng mạn.

Phê bình sinh thái là gì? - 2017

Sách (Dịch và tổng thuật) Nhà xuất bản Hội nhà văn

Phương Phạm Chi dịch và tổng thuật Tự nhiên như là một vấn đề nữ quyền: Thúc đẩy

“Chaper 1: Nature Is a Feminist Issue: Motivating EcoFeminism Taking Data

by Empirical Seriously”,

Trả lời câu hỏi những vấn đề môi trường (cây, rừng, sự phá rừng, nước, hạn hán, sa mạc hóa; sản phẩm thực phẩm, đói nghèo, chất thải độc hại, tàn sát động vật hoang dã, ...) ảnh hưởng gì đến phụ nữ, người da màu, người nghèo và trẻ em.

3

luận nữ quyền sinh thái bằng cách thu thập dữ liệu thực nghiệm một cách nghiêm túc

Làm rõ mối quan hệ giữa Phụ nữ và cây cối, rừng và lâm nghiệp; Phụ nữ nước và hạn hán; Phụ nữ, thực phẩm, và làm nông; Phụ nữ, người da màu, trẻ em và sức khỏe; Phụ nữ và sự công bằng môi trường

Inc,

tổng

the

at

Đặng Thị Thái Hà Dịch và thuật Phê bình sinh trong bối thái cảnh khủng môi hoảng trường toàn cầu

Ecofeminnist Philosophy: A Western Perspective on What It is and It Matters, Why J Warren, Karen Lanham: Rowman &Littefield Publishers, 2000, pp. 1-19. Kate Rigby, Chapter “Ecocriticism”, 7: Julian from Wolfreys ed.), Introducing Criticism Twenty-First Century, Edinburgh UP, 151-78.

look

Đặng Thị Thái Hà

“Why animals?”,

at Why

Bản dịch và tổng thuật đem đến thông điệp: Tưởng nhớ trái đất; Phân tích, làm rõ tư tưởng sinh thái tiến bộ trong cuốn Những cội nguồn lịch sử của cuộc khủng hoảng sinh thái chúng ta đang phải đối mặt của Lyn White Jr (người Mỹ); Tái cấu trúc văn bản; Định giá lại những văn bản viết về tự nhiên; Kêu gọi trở về với chủ nghĩa lãng mạn; Khẳng định sự gắn kết chặt chẽ mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên; Quan niệm tự nhiên cũng có ngôn ngữ riêng của mình, cần lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên; Minh họa trên tác phẩm của “Ngôi nhà ở Grasmere” Wordsworth Bài dịch và tổng thuật nhằm chứng minh cho chúng ta thấy loài vật cũng có tâm hồn và có

4

tổng

at

animals? Berger, the Group,

Dịch và thuật Vì sao phải nhìn những con vật?

look John Published by penguin 2009

tiếng nói riêng của mình. Việc đẩy loài vật tách rời ra khỏi đời sống con người sẽ dự báo những hiểm họa mà xã hội tiêu dùng và căn hóa chủ nghĩa tư bản là nguyên nhân gây ra điều đó. Nhu cầu thưởng thức, thưởng ngoạn, du lịch phong cảnh hoang dã và vườn quốc gia ở Mỹ đã dẫn đến những hệ lụy về sự xâm phạm, tàn phá, hủy hoại môi trường.

the Park The

Lê Quốc Hiếu dịch và tổng thuật Giá trị của cảnh quan: Mỹ học phong cảnh và hệ thống vườn quốc gia

Nguyễn Trường Sinh dịch và tổng thuật Dẫn nhập phê bình sinh thái Đông Á – những

The Uses of Lands cape: The Picturesque Aesthetic and National System”, Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, Edited by Cheryll Glotfelty and Harold the Fromm, of University Georgia Press Athens and London “Partial views: An introduction to East Asian Ecocriticisms”, East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader

Qua cái nhìn của học giả phương Tây nhìn về Sự phát triển của phê bình sinh thái Đông Á; Vấn đề sinh thái, môi trường ở Đông Á đặt ra thách thức cho các nhà phê bình sinh thái Đông Á; Khẳng định nghiên cứu sinh thái Đông Á là hết sức quan trọng đóng góp vào

5

sự phát triển bền vững của xã hội.

cái nhìn mang tính khu vực

Laura

Bài lược dịch đi tìm câu trả lời cho khái niệm thái” của Karen Laura “mơ hồ sinh Thonrnber. Nhấn mạnh vào văn học Đông Á nhằm chỉ ra những quan niệm mâu thuẫn trong cách ứng xử với tự nhiên.

and

Đặng Thái Hà lược dịch Những môi trường sinh thái, những mơ hồ về trường và môi các nền văn học

(Literatures, and Cultures, ed Environmemt), by Simon C. Estok and Won – Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan, 2013) Karen Thonrnber, “Introdicion: Environments, Environmental Ambiguities, Literatures”, Emcoambiguity: Environmental crises and East Asian Literatures, Arbor: Ann ò University Michigan Press, 2012

6

Phương

“The Ecology of Disaster: A Reading of Divakaruni s One Amazing Thing” Chitra Sankaran, National University of Singapore, 2017

Phân tích thảm họa sinh thái trong tiểu thuyết“Một điều đáng kinh ngạc” của Divakaruni (Ấn Độ) dưới góc nhìn của phê bình sinh thái. Qua phân tích tác phẩm đã minh chứng cho câu trả lời tự nhiên cũng là nhân vật tham gia vào quá trình đối thoại của tác phẩm, tự nhiên là một chủ thể chủ động trong nội tại phát triển của tác phẩm.

Phê bình sinh thái

Phạm Chi dịch Thảm họa dưới góc nhìn sinh thái học: Đọc tiểu thuyết “Một điều đáng kinh ngạc” của Divakaruni Đỗ Văn Hiểu

6

– khuynh hướng

nghiên cứu văn

học mang tính cách

tân, - 2012

Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, số tr (X2), 15 48-54.

Sách (bài viết

Phê bình sinh thái

7

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

in trong) Văn

– nhìn từ lý thuyết

học hậu hiện

giải cấu trúc, 2013

Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái - Cách tân về tư tưởng nòng cốt. - Phê bình sinh thái mang một sứ mệnh mới là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán văn hóa, chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. - Phê bình sinh thái cũng được xây dựng trên nguyên tắc mĩ học riêng, chủ trương của mĩ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên Phê bình sinh thái mang cảm quan hậu hiện đại trên các mặt: lệch tâm, tản quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và tái thiết, tính đối thoại .

đại – lý thuyết

và thực tiễn,

7

Lê Huy Bắc

(chủ

biên),

NXB Đại học

Sư phạm Hà

Nội

Tạp chí văn

Sáng tác và phê

8

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

nghệ

quân

bình sinh thái –

đội, số 10

tiềm năng cần khai

thác của văn học

Việt Nam, 2014

Bài viết

in

Đặc trưng của một sáng tác được xem là văn học sinh thái. Chỉ ra những tác phẩm có tư tưởng sinh thái là rất đa dạng và phong phú. Giới thiệu về phê bình sinh thái một khuynh hướng nghiên cứu đang phát triển rất năng động trên thế giới hiện nay. Phê bình sinh thái còn là một sự “phản ứng chậm”. Mong muốn để các sáng tác và phê bình sinh thái trở thành một khuynh hướng gắn bó thiết thực với đời sống văn chương và đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường. Lý giải nguyên nhân tìm về tam giáo, những

9

Trần Hải Yến

trong:

Hội

điều tìm thấy ở tam giáo của sinh thái học,

thảo khoa học

trên cơ sở đó đã đưa ra gợi ý có thể khảo sát

Phát triển văn

văn học trung đại Việt Nam từ quan điểm của

Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo, 2014

8

học Việt Nam

phê bình sinh thái học.

trong bối cảnh

đổi mới và

hội nhập quốc

tế, Viện Văn

học.

10 http://trandinh

Trần Đình Sử

Phê bình sinh thái tinh thần - 2015

su.wordrress.c

Vận dụng tư tưởng sinh thái học để tìm hiểu trạng thái sinh thái tinh thần và sinh thái văn hóa

om

11 http://dovanhi

Đỗ văn Hiểu

eu.Wordpress.

Tính “khả dụng” của phê bình sinh thái 2016

com/2016/09/

15/tinh-kha-

dung-cua-

phe-binh-

sinh-thái/

Xác lập cơ sở lí luận của phê bình sinh thái Đề xuất hướng thao tác nghiên cứu để có thể vận dụng vào thực tiễn văn học nước nhà. Cơ sở lí luận của phê bình sinh thái là sự hài hòa giữa con người và tự nhiên trong chỉnh thể sinh thái, vừa đảm bảo lợi ích của con người, vừa đảm bảo lợi ích sinh thái. Phê bình sinh thái vận dụng các phương pháp của nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu nội tại để xử lí văn bản văn học, vừa đảm bảo tính thực tiễn, vừa đảm bảo tính thẩm mĩ.

9

Giới thiệu đầy đủ về lý thuyết, nguồn gốc,

Rừng khô,

suối

12 Chuyên luận

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

phát sinh, phát triển, sự khác nhau về các

cạn, biển độc…và

quan niệm, quan điểm của phê bình sinh thái.

văn

chương-phê

Những đóng góp và hạn chế của phê bình

bình sinh thái -

sinh thái trên bước đường hoàn thiện

2017

NXB Khoa học xã hội 57 Sương Nguyệt Ánh – P.Bến thành – Quận I. TP. Hồ Chí Minh.

Thực hành phê bình sinh thái trên một số tác

phẩm tiêu biểu.

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

13 Kỷ yếu hội thảo quốc gia Đại học Sư phạm Huế, tr 441-453

giới”

Giới thiệu chủ nghĩa nữ quyền sinh thái Phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (bối cảnh, khái niệm; nội hàm và phương pháp phê bình; ý nghĩa của nghiên cứu phê bình văn học từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái)

Phê bình từ chủ nghĩa nữ quyền sinh thái: Sự kết hợp giữa “Cách và mạng “Cách mạng xanh” trong nghiên cứu văn học - 2017 Thời đại khủng

14

Nguyễn Đăng Điệp

Sự ra đời, phát triển, đặc trưng của phê bình sinh thái và phê bình sinh thái ở Việt Nam

hoảng môi trường

và vai trò, vị thế

của phê bình sinh

thái - 2017

10

Bàn về văn hóa

Trần Lê Bảo

15

sinh

thái

văn

Nghiên cứu sinh thái văn chương cần có sự liên ngành với sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội, sinh thái vật chất, sinh thái tinh thần

chương - 2017

Sinh thái học tinh

Thị

16

Nguyễn Tịnh Thy

Phê bình sinh

thần và những gợi

thái –

tiếng

dẫn cho nghiên

Nghiên cứu về sinh thái học tinh thần từ đó gợi dẫn cho ứng dụng trong lĩnh vực văn chương. Đồng thời mong muốn tác động đến ý thức môi trường ngày nay.

nói bản địa,

cứu văn chương -

tiếng nói toàn

2017

cầu, Kỷ yếu

Phê bình sinh thái -

17

Văn

Nguyễn Dân

Phê bình sinh thái cần có trình độ chuyên gia đa ngành

hội thảo quốc

một

xu

hướng

tế, Viện văn

nghiên cứu

liên

học.

ngành

Thiên nhiên hợp

18

Phương Lựu

nhất, từ góc nhìn

sinh thái

Giá trị của tư tưởng thiên nhiên hợp nhất trong văn học phương Đông, liên hệ văn học phương Tây và những cảnh báo hủy diệt môi trường

Sinh thái học chiều

19

Thị

Nguyễn Thúy Hạnh

sâu và đạo học

Trung Hoa

So sánh giữa sinh thái học chiều sâu của Phương Tây và sinh thái luận đạo học của Trung Hoa nhằm chỉ ra sự giao thoa, ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng. Từ đó nuôi

11

Dấu ấn của tinh

20

Kim

Nguyễn Châu

thần mỹ học sinh

thái

trong

triết

thuyết Lão Trang

Phê bình sinh thái

21

Đỗ Văn Hiểu

ở Trung Quốc nhìn

từ Việt Nam

Tổng quan phê

22

Trần Lê Hoa Tranh

bình sinh thái trong

văn

học Trung

Quốc

qua

các

nghiên cứu bằng

dưỡng hy vọng về một nền sinh thái xanh cho toàn nhân loại. Mỹ học Lão Trang quan niệm tôn trọng vẻ đẹp tự nhiên, chủ trương sống hòa hợp tự nhiên, trở vê với tự nhiên...từ đó mong muốn cần bảo tồn và tôn vinh thế giới tự nhiên hương tới việc lấy tự nhiên làm chuẩn thẩm mỹ cho cái đẹp. Tình hình phát triển phê bình sinh thái ở Trung Quốc: giới thiệu, dịch thuật, xây dựng lí thuyết và vận dụng vào nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể, từ đó đề xuất giải pháp phát triển phê bình sinh thái ở Việt Nam Bài viết hướng đến trả lời: Trung Quốc chú ý đến phê bình sinh thái từ bao giờ?; thúc đẩy nghiên cứu dịch sang tiếng Anh như thế nào?các học giả nước ngoài nghiên cứu phê bình sinh thái ở Trung Quốc ra sao? Phê bình sinh thái Trung Quốc mảng tiếng Anh quan tâm đến điều gì?Trên cơ sở đó liên hệ với sự phát triển phê bình sinh thái ở Việt Nam.

tiếng Anh

Vài điều về phê

23

Huy

Nguyễn Thiệp

Vai trò của văn học và nhà văn trong việc đưa phê bình sinh thái đến bạn đọc.

bình sinh thái trong

văn học ở ta

12

Dạy

học

văn

24

Đặng Lưu

chương trong nhà

Từ lí thuyết phê bình sinh thái và việc giáo dục môi trường trong dạy học văn trong nhà trường phổ thông.

trường phổ thông

hiện nay có thể tiếp

thu được gì từ phê

bình sinh thái

Kí hiệu nhân văn

25

Lê Huy Bắc

và sinh thái 4.0

Phê bình sinh thái -

26 Đề tài NCKH

Đỗ Văn Hiểu

cấp trường –

Khuynh

hướng

Đại

học

nghiên cứu văn

SPHN

học mới và ứng

dụng ở Việt Nam

Cách mạng 4.0 những tiến bộ vượt bậc về sự văn minh hiện đại và những dự cảm của sự lo âu, trăn trở...trước nguy cơ bào mòn những giá trị nhân văn, giá trị tinh thần. Tập trung làm rõ: Phần 1: Lý thuyết phê bình sinh thái (sự ra đời và phát triển; tư tưởng cơ bản; phương pháp nghiên cứu phê bình sinh thái) Phần 2: Hướng ứng dụng phê bình sinh thái ở Việt Nam (nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu ứng dụng)

(chủ nhiệm), đề tài

cấp trường, mã số

SPHN

15-438,

nghiệm thu 2017,

13

Phê bình sinh thái -

27 Tạp chí Sông

Trần Thị Ánh Nguyệt

Hương – số

vài nét phác thảo -

350, tháng 4,

2018

- Khái niệm phê bình sinh thái - Phê bình sinh thái đảo lôn truyền thống phê bình - Phê bình sinh thái những khởi đầu mới mẻ ở Việt Nam

2018

BẢNG 2: CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHÊ BÌNH SINH THÁI

Chủ đề

Thể loại

STT

Loại công trình

http://maivanphan.vn

Tiêu đề (năm xuất bản) Khí quyển thơ – sinh

1

Tác giả (Dịch giả, biên tập) Nhã Thuyên

Thơ Mai Văn Phấn

thái của Mai Văn Phấn:

Thơ, bầu trời và những

Hệ sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn: bầu trời, linh hồn...; sự hài hòa giữa con người và tự nhiên bao bọc xung quanh cuộc sống.

linh hồn - 2013

Sách

Thơ mới từ góc nhìn

2

Thơ mới

Nguyễn Đăng Điệp

Thơ Việt Nam hiện đại

sinh thái học văn hóa -

tiến trình và hiện tượng,

2014

NXB Văn học, Hà Nội, tr

31-46

Tìm hiểu tấm mạng sinh thái: bức tranh phong cảnh thiên nhiên với tư cách Mẹ và vẻ đẹp thanh tân; bức tranh làng quê; nơi chốn(bầu trời, mặt đất, con đường, dòng sông, ánh trăng trời chiều, ánh thanh); vườn (đặc trưng vẻ đẹp vùng miền, là chốn cư ngụ, là không gian tinh thần). Vạn vật hữu linh: mọi sự vật,

14

Thiên nhiên – nguồn

3

trong

phương

Tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM, số 60

Trần Thị Ánh Nguyệt

Thơ Đông

cảm hứng bất tận của

văn chương Phương

hiện tượng đều có linh hồn Thiên nhiên thơ ca phương đông (cỏ cây, hoa lá, động vật...). Con người và thiên nhiên sống hài hòa, giao cảm.

Đông - 2014

ngọn

gió

Những

nguvan.utb.edu.vn

4

HuaTat của Nguyễn

Huy Thiệp nhìn từ lí

truyện Tập “Những ngọn gió HuaTat” Nguyễn của Huy Thiệp

thuyết phê bình sinh

thái - 2014

Cái tự nhiên từ điểm

5

Đặng Thị Thái Hà

Luận Văn – ĐHSP Hà Nội

nhìn phê bình sinh thái

(Qua

tác phẩm của

Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn

HuyTthiệp,

Qua tác phẩm Nguyễn của Minh Châu, Nguyễn HuyTthiệp, Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư) -

Vũ Minh Đức, Thiên nhiên và con người núi rừng Tây Bắc (cái chết của tự nhiên dưới bà tay hủy hoại của con người (hổ, chim muông, gà lôi, chó sói).. bị săn bắn. Thiên nhiên quay trở lại trừng phạt con người. Nữ quyền luận sinh thái: thiên tính nữ, vẻ đẹp của các sơn nữ. Vận dụng hệ thống lí luận phê bình sinh thái trong cái nhìn về thế giới tự nhiên phi nhân. Đặc biệt, luận văn đi sâu vào nghiên cứu sự mơ hồ của những diễn ngôn văn học trong việc tạo dựng cái tự nhiên phi nhân, qua các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn

15

2014

Cảm quan sinh

thái

6

Luận văn – ĐHSP Thái Nguyên

Ngô Thị Thu Giang

trong

truyện

ngắn

ngắn Truyện Nguyễn Huy Thiệp

Nguyễn Huy Thiệp –

2014 .

7

Luận án – ĐHPS Hà Nội Con người và tự nhiên

Trần Thị Ánh Nguyệt

trong văn xuôi Việt

Văn xuôi Việt Nam sau năm 1975

Nam sau năm 1975 từ

góc nhìn phê bình sinh

thái – 2015

Ngọc Tư nhằm làm rõ phản ứng chung của văn học đối với khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. Khám phá nội dung và nghệ thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp để nhận thấy cảm quan sinh thái của nhà văn. Chỉ ra vai trò của vấn đề sinh thái trong văn học đối với xã hội hiện nay. Góp thêm một cái nhìn mới về giá trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, làm rõ hơn mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong các sáng tác này Tổng thuật chi tiết các nghiên cứu về phê bình sinh thái trong nước và trên thế giới. Chứng minh sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986 có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái. Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan

16

Tạp chí nghiên cứu văn

Trăm năm còn lại của

8

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

học (898), số 1, 2015.

Trần Duy Phiên – nhìn

từ lí thuyết phê bình

Tiểu thuyết “Trăm năm còn lại” của Trần Duy Phiên

sinh thái - 2015

tưởng sinh

thái

9

Thị

Tạp chí Sông Hương, Số 317, tháng 07

Nguyễn Tịnh Thy

trong truyện ngắn của

Trần Duy Phiên - 2015.

ngắn Truyện “Kiến và người”, “Mối người”, và “Nhện và người” của Trần Duy Phiên

trọng xã hội thẩm mĩ và đứa đựng những nhân tố cách tân nghệ thuật. Khảo sát hai bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái xác lập cho văn chương đương đại, đó là cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và xác lập đạo đức sinh thái Quá trình sinh tồn và hủy diệt của một gia đình trước sự trừng phạt của tự nhiên. Con người cưỡng đoạt, tàn phá tự nhiên (rừng sâu nước thẳm, gió núi mưa ngàn, chim muông thú hoang, vàng sa khoáng...), thiên nhiên cuồng nộ trừng phạt lại con người. Cuộc đối đầu giữa con người và côn trùng (kiến, mối, nhện). Trong cuộc chiến đó con người tự mãn sẽ thuần hóa, trừng trị những con trùng nhỏ bé. Nhưng ngược trở lại con người lại thất bại thảm hại. từ đó đặt ra vấn đề “giải cấu trúc “nhân loại trung tâm”

17

10

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

Tạp chí khoa học (385), Đại học sư phạm Huế, số 8, 2016

Tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê

Khủng hoảng môi trường và trách nhiệm của nhà văn. “Đọc hiểu xanh” về Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê - 2016

Bước đầu

tìm hiểu

11

Đặng Thị Thái Hà

truyện ngắn Nguyễn

ngắn Truyện Nguyễn Huy Thiệp

Huy Thiệp

từ điểm

nhìn phê bình sinh thái,

http;//vietvan.vn/vi/bvct/i d3683/Buoc-dau-tim- hieu-truyyen-ngan- Nguyen-Huy-Thiep-tu- diem-nhin-phe-binh-sinh- thai..

2016

Hội thảo khoa học Phát

Vấn đề - sinh thái đô

12

Đặng Thị Thái Hà

triển văn học Việt Nam

thị trong truyện ngắn

Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

trong bối cảnh đổi mới và

Nguyễn Minh Châu -

hội nhập quốc tế, Viện

2016

Cuộc chiến bảo vệ rừng xanh giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Mặt trái của văn minh đô thị khiến tài nguyên rừng bị tàn phá, khai thác, tận diệt. Thiên nhiên hng dữ trừng phạt con người Sự thất bại của con người trước tự nhiên, mặc dù con người luôn khát khao chinh phục. Không gian sinh thái (không gian thôn dã): người nông dân chán ruộng đồng, chối bỏ chốn đồng quê; Không gian hoang dã (vì lợi ích trước mắt con người phá hủy không gian hoang dã) Sự phát triển đô thị và hiểm họa hủy diệt môi trường sống - Đô thị hóa là sự phát triển: nhịp sống, ánh sáng, tiện nghi, vật chất.. - Đô thi hóa: sự ngột ngạt, tù túng.

18

Văn học.

http://kxhnv.duytan.edu.v

Thiên

nhiên

trong

13

Trần Thị Ánh Nguyệt

n/Home/ArticleDetail/vn/

truyện ngắn Nguyễn

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

103/1420/thien-nhien-

Ngọc Tư (từ góc nhìn

trong-truyen-ngan-

Phê bình sinh thái) -

nguyen-ngoc-tu-tu-goc-

2016

Đối lập với không gian hoang dã, rừng núi mênh mông, tự do, khoáng đạt. Nảy sinh tâm thức muốn chối bỏ đô thị Mất cân bằng sinh thái vùng Nam Bộ (đất lở, núi lở, hạn hán, xâm ngập mặn, nước nổi kéo dài...); Yêu thương và lắng nghe, bảo vệ loài vật; Tìm về nguồn cội tự nhiên để cứu rỗi tâm hồn

nhin-phe-binh-sinh-thai-

tran-thi-anh-nguyet.

Hội thảo khoa học Phát

Hình

tượng

loài vật

14

Trần Thị Ánh Nguyệt

triển văn học Việt Nam

trong văn xuôi Việt

Văn xuôi Việt Nam sau năm 1975

trong bối cảnh đổi mới và

Nam sau năm 1975 từ

hội nhập quốc tế, Viện

góc nhìn phê bình sinh

Văn học.

thái - 2016

Lắng nghe tiếng nói từ các sinh linh, loài vật biết cảm nhận đời sống (con chó, con bò, con bìm bịp, con vịt, con khỉ, con mèo, ...); Loài vật cũng phản chiếu đời sống tâm hồn con người. Với quan niệm trên nhằm bác bỏ quan niệm “con người là trung tâm” đề xuất tư tưởng “sinh thái trung tâm luận”.

19

Luận Văn – ĐHSP Hà

Con người và

thiên

15

Lê Thu Bồn

Nội 2

nhiên

trong

truyện

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

ngắn Nguyễn Huy

Thiệp dưới góc nhìn

phê bình sinh thái –

2016

Luận văn – ĐHKHXH và

Thiên nhiên trong sáng

16

Thị

tác của

Đinh Nhàn

tác

của

Nguyễn

nhân văn

Sáng Nguyễn Khuyến

Khuyến từ góc nhìn

phê bình sinh thái -

2016

Luận văn ĐHSP Thái

Truyện ngắn Cao Duy

17

Thùy

ngắn

Trịnh Dương

Truyện Cao Duy Sơn

Nguyên

Sơn từ góc nhìn phê

bình sinh thái - 2016

Chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc nhìn phê bình sinh thái. Hệ thống hóa lại kiến thức về phê bình sinh thái, chỉ ra đặc thái trưng cảm quan sinh truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Khảo sát hệ thực vật, động vật trong thơ Nguyễn Khuyến soi sáng dưới góc nhìn phê bình sinh thái nhằm chỉ ra:Thiên nhiên với Nguyễn Khuyến có ý nghĩa liên quan thế nào đến hành xử xã hội – đạo đức thẩm mĩ của nhà thơ?; Mối quan hệ đó chịu sự quy định thế nào từ thế giới quan nhân sinh quan tác giả? Chỉ ra mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự đối sánh và hòa hợp. Tạo dựng không gian hoang dã, nguyên sơ và không gian miền núi.

20

Sinh thái môi trường

18

Tạp chí khoa học Đại học

trong văn xuôi Đoàn

Nguyễn Thị Quế Vân, Lâm Hoàng Phúc

Văn Hiến, tập 5, số 1.

Giỏi - 2017

Văn xuôi Đoàn Giỏi: Những chuyện lạ về cá, Rừng đêm xào xạc; Đất rừng phương nam...

Biểu tượng lúa trong

19

Nguyễn Huy Bỉnh

Phê bình sinh thái – tiếng

thần thoại và nghi lễ

nói bản địa, tiếng nói toàn

các dân tộc thiểu số

Đặt con người vào tự nhiên của không gian rừng U Minh hoang sơ, hoang dã; biển cả hùng vĩ, mênh mông. Bài viết cho thấy sự thay đổi trong nhận thức về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn xuôi Đoàn Giỏi, từ quan niệm “nhân loại trung tâm luận” sang xác lập quan niệm “tự nhiên trung tâm luận”. Bài viết phân tích biểu tượng lúa dưới góc nhìn sinh thái nhằm đi đến quan niệm “vạn vật hữu linh”.

Thần thoại và nghi lễ các dân tộc số thiểu Việt Nam

cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc

Việt Nam (Tiếp cận từ

tế, Viện văn học.

góc độ sinh thái học

nhân văn) - 2017

Sinh hoạt kinh

tế

20

Sử thi Xơ Đăng

truyền thống trong sử

thi Xơ Đăng với bối

truyền trao

thống, đổi

cảnh môi trường sinh

Lê Ngọc Bính Cuộc sống người Xơ Đăng gắn liền với rừng, canh tác nương rẫy, chăn nuôi, các nghề thủ công thông hàng thương hóa...nhắc nhở con người sống chan hòa, tôn trọng tự nhiên.

21

thái ở Tây Nguyên -

2017

Khám phá bản chất hôn

21

Dương Nguyệt Vân

Truyện cổ tích Việt Nam

nhân người – con vật

trong

truyện cổ

tích

Bài viết trả lời câu hỏi con người có nguồn gốc từ tự nhiên, con người không thể tách rời mối quan hệ với tự nhiên.

Việt Nam dưới góc độ

phê bình sinh thái -

2017

Sáng

tác của Trần

22

Thị

Trần Nhung

tác của Nhân

Nhân Tông dưới góc

Sáng Trần Tông

nhìn phê bình sinh thái

- 2017

Thơ ca Nguyễn Trãi từ

23

Đoàn Thị Thu Vân

Thơ ca Nguyễn Trãi

góc nhìn phê bình sinh

thái - 2017

24

Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Thanh

Tìm ra ý thức thẩm mĩ sinh thái (cỏ cây, hoa lá, đồng quê, chim muông, ...) trong thơ Trần Nhân Tông để từ đó mong muốn tôn trọng, sống hài hòa, có ý thức đấu tranh bảo vệ tự nhiên Khảo sát hệ sinh thái (trăng, gió, nước, mây, núi, rừng, thực thơ vật, động vật...)trong Nguyễn Trãi để thấy được tinh thần nâng niu sự sống, trân trọng môi trường của tác giả Từ thiên nhiên( mảnh vườn, núi rừng, sông suối, chim

Thơ ca Nguyễn Trãi

22

Nguyễn Trãi

từ góc

nhìn phê bình sinh thái

- 2017

muông..)trong thơ Nguyễn Trãi để hiểu thêm về tấm lòng trân trọng tự nhiên của thi nhân

Cảm thức “xanh” trong

25

Thị

Nguyễn Thanh Xuân

Truyện Kiều của Nguyễn Du

Truyện Kiều

của

Nguyễn Du và một vài

suy nghĩ về phê bình

sinh thái - 2017

Sinh

thái

tinh

thần

26

phẩm

Hoàng Trọng Quyền

Tác Nguyễn Du

trong

thế giới nghệ

thuật Nguyễn Du- 2017

Tự nhiên cũng là đối tượng phản ánh trong Truyện Kiều, tự nhiên tham gia vào sự phát triển của tác phẩm. Truyện Kiều tràn đầy tinh thần sinh thái. Đồng thời tác giả đề xuất những suy nghĩ của mình về phê bình sinh thái phương Tây và phương Đông với mong muốn cùng nhau khám phá lý thuyết sinh thái này. Đặt con người trong mối quan hệ với xã hội, với chính mình và với tự nhiên trong các sáng tác của Nguyễn Du nhằm hướng đến câu trả lời con người muốn có đời sống cân bằng sinh thái cần giải quyết vấn đề con người một cách toàn diện trong cả ba mối quan hệ trên.

27

Dự báo qua thực vật, Trần

Thị Thực vật (hoa sen, cây gạo, Văn xuôi tự sự

23

động vật

trong văn

Thanh Nhị

trung đại Việt Nam

xuôi tự sự trung đại

Việt Nam – Từ góc

nhìn phê bình sinh thái

- 2017

Vai trò tiếng nói chủ

28

Nguyễn Hữu Sơn

thể trong du ký Miền

Trung Việt Nam nửa

Du ký Miền Trung Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

đầu thế kỷ XX nhìn từ

phê bình sinh

thái.-

cây chuối, cây lúa, cây đa, cây đề, cây mía, trầu cau...) Động vật (chim, rắn, cá sấu, rồng, rùa, trâu, gà, chó, cóc, chuột, mèo, voi, ...). Người xưa đã sử dụng động vật, thực vật như một phương diện dự báo, như thế từ thời trung đại, con người đã biết quan sát, lắng nghe và tìm cách sống hài hòa với thiên nhiên, vũ trụ, môi trường. trường tự Cảnh quan môi nhiên miền Trung, điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình, cơ sở truyền thống kinh tế, văn hóa, phong tục, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, ...vấn đề môi trường sinh thái

2017

Mối quan hệ giữa con

29

Trần Mạnh Tiến

người với môi trường

sinh thái trong văn xuôi

Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (Truyện đường rừng)

Việt Nam giai đoạn

Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sự sống, tràn đầy mĩ cảm : Nhiều màu sắc (bờ cỏ xanh non, cánh rừng nhấp nhô, hoa trái rực rỡ, nắng vàng lấp thanh lánh...); Đủ các âm

24

1930 - 1945 2017

Mối quan hệ giữa con

30

Lê Dục Tú

người và tự nhiên trong

Văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

văn xuôi Việt Nam giai

(chim kêu ríu rít: chim gõ kiến, chim gầm nhì; chim họa mi; chim cu, chim bạc má, sáo, yểng, vẹt, tiếng côn trùng rủ rỉ...) Thiên nhiên hoang sơ, huyền ảo (núi rừng, hang động, sông suối, cây cỏ, hoa lá, chim muông, khí hậu, thời tiết...) vận động không ngừng của sự sống. - Không gian sinh tồn là không gian thôn dã. - Tự nhiên tác động đến tính cách, số phận và nội tâm nhân vật

đoạn 1930 – 1945

2017

“Vườn” trong Thơ Mới

31

Bùi Thị Thu Thủy

Thơ Mới (1932 -1945)

(1932 -1945) từ góc

nhìn phê bình sinh thá

i- 2017

- Vườn xứ Bắc Bộ, Thanh Hóa, Huế.. là bức tranh thu nhỏ vẻ đẹp vùng miền. - Vườn (vườn xưa, vườn ái tình, vườn yêu..) là nơi con người gột rửa tâm hồn được thanh thản, bình yên - Vườn xuân, vườn trần gian

25

Sáng

tác của Ngọc

32

Lê Tú Anh

thuyết quê”,

Giao từ góc nhìn phê

Tiểu “Nhà “Đất”.

bình sinh thái - 2017

tràn đầy ánh sáng và sức sống là nơi con người thêm tin yêu cuộc đời. Cổ vũ lối sống trở về thôn quê và phê phán chiến tranh tàn phá tự nhiên đời sống con người

Tinh

thần sinh

thái

33

Thanh

Bùi Truyền

Văn xuôi Nam Bộ

trong văn xuôi Nam Bộ

- 2017

Tiếng gọi của tự nhiên:

34

Ngọc

khúc ngoặt sinh thái

trong văn học Việt

Trần Hiếu Đặng Thị Thái Hà

Bức tranh Nam Bộ đang bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ bị tàn phá...Văn xuôi Nam Bộ xây dựng và cổ vũ quan niệm thẩm mỹ sinh thái. Thiên nhiên phản ánh sự tàn phá của chiến tranh Nỗi bất an trong đời sống tinh thần con người đương đại trong cái nhìn về tự nhiên

Văn học Việt Nam đương đại (tập trung vào văn xuôi hư cấu)

Nam đương đại - 2017

Giải nhị phân người/tự

35

Văn

Trần Toàn

nhiên và diễn ngôn mới

về nhân

tính

(đọc

những truyện ngắn về

tự nhiên của Nguyễn

Bài viết cho thấy giải nhị phân người/tự nhiên đã khiến con – người trở thành đối tượng của sự miêu tả trong văn học. Như vậy nhân tính đã được kiến tạo từ điểm nhìn của tự nhiên. Như thế con người

ngắn Truyện lần đối Một chứng, Phiên chợ Giát, Sống cây với mãi xanh của Nguyễn Minh

26

Minh Châu và Nguyễn

Huy Thiệp) – 2017

hoàn toàn có thể lắng nghe, thấu cảm sự lên tiếng của tự nhiên

Vấn đề

thiên nhiên

36

Thị

Nguyễn Thúy Hằng

trong

truyện

ngắn

Châu. Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Nguyễn Huy Thiệp -

Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp kêu gọi sự lắng nghe tiếng gọi của tự nhiên, cảnh báo những hệ lụy tàn phá môi sinh và giải cấu trúc “nhân loại trung tâm”

2017

Người nông dân trong

37

Trần Thị Ánh Nguyệt

Văn xuôi Việt Nam đương đại

văn xuôi Việt Nam

đương đại từ góc nhìn

phê bình sinh thái -

2017

Kiểu nhân vật nạn nhân

38

Nguyễn Thùy Trang

sinh

thái

trong

tiểu

thuyết Việt Nam từ sau

thuyết Tiểu Việt Nam từ sau đổi mới đến nay

Cuộc sống hiện đại khiến người nông dân mất chỗ dựa vào không gian sinh thái nơi đồng ruộng, họ trở nên bất an. Đồng thời cũng cho thấy họ là những người yêu đồng ruộng, đất đai...bằng tấm lòng sâu nặng Nông dân, người nghèo với vấn nạn sinh thái giai cấp Thị dân, trí thức với làn sóng sinh thái đô thị. Nữ giới – sinh thái nữ quyền

đổi mới đến nay - 2017

Khi nhà văn có trực

39

Diệu

Hỏa Thúy

giác sinh thái (Khảo sát

Thông điệp bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái; phê phán, cảnh báo nguy cơ

tác của Sáng Nguyễn Minh Châu, Hồ Anh

27

qua

sáng

tác

của

mất cân bằng sinh thái tinh thần trong đời sống xã hội.

Thái và Nguyễn Bình Phương

Nguyễn Minh Châu,

Hồ Anh Thái

Nguyễn Bình Phương)

- 2017

Tiểu thuyết chiến tranh

40

Lê Thị Hường Chiến

Việt Nam đầu thế kỷ

XXI – từ góc nhìn sinh

Tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam đầu thế kỷ XXI

tranh hủy diệt môi trường (hủy diệt thực vật, động vật), chấn thương tinh thần con người...khát vọng phục hồi sinh thái

thái - 2017

Cảm quan sinh

thái

41

Đinh Trí Dũng Lê Thanh Nga

trong tản văn của một

Tản văn trong văn học Việt Nam đương đại

số nhà văn Việt Nam

đương đại - 2017

Đọc Cẩm cù của Y Ban

42

dưới góc nhìn sinh thái

Phê phán thực trạng hủy hoại tự nhiên, tàn phá môi trường, cảnh báo sự xuống cấp không gian sống của con người. Suy nghĩ đến những giải pháp...Với mong muốn giữ gìn môi trường sinh thái Hoàng Tố Mai Mạch ngầm sinh thái về vấn đề vệ sinh, phân bón hữu cơ, vô cơ và sự tác động vào môi sinh

Tự truyện dài Cẩm cù của Y Ban

- 2017

43

“Tự nhiên” và “Nữ Hoàng Lê Anh

ngắn

Mối quan hệ giữa nữ giới với tự nhiên. Kêu gọi bảo vệ, che

Truyện Quế Hương

Ly

28

giới” trong truyện ngắn

chở tự nhiên.

Quế Hương nhìn từ nữ

quyền luận sinh thái –

2017

Khủng

hoảng môi

44

Đỗ Hải Ninh Môi trường và xã hội đô thị

trường và số phận của

Tiểu thuyết Paris 11 tháng 8 của Thuận

cộng đồng

thiểu số

trong tiểu thuyết Paris

11 tháng 8 của Thuận -

2017

Những tiêu điểm thẩm

45

Hồ Thế Hà

Trịnh

Thơ Công Lộc

mỹ

thơ Trịnh Công

Lộc nhìn từ quan hệ

(“Được gợi hứng từ trận nóng năm 2003 mà đỉnh điểm là ngày 11 tháng 8, đã giết chết gần mười lăm ngàn người Pháp”). Qua góc nhìn sinh thái bài viết cho thấy môi trường và số phận người thiểu số ở đô thị khi đối diện với biến đổi khí hậu (thủ đô Paris). Thiên nhiên (đại ngàn, biển, than, đá và nước, rừng đảo, ..) mang bức thông điệp về tình yêu quê hương, đất nước

sinh thái - 2017

Thơ của niềm “trinh

46

Văn Giá

Thơ Trần Hùng

tĩnh” đầu nguồn - 2017

sông,

dòng

Làng quê ( vườn chè, vạt mía, bờ vườn, rừng trăng, cánh đồng, bó lạt, lưỡi hái,cánh đồng, đống dấm, ...); ( rau dền gai, rau sam

29

Cảm quan sinh

thái

47

Hương

Lê Thủy

trong sáng tác của Đỗ

Phấn – 2017

Sáng tác của Đỗ Phấn: Rụng xuống ngày hư ảo, Chảy qua bóng tối, Vết gió, Vắng mặt, dằng dặc triền sông mưa...

Mơ hồ sinh thái và sự

48

Đặng Thị Thái Hà

chất vấn những ảo

tưởng du lịch sinh thái

trong văn xuôi đương

đại

(Trường hợp Nguyễn

Ngọc Tư) – 2017

tím, sên đen, đom đóm ma, con trâu, con cua càng, con dế mèn..) thiên nhiên như một sinh quyển – thi quyển với số lượng lớn, phổ khắp tràn đầy trong thơ Trần Hùng Đời sống đô thị (ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm khói bụi, cây xanh bị tàn phá, ô nhiễm nguồn nước, săn bắt thú rừng, sát sinh,...) con người sống bức bối, ngột ngạt trong nỗi bất an sinh thái. Dự cảm và khát vọng về không gian sống an lành Từ lý thuyết mơ hồ sinh thái, bài viết chỉ ra nghịch lý của việc say mê thưởng ngoạn vẻ đẹp tự nhiên dẫn đến những hành động hủy diệt tàn phá hệ sinh thái (phá rừng, xẻ núi); du lịch sinh thái tước đi vùng bờ biển của người dân, trục xuất những người có số phận nhỏ bé ra khỏi không gian sống núi rừng quen thuộc của họ, biến người dân bản địa thành những

tác Sáng Nguyễn Ngọc Tư: Sông, Khói lẫy, lộng trời Ngắm cảnh, Gáy người thì lạnh, Yêu người ngóng núi, Gió lẻ và 9 câu khác, chuyện Còn lại chỉ mây mù..

30

Sông của Nguyễn Ngọc

49

Tư và những vấn đề

Trịnh Đặng Nguyên Hương

sinh thái môi trường –

thuyết Tiểu Sông của Nguyễn Ngọc Tư

2017

Sự thức tỉnh ý thức

50

Thị

sinh thái trong sáng tác

Thị

cho

thiếu nhi của

Nguyễn Hải Phương Nguyễn Linh Chi

Nguyễn Ngọc Thuần –

2017

thứ kì lạ gây hiếu kì cho khách...Như vậy có một mâu thuẫn trong cách con người ứng xử với tự nhiên hiện tại, nảy sinh sự hoài nghi về văn minh, phát triển, du lịch... Sông hạ nguồn:bị xâm mặn khiến thực vật bị tàn phá (rừng bần xác sơ, thưa thớt), san lấp sông và sông bị sạt lở (nhiều người bị cuốn trôi bất thình lình, thảm họa kinh hoàng). Sông thượng nguồn: rừng bị tàn phá, tuyệt chủng tộc người Môi sinh bị tàn phá trước biến đổi khí hậu: mặt nước, rừng cây, động thực vật, con người...cằn cỗi, xác xơ, tàn lụi, dạt trôi, tha hóa... Thiên nhiên: khu vườn, loài hoa cánh đồng, khu rừng, dòng sông; con dế, con thằn lằn, con gà, con nhện...hiện lên trong truyện Nguyễn Ngọc Thuần viết cho thiếu nhi. Tạo dựng một thế giới trong lành, tươi mát, đầy sức sống. Thiên

Truyện Nguyễn Ngọc Thuần: Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm mồng, Giăng giăng tơ nhện, Trên đồi cao

31

Chuyến du hành giữa

51

Thị

Nguyễn Diệu Linh

miền rừng và phố thị:

hình ảnh sinh thái trong

chăn bầy thiên sứ... Tuyển tập tản văn: Những giấc mơ màu của dẻ hạt Hoàng A Sáng

Những giấc mơ màu

lộng

hạt dẻ của Hoàng A

Sáng - 2017

Cảm quan sinh

thái

52

Phạm Phương Mai

trong ca từ Trịnh Công

Lời những bài hát của Trịnh Công Sơn

nhiên là bạn với trẻ thơ, trẻ nâng niu, bảo vệ tự nhiên Ý niệm nơi chốn: Miền rừng và phố thị - Miền rừng: Pác Thay bản người dân tộc Tày. Con người sống tự nhiên, hoang dã; tự nhiên hùng vĩ, lẫy, nguyên sơ trên cánh đồng, rừng già. Cuộc sống mãn nguyện, sảng khoái. Nhưng môi trường sinh thái miền rừng đang dần bị tàn phá. - Phố thị:Hà Nội , ánh trăng yếu ớt, cây cối còi cọ, động vật bị bắt, nhốt mất khả năng sinh tồn. Cuộc sống đầy ắp xe cộ, khí thải, tiếng ồn. Con người sống uể oải, mộng mị, cuốn theo đô thị hóa, công nghiệp hóa. Khát khao tái tạo hình ảnh sinh thái về quê hương. Thiên nhiên (giọt sương, giọt mưa, nụ hoa..)vạn vật có linh hồn và đều bình đẳng. Con người luôn muốn trở về

32

Sơn – 2017

với tự nhiên, nguồn cội, thuần khiết Biểu tượng mưa, nắng, sông. Dự cảm nguy cơ chiến tranh

Dấu hiệu sinh

thái

53

trong

phim

Việt

(Trường

hợp

phim

Những người thợ xẻ và

Rừng đen của Vương

Đức) - 2017

diễn:

Luận văn – ĐHSP Thái

Truyện ngắn, tản văn

Thị

54

Nguyễn Thu Hằng

Nguyên

Nguyễn Quang Thiều

từ góc nhìn phê bình

Những Phim thợ xẻ người (dựa tác trên phẩm cùng tên- huy Nguyễn Thiệp) và Rừng đen chuyển thể từ kịch bản (Người vớt củi - Lê Ngọc Linh) Đạo Vương Đức Truyện ngắn, văn Tản Nguyễn Quang Thiều

sinh thái – 2017

Luận văn – ĐHSP Thái

Tiểu thuyết Vi Hồng từ

Thị

55

Trần Thanh Hà

Tiểu thuyết Vi Hồng

Nguyên

góc nhìn phê bình sinh

Lê Thị Dương Thông điệp: Rừng là nơi chốn sinh tồn, nếu tàn phá rừng, con người sẽ bị rừng trừng phạt Mặt trái: Phục vụ cho ý đồ bộ phim được thành công, các cảnh quay tàn phá rừng được hiện lên khốc liệt, chân thực dưới máy quay của đạo diễn đã khiến nhiều cây gỗ bị đốn hạ, vô tình việc làm phim cảnh báo hệ lụy tàn phá rừng lại tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Dưới góc nhìn sinh thái thiên nhiên trong truyện ngắn, tản văn Nguyễn Quang Thiều hiện lên với những hoài niệm về chốn làng quê và phản ánh những mặt trái của lối sống đô thị Sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn. - Sinh thái tự nhiên: Thiên

33

thái - 2017

56

Phạm Phương Chi

Truyện Hồ Anh Thái

ASLE-ASEAN WORKSHOP

Post-War Nation- Building and Environment: Reading Stories about India by Hồ Anh Thái - 2018

nhiên mang đặc trưng núi rừng Việt Bắc, Thiên nhiên vừa hòa hợp vừa xung đột với con người. - Sinh thái nhân văn: Con người với con người; con người với các giá trị văn hóa Những ẩn dụ văn học trong tác phẩm viết về người Ấn Độ của Hồ Anh Thái hàm ẩn các vấn đề ô nhiễm môi trường do các nhà máy hợp tác quốc tế gây ra.

(Ecologies in Southeast Asian Literatures: Histories, Myths and Societies)

Post presentation

57

Trần Thị Ánh Nguyệt

58

Đỗ Thu Hiền

Truyền kỳ mạn lục

Các hình ảnh và tranh vẽ về vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện đại Tác giả tập trung phân tích hình ảnh ma nữ trong tác phẩm Truyền kì mạn lục từ góc độ nữ quyền sinh thái.

59

Le Thi Tuan

Female Ghosts in Truyenky man luc- from the Perspective of Ecofeminism Department of Literature - 2018 Short story Mother's soul of Nguyen Huy Thiep and Pham Nhue

Khám phá tiếng nói của thiên nhiên trong sự quy chiếu đến người mẹ của tác phẩm Tâm

Tập truyện Tâm hồn mẹ của Nguyễn Huy

34

hồn mẹ, từ đó chỉ ra cách cư xử giữa con người và thiên nhiên theo một cách tích cực hơn.

Thiệp và phim tên đạo cùng Phạm diễn Nhuệ Giang

Giang's filmwith the same name from an ecofeminism perspective Department of Literature - 2018

60

Hoàng Cẩm Giang

The adaptations of postwar Vietnamese literature from 1976 to 2000: cinema as ecofeminism reading - 2018

Sự chuyển thể văn học hậu chiến từ năm 1976 đến năm 2000: điện ảnh như là cách đọc nữ quyền sinh thái

Bài viết tìm hiểu tính thẩm mỹ thị giác của riêng mình, từ đó giải quyết câu hỏi về cách thức điện ảnh tái hiện lại các bài diễn văn về chủ nghĩa nữ quyền sinh thái được tìm thấy trong "hậu chiến" tác phẩm văn học. Và điều này phản ánh phong cách, quan điểm và bài đọc của cá nhân trong bối cảnh văn hóa đương đại.

61

Reading Hoya byY Ban and and Mr. Mong’s story by Nguyen HuyThiep from an ecological perspective - 2018

Cẩm cù - Y Ban ông Chuyện Móng – Nguyễn Huy Thiệp

Hoàng Tố Mai Tác giả đọc ra tính thẩm mĩ của chất thải tự nhiên của con người (phân) được thể hiện trong hai tác phẩm, từ đó tìm ra sự phê phán của hai tác phẩm đối với nền nông nghiệp bị công nghiệp hóa với các sản

35

phẩm phân bón hóa chất hiện đại

62

Truyện của Pao

The attachment and negotiation with nature in hmong's identity in the movie Pao's Story - 2018

63

Hát văn

Lê Thị Dương Tác giả phân tích thiên nhiên trong Truyện của Pao như là bối cảnh của bộ phim, sự tương đồng giữa các đặc điểm của tự nhiên và đặc điểm của con người, và vấn đề Mẹ Thiên nhiên là tổ của tinh thần con người. Tìm hiểu mối quan hệ nước, rừng và con người trong thể hát văn

Lu Thi Thanh Le and Doan Ngoc Chung

The relation between water, forest and human in Hát văn of Vietnamese people - 2018

64

Đặng Thị Bích Hồng

Thơ Nguyễn Quang Thiều

Nostalgic Sensein Ecological Poems by Nguyen QuangThieu - 2018

Tìm hiểu triết lí về sinh thái được tuyên ngôn và hàm ẩn thơ Nguyễn Quang trong Thiều

65

Thị

Nguyễn Tịnh Thy

Các tài liệu về các võ sĩ nghĩa dũng

Legend of the Bach Ma Mountain in Literature of Nghia Dung Karate Dojo - 2018

Bạch Mã – ngọn núi

Tác đọc truyền thuyết về núi Bạch Mã trong văn học về các võ sĩ Nghĩa Dũng Karate, phân tích núi Bạch Ma như là một ngọn núi tinh thần đối với các võ sĩ

36

linh hồn trong tâm thức của các võ sĩ Nghĩa Dũng Karate - Do

Tran Thi An

66

Thần thoại

Bài viết tìm hiểu sự kiến tạo và sự phá hủy của trái đất như là ngôi nhà trong các câu chuyện thần thoại

The Construction and Destruction of “Our Common Home – the Earth” – the Warning Message from Myths - 2018

67

Truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân

Dinh Hong Hai

The myth of hundred eggs (Trăm trứng) from perspective of ethnoecology

Tác giả tìm hiểu sự liên đới về sinh truyền thái vùng với thuyết về việc phân tách địa bàn sinh tồn trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân

Department of Anthropology - 2018

68

thoại

The Nguyen Thi Mai Lien

Thàn Đông Nam Á

The animism in the Southeast Asia myths - 2018

Tác giả tìm hiểu sự tương đồng của sự thờ cây cối và con vật của văn hóa Đông Nam Á với lí thuyết sinh thái

69

Nguyen Thi Dieu Linh

Biểu tượng con rùa

The Story of Hoan Kiem Lake's Turtle as a Narrative of Endangered Species:

Tác giả tìm hiểu câu chuyện con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm trong lí thuyết về diễn ngôn về các sinh vật bị nguy cơ từ góc độ

37

History, Myth, and Cultural Identity - 2018

lịch sử, huyền thoại và bản sắc văn hóa

70

Nguyen Nam Hoang

ngắn Nam

Truyện Việt đương đại

Tác giả tìm hiểu sự mất mát và sự sinh sôi của các biểu tượng thiên nhiên trong các truyện ngắn Việt Nam đương đại về đời sống đô thị

The loss and regeneration of natural symbols in contemporary Vietnamese short story about urban life - 2018

71

Nguyen Thuy Trang

thuyết Nam

Tiểu Việt đương đại

Tác giả phân tích những sự phi lí, bất cập về môi trường trong tầng lớp lao động trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

The environmental inadequacy in the working-class during the contemporary Vietnamese novels - 2018

72

Tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX

An Ecocritical Study of the Discourses on Progress and Western Civilization by Some Vietnamese Intellectuals in the Early 20th Century -

Bui Linh Hue Tác giả phân tích nghiên cứu mang tính sinh thái trong các diễn ngôn về tiến bộ và văn minh phương Tây đầu thế kỉ XX, từ đó đi đến tìm hiểu ý thức về nỗi sợ sinh thái trong văn học Việt Nam

38

2018

73

Wild animals and the sense of ecophobia in Vietnamese Literature - 2018

Tran Ngoc Hieu Dang Thi Thai Ha

74

Tran Thi Quynh Thuan

Bài hát Trịnh Công Sơn

Tác giả phân tích các tự sự mang tính sinh thái trong lời bài hát Trịnh Công Sơn

75

Nguyen Thi Nhu Trang

Nhiệt đới gió của Lê mùa Minh Khuê

Tác giả phân tích các mẫu sinh thái từ đó đọc ra bi kịch, hận thù và những nỗ lực để xóa sạch bi kịch và hận thù vì hòa bình và hòa hợp trong cuộc sống và linh hồn của cá nhân và cả nước như là một chủ đề của văn học hậu chiến ở Việt Nam

http://nguvan.hnue.edu.vn

76

tự nhiên:

Nguyễn Thị Minh Thương

/Nghiencuu/VanhocVietN

Ecological Narrative in the Lyrics of Trinh Cong Son's Songs Social Sciences and Humanities - 2018 Imagining Vietnam from war to postwar period: narrative templates of Eco and beyond (case study Nhiệt đới gió mùa/Tropical monsoon by Le Minh Khue) - 2018 Kháng cự đô thị, trở về tự nhiên: “Mê hồn ca” của Đinh Hùng từ góc nhìn Phê bình sinh thái

Kính ngưỡng tự nhiên huyền bí, haong sơ, man dại, nguyên thủy... Trở về với tự nhiên: Con

Mê hồn ca” của Hùng Đinh (Thơ mới 1932 -1945)

39

amhiendai/tabid/103/new

- 2018

stab/3249/Default.aspx

Luận án – Đại học khoa

77

Nguyễn Thùy Trang

học Huế

Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái - 2018

Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014

người sống hào hợp với thiên nhiên, cầm thú. Kháng cự đô thị: chán ghét đô thị - Giải cấu trúc về phê bình sinh thái - Chuẩn tắc đạo đức sinh thái từ hệ thống nhân vật - Tinh thần sinh thái từ quyền lực văn hóa

40