VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ THU THỦY
THƠ MỚI (1932 - 1945) TỪ GÓC NHÌN
PHÊ BÌNH SINH THÁI
Ngành: Lí luận Văn học
Mã số: 9 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
2- TS. Phạm Phƣơng Chi
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1- PGS. TS Lƣu Khánh Thơ
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Bùi Thị Thu Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 6
1.1. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài ................................................. 6
1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây .................................................................. 6
1.1.1.1. Thời kỳ đầu ................................................................................................. 6
1.1.1.2. Thời kỳ phát triển ........................................................................................ 7
1.1.2.Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây ...................................... 9
1.2.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam ................................................... 13
1.2.1.Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên cứu văn
học ở Việt Nam ..................................................................................................... 13
1.2.2.Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt
Nam ...................................................................................................................... 21
Chƣơng 2: PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN ...... 31
VĂN HỌC ............................................................................................................ 31
2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học ....... 31
2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái ..................................................... 31
2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối” .................................... 36
2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái ................................................................. 42
2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển ............................................. 42
2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái .............................................. 46
2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên
ngành .................................................................................................................... 51
2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba................................. 51
2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành ......................... 52
2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái ..................... 58
Chƣơng 3: NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ
NHIÊN VÀ CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI ................................................ 63
3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể ........................................................................ 63
3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người ........................ 63
3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an về sinh thái của con
người .................................................................................................................... 73
3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể ............................................................................ 86
3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị .................................. 86
3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại .............. 95
Chƣơng 4: NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG THƠ MỚI
............................................................................................................................ 105
4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................................. 106
4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca .................................................. 106
4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới............................................ 107
4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái .............................................. 107
4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam
............................................................................................................................ 116
4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lí luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái
............................................................................................................................ 122
4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới .......................................................... 129
4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái..................... 129
4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới ........................................................... 132
4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa ........................................................ 132
4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn .................................................................... 139
4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian .................................................................. 144
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đến nay, những hiểm họa về suy thoái môi
trường đã trở nên trầm trọng. Điều đó đặt ra những vấn đề liên quan đến sự tồn
vong của nhân loại. Và đây là lí do vì sao trong lĩnh vực kinh tế xuất hiện khái
niệm phát triển bền vững với chủ trương phát triển kinh tế nhưng không làm tổn
hại đến môi trường sinh thái vì các thế hệ tương lai. Trong địa hạt khoa học xã
hội và nhân văn cũng đã xuất hiện khái niệm phê bình sinh thái. Về bản chất đó
là bộ môn nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đây được xem
là một hướng nghiên cứu mới có tính liên ngành, ngày càng có ảnh hưởng lớn.
1.2. Phê bình sinh thái còn gọi là nghiên cứu xanh xuất hiện ở Tây Âu rồi
lan rộng ra toàn cầu. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển phê bình sinh thái thể
hiện rõ những tiềm năng và đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp
cận, giới thiệu, ứng dụng, nghiên cứu.
1.3. Hiện nay, những nghiên cứu dựa trên nền tảng phê bình sinh thái chủ
yếu hướng đến các sáng tác văn học đương đại, nghiên cứu những sáng tác văn
học trước đó còn hạn chế, đặc biệt tập trung nghiên cứu nhiều vào thể loại văn
xuôi mà chưa có nhiều nghiên cứu về thơ. Với lí do đó, chúng tôi muốn soi rọi
lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu một thực thể quan trọng của văn học
Việt Nam thế kỷ XX là Thơ mới.
1.4. Gợi ý từ phê bình sinh thái khi nghiên cứu Thơ mới chúng tôi nhận thấy
theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có thể xem văn học sinh thái xuất hiện
từ thời kỳ lãng mạn. Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản với sự phát triển như vũ bão đã
lộ dần mặt trái đen tối của sự tàn phá, hủy hoại môi trường tự nhiên. Các nhà lãng
mạn đã sớm dự cảm về những hư tổn mất mát đó và đưa chúng vào văn học đương
thời. Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) mặc dù xuất hiện muộn hơn so với văn học
lãng mạn phương Tây nhưng cũng ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược
và khai thác thuộc địa. Nền văn minh công nghiệp xuất hiện đã bước đầu tàn phá
tự nhiên và môi trường sống. Trong văn học lãng mạn có một khuynh hướng viết
về đồng quê. Trong đó, nhiều nghệ sỹ coi sự trở về với thiên nhiên, thôn dã như
1
một nẻo đường tìm kiếm sự bình yên, thể hiện thái độ phản ứng lại sự ngột ngạt
của đời sống đô thị. Chúng ta có thể tìm thấy ở Thơ mới một tấm mạng sinh thái
mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh giao cảm hài hòa…Những vần thơ
viết về thiên nhiên, tự nhiên trong Thơ mới cũng có ý nghĩa đánh thức sự gắn kết
giữa con người với môi trường nhân tính của tự nhiên, thanh tẩy, ngăn cho con
người không trượt vào con đường tha hóa, để từ đây rung lên hồi chuông cảnh tỉnh
về khủng hoảng sinh thái.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài xem xét phê bình sinh thái, một hướng tiếp cận văn học xuất phát từ
phương Tây sẽ có những thích hợp hay sự khác biệt gì khi được nhìn nhận
trong sự tương quan với văn học Việt Nam, đặc biệt là với Thơ mới.
Đề tài muốn khám phá Thơ mới từ một góc nhìn mới, đó là sự gắn kết của
trường phái thơ này với các vấn đề môi sinh, môi trường và tự nhiên. Từ đó, đề
tài khẳng định giá trị trường tồn và sự đa diện của Thơ mới. Thơ mới có giá trị
ngay cả khi được khám phá dưới những cách tiếp cận xuất hiện sau sự ra đời và
phát triển của nó rất nhiều.
Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn
khẳng định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với
Thơ mới, giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ
phận thơ ca đó. Luận án của chúng tôi không nhằm xác định Thơ mới như một
chỉnh thể sinh thái. Bởi lẽ trọng tâm của Thơ mới là bộc lộ cái tôi cá nhân và sự
cô đơn của con người. Nhưng nghiên cứu trào lưu văn học này với công cụ là
phê bình sinh thái chúng tôi muốn khám phá thêm các ý nghĩa, giá trị của Thơ
mới. Do vậy, lí thuyết phê bình sinh thái sẽ góp phần soi tỏ những khía cạnh
khác nhau của khuynh hướng văn chương sinh thái trong Thơ mới. Theo đó,
Thơ mới được hình dung như một trường hợp để chứng minh sự hữu dụng của
phê bình sinh thái trong việc nghiên cứu thực tiễn văn học Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới
và ở Việt Nam.
2
- Phân tích sự ra đời và phát triển phê bình sinh thái trên thế giới, từ đó
đưa ra nhận định riêng về sự phát triển và nội hàm của phê bình sinh thái.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.
- Tìm hiểu ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm trực tiếp, gián
tiếp thể hiện mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới.
-Vận dụng những tri thức của phê bình sinh thái để cắt nghĩa lý giải mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người trong Thơ mới. Từ đó khẳng định những
đóng góp của Thơ mới một cách đầy đủ, toàn diện hơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án của chúng tôi được thực hiện dựa trên sự khảo sát chính ở tuyển
tập: Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân (biên soạn),
1999, NXB Hội nhà văn, Hà Nội - (tập 1, tập 2 - 1401 trang).
Ngoài khảo sát các diễn ngôn phê bình sinh thái trong Thơ mới chúng tôi
cũng khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong văn học các giai
đoạn trước và sau nó, nhằm làm nổi bật cũng như rõ hơn sự khác biệt của mối
quan hệ trên trong Thơ mới.
4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên nền tảng của các tri thức nghiên cứu hiện đại trong khoa học xã
hội và nhân văn, dựa trên tri thức của phê bình sinh thái và những đặc trưng cơ
bản của bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra Thơ mới, chúng tôi lựa chọn các phương
pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hệ thống: Nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các yếu
tố cấu thành nên hệ thống, trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh thể sẽ
được bộc lộ rõ. Áp dụng phương pháp này, chúng tôi tiếp cận một cách hệ
thống các yếu tố cấu thành tạo nên chỉnh thể Thơ mới từ phương diện nội dung
và nghệ thuật từ đó cho thấy cái nhìn khái quát, tổng thể về Thơ mới dưới sự soi
chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.
3
- Phương pháp thống kê: Bằng quá trình thống kê chi tiết, cụ thể những
dấu hiệu sinh thái trong các sáng tác Thơ mới, phương pháp này giúp chúng tôi
phân loại, mô tả được tổng thể mối quan hệ giữa tự nhiên và con người cũng
như bao quát rõ hơn những yếu tố ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong các
tác phẩm Thơ mới.
- Phương pháp liên ngành: Luận án vận dụng kết quả của nhiều chuyên ngành
như: triết học, văn hóa học, tâm lý học, sinh học, sử học, địa lý, chính trị, đạo đức...
Bởi lẽ, phê bình sinh thái vốn dĩ là một phương pháp nghiên cứu mang tính liên
ngành. Kết hợp tri thức các ngành khoa học trên đề tài mong muốn hướng đến khái
quát một bức tranh đa diện về mối quan hệ tự nhiên và con người những năm 1932
– 1945 của giai đoạn Thơ mới ra đời và cũng để tránh cái nhìn đơn giản, một chiều
cho những kết luận rút ra trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Vận dụng phương pháp tiếp cận văn hóa
học trong nghiên cứu, luận án muốn đề cập đến vấn đề con người trong Thơ mới
nhìn từ góc độ văn hóa ứng xử với tự nhiên. Trong cách ứng xử giữa con người với
tự nhiên qua các giai đoạn văn học từ văn học dân gian sang văn học trung đại và
hiện đại đã có sự thay đổi do văn hóa cũng biến chuyển theo thời gian.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại cũng giúp
nhìn nhận rõ hơn tác giả, lịch sử văn học, giọng điệu...là những căn cứ chân
thực để soi rọi Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái.
- Phương pháp so sánh: Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong Thơ mới, luận án cũng tiến hành so sánh với văn học dân gian, văn
học trung đại và văn học hiện đại, đương đại nhằm tìm ra những nét tương
đồng cũng như khác biệt trong mối quan hệ trên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về Thơ
mới từ lý thuyết phê bình sinh thái.
Luận án đã tổng thuật, phân tích, đánh giá chi tiết, cụ thể các công trình
nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới và Việt Nam, chỉ ra vị trí và xu
hướng phát triển của phê bình sinh thái nước nhà trong thời gian hiện nay.
4
Luận án không nhằm trả lời Thơ mới có phải là văn học sinh thái hay
không mà chủ yếu chỉ ra những giá trị đa diện, ý nghĩa của Thơ mới dưới sự soi
chiếu của lý thuyết phê bình sinh thái.
Dưới lý thuyết phê bình sinh thái, luận án đã khám phá trên những bình
diện cơ bản về mối quan hệ con người và tự nhiên trong Thơ mới: Tự nhiên với
tư cách như một khách thể và như là chủ thể; Đồng thời, luận án đã khám phá
hệ thống ngôn ngữ sinh thái cùng biểu tượng cơ bản trong Thơ mới tiêu biểu là
biểu tượng vườn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án tập trung trả lời câu hỏi Thơ mới có thể đóng
góp gì cho phê bình sinh thái, tức là khi được xét trong trường hợp cụ thể là thơ
ca về thiên nhiên của Thơ mới thì phê bình sinh thái có thể cần phải bổ sung
điều gì; từ trường hợp của Thơ mới, có thể bình luận, bàn luận thêm gì về phê
bình sinh thái. Một lí thuyết của thế giới, được sinh ra trong một bối cảnh lịch
sử xã hội khác Việt Nam, khi đem quy chiếu đến thơ ca Việt Nam - vốn cũng
được ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội đặc trưng - chắc chắn sẽ có nhiều
điểm phát hiện mới, khám phá mới. Nghiên cứu Thơ mới từ góc nhìn phê bình
sinh thái để phần nào cho thấy sự mới mẻ này sẽ là một đóng góp về lí luận của
đề tài và Thơ mới vì thế cũng có thêm giá trị lí luận.
Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
và nghiên cứu về phê bình sinh thái cũng như muốn khám phá thêm những giá
trị của Thơ mới (1932 -1945).
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
chính của luận án gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận văn học
Chương 3: Những bình diện sinh thái của mối quan hệ tự nhiên và con
người trong Thơ mới
Chương 4: Ngôn ngữ và biểu tượng sinh thái trong Thơ mới
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Nghiên cứu phê bình sinh thái ở nƣớc ngoài
1.1.1.Phê bình sinh thái ở phương Tây
Cho đến nay phê bình sinh thái đã trở thành một xu hướng nghiên cứu liên
ngành và không ngừng mở rộng.Trên đại thể, phê bình sinh thái đã trải qua hai
giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất gắn với thời kỳ lãng mạn; Giai đoạn thứ hai là sự
gặp gỡ các diễn ngôn sinh thái và diễn ngôn hậu thực dân sinh thái. Đây là
hướng nghiên cứu văn học khởi nguồn từ Mỹ vào những năm 1960 - 1970 và
mở rộng ra các nước phương Tây. Phê bình sinh thái nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nếu như phê bình nữ quyền xem xét ngôn
ngữ với văn học dưới góc độ của ý thức về giới, phê bình Marxist đưa ý thức về
các hình thái sản xuất và các tầng lớp kinh tế vào việc đọc văn bản thì phê bình
sinh thái lại lấy cách tiếp cận lấy trái đất - tự nhiên làm trung tâm khi phân tích
tác phẩm văn học.
Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những
năm 70 của thế kỷ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của
văn học chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì
các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm sâu sắc đến mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học với môi trường. Cũng từ đây phê bình sinh thái trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu văn học được quan tâm trên thế giới.
1.1.1.1. Thời kỳ đầu
Năm 1973, Raymond Williams – học giả người Anh công bố cuốn Nông
thôn và thành thị (The country and the city). Đây là công trình được xem là
khởi đầu của nghiên cứu phê bình sinh thái ở nước Anh.Tác giả đã làm rõ mối
quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong văn học Anh từ lập trường của chủ
nghĩa chỉnh thể sinh thái. Ông đã chỉ rõ đó là mối quan hệ vừa chứa đựng sự
mâu thuẫn lại vừa thống nhất.
Năm 1985, Frederick O. Waage cho ra đời cuốn sách Dạy văn học môi
trường: tài liệu, phương pháp và tiềm năng phát triển (Teaching environmental
literature materials methods resources). Với “mục đích thúc đẩy mọi người
6
tăng cường quan hệ và hiểu biết sâu hơn về vấn đề môi trường trong văn học”
[143] cuốn sách đã như một gợi ý cho các giáo sư Mĩ mở các môn học liên
quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh vực này.
Năm 1989, tại Mỹ đã dành một bản tin có tên Bản tin sáng tác về đề tài tự
nhiên trong văn học Mỹ (The American nature writing newsletter) để đăng tải
những bài viết về phê bình sinh thái. Và cũng năm này, trong Đại hội “Hội văn
học miền Tây”, học giả Cheryll Glotfelty công bố báo cáo Vì một nền phê bình
văn học sinh thái (Toward an ecological literary criticism) và Lough với bài
Định giá lại tự nhiên: Vì một nền phê bình sinh thái học (Revaluing nature:
Toward and ecological criticism), với hai báo cáo nói trên các học giả đã góp
phần đề xướng và làm sống lại thuật ngữ phê bình sinh thái.
Năm 1990 đánh dấu sự ra đời bộ sách đồ sộ có tên Cuốn sách viết về tự nhiên
(The norton: book of nature writing) do Robert Finch và John Elder chủ biên.
Cuốn sách dày gần 1000 trang đã giới thiệu những tác phẩm quan trọng viết về tự
nhiên của các nhà văn Âu Mĩ từ thế kỉ XVIII. Đây có thể xem như là một tài liệu
quý bổ sung hữu ích cho người nghiên cứu tìm hiểu về văn học sinh thái.
Có thể nhận thấy, thời kỳ đầu những nghiên cứu về văn học và môi trường
đã bắt đầu được chú ý và ngày càng gia tăng trên thế giới. Song hầu như chỉ tập
trung vào các nghiên cứu ở Anh và Mỹ đặc biệt là miền Tây nước này. Nhiều
công trình tập trung viết về cái hoang dại, sự hiển linh của cá nhân, chỉ ra sự hài
hòa, cân bằng giữa con người với thiên nhiên – những thứ thực ra là do văn hóa
con người và ngôn ngữ con người tạo ra chứ không phải là thực tế thiên nhiên
có như vậy. Chính vì thế, các nhà phê bình sinh thái gọi đây là giai đoạn tụng ca
phê bình sinh thái.
1.1.1.2. Thời kỳ phát triển
Phê bình sinh thái ra đời ở Hoa Kì và bắt đầu phát triển mạnh vào những năm
90. Đặc biệt là sự ra đời của Hội nghiên cứu văn học và môi trường (The
Association for the study of study of literature and environment), gọi tắt là
ASLE được thành lập ở trường đại học Nevada Mĩ vào năm 1992. Đây là một
tổ chức học thuật phê bình sinh thái mang tính quốc tế, thường xuyên tổ chức
7
các cuộc thảo luận, xuất bản các tập san của hội, giới thiệu những thành quả phê
bình sinh thái mới nhất.
Năm 1993, tạp chí Nghiên cứu liên ngành văn học và môi trường
(Interdisciplinary studies in literature and environment) gọi tắt là ISLE ra đời.
Tạp chí sau đó trở thành cuốn sách học thuật có tính hạt nhân trong lĩnh vực
phê bình sinh thái, mỗi số đều có dung lượng hàng trăm trang. Cùng với sự ra
đời của ASLE, ISLE đã làm tăng tính học thuật cho các thành quả nghiên cứu
phê bình sinh thái.
Năm 1998, tại Luân Đôn, R. Kerridge và N. Sammells chủ biên tuyển tập
Viết về môi trường: Phê bình sinh thái và văn học (Writing the
environment:Ecocriticism and literature). Tác giả là những nhà phê bình sinh
thái Âu Mỹ đã giới thiệu phê bình sinh thái từ góc độ nhân văn, thể hiện nhiều
lập trường nghiên cứu của các nhà phê bình sinh thái.
Phê bình sinh thái phát triển thực sự mạnh mẽ và sâu rộng. Hàng loạt các
công trình nghiên cứu ra đời khiến văn học môi trường trở thành hiện tượng văn
học mang tính toàn cầu. Đặc biệt phê bình sinh thái còn trở thành môn học
trong nhiều trường đại học ở Anh và Mỹ. Đại học Naveda là trung tâm giảng
dạy và nghiên cứu văn học sinh thái của toàn nước Mỹ. Ở đây tập hợp nhiều
giáo sư, nghiên cứu sinh chuyên nghiên cứu văn học sinh thái. Bên cạnh đó là
các trường đại học như Virginia, Arizona, Georgia, Oregen….đều là cơ sở quan
trọng của phê bình sinh thái.
Năm 2000, cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái với sự
công bố hàng loạt công trình phê bình sinh thái xuất sắc như Tính đa ngành
trong nghiên cứu văn học viết về tự nhiên (Father afield in the study of nature –
oriented literature) của Patrick D. Murphy; Cuốn Chủ nghĩa môi trường trong
văn học Mỹ (American literary environmentalism) của David Mazel; Bài ca trái
đất (The song of the earth) của Jonathan Bate; Tuyển tập nghiên cứu xanh; từ
chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái (The green studies reader: From
romanticism to ecocriticism) của Laurence Coupe; Ý thức nơi chốn của Thoreau: Những tiểu luận về văn học môi trường Mỹ (Thoreau’s sense of pace:
Essays in American environmental writing) của Richard J. Schneider …Với sự
8
ra đời của rất nhiều các tác phẩm phê bình sinh thái nói trên đã cho thấy tiềm
năng phát triển của lĩnh vực nghiên cứu này.
Năm 2008, Scott Slovic cho xuất bản cuốn sách Đi xa để suy nghĩ: Nhập
thế, xuất thế và trách nhiệm của phê bình sinh thái (Going away to think:
Engagement, retreat, and ecocritical responsibility). Tại đây, tác giả đã đề xuất
trách nhiệm của sinh thái chính là sự dung hợp của hai luồng tư tưởng “nhập
thế” và “xuất thế”, nghĩa là nhà phê bình sinh thái cần tham gia vào việc hưởng
thụ tự nhiên nhưng cũng nêu cao tinh thần chăm sóc và bảo vệ tự nhiên.
Năm 2009, Peter Barry cung cấp thêm một công trình có đề cập đến một vấn
đề lý thuyết mới của phê bình sinh thái bao gồm các vấn đề như: chủ nghĩa nhân
văn tự do, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc… Lý thuyết nhập môn: Giới
thiệu về lý thuyết văn học và văn hóa (Beginning theory: An introduction to
literary and cultural theory). Cũng trong năm này nhiều chuyên luận đã đề cập đến
phê bình sinh thái đô thị như Tự nhiên của đô thị: Phê bình sinh thái và môi
trường đô thị (The nature of cities: Ecocriticism and urban environments)của
Michael Bennett và David W. Teague; Xem xét lại công viên đô thị: Không gian
công cộng và đa dạng văn hóa (Rethinking urban parks: Public space and cultural
diversity) của Setha Low, Dana Taplin và Suzanne Scheld.
Khởi nguồn ở Anh và Mỹ, phê bình sinh thái đã mở rộng nghiên cứu ra
toàn cầu. Nếu như phê bình sinh thái manh nha hình thành khoảng từ những
năm 70 của thế kỉ XX, phát triển mạnh khoảng từ năm 1990 đến năm 2007 thì
sang khoảng năm 2008 vẫn trên đà phát triển đó phê bình sinh thái đã có nhiều
sự chuyển hướng trong nghiên cứu, mở rộng nhiều hơn tới các vấn đề giới,
chủng tộc và giai cấp cũng như nhấn mạnh đến các góc nhìn liên văn
hóa…Điều đó càng chứng tỏ sự hứa hẹn phê bình sinh thái là một hướng nghiên
cứu phát triển và mang tính toàn cầu. Song trên hết, chúng ta phải thừa nhận ý
nghĩa đúng đắn của sứ mệnh phê bình sinh thái: “Góp phần thay đổi thái độ
nhân loại với tự nhiên”.[76]
1.1.2. Phê bình sinh thái các quốc gia ngoài phương Tây
Việc mở rộng kinh điển sinh thái để bao gồm tất cả các nền văn học trên
thế giới với sự đóng góp của các nhà phê bình toàn cầu được coi như là một cột
9
mốc gần đây nhất trong thực hành phê bình sinh thái. Mặc dù, thành viên của
Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) cho đến nay phần lớn là
các học giả nổi tiếng Anh, làm việc trên các văn bản tiếng Anh nhưng cũng đã
có những nỗ lực đáng chú ý nhằm khám phá các vấn đề môi trường và hướng
đến phê bình môi trường trong các truyền thống văn học ở Châu Á, đặc biệt là
Nhật Bản, Hàn Quốc, hay các nền văn học tiếng Hán. Nói cách khác, phê bình
sinh thái có gốc gác trong các tác phẩm lý thuyết cuối thế kỷ XX của Raymond
Williams ở Anh, Lawrence Buell ở Hoa Kỳ, Kate Rigby và những học giả khác
ở Úc nghiên cứu phê bình sinh thái cổ điển chủ yếu dựa trên văn bản tiếng Anh.
Phải đến bộ tuyển tập gần đây Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển tập có phê
bình: Các nền văn học, các nền văn hóa, và môi trường (East Asian
ecocriticisms: A critical reader (literatures, cultures, and the environment. New
York: Palgrave Macmillan, 2013) của S. Estok và W. Kim mới có chú ý tới các
tác phẩm văn học và nhà văn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung
Quốc. Bên cạnh đó, cuốn Mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn học
Đông Á (Ecoambiguity: environmental crises and East Asian literatures,
University of Michigan Press, 2012) của Karen Thornber phân tích khủng
hoảng môi trường trong văn học Đông Á, đặc biệt, cuốn sách tập trung phân
tích vào văn học mang tính sinh thái của toàn bộ khu vực này từ thời cổ điển
cho đến hiện tại. Bà nhấn mạnh đặc tính “nước đôi” hay là sự “nghịch lí” trong
các xã hội Đông Á, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, trong quan niệm
của họ về tự nhiên. Bà đưa ra một ví dụ về việc song hành tôn kính thiên nhiên và
việc khai thác hay bóc lột thiên nhiên trong văn hóa các nước Đông Á. Cái nghịch lí
sinh thái đó tiếp tục thách thức các xã hội trên toàn thế giới [139]. Cuốn Phê bình
sinh thái Đông Nam Á: Lí thuyết, thực hành và triển vọng (Southeast Asian
Ecocriticism: Theories, practices, prospects, Maryland: Lexington Books, 2018) do
John Ryan biên tập bao gồm các bài viết phân tích các tác phẩm văn học các nước
Đông Nam Á từ góc nhìn của phê bình sinh thái.
Còn nữa, trên thế giới đã có vô số các công trình nghiên cứu tập trung khai
thác văn học của các khu vực phi phương Tây và thuộc nhiều thời kì khác nhau
từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra đây bài viết nghiên cứu của Scott
10
Slovic, người sáng lập Hội văn học và môi trường thế giới, Phong cảnh trong
phê bình sinh thái và văn học môi trường Trung Quốc: Sự xuất hiện của một
nền văn minh sinh thái mới (Landmarks in Chinese ecocriticism and
environmental literature:the emergence of a new ecological civilization) đăng
trên tờ Khoa học xã hội Trung Quốc ngày nay (Chinese social sciences today
press) số ra ngày 31/7/2013. Bài viết tập trung phân tích các vấn đề sinh thái,
thế giới môi trường trong truyền thống thơ Trung Quốc - từ thơ Đường cho đến
thơ hiện đại, thơ đương đại Trung Quốc. Trong bài viết, tác giả đề cập đến một
loạt các trung tâm nghiên cứu và hội thảo nghiên cứu văn học, văn hóa qua các
thời đại của Trung Hoa từ góc độ phê bình sinh thái.
Thú vị hơn là đã có nhiều công trình nghiên cứu các tác phẩm văn học cổ
đại của Ấn Độ, như sử thi Ramayana, từ góc độ phê bình sinh thái. Có thể kể ra
đây cuốn sách Phê bình sinh thái và sử thi Ramayana của Tulsidasa (LAP
Lambert Acad. Publ., 2011) của Pankaj Sharma, bài nghiên cứu Phê bình sinh
thái trong các truyền thống phương Tây và phương Đông (IUP Journal of
English Studies Vol. 7, No. 1, March 2012) của Mishra, Raj Kumar nghiên cứu
tác phẩm của Kalidasa và Valmiki từ lăng kính của phê bình sinh thái. Học giả
Aiyer, K. R. có một loạt bài viết nghiên cứu sử thi Mahabharata từ góc nhìn
sinh thái, đó là bài nghiên cứu Đạo trong Mahabharata như là cách phản ứng
đối với sự khủng hoảng môi trường: một dự đoán (Dharma in the Mahabharata
as a response to ecological crises: A speculation. The Trumpeter, số 9 năm
2009) và bài viết Một cái nhìn sinh thái xã hội về vài đoạn trong sử thi
Mahabharata (A social ecological perspective on some episodes from the
Mahabharata, Indian Journal of Eco-criticism 2 năm 2009).
Trong bài viết gây tiếng vang Quá trình xanh về sự phản kháng trong thơ
Ả rập: Diễn giải một số bài thơ Ả rập chọn lọc từ góc độ phê bình sinh thái
(Greening of resistance in Arabic poetry: An ecocritical interpretation of
selected Arabic poems, The Southeast Asian Journalof English Language
Studies – Vol 21(1): 13 – 22), Hamoud y’ahya Ahmed phân tích một số bài thơ
Ả rập từ lăng kính phê bình sinh thái để khám phá cách thức môi trường tự
nhiên là một lực định hình cá thể và góp phần vào sự xanh hóa phong trào phản
11
kháng thông qua các cộng đồng sinh học trong thế giới Ả rập. Tiền đề của bài
báo xuất phát từ những khẳng định của phê bình sinh thái gần đây về ranh giới
linh hoạt mềm dẻo, có thể tràn qua được, của lĩnh vực này và về khả năng ứng
dụng của nó như là một lăng kính mà qua đó chúng ta có thể đọc bất cứ văn bản
văn học nào. Bài viết tập trung vào các bài thơ Ả rập để xem xem các nhà thơ
Ả rập đã gắn bó với môi trường tự nhiên và được thể hiện ra sao trong các bài
thơ của mình. Bài viết dựng lại việc những nhà thơ Ả rập đã nỗ lực như thế nào
để biểu hiện theo kiểu sinh thái về sự phản kháng trong thơ Ả rập. Từ đó, bài
viết kết luận về sự hiện diện sâu sắc và gắn bó của thế giới tự nhiên trong việc
miêu tả những phản kháng của con người đối với việc lấn chiếm đất đai.
Sự phát triển của phê bình sinh thái ở các nước bên ngoài phương Tây thể
hiện rõ nhất ở việc xuất hiện các hội văn học và môi trường ở các nước như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, và Trung Quốc. Các nhánh của ASLE đã được
thành lập tại Nhật Bản, Anh, Úc/New Zealand, Hàn Quốc, Ấn Độ và Đài Loan,
với các hiệp hội liên kết ở Châu Âu và Canada. ASLE đã tổ chức lần đầu tiên
hội nghị bên ngoài Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2017 tại Victoria, British
Columbia. Điều này có nghĩa, ở bên ngoài trung tâm Anh và Mỹ đã hình thành
nhánh hay trường phái phê bình riêng của họ và được hàm ẩn ở các cụm từ,
đồng thời cũng là tiêu đề của nhiều bài báo, nhiều công trình sách học thuật như
“Phê bình sinh thái Nhật Bản”, “Phê bình sinh thái Trung Quốc”, “Phê bình
sinh thái Đài Loan”, v.v… (mà không phải là “Phê bình sinh thái ở Nhật Bản”,
“Phê bình sinh thái ở Trung Quốc” hay “Phê bình sinh thái ở Đài Loan”). Điều
đó có nghĩa, đây là những nhánh phê bình sinh thái và chúng có những đặc
trưng riêng cho từng nền văn hóa, từng nền văn học cũng là phê bình sinh thái
của riêng nền văn hóa, nền văn học đó. Cụ thể, các nhóm hay nhánh phê bình
sinh thái này dù là xuất phát từ truyền thống, niềm tin của người bản địa về mối
liên hệ giữa văn chương và thiên nhiên thì chỉ trở thành một lí thuyết phê bình
văn học khi được tiếp nhận từ Hoa Kì và Anh quốc từ những năm 1990. Và
điều này cấu tạo nên lịch sử đặc trưng của các nhánh phê bình sinh thái đó:
chúng có những giai đoạn chuyển biến, chúng gắn với nền văn học và với tình
hình chính trị, xã hội và lịch sử bản địa.
12
Nhưng, với các nhà lí thuyết phê bình sinh thái, mặc dù phê bình sinh thái
đã có những “mầm chồi” hiện đang mọc lên trên khắp hành tinh và “nhiều chồi
đã ra hoa” [106, 108] ở bên ngoài Anh - Mỹ, nhưng có một số câu hỏi cơ bản
được giải quyết, trong đó phổ biến nhất là các câu hỏi: Liệu lý thuyết và thực
hành phê bình sinh thái có được hiểu ở các nước bên ngoài Anh - Mỹ giống như
là ở Anh - Mỹ? Những khái niệm trung tâm của phê bình sinh thái như thiên
nhiên, đồng quê, hoang dã có nghĩa giống với các khái niệm đó trong phê bình
sinh thái ở Mỹ và Anh? Thách thức nào đặt ra trong việc dịch các thuật ngữ và
các khái niệm của phê bình sinh thái sang các ngôn ngữ và văn hóa khác? Việc
nghiên cứu các truyền thống văn hóa và văn học không phải tiếng Anh có làm
thay đổi hay có tác động gì đối với hình thức phê bình sinh thái ở Anh - Mỹ vốn
chủ yếu dựa trên nền văn hóa, văn học bằng tiếng Anh? Và liệu việc nghiên cứu
phê bình sinh thái ở các nền văn hóa, văn học không phải tiếng Anh có thể đem
lại một diện mạo mới cho lí thuyết phê bình thái để không bị trói buộc vào ngôn
ngữ tiếng Anh và mô hình văn học và văn hóa Anh - Mỹ?[106, 108 -122].
Phần sau của chương này nói riêng và các phần tiếp theo của cả luận án
nói chung hi vọng góp phần giải đáp lại phần nào các câu hỏi trên của các nhà lí
thuyết phê bình sinh thái. Điều đó có nghĩa, việc khảo sát phê bình sinh thái ở
Việt Nam cũng như việc tiếp cận Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái ở đây
được đặt trong mối tương quan với các câu hỏi về sự phát triển của phê bình
sinh thái trên thế giới.
1.2. Nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam
1.2.1. Cây cối, con vật và những khủng hoảng môi trường trong nghiên
cứu văn học ở Việt Nam
Nằm trong xu hướng “trổ mầm” và “nở hoa” của phê bình sinh thái ở các
nước bên ngoài Anh - Mỹ, phê bình sinh thái cũng xuất hiện và phát triển ở
Việt Nam như là một hướng tiếp cận văn học. Người viết sẽ khảo sát các tài liệu
về phê bình sinh thái Việt Nam và những công trình dịch, tổng thuật, giới thiệu,
viết về lí thuyết phê bình sinh thái để xác định vị trí của phê bình sinh thái trong
nghiên cứu văn học sinh thái nói riêng và trong đời sống nghiên cứu văn học
nói chung ở nước nhà. Việc khảo sát tài liệu ở đây bao gồm việc tổng hợp, phân
13
tích, diễn giải các tài liệu thứ cấp cùng các công trình dịch và viết về phê bình
sinh thái ở Việt Nam. Cụ thể, các tài liệu được khảo sát là các công trình phân
tích văn học từ góc độ phê bình sinh thái, các tài liệu diễn giải về phê bình sinh
thái bằng tiếng Việt. Loại của tài liệu được khảo sát bao gồm sách, bài tạp chí
đăng trên báo giấy, bài tạp chí trên báo điện tử, các luận văn thạc sĩ, các luận án
hướng đến lí thuyết phê bình sinh thái hay nghiên cứu văn học Việt Nam với sự
tập trung toàn bộ hay phần nào đó vào các phương diện môi trường của các tác
phẩm. Tổng số tài liệu nghiên cứu văn học Việt Nam về phê bình sinh thái từ
góc độ lí thuyết là 27 bài (Bảng 1 đính kèm) và ứng dụng nghiên cứu phê bình
sinh thái được khảo sát bao gồm 77 tài liệu (Bảng 2 đính kèm).
Qua khảo sát hai bảng, người viết nhận ra hướng tiếp cận văn học trong
mối liên quan đến môi trường ở Việt Nam có sự tương hợp với nội dung của
phê bình sinh thái ở giai đoạn thứ nhất, đó là sự quan tâm đến quang cảnh thiên
nhiên, đến sự đối lập giữa văn hóa (đô thị - hiện đại hóa) với thiên nhiên (đồng
quê - hoang dã). Điều thể hiện này cũng là nguyên nhân ở sự tiếp nhận phê bình
sinh thái Việt Nam (dịch thuật, tổng thuật) chủ yếu hướng tới nội dung thiên
nhiên của phê bình sinh thái cổ điển.
Cụ thể, bảng 1 cho thấy phê bình sinh thái đã được giới thiệu (dịch thuật,
tổng thuật), phân tích (các bài viết mang tính lí luận) ở Việt Nam, dù không
sớm nhưng khá dồi dào và cập nhật. Công trình Phê bình sinh thái – cội nguồn
và sự phát triển của tác giả Đỗ Văn Hiểu năm 2012 là một bản tổng hợp dịch
thuật công phu từ tiếng Trung có tên Tuyển tập văn luận văn học sinh thái
Trung Quốc và thế giới của nhiều tác giả. Trong bản tổng thuật này, Đỗ Văn
Hiểu giúp cho độc giả Việt Nam hiểu thêm những định nghĩa kinh điển của
phương Tây về phê bình sinh thái, đó là định nghĩa của Cheryll Glotfelty, Karl
Kroeber, Jonathan Levin, và Donald Worster. Trên cơ sở các định nghĩa về phê
bình sinh thái của các học giả, cuốn sách có những lược thuật sự phát triển,
phân tích cội nguồn tư tưởng sâu xa của phê bình sinh thái. Quan niệm con
người sống hài hòa với tự nhiên được người dịch nhấn mạnh có gốc gác từ quan
điểm triết học cổ đại đến các các học giả của trào lưu lãng mạn Phương Tây và
14
các nhà sinh vật học, các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt tư tưởng
sinh thái phương Đông cổ đại.
Năm 2015, Đỗ Văn Hiểu tiếp tục công bố bản dịch Văn học sinh thái và lí
luận phê bình sinh thái, dịch từ cuốn Đương đại tây phương tối tân văn luận
giáo trình của Vương Nhạc Xuyên. Bản dịch đã góp phần chỉ ra nguyên nhân
xuất hiện của văn hóa sinh thái chính là do từ sự mất gốc của văn hóa hiện đại
và căn bệnh của chủ nghĩa tiêu dùng. Đồng thời chỉ ra tính thực tiễn của văn
hóa sinh thái. Thông qua bản dịch chúng ta thấy tác giả bài viết cũng miêu tả tỉ
mỉ quỹ tích phát triển của lí luận sinh thái và chỉ ra được 6 đặc trưng cơ bản của
phê bình sinh thái và khẳng định “Tóm lại, phê bình sinh thái coi quan hệ giữa
văn học và môi trường tự nhiên là lĩnh vực nghiên cứu của mình, một mặt nó
buộc phải nghiên cứu “tính văn học”, mặc khác lại phải tiếp cận vấn đề “tính
sinh thái”[85, 6]. Trong bài viết khác như Phê bình sinh thái khuynh hướng
nghiên cứu văn học mang tính cách tân (2012), Tính “khả dụng” của phê bình
sinh thái (2016), Phê bình sinh thái ở Trung Quốc nhìn từ Việt Nam (2017), tác
giả đã làm rõ phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu văn học mang tính
cách tân trên nhiều phương diện, trước hết đó là sự cách tân về tư tưởng nòng
cốt. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra rằng phê bình sinh thái mang một sứ mệnh
mới là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán văn hóa, chỉ ra căn
nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. Đồng thời phê bình sinh
thái cũng được xây dựng trên nguyên tắc mĩ học riêng, chủ trương của mĩ học sinh
thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên. Sự tập hợp này cho thấy các
công trình lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam đã bao phủ một cách toàn diện
và cập nhật quan điểm của học giả phương Tây về sự phát triển (liên ngành, sự
phát triển bên ngoài phương Tây, và sự mở rộng đến các vấn đề bên ngoài thiên
nhiên đến các vấn đề nữ quyền, hậu thuộc địa) của phê bình sinh thái. Đặc biệt,
qua các công trình nghiên cứu nêu trên, điểm chung nhất là các tác giả đều cố gắng
xác lập lý thuyết về phê bình sinh thái, bước đầu chỉ ra phương pháp nghiên cứu và
định hướng thực hành phê bình sinh thái. Đặc biệt các học giả đều nỗ lực cổ vũ
ứng dụng, nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam bởi phê bình sinh thái có
nhiều tiềm năng để khai thác hay mang tính cách tân và có tính khả dụng cao trong
15
nghiên cứu hiện nay. Có thể thấy, những công trình dịch thuật về phê bình sinh
thái của Đỗ Văn Hiểu là một sự “đánh động” hay là một sự mời gọi hấp dẫn đối
với tư duy về nghiên cứu văn học đã có ở Việt Nam để từ đó sẵn sàng đón nhận
một hướng tiếp cận văn học mới.
Đến cuốn Phê bình sinh thái là gì ? (2017) do Viện văn học chủ trương
xuất bản, phê bình sinh thái ở Việt Nam đã được tiếp cận với diện mạo đa dạng.
Cuốn sách mang tính biên dịch đã tập hợp các bản dịch và tổng thuật một số
công trình khoa học của các nhà phê bình sinh thái uy tín trên thế giới nhằm
góp phần giới thiệu phê bình sinh thái một cách có hệ thống với bạn đọc trong
nước đồng thời tổng quát và cập nhật các quan điểm phê bình sinh thái của các
nhà lí luận phê bình sinh thái phương Tây. Hầu hết các bản dịch đã tổng quan
về văn học sinh thái và phê bình sinh thái từ nguyên nhân hình thành, cội nguồn
tư tưởng và lịch sử phát triển, các bản dịch cũng góp phần giới thiệu những nhà
nghiên cứu trong và ngoài khu vực về diễn ngôn môi trường, thiên nhiên trong
văn chương Đông Á.
Qua các bản dịch và tổng thuật ở đây, có thể thấy rằng nội dung được tiếp
nhận của phê bình sinh thái ở Việt Nam chủ yếu là mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên. Theo đó, các vấn đề liên quan đến sự hòa hợp của thiên nhiên
được nhấn mạnh và quan tâm nhất. Phải đến cuốn sách do Viện văn học thực
hiện, những chuyển biến gần đây của phê bình sinh thái – hướng tới các vấn đề
thuộc chính trị, xã hội, lịch sử - mới được giới thiệu. Vì vậy, sự liên đới giữa
môi trường và vấn đề giai cấp, nữ quyền, dân tộc, được quan tâm về mặt lí
thuyết. Và điều này hứa hẹn một xu hướng áp dụng và phát triển phê bình sinh
thái mới ở Việt Nam.
Về sự tiếp cận văn học Việt Nam từ góc độ phê bình sinh thái, bảng 2 cho
thấy thiên nhiên là một phương diện quan trọng trong tiểu thuyết, truyện ngắn
và thơ ca Việt Nam, bao gồm cả văn học dân gian, văn học trung đại, văn học
hiện đại và đương đại. Tức là văn học giờ đây được các nhà nghiên cứu Việt
Nam, với góc nhìn của phê bình sinh thái cổ điển, nhìn nhận trong sự liên hệ
với cây cối, chim muông, hoa lá. Điều này có thể thấy rõ qua cuốn kỉ yếu Hội
thảo quốc tế Phê bình sinh thái: tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (NXB
16
Văn học, 2017). Đây là một hội thảo tầm cỡ chuyên sâu về phê bình sinh thái
thu hút nhiều học giả trong và ngoài nước tham gia. Với gần 90 bài tham luận
được in trong kỷ yếu hội thảo đã cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của giới
nghiên cứu về phê bình sinh thái. Qua khảo sát, có thể nhận ra các bài viết tập
trung đọc những phương diện của sinh thái môi trường trong đa dạng các thể
loại văn học (thơ, kịch, văn xuôi), các loại hình nghệ thuật (văn học, điện ảnh,
âm nhạc), ở nhiều thời kì (dân gian, trung đại, hiện đại và đương đại). Đối
tượng khảo sát là văn học Việt Nam, khám phá phương diện sinh thái, môi
trường trong văn học dân gian như Biểu tượng lúa trong thần thoại và nghi lễ các
dân tộc thiểu số Việt Nam (Tiếp cận từ góc độ sinh thái học nhân văn) của Nguyễn
Huy Bỉnh...; trong văn học trung đại Sáng tác của Trần Nhân Tông dưới góc nhìn
phê bình sinh thái của Trần Thị Nhung...; trong văn học hiện đại như Mối quan hệ
giữa con người với môi trường sinh thái trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945 của Trần Mạnh Tiến...,văn học đương đại Người nông dân trong văn xuôi
Việt Nam đương đại từ góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt...
Các học giả Việt Nam cũng tiếp cận văn học nước ngoài từ góc nhìn phê bình sinh
thái. Đó là Phạm Phương Chi với bài Phê bình sinh thái như là một nội dung của
phê bình hậu thuộc địa – Đọc tiểu thuyết Thủy triều đói (the Hungry Tide, 2005
của Amitav Ghosh; Vua gấu xám của James Oliver Curwood và vấn đề giáo dục ý
thức sinh thái cho trẻ em của Lê Trà My...
Phân tích sâu hơn vào bảng 2 cho thấy, các công trình lấy đối tượng là văn
học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại làm chất liệu nghiên cứu thì
hướng tiếp cận chủ yếu theo phê bình sinh thái ở làn sóng thứ nhất. Đó là những
khám phá về sự hòa hợp và sự tôn trọng giữa con người và tự nhiên. Cụ thể, đó
là các công trình khám phá câu chuyện bọc trăm trứng, biểu tượng lúa trong
thần thoại, cảnh sinh hoạt trong sử thi từ góc độ sinh thái, motif hôn nhân
người - vật trong truyện cổ tích (Đinh Hồng Hà, Nguyễn Huy Bỉnh, Lê Ngọc
Bính, Dương Nguyệt Vân) để tìm hiểu mối quan hệ “vạn vật hữu linh” như là
một tiền đề của cảm quan sinh thái trong đời sống dân gian Việt Nam. Ngay cả
các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du
cũng được các học giả Việt Nam như Hoàng Trọng Quyền, Trần Thị Thanh
17
Nhị, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thanh Tú, Đoàn Thu Vân, Trần Thị
Nhung đọc như là những văn học thiên nhiên (nature writing) với hệ sinh thái
bao gồm các lớp động vật, thực vật đặc trưng và những hàm ẩn về sự chan hòa
và trân trọng thiên nhiên.
Sự phân tích sâu hơn của các công trình nghiên cứu, phê bình văn học Việt
Nam với sự tập trung vào vấn đề môi trường (như tóm tắt trong bảng 2) cho
thấy thiên nhiên là một lĩnh vực được quan tâm chú ý trong các sách học thuật,
các luận văn và các bài tạp chí. Với cụm từ “từ góc nhìn phê bình sinh thái”
xuất hiện trong hầu hết tiêu đề của các công trình nghiên cứu đã cho thấy thiên
nhiên trong các tác phẩm văn học Việt Nam được nhìn nhận trong một lăng
kính khác, không còn là đối tượng để khai thác, hay như là một nguồn tài
nguyên, như là một cái phông nền để con người thể hiện sức mạnh chinh phục.
Thay vào đó, với công cụ là lí thuyết phê bình sinh thái, các tác giả Việt Nam
dường như đã đặt câu hỏi: có hay không cây cối, con vật hay thiên nhiên nói
chung trong tác phẩm văn học được khai thác và vai trò trung tâm của các yếu
tố thiên nhiên ấy trong những tác phẩm văn học.
Nói đúng hơn, trong các công trình nghiên cứu của mình, các học giả Việt
Nam đã đặt thiên nhiên là nhân vật trung tâm, là chìa khóa để nhìn nhận các
mối quan hệ chủ đề khác của tác phẩm. Ví dụ, công trình luận án tiến sĩ Con
người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình
sinh thái (2015) của Trần Thị Ánh Nguyệt chứng minh sau năm 1975, đặc biệt
là sau năm 1986 có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái ở Việt Nam. Tác giả
chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu hướng văn học có
tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách tân nghệ
thuật. Tác giả khảo sát hai bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái cho
văn chương đương đại, đó là cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và xác
lập đạo đức sinh thái. Bài viết Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần
Duy Phiên của Nguyễn Thị Tịnh Thy trên Tạp chí Sông Hương, số 317, tháng
07 năm 2015 phân tích cuộc đối đầu giữa con người và côn trùng (kiến, mối,
nhện); trong cuộc chiến đó, như tác giả diễn giả, con người tự mãn sẽ thuần
hóa, trừng trị những côn trùng nhỏ bé; ngược lại, con người lại thất bại thảm
18
hại, từ đó đặt ra vấn đề giải cấu trúc nhân loại trung tâm. Bài viết Bước đầu tìm
hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh thái (2016)
đăng trên Vietvan.vn của Đại học Văn hóa Hà Nội, đã chỉ ra sự thất bại của con
người trước tự nhiên, mặc dù con người luôn khát khao chinh phục. Hay bài
viết Sinh thái môi trường trong văn xuôi Đoàn Giỏi trên Tạp chí khoa học Đại
học Văn Hiến, tập 5, số 1 năm 2017 của Nguyễn Thị Quế Vân và Lâm Hoàng
Phúc khảo sát con người và tự nhiên trong các tác phẩm Những chuyện lạ về cá,
Rừng đêm xào xạc; Đất rừng phương nam của Đoàn Giỏi. Nghiên cứu chỉ ra
thông điệp trong văn chương Đoàn Giỏi là sự thay đổi trong nhận thức về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên, từ quan niệm “nhân loại trung tâm luận”
sang xác lập quan niệm “tự nhiên trung tâm luận”. Trần Văn Toàn đã phân tích
truyện ngắn Một lần đối chứng, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh của
Nguyễn Minh Châu và truyện Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp để khẳng
định luận điểm giải nhị phân người/tự nhiên đã khiến con – người trở thành đối
tượng của sự miêu tả trong văn học. Như vậy nhân tính đã được kiến tạo từ
điểm nhìn của tự nhiên và như thế con người hoàn toàn có thể lắng nghe, thấu
cảm sự lên tiếng của tự nhiên Giải nhị phân người/tự nhiên và diễn ngôn mới về
nhân tính (“Đọc những truyện ngắn về tự nhiên của Nguyễn Minh Châu và
Nguyễn Huy Thiệp”), Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu
(Nhà xuất bản Văn học, 2017)).
Có thể nói, với lăng kính của phê bình sinh thái, các học giả nước nhà đã
khám phá vị trí làm chủ thể của thiên nhiên trong mối quan hệ với con người trong
văn học Việt Nam. Đây là một hướng đi mới trong phê bình, nghiên cứu văn học
trên một đối tượng vốn thường được nhìn nhận như là một cấu trúc ngôn từ, nơi
khám phá thế giới con người với tất cả những phức tạp, tinh vi của nó.
Nhấn mạnh vị trí trung tâm của thiên nhiên, môi trường sinh thái trong các
công trình nghiên cứu cho thấy sự lan tỏa của cái nhìn phê bình sinh thái trong
đời sống văn chương ở Việt Nam. Một điểm nổi bật khác có thể nhận ra trong
việc nghiên cứu văn học, cụ thể hơn, từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam là
sự đối lập giữa con người và thiên nhiên – một luận điểm trung tâm của phê
bình sinh thái ở làn sóng đầu. Có thể kể đến Nguyễn Đăng Điệp với bài viết
19
Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa in trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại
tiến trình và hiện tượng, (NXB Văn học, Hà Nội, 2014, tr 31- 46): tác giả tìm
hiểu tấm mạng sinh thái: bức tranh phong cảnh thiên nhiên với tư cách Mẹ và
vẻ đẹp thanh tân; bức tranh làng quê; nơi chốn (bầu trời, mặt đất, con đường,
dòng sông, ánh trời chiều, ánh trăng thanh); vườn (đặc trưng vẻ đẹp vùng miền,
là chốn cư ngụ, là không gian tinh thần). Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài: Thiên
nhiên – nguồn cảm hứng bất tận của văn chương Phương Đông in trên (Tạp chí
khoa học ĐHSP TPHCM, số 60 - 2014) khám phá thiên nhiên trong thơ ca
Phương Đông (cỏ cây, hoa lá, động vật...), ở đó con người và thiên nhiên sống hài
hòa, giao cảm. Nhã Thuyên với bài viết Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn
Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn (Toquoc.vn, 2/12/2018) tìm hiểu hệ sinh thái
trong thơ Mai Văn Phấn: bầu trời, linh hồn...; sự hài hòa giữa con người và tự nhiên
bao bọc xung quanh cuộc sống. Tác giả Trần Mạnh Tiến với bài viết Mối quan hệ
giữa con người với môi trường sinh thái trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 in trong Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (Nhà xuất
bản Văn học, 2017) khám phá thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sự sống, tràn đầy mĩ
cảm trong văn xuôi hiện đại Việt Nam: đó là thiên nhiên nhiều màu sắc (bờ cỏ xanh
non, cánh rừng nhấp nhô, hoa trái rực rỡ, nắng vàng lấp lánh...); đủ các âm thanh
(chim kêu ríu rít: chim gõ kiến, chim gầm nhì; chim họa mi; chim cu, chim bạc má,
sáo, yểng, vẹt, tiếng côn trùng rủ rỉ...). Tác giả đặc biệt đi sâu khai thác hình ảnh
thiên nhiên hoang sơ, huyền ảo (núi rừng, hang động, sông suối, cây cỏ, hoa lá, chim
muông, khí hậu, thời tiết...) đó là những vận động không ngừng của sự sống trong
Truyện đường rừng.
Cũng trong cuốn Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn
cầu, tác giả Hồ Thế Hà bài viết Những tiêu điểm thẩm mỹ thơ Trịnh Công Lộc
nhìn từ quan hệ sinh thái , tác giả Văn Giá Thơ của niềm “trinh tĩnh” đầu
nguồn, tác giả Phạm Phương Mai Cảm quan sinh thái trong ca từ Trịnh Công
Sơn, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương, Nguyễn Thị Linh Chi Sự thức tỉnh ý thức
sinh thái trong sáng tác cho thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Thuần... đều tập trung
khai thác xu hướng tiếp cận giải lịch sử (dehistoricized approach) đối với "thiên
nhiên", họ bỏ qua các phương diện chính trị và lí thuyết để hướng tới một cách
20
tiếp cận đầy hân hoan với văn học viết về cái hoang dã và về thiên nhiên. Hồ
Thế Hà phân tích hình ảnh thiên nhiên (đại ngàn, biển, than, đá và nước, rừng
đảo, ..) mang bức thông điệp về tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Trịnh
Công Lộc. Trong khi đó, Văn Giá khám phá hình ảnh làng quê (vườn chè, vạt
mía, bờ vườn, rừng trăng, cánh đồng, bó lạt, lưỡi hái, cánh đồng, dòng sông,
đống dấm, ...); ( rau dền gai, rau sam tím, sên đen, đom đóm ma, con trâu, con
cua càng, con dế mèn..) thiên nhiên như một sinh quyển – thi quyển với số
lượng lớn, phổ khắp tràn đầy trong thơ Trần Hùng. Còn Nguyễn Thị Hải
Phương và Nguyễn Thị Linh Chi phân tích các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Thuần, nhận ra thế giới thiên nhiên như khu vườn, loài hoa cánh đồng, khu
rừng, dòng sông; con dế, con thằn lằn, con gà, con nhện...hiện lên trong truyện
Nguyễn Ngọc Thuần viết cho thiếu nhi; các tác giả tập trung vào cách nhà văn
tạo dựng thế giới trong lành, tươi mát, đầy sức sống; thiên nhiên là bạn với trẻ
thơ, trẻ nâng niu, bảo vệ tự nhiên. Và Phạm Mai Phương phân tích lời bài hát
của Trịnh Công Sơn, từ đó nhận ra một thế giới quan mà ở đó các hiện tượng
thiên nhiên như giọt sương, giọt mưa, nụ hoa đều có linh hồn và con người
muốn trở về với tự nhiên, với nguồn cội thuần khiết.
Có thể thấy rõ các học giả Việt Nam khám phá văn học Việt Nam từ góc
nhìn phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là cái nhìn có nguồn gốc sâu xa
từ sinh thái bề sâu (deep ecology), nó gắn liền với sự bảo vệ và bảo tồn thiên
nhiên. Các tác giả đề cao sự ổn định tĩnh tại của thiên nhiên và mối quan hệ
biện chứng của nó với con người; họ nhận ra và đề cao khái niệm mang tính
phổ quát toàn vũ trụ về thiên nhiên và tập trung vào các văn bản viết về thiên
nhiên, cây cối một cách hiển lộ.
1.2.2. Văn học và công lí môi trường trong nghiên cứu phê bình sinh thái ở
Việt Nam
Phần này của chương sẽ nói về sự hiện diện của phê bình sinh thái trong
đời sống nghiên cứu văn học ở Việt Nam như là một biểu hiện của phê bình
sinh thái ở làn sóng thứ hai. Phê bình sinh thái tiếp tục ở làn sóng thứ hai có
một đặc trưng là rời xa châu Âu trung tâm luận, hướng tới khám phá văn bản
thuộc thế giới bên ngoài châu Âu; phê bình sinh thái trở thành một hướng tiếp
21
cận văn học phi phương Tây của các học giả phương Tây và ở ngoài phương
Tây. Một đặc trưng của phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai là việc hướng tới
các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử.
Cụ thể, ở Việt Nam, trước và sau khi Hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái Tiếng
nói bản địa, Tiếng nói toàn cầu do Viện văn học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam) tổ chức (tháng 12 năm 2017), một loạt các công trình phê bình sinh thái ở
Việt Nam xác định các mối bận tâm thuộc con người trong mối quan hệ với môi
trường sinh thái: đó là vấn đề môi trường đô thị và khu vực cận đô thị trong các văn
bản văn học thuộc tất cả các thể loại chứ không chỉ là văn học chuyên viết về thiên
nhiên và sự hoang dã. Các học giả Việt Nam không còn nhìn nhận con người và
thiên nhiên đối lập nhau mà cho rằng con người là một bộ phận trong chu trình thiên
nhiên, do đó, mọi sự biến đổi của đời sống con người sẽ tác động đến thiên nhiên.
Hàm ẩn trong những luận điểm mang tính phản biện và phân tích về môi trường của
các học giả Việt Nam qua các công trình, dường như là mối âu lo và nặng lòng về
vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên trước sự hủy hoại của thiên nhiên do tác động
của quá trình văn minh hóa.
Góp phần làm nên sự đồng vọng của phê bình sinh thái ở Việt Nam với làn
sóng thứ hai của phê bình sinh thái thế giới được thể hiện trong hội thảo và trên các
diễn đàn học thuật (báo, tạp chí) là nghiên cứu của Đặng Thị Thái Hà, Trần Thị Ánh
Nguyệt, Nguyễn Thùy Trang, Hỏa Diệu Thúy, Lê Thị Hường, Đinh Trí Dũng-Lê
Thanh Nga, Hoàng Tố Mai, Nguyễn Hương Thủy, Đỗ Hải Ninh với những khảo sát
văn xuôi Việt nam đương đại trong mối liên hệ với các vấn đề môi sinh, môi trường,
đất đai do quá trình phát triển Việt Nam theo hướng hiện đại hóa, văn minh hóa. Ví
dụ, Đặng Thị Thái Hà đã đọc tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Ngọc Tư nêu lên luận điểm về sự thất bại của con người trước tự nhiên,
mặc dù con người luôn khát khao chinh phục, trong đó ở không gian thôn dã, người
nông dân chán ruộng đồng, chối bỏ chốn đồng quê, vì lợi ích trước mắt con người
phá hủy không gian làng mạc; sự phát triển đô thị và hiểm họa của quá trình đó đối
với môi trường sống; đô thị hóa gắn với ánh sáng, tiện nghi, vật chất nhưng nó gắn
với sự ngột ngạt, tù túng; điều này đối lập với không gian hoang dã, rừng núi mênh
mông, tự do, khoáng đạt.
22
Đặc biệt, bài viết Mơ hồ sinh thái và sự chất vấn những ảo tưởng du lịch
sinh thái trong văn xuôi đương đại – Trường hợp Nguyễn Ngọc Tư, 2017, Đặng
Thị Thái Hà đã từ lý thuyết mơ hồ sinh thái chỉ ra nghịch lý của việc say mê
thưởng ngoạn vẻ đẹp tự nhiên dẫn đến những hành động hủy diệt tàn phá hệ
sinh thái (phá rừng, xẻ núi); du lịch sinh thái tước đi vùng bờ biển của người
dân, trục xuất những người có số phận nhỏ bé ra khỏi không gian sống núi rừng
quen thuộc của họ, biến người dân bản địa thành những thứ kì lạ gây hiếu kì
cho khách...Như vậy, có một mâu thuẫn trong cách con người ứng xử với tự
nhiên hiện tại, nảy sinh sự hoài nghi về văn minh, phát triển, du lịch. Trần Thị
Ánh Nguyệt (2016, 2017) khảo sát văn xuôi Nam Bộ, tập trung vào nội dung về
sự mất cân bằng sinh thái vùng Nam Bộ (đất lở, núi lở, hạn hán, xâm ngập mặn,
nước nổi kéo dài...); cuộc sống hiện đại khiến người nông dân mất đi chỗ dựa
vào không gian sinh thái nơi đồng ruộng, họ trở nên bất an. Đinh Trí Dũng – Lê
Thanh Nga (2017) khảo sát tản văn Việt Nam đương đại, đọc ra sự phê phán
thực trạng hủy hoại tự nhiên, tàn phá môi trường, cảnh báo sự xuống cấp không
gian sống của con người, suy nghĩ đến những giải pháp với mong muốn giữ gìn
môi trường sinh thái. Hoàng Tố Mai phân tích tự truyện Cẩm Cù của Y Ban, chỉ
ra mạch ngầm sinh thái về vấn đề vệ sinh, phân bón hữu cơ, vô cơ và sự tác
động vào môi sinh và đưa ra các luận điểm về sự tác động xấu tới môi trường
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả Lê Hương Thủy, khảo sát
các sáng tác của Đỗ Phấn, tập trung vào chủ đề đời sống đô thị bị ô nhiễm (ô
nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm khói bụi, cây xanh bị tàn phá, ô
nhiễm nguồn nước, săn bắt thú rừng, sát sinh,...), trong đó con người sống bức
bối, ngột ngạt trong nỗi bất an sinh thái và chỉ ra dự cảm và khát vọng về không
gian sống an lành. Các tác giả khác như Trịnh Đặng Nguyên Hương, Nguyễn
Diệu Linh, Nguyễn Hải Ninh v.v… đọc các tác phẩm văn học Việt Nam đương
đại (của Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Phấn, Hoàng A Sáng) trong sự liên hệ với những
tác động phá hủy của xã hội con người với thiên nhiên môi trường. Đó là hiện
tượng sông hạ nguồn bị xâm ngập mặn khiến thực vật bị tàn phá (rừng bần xác
xơ, thưa thớt), san lấp sông và sông bị sạt lở (nhiều người bị cuốn trôi bất thình
lình, thảm họa kinh hoàng, sông thượng nguồn thì rừng bị tàn phá, tuyệt chủng
23
tộc người; môi sinh bị tàn phá trước biến đổi khí hậu: mặt nước, rừng cây, động
thực vật, con người...cằn cỗi, xác xơ, tàn lụi, dạt trôi, tha hóa. Đó là sự đối lập
trong ý niệm về nơi chốn của các nhà văn Việt Nam hiện đại: ở rừng con người
sống bản năng, hoang dã; tự nhiên hùng vĩ, lộng lẫy, nguyên sơ trên cánh đồng,
rừng già. Cuộc sống mãn nguyện, sảng khoái. Nhưng môi trường sinh thái miền
rừng đang dần bị tàn phá. Ở Hà Nội, ánh trăng yếu ớt, cây cối còi cọc, động vật
bị bắt, nhốt, mất khả năng sinh tồn, cuộc sống đầy ắp xe cộ, khí thải, tiếng ồn.
Con người sống uể oải, mộng mị, cuốn theo đô thị hóa, công nghiệp hóa. Từ đó,
con người có tâm thức muốn chối bỏ đô thị, hướng về không gian hoang dã,
rừng núi mênh mông, tự do, khoáng đạt.
Có thể nói cuốn Phê bình sinh thái: Tiếng nói toàn cầu, tiếng nói bản địa
(2017) của Viện văn học, đã giới thiệu một cách hệ thống về phê bình sinh thái
(từ thuật ngữ, lịch sử phát triển cho đến các ứng dụng) với những mối bận tâm
về xã hội, chính trị, lịch sử. Bên cạnh đó, phải kể đến chuyên luận Rừng khô,
suối cạn, biển độc…và văn chương - phê bình sinh thái (2016, 2017) của tác giả
Nguyễn Thị Tịnh Thy và cuốn biên tập Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ
của Bùi Thanh Truyền (2018). Có thể nói đây là những công trình nghiên cứu
khoa học nghiêm túc, công phu có hệ thống, giới thiệu khá đầy đủ lý thuyết,
nguồn gốc, phát sinh, phát triển, sự khác nhau về các quan niệm, quan điểm của
phê bình sinh thái. Đồng thời các công trình này cũng có những thử nghiệm và
thực hành phê bình sinh thái trên một số tác phẩm tiêu biểu, từ đó đem đến cho
bạn đọc một cái nhìn vừa tổng thể vừa chi tiết từ lý thuyết đến thực hành phê
bình sinh thái.
Công trình điển hình cho xu hướng phê bình sinh thái ở Việt Nam này là
cuốn Rừng khô, suối cạn, biển độc … và văn chương (NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội 2017) của Nguyễn Thị Tịnh Thy. Đây là công trình nổi bật ở Việt Nam
cho xu hướng thứ hai của phê bình thái ở sự gắn bó của nó với các vấn đề thời
sự của đời sống xã hội, chính trị. Điều này hiển thị một cách chân thành và riết
róng ở lời mở đầu của cuốn sách, đó là khi tác giả viết: “Việt Nam là quốc gia
chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu. Ô nhiễm môi trường từ sinh hoạt
và sản xuất đã, đang và sẽ là vấn nạn, đại nạn đối với con người và vạn vật.
24
Rừng khô, suối cạn, biển nhiễm độc, cá chết, lũ lụt, hạn hán, vỡ đập, tràn
bùn…liên tục ập đến như những mối “họa vô đơn chí”. Vì thế, với động thái
trách nhiệm và lắng nghe trái đất, nghiên cứu văn học từ góc nhìn sinh thái học
chắc chắn không phải là “thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào”, cũng
không phải thương vay khóc mướn, mà là công việc cần làm, phải làm của
người trong cuộc, thể hiện sự hồi đáp của khoa học văn chương đối với tiếng
kêu cứu của môi trường sinh thái” [76,17]. Những điều “tâm sự” của nữ học giả
Nguyễn Thị Tịnh Thy với bạn đọc như là đồng vọng với lời gan ruột của Karen
Warren trong Triết học nữ quyền sinh thái: Cái nhìn phương Tây về định nghĩa
on what It is and why it matters; Lanham: Rowman&Littlefield Publishers,
và tại sao triết lí đó quan trọng (Ecofeminist philosophy: A Western perspective
Inc, 2000). Ngay mở đầu chương 1, trước khi bàn về mối liên hệ giữa các vấn
đề môi trường và vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề nữ quyền, tác giả viết “Cây,
rừng, và sự phá rừng. Nước, hạn hán, và sa mạc hóa. Sản xuất thực phẩm,
nghèo đói, và chất thải độc hại. Cuộc khủng hoảng về đa dạng sinh học, sinh
vật hoang dã, và sự ngược đãi động vật”[144]. Định nghĩa của Nguyễn Thị Tịnh
Thy về văn học sinh thái cũng cho thấy sự nhấn mạnh của tác giả đối với tinh
thần dấn thân xã hội của bộ phận văn học này: “Văn học sinh thái còn thể hiện
trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh thái, phê phán mặt trái của văn minh, phản
ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ tinh thần, nguy cơ tư tưởng và nguồn gốc xã
hội của các nguy cơ đó”[76,93].Với những băn khoăn về vấn đề xã hội, chính
trị của phê bình sinh thái, cả hai tác giả đều tham gia vào làn sóng thứ hai của
cách tiếp cận đối với văn học, văn hóa trên. Trong các bài tạp chí và các bài
tham luận tại các hội thảo như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên – nhìn từ
lí thuyết phê bình sinh thái (Nghiên cứu văn học (898), số 1, 2015) và Khủng
hoảng môi trường và trách nhiệm của nhà văn; Đọc hiểu xanh về Thập giá giữa
rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê (Tạp chí khoa học - 385, Đại học sư phạm Huế,
số 8, 2016). Ở đây, Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra thực tế con người cưỡng đoạt,
tàn phá tự nhiên (rừng sâu nước thẳm, gió núi mưa ngàn, chim muông thú
hoang, vàng sa khoáng...), thiên nhiên cuồng nộ trừng phạt lại con người. Cuộc
chiến bảo vệ rừng xanh giữa kiểm lâm và bọn lâm tặc. Mặt trái của văn minh đô
25
thị khiến tài nguyên rừng bị tàn phá, khai thác, tận diệt. Thiên nhiên hung dữ
trừng phạt con người. Trong bài viết Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng
cần khai thác của văn học Việt Nam (Tạp chí văn nghệ quân đội, số 10 năm
2014), Nguyễn Thị Tịnh Thy chỉ ra phê bình sinh thái còn là một sự “phản ứng
chậm”, các sáng tác và phê bình sinh thái nên trở thành một khuynh hướng gắn
bó thiết thực với đời sống văn chương và đời sống xã hội, phát huy trách nhiệm
của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường. Các nhận định của nữ tác giả rõ ràng
là nằm trong sự chuyển hướng của phê bình sinh thái thế giới ở làn sóng thứ
hai, đó là sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, chính trị.
Công trình hệ thống tiếp theo thể hiện phê bình sinh thái ở Việt Nam cộng
hưởng với làn sóng thứ hai của phê bình sinh thái trên thế giới là cuốn Phê bình
sinh thái với văn xuôi Nam Bộ (Bùi Thanh Truyền chủ biên, NXB Văn hóa –
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2018). Cuốn sách thể hiện một cách rõ nét
quan điểm “dấn thân” và “có trách nhiệm với xã hội” trong cách tiếp cận văn
chương từ góc độ phê bình sinh thái. Điều này thể hiện ở ngay định nghĩa về
phê bình sinh thái bao trùm cuốn sách này, đó là: “Phê bình sinh thái… là sự
lên tiếng của khoa học văn chương trước sự lâm nguy của môi trường, những
kết quả bước đầu của phê bình sinh thái là một minh chứng về sự nhạy cảm,
bản lĩnh, cái tâm và trách nhiệm công dân của người nghiên cứu đối với thực
trạng xã hội hôm nay” (trang bìa)[82]. Tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài
Phê bình sinh thái – khuynh hướng nhiều tiềm năng trong phê bình văn học Việt
Nam liệt kê một loạt các sự kiện lịch sử xã hội (chiến tranh, quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa) như là những tác nhân gây nên sự hủy hoại về môi
trường, môi sinh ở Việt Nam. Điều đặc biệt là các sự kiện tác giả liệt kê là
những gì đang diễn ra, hay diễn ra gần đây và là những việc gây chú ý sâu rộng
với cộng đồng như sự kiện tê giác biến mất ở Việt Nam năm 2010, sự kiện voi
Tây Nguyên không có rừng để sống về tàn sát những cánh đồng, sự kiện sếu
đầu đỏ di cư hoàn toàn sang Campuchia, việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông
nghiệp đã tiêu hủy môi trường sống của thực vật, động vật.. tại các khu vực của
đất nước. Các tác giả khác như Bùi Thanh Truyền, Phạm Ngọc Lan nêu ra sự
thực về Nam Bộ với sự gánh chịu của cuộc biến đổi khí hậu toàn cầu, việc phá
26
rừng đầu nguồn, phá rừng phòng hộ do “lòng tham xé đáy” [82,156] của con
người. Như vậy, phê bình sinh thái với các học giả Việt Nam là một hành động
mang tính trách nhiệm xã hội của trí thức nước nhà trước các vấn đề môi trường
trong sự liên đới với các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử quốc gia.
Bài phát biểu đề dẫn cho hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói
toàn cầu, tiếng nói bản địa” của Nguyễn Đăng Điệp Thời đại khủng hoảng môi
trường và vai trò, vị thế của phê bình sinh thái cũng cho thấy một cách hàm ẩn
các vấn đề thuộc về chính trị, xã hội là động lực, cũng là mục tiêu của các
nghiên cứu và các sự kiện phê bình sinh thái ở Việt Nam. Lớp hiển lộ và được
cấu trúc có hệ thống trong bài viết này là những quan sát của nhà nghiên cứu về
sự ra đời, phát triển và những thành tựu của phê bình sinh thái. Cụ thể tác giả đi
vào phân tích bốn đặc trưng nổi bật của phê bình sinh thái: Thứ nhất, phê bình
sinh thái đề xuất tư tưởng lấy sinh thái là trung tâm thay thế tư tưởng coi con
người là trung tâm; Thứ hai, phê bình sinh thái kiếm tìm mối quan hệ giữa “văn
hóa” và “tự nhiên”; “văn minh” và “hoang dã”; Thứ ba, phê bình sinh thái có
hướng tiếp cận liên ngành; Thứ tư, phê bình sinh thái có đối tượng và phạm vi
nghiên cứu riêng. Lớp ý nghĩa đã được tác giả cấu trúc một cách tầng bậc trong
bài viết còn là những đánh giá chung của nhà nghiên cứu về sự phát triển của
văn học sinh thái và phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nhưng điều thú vị hơn là
những hàm ý về các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử trong cách tiếp cận các
phương diện sinh thái, môi trường trong văn học. Đó là khi tác giả khẳng định
hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu trong
việc đã tạo ra một diễn đàn khoa học để các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước bàn thảo, đối thoại làm sâu sắc hơn những vấn đề lí luận của phê bình sinh
thái, “phân tích và truy vấn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên”, “góp phần
làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, điều chỉnh những nhầm lẫn tai hại về môi
trường sinh thái, từ đó có những ứng xử phù hợp với tự nhiên, biết lắng nghe
tiếng nói của tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững” [18, 46]. Cách viết hàm
ẩn và kết luận của bài đề dẫn về sự hợp nhất tam vị nhất con người - xã hội - tự
nhiên như là nền tảng của xu hướng văn học sinh thái và phê bình sinh thái cho
thấy quan niệm nổi bật của phương Đông về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con
27
người là đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam. Nói cách khác, những
khám phá và truy vấn về các phương diện môi trường, tự nhiên trong công trình
phê bình sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng là khẳng định lại quan điểm văn hóa
truyền thống của phương Đông (Nho giáo, Phật giáo) về mối quan hệ giữa con
người và thiên nhiên chứ không phải là nêu lên trách nhiệm của lịch sử, xã hội,
chính trị như là những tác nhân gây nên các vấn đề về môi trường, sinh thái.
Theo đó, các quan điểm Phật giáo đề xuất tư tưởng thiên nhân bất nhị (con
người và thế giới sinh tồn là một), hay quan điểm Nho giáo về con người và
thiên nhân hợp nhất, coi sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên là chuẩn mực
sống của nhân sinh thường được các nhà phê bình sinh thái Việt Nam đưa ra
(một cách trực tiếp hay gián tiếp) như là điểm tựa cho cách tiếp cận văn học
theo hướng phê bình sinh thái. Có thể thấy điều này trong bài viết Nghiên cứu
phê bình sinh thái hiện đại và di sản hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam
giáo (Bài viết in trong: Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong
bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học, 2014) của Trần Hải Yến;
bài viết Thiên nhiên hợp nhất, từ góc nhìn sinh thái (Phê bình sinh thái – tiếng
nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện Văn học) của
Phương Lựu, v.v... Cuốn sách do Bùi Thanh Truyền chủ biên, dù không nêu lên
một cách trực tiếp, nhưng những nhấn mạnh trong lời đề tựa như “trên cơ sở
phân tích, đánh giá bước đầu văn xuôi Nam Bộ từ góc nhìn phê bình sinh thái,
cuốn sách Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ sẽ góp phần làm sáng tỏ
thêm mối quan hệ hài hòa giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội trên
tinh thần nhân văn hiện đại vì sự phát triển bền vững của vùng đất phương Nam
hiện tại và tương lai” hay “văn học vùng đất này đã góp phần kiến dựng triết lý
tân tự nhiên của thế kỷ XXI: con người là một phần của tự nhiên vì thế phải biết
sống bình đẳng, tế nhị, hòa điệu với tự nhiên hơn là vô cảm, phá phách hoặc tìm
mọi cách để chiến thắng tự nhiên”, và đặc biệt những dòng thổn thức về thiên
nhiên “Chính trái tim biết thổn thức vì môi sinh đã giúp người viết cảm nhận
những cung bậc trầm lắng của cuộc đời. Đó là những con người đang nhẫn nại
góp phần giữ sạch môi trường sống, cả trên phương tiện vật chất lẫn tinh thần.
Từ đây, con người có thể tìm lại sợi dây thiêng liêng kết nối với tự nhiên để dệt
28
hy vọng, giấc mơ bay đến tương lai bằng tình yêu thiên nhiên và trách nhiệm
đối với chính môi trường sống của mình “âm vọng diễn ngôn của triết học
phương Đông về mối quan hệ hợp nhất con người và tự nhiên”[82].
Như vậy, phê bình sinh thái ở Việt Nam mặc dù phản ánh sự phát triển của
phê bình sinh thái thế giới qua những giai đoạn khác nhau (từ xu hướng gắn với
các văn bản thiên nhiên đến việc xem xét các vấn đề chính trị, xã hội đặc trưng
như chiến tranh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa) nhưng vẫn có những nét riêng
khi hướng đến quan điểm truyền thống về mối quan hệ hợp nhất con người - tự
nhiên. Điều này làm nên đặc trưng của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong sự
tương quan với phê bình sinh thái ở một số nước khác trong khu vực. Ví dụ, ở Thái
Lan, như khảo sát của John Ryan (với cách lập bảng khảo sát tương tự) chỉ ra sự
phân tích vấn đề môi trường trong các tác phẩm văn học thường được giới hạn
trong những thảo luận về chủ nghĩa khu vực, lịch sử và tôn giáo. Trong khi đó, ở
Ấn Độ, như thống kê (với bản khảo sát tương tự) của Rayson K. Alex, đã có một
số nghiên cứu về nữ quyền sinh thái và có sự nhấn mạnh vào sự cần thiết của cách
tiếp cận sinh thái hậu thuộc địa. Nhìn chung, phong trào có tổ chức về phê bình
sinh thái bắt đầu vào năm 2004 ở Ấn Độ đã chứng kiến một sự chuyển động theo
cấu trúc xã hội - chính trị - văn hóa - tôn giáo tìm ra ảnh hưởng của phê bình sinh
thái đến cấu trúc sinh thái của cộng đồng bản địa.
Điều này cho thấy phê bình sinh thái có khả năng cao được phát triển hơn
nữa trong nghiên cứu văn học Việt Nam. Sự cần thiết về các nghiên cứu phê bình
sinh thái ở Việt Nam càng được nhấn mạnh do sự nhận thức của cộng đồng trước
những thay đổi môi trường đặc biệt liên quan đến ô nhiễm không khí, vệ sinh thực
phẩm, sự phá hủy hệ thống thủy sinh và lâm sinh. Những công trình phê bình sinh
thái rất cần thiết với bộ phận văn học hiện đại Việt Nam (giai đoạn 1930-1945),
đặc biệt với bộ phận thơ. Điều đó là vì hiện tại bộ phận văn học này chưa trở thành
đối tượng của nhiều nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam. Như bảng 2 chỉ ra,
hiện chỉ có hai bài viết về Thơ mới từ góc độ phê bình sinh thái (của tác giả
Nguyễn Đăng Điệp và Nguyễn Thị Minh Thương). Việc khám phá bộ phận văn
học ra đời trong bối cảnh Việt Nam có những tiếp xúc về văn hóa và kinh tế với
phương Tây hiện đại chắc chắn sẽ đem lại những lí giải và những tiếng nói mới về
29
lí thuyết cho phê bình sinh thái. Tóm lại, phê bình sinh thái hứa hẹn nhiều tiềm
năng phát triển trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam.
Tiểu kết
Chương này của luận án khảo sát và phân tích lí thuyết phê bình sinh thái đã
được tiếp nhận và vận dụng trong việc nghiên cứu văn học nói chung và Thơ mới
nói riêng ở Việt Nam. Luận án đặt diện mạo và sự phát triển của phê bình sinh
thái ở Việt Nam trong dòng chảy của phê bình sinh thái thế giới trên cả hai
phương diện lí thuyết và ứng dụng. Nói cách khác, luận án không liệt kê và tóm
tắt các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam một cách riêng biệt và tràn lan
mà phân tích và khảo sát chúng theo một định hướng và phương pháp nhất định.
Cụ thể, chúng tôi đặt các sự kiện, các công trình, các xu hướng tiếp nhận và
nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với sự phát triển
và diện mạo của phê bình sinh thái trên thế giới, nhằm chỉ ra các dấu mốc, các xu
hướng của phê bình sinh thái trong nước đang nằm ở đâu và có mối tương quan
gì với phê bình sinh thái trên thế giới. Mục tiêu của chương cũng để chỉ ra sự kế
tục và khác biệt của phê bình sinh thái ở Việt Nam trong mối tương quan với Phê
bình sinh thái trên thế giới. Luận điểm chính của chương đã xem phê bình sinh
thái ở Việt Nam như một biểu hiện các hướng phát triển của lí thuyết phê bình
sinh thái trên toàn cầu; đồng thời, phê bình sinh thái trong nước có đặc trưng
riêng là gắn với vấn đề xã hội, lịch sử, chính trị của Việt Nam hiện đại. Phần lớn
tiêu đề của các phần trong chương nhằm cố gắng thể hiện mối liên quan của phê
bình sinh thái ở quốc gia với phê bình sinh thái thế giới (sẽ được trình bày ở
Chương 2). Bằng cách này, người viết hi vọng phần tổng quan về phê bình sinh
thái ở Việt Nam sẽ là một đóng góp cho những tổng kết về mặt lí luận đối với
hướng tiếp cận văn học từ sinh thái và môi trường, tức phê bình sinh thái.
30
Chƣơng 2
PHÊ BÌNH SINH THÁI NHƢ LÀ MỘT HƢỚNG TIẾP CẬN VĂN HỌC
2.1. Phê bình sinh thái lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học
2.1.1. Tiền đề triết học của phê bình sinh thái
Những bàn luận mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái phát triển về sau
chủ yếu dựa vào nội dung của phê bình sinh thái cổ điển, đó là việc đặt thiên
nhiên như là hệ quy chiếu trung tâm trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Thể
hiện rõ nhất cho điều này là khi các nhà lí thuyết về phê bình sinh thái chỉ ra các
tiền đề triết học của hướng tiếp cận văn học và trước hết là các tư tưởng triết
học của Phương Tây. Trung tâm của phê bình sinh thái như đã nói đặt ra vấn đề
quan hệ giữa con người với tự nhiên, kêu gọi tôn trọng tự nhiên. Nhưng con
người dù muốn hay không muốn vẫn phải khai thác thế giới tự nhiên để đảm
bảo sự sinh tồn của mình. Khai thác tự nhiên để phục vụ lợi ích của loài người
đã diễn ra từ thời tiền sử. Đến thời hiện đại hóa, công nghiệp hóa, và đặc biệt
trong thời đại Ánh Sáng với tư tưởng của Descartes “Tôi tư duy tức là tôi tồn
tại” cùng chủ nghĩa duy lý ra đời đã khiến con người ảo tưởng và kiêu ngạo về
sức mạnh của mình. Vì vậy mà con người cho mình cái quyền được thống trị tự
nhiên, tước đoạt tự nhiên và thiết lập tư tưởng con người là trung tâm. Hệ lụy
của sự khai thác tự nhiên vô độ phục vụ cho nhu cầu của con người đã dẫn đến
những hiểm họa về suy thoái môi trường và ô nhiễm sinh quyển một cách
nghiêm trọng. Trong guồng quay hối hả tận diệt tự nhiên, con người rất cần
phải dừng lại, nhìn nhận lại sự sai lầm của chính mình, rất cần phải lên tiếng để
cảnh báo nguy cơ sinh thái, cảnh tỉnh nhân loại hãy tôn trọng tự nhiên và bảo vệ
tự nhiên vì đó cũng là cách để bảo vệ sự sống của loài người. Ở bối cảnh này,
nhiều học thuyết của các triết gia Phương Tây đã ra đời làm nền tảng triết học
cho sự hình thành của phê bình sinh thái.
Tiền đề thứ nhất - Ý thức sinh thái (Ecological consciousness): Ý thức
sinh thái, xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XX, đây được xem là một bước phát
triển của tư tưởng nhân loại về việc nhìn nhận mối quan hệ giữa con người với
31
tự nhiên. Nếu như sinh thái học cho rằng mọi sinh vật trong tự nhiên đều có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong đó có con người thì trên cơ sở ấy ý thức sinh
thái cũng khẳng định mọi sinh thể trong thế giới đều có mối quan hệ bình đẳng
với nhau. Đây là tư tưởng phản tư lại quan điểm cho rằng con người là trung
tâm. Bởi lẽ con người cũng là một thực thể trong vũ trụ bao la. Trong thế giới
đó, nhiều cá thể liên quan mật thiết với nhau mà con người cũng không thể tách
mình ra khỏi mối quan hệ này. Đi ngược lại quy luật là phá vỡ chỉnh thể của sự
phát triển tự nhiên, điều đó đồng nghĩa với việc tìm đến con đường hủy diệt,
suy vong. Chính vì thế cần tạo ra sự phát triển hài hòa giữa con người và tự
nhiên, con người tôn trọng tự nhiên và bảo vệ tự nhiên chính là cội nguồn của ý
thức sinh thái. Và đó cũng là tư tưởng tiến bộ mà phê bình sinh thái tìm kiếm
trong các tác phẩm văn học sinh thái.
Tiền đề thứ hai - Triết học sinh thái (Ecological philosophy): Arne Naess
tác giả sinh thái học bề sâu và triết gia hậu Marxit – Félix Guattari được xem là
người khởi sướng thuật ngữ này. Theo quan điểm đó thì chỉ có một thế giới duy
nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan và độc lập với ý thức con người.
Con người là một phần của thế giới vật chất, các hoạt động sinh tồn của con
người liên quan chặt chẽ với môi trường xung quanh mình. Từ khi xuất hiện
cho đến nay thì con người luôn có khát vọng chinh phục và chế ngự tự nhiên.
Nhiều hoạt động của con người đã tác động vào tự nhiên nhưng sự lạm dụng
quá mức cũng sẽ dẫn đến nguy cơ mất cân bằng sinh thái thậm chí tự nhiên còn
có thể quay trở lại “trả thù” con người. Ph.Ăngghen từng viết “Chúng ta hoàn
toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân
tộc khác,…chúng ta nằm trong lòng tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta
đối với giới tự nhiên là ở chỗ, chúng ta khác với tất cả các sinh vật khác là
chúng ta nhận thức được các quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được
những quy luật đó một cách chính xác”[dẫn theo 81;19]. Trên cơ sở đó triết học
sinh thái đã chỉ ra con người là một phần của vũ trụ và không thể tồn tại độc lập
được. Con người cần tôn trọng sự phát triển bình đẳng của mọi sinh mệnh trong
chỉnh thể tự nhiên. Triết học sinh thái đề cao quan điểm con người và tự nhiên
phát triển hài hòa.
32
Tiền đề thứ ba, một tiền đề được nhà lí thuyết phê bình sinh thái Lawrence
Buell tập trung phân tích kĩ trong bài nghiên cứu “Phê bình sinh thái, những xu
hướng đang xuất hiện” [97; 87-115], là Sinh thái học bề sâu(Deep ecology):
Buell cho rằng, đây là một khái niệm được Arne Naess nhà triết học nổi tiếng
người Na Uy khởi xướng vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Sinh thái
học bề sâu ra đời đã “phê phán” lại quan niệm của sinh thái học truyền thống
hay còn gọi là sinh thái học bề mặt (Shallow ecology). Trong quan niệm của
sinh thái học bề mặt thì thiên nhiên và môi trường, sự sống chỉ có giá trị như
công cụ cung cấp và phục vụ những lợi ích cho con người. Từ cái nhìn đó mà
con người sẽ có thái độ cư xử với thiên nhiên sao cho thiên nhiên có thể đem lại
nhiều lợi ích nhất cho con người. Như vậy, bảo vệ môi trường hay thiên nhiên
chính là để cho đời sống con người tốt hơn chứ không phải là vì bản thân môi
trường tự nhiên. Có nghĩa là con người là trung tâm của thế giới, con người lấy
sức mạnh của mình để khai thác tự nhiên phục vụ cho sự phát triển của quốc gia
mình thêm giàu mạnh. Trái ngược với quan niệm trên, Sinh thái học bề sâu mà
cha đẻ là nhà triết học Arne Naess đã chỉ ra, con người không phải là trung tâm
của vũ trụ, mọi sinh vật trong sinh quyển đều có hình thức sống như con
người,vì thế đều có giá trị nội tại và có quyền tự bảo vệ sự sinh tồn của mình:
“mọi sinh vật, dù là người, động vật hay thực vật đều có quyền sinh sống bình
đẳng và nở hoa”[dẫn theo 24;107]. Sinh thái học bề sâu nhấn mạnh sự bình
đẳng của muôn loài trong chỉnh thể sinh thái. Nghĩa là mọi sinh vật kể cả con
người đều có giá trị nội tại và có quyền được phát triển như nhau. Ở đây không
có sự phân biệt loài nào cao hơn, loài nào thấp hơn cũng như loài nào quan
trọng hơn và loài nào không quan trọng bằng. Như thế, thì theo quan điểm này,
con người không phải là trung tâm, quyền lợi con người không phải là mục đích
tối cao để chi phối các hoạt động khác. Con người cũng chỉ là một sinh vật
sống, một bộ phận trong chỉnh thể sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Cho nên cần tôn trọng sự phát triển của chỉnh thể mà không thể tự ý phá vỡ nó
bởi lẽ sự phát triển của con người và các loài sinh vật khác đều góp phần vào
việc tạo dựng những giá trị nội tại, sự đa dạng của các hình thức sống khác
nhau trong sinh quyển đóng góp vào quá trình thực hiện những giá trị nội tại
33
đó. Tóm lại, sinh thái học bề sâu lên tiếng bảo vệ tự nhiên, đòi quyền lợi cho tự
nhiên vì chính tự nhiên chứ không phải vì mục đích bảo vệ tự nhiên để mang lại
lợi ích nhiều hơn cho con người. Sinh thái học bề sâu đề cao tư tưởng bình đẳng
sinh thái trung tâm phủ nhận quan điểm con người là trung tâm. “Sinh thái học
chiều sâu chỉ việc đào sâu tư tưởng lý luận sinh thái để dò tìm những vấn đề
mang tính căn bản của sinh thái. Sinh thái học chiều sâu quan sát nguy cơ
nghiêm trọng của môi trường hiện tại, phê phán “độ nông” (Shallow ecology)
trong tư tưởng sinh thái học truyền thống, đồng thời trả lời cho câu hỏi nhân
loại sẽ đi về đâu”[24;106].
Tiền đề thứ tư - Luân lí học trái đất (The land ethic): Đây là học thuyết do
Aldo Leopoid đề xuất trong tác phẩm Niên giám xứ cát (A sand country Almanac).
Ở đây ông cho rằng thế giới tự nhiên hay trái đất có tên gọi là “cộng đồng trái đất”.
Trong quan niệm của mình Aldo Leopoid nhấn mạnh: “Cộng đồng trái đất” của
chúng ta là một thể thống nhất trong đó các yếu tố như động vật, thực vật hay
nước, không khí, đất đai và ngay cả con người đều góp phần tạo nên một chỉnh thể
hoàn chỉnh, ổn định của hệ thống sinh thái. Khi chỉnh thể sinh thái hoàn chỉnh
không bị chia tách, phá vỡ sẽ tạo nên vẻ đẹp sinh thái và đó là tư tưởng tiến bộ của
luân lí học trái đất hướng tới. Bởi lẽ, vẻ đẹp sinh thái là nguyên tắc luân lý và tiêu
chuẩn của thiện và ác. Theo ông “Khi một sự vật có ích cho việc giữ gìn vẻ đẹp, sự
ổn định, hài hòa của thể chung của sinh vật, thì nó là chính xác, và nó là sai lầm
khi đi ngược lại” [dẫn theo 27; 40]. Chính vì thế con người cần phải tôn trọng tính
chỉnh thể này để bảo vệ trái đất, bảo vệ tự nhiên.
Tiền đề thứ năm - Thuyết giải phóng động vật (Animal liberation theory).
Một giả thiết đặt ra nếu một ngày kia trên hành tinh của chúng ta xuất hiện một
loài sinh vật thông minh hơn hẳn con người và chúng cũng tàn sát, ăn thịt con
người thì loài người chúng ta sẽ kêu gào đau đớn ra sao? Lúc ấy ai sẽ lắng nghe
tiếng kêu cứu của chúng ta? Như thế, cũng rất có thể những loài động vật con
người đang ăn thịt cũng sẽ vang lên những tiếng kêu bi thương như vậy. Và đó
cũng là nền móng để Peter Singger giáo sư của trường đại học Princeton khởi
xướng ra thuyết giải phóng động vật. Năm 1975 với cuốn sách có tên Animal
Liberation (Giải phóng động vật) của Peter Singger đã gây được tiếng vang lớn
34
và trở thành cuốn sách bán chạy nhất lúc bấy giờ. Trong quan niệm của mình
ông đề cao sự bình đẳng của động vật với con người. Cùng với nhiều nghiên
cứu khác ông chỉ ra động vật cũng có thế giới nội tâm và có cảm xúc, chúng
cũng cảm thấy vui sướng, đau đớn, buồn bã, hờn giận, sợ hãi,..và chúng thông
minh hơn con người tưởng. Song điều quan trọng là động vật biết đau đớn khi
con người sát hại chúng. Như thế, động vật cũng là những sinh linh có linh hồn.
Cho nên giết hại động vật chẳng khác nào giết chết con người. Cần đối xử bình
đẳng và tôn trọng động vật. Ông khẳng định nếu con người cần có nhiều
phương thức khác nhau để tồn tại sự sống thì một trong những cách thức con
người cần phải thay đổi, dừng lại ngay là không gây thiệt hại cho động vật. Và
hành động thiết thực mà ông kêu gọi là hãy ăn chay. Thuyết giải phóng động
vật của Peter Singger đã góp phần thức tỉnh đạo đức của con người trong cách
cư xử với động vật. Kêu gọi con người yêu động vật, bảo vệ động vật và chính
là yêu môi trường sống xung quanh ta.
Tiền đề thứ sáu - Tư tưởng sinh thái học chủ nghĩa Marx và Engels: Marx
và Engels đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh nguy cơ phá hủy môi trường của chủ
nghĩa tư bản. Theo hai ông, thì chủ nghĩa tư bản và tự nhiên có sự mâu thuẫn
với nhau. Phương thức sản xuất tư bản đã lợi dụng sự phát triển vượt bậc của
khoa học kỹ thuật để khai thác, bóc lột, tận diệt tự nhiên phục vụ cho sự phát
triển của mình. Trong cuốn Phép biện chứng tự nhiên, Engels cho rằng giữa con
người và tự nhiên có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Song cần hạn chế sự
chiếm đoạt và thống trị của con người với tự nhiên. Ông cũng khẳng định một
cách biện chứng: con người luôn muốn khẳng định sức mạnh của mình và
muốn chinh phục tự nhiên nhưng muôn đời con người không bao giờ có thể
chiến thắng được tự nhiên hùng vĩ. Nếu con người càng cố gắng tận diệt tự
nhiên, khai thác để phục vụ cho lợi ích của mình thì đến một ngày tự nhiên sẽ
quay trở lại trừng phạt con người. Chính vì thế, con người không nên tìm cách
chống lại tự nhiên, coi tự nhiên là kẻ thù mà hãy sống hài hòa và tôn trọng quy
luật của tự nhiên.
Từ các nền tảng triết học trên, có thể nhận ra một luận điểm chung rằng
phê bình sinh thái, với việc đặt thiên nhiên hay sinh thái ở điểm quy chiếu trung
35
tâm trong nghiên cứu văn học, dựa trên tư duy mang tính kiểu thân rễ (rhizomic
thought) mà Gilles Deleuze và Félix Guattari phát triển trong công trình Chủ
nghĩa tư bản và Tâm thần phân liệt (Capitalism and Schizophrenia, 1972–
1980). Một bộ rễ chùm như miêu tả của Deleuze và Guattari không có điểm mở
đầu và không có điểm kết thúc, nó luôn luôn ở trung điểm, ở giữa mọi thứ, tồn
tại cùng nhau; cấu trúc rễ chùm là liên kết với nhau. Tương tự, tư duy theo kiểu
thân rễ chỉ một mạng lưới không có trật tự trên dưới, nó lan tỏa, không có điểm
cuối và không có nguồn gốc; thân rễ là kết nối với nhau, liên hợp với nhau, mở
rộng ra vô cùng và luôn trong quá trình hình thành. Nói cách khác, thân rễ được
hiểu như là một hệ thống phi trung tâm, không có trật tự cao thấp, nó hoạt động
bởi sự đa dạng hóa và sự liên kết. Tinh thần thân rễ của phê bình sinh thái thể
hiện ở chỗ các nhà sinh thái học cũng xóa bỏ mối quan hệ thứ tự, chia cắt, cố
định giữa con người và tự nhiên; thay vào đó, phê bình sinh thái đưa lại mô
hình liên kết, tương tác lẫn nhau và mang tính tạo sinh giữa con người và thế
giới tự nhiên [102].
2.1.2. Phê bình sinh thái và “các câu chuyện có cây cối”
Các nhà phê bình sinh thái thường kể hai câu chuyện mang tính tưởng
tượng nhằm ngầm khẳng định về vai trò của văn học viết về thiên nhiên trong
sự định hình hướng tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Theo đó, một
cuốn sách tuyển chọn các tác phẩm kinh điển viết về thiên nhiên của Mỹ bị một
nhà xuất bản từ chối với nhận xét là “những câu chuyện này có cây cối ở trong
chúng”. Nhà xuất bản đã định vị mình là đang ở New York, từ chối những câu
chuyện đó bởi vì chúng có tính phương Tây và chúng có thiên nhiên ở trong
chúng. Một câu chuyện khác có một cốt truyện ngược lại, là tất cả các chuyện
kể đã được xuất bản hay ở dưới dạng bản thảo là có cây cối ở trong ấy bởi vì
chúng được làm từ thiên nhiên: thiên nhiên luôn luôn với chúng ta ở tại ngôi
nhà. Câu chuyện này cho thấy phương pháp tiếp cận cổ điển của phê bình sinh
thái là nói về văn học “cứ như là văn học có cây cối ở trong nó” [98,9-36]. Qua
đó, chúng ta thấy được điều gì về phương pháp tiếp cận văn học từ góc độ phê
bình sinh thái từ câu chuyện trên?
36
Câu chuyện trên cho thấy, phê bình sinh thái là “cách tiếp cận lấy trái đất
làm trung tâm trong nghiên cứu văn học”[111]. Đây là định nghĩa mang tính
tuyên ngôn của phê bình sinh thái, nó xác định đặc trưng của phê bình sinh thái
trong tương quan với các hướng nghiên cứu văn học khác. Tuyên ngôn này
được Cheryll Glotfelty nêu trong lời mở đầu của cuốn được gọi là sách giáo
khoa về phê bình sinh thái đó là Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu
mốc trong sinh thái văn học (The ecocriticism reader: Landmarks in lterary
ecology, Athens and London: University of Georgia, 1996) do Cheryll Glotfelty
và Harold Fromm biên tập.
Trong thực tế, phê bình sinh thái (ecocriticism), một hướng tiếp cận văn
học trong mối quan hệ với các vấn đề môi trường, sinh thái, được manh nha từ
những năm 60 ở Anh, Mỹ và phát triển rầm rộ từ những năm 90 của thế kỉ XX,
không chỉ ở phương Tây mà còn ở nhiều nước còn lại trên thế giới. Như vậy,
trước Glotfelty và nhóm tác giả của cuốn “sách giáo khoa”, các nhà nghiên cứu
văn học đã nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của văn học trong mối liên
hệ với môi trường sinh thái; sự khác nhau này phản ánh sự vận động, mở rộng
về nội dung của phê bình sinh thái.
Cụ thể, năm 1972, Joseph W Meeker, trong công trình Hài kịch sống sót:
nghiên cứu sinh thái văn học (The comedy of survival: Studies in literary ecology,
New York: Scribner's, 1972), đã kết nối nghiên cứu văn học và nghiên cứu môi
trường như là một lĩnh vực tìm hiểu khi ông phân tích hài kịch và bi kịch như là
những khái niệm sinh thái.Với khái niệm “sinh thái học văn học” (literary ecology)
[122,7], nhà học giả thuộc chuyên ngành văn học so sánh và dân tộc học này được
coi là người mở đầu những thảo luận phê bình về phê bình sinh thái. Trong khi đó,
William Rueckert được coi là người đưa lại thuật ngữ “ecocricitism” với bài viết
Văn học và sinh thái: Một thử nghiệm về phê bình sinh thái xuất bản năm 1978
(Literature and ecology: An experiment in ecocriticism" Iowa Review 9.1 (1978):
71-86). Rueckert cho rằng trong thế giới sinh thái, “cái lỗi lầm mang tính bi kịch của
con người là cái nhìn lấy con người làm trung tâm và sự thôi thúc phải thống trị,
nhân hóa và thuần phục hóa, xâm phạm và bóc lột mọi thứ thuộc về tự nhiên”
[132,113]. Ông dùng thuật ngữ “phê bình sinh thái” để chỉ cách thức tìm hiểu những
37
nền tảng giúp thế giới con người và thế giới tự nhiên có thể cùng tồn tại, kết hợp và
phát triển trong bầu sinh quyển. Đúng hơn, Rueckert dùng thuật ngữ “ecocriticism”
như là một cách phân tích văn học hướng về môi trường “environmentally minded
literray analysis” nhằm khám phá “điều gì đó về sinh thái văn học” [132,71]. Năm
1996, bài viết Đánh giá lại thiên nhiên: Về một cách phê bình sinh thái (Revaluating
nature: Toward an ecological criticism) của Glen Love khẳng định rằng “nghiên
cứu văn học, phải gắn với khủng hoảng môi trường hơn là không có phản ứng gì
với nó và văn học nên chuyển sự chú ý tới ý thức về cá thể” (ego-consciousness)
sang “ý thức về sinh thái” (eco-consciousness) [121, 201-215].
Sự bùng nổ của phê bình sinh thái như là một cách tiếp cận văn học và văn
hóa xảy ra vào những năm cuối của thập kỉ 90 thế kỉ XX. Sự bùng nổ này được
khởi đầu bằng công trình Sự tưởng tượng về môi trường: Thoreau, Văn học tự
nhiên và sự tọa thành văn hóa Mỹ xuất bản năm 1995 của Lawrence Buell (The
environmental imagination: Thoreau, nature writing, and the formation of
American culture. Cambridge, MA and London, England: Harvard University
Press) và công trình Sách giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu mốc trong
sinh thái văn học (The Ecocriticism reader: Landmarks in literary ecology,
Athens and London: University of Georgia, 1996) xuất bản năm 1996 do Cheryll
Glotfelty và Harold Fromm biên tập. Nếu như cuốn của Buell chỉ ra các phương
diện cơ bản của phê bình sinh thái Hoa Kì trên cơ sở phân tích văn học viết về
thiên nhiên của Henry David Thoreau thì cuốn của Fromm và Glotfelty bao gồm
các bài viết được coi là những phân tích toàn diện đầu tiên về phê bình sinh thái.
Cho đến nay, định nghĩa về phê bình sinh thái của chủ biên cuốn Sách
giáo khoa về phê bình sinh thái: Các dấu mốc trong sinh thái văn học, Cheryll
Glotfelty, vẫn được coi là kinh điển. Cái nhìn về phê bình sinh thái của
Glotfelty, theo đánh giá của nhà lí thuyết phê bình sinh thái Michael P. Cohen,
rộng hơn với cách định nghĩa đặt nền tảng của William Rueckert và Joseph
Meeker - những người coi phương pháp của phê bình sinh thái có nguồn gốc từ
khoa học về sinh thái và khoa học về sự tiến hóa của con người khi cho rằng
phê bình sinh thái là sự áp dụng các khái niệm mang tính sinh thái và sinh thái
học vào nghiên cứu văn học. Vì vậy, các nhà phê bình sinh thái phải đọc văn
38
học dựa trên hiểu biết của mình về những mô hình và các kết quả khoa học vốn
liên tục thay đổi.
Trong khi đó, đến thời của Glotfelty và Buell, phê bình sinh thái được hiểu
là một cách nghiên cứu các văn bản văn học trong sự quy chiếu với các vấn đề
của môi trường và của sinh thái. Cụ thể, Glofelty cho rằng, giống như phê bình
nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ phương diện ý thức về giới, phê bình
Marxist đưa ý thức về phương thức sản xuất v à giai cấp kinh tế vào việc đọc
các văn bản thì phê bình sinh thái “nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và
môi trường vật lí”, [111, xviii] đó là cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm
trong nghiên cứu văn học. Sự quy chiếu về các vấn đề của môi trường, sinh thái
hay chủ trương “lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học” của phê
bình sinh thái này được Glotfelty diễn đạt bằng nhiều hình thức khác nhau trong
lời mở đầu của cuốn tuyển tập như: “phê bình sinh thái lấy chủ đề của nó là mối
quan hệ qua lại giữa thiên nhiên và văn hóa, cụ thể là các vật thể văn hóa của
ngôn ngữ và văn học”, hay phê bình sinh thái “có một chân ở văn học và một
chân khác trên mặt đất” hay, phê bình sinh thái “đàm phán giữa con người và
thế giới không phải con người” [111, xix]. Có thể thấy, Glotfelty đã định hình
những cụm từ, những cách diễn đạt trở thành “câu cửa miệng” khi người ta nói
đến phê bình sinh thái, như “Phê bình sinh thái là khoa học nghiên cứu mối
quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên”, hay “nó làm hài hòa mối quan
hệ giữa nhân loại và thế giới phi nhân loại”, “phê bình sinh thái mang đến một
phương pháp nghiên cứu văn học lấy trái đất làm trung tâm”. Thế nhưng, để có
thể đọc văn bản văn học từ lăng kính của phê bình sinh thái, cần có những định
nghĩa mang tính diễn giải và chỉ dẫn cụ thể hơn.
Với Glotfelty, hướng tiếp cận của bà dường như tập trung vào xem xét
phương diện nội dung và cách thức xây dựng tác phẩm trong sự quy chiếu đến
thế giới vật lí (thiên nhiên, trái đất). Điều này thể hiện ở việc bà cho rằng,
nghiên cứu văn học theo hướng sinh thái trả lời các câu hỏi: “thiên nhiên được
thể hiện như thế nào trong tác phẩm này” [vấn đề được phản ánh]? “Vai trò của
bối cảnh vật lí trong cốt truyện tiểu thuyết là gì?” [vấn đề được phản ánh và
cách thức thể hiện], “Các giá trị được thể hiện trong tác phẩm có thống nhất và
39
hòa hợp với trí tuệ sinh thái?” [vấn đề giá trị, ý nghĩa của tác phẩm], “Các ẩn dụ
của chúng ta về đất đai đã ảnh hưởng thế nào lên cách thức chúng ta đối xử với
đất đai?” [nội dung được phản ánh], “Văn hóa đã ảnh hưởng đến mối quan hệ
của con người với thế giới tự nhiên như thế nào?” [nội dung được phản ánh],
hay “chúng ta có thể nêu ra đặc trưng thể loại của văn học viết về thiên nhiên
như thế nào?” [nội dung được phản ánh], “Nhận thức về cái hoang dại đã thay
đổi như thế nào qua thời gian?” [nội dung được phản ánh], “Phụ nữ viết về
thiên nhiên khác với đàn ông như thế nào?” [cách thức phản ánh]. Như vậy, với
Glotfelty, phê bình sinh thái là xem xét các vấn đề thiên nhiên được thể hiện
như thế nào hay thiên nhiên có vai trò gì đối với sự vận động về nội dung và
tính chỉnh thể về hình thức của tác phẩm. Bà so sánh phương pháp của phê bình
sinh thái với phương pháp của phê bình nữ quyền. Thứ nhất, nếu như phê bình
nữ quyền quan tâm tới những biểu đạt, tập trung vào việc phụ nữ được khắc họa
như thế nào trong văn học kinh điển thì các nhà phê bình sinh thái nghiên cứu
thiên nhiên được biểu đạt như thế nào trong văn học. Những khuôn mẫu về
thiên nhiên của tác phẩm được xem xét là “vườn Eden, vùng đất tinh khôi, khu
đầm lầy hay sự hoang dại man dã”. Và sự vắng mặt của thiên nhiên trong tác
phẩm cũng là một vấn đề quan trọng trong phê bình sinh thái: “thế giới thiên
nhiên ở đâu trong văn bản này” [111, xxiii]. Thứ hai, nếu như phê bình văn học
theo hướng nữ quyền luận xem xét văn học của phụ nữ có vai trò quan trọng
trong việc nâng cao ý thức phụ nữ khi nó khám phá lại, tái khẳng định và làm
sống lại văn học do phụ nữ viết thì phê bình sinh thái lại tìm hiểu thể loại văn
học viết về thiên nhiên vốn bị lãng quên. Thứ ba, phê bình sinh thái từ nữ quyền
luận dựa trên một loạt các lí thuyết để đưa ra những câu hỏi cho quá trình tạo
dựng về mặt biểu tượng của vấn đề giới và vấn đề tính dục trong diễn ngôn văn
học thì phê bình sinh thái xem xét quá trình tạo dựng về mặt biểu tượng của các
giống loài; diễn ngôn văn học đã định nghĩa con người trong sự đối lập thế giới
tự nhiên như thế nào. Glotfelty ví thiên nhiên như là “nhân vật [người hành
động] trong vở kịch” (actor in drama) chứ không phải là một phông nền cho vở
kịch đó. Và các học giả nghiên cứu văn học tìm hiểu mối quan hệ cho nhận
giữa con người và thiên nhiên (đất đai), xem xét thiên nhiên không chỉ như là
40
cái sân khấu mà trên đó câu chuyện về con người được diễn ra và thiên nhiên
còn như là một người hành động, một người tham gia vào vở kịch ấy [111, xxi].
Theo đó, với các nhà lí luận phê bình sinh thái kinh điển, trên cơ sở tập
trung vào “văn học viết về thiên nhiên” (nature writing), cụ thể là “văn học môi
trường” (environmental writing) nhằm chỉ ra “bản chất của sự biểu đạt về môi
trường” (nature of environmental representation), thao tác tiếp cận tác phẩm của
phê bình sinh thái là xem xét tác phẩm có quy chiếu về môi trường hay không?
Lawrence Buell đã cụ thể hóa hơn các bước của việc tìm hiểu sự quy chiếu về
môi trường của tác phẩm trong cuốn The environmental imagination
(Cambridge, Mass, and London: Harvard University Press, 1995) của mình. Bà
chỉ ra, các nhà phê bình sinh thái, thứ nhất, xem xét xem thế giới môi trường, tự
nhiên trong tác phẩm hiện lên như là một phương tiện, một khung nền hay là như
một nhân vật tác động đến số phận, tâm trạng con người, từ đó cho thấy số phận
con người gắn kết với diễn tiến của thế giới tự nhiên. Thứ hai, người nghiên cứu
văn học theo hướng phê bình cần tìm hiểu liệu trong tác phẩm văn học đó có coi
lợi ích con người phải luôn luôn là lợi ích hợp pháp không. Thứ ba, nhà phê bình
sinh thái tìm hiểu xem trách nhiệm của con người với môi trường có phải là một
phần trong giá trị đạo đức của tác phẩm. Thứ tư, nhà phê bình sinh thái tìm hiểu ý
thức về môi trường như là một quá trình chứ không phải là một sự bất biến hay
cái đã có, được hàm ẩn trong văn bản [94, 6-8]. Buell nhấn mạnh rằng, những
nguyên tắc này tập hợp thành một chỉ dẫn để tránh xu hướng lấy con người làm
trung tâm một cách vô tâm và thờ ơ. Miêu tả của Buell về các “văn bản môi
trường” chỉ ra các loại câu hỏi mà các nhà phê bình sinh thái muốn hỏi và được
coi như là gốc rễ của phê bình sinh thái. Việc chỉ ra các phương pháp kinh điển
của phê bình sinh thái như vậy là dựa trên chủ nghĩa lãng mạn Mỹ với tác phẩm
của Henry David Thoreau, John Muir, John Burroughs, Mary Austin, Aldo
Leopold, và Rachel Carson. Các nhà phê bình sinh thái cũng dựa vào phương
pháp đó để xem xét tác phẩm của William Bartram, John James Audubon,
Wallace Stegner, John McPhee, Edward Abbey, Gary Snyder, Annie Dillard,
Wendell Berry, Barry Lopez, và Terry Tempest Williams như là “những văn bản
môi trường”. Và việc lựa chọn các “văn bản môi trường” trên cơ sở xem xét các
41
câu hỏi trên, như nhận định của Cohen, tiếp tục là hạt nhân của các tổng tập về
“các tác giả văn học thiên nhiên Mỹ” [98, 9-36].
Như vậy, cả Glotfelty và Buell, những đại diện của các nhà lí luận phê
bình sinh thái cổ điển, đều khám phá văn học thiên nhiên giai đoạn đầu để đưa
ra những cách hiểu mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái. Nói cách khác, với
phê bình sinh thái cổ điển, các nhà phê bình sinh thái khám phá lại văn học giai
đoạn đầu, đọc lại các kinh điển từ “một điểm nhìn xanh” (green perspective).
Phê bình sinh thái được định nghĩa là công trình của những độc giả, “những
người thích leo núi;” phê bình sinh thái nắm bắt ngôn ngữ của Thoreau, đặc biệt
thứ ngôn ngữ được sáng tạo trong tác phẩm “đi bộ” để nói về thiên nhiên, về cái
hoang dã và về phía Tây. Như đánh giá của nhà lí luận về phê bình sinh thái
Dana Phillips, phê bình sinh thái cổ điển là sự kỉ niệm, chào đón, ngợi ca trong
học thuật về văn học [100]. Vì vậy, từ đây có thể xem phê bình sinh thái với tư
cách là “một phong trào tự ý thức” (self-conscious movement) vào đầu thập kỉ
90 của thế kỉ XX và trở nên phát triển phong phú trong suốt thập kỉ. Đó là một
dự án tư duy phê bình văn học theo hướng có những gắn kết nghiêm túc hơn
với thế giới tự nhiên không phải con người.
2.2. Diễn trình của phê bình sinh thái
2.2.1. Khủng hoảng của phê bình sinh thái cổ điển
Sự xuất hiện của các công trình Chân lý của sinh thái: Tự nhiên, văn hóa
và văn học (The truth of ecology: Nature, culture, and literature in America.
Oxford: Oxford University Press, 2003) của Dana Phillips, Phê bình sinh thái
(Ecocriticism. New York: Routledge, 2012) của Greg Garrard, bài viết Nỗi
buồn trong màu xanh: Phê bình sinh thái dưới sự phê phán (Blues in the green:
Ecocriticism under critique (Environmental History, Vol. 9, No. 1 (Jan., 2004),
pp. 9-36) của Michael P. Cohen và cuộc bút chiến Estok-Robrisch cuối thập kỉ
đầu tiên của thế kỉ XXI đánh dấu bước chuyển về chính trị và lí thuyết của phê
bình sinh thái. Dana Philips, người đóng góp cho cuốn tuyển tập đầu tiên các
bài luận về phê bình sinh thái đã tiến hành một cuộc tấn công có thể nói là bạo
liệt vào phong trào phê bình sinh thái trong cuốn sách Chân lý của Sinh thái
học, xuất bản năm 2003. Một năm sau đó, như là một cách ngầm hưởng ứng,
42
Michael P. Cohen, cũng đưa lại lời phê bình của riêng mình trong bài luận được
đề cập ở trên. Greg Garrard, người từng là chủ tịch hội sinh thái Anh, với cuốn
Phê bình sinh thái, có một tổng quan mang tính phê bình về phê bình sinh thái
cổ điển. Cuốn phê bình sinh thái thứ ba của Lawrench Buell, Tương lai của phê
bình môi trường: Khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học (The future
of environmental Criticism : Environmental crisis and literary imagination
Malden, MA : Blackwell, Oxford ; Victoria. 2005) phân tích những mối lo ngại
về phương pháp của phê bình sinh thái cổ điển vốn chỉ dựa trên văn học viết về
thiên nhiên. Với các nhà lí thuyết phê bình sinh thái này, phê bình sinh thái
[nên, phải] được hiểu là một phản ứng trước vấn nạn môi trường đang bị khủng
hoảng trầm trọng, con người bị đe dọa trước sự tồn vong của chính mình với
những cảnh báo khi môi trường tự nhiên bị tàn phá và nguy cơ về sự tận diệt
của ổ sinh thái. Cũng vì vậy, mà khủng hoảng môi trường trở thành mối quan
tâm toàn cầu, buộc mọi quốc gia phải có sự liên kết lại với nhau để cùng tìm
phương thức giải quyết. Nhận thức được điều đó, dù là sự “thức tỉnh muộn
màng” nhiều ngành khoa học nói chung và văn học nói riêng đã và đang “chuộc
lỗi” với tự nhiên theo chính đặc thù của mình. Phê bình sinh thái [nên, phải]
được hiểu là nó ra đời như là một sự chuyển hướng kịp thời của nghiên cứu văn
học để tham gia vào những vấn đề nóng bỏng của nhân loại.
Cụ thể, Phillips tấn công phương pháp cổ điển của phê bình sinh thái – điều
mà Buell xác định là giai đoạn thứ nhất của phê bình sinh thái – vốn chỉ tập trung
vào văn học viết về thiên nhiên Mỹ, văn học về cái hoang dại, trải nghiệm cái hiển
linh cá nhân với những giả thiết của chủ nghĩa hiện thực đơn giản. Ông cho rằng
có quá nhiều sự mộ đạo đã được phép bao phủ lên thực hành phê bình sinh thái.
Phillips miêu tả các nhà phê bình sinh thái đã sử dụng những ẩn dụ lạc hậu từ sinh
thái học. Ông quan niệm các tu từ như “mạng lưới”, “kim tự tháp” và “hốc tường”
dùng để chỉ sự hài hòa, sự cân bằng và hòa đồng trong các khái niệm về “sự phát
triển đỉnh cao” hay sự đa đạng về giống loài, từ đó ông hướng độc giả đến lí thuyết
gần đây về sự bất ổn, sự cạnh tranh và hỗn loạn đang lấn át lí thuyết quyết định
luận hướng về cái hệ thống. Ông cũng khẳng định sự thật của sinh thái học là “sinh
thái học về sự phiền nhiễu từ tự nhiên”.
43
Đồng ý với quan điểm của Phillips, Cohen gọi giai đoạn này là “trường
phái tụng ca” trong phê bình sinh thái. Cả Cohen và Phillips đều đồng tình về
việc phê bình sinh thái cổ điển quá ngoan đạo do đó nó thất bại trong việc tạo ra
những sự phản biện nội bộ - điều cần thiết cho phát triển của chính xu hướng
trên. Cohen cho rằng, phê bình sinh thái, hiện diện về mặt tổ chức của nó là Hội
văn học và Môi trường thế giới (Association of literature and environment) cho
đến năm 1999 chủ yếu là tập trung vào sự hoang dại. Chính vì điều đó mà dẫn
đến khủng hoảng của Hội sinh thái thế giới vào năm 1999, khiến cho các học
giả của Hội phải nỗ lực tập trung không chỉ vào ngôn ngữ văn học vốn được tạo
dựng bởi văn hóa về cái hoang dại mà còn tập trung vào ngôn ngữ và diễn ngôn
đại chúng về các vấn đề môi trường vốn được xuất hiện trong các văn bản vụ
viện. Các nhà phê bình sinh thái phải tìm kiếm văn bản viết về tự nhiên trong
các tuyên bố về ảnh hưởng môi trường, bởi vì đó là nơi hầu hết những trang viết
thực sự về tự nhiên xuất hiện. Các nhà phê bình sinh thái phải tiến vào địa hạt
công cộng bằng cách khuyến khích và hỗ trợ việc viết cái thể loại văn học quan
trọng nhất, đó là thư cho một cơ quan chính phủ.
Cohen, với tư cách là một nhà lịch sử về phê bình sinh thái, tiết lộ rằng, một
hội kín được lập ra vào năm 1999 giữa các nhà phê bình sinh thái – những thành
viên của Hội văn học và môi trường – và hội này hướng đến sự đa dạng. Hội kín
đã soạn một bức thư gửi cho Ban điều hành của Hội văn học và Môi trường thế
giới nêu lên rằng “bằng chứng rõ ràng của sự phát triển quan tâm vào các vấn đề
công bằng môi trường và xã hội, vào mối liên quan lẫn nhau của chủng tộc, tầng
lớp, giới, tình dục và tự nhiên. Đã đến lúc mở rộng những nỗ lực này, phản ứng
với sự cần thiết đó, và vì thế, chúng ta thành lập một đại hội kín vì sự đa dạng”.
Như vậy, những người trình bày tại các hội thảo của Hội văn học và môi trường
nên là đại diện cho những quan điểm không chiếm ưu thế và các hội thảo đó cũng
xác định nhiều quan điểm đa dạng liên quan đến mối quan hệ liên đới của môi
trường với sự phân biệt của con người về chủng tộc, tầng lớp, giới và tình dục
cũng như xem xét xem thể loại hay văn bản thích hợp để khảo sát. Mối kết nối
giữa văn học môi trường và sự công bằng về môi trường thường bị che khuất hay
không được đánh giá cao bởi cả hai phía, đó là những nhà hoạt động, người gắn
44
kết với các chính sách và các phong trào môi trường và đấy là những học giả,
người quan tâm đến việc xây dựng lại các khái niệm về tự nhiên và xác định lại vai
trò của nghiên cứu văn học trong việc hình thành một sự cam kết mang tính phản
ứng với vấn đề môi trường. Các thành viên của Hội kín hi vọng rằng với sự đa
dạng về phương pháp – mở rộng ra các phương pháp của khoa học, múa, âm nhạc
và nghệ thuật trình diễn, các hội thảo của Hội văn học và Môi trường sẽ kết nối
chặt chẽ với các cộng đồng ở nơi mà hội thảo diễn ra, kết nối với các nhà môi
trường địa phương và các nhà hoạt động vì sự công bằng môi trường, mời họ tham
gia thiết kế và trình bày tại hội thảo.
Cùng nằm trong xu hướng phê bình đối với phương pháp tiếp cận văn học
của phê bình sinh thái cổ điển, Buell lưu ý rằng đó chính là phê bình sinh thái
Anh quốc, với công trình mở đầu là Nông thôn và thành phố (The country and
the city, 1973), đã có những sự hoài nghi về thực hành hướng về đồng quê trong
phê bình sinh thái và đã có thể triển khai một sự phản biện bằng cách hướng về
nền văn học đồng quê mang tính phức hợp hơn vốn được Leo Marx xác định
trong cuốn Cỗ máy ở trong vườn (The machine in the garden - 1964) một trong
những văn bản được coi là khởi nguồn của xu hướng phê bình sinh thái. Cuốn
sách khảo sát các vấn đề của quá trình tưởng tượng và sự biểu đạt về môi
trường; quan tâm đến quá trình tiếp nhận nơi chốn như là chiều kích nền tảng
của kinh nghiệm nghệ thuật, kinh nghiệm sống; tập trung phân tích những cam
kết về chính trị và đạo đức. Nhà lịch sử phê bình văn hóa này đã kêu gọi sự chú
ý vào sự phản ánh của văn học đối với những thời khắc lịch sử quan trọng bằng
cách giương cao quan điểm về sự phá hủy tự nhiên là do quá trình đô thị hóa và
chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Điểm đáng lưu ý nhất là Buell đem lại cho độc giả bản tổng kết và đánh
giá về phê bình sinh thái cổ điển với hiện trạng “bây giờ-gần đây”(near-now)
của phê bình sinh thái. Buell gọi phê bình sinh thái cổ điển, “một phong trào tự
ý thức” của thập kỉ cuối thế kỉ XX là làn sóng thứ nhất (“first wave”) của phê
bình sinh thái. Phê bình sinh thái cổ điển bắt đầu như là một hoạt động trong
phạm vi nghiên cứu văn học, đặc biệt là trong nghiên cứu văn học Anh - Mỹ
với hai thể loại: đó là chủ nghĩa lãng mạn Anh với sự tập trung đặc biệt vào thể
45
loại thơ và văn học thiên nhiên Mỹ nhất là các sáng tác theo kiểu Thoreuvian.
Theo đó, phê bình sinh thái giai đoạn đầu là một hướng tiếp cận trong phê bình văn
học, đấy là hướng nghiên cứu lấy thế giới không phải con người làm hệ quy chiếu.
Sự quy chiếu này diễn ra theo hai cách, như Buell tổng kết. Thứ nhất là cách thức
mang tính nhân văn, khi ấy con người và ý thức con người được cho là đặt trên
nền tảng cho quan hệ phụ thuộc gần gũi lẫn nhau với thế giới sinh vật không phải
con người. Buell cho rằng phê bình sinh thái cổ điển có mục tiêu là “chăm sóc trái
đất” (earthcare), phê bình sinh thái có một sự quan tâm đặc biệt đến mối gắn kết
giữa các cá thể người và thế giới không phải con người, đó là sự tiếp xúc mang
tính hiện sinh với môi trường và cách thức quy chiếu tới thế giới tự nhiên của phê
bình sinh thái cổ điển. Thứ hai là làm cho phê bình và lí thuyết văn học có được sự
cập nhật về mặt khoa học hơn, với những kết quả từ các ngành sinh thái học, sinh
học môi trường và địa chất học. Nỗ lực nhằm cộng gộp tư duy khoa học và tư duy
nhân văn có ảnh hưởng lâu dài nhất của làn sóng đầu trong phê bình sinh thái là
các công trình “về xu hướng vùng sinh học” (bioregionalism) – một kiểu tư duy
đan kết vào nhau những kết quả của sinh thái học, địa lí học, nhân chủng học, lịch
sử học, hiện tượng học và mĩ học nhằm đi đến khẳng định rằng sự trung thành
trước tiên của một con người như một công dân nên làm là trung thành với cái
vùng sinh học – hay vùng sinh thái – hơn là trung thành với quốc gia hay một đơn
vị mang tính pháp lí nào đó. Hiểu biết về sinh thái được xem như là một phương
diện tối quan trọng trong tư cách công dân.
2.2.2. Công lí môi trường trong phê bình sinh thái
Nếu như phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên đặc biệt nhấn mạnh vào các
không gian làng quê và không gian hoang dã hơn là không gian đô thị thì phê
bình sinh thái ở làn sóng thứ hai lại khẳng định rằng bức tường tách biệt giữa
các không gian đó là sản phẩm của lịch sử, rằng thiên nhiên là đối tượng do con
người định hình nên, và rằng kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, phong cảnh
thành phố và môi trường được tạo dựng nói chung phải là một nền tảng cũng
năng sản không kém cho các công trình sinh thái. Theo Buell, đây là lí do vì sao
xu hướng vùng sinh học vẫn còn có ảnh hưởng; mặc dù hướng đến việc đem lại
giá trị đặc biệt cho các hệ thống sinh thái và các cộng đồng sinh vật trên một
46
nơi chốn có chiều kích nhỏ, nhưng nó thừa nhận ý nghĩa của môi trường ở các
đô thị là một phần của văn hóa và lịch sử vùng đó. Như vậy, với Buell, giai
đoạn hai của phê bình sinh thái mang tính tự phê bình, nó tìm cách mở rộng các
tư tưởng về “tự nhiên và môi trường” [96, 21-24]; phê bình theo môi trường bao
gồm cả môi trường “đô thị” và môi trường “được tạo dựng” có sự luồn xuyên
lẫn nhau giữa địa phương và toàn cầu. Mặc dù các nhà phê bình sinh thái vẫn
tiếp tục chú ý đến những biểu đạt về các không gian mở hơn là không gian
thành phố thì như dự đoán của Buell sự bất cân bằng này sẽ thay đổi; phê bình
sinh thái sẽ tiếp tục lí thuyết hóa các mạng lưới hay các môi trường của đô thị
như là một phần của thế giới trần tục.
Điều đáng chú ý nhất về phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai, bắt đầu từ
thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, đó là sự phản ứng lại cái được gọi là xu hướng lấy
sinh thái làm trung tâm (ecocentrism). Điều này xuất phát từ sự cộng hưởng của
phê bình sinh thái giai đoạn hai với thuyết môi trường. Nếu như phê bình sinh
thái giai đoạn đầu hưởng ứng thuyết môi trường theo xu hướng bảo tồn, đó là
hướng đến việc bảo vệ tự nhiên ở những khu vực xa xôi, ít người sinh sống thì
phê bình sinh thái giai đoạn hai gắn kết với thuyết môi trường theo xu hướng đi
cùng sức khỏe cộng đồng. Đó là việc hướng đến phong cảnh cùng sự chuyển
biến về đô thị hay công nghiệp với việc quan tâm đến các vấn đề thuộc về con
người như vấn đề an toàn lao động, sự thiêu hủy chất thải, sự phá hủy quê
hương do các lợi nhuận dầu khí v.v…. Như vậy, vấn đề đạo đức của phê bình sinh
thái giai đoạn này hướng đến xã hội (sociocentric) hơn là hướng đến sinh thái. Phê
bình sinh thái đã chuyển mối ưu tiên đến vấn đề công lý môi trường
(environmental justice), đấy là sự phân chia không công bằng về các quyền lợi môi
trường, hố sâu giữa người da trắng và người không phải da trắng, người giàu và
người nghèo. Vì thế, trong cuốn sách này, Buell vận dụng kết quả quan sát của
Ursula Heise khi dùng các thuật ngữ “phê bình môi trường” (environmental
criticism), hay “nghiên cứu văn học - môi trường” (literary - environmental
studies) hay “sinh thái học văn học” (literary ecology), “môi trường luận văn học”
(literary environment) hay “nghiên cứu văn hóa xanh” (green cultural studies) như
là những dạng thuật ngữ tắt của thuật ngữ phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái
47
thuộc làn sóng thứ hai mặc dù có hướng đến những phong cảnh bị tàn phá nhưng
nó đem đến vị trí đặc biệt cho những cộng đồng dân tộc thiểu số, ở cả trong nước
và quốc tế được thể hiện trong các văn bản thuộc thể loại nghệ thuật đẳng cấp cho
đến cả nền văn hóa bên lề. Quan tâm đến sự công bằng về môi trường, các nhà phê
bình sinh thái xem xét hai phương diện có liên quan đến nhau, đó là các vấn đề về
sự nhiễm độc và về quyền của các chủng tộc.
Một sự kiện tranh luận nổi tiếng, thu hút rất nhiều sự chú ý và mở lại
nhiều vết thương, chính thức được gán cho cái tên hiệu là “cuộc luận chiến”, -
luận chiến Estok-Robisch, điều này đã trở thành cột sóng thu lôi cho những bàn
luận về “mối quan hệ sợ hãi đầy ám ảnh của phê bình sinh thái với lí thuyết”
xuất hiện trên nhiều tạp chí. Cụ thể: Số Mùa xuân năm 2009, tạp chí
Interdisciplinary studies in literature and environment (ISLE), một bài tạp chí
được xuất bản bởi nhà phê bình sinh thái nổi tiếng là Simon Estok, tên là Quá
trình lí thuyết trong không gian của sự mở nước đôi: Phê bình sinh thái và sự
sợ hãi ám ảnh đối với sinh thái (Theorizing in a space of ambivalent openness:
Ecocriticism and ecophobia) . Estok phân tích văn học sinh thái Pháp và chỉ ra
rằng, với các nhà văn sinh thái Pháp, tự nhiên không phải là cái gì bên ngoài
con người mà là cái nằm trong mối liên hệ với con người. Điều này là phù hợp
với sự khẳng định rằng các nhà lí thuyết Xanh người Pháp có xu hướng nghiên
cứu xem bản sắc tự nhiên và con người liên kết với nhau như thế nào. Như vậy,
các nhà sinh thái văn học Pháp có cách tiếp cận không dựa vào trung tâm là
sinh thái, điều này khác với các tiếp cận lấy sinh thái hay sinh học làm trung
tâm của các triết gia môi trường người Anh - Mỹ, những người nhấn mạnh giá
trị cố hữu của tự nhiên. Nhằm vượt lên trên xu hướng lấy con người làm trung
tâm và sự phân biệt dựa trên giống loài, chứng sợ sinh thái của Estok tạo ra một
logic “trung tâm” cơ bản vắng mặt trong cái chứng sợ thiên nhiên của các nhà
văn sinh thái Pháp. Trong khi chứng sợ thiên nhiên của các nhà văn Pháp bao
gồm con người - tự nhiên, thì chứng sợ sinh thái nhấn mạnh một lịch sử dài của
việc con người chống lại tự nhiên. Thấm đẫm trong lí thuyết hệ thống, các nhà
sinh thái phi trung tâm của Pháp có thể đem lại những khung hữu ích trong việc
48
giải quyết sự hỗn độn của hiện thực mà không cần làm giảm thiểu tính phức
hợp của nó hay kêu gọi hướng tới tính ít nước đôi hơn.
Estok thừa nhận sự thất bại của phê bình sinh thái trong việc mang tính
hoạt động hiệu quả và mang tính lí thuyết hệ thống về khả năng của chứng sợ
sinh thái trong việc xác định cả hai. Chứng sợ sinh thái được dùng để chỉ những
định kiến về các phạm trù lớn và chỉ nỗi căm ghét phi lí không có cơ sở đối với
thế giới tự nhiên, nó liên quan đến khát vọng của con người trong việc điều
khiển tự nhiên, ông truy tìm sự phát triển của chứng sợ sinh thái từ thời kì đồ đá
mới cho đến thời đại hậu công nghiệp. Phân tích tác phẩm vua Lear của
Shakespear để chứng minh nguyên nhân môi trường và xã hội làm xuất hiện sự
biểu lộ của chứng sợ sinh thái trong các văn bản văn hóa và văn học. Trong khi
kêu gọi quá trình lí thuyết hóa mang tính tổng hợp, Estok giải thích rằng phê
bình sinh thái cần đưa ra “vấn đề về sự hữu hạn” để không tổn hại đến chính trị
và đạo đức của xu hướng hành động này. Estok cũng xem sự gắn kết của phê
bình sinh thái trong việc tạo ra các mối liên hệ thúc giục chúng ta hiểu “chứng
sợ sinh thái, sự ghét kết hôn, sợ đồng tính và sự phân biệt chủng loài” liên kết
nhau như thế nào. [103, 203]
Bài tạp chí như tiêu đề gợi ý, là quan điểm lí thuyết Estok, khẳng định
tiềm năng của khái niệm “nỗi sợ hãi ám ảnh” đối với sinh thái để đem đến một
điểm nhìn thống nhất trong không gian mở và nước đôi của phê bình sinh thái.
Gợi ý rằng các quá trình lí thuyết hóa cùng nổi lên không những khiến cho phê
bình sinh thái hoàn toàn được tin cẩn hơn mà còn làm cho bản thân lí thuyết trở
nên gắn kết với hành động hay chính sách dùng chiến dịch nhằm tạo ra những
thay đổi về chính trị và xã hội. Bài tạp chí đó đã tạo nên sự tranh luận sôi nổi,
nhưng sự phản ứng gay gắt nhất xuất hiện ở hai số sau của ISLE, đó là phản ứng
của nhà phê bình sinh thái S.K. Robisch với bài Lều chứa củi: Một trả lời đối
với bài “Phê bình sinh thái và nỗi sợ hãi ám ảnh đối với sinh thái” (The
Woodshed: A Response to “Ecocriticism and Ecophobia, 16.4 (Autumn 2009).
Bài báo này xem Estok như là đại diện của cỗ máy lí thuyết hiện đại “phải phá
hủy dưới hình thức phản kháng” – một công cụ tự sướng xóa đi tự nhiên và
không có gì liên quan đến hoạt động xanh. Cái xu hướng kinh viện theo kiểu
49
những người mê đắm tiếng Pháp và nước Pháp đến để hứng chịu trận đòn đau.
Hơn nữa, tác giả cũng mời những người có chung suy nghĩ liên lạc với mình
qua email để trình ra ở hội thảo thuốc đỏ để “nói về hội những người có hành
xử đạo đức với động vật hay với những kẻ giả mạo thiên nhiên những người đi
bộ ngồi này”. [130, 697-708]
Có thể nhận ra, đến Buell và các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ
hai, phê bình sinh thái quan tâm đến mối liên hệ của văn bản đối với đời sống
xã hội, chính trị và môi trường trong sự tiếp cận văn học. Buell gọi đó là “quan
hệ trao nhận giữa văn bản và môi trường”; quan hệ này được chỉ ra là có ba
hình thức: quan hệ trao nhận mang tính tu từ, quan hệ trao nhận như là trình
diễn, và quan hệ trao nhận là sự kiến tạo thế giới” [96]. Nói cách khác, nếu như
hướng tiếp cận sinh thái đối với văn học ở giai đoạn đầu tập trung xem xét nội
dung và hình thức văn học tự nhiên trong sự quy chiếu đến các vấn đề thiên
nhiên, trái đất, thì hướng tiếp cận sinh thái đối với văn học ở giai đoạn hai lại
hướng đến mối quan hệ và sự tương tác của tác phẩm với thế giới vật chất, cụ
thể là các phong trào về công bằng môi trường, công bằng xã hội. Như vậy, phê
bình sinh thái ở làn sóng thứ hai xoay quanh cách tiếp cận văn học trong mối
tương quan với sự gắn bó, cam kết với cuộc đấu tranh dai dẳng vì công bằng
môi trường xã hội, và suy cho cùng, phê bình sinh thái đặt vấn đề con người
làm trung tâm, nó xác định vấn đề về môi trường để khúc xạ các vấn đề khác
cấp thiết của con người xã hội. Và nói như Karen Warren trong cuốn sách kinh
điển về nữ quyền sinh thái, Triết lí sinh thái nữ quyền: Cái nhìn phương Tây về
nó là gì và tại sao nó lại quan trọng? (Ecofeminist philosophy: A Western
perspective on what it is and why it matters, Lanham, Md. : Rowman &
Littlefield, ©2000), “các lực tự nhiên (các sự kiện tự nhiên) gây ra các vấn đề
môi trường, nhưng đó không phải là nguyên nhân chính… nguyên nhân này
liên quan đến một phức hợp các yếu tố thuộc vụ viện, kinh tế, văn hóa và chính
trị… Quyền lợi kinh tế và quyền lợi giai cấp dẫn đầu trong các yếu tố ảnh
hưởng đến sự xuất hiện và việc xác định các vấn đề về môi trường ” (ND nhấn
mạnh) [144, 8].Lí do là vì ngay cả những học giả đặt nền tảng cho phê bình
sinh thái cũng đã thừa nhận, “chúng ta đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn
50
cầu hôm nay, không phải bởi vì các hệ thống sinh thái hoạt động như thế nào
mà bởi vì hệ thống đạo đức của chúng ta hoạt động ra sao? Đi qua cuộc khủng
hoảng, cần hiểu càng nhiều càng tốt về ảnh hưởng của chúng ta lên tự nhiên,
nhưng thậm chí hơn, nó yêu cầu sự hiểu đối với các hệ thống đạo đức và dùng
sự hiểu đó để cải tổ chúng. Các nhà lịch sử, cùng với các học giả văn học, các
nhà nhân học và các triết gia không thể tiến hành sự cải tổ, tất nhiên [điều này
cần sự tham gia thực tế của những nhóm người có quyền khác, như các nhà
hoạch định chính sách hay các chính trị gia - ND], [111, xxi].
2.2.3. Phê bình sinh thái với cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và
tính liên ngành
2.2.3.1. Sự manh nha của phê bình sinh thái làn sóng thứ ba
Các nhà lí luận về phê bình sinh thái đã đề cập đến phê bình sinh thái ở
“làn sóng” thứ ba. Song những điều được miêu tả về làn sóng thứ ba của phê
bình sinh thái thường được xem là đang được thử nghiệm và dự đoán; dù vậy,
các nhà lí thuyết phê bình sinh thái vẫn khẳng định đây là hướng tiếp cận tiếp
tục có đóng góp không chỉ trong phạm vi các chuyên ngành khoa học xã học,
nhân văn mà còn cho cuộc đối thoại lớn hơn về cuộc khủng hoảng môi trường
mà con người đang đối mặt. Như William Ruddiman trong cuốn sách kinh điển
về thay đổi môi trường, Khí hậu của trái đất: quá khứ và tương lai (Earth's
climate : past and future. New York : Freeman, 2014) khẳng định, con người đã
gây ảnh hưởng rõ rệt và thậm chí quyết định đến hệ thống khí hậu kể từ khi nền
văn minh nhân loại tồn tại; mức độ carbon trong khí quyển bắt đầu tăng lên khi các
nền văn minh ban đầu chuyển đổi đất lâm nghiệp sang sử dụng trong nông nghiệp.
Vì vậy, câu chuyện về nền văn minh nhân loại đến một mức độ lớn, là câu chuyện
về những cách chúng ta phản ứng và giúp định hình khí hậu thay đổi của chúng ta.
Tất nhiên, viễn cảnh của biến đổi khí hậu mà chúng ta đang phải đối mặt là khác
nhau, cả về mức độ nghiêm trọng của hậu quả và sự đột ngột mà nó đang xảy ra.
Trong cuộc đời của chúng ta phải chăng thảm họa chung có thể so sánh duy nhất là
mối đe dọa tuyệt chủng thông qua chiến tranh hạt nhân, một mối đe dọa trong trí
tưởng tượng phổ biến, nếu không thực tế, dường như đã giảm bớt. Cảm giác của
thảm họa phổ biến này đòi hỏi một cảm giác mới về trí tưởng tượng lịch sử và sẽ
51
đòi hỏi một loạt các công cụ quan trọng và lý thuyết mới. Tuy nhiên, bất chấp
những khả năng thú vị mà chúng ta mang lại cho con người và những nhu cầu cấp
thiết mà chúng ta có thể gặp, chúng ta vẫn bị xuống hạng bên lề trong các cuộc đối
thoại chính sách công. [131]
Làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái tiếp tục dựa trên sự phát triển của
phê bình sinh thái ở làn sóng thứ hai, đó là sự rời xa cái nhìn thiên nhiên ở Mỹ
để hướng tới phạm vi mang tính toàn cầu hơn; phá bỏ mối quan hệ đối lập giữa
“thiên nhiên” và “con người” trong đó thiên nhiên được ưu tiên và con người
thì sa đọa; khám phá những phạm vi và ảnh hưởng về xã hội, kinh tế vật chất
của các chu trình môi trường, phân tích “cái môi trường” như là đặc tính chủ
chốt của tất cả các văn bản chứ không phải chỉ hạn chế trong văn học thiên
nhiên và mở rộng sự khảo sát không chỉ bao gồm phong cảnh hoang dã, quang
cảnh nông thôn mà còn không gian thành phố, ngoại ô và các môi trường được
kiến thiết khác. [142]
2.2.3.2. Cái toàn cầu, sự tuyệt chủng, động vật và tính liên ngành
Làn sóng thứ ba của phê bình sinh thái có những đặc điểm riêng, rời khỏi
những đặc trưng của phê bình sinh thái thuộc hai giai đoạn trên. Trước hết, sự
phát triển các khía cạnh chính trị của phê bình sinh thái, các nhà lí luận và thực
hành phê bình sinh thái có xu hướng di chuyển theo hướng kết hợp phê bình
hậu thuộc địa với phê bình sinh thái. Rõ ràng là các hướng nghiên cứu mới về
văn học từ các quan điểm môi trường cũng là mối quan tâm chính của các nhà
phê bình văn học hậu thuộc địa, những người giải quyết các di sản thuộc địa
trong tư tưởng kinh tế, chính trị, văn hóa. Hơn nữa, kể từ nửa sau của thiên niên
kỷ, các học giả hậu thuộc địa đã cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa phê bình
sinh thái và phê bình hậu thuộc địa, “hai lĩnh vực năng động nhất trong nghiên
cứu văn học”[124, 233]. Rob Nixon, Graham Huggan, Helen Tiffin, và Anne
Maxwell, các học giả hậu giáo "xanh" tiên phong, nhấn mạnh rằng hai trường
phái tư tưởng chia sẻ một nhiệm vụ chung về giải quyết các cuộc khủng hoảng
môi trường và liên hệ với các nhóm thống trị như là kết quả của các di sản
thuộc địa kéo dài ở các trạng thái hậu thuộc địa. Đáng chú ý, các nhà phê bình
sinh thái nhấn mạnh sự toàn cầu hóa ngày càng tăng. Như vậy, các vấn đề cùng
52
những mối quan tâm xã hội về sinh thái toàn cầu cho thấy các học giả cần phải
vượt ra ngoài phê bình sinh thái, phát triển lợi ích trong việc kết hợp các phê
bình về hậu sinh thái và môi trường. Phê bình sinh thái mở rộng ra không gian
và các tài liệu thuộc các nước hậu thuộc địa, xem xét sự nhận thức về nơi chốn
và sự gắn bó với nơi chốn từ phương diện thế giới và toàn cầu.
Cụ thể, thứ nhất, phê bình sinh thái có xu hướng gắn bó chặt chẽ với vùng
và cộng đồng, đề cao sự liên minh với nơi chốn địa phương, sự độc đáo về mặt
sinh thái. Các văn bản hậu thuộc địa phân tích theo hướng sinh thái thường ủng
hộ những điều này nhưng giống như văn học hậu thuộc địa, chúng chủ động và
năng suất hơn việc nhận thức lại địa phương và khu vực trong mối quan hệ với
những tác động của các lực xuyên địa phương, mang tính toàn cầu. Các nhà lí
luận về phê bình sinh thái thường lấy tiểu thuyết Thủy triều đói của nhà văn Ấn
Độ Amitav Ghosh như là một văn bản kinh điển của văn học sinh thái trong cái
nhìn của phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh
sự cạnh tranh giữa dự án nghiên cứu và bảo vệ loài cá heo có nguy cơ tuyệt
chủng ở vùng vịnh Bengal của các học giả thuộc thế giới thứ nhất và dự án
quốc gia, quốc tế về việc bảo vệ loài Hổ Bengal; sự xung đột này lại là cái cớ để
chính phủ Ấn Độ thực hiện các biện pháp cưỡng ép di dời đối với cư dân bản
địa. Các nhân vật của cuốn tiểu thuyết, ở cấp độ này hay cấp độ khác, là người
di dân hay là người bản địa, đều trở thành những mô hình mang tính sinh thái
về sự gắn bó với nơi chốn, điều này khác với chủ nghĩa địa phương sinh thái
văn hóa tự thân (self-contained ecocultural localism) như cách đọc sinh thái cổ
điển với tác phẩm của Wordsworth và Thoreau. Vì thế, cuốn tiểu thuyết của
Ghosh được đọc như là sự tiếp nhận cái toàn cầu trong phạm vi cái địa phương
(Đọc Heise và Verderame). Cuốn Nhận thức về nơi chốn và nhận thức về hành
tinh (Sense of place and sense of planet: the environmental imagination of the
global, New York, NY Oxford Univ. Press 2010) của Ursula Heise có thể coi là
sự phân tích toàn diện về khả năng sáng tạo lại sự gắn bó với nơi chốn ở cấp độ
hành tinh. Bà nêu lên chủ đề về sự nóng lên toàn cầu và chỉ ra một lĩnh vực
khác cho các nhà phê bình môi trường quan tâm khảo sát để phát triển lý thuyết
về một nền văn hóa sinh thái toàn cầu; điều này được cho là chắc chắn sẽ khám
53
phá đầy đủ nỗi lo ngại về sự biến đổi khí hậu. Bà cho rằng, phim và tiểu thuyết
khoa học viễn tưởng đi trước tất cả các thể loại hư cấu khác trong việc phản ánh
sự nóng lên toàn hành tinh trong hơn nửa thế kỉ qua. [140]
Thứ hai, phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ ba mang tính liên ngành.
Các nhà phê bình sinh thái sẽ làm việc với phổ dữ liệu và tài liệu lịch sử rộng
lớn hơn trước. Cùng với các tài liệu chuẩn mực về lịch sử văn học – như các tạp
chí, thư từ, báo chí, vv... các nhà phê bình sinh thái tương lai sẽ làm việc với
các bản đồ thời tiết, báo cáo y tế, hồ sơ giá lương thực và dữ liệu về mẫu băng
đá. Những tài liệu như vậy có thể mở rộng giới hạn sự hiểu biết chuyên ngành
của chúng. Các nhà phê bình sinh thái có thể không phải là nhà khoa học,
nhưng họ được yêu cầu là phải có một sự hiểu biết cơ bản trong các môn khoa
học vật lý, môi trường và y sinh học để phù hợp với các dự án nghiên cứu về
sinh thái. Các nhà phê bình văn học sẽ cần phải rời bỏ xu hướng tương đối và
phép ẩn dụ vốn là đặc trưng của văn học và học cách đối thoại với các nhà khí
hậu học, địa chất và vật lý theo cách riêng của mình. Điều này có ích trong việc
mở rộng đối tượng khán giả của nghiên cứu văn học.
Buell cho rằng, phê bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên đã mang tính liên
ngành khi nó gắn kết với hiện tượng học và sinh học tiến hóa. Trong nghiên cứu
giới, ngay cả khi chưa có thuật ngữ “chủ nghĩa nữ quyền sinh thái” thì đã tập trung
vào mối quan hệ giữa phụ nữ và môi trường. Nghiên cứu giới và môi trường ngay
từ trước những năm 1990 đã dựa vào lí thuyết về giới mang tính liên ngành chứ
không chỉ dựa vào lí thuyết văn học. Điều đó đã đạt được thành tựu lớn không chỉ
với tư cách là một dự án diễn giải văn học mà còn như là một dự án của việc khảo
sát lịch sử văn hóa. Dựa trên ý nghĩa biểu tượng đất như là phụ nữ và cái nhìn nam
quyền các nhà nghiên cứu đã chỉ ra các mô hình về tính ích kỉ trong sinh thái chiều
sâu và các lí thuyết sinh thái lấy con người làm trung tâm khác. Hơn nữa, như
Buell chỉ ra, ngay từ làn sóng thứ hai, khi mà diễn ngôn hay ẩn dụ về môi trường –
thuộc bất cứ thể loại nào – cũng thể hiện tính liên ngành của phê bình sinh thái. Và
cho đến giờ, việc nhận thức lại các vật thể văn hóa được làm từ ngôn ngữ - dù vật
thể đó được cấu tạo từ ngôn ngữ một cách có thẩm mĩ, một cách triết học, tôn giáo,
54
đạo đức, chính trị hay là sự cộng gộp của tất cả - vẫn còn là trung tâm đối với phê
bình sinh thái. [97, 87-115]
Trong bài giảng về phê bình sinh thái tại Khoa Văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội ngày mùng 4 tháng 12 năm 2017, Heise
Ursula (Trường Đại học California, Los Angeles) kết luận rằng kể từ năm 2010
về sau, phê bình sinh thái ở Úc, Canada, Mỹ và Tây Âu càng định hình nó như
là một phần của cái ma trận mới, thường được gọi là khoa học nhân văn môi
trường – environmental humanities (vốn thường được gọi là khoa học nhân văn
sinh thái ở Úc). Bộ môn liên ngành này tìm kiếm kết nối nghiên cứu định
hướng môi trường ở nhiều bộ môn trong khoa học nhân văn và khoa học xã hội:
triết học môi trường, lịch sử môi trường, nghiên cứu văn học môi trường, nhân
học môi trường, địa lí văn hóa, nghiên cứu giao tiếp và truyền thông, nghiên
cứu giới, nghiên cứu đô thị và nghiên cứu tôn giáo. Khả năng của cái nhìn liên
ngành đó nổi lên từ một vài yếu tố. Cái nhìn môi trường sau vài thập kỉ đấu
tranh đã tự thiết lập nó thành công ở các bộ môn như lịch sử, văn học, triết học
mà các nhà nghiên cứu có thể lờ đi cái ranh giới bộ môn với những mục tiêu
chung. Và lĩnh vực liên ngành của “nghiên cứu môi trường”, được chính thức
hóa vào những năm 1960 ở nhiều trường đại học trên thế giới không có nhiều
chỗ cho các môn thuộc khoa học nhân văn (humanities).
Nhưng quan trọng hơn, sự thiếu hụt trong các trao đổi công cộng về sự khủng
hoảng môi trường – đặc biệt là trong trường hợp những thay đổi thời tiết – khiến
nhiều nhà hoạt động về môi trường và thậm chí là các nhà khoa học môi trường
nghĩ sâu sắc hơn các câu hỏi về văn hóa, ngôn ngữ và tự sự. Trong bài giảng của
mình, Heise đã trích ý kiến của nhà lịch sử môi trường Sverker Sörlin cho là:
“niềm tin của chúng ta cho rằng khoa học một mình nó có thể chuyển con người từ
tình trạng sa lầy toàn hành tinh và lúc nào đó, khi có những niềm hi vọng lên cao
dành cho nghiên cứu và các giải pháp thu xếp công cộng mới được dẫn dắt bởi sự
khuyến khích.Tuy nhiên, sau nhiều năm kể từ hội nghị Rio năm 1992, con người
lại phải quyết định những con đường nhỏ đi đến sự bền vững. Dường như lần này
các hi vọng của chúng ta gắn kết chặt chẽ với các khoa học nhân văn”. Nguy cơ
của sự chuyển biến đó không chỉ là một sự phân tích kĩ hơn về cái thường được coi
55
như là “chiều kích nhân văn của các khủng hoảng môi trường” trong phát biểu
chính sách của các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan quốc tế. Thay vào đây,
khi khám phá các văn hóa địa phương, dân tộc, khu vực và toàn cầu về xu hướng
môi trường, các nhà khoa học nhân văn môi trường tìm cách định nghĩa lại các
cuộc khủng hoảng sinh thái. Những cuộc khủng hoảng này vốn thường được tiếp
cận như là các câu hỏi chủ yếu là về chính sách, công nghệ và khoa học – như ô
nhiễm, sự biến mất đa dạng sinh học, sự nóng lên toàn cầu – giờ đây được hiểu
như là các thách thức đối với công bằng xã hội và sự phân biệt văn hóa (người
viết nhấn mạnh).
Theo giáo sư Ursula, sự kết nối với các câu hỏi về công bằng môi trường
đang là vấn đề được tập trung trong bối cảnh mới này. Sự công bằng về môi
trường như là một phong trào nổi lên ở Mỹ vào những năm 1980, tập trung vào
sự phân bố không đồng đều của các nguồn tài nguyên môi trường và các rủi ro
môi trường giữa các nhóm dân cư khác nhau như cộng đồng người da màu (đặc
biệt là nhóm người Mỹ gốc Phi và nhóm người Mỹ gốc Mỹ La tinh) thường đối
mặt với các nền công nghiệp nguy hiểm, các khu chứa chất thải độc hại và các
khu vực chịu sự nhiễm độc không khí, nước và đất. Cùng lúc đó, các phong
trào môi trường tương tự cũng lên cao ở bán cầu Nam: nhà xã hội học
Ramachandra Guha và nhà khoa học chính trị Joan Martínez-Alier gọi đây là
"phong trào môi trường của người nghèo", cụm từ này có nghĩa là các cộng
đồng ở châu Phi, châu Á, và Mỹ La tin đấu tranh chống lại sự phá hủy rừng, sự
xói mòn, sự ô nhiễm và sự thu hồi đất của chính phủ, để duy trì sự tồn tại của
họ. Hiện nay, như Ursula quan sát, các cộng đồng thiểu số (người da màu, phụ
nữ, nhóm dân tộc thiểu số, người thu nhập thấp, v.v…) đồng thời đấu tranh
chống lại các dự án bảo tồn như khu bảo tồn đời sống hoang dã hay các công
viên quốc gia vốn được thiết lập bởi các tổ chức môi trường ở Bắc Mỹ hay Tây
Âu mà không có ý kiến của cộng đồng địa phương. Các phong trào đòi công lí
môi trường của các nhà môi trường không phải lúc nào cũng liên kết một cách
dễ dàng với nhau: gần đây nhất, trong các lĩnh vực đấu tranh xã hội mới như
công bằng thực phẩm, công bằng năng lượng và công bằng thời tiết. Những
56
cuộc đấu tranh cho công bằng xã hội vì một hệ sinh thái bền vững trở nên gắn
kết chặt chẽ ở nhiều khu vực trên thế giới trong vài thập kỉ qua.
Một dẫn chứng khẳng định tính liên ngành của phê bình sinh thái ở làn
sóng thứ ba không thể không dẫn ra là bài viết gây tiếng vang Khí hậu của lịch
sử: Bốn luận điểm (Critical Inquiry Vol. 35, No. 2 (Winter 2009), pp. 197-222)
của Dipesh Chakrabarty. Trong đó Chakrabarty xem xét lại phương pháp viết
sử trong tương quan với sự thay đổi khí hậu. Tác giả khẳng định sự leo thang
của khủng hoảng môi trường và việc con người đang vận hành các chu trình
hóa - sinh học đã điều khiển hệ thống khí hậu của trái đất cho thấy những giới
hạn của những miêu tả về lịch sử con người theo kiểu lấy con người làm trung
tâm một cách truyền thống, cho dù đó là những miêu tả có xu hướng Marxist,
có xu hướng hậu thuộc địa hay là có xu hướng Foucaul. Tác giả chỉ ra bốn cách
phản ứng của phê bình sinh thái đối với thực tế về sự xuất hiện của loài người
được coi như là một nguồn ảnh hưởng lớn lên sự thay đổi về khí hậu và địa chất
của trái đất. Thứ nhất, phê bình sinh thái đem vấn đề công lí môi trường để
đánh giá, phân tích tình cảnh của những người bại trận, mất mát, bao gồm cả
thế giới không phải con người. Thứ hai, đó là việc giải thích, luận giải ảnh
hưởng xã hội và chính trị của diễn ngôn và sự tưởng tượng về quá trình nóng
lên toàn cầu. Thứ ba, đó là việc diễn giải lại các văn bản trong quá khứ với cái
nhìn gắn kết các vấn đề của sự thay đổi khí hậu do con người gây ra. Thứ tư,
đó là sự phân tích đối với mối liên hệ giữa việc tiêu thụ nhiên liệu của giai cấp
trung lưu và việc các nước đang phát triển dùng các máy móc kĩ thuật lạc hậu
do các nước phát triển thải ra làm biến đổi và bất ổn về khí hậu. Những phản
ứng này cho thấy tính liên ngành của phê bình sinh thái.
Thứ ba, phê bình sinh thái đang ngày càng có sự quan tâm đặc biệt đến
sự thể hiện động vật trong quá trình nhận thức lại của con người. Theo nhận
định của Lawrence Buell, nghiên cứu trên động vật rõ ràng là một chủ đề nóng
trong lí thuyết phê bình – “nóng hơn cả sự nóng lên toàn cầu” [97, 105]. Không
chỉ các nhà khoa học cuộc sống và nhà nhân chủng học văn hóa mà cả các nhà
thần kinh học, nhà đạo đức học, nhà lý luận, nhà lý luận pháp lý, các học giả
văn chương đều phát biểu về chủ đề nghĩa vụ của con người đối với thế giới
57
không phải con người, về tính lỏng lẻo hay sự kiên cố của đường biên giữa con
người và thế giới không phải con người, cũng như sự giao tiếp giữa các loài.
Năm 2010, Dana Phillips cùng 7 học giả ra số báo về phê bình sinh thái và
nghiên cứu động vật trên tạp chí Safundi: The Journal of South African and
American studies. Bài viết tìm hiểu các vấn đề môi trường từ sinh thái và
nghiên cứu động vật, hướng tới vấn đề bảo vệ môi trường, động vật khỏi sự đe
dọa do chính sách công kém phát triển hay do sự sở hữu mang tính lạm dụng
của con người với tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời đã diễn giải hành vi động
vật, đặc biệt là ý thức, giao tiếp và cảm xúc động vật với những đề xuất về
quyền động vật. Bên cạnh đó còn bàn về vị trí trung tâm sinh thái của động vật
ở nơi sinh tồn, nơi chúng phát triển và cũng là nơi mà chúng bị bắt phải rời đi.
Các bài viết cũng phân tích sự đứt gẫy của đời sống con người với động vật do
quá trình toàn cầu hóa; mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị, con người và
động vật; ảnh hưởng của các giả định về giới tính, chủng tộc và về tính chủ
quan trong các biểu đạt về thế giới tự nhiên; địa điểm và chính trị thuộc địa, hậu
thuộc địa, tân thuộc địa, và xuyên quốc gia vốn đặt cái địa phương trong cái
toàn cầu và cái toàn cầu trong cái địa phương; sự mất cân bằng quyền lực vốn
tiếp tục đảm bảo đặc quyền đặc lợi của thế giới thứ nhất, các nước đế quốc, và
các không gian đô thị, hạ thấp thế giới thứ ba, những kinh nghiệm hậu thuộc địa
với ngoại vi; sự kiên trì liên tục của văn học và nghệ thuật trong bối cảnh của cả
hai cuộc khủng hoảng môi trường (ví dụ như biến đổi khí hậu) và sự suy yếu về
thẩm quyền của chủ nghĩa nhân văn; nhu cầu về nghiên cứu động vật và sinh
thái học để suy ngẫm về những ý nghĩa mang tính lí luận và lịch sử trong các tài
liệu thuộc nghiên cứu hậu thuộc địa, giải cấu cấu trúc, triết học, khoa học sinh
thái và môi trường lịch sử. [101, 1-2]. Nghiên cứu các diễn ngôn về động vật
trở thành một hướng của phê bình sinh thái trong sự quan tâm của nó đối với
các vấn đề xã hội – một chủ đề bao trùm của hướng tiếp cận văn học này khi ở
làn sóng thứ ba.
2.3. Xác định cách tiếp cận văn học từ góc độ phê bình sinh thái
Nghiên cứu phê bình sinh thái đã có nhiều cách tiếp cận và cách diễn đạt
khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cần đặt ra là cách tiếp cận này nên
58
nghiên cứu như thế nào để có thể diễn giải được các hiện tượng văn học. Nói cách
khác, với tư cách là một cách tiếp cận văn học, phê bình sinh thái nên được hiểu
như thế nào. Như đã nói, định nghĩa mang tính khái quát ban đầu của Glotfelty
được lặp lại, diễn giải ở nhiều công trình phê bình sinh thái khác nhau và mỗi cách
diễn giải này có ích trong việc giúp độc giả hình dung được cách thức nghiên cứu
một hiện tượng văn học từ góc độ sinh thái là như thế nào, để không lẫn với các
cách tiếp cận văn học khác (người viết nhấn mạnh). Sau đây xin phân tích một số
định nghĩa tiêu biểu, để từ đó rút ra những thao tác, cách thức mà người viết sẽ
vận dụng để tiếp cận Thơ mới từ góc nhìn của phê bình sinh thái.
Richard Kerridge, ông đã định nghĩa “Phê bình sinh thái (ecocriticism) là phê
bình văn học và văn hóa từ điểm nhìn của chủ nghĩa môi trường
(environmentalism). Văn bản được đánh giá từ góc độ là có ảnh hưởng nguy hại
hay có ích về mặt môi trường. Niềm tin và tư tưởng được xem xét về từ những
ẩn ý về môi trường của văn học”[117]. Ở đây, Kerridge nhấn mạnh hai phương
diện của đọc tác phẩm văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Thứ nhất, đó là tìm
các ẩn ý hay các cách diễn đạt về môi trường, về tự nhiên trong tác phẩm. Thứ
hai, đó là việc phân tích xem những ý đó hay các diễn đạt đó có thể có tác động
(tốt hay xấu) về khía cạnh môi trường. Như vậy, theo định nghĩa của Kerridge,
người làm nghiên cứu văn học cần phải có kiến thức và trách nhiệm về môi
trường để có thể thảo luận, phân tích xem văn bản văn học với các nội dung về
môi trường và thiên nhiên của nó có thể có ích gì hay gây hại gì đối với môi
trường. Yêu cầu này được Karen Thornber chỉ ra rõ ràng trong định nghĩa về
phê bình sinh thái của bà. Bà cho rằng “Cách con người tương tác với môi
trường chịu sự chi phối mạnh mẽ của những ý niệm/diễn ngôn về môi trường.
Phân tích các diễn ngôn này nằm trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất của
phê bình sinh thái – một khuynh hướng lí thuyết phê bình đang phát triển rất
năng động hiện nay, đặc biệt ở Anh, Mỹ. Đây là một lí thuyết liên ngành, kết
hợp giữa văn học và khoa học, giữa phân tích văn chương và rút ra những cảnh
báo về môi trường.”[139]. Như vậy, giống như Kerridge, Thornber đề ra yêu
cầu về sự hiểu biết liên ngành (ngoài văn học còn có kiến thức về môi trường,
tự nhiên) trong nghiên cứu phê bình sinh thái. Điều thú vị và quan trọng trong
59
phê bình sinh thái mà Thornber và Kerridge cùng nhấn mạnh đó là những biểu
đạt về sinh thái trong tác phẩm văn học có thể có hại hay có lợi cho môi trường
sinh thái. Thornber cho rằng diễn ngôn về sinh thái phản ánh và tác động lên
cách hành xử của con người đối với thế giới sinh thái xung quanh. Điều này
được bà phân tích một cách tỉ mỉ ở đoạn tiếp theo trong định nghĩa về phê bình
sinh thái của mình. Đó là việc bà cho rằng các nhà phê bình “có thể không đưa
ra được những giải pháp trực tiếp cho những vấn đề môi trường nghiêm trọng
hiện nay”, thế nhưng việc “phân tích các diễn ngôn về thiên nhiên và môi
trường”, có thể “tác động đến tâm thức con người, điều chỉnh nhận thức, khắc
phục được những ngộ nhận về môi trường, để từ đó, có những hành động đúng
đắn hơn, hướng đến sự phát triển bền vững và xa hơn, quan trọng hơn cả, là
hình thành một chủ nghĩa nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói của
thiên nhiên để đối thoại với nó” (người viết nhấn mạnh)[139]. Ở đây, điều đặc
biệt là Thornber cho rằng sự phân tích cách biểu đạt về môi trường hay như
cách nói của Joseph Meeker, sự “nghiên cứu về chủ đề và mối quan hệ của sinh
vật học xuất hiện trong tác phẩm văn học” [122,7] phải bao gồm việc phân tích
hay nghiên cứu tác động của cách biểu đạt sinh thái hay chủ đề sinh thái đó đối
với việc hình thành nên ý thức sinh thái của con người và bản thân sự phân tích
và nghiên cứu đó cũng đã là một việc có khả năng hình thành nên ý thức về
sinh thái trong chính người nghiên cứu. Như vậy, cả Kerridge và Thornber nhấn
mạnh bước đầu tiên của việc phê bình sinh thái là phân tích cách biểu đạt về
thiên nhiên và môi trường trong tác phẩm văn học bước thứ hai là phân tích tác
động của cách biểu đạt đó đối với ý thức về sinh thái trong độc giả và với bản
thân hiện thực sinh thái.
Định nghĩa của Scott Slovic, người sáng lập Hiệp hội Môi trường và Văn
học thế giới có thể coi là một cụ thể hóa hai bước hay hai nội dung trong phê
bình sinh thái mà Thornber và Kerridge đề cập. Với Slovic, “Phê bình sinh thái
là chỉ hai phương diện nghiên cứu”: phương diện thứ nhất, đó là việc “nghiên
cứu lối viết tự nhiên”, nghiên cứu “hàm nghĩa sinh thái và mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên” (người viết nhấn mạnh). Thậm chí, Slovic cho rằng
người nghiên cứu có thể phân tích mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
60
trong bất cứ văn bản văn học nào cho dù những văn bản ấy thoạt nhìn có vẻ như
rõ ràng miêu tả thế giới phi nhân loại”. Phương diện thứ hai, đó là việc tìm hiểu
“nhận thức ngày càng lớn của xã hội đương đại về tầm quan trọng và tính dễ bị
tổn thương của thế giới phi nhân loại” thông qua sự miêu tả mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên trong tác phẩm. [134]
Như thế, phê bình sinh thái yêu cầu người nghiên cứu phải phân tích thế giới
tự nhiên và cách diễn đạt về tự nhiên ở trong tác phẩm. Có thể thấy, Slovic cũng
nhấn mạnh hai bước trong công việc của nhà phê bình sinh thái, điều mà Kerridge
và Thornber cũng chia sẻ. Đặc biệt trong nhận định của Slovic ông nhấn mạnh
việc phân tích mối quan hệ của con người và tự nhiên trong sáng tác.
Tính đạo đức về vấn đề môi trường được thể hiện trong tác phẩm cũng đã
được William Howarth miêu tả cụ thể trong quan niệm của ông về công việc
của nhà phê bình sinh thái. Đó là “đánh giá những ưu nhược tốt xấu trong các
tác phẩm miêu tả ảnh hưởng của văn hóa đến tự nhiên, chủ trương ca ngợi tự
nhiên, lên án kẻ tàn phá tự nhiên và thông qua hành động chính trị để làm giảm
bớt sự thương tổn của tự nhiên”. [114]
Có nhiều định nghĩa về phê bình sinh thái với nhiều cách diễn đạt và sự
nhấn mạnh khác nhau. Từ những khái quát này, chúng ta có thể hình dung ra
phê bình sinh thái bao gồm hai nội dung cơ bản và đây cũng là những công việc
cốt yếu mà người nghiên cứu cần tiến hành khi tiếp cận văn bản văn học, hiện
tượng văn học, truyền thống văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Thứ nhất, đó
là phân tích cách biểu đạt và nội dung về sinh thái, về mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, về các bài học đạo đức liên quan đến sinh thái, quá trình
nhận thức về sinh thái trong trong tác phẩm văn học. Thứ hai, là phân tích nội
dung đó và cách biểu đạt đó có thể có ảnh hưởng gì trong việc hình thành ý
thức về sinh thái và môi trường trong người đọc và có ảnh hưởng gì đến chính
hiện thực tự nhiên và môi trường.
Tiểu kết
Chương này của luận án xác định nội hàm cụ thể về hướng tiếp cận phê
bình sinh thái của đề tài. Nói cách khác, nội dung chương nhằm trả lời cho câu
hỏi tiếp cận phê bình sinh thái đối với Thơ mới là cách tiếp cận như thế nào? Để
61
trả lời cho câu hỏi trên, chúng tôi khảo sát ba vấn đề: Thứ nhất, vấn đề “trái đất
là trung tâm” với tư cách là luận điểm kinh điển của phê bình sinh thái. Ở luận
điểm này, chương lần theo sự phát triển của cách hiểu về phê bình sinh thái từ
khi mở đầu cho đến khi hoàn thiện và bùng nổ với định nghĩa vốn đã xây dựng
trên văn học viết về thiên nhiên (nature writing) được coi là kinh điển của
Cheryll Glotfelty. Thứ hai, chúng tôi phân tích sự phát triển của cách hiểu về
phê bình sinh thái thời sau Glotfelty để chỉ ra phê bình sinh thái mở rộng biên
độ để bao trùm các cách tiếp cận liên quan đến các vấn đề chính trị, xã hội, và
kinh tế như thế nào. Thứ ba, chúng tôi phân tích những cách thức tiếp cận trong
xu hướng phê bình sinh thái. Phân tích ba vấn đề trên của luận án nhằm đi đến
đề xuất cách hiểu về phê bình sinh thái như là một hướng tiếp cận đối với văn
học nói chung trong mối liên hệ với các vấn đề môi trường, môi sinh, sinh thái.
Đưa ra các cách hiểu về phê bình sinh thái như vậy, chúng tôi muốn khẳng
định rằng phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ
mới. Để nhắc lại, luận án của chúng tôi không hướng tới việc xác định Thơ mới
có là văn học sinh thái hay không mà là nhằm khám phá thêm các ý nghĩa, giá
trị của Thơ mới với công cụ là Phê bình sinh thái và quan trọng hơn, với tư cách
là một luận án thuộc chuyên ngành Lí luận văn học, chúng tôi hướng đến việc
nghiên cứu về phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết khi được nó được đặt vào
một trường hợp cụ thể là Văn học Việt Nam nói chung và Thơ mới ở Việt Nam
nói riêng.
62
Chƣơng 3
NHỮNG BÌNH DIỆN SINH THÁI CỦA MỐI QUAN HỆ TỰ NHIÊN VÀ
CON NGƢỜI TRONG THƠ MỚI
3.1. Tự nhiên nhƣ một khách thể
3.1.1. Tự nhiên như là một sinh thể tồn tại bên ngoài con người
Tự nhiên là một trong những chủ đề thường được xuất hiện nhiều trong
văn học, đặc biệt là trong thơ dù được sáng tác bằng các ngôn ngữ trên thế giới.
Tự nhiên đã được chứng minh là một hình thức chiến lược làm gợi lên các cảm
giác, cảm xúc và sự vận động về tâm trí của nhà thơ. Các phương diện sáng tạo
hay hủy diệt, hàn gắn vết thương hay làm an dịu của tự nhiên được các nhà thơ
đưa ra một cách rõ ràng để làm nổi bật các khía cạnh khác nhau trong quan
điểm của họ về thế giới và con người. Như đã nói, phê bình sinh thái quan tâm
đến mối quan hệ giữa văn học và môi trường hay là cách thức mối quan hệ giữa
con người và thế giới tự nhiên xung quanh họ được phản ánh như thế nào trong
văn học. Cụ thể hơn, phê bình sinh thái xem xét vị trí là trung tâm hay là ngoại
vi của tự nhiên trong mối quan hệ với thế giới tinh thần và thể chất của con
người (nhân vật trữ tình, người kể chuyện, nhân vật). Và phê bình sinh thái chủ
yếu được thực hành trong văn học viết về tự nhiên. Jonathan Bate, một trong
những nhà phê bình sinh thái hàng đầu người Anh, trong cuốn sách Sinh thái
Lãng mạn (Romatic Ecology) của mình, đã lập luận rằng văn học viết về tự
nhiên là quan trọng, ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc văn bản được quy
chiếu đến cái gì đó bên ngoài kia, “cái khác” của thế giới tự nhiên", cái thế giới
lấp đầy chúng ta với tính nhân văn. Còn Garrard trong cuốn sách Phê bình sinh
thái của mình đã vạch ra các khái niệm được thảo luận nhiều nhất trong phê
bình sinh thái, đó là sự hủy diệt, thôn quê, hoang dã, sự ô nhiễm, và cái kinh
ngạc. Mặc dù những khái niệm này không phải là của riêng phê bình sinh thái
và không phải được sinh ra chỉ trong phê bình sinh thái, nhưng sự quan tâm của
phê bình sinh thái với thiên nhiên làm cho các khái niệm trên phù hợp với các
nghiên cứu văn học. [108]
63
Với luận điểm tự nhiên như là một trong những mối quan tâm chính của
phê bình sinh thái, thì đáng lẽ ra Thơ mới lãng mạn phải là đối tượng nghiên
cứu chính của xu hướng nghiên cứu này ở Việt Nam. Tuy nhiên, như chương 1
chỉ ra, phê bình sinh thái ở Việt Nam đa số là công cụ lí thuyết để khám phá
văn học Việt Nam đương đại trong mối tương quan với các vấn đề môi trường,
môi sinh. Thơ mới lãng mạn cũng chỉ là đối tượng nghiên cứu chính của đôi ba
bài nghiên cứu. Trong khi đó, thời đại lãng mạn có vai trò rất quan trọng trong
phê bình sinh thái trên thế giới. Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn
phương Tây, Thơ mới Việt Nam chắc chắn có vai trò trong sự hình thành phê
bình sinh thái ở Việt Nam; nói cách khác, Thơ mới Việt Nam là một chất liệu
đầy hứa hẹn cho các nghiên cứu theo hướng phê bình sinh thái. Các công trình
nghiên cứu Thơ mới thống nhất quan điểm về thiên nhiên trong Thơ mới “là
một khách thể thẩm mĩ để nhà thơ soi ngắm và hưởng thụ” [17, 35], đánh dấu
sự chuyển biến về thi pháp của Thơ mới với tư cách là một dấu ấn của hành
trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, cách tiếp cận phê bình sinh thái
đối với Thơ mới cho thấy thiên nhiên trong Thơ mới được tôn trọng như là một
khách thể tồn tại bên ngoài con người. Nói cách khác, thiên nhiên trong Thơ
mới không chỉ tồn tại như một đối tượng thưởng lãm của các tao nhân mặc
khách mà như là một thế giới khác, có những hiện tượng, những cấu trúc riêng
và thế giới đó có khoảng cách nhất định với thế giới con người. Nếu như trong
văn học trung đại con người và tự nhiên hô ứng, gắn bó với nhau thì đến văn
học lãng mạn con người và tự nhiên lại luôn tách rời và lúc này tự nhiên được
coi như là một khách thể.
Cụ thể, chủ thể trữ tình trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư rõ ràng
là đang đứng ở bên ngoài “rừng thu”, để lắng nghe “lá thu kêu xào xạc”, lắng
nghe “con nai vàng ngơ ngác”. Ở bài thơ Núi xa, chủ thể trữ tình cũng đứng
bên ngoài thiên nhiên; tất cả khung cảnh “mênh mông cồn cát”, “mưa mau”,
“núi xa” đều dường như là hiện lên trong mường tượng và từ trong một tâm trí
phóng chiếu đến thiên nhiên chứ không phải là một thiên nhiên hiện diện trước
con mắt vật lí. Hình ảnh vườn thôn Vĩ hiện lên như là ảo ảnh, như là mơ của
64
Hàn Mặc Tử tạo thành một chỉnh thế thế giới mà con người chỉ là ngóng vọng
về, chứ không phải là hòa mình trong đó.
Cũng như thế, trong các bài thơ Lựa tiếng đàn, Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng
sáo Thiên Thai, Bông hoa rừng, Mộng ảo hay Hồ xuân và thiếu nữ của Thế Lữ,
hình ảnh chủ thể trữ tình không phải là một phần của thiên nhiên mà như là một
người có khoảng cách xa và nhỏ bé trước thiên nhiên đang vận động theo chu
trình của nó. Đó là cảnh “sương biếc tỏa” như “hương khói đượm đầu cau”; là
ánh nắng hồng rắc trên lá, là tiếng chim nhí nhảnh trong tán lá cây; đó là ánh
chiều thu lan tỏa mặt hồ; là rặng lau già với lá khô xào xạc; là hàng tùng rủ lá,
là đám mây hồng trập trùng bên đèo; đó là dòng suối chảy làm bọt tung trắng
xóa, là dòng nước đẩy hững hờ...Thiên nhiên được miêu tả với ngôn từ thơ ca
nhất, mộng mơ nhất về những vận động theo quy luật của chúng. Trong các bài
thơ này, những sự chuyển động đầy sức sống của thiên nhiên luôn hiện ra trạng
thái mơ huyền trừu tượng. Nó hiện ra như là một thế giới riêng biệt: nó vừa vận
hành, vừa tương tác với những sự vật ở trong nó theo chiều hướng và vận tốc
của riêng mình mà chủ thể trữ tình không can thiệp, không đứng vào giữa,
không hòa mình vào mà chỉ đứng từ xa, đứng bên cạnh để nhìn, để nghe và để
cảm nhận. Chỉ có tâm thế bên ngoài như vậy, độc giả mới được cảm nhận thế
giới tròn đầy của chiếc hồ xuân, nơi có con thuyền đưa đẩy theo dòng nước, nơi
tiếng sáo diều như vắt ngang bầu trời, nơi hàng cây lặng lẽ đứng bên hồ. Hoặc
như trong bài Tiếng sáo Thiên Thai, các hiện tượng tự nhiên và các sự vật tự
nhiên như cuốn quyện, mắc díu lấy nhau: hàng cây tùng rủ rỉ, đám mây dùng
dằng bên đỉnh đèo, ánh nắng lần lữa bám lấy hàng cây không muốn tắt. Rõ ràng
là phải có một chủ thể trữ tình lặng im cảm nhận thế giới mà không có ý định
xâm nhập vào thế giới đó thì người đọc mới được cảm nhận một thế giới như
được cắt ra từ một thế giới thực vốn không ngừng vận động, không ngừng
tương tác với muôn màu, muôn vẻ như vậy.
Có thể xác định khoảng cách của chủ thể trữ tình với thiên nhiên qua sự
xuất hiện của các giới từ đặc trưng và qua sự vắng bóng trên bề mặt câu chữ của
chủ thể trữ tình trong các bài Thơ mới. Ví như trong bài thơ Trưa hè của Bàng
Bá Lân, vị trí địa lí của chủ thể trữ tình dễ dàng được hình dùng như là đang
65
ngước nhìn lên cây đa già với tán cây lan tỏa khi có giới từ “dưới” và “trong” ở
câu thơ “dưới gốc đa già, trong vũng bóng”. Giới từ “trong” trong câu thơ “Gà
gáy trong thôn những tiếng dài” kèm với tính từ “dài” miêu tả tiếng gà đủ cho
thấy khoảng cách xa và vị trí đứng bên ngoài của chủ thể trữ tình với đối tượng
thiên nhiên được miêu tả. Và cũng phải có một khoảng cách nhất định, chủ thể
trữ tình mới có thể nhìn được cánh ve bất động như bị say nắng và đàn trâu nằm
nhắm mắt nhai cỏ. Hay như trong bài thơ Đọc sách của Chế Lan Viên, mặc dù
chủ thể trữ tình được đặt vào giữa thiên nhiên “trong vườn chuối” nhưng dễ
dàng nhận thấy nhân vật trung tâm này không có tâm thế uốn nắn và diễn đạt
thiên nhiên theo ý hướng của mình; ngược lại, các sự vật được miêu tả như là
cứ vận động theo quy luật của riêng nó, bất chấp sự chờ đợi và mong đợi một
tứ thơ của con người: “Gió bay nhộn nhịp không ra lối/Hoa tàn luống cuống
chẳng nên thơ”.
Sự vận động của các hiện tượng thiên nhiên (gió, mưa, sấm, dòng chảy,
sương, vì sao, sóng) xuất hiện chân thực và nhiều sắc thái trong Thơ mới. Đó là
“sóng.. khua bãi sậy” (Trăng mơ – Thúc Tề), “gió… lướt mặt hồ” (Đìu hiu – Đỗ
Huy Nhiệm), “sương rây mơ màng” (Muôn thủa – Ngô Hòa), “sương bạc…
cuốn mặt hồ… cuốn cả non sao” (Đà Lạt đêm sương – Quách Tấn), “sương
biếc… tỏa mờ mờ” (Lựa tiếng đàn – Thế Lữ) “nước sông trồi, trôi miên man”
(Nước sông – Thao Thao), “nước sông xuôi… mưa lao mình” (Cơn giông –
Anh Thơ), “sóng nhấp nhô… sao ngà vụt…bay lên” (Tình si – Vũ Hoàng
Chương), “nước xuống ghềnh… róc rách” (Đăng lâm – Bích Khê). Có thể thấy
sự vận động của các hiện tượng thiên nhiên trong Thơ mới được miêu tả với
một tâm thế bình thản, trân trọng của chủ thể trữ tình. Điều này khác với niềm
kính sợ, tôn trọng tự nhiên vốn là thái độ chủ đạo trong mối quan hệ giữa con
người và thiên nhiên như được thể hiện trong các câu chuyện dân gian. Cuộc
sống bầy đàn, hoang dã, mông muội, nguồn sống chủ yếu từ săn bắn, hái lượm
khiến con người luôn bị chi phối và lệ thuộc vào tự nhiên. Giữa mênh mông đại
ngàn rừng rú, kì bí và dữ dội, con người hòa mình vào tự nhiên và đã tìm ra
những công cụ lao động dần tiến bộ theo thời gian, cùng với đó là sự phát triển
về tư duy và nhận thức. Nhiều câu hỏi lớn về tự nhiên mà con người liên tục
66
phải đối mặt như bão lũ, hạn hán, sấm chớp, mây mưa, động đất, sóng thần, thứ
dữ…thậm chí vì sao có trời, có đất và có con người đã thôi thúc người nguyên
thủy khát khao được trả lời. Và lẽ dĩ nhiên, chẳng có nhà khoa học nào giải
thích cho họ, cũng như vì những hạn chế trong tư duy khiến họ không thể giải
thích nguồn gốc của tự nhiên như khoa học ngày nay chứng minh cho chúng ta.
Con người luôn thấy nhỏ bé, mong manh, bất lực và sợ hãi khi đối mặt với cái
vô hạn, vĩ đại và vĩnh hằng của tự nhiên. Khi con người sống trong hang sâu,
rừng rú thì cả thế giới hiện ra trước họ đều là những điều bí ẩn. Họ bị chi phối,
tác động mạnh mẽ từ tự nhiên, họ nhận ra sức mạnh phi thường của tạo hóa. Và
như thế người nguyên thủy tin tự nhiên là một thế lực siêu phàm, thần kì.Đúng
như Vũ Anh Tuấn nhận định con người nguyên thủy “Họ tưởng cây cũng biết
nói, núi cũng biết đi và tảng đá là một chàng hiệp sĩ hóa thạch, còn dòng sông là
một cô tiên nước,…Người man rợ nhìn thấy khắp thiên nhiên một cuộc sống
giống như cuộc sống của người. Tất cả những hiện tượng tự nhiên sở dĩ xảy ra
họ đều cho là hoạt động có ý thức của những lực lượng giống người. Từ ý kiến
trên, chúng ta có thể hiểu đó chính là cái cốt lõi của thuyết “vạn vật có linh
hồn”. Từ đó nảy sinh ma thuật, tín ngưỡng vật tổ. Những tín ngưỡng đầu tiên
thường gắn với nỗi sợ hãi hoặc niềm biết ơn của con người trước tự nhiên
huyền bí”[79, 47- 48 ]. Chính vì thế họ đi giải thích nguồn gốc tự nhiên thông
qua hình tượng của các vị thần. Thế giới mênh mang, họ không hiểu vì sao có
thế giới này và chúng ta tìm thấy cách lí giải về trời và đất của người xưa qua
thần thoại Thần trụ trời. Trong quan niệm của họ trời, đất, sông, núi, gò đồi,
biển, hồ… có được như hiện tại là do công sức lao động, kiến tạo của các vị
thần gọi là Thần trụ trời. Khi cuộc sống con người có sự phát triển, người
nguyên thủy biết trồng trọt, canh tác, đặc biệt học biết trồng lúa nước. Vì lẽ đó,
họ đã di chuyển nơi cư trú từ rừng sâu ra những lưu vực sông có hệ thống thủy
lưu. Khi ấy, họ đối mặt với lũ lụt thường xuyên. Họ tự hỏi vì sao có hiện tượng
lũ lụt hàng năm ở đồng bằng sông Hồng. Và họ lí giải hiện tượng trên bằng thần
thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh qua cơn ghen dai dẳng của thần nước Thủy Tinh với
thần núi Sơn Tinh đã cướp mất vợ, mỗi khi nhớ đến mối thù xưa kia lại dâng
nước lên cao gây ra lũ lụt cho con người….Có thể thấy, trong quan niệm của
67
người xưa, họ luôn đề cao các vị thần, sùng bái thần vì họ quan niệm các thần
đều là đấng thiêng liêng chăm chỉ lao động, kiến tạo vũ trụ, ban phát sự sống
cho con người. Cho dù các vị thần có gây họa thì đó chỉ là do tính cách của thần
chứ không phải do thù ghét con người (Thần nước – Thủy Tinh trong Sơn Tinh,
Thủy Tinh vì ghen mà dâng nước; thần Mặt Trăng trong Nữ thần mặt trời và
mặt trăng vì mải chơi hay la cà xuống trần gian vì sức nóng của mình làm con
người bị hạn hán …Như thế, trong nhận thức người nguyên thủy luôn có thái độ
muốn tiến đến, xích lại gần các vị thần – mà chính vì cảm thức sùng bái tự
nhiên đã khiến người xưa suy tôn các hiện tượng của tạo hóa thành các vị thần:
Thần nước, thần sông, thần núi, thần lửa, thần gió, thần biển, thần rừng…). Các
hiện tượng thiên nhiên được cảm thụ như là những vận động theo tự nhiên trong
Thơ mới, như vậy, khác biệt so với việc được cảm thụ như là sự sợ hãi, sùng bái
tự nhiên trong văn học dân gian. Chủ thể trữ tình của Thơ mới luôn giữ một tâm
thế và vị trí địa lí có khoảng cách và đầy tôn trọng đối với thế giới tự nhiên,
chấp nhận với sự muôn màu về diện mạo và về vận động của nó.
Sự tôn trọng đó còn khiến cho không chỉ sự vận động của các hiện tượng
thiên nhiên mà thế giới thực vật, động vật cũng hiện lên một cách chân thực và
sống động trong Thơ mới. Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được nêu
lên như là những ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những
tư tưởng của con người. Nói cách khác, thiên nhiên trong thơ trung đại là biểu
tượng của những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người về xã hội và về
đạo đức [60]. Trong Thơ mới, thế giới thực vật, động vật hiện lên đa dạng và
sinh động. Đó là hình ảnh rặng liễu rủ thướt tha bên hồ (Đây mùa thu tới –
Xuân Diệu, Cành liễu bên hồ - Phạm Huy Thông), hoa thược dược xòe cánh, có
bông trà, có hoa cúc, hoa hồng khoe đủ hương sắc ở nhiều trạng thái và cấp độ
(Lạc quan – Xuân Diệu, Dăm bài ca – Phạm Huy Thông), hoa dại bên đường
làng (Đi giữa đường thơm – Huy Cận) chim họa mi hót “dìu dặt” (Dăm bài ca -
Phạm Huy Thông), “ong hút chùm hoa cải” (Hối hận – Huy Cận), tiếng chim
vành khuyên và mùi cỏ mới (Bình yên – Huy Cận), con sóc trên cành (Hoa sử -
Đinh Hùng), v.v… Có thể thấy thế giới thiên nhiên trong Thơ mới hiện lên sống
động, muôn màu. Có được điều này là vì tâm thế của chủ thể trữ tình luôn luôn
68
ở khoảng cách xa, nhìn ngắm, lắng nghe và cảm nhận thế giới thiên nhiên mà
không bao trùm, chiếm đoạt hay điều khiển nó. “Điều quan trọng là… trong
Thơ mới … thiên nhiên không bất động mà luôn luôn chuyển động. Sự chuyển
động ấy có thể mang khuôn mặt của sự úa tàn (vốn là một nét yêu thích của mĩ
học lãng mạn), có thể mang sự cường tráng hay nỗi say mê, hoặc có thể là một
hoài nhớ về vườn địa đàng và vẻ xuân thì trong ngôn ngữ mang màu sắc nhục
thể (thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê...). Nhưng tất thảy, chúng hiện lên
như hàng chuỗi kí hiệu biểu đạt các sắc màu khác nhau của sự sống. Sự sống ấy
luôn gắn liền với mặt đất, trần thế.” [17, 44].
Điều này có thể khẳng định vị trí bên ngoài và trạng thái tôn trọng, không
kiểm soát thiên nhiên của chủ thể trữ tình trong Thơ mới. Từ góc nhìn của phê
bình sinh thái, có thể thấy Thơ mới bộc lộ trạng thái tôn trọng thiên nhiên, một
cái nhìn thiên nhiên như là một chỉnh thể, một thế giới của riêng nó. Đây là một
điểm độc đáo của Thơ mới viết về thiên nhiên dưới góc nhìn của phê bình sinh
thái. Cụ thể hơn, phê bình sinh thái trên thế giới, dựa trên sự phân tích văn học
viết về thiên nhiên của Mỹ và Anh, chủ yếu đọc con người như là một phần của
thiên nhiên. Như Thoreau nhấn mạnh ở việc ông đối đầu sự tách biệt của con
người khỏi xã hội bằng cách nhìn nhận con người như một phần của thiên
nhiên. Các loài động vật đem lại cho ông sự đồng hành và chúng chấp nhận ông
như là một phần quen thuộc trong môi trường của chúng đến mức ông đã đảo
ngược cái truyền thống xây dựng bối cảnh có trong lịch sử về sự chiếm lĩnh của
người đối với thiên nhiên và ông tự coi mình là "bị chim nhốt trong lồng, bị sự
quyến rũ của thiên nhiên giam nhốt”. Ông viết, “một nơi ở không có chim
giống như thịt mà không có gia vị. Nơi như vậy không phải là nơi ở của tôi, vì
tôi thấy mình đột nhiên là hàng xóm với những con chim, không phải bằng việc
giam giữ một con chim, mà bằng cách tự nhốt mình vào lồng để gần chúng
[138]. Trải qua cuộc sống của mình trong những khu rừng, và được gợi cảm
hứng từ thế giới các loài thực vật và động vật, Thoreau chứng minh rằng con
người có thể sống thành công khi ở giữa thiên nhiên: "Con người là gì ngoài là
một khối đất sét đang tan?" [138, 246]. Các nhà phê bình sinh thái thường đọc
văn học viết về thiên nhiên như là một ẩn dụ về sự tái sinh vì văn học thiên
69
nhiên thuyết phục độc giả tìm kiếm những phương diện mới về bản thân họ và
về thế giới qua thiên nhiên. Các chu trình mùa màng, với sự tái sinh của ao hồ
sau mùa đông băng giá, sự tái sinh của chim muông, cây cỏ vào mùa xuân hoạt
động như là lời hứa hẹn cho sự sinh sôi về mặt tinh thần của con người. Thiên
nhiên làm sống động mọi vật, vì thế không cần phép thần kì nào kéo dài sự
sống. Các nhà phê bình sinh thái thường lấy sự ví von của Thoreau giữa bản thể
con người với cái ao không đáy mà chỉ có thiên nhiên mới có thể khám phá
được như là một biểu hiện tiêu biểu nhất của quan điểm lấy thiên nhiên làm vị
trí trung tâm của hướng tiếp cận văn học này. Thoreau cho rằng con người thực
sự ở trạng thái minh mẫn nhất khi họ trở về trạng thái không giới hạn như là
thiên nhiên. Nhưng thật ấn tượng, việc đọc ra xu hướng trân trọng và đề cao
như vậy đối với thiên nhiên trong văn học viết về thiên nhiên của các nhà phê
bình sinh thái cho thấy con người vẫn là trung tâm trong vũ trụ, là mối quan tâm
hàng đầu của hướng nghiên cứu này.
Sự trân trọng với thiên nhiên, vai trò và vẻ đẹp của nó được các nhà phê
bình sinh thái nhấn mạnh trên cơ sở thiên nhiên bao chứa con người như là một
phần của nó và trên cơ sở thiên nhiên nâng cao đời sống tinh thần và sự sống
con người nói chung.
Theo Schiller, văn học viết về thiên nhiên, người viết vượt qua khoảng
cách giữa thiên nhiên và ngôn ngữ bằng cách tạo ra một bức tranh thiên nhiên
vượt qua nỗi buồn, vượt qua nỗi mất mát hay vui vẻ hân hoan. Do đó, thiên
nhiên trong văn học viết về nó không phải là các khách thể thiên nhiên mà là
các ý tưởng được biểu hiện trong thiên nhiên theo cái cách mà con người yêu
thích. Vì thế, Schiller cho rằng, thiên nhiên đã biến mất khỏi con người, con
người không còn hòa hợp với thiên nhiên mà như là đối lập với nó. Và như vậy,
như nhận định của Aslaug Nyrnes, từ góc nhìn phê bình sinh thái, điều đó có
nghĩa rằng cái nhìn của con người về thiên nhiên từ thời đại lãng mạn hoàn toàn
theo xu hướng lấy con người làm trung tâm [125,75-89]. Tuy nhiên, qua những
bài thơ về thiên nhiên của phong trào Thơ mới ở Việt Nam, có thể thấy, thiên
nhiên không được nhìn nhận như là có chức năng hay liên kết gì với đời sống
của chủ thể trữ tình. Thay vào đó, chủ thể trữ tình giữ một khoảng cách với
70
thiên nhiên, để cho thiên nhiên vận động, tương tác theo nhịp, theo cách thức và
sắc màu của nó. Nhiệm vụ của chủ thể trữ tình là chuyển tải đến người đọc
diện mạo và âm thanh của thiên nhiên bằng một thứ ngôn ngữ trữ tình, nên thơ
và giàu hình ảnh. Để thiên nhiên diễn ra theo trật tự và diện mạo của nó là tiêu
chí của sự tôn trọng đối với thiên nhiên như các nhà triết học về đạo đức môi
trường chỉ ra. Như Paul W. Taylor trong một bài viết gây tiếng vang Đạo đức
của sự tôn trọng cho thiên nhiên (The ethic of respect for nature, Environmental
Ethics, Vol 3, Fall 1981) cho rằng những diễn giải về sự tôn trọng đối với thiên
nhiên từ trước tới nay vẫn bị chi phối bởi cái nhìn lấy con người làm trung tâm.
Theo đó, hành động của con người ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và những
cư dân không phải con người là đúng (hoặc sai) phụ thuộc vào một trong hai tiêu
chí: những hành động đó có thuận lợi (hoặc không thuận lợi) cho con người, hay
những hành động đó có phù hợp và hòa điệu (hoặc không phù hợp) với hệ thống
các quy chuẩn bảo vệ và thực hiện các quyền con người hay không. Từ quan
điểm con người làm trung tâm này thì tất cả phụ thuộc vào hành động và nhiệm
vụ của con người. Con người có thể có trách nhiệm đối với các hệ thống tự nhiên
sinh thái và cộng đồng sinh vật trên hành tinh của chúng ta, nhưng những trách
nhiệm này trong mọi trường hợp phải dựa trên một thực tế là sự đối xử của con
người với các hệ sinh thái và các cộng đồng sự sống (bên ngoài thế giới con
người) có thể tiếp tục thực hiện các giá trị của con người và quyền của con người
hay không. Con người không được coi là có nghĩa vụ phát triển hoặc bảo vệ lợi
ích của những sinh vật sống không phải con người mà không liên quan đến cái
thực tế đó. Trong khi ấy, như Taylor chỉ ra, với cái nhìn hệ thống đạo đức môi
trường lấy sự sống làm trung tâm thì con người có nghĩa vụ mang tính đạo đức là
tôn trọng đời sống động vật và thực vật tự nhiên như là thành viên của cộng đồng
sinh vật trên trái đất. Con người tôn trọng sự toàn vẹn của các hệ sinh thái tự
nhiên, bảo vệ các loài có nguy cơ bị tuyệt chủ, tránh ô nhiễm môi trường. Sự tôn
trọng đó xuất phát từ nỗ lực khiến cho các sinh vật duy trì và phát triển sự sống
tự thân, tự nhiên của chúng. Bởi vì mọi sinh vật đều có giá trị của chúng; nghĩa
vụ của con người với thiên nhiên khác với nghĩa vụ của con người đối với nhau.
Và lợi ích lớn nhất của thiên nhiên cũng giống như là lợi ích lớn nhất của con
71
người, như Taylor chỉ ra, “là lợi ích cuối cùng được là chính mình” [137,198].
Các nhân vật trữ tình trong Thơ mới, với sự lặng lẽ của mình để làm nổi bật âm
thanh và sự vận động của thiên nhiên, cho thấy một tâm thế giống như Taylor
miêu tả về cái nhìn lấy thiên nhiên làm trung tâm, đó là thiên nhiên được vận
hành như chính nó.
Nhấn mạnh sự tôn trọng của chủ thể trữ tình đối với thiên nhiên trong Thơ
mới như vậy là một trong những cách tiếp cận phổ biến của phê bình sinh thái,
đó là cách tiếp cận dựa trên “cấu trúc thẩm mĩ” (aesthetic construction). Theo
tổng kết của Tidita Abdurrahmani, phê bình sinh thái có những cách tiếp cận
khác nhau về vấn đề môi trường và thiên nhiên trong văn học. Thứ nhất, đó là
cách tiếp cận dựa trên “sự cấu trúc diễn ngôn”, theo đó mức độ về sự khác biệt
giữa thiên nhiên và văn hóa được xem như là phụ thuộc vào các giá trị văn hóa
cụ thể. Cách tiếp cận thứ hai là dựa trên "cấu trúc chính trị" vốn nhấn mạnh các
các quyền lợi liên quan đến quyền lực quy định sự đánh giá cao hay đánh giá
thấp đối với thiên nhiên. Cách tiếp cận thứ ba là dựa trên "cấu trúc khoa học";
cách tiếp cận này nhấn mạnh sự mô tả vận hành của các hệ thống thiên nhiên.
Và thứ tư là cách tiếp cận dựa trên “cấu trúc thẩm mĩ”; cách tiếp cận này coi giá
trị thiên nhiên nằm ở vẻ đẹp, sự phức hợp, hoặc sự hoang dã nguyên sơ của nó.
Nếu dựa trên sự phân chia giữa khái niệm "sinh thái xã hội" (social ecology) và
khái niệm "sinh thái bề sâu" (deep ecology) trong phê bình sinh thái, mối quan
hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới có thể được xem như là biểu
hiện của khái niệm “sinh thái bề sâu”. Nếu như “sinh thái xã hội” cho rằng nhu
cầu của con người và xã hội quyết định cách tiếp cận của họ đối với thiên nhiên
thì “sinh thái bề sâu” coi thiên nhiên có giá trị trong chính nó, độc lập với các
chức năng và sự hữu ích đối với xã hội loài người. Và đặc biệt hơn, “sinh thái
chiều sâu nhấn mạnh mối liên kết giữa việc lắng nghe thế giới không phải con
người (ví dụ như coi nó như là một chủ thể im lặng) và đảo ngược lại nhưng
thực hành phá hủy môi trường vì lợi ích trong xã hội hiện đại” [110, 69-91]. Sự
tương hợp của quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới với quan
điểm “sinh thái bề sâu” cũng cho thấy ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương
Đông, đặc biệt là quan điểm của Đạo giáo, đối với mối quan hệ này. Chính các
72
nhà triết học môi trường phương Tây cũng bị ảnh hưởng bởi Đạo giáo, một
cách thức sống đạt được bằng cách quan sát dòng chảy của các sự kiện tự nhiên
như nước, sương, lửa, v.v… Các nhà Đạo giáo nhấn mạnh nguyên tắc phi ngã
để hòa hợp với thiên nhiên. “Để hiểu và tôn trọng các chu trình thiên nhiên,
chúng ta cần sự chú ý mang tính Đạo giáo vào những vận hành tinh tế của các
quy tắc và các chu trình của thiên nhiên” [92, 228-237]. Quan niệm sống theo
đạo của thiên nhiên đã tán dương cái quy tắc sinh thái và tiến hóa rằng con
người là một phần của thiên nhiên và phải định hình cách sống của con người
cho phù hợp với các chu trình và vòng quay của tự nhiên.
3.1.2. Tự nhiên như là phản chiếu những dự cảm bất an sinh thái của
con người
Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, con người đã biến đổi bầu khí quyển
của trái đất, khiến hành tinh của chúng ta trở nên khắc nghiệt hơn, mực nước
biển dâng cao, làm tan băng và tuyệt chủng diễn ra hàng loạt. Giai đoạn của sự
tác động quan sát được của con người lên các hệ sinh thái của trái đất được gọi
là Thế nhân sinh (Anthropocene). Sự thay đổi khí hậu do con người gây ra đã
ảnh hưởng đến trái đất và cũng ảnh hưởng đến văn học. Phê bình sinh thái, nhất
là ở làn sóng thứ ba, nhấn mạnh đến việc tìm hiểu những phản ứng văn học –
những phản ứng mang tính văn học – đối với các cấp độ khủng hoảng môi
trường. Lí thuyết về cách tiếp cận theo hướng phê bình sinh thái bối rối với
những sự bất ổn do sự thay đổi về thời tiết, khí hậu và trái đất vừa không phải
tự nhiên và vừa không nằm dưới sự kiểm soát của con người. Văn học đã trở
thành một công cụ thiết yếu để tạo dựng nghĩa trong thời đại của những thay
đổi về khí hậu; văn học được xem mở rộng biên độ của khoa học thời tiết vượt
lên trên phòng thí nghiệm, chuyển những dự đoán mang tính trừu tượng thành
những trải nghiệm đầy chủ quan và mang tính vật thể về nơi chốn, bản sắc và
văn hóa. Trong khi các tổ chức chính trị và kinh tế thay đổi vì cuộc đấu tranh
cho sự vững bền thì văn học buộc phải thích nghi với những ranh giới mới giữa
sự thật và sự thêu dệt, giữa thiên nhiên và kinh tế, giữa những sự lựa chọn cá
nhân và những hệ thống các hiện tượng tự nhiên lớn hơn. [141]
73
Nhà xuất bản đại học Virginia đã xây dựng series sách Dưới tín hiệu của
thiên nhiên: Phê bình sinh thái (Under the sign of nature: Ecocriticism) bao
gồm các công trình khác khảo sát những bất thường về thời tiết đã được phản
ánh ra sao và đã định hình diện mạo văn học và nghệ thuật như thế nào ở Mỹ.
Nói cách khác, đây là một chuỗi dự án học thuật kết hợp phương pháp và tư
tưởng của ngành nghiên cứu môi trường và ngành nghiên cứu văn học và văn
hóa; vấn đề thiên nhiên chủ yếu được khám phá là những bất thường thuộc về
tự nhiên và những bất thường do con người gây ra. Nằm trong series này, cuốn
Nhảy múa với thiên tai: Lịch sử môi trường, tự sự và đạo đức cho những thời
điểm nguy ngập (Dancing with disaster environmental histories, narratives,
and ethics for perilous times. The University of Virginia Press, 2015) của Kate
Rigby khẳng định những tác động tai hại của sự biến đổi khí hậu đang bắt đầu
được cảm nhận trên toàn thế giới ngày nay cho thấy sự phức tạp không thể giải
thích được trong lịch sử nhân loại và lịch sử tự nhiên. Kate Rigby tập trung vào
miêu tả phức hợp về thảm họa thiên tai. Kate Rigby đã phân tích nhiều thảm
họa có trong quá khứ, từ Cái chết Đen (Black death) của thời Trung cổ đến
những trận siêu bão của thế kỷ XXI để chỉ ra sự tương tác năng động giữa vô số
các yếu tố con người và các yếu tố không con người trong mối quan hệ nhân
quả. Tập trung vào mối liên hệ giữa những cách thức mà thiên tai bị các câu
chuyện kể về chúng định hình và đóng khung, xu hướng phản ứng của con
người trước thiên tai. Trong thực tế Rigby cũng cho thấy cách thức các tác
phẩm tự sự hư cấu mời gọi những suy ngẫm mang tính đạo đức về mối quan hệ
giữa con người với nhau, với môi trường trái đất chưa bị quản thúc bởi con
người và với các loài sinh vật khác khi đối mặt với thảm họa sinh thái như thế
nào. Một công trình khác khám phá sự phản ứng của văn học đối với những vận
động và diện mạo mang tính hủy diệt của tự nhiên là cuốn Bầu trời của nhà
máy chúng ta:Sương mù London trong tiểu thuyết Anh từ Dickens đến Woolf
(The Sky of our manufacture: The London fog in British Fiction from Dickens
to Woolf, 2016) của Jesse Oak. Cuốn sách này đạt giải thưởng danh giá nhất của
Hiệp hội thế giới về nghiên cứu văn học và môi trường (Taylor ASLE Book
Awards, Association for the Study of Literature and the Environment) năm
74
2017 giải thưởng Sonya Rudikoff Northeast Victorian Studies Association
Award) của Hội nghiên cứu Đông Bắc thời Victoria (Northeast Victorian
Studies Association) năm 2018. Sương mù ở London tạo thành khói khổng lồ
vào năm 1905, đây là một sự thừa nhận có ý nghĩa, thường được coi như là ví
dụ đầu tiên của sự thay đổi khí hậu do ngành công nghiệp hiện đại tạo ra. Cuốn
sách cũng chỉ rõ văn học Anh viết về sương mù phủ đặc thành London làm mờ
nhòe ranh giới giữa thiên nhiên và xã hội theo những cách hấp dẫn nhất. Tác
giả phân tích những miêu tả về sương mù London trong tiểu thuyết cuối thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20 để khám phá sự xuất hiện của những biến đổi khí hậu do
con người gây ra. Trong quá trình này, Taylor khẳng định tầm quan trọng của
tiểu thuyết trong việc tìm hiểu sự thay đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và sự
sụp đổ sinh thái. Việc tác giả xây dựng lại các con đường đi đến nhận thức của
con người về hậu quả đối với tự nhiên do nền công nghiệp gây ra đã đem lại
thêm ý nghĩa cho nhận thức đó, ấy là nhận thức mở ra một kỉ địa chất mới trong
sự biến đổi nhân loại thành một lực lượng làm thay đổi khí hậu không chỉ thay
đổi bầu không khí vật lý của chúng ta mà còn thấm trong nó những ý nghĩa
mới. Cuốn sách đã phân tích các tác phẩm nổi tiếng từ thể loại tiểu thuyết cho
đến báo chí, tranh hoạt hình, các bài viết nghiên cứu khoa học và công nghệ khí
tượng để tiết lộ một mối quan hệ kì lại giữa các thực hành mang tính văn hóa,
văn minh của con người và bầu trời trên cao của họ.
Cũng khám phá sự tham gia của văn học vào các vấn đề của môi trường là
công trình Các bóng xanh khác nhau: Văn học châu Phi, công lý môi trường và
sinh thái học chính trị (Different shades of green: African literature,
environmental justice, and political ecology, 2000) của Byron Caminero-
Santangelo. Đây là một bản phân tích chuyên sâu về sự xung đột xã hội, thay
đổi môi trường và chủ nghĩa đế quốc ở châu Phi. Cuốn sách chỉ ra di sản văn
hóa về văn học môi trường ở châu Phi vốn thường bị bỏ quên do quan niệm về tự
nhiên phương Tây và phong trào môi trường phương Tây chi phối. Dựa trên một
nghiên cứu mang tính liên ngành sử dụng các nghiên cứu hậu thuộc địa, sinh thái
chính trị, và lịch sử môi trường cũng như văn học về môi trường ở châu Phi, Byron
Caminero-Santangelo nhấn mạnh các kết nối trong văn học môi trường nơi đây,
75
nhấn mạnh cách thức các nhà văn châu Phi đã thách thức các hình thức bất công và
mang tính phá hoại về sinh thái của sự phát triển hiện đại và khai thác tài nguyên.
Với Byron Caminero-Santangelo, chủ đề thiên nhiên xanh đã tạo cơ hội cho các
nhà văn châu Phi như Chinua Achebe, Ngũgĩ wa Thiong'o, Bessie Head, Nadine
Gordimer, Zakes Mda, Nuruddin Farah, Wangari Maathai và Ken Saro-Wiwa có
thể được đặt cạnh nhau, đối thoại với nhau, để từ đó khám phá các vấn đề nan giải
cho những ai tham gia vào cuộc đấu tranh vì công lý môi trường, trong nghiên cứu
về sinh thái chính trị và trong các nghiên cứu mang tính nhân văn về môi trường,
từ đó thúc giục sự tư duy và trí tưởng tượng tiếp tục về một tương lai công bằng
hơn, bền vững hơn cho châu Phi.
Xuất bản gần đây nhất trong series về mối quan hệ văn học và biến đổi bất
thường về khí hậu là cuốn Sáng tác lại thơ sinh thái: Thơ Bắc Mỹ về thế nhân
sinh tự ý thức (Recomposing ecopoetics: North American poetry of the self-
conscious anthropocene, 2018) của Lynn Keller. Cuốn sách tập trung vào thi
pháp học sinh thái của thế kỉ XXI để phân tích các bài thơ về “thế nhân sinh”,
một giai đoạn trong đó con người ý thức rộng rãi về mức độ và sự trầm trọng
của những tác động của mình lên hành tinh. Cuốn sách tập trung vào các tác
phẩm được viết từ năm 2000 của mười ba nhà thơ Bắc Mỹ, những người cố
gắng bước qua các quy ước văn học để tìm kiếm các hình thức và ngôn ngữ phù
hợp với các vấn đề môi trường phức tạp. Keller dựa trên phương pháp thực
nghiệm ngôn ngữ và dựa vào các nguồn tài liệu văn học truyền thống để khẳng
định rằng các nhà thơ đương đại Bắc Mỹ đã phản ứng với các vấn đề môi
trường do con người tạo ra và và coi "thiên nhiên" không chỉ là một phạm trù
mang tính văn hóa và mang tính bao bọc, khép kín như thơ ca về thiên nhiên
trong truyền thống đã làm. Nghiên cứu liên ngành này mang một bước tiên
phong trong phê bình sinh thái đó là sự xem xét những tài liệu phong phú về
thơ ca môi trường đương đại. Công trình còn đem lại cho các ngành khoa học
nhân văn về môi trường những cách thức mới để hiểu các khía cạnh văn hóa
của thế Nhân sinh.
Cũng tập trung vào thể loại thơ và các vấn đề môi trường là cuốn Tạo
dựng thiên nhiên: Thơ Mỹ hiện đại, kiến trúc phong cảnh và quy hoạch thành
76
phố (Building natures: Modern American poetry, landscape architecture, and
city planning, 2017) của Julia Daniel. Cuốn sách tái hiện những ảnh hưởng của
kiến trúc cảnh quan, quy hoạch thành phố và quản lý công viên đối với thơ ca
Mỹ để xem cách thức các nhà hiện đại đã gắn kết với thế giới xanh và sân chơi
công cộng nhân tạo trong thế kỷ XX như thế nào. Các nhà thơ hiện đại đã miêu
tả công viên trong hình thức thơ ca khám phá các nguyên tắc thẩm mỹ và không
tìm được những lý tưởng dân chủ ẩn chứa trong các kiến trúc xanh. Daniel Julia
cho rằng thơ hiện đại Mỹ không chỉ nhấn mạnh tính nghệ thuật ẩn đằng sau
những biểu tượng về không gian xanh mà còn chỉ ra cách thức các công viên
đóng khung, chứ không phải là cải thiện, những bất an, lo âu của con người về
việc ngày càng đông dân cư sống và làm việc trong các trung tâm đô thị đông
đúc và không trong lành.
Như vậy, khám phá sự phản ánh và sự tham gia của văn học (ở thể loại
tiểu thuyết và thơ ca) vào những vấn đề thiên tai không còn là một vấn đề mới
trong nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái. Ở Việt Nam, như đã chỉ
ra ở Chương 1, những tập trung mang tính học thuật về mối quan hệ giữa văn
học và các vấn đề thiên tai (như là kết quả của nền công nghiệp hóa, hiện đại
hóa) chủ yếu dựa trên những khảo sát về văn xuôi đương đại. Thơ ca, đặc biệt
là Thơ mới lãng mạn, cơ bản được khai thác ở phương diện là phản ánh, gợi
lên, khuyến khích mối quan hệ giao hòa giữa con người và thiên nhiên; theo đó
thiên nhiên là nơi bền vững, là cội nguồn, là điểm tựa đối lập lại với xã hội, với
đô thị, với công nghiệp, với khoa học, hiện thân vật chất của đời sống tinh thần
bất ổn, vướng bận và tham vọng. Mảng thơ viết về thiên tai và các vấn đề xã
hội đi kèm chưa được chú ý nhiều, đặc biệt là từ góc độ phê bình sinh thái, chưa
được tìm hiểu trong các công trình nghiên cứu về Thơ mới.
Thơ mới trước tiên thể hiện sự ý thức của con người về các hiện tượng tự
nhiên không thuận lợi cho con người. Nói cách khác, nhân vật trữ tình trong
Thơ mới thừa nhận những hiện tượng thiên nhiên không chiều lòng người của
miền đất vùng nhiệt đới gió mùa; những phản ứng sinh lí của con người trước
khí hậu, thời tiết đặc trưng của miền nhiệt đới và ở khu vực nông thôn. Ví dụ,
77
bài thơ “Vào hè” của Anh Thơ miêu tả thời tiết oi nực, nhễ nhại và câm lặng
đặc trưng của mùa hè miền Bắc Việt Nam:
Nắng đã nực, cây vườn im thở gió
Ngõ đầy ruồi, vắng bóng bướm ong qua.
...
Trong đồng lúa cũng bắt đầu khát nước
Lũ gái tơ uể oải kéo giây gầu.
(Vào hè – Anh Thơ)
Cái kiểu nắng nực, cái hơi nóng dày đặc tạo nên một không gian đặc
quánh, ngột ngạt; không khí không chuyển động, sự vật im lìm làm cho không
gian càng tù đọng; sự xuất hiện của ruồi muỗi cho thấy không khí ẩm thấp, nhễ
nhại, không khí không thể lưu thông; không khí trưa hè như vậy rút hết sinh lực
con người, con người cũng trở nên ủ rũ, mệt mỏi, ngay cả những người trẻ tuổi
cũng trở nên “uể oải”. Bài thơ như là một sự miêu tả bằng thơ đặc trưng về địa
lí trong thời gian giữa hè của đồng bằng Bắc Bộ vốn vừa nhiệt độ cao, vừa có
độ ẩm nhiều khiến cơ thể, tâm trí con người trở nên uể oải, rã rời.
Sự thừa nhận những điều kiện thiên nhiên tất yếu nhưng bất lợi đối với
trạng thái và cơ thể con người trở thành chủ đề chủ đạo trong bài Đồng làng của
Đoàn Văn Cừ. Theo đó, những đặc trưng địa lí (về đất đai, khí hậu, mực nước,
nhiệt độ) khắc nghiệt đối với sinh hoạt của con người và với vật nuôi cây trồng
ở vùng đồng bằng miền Bắc Việt Nam được miêu tả một cách trần trụi.
Tháng sáu đêm chiều nước cạn khô
Tiếng gà xao xác gáy canh tư
...
Tháng bảy trời mưa ngập bốn bề
Sóng đồng khuya đập các bờ tre
...
Gió mưa tháng một lạnh tê người
Đất ruộng cày lên xếp luống phơi
...
Tháng chạp đương kỳ đổ ải khô
78
Chỗ gieo xỏ cuốc, chỗ phang vồ
(Đồng làng – Đoàn Văn Cừ)
Bài thơ đọc ra những đặc điểm khí hậu điển hình của miền Bắc trong
từng thời khắc. Sự xuất hiện của thời gian cụ thể trong bài thơ (“tháng sáu”,
“tháng bảy”, “tháng một”, “tháng chạp”) tạo ấn tượng về sự bất biến của những
hiện tượng khắc nghiệt từ thiên nhiên được miêu tả. Như là ngàn đời nay vẫn
vậy, tháng sáu là tháng khô hạn và nắng nóng nhất trong năm, tháng bảy là
tháng ngâu – tháng mưa nhiều nhất, tháng một là thời điểm rét nhất dù về lí
thuyết đây là mùa xuân. Và ở mỗi thời điểm, việc nước cạn khô vào tháng sáu,
mưa ngập đồng ngập ao, hay “tháng một lạnh tê người” trở nên bình thường với
con người của miền Bắc Việt Nam. Dường như là đã thành quy luật việc khí
hậu không ưu đãi con người và không ưu ái các loài sinh vật. Hơn nữa, công
việc đồng áng của con người vẫn diễn ra vào đặc trưng khí hậu của từng thời
điểm: tháng một cày đất, tháng chạp đổ ải, đập đất, gieo hạt.
Không những vậy, sự biến đổi về thổ nhưỡng theo thời gian, kèm theo đó
là sự xóa nhòa các dấu vết của con người, cũng được miêu tả như một quy luật
trong bài thơ Chiều mưa trên mộ địa của Phan Văn Dật:
Chốn ngày xưa là rộng rãi
Nước sông còn chưa lấn vào
Nay mỗi năm đất càng ngày càng lở
Mỗi ngày phô thêm vài nắm cổ lâu
Đất lở, trơ bờ thẳm
Xương tàn trôi theo nhau
(Chiều mưa trên mộ địa - Phan Văn Dật)
Diện mạo thổ nhưỡng, đắp đổi đất đai giống như sự xoay vần của vũ trụ.
Sự biến mất của cơ thể sinh học của con người (hài cốt) cũng là thuận theo tự
nhiên. Bài thơ như vậy dường như ẩn chứa một triết lí về mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, đó là tâm lí chấp nhận và sống chung những điều kiện khắc
nghiệt như là quy luật của thiên nhiên. Với việc đem vào thơ ca những phương
diện và điều kiện không thuận lợi cho con người của thiên nhiên -Thơ mới -
như thế, phản ánh và phát triển tinh thần hài hòa với thiên nhiên và lối sống
79
thuận theo tự nhiên của con người bất kể các phương diện bất tiện và thuận tiện
của nó. Gợi lên triết lí như vậy, Thơ mới dường như cố gắng xây dựng một
quan hệ biện chứng và gián tiếp giữa tự nhiên và văn hóa. Thơ mới, nhìn từ
phương diện này, phải chăng đang tái khẳng định con người như là một phần
của tự nhiên, hay như là một phần của cái chu trình tự nhiên giống như phần
còn lại của thế giới tự nhiên này. Thiên nhiên, như là sức mạnh vũ trụ, cũng
dường như là một không gian không yên ổn của những con người.
Ở mức độ cao hơn nữa, thiên nhiên trong Thơ mới còn trở thành lực lượng
đe dọa đời sống con người; cùng với các lực văn hóa-xã hội, thiên nhiên tham
gia vào phá hủy con người. Trong Thơ mới, con người trốn chạy khỏi đô thị bất
ổn, chết chóc và cô đơn để tìm về với thiên nhiên như là nơi cội nguồn, nơi chia
sẻ. Xu hướng đó phản ánh tư tưởng cổ điển của phê bình sinh thái ở làn sóng
đầu tiên, đó là sự phân chia nhị nguyên giữa thiên nhiên và văn hóa. Nhưng
cũng trong Thơ mới lại có những bài thơ cho thấy sự không phù hợp của tính
nhị nguyên phân đôi văn hóa và tự nhiên. Những bài thơ về thiên tai của Thơ
mới cho thấy con người vừa vật lộn và chạy trốn khỏi xã hội, vừa chống chọi
với tự nhiên.
Một loạt bài thơ trong phong trào Thơ mới nói về thiên tai của vùng quê
sông nước như là những câu chuyện kể, có sự kiện, có cốt truyện và có nhân
vật. Trong đó, hai nhân vật chính bao trùm là con người và nước, diễn biến câu
chuyện diễn ra theo một trật tự là nước tấn công con người và những phản ứng
tâm lí, sinh lí, thân thể của con người nhằm trốn chạy khỏi tự nhiên. Kết thúc
phần thắng luôn thuộc về thiên nhiên. Như trong bài thơ Mưa đêm lều vó của
Trần Huyền Trân:
Mưa lũ ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã dời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền
(Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân)
Con người và sinh vật ở đây phản ứng thụ động trước lũ lụt: “cây bờ ngơ
ngác”, “kiến… dời lên mái”, và “bà lão chài lo chưa có thuyền”. Sự bất lực của
80
con người trước thiên nhiên cũng được thể hiện trong bài thơ Mưa ngàn của Hồ
Dzếnh:
Tháng tư nước lũ, mưa ngàn
Nước xuôi đem hết lá vàng gửi xuôi
Đường về: sông ngập, cầu trôi
Lối sang quê bạn xa xôi quá chừng!
(Mưa ngàn - Hồ Dzếnh)
Những sự vật thuộc về văn hóa – vật thể do con người làm ra để sinh tồn –
như “thuyền”, “lều”, “cầu”, “đường về” trở nên vô ích và thậm chí bị tàn phá
trước sự tấn công của thiên nhiên (cầu bị trôi, đường bị ngập).
Trong thơ của nữ thi sĩ Anh Thơ, thiên tai của thiên nhiên được miêu tả
như là cơn “thịnh nộ” của đất trời. Cả nắng và lũ lụt đều hiện lên ở trạng thái dữ
dội, cuồng nhiệt: “nắng suốt trời vàng rãi nắng!”. Tất cả các sinh vật sống bị vắt
kiệt sinh lực trước nắng hạn “Vườn chuối rũ héo dần trong im lặng/Những rau
bèo chết cạn cả trong ao/Ngoài đồng ruộng lúa vàng khô cháy xác” (Đại hạn).
Bão, lũ cũng được miêu tả như cơn cuồng phong thịnh nộ: “Mưa ồ ạt suốt trời
tuôn đổ thác/Gió gầm gào khắp đất quật cây lên/Sét thịnh nộ từ trời cao giáng
lại!/Và mưa gầm và gió giật cây rung/Từng hồi ốc rú dài trong sợ hãi/Trong gió
gầm rin rít lũy tre xanh” (Đêm giông tố). Cảnh đê vỡ được miêu tả như một cơn
đại hồng thủy: “Đê đã vỡ một đêm mưa tầm tã/ Nước băng sông ồ ạt chảy trôi
đồng” (Lụt). Bài thơ Tiếng sóng của Phạm Huy Thông cũng chia sẻ cảnh tượng
bão lũ hãi hùng, cơn bão lũ trở nên khốc liệt hơn khi được đặt trong không gian
đêm tối:
Có nhiều đêm tối đen như địa phủ,
Sóng dữ đội như ma thiêng kêu rú,
Đương khi, trong đám tối chớp bập bùng
Và giông gào và sấm sét đùng đùng
Hỡi sóng đêm hỗn độn lôi đình quát tháo
Cả vũ trụ như toan vùi trong trận bão!
(Tiếng sóng – Phạm Huy Thông)
81
Các động từ mạnh “ồ ạt…tuôn đổ”, “gầm gào”, “quật cây”, “giáng lại”,
“gầm…giật cây”, “rú dài”, “gầm rin rít”, “kêu rú”, “bập bùng”, “giông gào”,
“sấm sét đùng đùng”, “hỗn độn lôi đình quát tháo” nhấn mạnh cơn vần vũ
cuồng nộ của thiên nhiên. Và cả vũ trụ, trong đó có con người, trở nên nhỏ bé,
bất lực “như toan vùi trong trận bão!”. Cũng như thế, bài thơ Tình thâm của Hồ
Văn Thảo cũng cho thấy sự “ác nghiệt” của thiên nhiên:
Một làn sóng to ác nghiệt
Từ từ đập táp vào hông
Nghiêng ...rồi ngã...chú tài công
La trời: “Úy! mau mau! Chết!
...
Trong bể tối một người đang lội
Tay bồng con, tay nương vợ, chới với hụp trồi
...
Im hơi lặng...từ từ chìm đáy nước
Muốn kéo vợ, trông mình đà kiệt sức
Ráng nâng con lặn lội thẳng vào bờ
Trông ra một dãy mịt mờ
Xác người vô phúc vật vờ nơi nao
(Tình thâm - Hồ Văn Thảo)
Như một thước phim ngắn ghi lại cảnh tượng một gia đình gặp phải thủy
nạn, sóng to cuốn trôi, người chồng nỗ lực cứu vợ và con nhưng kiệt sức, vợ hi
sinh ra đi để chồng cứu con. Các bài thơ trên hàm ẩn nghĩa về nỗi hãi sợ, kinh
hoàng của con người trước thiên nhiên. Con người trở nên nhỏ nhoi, bất lực
trước vũ trụ; các vật phẩm văn hóa, văn minh của con người được miêu tả trong
trạng thái trốn chạy khỏi thiên nhiên, bất lực và bị lật đổ bởi thiên nhiên. Ở đây,
dường như con người đang ở đỉnh điểm trong đời sống của họ - nơi ranh giới
giữa cái sống và cái chết, những tù nhân của văn hóa và lịch sử này nhận ra
rằng cuộc đời của họ bị thiên nhiên cai trị; rằng họ không bao giờ có thể sống
trong một không gian thoát khỏi tự nhiên. Các bài thơ dường như là đang chứng
82
tỏ rằng con người không thể mong chờ kiếm tìm sự khuây khỏa từ văn hóa hay
là tự nhiên.
Ở trong các bài thơ về thiên tai của Thơ mới có một ý thức cao độ về
không gian và nơi chốn như là một thực tế mà tác giả trữ tình và các nhân vật
cảm nhận sâu sắc. Và như nhà phê bình như Neil Evernden khẳng định rằng
đây là cách thức phát triển câu chuyện của các cây bút sinh thái [104, 16-20].
Sự nhạy cảm của con người với địa lí nơi mình ở có thể tìm thấy trong bài thơ
Điềm ứng: lành dữ, thời tiết của Đoàn Văn Cừ. Vì vậy, các hiện tượng thiên
nhiên đều tương ứng với số phận con người hay cả một cộng đồng: hiện tượng
“gấu ăn trăng” là điềm báo “Dân tình đói kém”; “gà mái gáy” là tín hiệu của tin
gở; tương tự như thế: “Mống mọc đằng đông: trời sắp bão/Cua bò đường cái:
lụt mênh mang/Trai nước chiều hôm: sắp gió mưa/Trăng quầng: đại hạn, ruộng
đồng khô/Kiến bò lên giậu: mưa lầm lội/Trăng sáng trung thu: ứng được
mùa/Đêm tối ma trơi hiện lững lờ/Xanh lè: trời nắng, đỏ: trời mưa/Quạ kêu:
người chết, hồn sa đất/Quạ réo: đưa tin khách đến nhà”. Các sự vật thiên nhiên
như tương ứng với nhau; hiện tượng thiên nhiên này là tín hiệu của hiện tượng
thiên nhiên khác. Bài thơ như là những ghi nhận cũng như ý thức của con người
về sự chủ động và nhạy bén của các sinh vật tự nhiên hay của thế giới không
phải con người. Hơn nữa, bài thơ còn là sự tự ý thức của con người về mối liên
hệ không thể tách rời giữa sinh mệnh của mình và sinh mệnh của muôn loài với
sự liên đới giữa sinh mệnh con người và sự vần xoay của vũ trụ.
Đáng chú ý, xu hướng của mối liên hệ này chủ yếu là những điềm gở,
những tai họa. Điều này cho thấy sự bất an của con người trong vũ trụ. Trong
một bài thơ khác, Đoàn Văn Cừ gọi tên đích danh sự bất an này là Những nỗi lo
sợ phấp phỏng.. Bài thơ ngắn nhưng bao gồm những tính từ chỉ tâm trạng
thường trực của con người trước thiên tai: “trẻ già sợ”, “nhao nhác lo kè vỡ”:
Tháng sáu mưa rây chớp sáng lòa
Gió bay rơm rạ xoáy tròn xa
Trẻ già sợ bão tìm cơ tránh
Lấy cả chày chân để chống nhà
Tháng bảy vang lừng trống hộ đê
83
Trời mưa nước lũ cứ tuôn về
Người làng nhao nhác lo kè vỡ
Đêm tối còn đi chặt gốc tre.
(Những nỗi lo sợ phấp phỏng - Đoàn Văn Cừ)
Điều đáng nói ở đây là dường như cái thời điểm tháng sáu chưa đến nhưng
nhân vật và tác giả trữ tình đã phấp phỏng lo sợ về những hiện tượng thiên tai
xảy đến. Cũng giống như các nhân vật trong bài thơ, tất cả đều lo xa và thậm
chí là có những hành động thái quá nhằm đối phó lại thiên nhiên. Bão chưa đến
nhưng con người đã “chống nhà” và kè chưa vỡ nhưng người đã hối hả “đi chặt
gốc tre” thậm chí là trong đêm tối. Điều này cho thấy con người sống trong
trạng thái lo âu, bất ổn. Thiên tai và những hiểm nguy ẩn tàng trong tự nhiên
được xem như là có thể xảy ra bất cứ lúc nào và con người luôn thường trực
cảm giác bất an. Phạm Huy Thông gọi mối hiểm họa thường trực từ thiên nhiên,
hay đúng hơn là sự bất an, bất lực thường trực của con người trước thiên nhiên
như là một quy luật ngàn đời bằng câu thơ:
Trong vòng đau tự ngàn xưa nhất định
Bắt loài người phải lăn lộn quay cuồng.
(Tiếng sóng – Phạm Huy Thông)
Các sự kiện thiên tai xảy ra với con người khiến họ loay hoay và thậm chí
là chết đứng theo đúng nghĩa đen của từ này. Yi-Fu Tuan, một nhà địa lí học
nhân văn trong cuốn sách Phong cảnh của nỗi sợ hãi [147]. Miêu tả sự kết nối
kì lạ đó – sự kết nối xuất hiện giữa ý thức con người và một nơi chốn – như là
một “ý thức về nơi chốn,” nơi thỉnh thoảng các địa điểm có thể trở thành nơi
chốn xuất hiện nỗi kinh hoàng hay thành nơi phong cảnh đầy ắp những hình
ảnh đen tối của tâm trí cùng nỗi hãi sợ đối với hạn hán, động đất, lũ lụt, nạn đói
và bệnh tật mà các thành viên của một cộng đồng đều cảm thấy. Không gian
làng quê với sự xuất hiện thành quy luật của các sự kiện thiên tai như trở thành
không gian chứa nỗi sợ của những con người bị giam cầm, con người bất lực,
con người bị thất bại.
Nhưng Thơ mới về thiên tai, nhìn từ góc độ sinh thái, không chỉ phản ánh
sự vỡ mộng của con người về bản thân mình trước thiên nhiên và vỡ mộng về
84
thiên nhiên không còn là chốn đi về an bình hay như là sự bất biến. Thơ mới về
thiên tai, với tứ thơ được phát triển dựa vào sự kiện về thời tiết, phản ánh và gia
nhập vào diễn ngôn về công lý môi trường và công lí xã hội. Dễ dàng nhận ra,
các bài thơ về thiên tai đều tập trung vào khu vực nông thôn, người phải gánh
chịu thiên tai là những người có thể được xếp vào phạm trù mà Karen Warren
gọi là “những nhóm Khác thuộc loài người” trong cuốn Triết học nữ quyền sinh
thái: Cái nhìn phương Tây về triết học đó là gì và tại sao nó lại là một vấn đề
(Ecofeminist philosophy: A Western perspective on what it is and why it
matters, Karen J Warren, Lanham: Rowman&Littlefield Publishers, Inc,
2000)[144]. Theo đó, Warren gọi những người bị nhược tiểu như phụ nữ, người
da màu, trẻ em, người nghèo là những người thuộc nhóm khác và vị trí nhược
tiểu hay tình trạng bị chiếm hữu của nhóm người này có liên quan đến sự chiếm
hữu bất công đối với tự nhiên. Nhân vật thất bại và kiệt sức trước thiên nhiên
như thấy trong các bài Thơ mới là phụ nữ. Đó là cô gái thăm ruộng trong Đại
hạn và “lũ gái tơ” kéo nước giếng trong bài Vào hè của Anh Thơ; đó là người
vợ chết chìm trong Tình thâm của Hồ Văn Thảo. Sự xuất hiện của hình tượng
phụ nữ trong các bài thơ về hạn hán của Anh Thơ tương ứng một cách thú vị
với miêu tả của Karen Warren về vị trí bị chiếm hữu (sức lao động) một cách
bất công trong điều kiện hạn hán. Theo Warren, ở những nước châu Á, châu
Phi, phần lớn phụ nữ và trẻ em chịu trách nhiệm lấy nước. Sự khan hiếm nước
khiến cho phụ nữ phải đi bộ xa hơn để kiếm nước. Và trong Thơ mới, sự xuất
hiện hình ảnh những phụ nữ chán nản trong nắng hạn vừa phản ánh tình trạng bị
sở hữu sức lao động của họ - đồng áng, làm vườn bị định danh là công việc của
phụ nữ - vừa phản ánh độ rủi ro, nguy hiểm của phụ nữ trước vấn đề của thiên
tai. Warren cũng cho rằng: Trong những người chịu thiệt hại do những phá hủy
về môi trường, như người da trắng, người da màu, người nghèo, trẻ em, người
già, dân thuộc địa, dân Thế giới thứ ba và các nhóm người khác, thì phụ nữ
thường gặp những rủi ro và hiểm nguy. Từ năm 1902 đến năm 1918, đồng bằng
sông Hồng bị ngập lụt hàng năm; vào năm 1913 và 1915, nhiều trận lụt tàn phá
đã phá hủy 94.000 và 365.000 ha ruộng lúa. Trong những năm trước thế chiến
I, tiêu thụ gạo bình quân đầu người giảm và đói đã lan tràn. Tình trạng này trở
85
nên tồi tệ hơn vào năm 1916, do hậu quả của hạn hán và lũ lụt, vụ thu hoạch lúa
đã chỉ bằng một nửa vụ mùa của năm trước. Ngay cả các tỉnh phía Bắc của An
Nam-Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh cũng bị ảnh hưởng. Vào những năm
1920, những nguyên nhân tương tự đã đẩy nông dân miền Bắc đồng ý trở thành
những người lao động trong khu vực cao su phía Nam và thậm chí xa hơn trên
đảo New Caledonia [95]. Vào những năm 1936-1937, từ miền Bắc cho đến
miền Trung Việt Nam trải qua kì hạn hán bất thường và những trận lũ lụt thảm
khốc. Như miêu tả của Geoffrey C. Gunn, mùa hè năm 1937, gió mùa xuất
hiện, tạo ra những trận mưa dài trên toàn đồng bằng Sông Hồng. Ở các tỉnh như
Bắc Ninh, Hải Hương, Hưng Yên, Bắc Giang, đê vỡ đồng loạt, nước tràn ra
khắp khu vực. Điều này khiến cho việc năng suất lúa sụt giảm đáng kể. Nạn đói
đe dọa [112]. Như vậy, Thơ mới tham gia vào phản ánh điều kiện tự nhiên của
địa phương và những tác động của nó lên đời sống tâm lí, thân thể và đời sống
vật chất con người. Có thể nói, Thơ mới, dường như đồng điệu với các vấn đề
liên quan đến công lý môi trường và công lí xã hội, những vấn đề đang được
các nhà phê bình sinh thái thuộc làn sóng thứ hai tập trung khai thác và phát
triển trong tiếp cận văn học.
3.2. Tự nhiên nhƣ một chủ thể
3.2.1. Tự nhiên như là lực hút và lực đẩy của chốn đô thị
Thơ mới ra đời vào đầu thế kỷ XX, khi xã hội Việt Nam bước vào quá trình
đô thị hóa và công nghiệp hóa dưới sự cai trị về kinh tế, giáo dục và văn hóa của
thực dân Pháp. Những trí thức triều đình ngày càng trở nên không hợp thời và
trong xã hội nổi lên một tầng lớp trí thức hiện đại mới; họ là những người am hiểu
và yêu thích khoa học, địa lý và các chủ đề hiện đại khác. Giới trí thức mới của
Việt Nam ấn tượng với nền văn minh phương Tây, cố gắng, hưởng thụ nền giáo
dục phương Tây và tìm kiếm cơ hội việc làm tại các cơ sở giáo dục, hành chính sự
nghiệp của nhà nước thực dân. Hơn nữa, ở các trung tâm đô thị, nhu cầu của cả bộ
máy quan liêu của chính phủ Pháp và khu vực tư nhân cho các thư ký, thủ quỹ,
thông dịch viên, cán bộ và lao động ngày càng tăng cao. Tất cả những điều đó đã
thu hút sự di cư của những người sống ở nông thôn vào các thành phố lớn, trong
đó có những trí thức. Sức hút của thành thị đã thực sự cám dỗ thi nhân. Rời bỏ quê
86
nhà để lên thành phố không hẳn chỉ là sự di chuyển nơi chốn mà đằng sau đó là
một sự thay đổi lớn trong tư duy. Đô thị trở thành nơi nuôi dưỡng không gian sáng
tạo tự do, mong đợi để nghệ thuật nảy mầm, khát khao dựng xây một sự nghiệp
thành công. Vì thế, trong Thơ mới, đô thị trở thành một đề tài chủ đạo.
Và nhìn từ góc độ phê bình sinh thái, đô thị trong Thơ mới là đối tượng
của sự phê phán, sự từ chối để từ đó thi nhân hướng về với thiên nhiên. Biểu
hiện sinh thái hiển lộ nhất của đô thị trong Thơ mới là tính tượng trưng, tính
văn hóa, tính phi tự nhiên của nó. Tính luận đề sinh thái này của hình ảnh đô thị
trong Thơ mới có thể được thấy trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, cụ thể là
các câu thơ sau:
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Giải nước đen giả suối, chẳng thông giòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
(Nhớ rừng – Thế Lữ)
Thiên nhiên ở đây bị văn hóa hóa, tượng trưng hóa. Nó không còn là
chính nó mà chỉ hiện lên như là một hiện thân cho quan điểm thẩm mĩ và hiện
thân cho sức mạnh và tài năng của con người. Ở nhiều bài thơ Thơ mới khác,
thiên nhiên đô thị chủ yếu hiện lên như là một biểu tượng; điều này, từ góc nhìn
phê bình sinh thái, là phản-sinh thái:
Gió thu ngày trắng hương vương giả
Bạc gãy hồng hoen bụi đế đô
(Hờn thặng phấn - Vũ Hoàng Chương)
Rèm quây che kín bụi đường
Chủ hàng vắt cẳng lên giường ngáy sâu
(Phố huyện – Hồ Dzếnh)
Cây mở cành xanh, nghiêng lá phơi
Bụi gieo trên lá, dội nên lời
Bâng khuâng kể lại bao câu chuyện
Của những bàn chân rỗ dấu đời
87
(Dấu chân trên đường – Huy Cận)
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả?
(Nhạc sầu – Huy Cận)
Tất cả các hình ảnh thiên nhiên ở trên (sương, bụi, lá, gió, cây) đều mang
đậm tính trừu tượng hơn là tính cụ thể, vật chất. Theo đó, bụi ở đây là bụi đời,
sương là “bụi phai tàn”, “bụi trên lá” là “bàn chân rỗ dấu đời” v.v… Như vậy,
thiên nhiên ở đây là hiện thân đậm nét của tính văn hóa – sự can thiệp của con
người, sự cắt xén, điều chỉnh của con người đối với thiên nhiên, để cho thiên
nhiên phù hợp và có lợi cho cuộc sống con người. Và theo nét nghĩa này, đô thị
là hiện thân cho sự phá hủy hay sự phản-thiên nhiên, phản sinh thái. Nói cách
khác, thiên nhiên ở đây được xem như là một hiện thân của sự tạo nghĩa hay là
kết quả của quá trình tạo nghĩa – quá trình văn hóa hóa – của con người. Mặc
dù phê bình sinh thái đang ngày càng được thừa nhận trong các cuộc tranh luận
học thuật, nó vẫn đang vạch ra những ranh giới nghiên cứu của riêng nó. Khởi
đầu bằng việc xem xét vai trò của tự nhiên và thiên nhiên với quá trình tạo
nghĩa của con người và bằng những phân tích phản biện về vai trò của văn học
và văn hóa trong sự tương tác với môi trường không thuộc thế giới con người
(non-human), phê bình sinh thái đã trở thành một ngành mới trong phê bình văn
học với những câu hỏi mới, những chủ đề mới. Và một trong những chủ đề xuất
hiện gần đây trong phê bình sinh thái đó là phê bình sinh thái đô thị (urban
ecocriticism). Với sự chú ý vào môi trường của con người và trầm tư mặc tưởng
mang tính văn hóa về ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới môi trường, phê
bình sinh thái đô thị được xem như là một sự phát triển trên phương diện lí
thuyết của phê bình sinh thái. Mặc dù các nhà phê bình sinh thái đã từ lâu nhấn
mạnh sự cần thiết của việc đưa các hệ thống đô thị vào trong nghiên cứu của
mình, nhưng có rất ít nghiên cứu tập trung vào chủ đề này; phê bình sinh thái
vẫn tập trung vào những khái niệm như “cái hoang dã” hay những khung cảnh
đồng quê vốn được xem như là chưa có ảnh hưởng của con người. Phải đến
cuốn Tự nhiên của các thành phố: Phê bình sinh thái và môi trường đô thị (The
nature of cities: Ecocriticism and urban environments) của Michael Bennet và
88
David W. Teague (1999) và cuốn Viết cho một thế giới đang có nguy cơ tuyệt
chủng (Writing for an endangered world) của Lawrence Buell , các nhà phê
bình sinh thái mới chỉ ra sự thiếu vắng cả không gian đô thị trong các nghiên
cứu về thiên nhiên, văn hóa và môi trường. Các nhà phê bình sinh thái đến lúc
này khẳng định “sự cần thiết phải nhắc các công dân thành phố vị trí của họ
trong phạm vi các hệ thống sinh thái và tầm quan trọng của điều này đối với đời
sống đô thị và văn hóa” [ 91]. Cũng như thế Buell kêu gọi sự chuyển hướng tập
trung vào “sự phụ thuộc lẫn nhau giữa phong cảnh đô thị và khu rừng rú hẻo
lánh” [95, 8]. Nghiên cứu không gian đô thị trong phê bình sinh thái truy tìm
những cơ sở vật chất thế giới đô thị và những ảnh hưởng của chúng với môi
trường trên cơ sở phân tích sự phát triển và biểu hiện diễn ngôn chúng trong
văn hóa, văn học.
Với các nhà Thơ mới, đô thị là giấc mộng phù hoa. Tác giả của Thi nhân
Việt Nam đã từng khái quát bức tranh đổi thay đó: “Trước mắt chúng ta bỗng
bày ra những cảnh lạ lùng chưa bao giờ từng thấy. Lúc đầu, ai nấy đều ngơ
ngác, không hiểu ra làm sao. Nhưng rồi chúng ta quen dần. Chúng ta ở nhà Tây,
đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe
lửa, xe đạp…còn gì nữa! Nói làm sao cho siết những điều đã thay đổi về vật
chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta” [63, 12]. Sức thu hút và cám dỗ của
đô thị hào hoa với bao điều mới lạ đã cuốn bước chân Nguyễn Bính ra đi đem
theo những hoài bão lớn lao, những khát vọng công danh.
Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh
Tôi đi dan díu với kinh thành
(Hoa với rượu - Nguyễn Bính)
Nguyễn Bính ra đi là để nuôi dưỡng mộng công danh, vì thế mà vượt lên sự
do dự, lạ lẫm là một niềm hăm hở, hồ hởi “giàu lòng tin tưởng bước tương lai”.
Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọng
Giàu lòng tin tưởng bước tương lai
(Lá thư về Bắc – Nguyễn Bính)
Bước chân đến chốn phồn hoa đô hội, thi sĩ không khỏi choáng ngợp trước
sự xa hoa, rộn rã, hào nhoáng, đông vui của nơi chốn này.
89
Phồn hoa rộn rã áo xiêm
Muôn bao hình ảnh có tìm như không
(Mười hai bến nước - Nguyễn Bính)
Cũng giống như Nguyễn Bính, Thâm Tâm đã phác thảo sự háo hức của
các thi sĩ đương thời qua bức tranh náo nức, chứa đầy hoài bão.
Thăng Long đất lớn chí tung hoành
Bàng bạc gương hồ ánh mắt xanh
Một lứa chung tình từ tứ chiếng
Hội nhau vầy một tiệc quần anh
(Vọng nhân hành – Thâm Tâm)
Trên thực tế, choáng ngợp trước vẻ lung linh của chốn đô thành không chỉ là
cảm thức riêng của thi sĩ Nguyễn Bính, Thâm Tâm mà còn là của số đông các nhà
Thơ mới cùng thời lúc bấy giờ. Thế Lữ đã từng cổ vũ các thi gia: “Tôi khuyên thơ
tìm đến thành thị/ Khuyên sống chung trong cuộc đời mới”. Hay Vũ Hoàng
Chương cũng không khước từ trước sự cám dỗ của đô thị: “Tiếng gọi phồn hoa
của buổi sớm/ Đã cuốn chàng đi chẳng trả về”. Như vậy có thể thấy, đô thị thực sự
là một không gian không chỉ mới lạ về địa lí mà còn là môi trường lí tưởng để các
thi sĩ, trí thức Tây học thời bấy giờ ấp ủ nuôi mộng nghệ thuật.
Thực dân Pháp xâm lược, đã đem đến một màu sắc mới lạ cho xã hội Việt
Nam, nhất là một quốc gia vốn quen với nền văn minh lúa nước, lạc hậu nay
được tiếp cận với những cái tân tiến, văn minh, xa hoa, tấp nập. Con người ta vì
thế dễ hi vọng và đặt niềm tin vào môi trường mới. Tất nhiên chốn phồn hoa đô
thị vì thế mà có sức cám dỗ mạnh mẽ, có sức hút ma lực để những bước chân
sẵn sàng rời bỏ làng quê mong chờ đón nhận và khám phá điều mới lạ. Với các
thi sĩ lúc ấy, thì cái Tôi cá nhân được giải phóng, được làm chủ, được mạnh mẽ
nói lên tiếng nói của mình, thích khám phá cái đổi thay. Cũng vì vậy, khi mang
trong mình tâm nguyện muốn thỏa chí tang bồng, trả nợ công danh ắt hẳn với
các thi sĩ Thơ mới gặp được môi trường đô thị giống như cá gặp nước, mong có
cơ hội thể hiện tài năng.
Thế nhưng đô thị chỉ là giấc mộng phù du của thi nhân. Càng hi vọng bao
nhiêu càng thất vọng bấy nhiêu. Bởi đô thị bên cạnh sự xa hoa, tiến bộ của nó là
90
đầy rẫy những bon chen, lọc lừa, dối trá…Đối mặt với những mặt trái đó, người
thi sĩ vốn đến với chốn đô thành khi còn mơ hồ, mộng tưởng về bản chất nên
dễ vỡ mộng, sầu đau: Đô thị - một khối sầu buồn/ Day dứt và xót xa. Bước chân
vào đời sống thành thị, các thi sĩ trẻ tuổi đã phải đối mặt với bao cảnh tượng trớ
trêu, phũ phàng. Hòa mình vào nó mới vỡ lẽ, đằng sau cái vỏ bọc phồn hoa đầy
cám dỗ kia là một xã hội ô tạp đang hiện hình trong lòng đô thị.
Đô thị là nỗi thất vọng cô đơn, lạc lõng, sầu bi. Giữa chốn xô bồ ấy, trái
tim người nghệ sĩ luôn cảm thấy bơ vơ và cô độc. Nguyễn Bính từng cho mình
là kẻ “lưu lạc” Lậy giời, trên bước đường lưu lạc/ Hai ta lưu lạc phương này/
Cũng may cho những người lưu lạc; người “lữ hành” Lữ hành bắt gặp quán
cơm; khách “tha hương” Chén rượu tha hương, giời! đắng lắm; nợ “giang hồ”
Trót thân con vướng nợ giang hồ….Trong khoảng thời gian lưu đày không thể
hòa nhập nổi, thi sĩ luôn coi mình là kẻ ở nhờ trên “đất khách”. Chân dung
Nguyễn Bính hiện ra sau những câu chữ tựa như đứa trẻ lạc đường đến chốn
phồn hoa, thuở ban đầu thích thú với những điều khác lạ, mới mẻ rồi những
cảm giác choáng ngợp đó qua đi bỗng hoảng hốt, giật mình, ngơ ngác, lạc lõng
giữa nơi chốn này. Và rồi là những ngày tháng khóc than cho thân phận mình:
Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả
Chén ứa men lành, lạnh ngón tay
(Giời mưa ở Huế - Nguyễn Bính)
Mưa xứ Huế hay là mưa trong cõi lòng. Thi sĩ khóc than cho chính thân
phận tha hương, lưu lạc, đói rách, nợ nần, túng thiếu của mình. Đó cũng là trạng
thái vừa cô đơn về tinh thần vừa thiếu thốn về vật chất của Thế Lữ giữa Hà Hội
xa hoa “Cho đến khi Hà Nội sáng trưng đèn/Mới sực nhớ: đêm nay không chỗ
nghỉ” (Người phóng đãng). Để rồi ngao ngán thốt lên trong nỗi chán chường
“Anh đến bảo tôi rằng: “Cái bước công danh/“Thực chẳng có chút nào thi vị cả/
.../“Cái sung sướng phồn hoa tôi đã chán” (Tự trào - Thế Lữ).
Đô thị đổi thay, bào mòn các giá trị truyền thống. Bước chân vào đời sống
thành thị, các thi sĩ trẻ tuổi đã phải đối mặt với bao cảnh tượng trớ trêu, phũ
phàng. Nó không hoa lệ, văn minh, tân tiến như khi họ đứng từ xa chiêm
nghiệm, tưởng tượng. Vốn xuất thân từ làng quê, cha lại là ông đồ, từng được
91
học chữ Hán, văn hóa truyền thống đã ăn sâu trong tâm thức tác giả. Nay đến
chốn đô thành, giáp mặt với những đổi thay của cách ứng xử, của lối sống,
Nguyễn Bính day dứt băn khoăn trước sự pha trộn của văn hóa cũ – mới.
Lỡ duyên búi tó củ hành
Trường thi Nam Định biến thành trường bay
(Con nhà nho cũ - Nguyễn Bính)
Nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính nhắc đến giấc mơ quan trạng. Nguyễn
Bính cũng lựa chọn con đường thành danh như vậy. Nhưng “Bây giờ thời thế
biến thiên” – hiện tại mà tác giả đang trải qua không còn như trước nữa. Hai
chữ “biến thiên” tuy ngắn gọn mà khái quát nhiều đổi thay. “Trường thi” nơi
khẳng định và vinh danh những người giỏi tài năng thì ngày nay đã thành
“trường bay”. “Trường bay” chính là cái dấu ấn hiện hữu của văn minh công
nghiệp đã phủ nhận văn hóa truyền thống. Đằng sau câu thơ là cả một nỗi niềm
day dứt đến xót xa của thi sĩ trước sự suy đồi của văn hóa truyền thống, người
tài không còn được trọng dụng, một sự mất mát tưởng như không thể lấy lại
nhất là với Nguyễn Bính người vốn khát khao mong muốn được khẳng định
mình và nặng lòng với văn hóa truyền thống. Tế Hanh trong Một làng thương
nhớ thì dự cảm đầy chua xót vì đô thị hóa cướp đi nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt
lụa truyền thống.
Nhưng một hồi tơ lụa phải ra đi
Hàng ngoại hóa giết dần hàng nội hóa.
(Một làng thương nhớ - Tế Hanh)
Tín hiệu của Âu hóa ghi dấu ấn bằng việc văn hóa tiêu dùng của người
Việt đã có sự thay đổi. Hàng hóa ngoại quốc đã “giết dần hàng nội hóa”. Động
từ “giết” mà Tế Hanh dùng không chỉ biểu thị sự chiếm lĩnh của hàng ngoại so
với hàng nội mà hơn thế đau xót hơn, sâu xa hơn chính là cái chết của văn hóa
truyền thống bị văn hóa ngoại lai cai trị. Cùng chung cảm giác xót xa, tiếc nuối
Bàng Bá Lân lại hoang hoải cho hình ảnh nông thôn đổi thay.
Mà lạ! Nương dâu đâu mất nhỉ?
Quanh làng xanh rợn bãi cà phê!
(Vườn cũ nào đâu, cô hái dâu? – Bàng Bá Lân)
92
Có thể xem như “trường bay”, “hàng ngoại”, “bãi cà phê” là dấu tích của
đô thị hóa không chỉ tồn tại ở thành thị mà đã xâm lấn và bào mòn văn hóa
nông thôn truyền thống. Đằng sau câu chữ là những dự cảm không lành của các
nhà thơ về một luồng văn hóa, một lối sống mới du nhập vào bản sắc truyền
thống vùng miền bấy lâu.
Thông qua hình ảnh một cô gái “đi tỉnh về” có sự đổi thay trên trang phục
đã khiến Nguyễn Bính có biết bao điều trăn trở trước dự cảm băng hoại của con
người về những giá trị văn hóa bị biến chất: “Hôm qua em đi tỉnh về/ Áo cài
khuy bấm em làm khổ tôi”. Sự đổi thay quá nhanh đó là căn nguyên từ đâu?
Nhà thơ không phải là người cổ hủ, bảo thủ với cái xưa cũ. Nhưng với những gì
là hồn, là cốt của dân tộc thì rất đáng nên lưu giữ. Và sự thay đổi trong trang
phục chỉ là một cái cớ để thi sĩ gửi thông điệp: hãy giữ lấy những gì là bản sắc
là truyền thống không nên đổi thay trước sự pha tạp và lai căng của hoàn cảnh.
Dường như, với sự nhạy cảm của mình thi sĩ đang xót xa cho nhiều giá trị văn
hóa khác của dân tộc sẽ bị tha hóa trước sự cám dỗ của đồng tiền và sự phức tạp
của đời sống thành thị.
Những tác động của công cuộc Âu hóa không chỉ là những đổi thay bên
ngoài không gian, bên trên trang phục khiến thi sĩ âu lo mà nó còn làm cho tình
người phôi pha, lòng người băng giá, tình yêu giả dối: “Hồn cô cát bụi kinh
thành/ Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe”. Trong cái nhìn của tác giả tâm
hồn của cô gái đã nhuốm “cát bụi kinh thành” hay là đã bị tha hóa bởi lối sống
đô thị? Hiện thân của một người con gái hiện đại đã rất khác với người con gái
truyền thống xưa kia. Trong tình yêu của người con gái thành thị cũng không
còn sự đằm thắm, thủy chung nữa mà dường như cũng bị cuốn theo lối sống xô
bồ của phố xá bon chen. Một trái tim vô cảm, dễ dàng, nhanh chóng đổi thay
như vòng quay bánh xe đô hội.
Day dứt và xót xa trước cảnh văn hóa truyền thống bị suy tàn, lòng người
bị tha hóa là nỗi niềm khắc khoải trong Thơ mới. Nỗi niềm đó đã trở đi trở lại
trong thơ các thi sĩ, tạo nên một cảm thức thường trực của một tâm hồn không
thể ép mình hòa trộn với lối sống đô thị đương thời.
93
Đô thị là cảnh phố xá đông đúc, đua chen. Sinh sống ở các thành phố lớn
là nhu cầu, ước muốn của con người. Bởi lẽ đô thị là đông vui, hiện đại nhưng
cũng đồng nghĩa với sự chen chúc, ngột ngạt. Bức tranh đô thị trong Thơ mới
qua sự cảm nhận của Thế Lữ còn chứa đựng cả sự chua xót cho thân phận mình
nơi phồn hoa, đô hội “Tôi ngược xuôi trên đường thế mịt mù/ Giữa những đám
chen chúc, dập dồn và náo động” (Lời mỉa mai). Thành phố càng náo nhiệt,
đông đúc bao nhiêu thì lòng người thờ ơ, bạc bẽo, lạnh nhạt, vô cảm bấy nhiêu
“Mỗi năm hoa đào nở/Lại thấy ông đồ già/Bày mực tàu giấy đỏ/Bên phố đông
người qua” (Ông đồ - Vũ Đình Liên).
Đô thị nơi tồn tại lối sống sa đọa, buông thả và các tệ nạn xã hội, lọc lừa
giả dối. Mặt trái của bức tranh đô thị còn hiện hữu trong khói thuốc phiện
“Khói huyền lên, khói huyền lên/Mắt say đậu ở ngọn đèn dần lu” (Ma túy –
Thế Lữ). Hay những trận rượu quên ngày tháng “Say cho cung bậc ngả
nghiêng, cho điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa và quên, quên hết” (Say đi em –
Vũ Hoàng Chương). Và thêm nữa là những đêm sa đọa cùng gái giang hồ “Ta
vừa đắm trong giấc mơ ghê tởm/Vừa buông tay ôm ấp gái giang hồ/ Đầy xác
thịt, đầy tâm hồn còn lợm/Vị chán chường tràn lấn thú chua cay” (Đêm mưa gió
– Thế Lữ). Giữa chốn phồn hoa, nơi tập trung những gì văn minh nhất, hiện đại
nhất lại là nơi bao chứa những lối sống giả dối “Mẹ ơi! Đành kiếp khác/ Mới
thoát được xót xa/ Đức trọng thua tiền bạc/ Tài cao kém lọc lừa” (Mẹ nuôi con
– Trần Huyền Trân). Cả một xã hội hỗn tạp, ô uế, nhớp nhúa xuất hiện trong
đời sống đô thị. Đó chính là mảng màu tối trong sự tưởng tượng về đô thị vốn
vẫn lung linh, xa hoa, hào nhoáng của các nhà thơ đương thời.
Rõ ràng, từ góc nhìn phê bình sinh thái, có thể thấy đô thị trong Thơ mới
là “một cơn ác mộng đô thị” [142]. Các nhà phê bình sinh thái trên thế giới đã
đọc các tác phẩm văn học viết về đô thị như là những khắc họa về môi trường,
cùng tìm hiểu sự tương tác của văn học với hiện thực vật chất của môi trường tự
nhiên. Tác phẩm văn học được xem như là một “mã văn hóa”, “mã ngôn ngữ”,
“đạo đức về môi trường” hay một “ẩn dụ mang tính văn học” về thiên nhiên.
Và trong các tác phẩm của mình, các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới đã sử
dụng một số biện pháp tu từ hay diễn ngôn “chống đô thị”; coi đô thị và làng
94
mạc là đối lập nhau. Điều này vang vọng vấn đề “tu từ chống đô thị” (anti-
urban rhetoric) và sự “ẩn ý về sinh thái đô thị” trong văn học thế giới từ nửa
cuối thế kỉ XX mà Schliephake Christopher (2005) đề cập trong bài tổng quan
của mình về hướng nghiên cứu trong phê bình sinh thái. Theo đó, những khái
niệm và giả thiết sai lầm về thành phố và cộng đồng đô thị tiếp tục có những
ảnh hưởng tiêu cực rộng lớn lên các vùng nghèo đói của thành phố, gây ra bệnh
tật và ô nhiễm. Cũng như vậy, trong Thơ mới, đô thị như một nỗi ám ảnh với sự
phát triển, lan tỏa, lấn át, che lấp làng quê và không gian thiên nhiên.
Sự đổ vỡ, hụt hẫng, thất vọng với đô thị là cảm thức chung của các thi sĩ
Thơ mới. Bi kịch đô thị đó tỷ lệ thuận với sự hăm hở của các nhà thơ những
ngày đầu nuôi giấc mộng đô thành. Càng háo hức bao nhiêu thì càng đau đớn,
lạc lõng bấy nhiêu. Quyết dứt áo ra đi tìm đến đô thành nuôi mộng công danh.
Nay mộng không thành mà kiếp nghèo thì cứ đeo đẳng. Trong nỗi niềm của kẻ
tha hương, ôm nỗi lòng sầu xứ, dường như Nguyễn Bính chưa bao giờ thấy
lòng mình được bình an, yên ổn. Thế Lữ chưa bao giờ thấy mình bớt bơ vơ. Vũ
Hoàng Chương chưa bao giờ tìm ra lối thoát cho những tháng ngày đen tối.
Trần Huyền Trân thì vỡ mộng vì đô thị giả dối....Hầu hết các thi sĩ Thơ mới khi
đối mặt với xã hội chốn đô thành thường rơi vào trạng thái mộng đẹp tan vỡ và
ôm trong mình một khối sầu buồn giữa chốn phồn hoa. Về hay ở? là câu hỏi đặt
ra nhức nhối trong lòng thi sĩ. Nguyễn Bính nhiều lần tự vấn “Sao chẳng về
đây, nỡ lạc loài/ Giữa nơi thành thị gió mưa phai”, “Sao chẳng về đây?”. Phải
chăng câu hỏi chất chứa trong lòng Nguyễn Bính cũng là lời bộc bạch nói hộ sự
trăn trở bấy lâu của các kẻ sĩ lưu lạc nơi đất khách quê người mong mỏi được
về nơi chốn bình yên xưa kia để xoa dịu đi nỗi đau hiện tại. Và nơi chốn bình
yên đó với các nhà Thơ mới, thật tương ứng với quan điểm của các nhà phê
bình sinh thái ở làn sóng đầu tiên, đó là thôn dã.
3.2.2. Tự nhiên như là cõi đi về của con người trong thế giới hiện đại
Tự nhiên trong Thơ mới hiện lên vừa là quá khứ vừa là nơi lí tưởng để con
người trở về nương náu, rời khỏi cái hiện đại với những hiện thân đặc trưng của
nó là thành phố, công nghệ, là nỗi lo vật chất và sự hỗn tạp. Thơ về thôn quê
cũng là một biểu hiện của mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người trong thời
95
hiện đại trong Thơ mới. Thơ ca phác họa hay gợi lên đời sống thôn quê trong
hình thức lãng mạn và lí tưởng (pastorial poetry) từ cổ xưa đã là một công cụ
mang tính văn hóa. Trong văn hóa phương Tây, con người coi thơ ca thôn dã
như là một cách để họ trầm tư và giao kết với mảnh đất nơi mà cuộc sống của
họ phụ thuộc vào và là nơi mà các nguồn lực thiên nhiên vận hành, cũng là nơi
mà họ suy ngẫm về các mối quan hệ với nhau, với bản ngã bên trong của mình.
Thơ ca đồng quê cho đến ngày nay vẫn là những “bài hát” mà con người hát
cùng nhau với tư cách vừa là những tác giả vừa là người đọc. Ngày nay, sự
sống sót của các loài sinh vật phụ thuộc vào không chỉ những cuộc tranh luận
mà còn vào khả năng của con người trong việc tìm ra hình ảnh đúng để tái thể
hiện cách sống của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên và cách sống
của con người trong phạm vi thiên nhiên. Thiên nhiên ở đây được hiện thân qua
những sự vật cụ thể như “trái đất”, “đất đai”, “địa điểm”, và “môi trường trên
địa cầu”. Những cội nguồn đầu tiên của thơ ca đồng nội ở Hy Lạp cổ đại thiết
lập đặc trưng của nó là sự “rút lui” và “sự trở lại” - một cuộc “rút lui” vào công
cuộc tiếp xúc với thiên nhiên sống động, với nông thôn, với cái hoang dã và sự
trở lại với những hiểu biết dành cho những người đang sống trong thị trấn,
trong thành phố và thế giới hiện đại hóa. Những tác phẩm văn học đồng quê
đầu tiên ở Hy Lạp và La Mã cũng thiết lập các phẩm chất đặc trưng của thể loại
văn học này, đó là lí tưởng hóa sự điền viên và sự hoài cố về Kỷ nguyên vàng
trong quá khứ. Văn học Mỹ vẫn tiếp tục truyền thống châu Âu đó từ các tác
phẩm của nông dân thế kỷ 18 tên là Crèvecoeur, đến tác phẩm Walden của nhà
văn của Thoreau và văn học về thiên nhiên ngày nay. [110, 42-61]
Thiên nhiên trong Thơ mới hiện lên đầy hình ảnh và âm thanh. Và dù
không nói trực tiếp, những trang Thơ mới, đặc biệt là thơ viết về thôn quê, gợi
lên những đặc trưng của văn học sinh thái, được nhìn từ góc độ của phê bình
sinh thái. Cụ thể vần thơ viết về đồng nội của Thơ mới nhấn mạnh tính phì
nhiêu, sự tĩnh lặng và sự ổn định không có hiểm họa trong thiên nhiên. Đó là
những biểu đạt đầy an nhiên và chan hòa. Và có gì an hòa hơn cảnh dân gian
nghỉ việc đồng:
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
96
Lúa thì con gái mượt như nhung
(Xuân về - Nguyễn Bính)
Ở đây, không có hình ảnh giọt mồ hôi nào cần thiết trong bức tranh miêu
tả công việc đồng áng và trồng trọt của thôn quê. Tất cả mọi thứ như là dễ dàng
trong tầm tay người nông dân, thậm chí là ngọt ngào; ngay cả hoa của những
cây cho ăn quả rụng cũng được coi là ngọt ngào. Lúa chưa đến kì thu hoạch
cũng không được khai thác ở góc độ kinh tế mà được thi vị hóa như là lúa “ở
thì con gái”. Người nông dân không được miêu tả với vẻ tất tả mà được nhấn
mạnh ở sự thong thả ngơi nghỉ, thậm chí là đang ngây ngất cảm nhận sự vận
động của tiết trời vào xuân. Con người và thiên nhiên nông thôn trở thành chủ
thể và khách thể thơ. Phải chăng, vì thế mà chúng ta cũng bắt gặp những hình
ảnh lao động vui vẻ, lạc quan của người nông dân trong văn học.
Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Có cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.
(Ngô Văn Phú)
Rõ ràng, hiện lên trên câu chữ là một bức tranh tươi đẹp, con người hăng
say lao động không chút mỏi mệt mà người đọc không nhìn thấy đằng sau đó là
sự vất vả, là những giọt mồ hôi rơi vì trời nóng bức, nắng chói chang. Sự bình
dị và an yên trong nền nông nghiệp sinh tồn vốn không ổn định này cho thấy xu
hướng lí tưởng về thiên nhiên là đặc trưng của văn học đồng quê nhìn từ góc độ
phê bình sinh thái nói chung.
Đồng hành cùng Nguyễn Bính trên hành trình trở về “chân quê”, tâm hồn
chúng ta bỗng trở nên bình yên hơn, tươi mát hơn khi gặp lại những bức tranh
quê giản dị mà thân thương như thế này:
Anh trồng cả thảy hai vườn cải
Tháng chạp hoa non nở cánh vàng
(Hết bướm vàng - Nguyễn Bính)
Bỏ qua những tháng buồn đau lưu lạc, những ngày đói rách, cô đơn ở chốn
đô thành để trở về làng quê, hiện lên trong thơ Nguyễn Bính là không gian an
97
lành, trong trẻo. Và ở đó chúng ta vẫn tìm thấy những nếp nhà thật bình yên.Và
hơn thế hãy để tâm hồn mình hòa trộn vào thế giới những hương hoa, những
hình ảnh thân thuộc của làng quê: nào là hoa bưởi, hoa cam “Đầy vườn hoa
bưởi hoa cam rụng”; hoa chanh “Hoa chanh nở giữa vườn chanh”; ao bèo “Lợn
không nuôi đặc ao bèo”; giếng thơi “Giếng thơi mưa ngập nước tràn”; dậu
mồng tơi “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn”;
vườn chè “Sáng giăng chia nửa vườn chè”; giàn trầu, hàng cau “Nhà em có một
giàn trầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng”…
Đâu đây, lại là bức tranh quê sống động, nô nức của người người đón xuân.
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa,
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô
(Xuân về - Nguyễn Bính)
Con người và thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính hài hòa, nên thơ, quấn
quyện. Tất cả tạo nên một bức tranh toàn cảnh về làng quê Việt Nam. Đi vào
thơ Nguyễn Bính là nhành cây, ngọn cỏ, sự vật thân thuộc, con người luôn gắn
liền với sinh hoạt gần gũi của thôn quê. Và bức tranh quê ấy cũng là máu thịt
trong tâm khảm Nguyễn Bính. Để mỗi khi nhớ về tâm hồn thi sĩ bỗng trở nên
yên ổn và thanh tịnh vô cùng. Nó như được gột rửa khỏi những bủa vây của văn
minh kỹ trị, cát bụi kinh kỳ. Phải chăng, tìm về “chân quê”, tìm về những gì
chân chất, mộc mạc chính là quá trình đi tìm phương thuốc an thần cứu rỗi linh
hồn tác giả thoát khỏi “khối sầu đô thị”.
Những cảnh tượng đặc trưng của công việc đồng áng khác như nuôi lợn,
ươm bèo, trồng giàn cau, đắp cỏ dù cho không năng suất hay giếng bị ngập
nước – điều này không có nước sạch dùng - cũng được Nguyễn Bình lí tưởng
hóa trong giọng điệu đầy bình thản, cảm giác đem lại cho độc giả vẫn là sự tràn
đầy và sự ngơi nghỉ của thân thể và tâm hồn:
Lợn không nuôi, đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thời mưa ngập nước tràn
98
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều
(Qua nhà – Nguyễn Bính)
Hay như cách Đoàn Văn Cừ miêu tả cảnh đập lúa, một công việc nặng nhọc
của nghiệp đồng áng, cũng thơ mộng. Người nông dân đập lúa được đặt trong ánh
“trăng thanh”; cánh tay đập lúa được hình dung là vận động nhanh nhẹ nhàng, việc
không được ngủ đêm để đập lúa của người nông dân được thay thế bằng hình ảnh
ấm no “thóc rụng”, âm thanh bình an của tiếng gà gáy tàn canh:
Bóng người đập lúa dưới trăng thanh
Tay đập đều như máy rất nhanh
Thóc rụng vun đầy bên cối đá
Tiếng gà cuối xóm gáy tàn canh
(Lúa về - Đoàn Văn Cừ)
Công việc chăn trâu cũng được đặt trong bối cảnh rộn riếng hát vang:
Con trẻ chăn trâu khắp cánh đồng
Chiều về gánh cỏ hát vang sông
(Người làng – Đoàn Văn Cừ)
Phương diện năng suất hay vật chất của đời sống thôn quê không phải là mối
quan tâm của các nhà Thơ mới mà đây cũng là đặc trưng của văn học đồng quê nói
chung. Sự lí tưởng hóa đời sống đồng quê này có thể được minh chứng rõ nhất qua
câu thơ “Cảnh nhà dẫu túng vẫn êm đềm/Ngày khó nhọc nhưng tối ngủ yên” (Bữa
cơm quê - Đoàn Văn Cừ). Giấc ngủ như là sự an yên, êm đềm và đơn giản của con
người mặc cho đời sống thôn quê có nặng nhọc và vất vả đến đâu.
Thiên nhiên thôn quê trong Thơ mới, giống như trong thơ đồng quê nói
chung, đem lại hình ảnh thi vị về sự trật tự, sự bền vững và các giá trị về đồng
thuận, hài hòa – đó là đời sống ổn định. Các nhân vật trữ tình trong Thơ mới,
vừa trực tiếp và vừa gián tiếp, bộc lộ xu hướng đi về phía thiên nhiên thôn quê
để sống giản dị, để trốn khỏi những căng thẳng của sự văn minh nơi thành phố.
Sự bình dị, an yên là điều trở đi trở lại trong những câu thơ về bức tranh thôn
quê. Thoreau viết rằng ông đã đi vào rừng bởi vì ông muốn sống một cách tinh
tế, chỉ thấy trước mặt những sự kiện bản chất của cuộc sống. Hầu hết con
người, như Thoreau khẳng định, không chắc chắn về mục đích của cuộc sống
99
và "sống nhỏ bé như những con kiến" trong các thành phố bận rộn, cuộc sống
của họ "bị phân tán bởi chi tiết" trong sự nghiệp đang lên, trong các ngôi nhà và
cả trong sự giàu có. Thơ mới ở Việt Nam khắc họa sự an yên của thiên nhiên
nói chung và của đồng quê nói riêng như là một đối kháng với thành phố. Có gì
bình yên hơn buổi sáng sớm mùa xuân của Hàn Mặc Tử:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí – Bóng xuân sang
(Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử)
Không có một âm thanh sắc lạnh hay sắc màu chói sáng nào; tất cả hòa đi
trong cái tươi mới, ấm áp và bình yên của những sự vật thiên nhiên của buổi
sớm mùa xuân. Những câu Thơ mới có thể tạo ra một không gian tươi đẹp trong
đó nhân vật trữ tình khuyến khích độc giả trầm tư và thiền định về sự sống cao
hơn vốn hiện thân trong sự “im lặng của thiên nhiên”. Với các nhà Thơ mới,
luôn có độ rung của âm thanh trong sự im lặng, một sự đè nén cứ như ai đó
đang cố tình hạn chế sự lên tiếng của thế giới:
Đồng vắng nông phu, đò vắng khách
Làng chiều mây tỏa lướt màn sương
(Chiều quê –Vân Đài)
Sóng đồng khoảng vắng chuông lay
Nghiêng nghiêng đôi cánh cờ bay bóng tà
(Chiều – Giản Chi)
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái
(Nắng thu – Nam Trân)
Không gian chiều bao trùm trong sự vắng vẻ; vận động của các sự vật dù
được miêu tả rất thơ mộng “mây tỏa lướt màn sương”, “nghiêng nghiêng đôi
cánh cò”, “nắng chiều rây vàng bột” nhưng tất cả chỉ vận động trong sự im
lặng. Song điều đó có nghĩa nhân vật trữ tình đang đem lại cho cuộc sống của
mình sức mạnh của sự nghe. Sự im lặng ở đây không phải là sự đè nén. Ngược
100
lại, sự im lặng ở đây là một cách đem lại cho con người một không gian bình
yên trong đó họ có thể trầm tư mặc tưởng về sự sống cao cả, một sự sống lắng
nghe và trân trọng sự khác biệt và sự đa dạng của muôn loài. Và trong sự im
lặng đó, có một sự hồi sinh về mặt tinh thần được phản ánh trong thiên nhiên và
trong các mùa màng. Sự im lặng là điều kiện để tác giả trữ tình tái hiện lại cái
vòng quay bất tận và luôn luôn vận động của sự sống. Như là một ẩn dụ, tác giả
trữ tình của Thơ mới dường như muốn nhấn mạnh sự cần thiết của việc tỉnh
thức về tinh thần của con người trong không gian và trong sự tương tác với
thiên nhiên. Phải chăng, Thơ mới cung cấp cho người đọc không gian mà ở đó
họ cảm nhận sự sống của mình trong sự lắng nghe và thừa nhận sự vận động
của thiên nhiên. Trở về với thiên nhiên, như Thơ mới gợi ra khi được nhìn từ
góc độ của phê bình sinh thái, con người đi về với bản ngã của mình.
Như vậy, sự trải nghiệm về cái hòa điệu, và sự bừng tỉnh trong sự trở về
với thiên nhiên chuyên chở những ý nghĩa về tính phức hợp của mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên và ảnh hưởng đến sự trở về với bản ngã của
chính mình. Mối quan hệ này thể hiện ở sự chìm đắm đơn thuần của con người
vào xu hướng giải thoát trong sự tán dương việc trở về với thiên nhiên. Sự trở
về với thiên nhiên đó cũng là sự trở về của con người với chính mình.
Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong Thơ mới nhìn từ góc độ
sinh thái trở nên phức hợp hơn với những vần thơ thể hiện sự trải nghiệm của
cơ thể về phong cảnh (bodily experiences of landscape). Như nhân vật trữ tình
trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là một ví dụ tiêu biểu cho sự trải nghiệm
về thiên nhiên được đánh dấu trong cơ thể. Gió, cánh bướm, non nước, cây, cỏ,
trời, mùa xuân có xu hướng trở thành vật thể hằn in và để lại dấu vết trên các bộ
phận của con người như “Ta muốn say cánh bướm với tình yêu/Ta muốn thâu
trong một cái hôn nhiều” hay “Ta muốn ôm/Cả sự sống mới bắt đầu mơn
mởn”/“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn” và “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào
ngươi!”/ “Cho chếnh choáng mùi thơm”, “cho đã đầy ánh sáng”/“Cho no nê
thanh sắc của thời tươi”. Rõ ràng, ở đây, nhân vật trữ tình vừa nỗ lực bật thành
lời những tâm tư khao khát của mình – do các sự vật của thiên nhiên tạo nên –
vừa nỗ lực quan sát và cảm nhận các vẻ đẹp của sự vật thiên nhiên. Sự tương
101
tác giữa thân thể, tâm trí và thiên nhiên trong thơ của Xuân Diệu tương ứng với
các những nguyên lí trung tâm của mối liên hệ giữa môi trường, thân thể và tâm
trí con người mà Robert Pepperell - một nhà triết học hậu nhân văn nổi tiếng,
chỉ ra trong cuốn sách Điều kiện hậu nhân văn của mình: [128].
a) Cơ thể con người không có đường biên;
b) Không có sự phân chia xác định nào có thể vạch ra giữa môi trường, cơ
thể, và não. Con người là có thể được nhận ra nhưng không thể xác định được.
c) Ý thức (Tâm trí) và môi trường (Hiện thực) không thể tách rời. Chúng
liên kết không thể tách rời.
d) Không có gì bên ngoài con người, bởi vì phạm vi của con người không
thể cố định.
e) Nếu chúng ta chấp nhận rằng tâm trí và thân thể hoàn toàn không thể
tách rời, và rằng thân thể với môi trường hoàn toàn không thể tách rời thì chúng
ta còn lại cái kết luận nhìn có vẻ như là lố bịch mà lại thống nhất một cách logic
rằng: ý thức và môi trường không thể hoàn toàn tách biệt.
Trong Thơ mới, sự phản ánh trên cơ thể những trải nghiệm về thiên nhiên
còn được thể hiện qua sự cộng hưởng của ngôn ngữ và âm thanh trong bài thơ.
Ví dụ, trong đoạn thơ
Cánh đồng bao la
Giãi ra xa xa
Hàng tre thướt tha
Lòng ta thướt tha
(Cánh đồng bao la – Tế Hanh)
Dấu ấn thiên nhiên trên cơ thể con người – vốn là một sự vật trừu tượng
“lòng ta” được cụ thể hóa bằng tính từ chỉ hình dạng và vận động “thướt tha” –
thể hiện bằng sự cộng hưởng của các âm “a” ở cuối câu thơ. Từ đó, biên độ
rộng “bao la” và khoảng cách “xa xa” của cánh đồng cùng vận động “thướt tha”
của hàng tre hằn lên trên sự vận động của “lòng ta”, tạo nên sự tương ứng của
thân thể với thiên nhiên xung quanh – được thể hiện qua sự lặp lại của vần và
cả sự lặp lại hoàn toàn của tính từ “thướt tha”. Hay như trong bài thơ Lời con
đường quê của Tế Hanh, tâm trạng buồn của con người được vật chất hóa thành
102
một sự vật có thể kéo lê đi khắp làng và tiếp cận với thiên nhiên. Điều thú vị là,
khi gặp thiên nhiên, cái sự vật hiện thân của nỗi buồn đó đã chuyển hóa từ trạng
thái này sang trạng thái khác, từ buồn sang vui tươi. Điều này cho thấy sự tương
ứng của thiên nhiên với sự cảm nhận của con người về bản thân mình – một sự
cảm nhận được vật chất hóa như là một sự vật có sự tương tác với thiên nhiên:
Tôi, con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng
Hương đồng quyến rũ hát lên vang
(Lời con đường quê – Tế Hanh)
Trong cuốn Bên ngoài hình bóng: tâm lý hoc sinh thái, câu chuyện và
những sự đối mặt với đất (Out of the shadow: Ecopsychology, story, and
encounters of land, 2007), Rinda West cho rằng trong văn hóa phương Tây, sự
tách biệt con người khỏi thiên nhiên đã góp phần tạo nên xu hướng phân ly lý
trí có ý thức và tâm lý nằm mơ vô ý thức hay bản chất bên trong của con người.
Sự thiếu thân mật ngày càng tăng của con người với đất đai đã dẫn đến việc
giảm khả năng tiếp cận vào các ngõ ngách của tâm lý vốn không được đánh giá
cao của nền văn hóa tư bản. West đã sử dụng quan điểm của Jung về cái hình
bóng (shadow) để khám phá xem sự ly tán này đã dẫn đến sự xa lánh và sự sụp
đổ như thế nào. Và các văn bản văn học chỉ ra việc xa lánh thiên nhiên khiến
con người cũng rời xa luôn cả thế giới vô ý thức – bản chất tận cùng của con
người – ra sao? West cho rằng việc đối diện với thế giới của mình đem lại cho
con người khả năng kết nối lại với thiên nhiên, thậm chí tạo ra những mối quan
hệ công bằng và cao quý hơn với thiên nhiên và có mối quan hệ bền vững hơn
với cộng đồng của mình. [145]
Bên cạnh đó, những bài thơ ngập tràn các sự vật thiên nhiên thôn quê của
Đoàn Văn Cừ, chủ thể trữ tình đã cấu tạo nên những khát vọng trở về với những
trải nghiệm mang tính thẩm mĩ về thiên nhiên. Đúng hơn, tính thân thể của
thiên nhiên dường như chuyên chở trạng thái cơ thể con người và tâm trí con
người được nhuốm đầy trong màu sắc, âm thanh và nhịp điệu của các sự vật
thiên nhiên: lúa trải vàng như bể kén tơ” (Ngày mùa); “Buổi sáng mây phơi
103
màu biếc lụa/Đồng non tơ ánh sáng trộn pha đều/Đàn trâu nằm mơ mộng mắt
xanh veo/Nghe gió chảy rì rào trên biển lúa/Vài đứa trẻ trên nền nhung gấm
cỏ/Tựa lưng ngồi thổi sáo dưới cây đa” (Đàn trâu); “Sương trắng rỏ đầu cành
như giọt sữa/Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa/Núi uốn mình trong chiếc
áo the xanh/ Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh” (Chợ tết). Ở đây nhân vật
trữ tình tạo nên những khao khát trở về với trải nghiệm mang tính thẩm mĩ của
thiên nhiên để tách xa với thế giới hàng hóa. Chủ thể trữ tình cảm nhận được vẻ
đẹp với một địa điểm thông qua trải nghiệm, mà chủ yếu là trải nghiệm qua các
giác quan của cơ thể như thân thể, ánh nhìn, âm thanh và cảm nhận. Việc cảm
nhận thiên nhiên hoặc cảnh quan thông qua thơ ca có thể tạo ra một kiểu hiểu
biết thú vị về không gian và do đó thay đổi cách chúng ta hiểu về thiên nhiên.
Sự kết hợp giữa trải nghiệm thẩm mỹ và ý thức về hệ sinh thái đem lại cho chủ
thể trữ tình và người đọc những quan sát về sự vận động của cơ thể trong sự
trải nghiệm với thiên nhiên, từ đó tìm cách nói ra, miêu tả lại những tình cảm
được thiên nhiên gợi lên.
Scott Slovic từng viết về hiện tượng tâm lý của "sự nhận thức" trong các
nhà văn viết về thiên nhiên đó là sự tập trung vào cái khoảnh khắc trải nghiệm
về thiên nhiên và cảnh quan bên trong của tâm trí. Nhận thức này xuất phát từ
việc người viết cảm giác được về bản thể và cái phi bản thể đi cùng với cái khả
năng gọi ra những gì đang trải ra trước mắt. Đó là một cách thức nghệ thuật
trong việc chú ý và quan sát cái khoảnh khắc trải nghiệm. Theo quan điểm của
Slovic, sự chú ý của các nhà văn viết về thiên nhiên khi họ nghiên cứu về ý
thức môi trường và cố gắng kích thích nó trong độc giả là mục tiêu nền tảng của
tất cả các tác phẩm văn học về môi trường. Nếu vậy, ngôn ngữ nói về sự trải
nghiệm của thân thể ở nơi chốn tạo ra một mô hình hữu ích cho phong trào phê
bình sinh thái hiện đại và những cuộc đấu tranh bảo tồn [134]. Như thế, thiên
nhiên trong Thơ mới là cõi đi về của con người hiện đại, là nơi con người được
trở về với quá khứ, với sự bình yên, và sự thức tỉnh của tâm trí cũng như sự
thức dậy của các giác quan cơ thể. Tất cả điều đó cho thấy sự quan sát và sự
cảm nhận của con người về vai trò chính của thiên nhiên trong những nỗ lực
của con người nhằm giải thoát khỏi những hệ lụy của đời sống hiện đại.
104
Tiểu kết
Từ cách tiếp cận của phê bình sinh thái, chương 3 của luận án đã khám
phá những phương diện trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Từ đó
cho thấy luận án không nhằm nghiên cứu Thơ mới như một đối tượng của phê
bình sinh thái mà chỉ dùng lý thuyết phê bình sinh thái để khám phá thêm
những điều mới mẻ mà các cách tiếp cận khác không hoặc chưa khám phá
ra.Trên cơ sở lý luận về phê bình sinh thái, luận án đã khảo sát, phân tích kiến
giải mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trên một số bình diện cơ bản.
Chỉ ra được quan niệm mới về thiên nhiên: thiên nhiên là sinh thể độc lập, là
chốn đi về của con người, thiên nhiên gắn bó hòa hợp nhưng có lúc là thế lực đe
dọa cuộc sống con người. Từ đây nội dung của chương mong muốn chỉ ra vị trí
và thái độ của chủ thể trữ tình Thơ mới trong quan hệ với tự nhiên. Đó là thiên
nhiên trong Thơ mới vừa như một khách thể để cho con người quan sát, chiêm
ngưỡng và thụ hưởng. Đồng thời thiên nhiên lại như là một chủ thể để con
người có thể tìm về như tìm nơi an trú ở trong đó. Có thể nói, Phê bình sinh thái
là một hướng tiếp cận mới trong văn hóa và văn học. Tuy mới được tiếp nhận
và ứng dụng ở Việt Nam chưa lâu nhưng đã hứa hẹn nhiều triển vọng. Đặc biệt
hướng nghiên cứu này có ý nghĩa “vị nhân sinh” to lớn, khi mà nước ta là một
trong những nơi bị ảnh hưởng của quá trình biến đổi khí hậu quá nặng nề. Tìm
hiểu mối quan hệ tự nhiên và con người trong Thơ mới dưới lý thuyết phê bình
sinh thái phần nào đã đem đến những cảm quan sinh thái mới cho vấn đề môi
trường sống hiện nay.
105
Chƣơng 4
NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG SINH THÁI TRONG
THƠ MỚI
4.1. Ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới
4.1.1. Vấn đề ngôn ngữ sinh thái trong thơ ca
Nhà phê bình, lí luận văn học Peter Barry (1987) cho rằng ngôn ngữ giống
như một cửa sổ kính màu, vừa phản ánh hình ảnh của riêng nó và vừa có thể
được nhìn xuyên qua thế giới bên ngoài. Thừa nhận khía cạnh tham chiếu và
khía cạnh mang tính kí hiệu của văn học là một sự đánh giá quan trọng nhất đối
với phê bình sinh thái.
Hơn nữa, diễn ngôn của phê bình sinh thái từ thơ ca về môi trường và tự
nhiên được nhiều nhà nghiên cứu theo hướng phê bình sinh thái cho là có khả
năng tương hợp, giao thoa nhau. Cả hai đều quan tâm đến ý tưởng. Sự khác
nhau là thơ ca nhấn mạnh đến sự tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Để
giải quyết suy thoái môi trường, phê bình sinh thái bối cảnh hóa quan điểm
trong các diễn ngôn về sinh thái. Karrl Kroeber quan sát rằng các nhà thơ sinh
thái không phải là những nhà khoa học và không khảo sát tìm hiểu diễn ngôn
của phê bình sinh thái; họ hưởng thụ trạng thái dân chủ của một nhà thơ trong
khi các nhà khoa học phải nghiên cứu luật về môi trường cũng như phải vật lộn
với các phương pháp khoa học tiếp cận văn bản và xã hội. Kroeber khuyến
khích các nhà thơ tưởng tượng nhiều hơn, ông đề cao các ý tưởng mang tính
sáng tạo của nhà thơ. Tuy nhiên, theo Kroeber, các nhà thơ sinh thái cũng quan
tâm và phản ứng theo hướng sáng tạo với những luận điểm cơ bản của cách tiếp
cận theo hướng phê bình sinh thái. Nói cách khác, thơ ca về môi trường hay
sinh thái không phải là không có nền tảng của các tư tưởng phê bình sinh thái
[118, 16-19]. Chỉ có điều nhà thơ không ở vị trí để đưa ra một hướng dẫn thực
tế vì sự tồn tại hành tinh; sức mạnh của thơ ca không chỉ nằm ở thông điệp nó
chuyển tải mà nằm ở cách thức thông điệp đó mang đến. Thơ ca cố gắng đưa ra
trải nghiệm về trái đất qua ngôn ngữ về sự sinh tồn trên thế giới, sự thể hiện ấy
106
luôn được diễn tả một cách giàu cảm xúc và mang tính tưởng tượng [90, 199-
222]. Thơ mới không phải được sáng tác trong phong trào môi trường hay sinh
thái và khái niệm thơ môi trường (environmental poetry) hay thơ sinh thái
(ecoriticial poetry) chưa xuất hiện trong giai đoạn Thơ mới ra đời cũng chưa có
nghiên cứu nào chỉ ra điều này. Sự đề cao thiên nhiên và môi trường của Thơ
mới, như được trình bày ở chương 2, không có ảnh hưởng bởi ngành sinh thái
học hiện đại, phong trào môi trường – ít nhất là ở thời điểm đó chưa có tài liệu
nào chứng minh điều ấy. Tuy nhiên không thể phủ nhận, các tác giả trữ tình của
Thơ mới có một sự nhạy cảm nền tảng rằng thiên nhiên là thứ gì đó để trân
trọng, ngưỡng mộ và tìm hiểu. Và không chỉ vậy, cách tiếp cận theo hướng phê
bình sinh thái đối với Thơ mới có thể giúp nhìn ra sự tương đồng hay đối thoại
– qua hình ảnh và ngôn ngữ - của Thơ mới đối với các vấn đề môi trường
đương thời và với diễn ngôn của phê bình sinh thái như là một lí thuyết nghiên
cứu văn học và khoa học nhân văn hiện nay.
4.1.2. Hệ thống ngôn ngữ sinh thái trong Thơ mới
4.1.2.1. Thơ mới như là những bảng màu sinh thái
Tính từ chỉ màu sắc, cụ thể là các gam màu sáng và dịu nhẹ tạo thành một
vấn đề nổi bật trong ngôn ngữ các tác phẩm Thơ mới viết về thiên nhiên. Nói
cách khác, ngôn từ trong Thơ mới hầu hết tập trung vào sắc diện sáng của thiên
nhiên và thế giới sinh thái. Phổ biến nhất là các tính từ chỉ màu xanh, vàng,
hồng, trắng. Theo thống kê của chúng tôi về màu sắc chỉ thiên nhiên trong Thơ
mới, màu xanh xuất hiện 90 lần, màu vàng 68 lần, màu trắng 40 lần, màu hồng
22 lần, màu bạc 12 lần. Trong khi đó, gam màu tối xuất hiện ít: màu đen 4 lần,
màu xám 5 lần. Không chỉ mang sắc diện sáng, các tính từ chỉ màu sắc trong
Thơ mới còn chủ yếu mang nét nghĩa gắn kết với màu xanh. Tính từ xanh, như
đã nói xuất hiện với tần suất cao nhất: 90 lần. Tính từ này cũng được hỗ trợ bởi
các tính từ tương đồng với nó, đó là như màu biếc và màu lam. Màu biếc xuất
hiện 45 lần; màu lam xuất hiện 12 lần. Điều này tạo ấn tượng về thế giới thiên
nhiên và sinh thái tươi trẻ, mơn mởn, lặng lẽ một sự sống thanh xuân, mới mẻ.
Ví dụ, trong thơ Thế Lữ có các màu “sương biếc”, “ánh hồng tía rắc ngọc
châu”, “trời trong xanh,” “chân trời đỏ hây hây,” “tiếng chim xanh” (Lựa tiếng
107
đàn); “áng sương hồng”, “sương vàng tía”, “vừng cỏ xanh”, “áng sương lam”,
“sương biếc”, “rặng cây xanh”, “bình minh vàng” (Bóng mây chiều). Thơ Lưu
Trọng Lư có màu sắc “con nai vàng”, “lá vàng khô” (Tiếng thu), “quãng giời
xanh ngắt, thẳm xa, xa thẳm một màu lơ” (Thuyền mộng), “ngàn liễu xanh
xanh, con cò trắng”, “làn khói biếc” (Bâng khuâng). Thơ Hàn Mặc Tử cũng bao
gồm các tính từ chỉ màu sắc sáng, tươi, như “bóng trăng vàng”, “trời xanh ngắt”
(Nhớ nhung), “ánh trăng ngà” “sương lam” (Một đêm nói chuyện với gái quê),
“làn nắng ửng”, “mái nhà tranh lấm tấm vàng” (Mùa xuân chín). Thơ Chế Lan
Viên có “rừng xanh” (Chiến tượng), “đồng xanh vô tận” (Nắng mai), “tà áo
chuối non bay phấp phới/phơ màu xanh lấp loáng dưới sương mai” (Xuân về),
“núi lau xanh” (Thu), “cây xanh”, “xanh thẳm bầu trời” (Trưa đơn giản).
Màu xanh không phải là chủ đề xa lạ trong lí thuyết sinh thái. Trong lời
giới thiệu cho cuốn Sinh thái lăng trụ: lí thuyết sinh thái vượt lên trên màu xanh
(Prismatic ecology: Ecotheory beyond green), Jeffrey Jerome Cohen khẳng
định rằng màu xanh “đã thống trị sinh thái của chúng ta như là không có màu
sắc nào hết, như thể nó là sắc màu hữu cơ duy nhất, là huy hiệu cho bản thân
thiên nhiên”[99, xix]. Trong khi đó, thiên nhiên là nhiều màu sắc và “chính màu
xanh cũng là một màu tổng hợp của nhiều tầng lớp chuyển màu” [99, xx-xxi].
Hướng tiếp cận văn học và văn hóa theo hướng sinh thái, như nhận định của
Serpil Oppermann trong bài viết: Các màu sắc của thiên nhiên: Vật chất hình
lăng trụ trong các địa hạt tự nhiên/văn hóa” (Nature’s colors: A prismatic
materiality in the natural/cultural realms) cũng ưu tiên màu xanh hơn là các
màu sắc khác. Xu hướng này tập trung khai thác sự xâm phạm và phá hủy của
xã hội công nghiệp vào thế giới hoang dã trong khi đề cao sức mạnh tái sinh và
sự say mê đối với những quang cảnh chưa bị khai thác, và trân trọng giá trị tự
thân của các sinh vật phi nhân loại [127, 157 -172]. Cohen nhận định, hướng
phê bình sinh thái xanh có xu hướng lãng mạn hóa khi đào sâu vào sự phong
phú nội sinh của tự nhiên và tiếc nuối khi sự phong phú đó trở thành các sản
phẩm hàng hóa và bị phá hủy [99, xx].
Như phân tích của Erik van Ooijen trong bài viết Sự chuyển sang màu đen
(The dark turn), in trong (Perspectives on ecocriticism: Local beginnings,
108
global echoes. Cambridge: Cambridge Scholars Publishing, 8 May 2019) do
Haag, Ingemar, Karin Molander Danielsson, Marie Öhman biên tập thì lí thuyết
thiên nhiên xanh đề cao trạng thái làng quê, miệt vườn, và hoang sơ của thiên
nhiên. Theo đó, rừng núi và thảo nguyên, cây cối và hoa cỏ tạo thành một môi
trường có trật tự nhưng không bị công nghiệp hóa. Đó là nơi mà các cư dân
thành thị có thể tìm đến để giải thoát và tái tạo năng lượng. Môi trường tươi
xanh, từ cái nhìn của lí thuyết xanh, là một phong cảnh được đảm bảo là tách
khỏi con người; nó được chiêm ngưỡng và thưởng thức từ xa. Màu xanh tươi
sáng được coi là neo giữ lại sự lãng mạn của những mảnh đất hoang, chưa được
con người khai phá nhưng cũng hàm ẩn sự vẫy gọi, sự nồng ấm hiếu khách đối
với con người. Đó là một thế giới luôn được nhìn từ xa [113, 101-112]. Từ cách
tiếp cận sinh thái kinh điển, sự xuất hiện dày đặc của các tính từ chỉ màu sắc
tươi sáng, nhất là màu xanh trong Thơ mới cho thấy sự trân trọng của con người
đối với thiên nhiên. Các tính từ thiên về màu xanh tươi sáng, trong Thơ mới tạo
ấn tượng về thiên nhiên như là một “nơi chốn” đẹp đẽ và có đời sống tự thân,
tách biệt với thế giới con người. Do đó, dễ dàng nhận thấy tinh thần lấy thiên
nhiên và thế giới sinh thái làm trung tâm của phê bình sinh thái trong sự xuất
hiện nhiều các tính từ chỉ màu sắc tươi sáng của thiên nhiên trong Thơ mới.
Tuy nhiên, sự chiếm ưu thế của các sắc màu tươi sáng vốn chủ yếu gắn
với các sự vật liên quan đến rừng cây, đồng cỏ và miệt vườn của Thơ mới lại có
thể tạo thành một minh chứng cho phê bình trong nội bộ lí thuyết phê bình sinh
thái về màu sắc. Theo đó, sự xuất hiện của sắc màu xanh cho thấy một sự phóng
chiếu lấy cái nhìn chủ quan của con người làm trung tâm (anthropocentric
projection). Thơ mới thiếu vắng màu sắc của nhiều sự vật, nhất là những sự vật
và sự sống mạnh mẽ, dữ dội vốn không thuộc về thế giới nội đồng nhẹ nhàng
hay hoang sơ mà “có tổ chức” (disciplined) như cách nói của Ooijen. Nổi bật
với tính từ chỉ màu sắc tươi xanh và nhẹ nhàng như thế, thế giới thiên nhiên
trong Thơ mới trở thành những “đơn vị bị bách biệt hoàn toàn với hệ thống sinh
học hay thế giới tự nhiên nói chung” [ 113, 102]. Theo diễn giải của Ooijen,
cách thức giới hạn thiên nhiên vào màu xanh như thế thì sự tồn tại của các đại
dương, của không khí, của những địa vực và cả những vùng băng tuyết chưa
109
được khám phá. Và lí thuyết xanh định hình sự trân trọng đối với thế giới nội
đồng, hoa lá trong ý niệm về vẻ đẹp nhiên của con người. Trong khi đó, thiên
nhiên không chỉ có màu xanh, nó còn có màu trắng của băng đá hay màu đen
hay xám của vực thẳm. Hơn nữa, tự nhiên không cần phải được mã hóa trong
màu sắc, bởi vì “màu sắc chỉ là ý niệm của chúng ta về một cách thức trải
nghiệm cụ thể sự khúc xạ điện từ trong phạm vi các trường song nhất định và
nó được quyết định bởi cấu trúc sinh học trong cơ thể con người. “Chúng ta có
thể tưởng tượng ra vô số cách thức tồn tại trong thế giới này nơi mà các tính từ
màu sắc rốt cuộc không còn phù hợp” [113, 101]. Như thế, sự nhấn mạnh đến
màu sắc, chủ yếu là màu xanh, màu tươi sáng của thiên nhiên, cho thấy các chủ
thể trữ tình trong Thơ mới vừa nỗ lực nghĩ về thiên như là một thứ nằm bên
ngoài văn hóa con người. Nhưng mặt khác, một cách nghịch lí, sự chiếm ưu thế
của gam màu tươi sáng như thế lại cho thấy tự nhiên trong Thơ mới bị giới hạn
vào những sắc màu, những kích thước, và những hình dạng mà ý niệm của con
người cho là tự nhiên.
Khảo sát sâu hơn về sự lặp lại của các tính từ này giữa các bài thơ khác
nhau và sự gắn bó của chúng với các danh từ chỉ sự vật khác nhau càng chứng
tỏ sự chi phối, hay đúng hơn là sự chiếm ưu thế, của ý niệm con người trong
việc biểu đạt thế giới tự nhiên. Cụ thể, các tính từ chỉ màu sắc trong Thơ mới
xuất hiện tuy nhiều, nhưng không đa dạng vì chúng được lặp lại; cùng một tính
từ có thể được gắn với các danh từ chỉ sự vật khác nhau.
Ví dụ, tính từ chỉ màu sắc “biếc”được gắn với nhiều vật thể thiên nhiên.
Trong thơ Thế Lữ, có “sương biếc” (Lựa tiếng đàn, Tiếng trúc tuyệt vời, Bóng
mây chiều), “trên mặt hồ in màu ngọc biếc” (Hồ xuân và thiếu nữ), “trời biếc”
(Chiều bâng khuâng), “sương gió biếc” (Đời thái bình). Trong thơ của Lưu Trọng
Lư có “làn khói biếc” (Bâng khuâng). Trong thơ Hàn Mặc Tử có “tà áo biếc”
(Mùa xuân chín), “khói nhạt…màu xanh biếc” (Đừng cho lòng bay xa). Trong thơ
Bích Khê có “tầng khói biếc” (Dặm mòn), “làn biếc tỏa” (Ngũ Hành Sơn). Vũ
Hoàng Chương có “màu liễu biếc” (Dịu nhẹ). Thơ Xuân Diệu có “lá biếc”, “núi
biếc” (Núi xa), “xanh biếc trời cao” (Buồn trăng), “cành biếc” (Thu). Phạm Huy
Thông có “nước biếc” (Dặm bài ca), “đỉnh đồi xanh biếc” (Gió đêm xuân), “cỏ
110
cây như nhuốm biếc”, “một mỏm đá xanh biếc” (Trên bãi bể), “ánh trăng biếc”
(Cảnh liễu bên hồ), “dải mây biếc” (Tiếng họa mi). Trong thơ Chế Lan Viên có
“cỏ non biếc” (Xuân về), “núi biếc” (Mơ trăng). Anh Thơ có “cỏ non tràn biếc cỏ”
(Ngày xuân), “trời trong biếc” (Trưa hè), “ao biếc” (Rằm tháng tám). Đoàn Văn
Cừ có “trời biếc” (Làng), “cồn cỏ biếc”, “trời biếc” (Ngày mùa), “trời xanh biếc”
(Trưa), “trưa hè biếc” (Lá thắm), “trời biếc”, “khoảng biếc”, “lúa biếc” (Bình
minh), “cỏ biếc”, “bầu tranh xanh biếc” (Hè), “dòng biếc” (Thu), “trời biếc” (Cuối
thu, Ngày mùa), “mây phơi màu biếc lụa” (Đàn trâu).
Màu biếc ở đây được gắn với tất cả các sự vật, bất kể đó là sự vật trên cao
gắn với vũ trụ như “mây”, “trời”, “gió”, “khói”, “sương” cho đến các sự vật gắn
với mặt đất như “cỏ”, “sông”, “lá cây”, “ánh trăng”, “đỉnh đồi”. Không chỉ các
sự vật tự nhiên được định danh được gắn với màu biếc như “cỏ”, “trời”, “lá”,
“mây”, “đá”, “núi”, “cây lúa”, v.v…mà cả những sự vật tự nhiên mang tính trừu
tượng như “khoảng [trời, không]”, “dòng [nước, sông, suối]”, “làn biếc”, “trưa
hè biếc”, “làn biếc tỏa”. Đặc biệt, tính từ “biếc” được gắn với các sự vật không
phân biệt sự khác biệt và sự thay đổi về thời gian và không gian. Ví dụ, trong
thơ của Đoàn Văn Cừ, cụm danh từ “cỏ biếc” trong đó “biếc” là định ngữ chỉ
màu sắc xuất hiện cả bài thơ nói về mùa xuân (Chợ Tết) và cả mùa hè (Hè).
Cũng trong thơ Đoàn Văn Cừ, các sự vật có màu biếc được xuất hiện bất kể
mùa và thời điểm trong ngày. Mùa thu có “trời biếc”, “dòng biếc”; mùa hè cũng
có “trời xanh biếc”; mùa xuân cũng có “trời biếc”; bình minh có “trời biếc”,
“lúa biếc”; buổi trưa có cũng có “trời xanh biếc”.
Khảo sát trên diện rộng các bài Thơ mới nói chung có màu sắc biếc cũng
đem lại ấn tượng về sự lặp lại tương tự. Màu “sương biếc” xuất hiện trong cả ba
bài thơ Lựa tiếng đàn, Tiếng trúc tuyệt vời và Bóng mây chiều của Thế Lữ.
“Trời biếc” xuất hiện trong (Chiều bâng khuâng -Thế Lữ), trong (Trưa hè - Anh
Thơ). Đặc biệt, giữa các nhà thơ có sự xuất hiện lặp lại của cùng một cụm danh
từ có định ngữ “biếc”. Ví dụ, cụm từ “núi biếc” xuất hiện trong bài (Núi xa -
Xuân Diệu), trong bài (Mơ trăng - Chế Lan viên). Màu sắc “biếc” đều được
dùng để miêu tả vật thể “cỏ” trong thơ của Phạm Huy Thông (Trên bãi bể), Chế
Lan Viên (Xuân về), Đoàn Văn Cừ (Ngày mùa, Hè). Như vậy, có thể nói tính từ
111
chỉ màu sắc “biếc” xuất hiện nhiều và không gắn kết một cách cụ thể, đặc trưng
với một sự vật tự nhiên nào. Điều này cho thấy, tính từ này không quy chiếu
nhiều đến sự vật tự nhiên mà gắn bó chặt chẽ với những quy ước mang tính ước
lệ của con người về thiên nhiên. Tính ước lệ này diễn ra theo kiểu: đã là cỏ thì
là “cỏ biếc, đã là “trời” thì là “trời biếc”, đã là “sương” thì phải là “sương biếc”.
Màu biếc của thiên nhiên trong Thơ mới, từ góc nhìn của phê bình sinh thái về
màu sắc, không chuyển sắc diện vật chất của thiên nhiên mà chuyển tải một mã
văn hóa về thiên nhiên.
Như vậy, tri thức văn hóa và truyền thống định danh các sự vật trong thiên
nhiên, chứ không phải thiên nhiên là chủ đề chi phối trong việc sử dụng dày đặc và
lặp lại các tính từ chỉ màu sắc trong Thơ mới. Vì thế, một mặt, Thơ mới có thể
đem lại những dẫn chứng cho xu hướng “sinh thái xanh” (green ecology) với sự
chiếm ưu thế của tính từ “xanh” và các tính từ liên quan đến nó như “biếc” và
“lam”. Ở phương diện này, Thơ mới hướng đến khắc họa một thế giới thiên nhiên
và sinh thái nguyên sơ, tinh khôi và nó tồn tại tách biệt, tự thân bên ngoài thế giới
con người. Nhưng mặt khác, trên cơ sở sự gắn bó của các tính từ chỉ màu sắc với
các danh từ chỉ sự vật cũng như tần suất xuất hiện của cụm danh từ đó trong các
bối cảnh thời gian và không gian đặc trưng, Thơ mới cũng có thể gợi ý cho các nhà
phê bình sinh thái luận điểm về sự không tồn tại một thế giới thiên nhiên như là
“một nơi chốn” tách biệt khỏi địa hạt con người. Nói cách khác, thế giới tự nhiên
và sinh thái tràn ngập sắc xanh trong Thơ mới cho thấy sự hiển lộ đầy ưu thế của
mã văn hóa hay tri thức văn hóa của chủ thể trữ tình.
Mối quan hệ không tách rời của chu trình tự nhiên và chu trình văn hóa
trong các miêu tả về thiên nhiên và sinh thái của Thơ mới có thể thấy rõ hơn
khi khảo sát về mức độ đa dạng của tính từ chỉ màu sắc cũng như sự kết hợp
linh hoạt của các tính từ đó đối với thế giới động từ và tính từ. Màu xanh xuất
hiện dày đặc trong Thơ mới và được kết hợp với nhiều tính từ chỉ mức độ và
nhiều động từ khác nhau. Trong bài (Ngày xuân - Anh Thơ), cụm danh từ có bổ
ngữ là tính từ chỉ màu xanh là “lúa xanh” được gắn với sự chuyển động lan tỏa,
dàn trải mênh mang “rợn sóng tận chân mây”. Ở đây, “rợn” mặc dù là một tính
từ, nhưng do sự điệp âm với động từ “gợn” vốn hay gắn liền với danh từ “sóng”
112
nên ấn tượng gợi lên lại là sự vận động. Đặc biệt, từ nối “tận” có vai trò như là
một phụ từ chỉ hướng, chỉ mức độ lan tỏa vô định của màu xanh. Trong bài thơ
(Xuân về - Chế Lan Viên), hình ảnh quả dừa xanh được cụ thể hóa kép với hai
động từ động từ “khảm bạc” và “hớ hênh cười”; lá chuối non có màu xanh “lấp
lánh dưới sương mai”. Ở đây, dường như đang diễn ra một quá trình thử
nghiệm về ngôn ngữ nhằm diễn tả cảm nhận bằng xúc giác, thị giác và bằng trí
tưởng tượng của chủ thể trữ tình đối với thế giới tự nhiên. Đó là hình hài những
quả dừa khoe sắc xanh phủ phấn bạc và những đọt chuối non ướt đẫm sương
mai và đu đưa trong gió buổi sớm.
Không những vậy, thế giới thiên nhiên trong Thơ mới còn được hiện diện
với sự đa dạng về màu sắc và các sắc thái và vận động gắn liền với màu sắc đó.
Hầu hết các bài thơ của Đoàn Văn Cừ đều bao gồm nhiều màu sắc. Có thể nói,
dường như chủ thể trữ tình trong thơ Đoàn Văn Cừ có một hứng cảm đặc biệt
trong việc sử dụng một cách dày đặc các tính từ màu sắc khi miêu tả thiên
nhiên. Ví dụ như bài thơ Đàn trâu:
Mặt trời hôm gần khuất dưới chân mây,
Như một chiếc chiêng vàngđương bốc lửa
...
Trong ánh sáng hoàng hôn màu úa đỏ
Đàn trâu về thủng thỉnh bước trên đê
...
Hình sao Hôm trắng toát hiện trên không
Như giọt nước trong rơi trên luống cỏ
Hơi sương tím chân trời tha thướt phủ,
Những hình đen lần lượt kéo vào thôn,
Tiếng chuông chùa gọi với ánh hoàng hôn,
Liềm trăng bạc đêm hè nâng lấp ló
Những buổi sáng mây phơi màu biếc lụa,
Đồng non tơ ánh sáng trộn pha đều
Đàn trâu nằm mơ mộng mắt xanh veo
113
Nghe gió chảy rì rào bên biển lúa
...
Những buổi chiều trong khoảng nắng hồng pha
Trên dải lúa mênh mông màu cánh trả,
Đàn trâu xám họp nhau về tất cả
Như bức tranh thêu mặt vóc lam hồng
(Đàn trâu - Đoàn Văn Cừ)
Hầu hết các câu thơ đều có tính từ chỉ màu sắc (được in nghiêng). Các
màu sắc ở đây không chỉ bó hẹp trong màu xanh mà mở ra một biên độ dường
như là vô tận: màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu tím, màu đen, màu bạc, màu
hồng, màu cánh trả, màu xám. Màu xanh xuất hiện ba (3) lần trong bài thơ
nhưng có các sắc thái khác nhau: “màu biếc lụa”, “xanh veo”, “lam hồng”. Điều
đặc biệt là các màu sắc ở đây hầu hết nằm trong một quá trình của sự kết hợp về
màu sắc giữa các sự vật trong những khoảnh khắc vận động của thời gian. Màu
tím ở câu thơ “hơi sương tím chân trời tha thướt phủ” có vai trò như là một
động từ chỉ hoạt động “nhuộm tím”. Với tư cách là tính từ, màu tím ở đây
dường như là kết quả của sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời lúc bình minh,
kết hợp với màu xanh của lá cỏ.
Bức tranh làng quê sáng sớm ở đây, mượn cách diễn đạt của Henry Thoreau
trong bài giảng “Màu sắc mùa thu” (Autumnal tints), thể hiện mối quan hệ phức
hợp giữa tri thức khoa học và trí tưởng tượng. Đúng hơn, sự xuất hiện của các màu
sắc, theo quan điểm của Thoreau, là một sự chuẩn bị cho thị giác và tâm trí trong
việc nhìn thế giới vừa rất trật tự, vừa không thể dự đoán được và vì thế rất đẹp đẽ.
“Chỉ tồn tại những cái đẹp hiện ra cho chúng ta chiêm ngưỡng và vẻ đẹp đó là
nhiều đúng bằng sự chuẩn bị của thị giác chúng ta trong việc chiêm ngưỡng đó…
Cần phải có những sự chú ý khác nhau của mắt và của tâm trí để chú ý đến những
mục tri thức khác nhau” [dẫn theo 127, 159]. Như thế, các phẩm chất mang tính
hội họa của phong cảnh tương ứng với sự chuẩn bị (trí tưởng tượng, tri thức khoa
học) của người chiêm ngưỡng. Và ở đây, rõ ràng, bức tranh thiên nhiên và thế giới
sinh thái hiện lên vừa thể hiện kết quả của nhiều sự vận động trong thế giới này và
của mối liên hệ của thế giới đó với nhãn quan và tâm trí của con người. Diễn đạt
114
theo cách của Heather I. Sullivan trong bài viết “Sinh thái của các màu sắc: Thị
giác mang tính vật chất của Goethe và xu hướng hậu nhân văn sinh thái” (The
Ecology of colors: Goethe’s materialist optics and Ecological Posthumanism), tự
nhiên trong Thơ mới, khi được khảo sát từ góc độ các ngôn từ chỉ màu sắc, là
“những chu trình văn hóa-tự nhiên xuất hiện liên tục hoàn toàn quanh, qua, và
trong chúng ta” [136, 80 - 94].
Khảo sát các tính từ, động từ hỗ trợ cho tính từ “vàng” trong Thơ mới
càng chứng tỏ điều mà Sullivangọi là “những ý niệm mang tính giác quan về
các sinh vật” (sensory perception) trong Thơ mới. Điều đó có nghĩa, quang
cảnh thiên nhiên và thế giới sinh thái trong văn học hiện lên là kết quả của sự
tương tác giữa những giác quan của cơ thể con người với thế giới màu sắc, âm
thanh, mùi vị, và những vận động của thế giới vật chất. Thiên nhiên do đó hiện
lên không chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi theo những hướng quen thuộc mà các
nhà phê bình sinh thái vẫn khám phá như sự phá hủy, sự phát triển, tình trạng bị
khai thác, hay tình trạng bị ô nhiễm. Trái lại, trong sự tương tác với các giác
quan cơ thể, thiên nhiên hiện lên trong một sự vận động với diện mạo đa dạng
và thay đổi không có giới hạn, không xác định. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc
vào chu trình tương tác của các giác quan và chu trình tương tác của các năng
lượng tự nhiên, sinh thái. Lấy màu vàng trong bài thơ Ngủ với trăng của Hàn
Mặc Tử làm ví dụ.
Tiếng vàng rơi xuống giếng,
Trăng vàng ôm bờ ao...
Gió vàng đang xao xuyến
Áo vàng hỡi chị chưa chồng đã mặc đi đêm
Ở đây, màu vàng được cấu trúc lại theo một nét nghĩa mang tính bao gộp cả
về văn hóa và tự nhiên. Đó là màu sắc vừa mang tính thị giác được xuất hiện trong
điều kiện màSullivangọi là “sự lực truyền của ánh sáng mặt trời vào bầu sinh
quyển”. Nhưng màu sắc vàng ở thơ Hàn Mặc Tử còn mang tính thính giác: “tiếng
vàng rơi xuống giếng”. Trong hình ảnh “tiếng vàng rơi” có sự tương hợp của hai
giác quan thị giác và thính giác, đó là những giọt nước pha lẫn ánh trăng rơi xuống
giếng. Không chỉ vậy, màu vàng ở đây còn vận động uyển chuyển đầy quyến
115
luyến. Chủ thể trữ tình dường như nỗ lực lắng nghe và cảm nhận bằng nội cảm thế
giới bên trong của sắc vàng. Sự vận động và các sắc thái của màu vàng ở đây
tương đồng với cách miêu tả của Wolfgang Goethe về màu sắc trong cuốn Lí
thuyết về màu sắc (Theory of color). Theo đó, màu sắc là hiện thân về các biến đổi
của thiên nhiên: khi ánh sáng, khách thể, mắt nhìn, và các sự tiếp nhận cùng tham
gia thì màu sắc xuất hiện. Màu sắc không phải là cố định. Trái lại nó là đại diện
cho các chu trình không đoán trước được của thiên nhiên, các chu trình này liên
tục được vận hành bởi năng lượng mặt trời. Màu sắc hiện thân cho những sự trao
đổi của các sự vật sống vốn vận hành dựa trên sự tận dụng ánh sáng. Diện mạo của
màu sắc trong các chu trình liên quan đến thị giác con người xuất hiện như là
những sự tương tác giữa sự sống và năng lượng mặt trời. Miêu tả của Goethe cho
thấy không có sự tách biệt giữa địa hạt văn hóa và địa hạt thiên nhiên trong các
diễn đạt của con người về màu sắc của tự nhiên.
Như vậy, thế giới sắc màu trong Thơ mới hiện ra như một sinh thể sống
động, là kết quả của “những ý niệm mang tính xúc giác” (sensory perceptions)
của chủ thể trữ tình. Nói cách khác, thế giới màu sắc ở đây như là một nơi chốn
mà ở đó diễn ra sự tương tác phức hợp của các chu trình tự nhiên và chu trình
văn hóa. Có thể nói, ngôn ngữ chỉ màu sắc trong Thơ mới cho thấy sự không
tách rời, hay nói đúng hơn là mối quan hệ trao nhận, tương tác của chủ thể và
khách thể, của tự nhiên và văn hóa trong các bài thơ về thiên nhiên và sinh thái.
Điều này tương đồng với sự phát triển về lí luận gần đây trong lí thuyết phê
bình sinh thái. Đó là việc chấp nhận tự nhiên không phải là một “nơi” tách biệt
và đối lập với con người mà như là một quá trình trong đó có sự tương tác của
các quá trình hình thành ý niệm, sự vận dụng các mã văn hóa và quá trình tự
nhiên được cảm nhận qua giác quan của con người.
4.1.2.2. Thơ mới như là những khởi đầu của lý thuyết phê bình sinh thái ở
Việt Nam
Trong phong trào Thơ mới, có những bài thơ trực tiếp nói về mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên tương ứng với tư tưởng về mối quan hệ này
trong lí thuyết phê bình sinh thái. Nói cách khác, Thơ mới bao gồm trong nó,
thông qua hình thức thơ, với vần, nhịp và cách ngắt câu đặc trưng, những triết lí
116
và quan niệm đặc trưng của phê bình sinh thái. Trong bài thơ Lũy tre xanh, Hồ
Dzếnh đặt những câu thơ của mình ở cái ranh giới mong manh giữa “làng” và
“đô thị”. Ở giữa hai thế giới này hình ảnh nhân vật trữ tình được xây dựng là
một người luôn trông ngóng chung thủy với làng quê:
Làng gần đô thị, tuy nhiên
Mắt trong vẫn giữ được miền sắt son
….
Tôi yêu, nhưng chính là say
Tình quê Nam Việt, bàn tay dịu dàng
Thơ tôi: đê thắm, bướm vàng
Con sông be bé, cái làng xa xa...
(Lũy tre xanh -Hồ Dzếnh)
Nhân vật trữ tình ở trong bài thơ say sưa và tự tin tuyên ngôn lẽ sống của
mình trong mối quan hệ với thế giới đồng quê. Đó là “yêu”, “say”, “sắt son”.
Và thơ của tác giả trữ tình, như được nói lên trực tiếp, chỉ có “đê thắm”, “bướm
vàng”, “con sông be bé” và “cái làng xa xa”. Nhân vật ở đô thị những một lòng
một dạ cho thôn quê vì đó là “tình quê Việt Nam”, vì đó là yêu thương và chở
che với “bàn tay dịu dàng”.
Có thể nói, đây là những vần thơ tương ứng với quan điểm cổ điển của phê
bình sinh thái, đó là nhấn mạnh vai trò của thiên nhiên như là cõi đi về, cõi
ngóng trông của con người trong thế giới hiện đại.
Rừng, không thể phủ nhận, là một đề tài của nhiều bài thơ trong phong
trào Thơ mới. Thơ Lưu Trọng Lư có nhiều bài thơ lấy rừng và các sự vật đặc
trưng của rừng làm tứ thơ. Nói cách khác, trong thơ Lưu Trọng Lư có một thế
giới rừng hiện lên thơ mộng và sống động. Đó là thế giới rừng nguyên sơ và
tĩnh mịch đến mức có thể “nghe [được tiếng] rừng thu”, nghe được tiếng “lá rơi
xào xạc” và tiếng bước chân con nai vàng đạp trên lá. Đó là thế giới sinh động,
chan hòa và bình yên giữa các sinh vật, giữa con người và động vật rừng không
có sự dè chừng.
Ngày ngày vào rừng sâu
Thổi sáo tìm bồ câu,
117
Chim ngàn, trên vai đậu
Đậu cả mái tóc sầu.
(Ngày xưa – Lưu Trọng Lư)
Con sóc trên cành
Gọi bầy ca vũ,
Ta nghe cầm thú
Vào hội đồng thanh,
Hồn nhạc mong manh
Kể lời châu thổ.
Ôi điệu u tình
Lả lướt rừng xanh
(Hoa sử - Đinh Hùng)
Ngày xưa có một người thơ,
Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo.
Chim hôm loáng thoáng qua đèo,
Cảnh chiều buông tiếng chim chiều ngân nga
(Ngày xưa – Ngân Giang)
Đó là thế giới chan hòa trong âm thanh tươi vui. Các loài muông thú đồng
thanh, tương tác tạo thành thứ hòa âm của đất trời và của ngàn năm. Trong
những bài thơ trên, rừng hiện lên là một thế giới nguyên sơ. Ở đó vẫn còn
những loài muông thú hiếm như nai, sóc, chim. Và đó còn là thế giới chưa có
sự can thiệp thô bạo của con người. Muôn thú vui tươi, chan hòa với nhau, điều
đó chứng tỏ chúng chưa trải qua sự đe dọa hay sự mất mát nào do ảnh hưởng
của văn minh như một số bài thơ khác trong Thơ mới miêu tả.
Trong các bài Thơ mới, thơ của Đinh Hùng có thể được coi như là những
luận đề bằng thơ về các đặc điểm của mối quan hệ này của thơ ca đồng nội.
Nguyễn Thị Minh Thương trong bài viết Kháng cự đô thị, trở về tự nhiên: “Mê
hồn ca” của Đinh Hùng từ góc nhìn phê bình sinh thái (Tạp chí Khoa học, Đại
học Sư phạm Hà Nội, 2018) tìm ra sự tương đồng giữa thơ Đinh Hùng với tư
tưởng của các nhà phê bình sinh thái ở ý thức kháng cự lại thành thị, “kính
ngưỡng thiên nhiên” và “trở về với tự nhiên,” tìm sự hòa giao giữa con người
118
và tự nhiên.Tác giả cho rằng, dù không phải là văn học sinh thái nhưng thơ của
Đinh Hùng “mang nội hàm tư tưởng của sinh thái, có ý thức sinh thái và tự giác
sinh thái rõ ràng”[70]. Bài viết này, nhìn nhận thơ của Đinh Hùng như là một
sự biểu hiện bằng thơ quan niệm kinh điển của phê bình sinh thái về mối quan
hệ giữa con người và thiên nhiên trong văn học đồng nội nói riêng và văn học
thiên nhiên nói chung. Đó là sự nhấn mạnh đến đối lập giữa văn hóa-văn minh
và thiên nhiên; trong đó văn hóa – văn minh được hiện thân chủ yếu qua đô thị
và thiên nhiên chủ yếu được hiện thân qua các quang cảnh đồng quê, rừng núi
tự nhiên. Trong đó, đô thị thường xem là lực tàn phá và là nơi mà con người
muốn trốn khỏi, muốn ra đi; trong khi đó, làng quê hay rừng ruộng là nơi con
người muốn tìm về như tìm về với quá khứ trong trẻo, như là tìm về cội nguồn
và như là nơi bình yên, nơi tìm thấy bản thân mình.
Và nhân vật trữ tình trong thơ Đinh Hùng cũng nhiều lần nói lên trực tiếp
cái tinh thần cơ bản của phê binh sinh thái, đó là từ bỏ thành phố để đến với
thiên nhiên và sống theo thiên nhiên, sống như thiên nhiên:
Lòng đã khác ta trở vềđô thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
… Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng
(Bài ca man rợ - Đinh Hùng)
Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe...
Thèm ăn một chút hoa man dại
Rồi ngủ như loài muông thú kia
(Những hướng sao rơi – Đinh Hùng)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Là đôi người cô độc thủa sơ khai
(Người gái thiên nhiên – Đinh Hùng)
Quên đi em, hãy sống đời cây cỏ
Từng linh hồn dan díu với hương hoa
(Trời ảo diệu – Đinh Hùng)
Tôi từ thơ trẻ biệt lều tranh
119
Rồi lớn và yêu giữa thị thành
Gió thổi bâng khuâng hồn cỏ dại
Ngậm ngùi chợt nhớ lũy tre xanh
(Lạc hướng mây Tần – Đinh Hùng)
Những câu thơ trên như lời tuyên ngôn bằng thơ, bằng hình ảnh và bằng
nhịp điệu tư tưởng mang tính sinh thái. Lời mời gọi “sống đời cây cỏ” và “ngủ
như loài muông thú” là ý tưởng về việc con người sống như thiên nhiên, là tư
tưởng lấy thiên nhiên là hình mẫu sống. Và lời mời gọi “dan díu với hương
hoa” là ý tưởng về sự giao hòa, kết nối giữa con người với thiên nhiên. Và trạng
thái của nhân vật trữ tình là luôn lắng nghe thiên nhiên, thèm cỏ dại và “cô độc
giữa sơ khai” – đó là hoài vọng điển hình của con người hiện đại hướng về
thiên nhiên như là hướng về cái bản ngã thuở ban sơ, hướng về cội nguồn của
mình. Như vậy, từ góc nhìn của phê bình sinh thái, thơ Đinh Hùng có thể nói là
những luận đề mang tính thơ ca về tư tưởng kinh điển của xu hướng tiếp cận
văn học này, đó là sự rời xa của con người đối với thành phố để gần hơn với
thiên nhiên, để sống như thiên nhiên và lấy thiên nhiên làm cõi đi về.
Vì tính luận đề về sinh thái, trong Thơ mới, ta có thể bắt gặp những câu
thơ hay những cách diễn đạt ngôn từ có thể là tuyên ngôn hay phương châm của
phê bình sinh thái hay các phong trào môi trường. Ví dụ, để diễn đạt cho tư
tưởng nhị nguyên phân đôi giữa thành thị và thiên nhiên hay giữa văn hóa và tự
nhiên, trong đó, thành thị bị phê phán như là sự suy đồi về đạo đức, nơi tha hóa
về tâm hồn, nhân cách của con người và thiên nhiên là nơi an toàn, nơi nguyên
sơ, tinh khiết, thì bài thơ Lời mỉa mai của Thế Lữ có thể được lấy để thay thế:
Trong những lúc giang hồ cay cực,
Vừng cây xanh bỗng réo rắt tiếng chim ca
Khiến cho người non nước động hồn thơ...
Tôi đứng lại, đưa tay lau mắt lệ
Mà vui ngắm cảnh tươi cười mới mẻ;
Tôi thực lòng hưởng phút say sưa
- Vì cảnh thiên nhiên không lừa dối bao giờ.
(Lời mai mỉa – Thế Lữ)
120
Trong đó, “cảnh thiên nhiên không lừa dối bao giờ” có thể trở thành tuyên
ngôn của phê bình sinh thái. Chính sự khái quát hóa các hình ảnh hay sự kiện
trong các bài Thơ mới khiến cho ý thơ và cảm xúc trữ tình của chúng dễ dàng
trở thành các ý niệm hay các tư tưởng. Như ở bài thơ trên, hoạt động khái quát
hóa có thể thấy ở cách diễn đạt “trong những lúc giang hồ cay cực” và “người
non nước động hồn thơ”. Ở đây, độc giả dễ dàng nhận ra, tác giả trữ tình dường
như hướng tới một sự vật (chốn giang hồ nào, cảnh thiên nhiên nào), một hiện
tượng cụ thể nào (sự kiện lừa lọc nào, chuyện gì hay sự vật gì khiến cho nhân
vật trữ tình rơi lệ rồi lại cười vui) mà dường như đang nỗ lực khái quát hóa
chúng lên thành một triết lí, một ý niệm về sự đối lập giữa văn hóa và thiên
nhiên, trong đó, thiên nhiên là nơi vĩnh hằng và là nơi yên ổn, an bình mà con
người có thể tin tưởng nhất. Hay ở những câu thơ như:
Em ơi, vui thú phồn hoa mãi
Có biết đồng quê đang nhớ mong
(Trở lại đồng quê – Bàng Bá Lân)
Bình minh buổi ấy gặp anh
Rủ em ra chốn đô thành xa khơi
….
Nhưng em luống nặng lòng quê
Nhớ thương cảnh cũ bốn bề núi non
(Lòng quê – Hằng Phương)
Đến bây giờ, bạn ơi! Tôi mới biết
Tôi yêu rừng sâu, mây vàng, núi biếc
(Trên bãi bể - Phạm Huy Thông)
Cùng với tôi yêu cuộc đời mộc mạc
Đầy hoa hương cùng thi vị thiên nhiên
Đối với tôi, đó là thú thần tiên
(Bóng mây chiều - Thế Lữ)
Cũng đầy cách diễn đạt hướng đến sự trừu tượng như “thi vị thiên nhiên”,
“thú phồn hoa”, “cuộc đời”, lòng quê và đầy cách diễn đạt chủ yếu dựa vào
danh từ chung (không dùng thêm các định ngữ chỉ danh cụ thể) như “rừng sâu,
121
mây vàng, núi biếc”, “bốn bề núi non”, “chốn đô thành”, “đồng quê”. Dường
như tác giả trữ tình dùng các hình ảnh trên chỉ như là một thành ngữ, một khái
niệm phổ quát. Quá trình ý niệm hóa cũng khiến cho các câu thơ đều có khả
năng trở thành những tuyên ngôn về một triết lí sống hướng về thiên nhiên. Như
vậy, Thơ mới, khi được nhìn nhận từ góc độ phê bình sinh thái, tràn đầy tiềm
năng trở thành diễn ngôn sinh thái, tham gia vào diễn ngôn và tư tưởng về sinh
thái của nhân loại ngày nay.
4.1.2.3. Thơ mới như là những tiềm ẩn lý luận bằng thơ về sự chấn thương
sinh thái
Cho đến nay, nghiên cứu về chấn thương trong văn học không còn là vấn
đề nghiên cứu mới mẻ. Trong bài viết của mình về “Chấn thương kép trong Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh” nhà nghiên cứu Cao Kim Lan cũng chỉ ra khi
lúc này nghiên cứu về chấn thương đang đi vào bế tắc thì “Như thế, để tìm ra
một con đường biểu đạt một vấn đề phức tạp, những phân tích tự sự chấn
thương đôi khi phải giải phóng khỏi những “công thức cơ bản” của lý thuyết
chấn thương văn học và phát triển nó trong “những tương đồng về trí tuệ, đạo
đức” hay “nhiệm vụ chính trị trong việc chống lại các hình thức bạo lực chủng
tộc và thuộc địa” [33,25]. Dựa trên quan điểm đó thì một thực tế cho thấy khi
chúng ta tưởng tượng ra ý nghĩa của thuật ngữ chấn thương, chúng ta hiếm khi
nghĩ về nạn nhân là thế giới tự nhiên-thiên nhiên. Tuy nhiên, với sự ra đời của
phong trào quyền động vật, thì các nhà phê bình ngày càng chấp nhận việc xem
thế giới sinh vật không phải con người là có cảm xúc - hay ít nhất là có thể chịu
đựng và trải nghiệm nỗi đau - và do đó xứng đáng với quyền lợi. Các nhà môi
trường luận, tranh luận rằng điều đó cũng xảy ra với động vật và các hệ sinh
thái hoang dã khác. Mặc dù các nhà nghiên cứu không tuyên bố rằng các hệ
sinh thái có cảm xúc của con người nhưng họ nhận ra sự mong manh và tầm
quan trọng về mặt sinh học của một số khu vực nhất định và rằng các hoạt động
của con người có thể ảnh hưởng xấu đến các loài ở đó. Để có thể cảm nhận
được chấn thương sinh thái, các nhà môi trường luận đã phát triển một nhận
thức rằng con người thực ra cũng bị nhốt vào hệ sinh thái giống như các động
vật khác, vì vậy khi con người phá hủy cảnh quan bằng cách thải chất thải độc
122
hại, ngăn cắt hoặc lấp đầy vùng đất ngập nước, thì những sự can thiệp đó ảnh
hưởng đến chất lượng nước uống, bóng râm và oxy có sẵn cho con người cũng
ảnh hưởng đến khả năng giảm thiểu lũ lụt bằng hệ thống thoát nước tự nhiên.
Theo cách này con người có thể cho rằng hệ sinh thái bị tổn thương sẽ làm tổn
thương con người trở lại [146, iv-v]. Các nhà phê bình sinh thái đã tìm kiếm
trong văn học những biểu đạt gợi ý về sự chấn thương của hệ thống sinh thái.
Khảo sát Thơ mới, chúng tôi cũng tìm thấy những biểu đạt ám ảnh người đọc
về sự cảm nhận nỗi đau của thế giới tự nhiên.
Quả đúng như vậy, một chủ đề nổi bật trong thơ viết về rừng nói riêng và
thiên nhiên nói chung của Thơ mới là sự mất mát, tổn thương. Ở những bài thơ
này, diện mạo của thiên nhiên hiện ra rên xiết, đau đớn như là hệ quả của một
sự can thiệp thô bạo. Đó là cảnh rừng là nạn nhân của một cuộc tàn sát: muông
thú bị sát hại “thảm lá máu chim muông loang lổ”, là cảnh lá rừng bị chà đạp
“rên rỉ” (Chiến tượng – Chế Lan Viên). Hay trong bài thơ (Khách ngàn phương
- Cẩm Lai), thế giới rừng hiện lên trơ trụi “rừng vắng, lau thưa”, chỉ có “lá vàng
reo…xao xác” và mấy lùm cây còn lại “cây tung lá” và lẻ loi tiếng chim kêu
“khắc khoải”. Muông thú trong thơ của Đinh Hùng chỉ thấy hú và khóc “Vượn
lâm tuyền khóc rợn trăng khuya” (Những hướng sao rơi) và “Rừng buổi đó
vang tiếng cười man rợ/…Ta đến đây nghe vượn núi kêu sầu” (Người gái thiên
nhiên). Đầm sen trong thơ Trần Huyền Trân chỉ còn là nước cống “Mang tiếng
đầm Liên Hoa/Là ao bèo nước cống” (Mẹ nuôi con).
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ có thể nói là tiêu biểu nhất cho sự tổn
thương của rừng. Bài thơ thường được khai thác ở khía cạnh tượng trưng của
nó, đó là khao khát tự do của trí thức trong cảnh cùm kẹp. Tuy nhiên, bước qua
cái ý nghĩa tượng trưng đó, coi bài thơ như là một diễn ngôn về môi trường, thì
ý nghĩa trực tiếp nhất của Nhớ rừng là nó phản ánh tâm trạng của một con hổ bị
nhốt trong cũi. Đó là con hổ bị tách rời khỏi đời sống hoang dã tự nhiên để đưa
vào thành vật nuôi của con người trong công viên, hay vườn bách thú. Sự hiện
diện dữ dội của các hình ảnh thuộc về rừng mà con hổ nhớ tưởng như “sơn lâm,
bóng cả, cây già… tiếng gió gào ngàn… giọng nguồn hét núi” như là một sự
phản chiếu tình trạng sống tẻ nhạt, cùm nén của con hổ trong không gian sống
123
do con người tạo dựng lên. Hình ảnh đầy oai vệ của con hổ trong quá khứ “thét
khúc trường ca…. bước chân lên dõng dạc, đường hoàng/Lượn tấm thân như
sóng cuộn nhịp nhàng/Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc/Trong hang tối, mắt
thần khi đã quắc/Là khiến cho mọi vật đều im hơi” phản chiếu sự mất mát, tổn
thương của con vật khi phải sống trong ngôi nhà do con người tạo dựng ra. Đó
rõ ràng không được coi là không gian sống của con vật vốn đã quen ở chốn
rừng hoang và sống một cách tự do.
Hai chủ đề đối lập về rừng trong các bài Thơ mới có thể được đọc như là
sự tương đồng với tính mơ hồ trong ý niệm về bảo vệ môi trường và sinh vật
hoang dã trong phê bình sinh thái. Điều này được Bernard Williams khái quát
hóa trong nhận định: “Những gì nhiều lợi ích muốn bảo tồn chính là thiên nhiên
không bị kiểm soát, không bị định hình, hoặc không được theo chủ ý của chúng
ta, đó là một thiên nhiên, chống lại văn hóa, có thể được xem như là cái đang ở
ngoài kia. Nhưng thiên nhiên được bảo tồn là một thiên nhiên hoang dã được
xác định, được phân tách. Nghịch lý là chúng ta phải sử dụng quyền lực của
mình để bảo tồn ý thức về những thứ không nằm trong quyền hành của chúng
ta. Bất cứ điều gì chúng ta để hoang sơ thực là chúng ta đã động vào” . Lời
trích dẫn của Williams rất quan trọng vì nó chỉ ra xu hướng lấy con người làm
trung tâm trong nỗ lực bảo vệ hành tinh sẽ dẫn đến sự “tự lừa dối” và “tuyệt
vọng”. Những bài thơ tràn đầy tiếng chim muông, cây cỏ đều đặt trong bối cảnh
là những hoài niệm của nhân vật trữ tình. Đó là cảnh đã mất. Trong khi đó, sự
mất mát, tang thương của thiên nhiên hoang dại là thực tế trong hiện tại. Hình
ảnh nhuốm máu và đầy vết thương của rừng trong các bài thơ được trích dẫn
dường như là một cảnh báo về hệ quả của hành động bảo vệ sinh vật hoang dã
qua việc bắt nhốt các con vật và đặt trong công viên.
Trong bài giảng về Phê bình sinh thái ở Khoa văn học, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội năm 2017, Heise Ursula, tác giả cuốn
Imagining extinction: The cultural meanings of endangered species- Sự tuyệt
chủng mang tính tưởng tượng: Các ý nghĩa văn hóa của các chủng có nguy cơ
tuyệt chủng, NXB Đại học Chicago- giải thích rằng các nhà phê bình sinh thái
đặt câu hỏi là những mẫu tự sự nào hình thành nên các câu chuyện về các loài
124
bị đe dọa và diệt chủng ở các cộng đồng văn hóa cụ thể. Sự tuyệt chủng của các
loài không phải con người luôn luôn là vấn sự quan tâm về mặt khoa học hay
văn hóa. Trong văn hóa phương Tây, niềm tin chủ yếu cho đến đầu thế kỉ 19 là
chúa trời tạo ra động thực vật và không đơn giản là để các loài mình tạo ra biến
mất đi. Nó tiến hành khám phá về niên đại trái đất, một sự khám phá trong đó
nhiều vật hóa thạch không thể khớp với các tổ chức sinh vật đang sống trong
thế giới tự nhiên hiện nay, và cuối cùng luật tiến hóa Darwin đã dần dần thuyết
phục các nhà cầm quyền và dư luận nói chung vào thế kỉ 19 rằng các sinh vật
có lẽ đã tuyệt chủng thực sự. Trong thực tế, tất nhiên, lí thuyết Darwin giả thiết
rằng các loài bị tuyệt chủng ở tất cả các thời đại khi các loài có khả năng thích
nghi tốt hơn xuất hiện. Nhưng sự tuyệt chủng vẫn được giả thiết theo hướng
văn hóa là một thứ thuộc về quá khứ cho đến cuối thế kỉ 19, khi sự gần tuyệt
chủng của bò rừng bizon và sự tuyệt chủng của loài chim đưa thư từng rất nhiều
ở Mỹ, ví dụ, dẫn đến việc nhận thức rằng sự tuyệt chủng cũng đang xảy ra ở
hiện tại. Điều này dẫn đến việc hình thành các tổ chức đối thoại đầu tiên ở Mỹ
và châu Âu và toàn thế kỉ XX, các hoạt động đối thoại tập trung vào các loài cụ
thể được cho là đang có nguy cơ. Nhưng bức tranh thay đổi vào những năm 70
và 80 của thế kỉ XX, khi các nhà cổ sinh học như David Raup và Jack Sepkoski
khẳng định rằng sự tiến hóa về sinh học được định hình ít bởi sự tuyệt chủng
dần theo xu hướng Darwin mà nhiều hơn là sự tuyệt chủng hàng loạt, những sự
kiện cho thấy, trong một khoảng thời gian ngắn hơn 70% các loài đang tồn tại
bị tuyệt chủng. Đối lập với sự tuyệt chủng thông thường, chỉ 5 cuộc tuyệt chủng
hàng loạt như vậy xảy ra trong 3,5 triệu năm lịch sử đời sống sinh học của trái
đất. Ý nghĩa này dần sản sinh ra sự sợ hãi gia tăng giữa các nhà môi trường,
người đầu tiên nói về nỗi lo sợ này ra cộng đồng là Norman Myers, Paul và
Anne Ehrlich, và E.O.Wilson, rằng chúng ta gần đây có thể đang trải qua cuộc
đại tuyệt chủng thứ 6 do con người gây ra. Điều này dẫn đến sự xuất hiện của
thuật ngữ đa dạng sinh học như là một khẩu lệnh của phong trào môi trường
vào những năm 1980 và dẫn đến mối quan tâm thường xuyên của đại tuyệt
chủng như là một đảm bảo về phẩm chất của các phong trào môi trường, đặc
biệt là nửa bán cầu Bắc. Và “chúng ta” quy chiếu đến các cộng đồng bản xứ,
125
khu vực hay quốc gia trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và động vật có nguy cơ
hay tuyệt chủng trở thành một cách để tưởng nhớ hay than khóc điều đã mất, để
nghĩ về bản sắc tập thể riêng của ai đó trong bối cảnh bị thay đổi lớn trong quá
trình hiện đại hóa hay thực dân hóa hoặc cả hai.
Cả sự hoài niệm và sự miêu tả hiện tại cộng hưởng dường như là đang quy
chiếu đến hiện thực về sự biến mất của rừng và các chính sách mang tính thực
dân nhằm bảo tồn thiên nhiên và xây dựng công viên của chính phủ Pháp trên
đất Đông Dương. Trong bài nghiên cứu Bảo vệ rừng và phong trào môi trường
thuộc địa: Đông Dương, 1860-1945, Frédéric Thomas khảo sát tác động tiêu
cực của quá trình thực dân hóa đối với rừng Đông Dương và các dự án nhằm
tạo ra các khu vực bảo tồn, từ đây đánh giá tổng thể về hiệu quả của tám mươi
năm chính sách lâm nghiệp của Pháp ở Đông Dương và xác định chính xác các
vấn đề môi trường trong giai đoạn đó [105, 104 -136]. Để hợp lí hóa sự can
thiệp của chính quyền thực dân vào tài nguyên đất và rừng của Đông Dương,
các quan chức hành chính của Pháp miêu tả tình trạng phá hủy ở nơi này đang
ngày càng kịch liệt, động vật đặc biệt là trâu nước và các loài gia súc thì nhiễm
bệnh và chết. Điều đó dẫn đến việc nhà nước biến nhiều vùng đất tự nhiên
thành khu bảo tồn và nằm dưới sự quản thúc của chính phủ. Đến năm 1928 có
đến 6,8 phần trăm rừng ở Đông Dương bị phân loại thành khu bảo tồn và cho
đến giai đoạn cuối thời kì thực dân có sáu trăm khu bảo tồn được dựng lên ở
Đông Dương, chiếm 5.2 phần trăm diện tích đất đai ở nông thôn, 8,1 phần trăm
đất rừng. Vào năm 1926, chính quyền thực dân dự định lập khu bảo tồn một số
loài sinh vật và kế hoạch xây dựng công viên quốc gia. Mục đích của dự án này là
để bảo vệ các loài voi, tê giác, trâu rừng, nai cái v.v… khỏi sự tuyệt chủng. Và như
Aline Demay miêu tả trong cuốn Du lịch và Thực dân hóa ở Đông Dương (1898-
1939), việc thành lập các công viên quốc gia nhằm bảo vệ hệ sinh vật bản địa có
mục tiêu là thu hút khách du lịch [88, 113-115]. Và như nhận định của Thomas,
các dự án về khu bảo tồn không có mục tiêu bảo vệ môi trường rừng nhiệt đới mà
thường ưu tiên cho sự “bóc lột tự do đối với các khu vực rừng trù phú nhất”. Như
thế, các bài thơ về rừng trong Thơ mới, thực chất là sự đồng vọng về diễn ngôn đối
với những tranh luận trong cộng đồng về dự án xây dựng khu bảo tồn rừng. Hơn
126
nữa, việc nhấn mạnh vào hoài niệm về sinh vật rừng tự do, chan hòa trong quá khứ
với các sinh vật rừng bị cầm tù, bị tổn thương trong hiện tại, Thơ mới dường như
tham gia vào xu hướng phản thực dân vốn thực sự phát triển ở Việt Nam từ những
năm cuối của thập kỉ 1920 và thực sự phát triển đỉnh cao vào cuối những năm
1930. Nói cách khác, đúng như nhà lịch sử Thomas nhận định, “sự chống đối lại
chính sách bảo tồn là một yếu tố trung tâm trong sự hình thành của nhiều phong
trào độc lập dân tộc [ở Đông Dương]”[105].
Quay trở lại luận điểm về vấn đề chấn thương sinh thái, hình ảnh muông
thú – có tính nhân cách hóa được phân tích ở trên đặt ra một câu hỏi, liệu việc
biểu đạt những mất mát về thiên nhiên đó có phải là một hiện thân cho sự thống
trị của con người, rằng con người đang không cho thiên nhiên nói tiếng nói thật
sự của nó, rằng con người đang nói hộ, nói cho thiên nhiên theo cái cách hiểu
và giọng nói của mình. Khẳng định rằng một nội dung cơ bản trong mối quan
hệ giữa con người và thiên nhiên được nhìn nhận trong phê bình sinh thái. Đó là
mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên phi nhân loại có được đặc
trưng chủ yếu là chấn thương. Cụ thể, con người lạm dụng cảnh quan và làm
cạn kiệt tài nguyên, gây hại cho chính các hệ sinh thái hỗ trợ cuộc sống của
chính họ. Điều này có thể được coi là một chấn thương kép trong đó con người
làm tổn thương hệ sinh thái, sau đó lại quay lại làm chấn thương chính con
người. Việc con người không sẵn lòng thiết lập một văn hóa coi thế giới tự
nhiên phi nhân loại là một chủ thể có giá trị có khả năng trải nghiệm chấn
thương đã ngăn cản con người không hiểu được hậu quả trong hành động của
mình. Đây là một mâu thuẫn của các nhà phê bình sinh thái và các nhà môi
trường luận trong những nỗ lực nhằm đem lại cho thiên nhiên một vị trí trung
tâm – một vị trí mà đáng lẽ ra tiếng nói và những trải nghiệm, những cảm giác
của nó phải được nó tự lên tiếng, tự biểu hiện theo cái cách riêng mà con người
có thể hoặc không thể hiểu được.
Đứng trước mâu thuẫn này, các nhà phê bình sinh thái vận dụng quan
điểm của Gayatri Spivak về sự tương tác xuyên văn hóa (across cultural
communication) để khuyến khích ý niệm rằng con người cần phải cho phép môi
trường giao tiếp theo cách riêng của nó, bất kể chúng ta có hay không hiểu nó
127
một cách đầy đủ. Gayatri Spivak tuyên bố rằng, thay vì cho phép sự áp bức
thống trị, chúng ta phải cố nghĩ về một quan hệ với tự nhiên như là một hành
động yêu thương, một sự bao chứa, bao dung đối với cái khác chứ không phải
là sự khuất phục nó. Cái nhìn này không cho phép đặc quyền của nhóm hơn
nhóm còn lại; nó thừa nhận sự khác biệt và sự thất bại không thể tránh khỏi
trong việc hiểu thế giới tự nhiên; nó cho phép cả hai bên tìm hiểu và trao đổi ý
tưởng mà không cần chi phối hoặc là xin xỏ. Spivak cũng cảnh báo rằng, thiên
nhiên, môi trường, sinh thái – như con người phải thừa nhận - dù sao thiên
nhiên cũng không thể biểu đạt cho chính nó, do vậy, vị trí được coi là trung tâm
hay không của thiên nhiên chỉ nhằm cách tiếp cận của con người với thiên
nhiên. Thay vì cách tiếp cận áp đặt một cách đọc về tự nhiên thì chúng ta nên
tiếp cận dựa trên sự bình đẳng, công nhận bản thân mình cũng là thành viên của
cộng đồng sinh học. Và đặc biệt, Spivak nhấn mạnh vai trò của văn học và trí
tưởng tượng trong việc đem lại một cuộc cách mạng trong mối quan hệ truyền
thống của con người với thế giới phi con người – quan hệ thống trị, quan hệ nói
cho nó, nói thay nó. Và điều này cũng cải thiện mối quan hệ giữa những con
người, những cộng đồng với nền tảng văn hóa, xã hội khác nhau. Bà đã viết
trong chương đầu tiên của cuốn Cái chết của một bộ môn (Death of a discipline,
New York; Chichester: Columbia University Press, 2005) rằng “ở đây chúng ta
đứng bên ngoài, nhưng không phải như là một nhà nhân học; chúng ta đúng hơn
đang đứng với tư cách là một người đọc với trí tưởng tượng đã sẵn lòng, mặc dù
là không hoàn hảo, đối với những nỗ lực của cái khác như là một cái kết trong
bản thân nó [135]. Với các nhà phê bình sinh thái, đây là một gợi ý trong việc
phát triển ý niệm về sự cải thiện mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.
Nói cách khác, gợi ý của Spivak trong việc cải thiện mối quan hệ giữa con
người và con người (người thuộc nhóm đa số và người thuộc nhóm thiểu số,
người ở trung tâm và người ở ngoại biên, nhà nghiên cứu và đối tượng nghiên
cứu, v.v…) có thể là một gợi ý để cụ thể hóa vị trí trung tâm của thiên nhiên
[135, 3-14]. Đó là con người không tham gia vào một mối quan hệ với môi
trường và thiên nhiên của họ chỉ với những động cơ khai thác hoặc để đạt được
sự hiểu biết cho bản thân. Và mối quan hệ này đòi hỏi trí tưởng tượng – hiện
128
thân điển hình nhất của trí tưởng tượng là văn học. Để từ đó con người phải tiếp
cận tự nhiên để tìm kiếm mối quan hệ họ hàng và tiếp cận trong tư thế như một
người đọc, một người được chuẩn bị để sẵn sàng cho một thực tế là chúng ta sẽ
phải suy nghĩ trừu tượng để giải thích thế giới phi nhân loại, giống như khi
chúng ta đọc văn học. Sự khác biệt là bản thân phải sẵn sàng thay đổi trái ngược
với cố gắng thay đổi người khác (tôn trọng sự độc lập của văn bản văn học cũng
như tôn trọng sự độc lập của thế giới phi nhân loại). Như vậy, lý thuyết Spivak
đưa ra một giải pháp khả thi: trong mối quan hệ với trái đất, con người nên thừa
nhận họ cũng là một phần không thể xóa bỏ của chính hệ sinh thái và con người
phải cố gắng hiểu thật nhiều về những gì thế giới tự nhiên bộc lộ ra, mặc dù con
người có thể không bao giờ có thể hoàn toàn hiểu những gì họ được trông thấy.
Và sự biểu đạt trong văn học được coi là có khả năng đem lại sự tiếp cận của
con người với những chấn thương về sinh thái, những chấn thương mà ngay cả
bản thân con người đã trải nghiệm [135, 1-40]. Và như vậy, Thơ mới với
những biểu đạt có tính nhân hóa – hiện thân của trí tưởng tượng – đã động
chạm đến những chấn thương sinh thái và điều này tương đồng với những chấn
thương của con người và của dân tộc dưới các chính sách bóc lột của thực dân.
4.2. Biểu tƣợng sinh thái trong Thơ mới
4.2.1. Biểu tượng và biểu tượng “vườn” trong phê bình sinh thái
Đối với nhiều độc giả thơ ca, biểu tượng có thể gây ra sự gượng ép, áp đặt vì
một hình ảnh trong một bài thơ thường "tượng trưng cho" một thứ khác, ví
dụ con chim tượng trưng cho linh hồn. Người đọc thơ đôi khi có thể cảm thấy
họ thiếu đi chiếc “chìa khóa” để mở khóa “ý nghĩa bí mật” của những bài thơ
đầy biểu tượng và ký hiệu. Đúng là có những bài thơ yêu cầu người đọc phải có
chìa khóa như vậy. Nhưng có những bài thơ chứng tỏ rằng có nhiều thứ để nói
về biểu tượng hơn là việc dựa vào công thức tương ứng 1:1 giữa biểu tượng và
nghĩa. Các biểu tượng có thể đưa bài thơ mở ra với kinh nghiệm rộng mở hơn là
đóng chúng lại với cái khóa và chiếc chìa khóa riêng biệt. Và cơ chế của biểu
tượng trong thơ không phải là qua sự tương ứng mà là qua sự khơi gợi hay gợi
lên (evocation) – dựa vào các trải nghiệm của độc giả về thế giới. Nói cách
khác, điều khiến cho biểu tượng có thể hướng tới những trải nghiệm mang tính
129
phổ quát không phải ở trong bản thân hình ảnh mà là trong sự tương tác giữa
các hình ảnh và giữa hình ảnh với độc giả cùng những hoạt động không nằm
trong chính các hình ảnh. “Biểu tượng (tiếng Pháp: Symbole; tiếng Anh:
Symbol) có nghĩa gốc từ thời cổ Hi Lạp (Symbolum) đề chỉ dấu hiệu, sự vật
dùng để nhận biết (....) Biểu tượng trong tiếng Hán: “biểu” là biểu hiện, phô bày
ra một điều gì đó cho mọi người biết, “tượng” là hình tượng, hình ảnh (sự vật).
Như vậy, “biểu tượng” là hình ảnh, hình ảnh phô bày một ý tưởng, nội dung
nào đó, “dùng hình này để chỉ nghĩa nọ” [11,24]. Biểu tượng trong Thơ mới
cũng như thế, chúng mở ra chân trời chiêm nghiệm mang tính bao quát. Thơ
Mới không phải là nơi của những thông báo khoa học về sinh thái, về muôn loài
cụ thể nào; các nhà Thơ mới không cố gắng tạo dựng “ý thức về một nơi chốn”
(a sense of a place) qua việc phân loại cây cối hay qua việc nói đến các loài sinh
vật đặc biệt. Thơ mới dựa vào thế giới hình ảnh – công cụ đa nghĩa của biểu
tượng – nhưng điều đó không có nghĩa là Thơ mới không tập trung vào thời
điểm và không gian cụ thể. Ở chương này, chúng tôi tập trung vào chiêm
nghiệm về sinh thái, môi trường và tự nhiên.
Thơ mới có rất nhiều biểu tượng như biểu tượng về nỗi cô đơn, biểu tượng
cho những nỗi tiếc thương quá khứ, biểu tượng về văn hóa cổ truyền, biểu tượng
về dòng sông, biểu tượng về cánh đồng,...Nhưng theo quan sát của chúng tôi thì
“vườn” là biểu tượng thể hiện tính chất sinh thái rõ nhất của Thơ mới. Nghiên cứu
biểu tượng “vườn” chúng tôi hướng tới hai mục đích. Thứ nhất, biểu tượng “vườn”
chỉ nơi chốn và đây là nơi xoa dịu những đau thương của con người trong môi
trường đô thị. Thứ hai, biểu tượng “vườn” còn cho thấy diễn ngôn sinh thái của
Thơ mới tương ứng với giai đoạn đầu của phê bình sinh thái đã chỉ ra.
Hình ảnh của Vườn địa đàng huyền thoại từ lâu có một vị trí quan trọng và
bền vững trong hình ảnh văn hóa phương Tây. Trong văn học và nghệ thuật,
cũng như trong kiến trúc và quy hoạch đô thị, khu vườn được xem như là bến
cảng mang tính biểu tượng ẩn dụ, và vật lý của nơi chốn xưa cũ, nó nhắc nhở
con người về hành vi vượt ngưỡng đầu tiên của nhân loại nó duy trì những giấc
mơ không tưởng của con người về sự cứu chuộc và phục hồi. Nói cách khác, có
thể cho rằng một trong những hình ảnh môi trường hấp dẫn nhất là khu vườn;
130
khu vườn có một sự hiện diện thơ mộng, thẩm mỹ và mang tính thần thoại trên
nhiều nền văn hóa và ở mọi thời đại. Đồng thời, các khu vườn luôn là thực tế,
không gian vật chất phục vụ nhiều mục đích xã hội, kinh tế và khoa học. Cho
dù là hình ảnh thơ mộng hay không gian thực, các khu vườn luôn đại diện cho
các thực hành môi trường đa dạng về mặt lịch sử và văn hóa. Chúng nổi lên từ
những tương tác thực sự và tưởng tượng giữa các tác nhân của con người và
không phải con người.
Từ nguyên, “vườn” có nguồn gốc từ tiếng Đức cổ, “garte” có nghĩa là
được bao bọc hoặc bảo vệ bởi hàng rào hoặc biên giới. Các khái niệm hiện đại
hơn nhấn mạnh tính cách toàn diện của khu vườn. Trong cuốn Những sự hoàn
thiện hơn: Thực hành lý thuyết vườn Greater Perfections: The Practice of
Garden Theory, Thames & Hudson, 2000 John Dixon Hunt quan sát rằng "một
khía cạnh trong tham vọng làm đại diện của vườn là nó hình dung toàn bộ thế
giới trong không gian giới hạn của riêng mình". Ông gọi đó là "nhà tù của
những vườn thực vật đầu tiên"[116, 198], một ý tưởng đã duy trì các thiết kế
vườn khác trong suốt lịch sử. Nhưng điều đó cũng cho thấy tính chất biểu tượng
của khu vườn: phạm vi vườn phụ thuộc vào sự tồn tại của nó với sự tập hợp của
các vật liệu hữu cơ trong một khung thời gian và không gian cụ thể, nó ngụ ý
các điều kiện sinh thái, không gian và lịch sử sự tồn tại của con người trên
hành tinh này. Vì tầm quan trọng đó mà vườn trở thành đề tài của hội thảo lần
thứ 8 của Hiệp hội Nghiên cứu Văn học, Văn hóa và Môi trường Châu Âu.
Trong hội thảo với chủ đề Vườn: Mô hình sinh thái của không gian, lịch sử và
cộng đồng tổ chức tại Đại học Würzburg, Đức ngày 26 -29 tháng 9 năm 2018,
vườn đã được khám phá trên nhiều khía cạnh như: Việc cho rằng sự tồn tại của
con người hiện đại là về mặt sinh thái vườn thay nền kinh tế thị trường có nghĩa
là gì? Việc thay thế hệ thực vật với vườn công cộng trong đó con người đàm
phán cách họ muốn sống trong xã hội với những người khác hay với những sinh
vật khác có nghĩa là gì? Tại thời điểm này trong lịch sử, con người có thể
chuyển trọng tâm về lợi ích kinh tế và hoạt động kinh tế hiện đại từ việc khai
thác (loại bỏ các chất hữu cơ và không hữu cơ khỏi môi trường của chúng), sản
xuất (bán) và tiêu thụ (trong số những thứ được sản xuất từ các chất chiết suất)
131
đến việc thiết kế (không gian hỗ trợ cuộc sống), sản xuất (những thứ và chất
cần thiết để duy trì sự sống) và bảo trì (cơ sở vật chất và văn hóa của cuộc sống)
được không? Nếu các chu kỳ tăng trưởng (theo mùa) xác định cuộc sống trong
vườn, thì liệu sự tái chế những thứ đã được chiết xuất và được biến đổi thành
những thứ chúng ta sống sẽ xác định tương lai của sự tồn tại trên trái đất này
không? Khu vườn, một không gian lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa và là không
gian thực vật, đem đến cho con người những mô hình mới để nghĩ và sống trong
một thế giới sinh thái thách thức? Hội thảo này tập hợp các bài viết xem xét các
loại vườn và xã hội, chính trị, đạo đức, nhân chủng học, nông nghiệp, vv của họ sử
dụng (vườn hoa, vườn rau, vườn thực vật, vườn động vật, vườn đô thị, vườn bia,
mẫu giáo, cybergarden, vv). Có những bài viết phân tích quan hệ khái niệm, thẩm
mỹ, lịch sử và vật chất giữa vườn và cảnh quan, vườn quốc gia. Những bài viết
khác xem xét những tiềm năng huyền thoại và không tưởng / du dương của khu
vườn hoặc xem khu vườn như không gian xã hội / đa diện và câu hỏi về ranh giới.
Nhiều bài viết tập trung khám phá sinh thái tình cảm của khu vườn, vườn văn hóa,
vườn khoa học và giáo dục (vườn bách thú và thực vật), vườn văn học, nghệ thuật,
phim ảnh và văn hóa thị giác (các chức năng thơ ca, tự truyện, điện ảnh và biểu
tượng của họ), mối quan hệ vườn, tình dục, và kiến thức; hoặc xem khu vườn như
tài nguyên ngôn ngữ, văn hóa và giáo dục. Có những bài viết tập trung vào các ẩn
dụ chính trị và hùng biện về vườn, hay vườn trong mối quan hệ với phê bình sinh
thái, khoa học nhân văn môi trường
4.2.2. Biểu tượng “vườn” trong Thơ mới
4.2.2.1. Vườn - tưởng nhớ cảnh sắc bản địa
Hình ảnh vườn ngập tràn trong Thơ mới. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Điệp trong bài viết “Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa” (2014) khám
phá hình ảnh vườn để cho thấy Thơ mới thể hiện một ý thức về nơi chốn. Theo
đó, vườn trong Thơ mới, như tác giả nhấn mạnh, mang tính địa lí, khu vực.
Đồng thời, tác giả cũng cho rằng, hình ảnh vườn mang ý niệm về chốn cư ngụ,
nơi thuần dưỡng và tái sinh, là nơi con người được làm vợi bớt “nỗi chơ vơ
trong những ngày dan díu với kinh thành” [17, 40].
132
Đúng là, không thể phủ nhận, từ góc nhìn sinh thái, vườn trong Thơ mới thể
hiện ý thức về một nơi chốn – và đây là sự tương ứng với lí thuyết về sinh thái ở
làn sóng đầu tiên. Thơ mới xuất hiện trong bối cảnh văn hóa Việt Nam ở đầu thế
kỷ XX. Quá trình đô thị hóa và khai thác tự nhiên, môi trường đã có dấu hiệu
manh nha dẫu là chưa mạnh mẽ như những giai đoạn về sau. Về mặt loại hình Thơ
mới, cơ bản nằm trong loại hình văn học lãng mạn, sau đó thêm yếu tố tượng trưng
và siêu thực. Khi xem xét điều này cũng là để chúng ta đặt mối quan tâm của Thơ
mới dưới cái nhìn sinh thái tương ứng văn học lãng mạn tức là giai đoạn đầu của
phê bình sinh thái. Theo các nhà phê bình sinh thái thì “Phê bình sinh thái giai
đoạn đầu gắn giá trị đặc biệt với mỹ học và quy tắc về sự gắn kết nơi chốn ở quy
mô địa phương hay vùng.”[68, 499 ] . Từ góc nhìn phê bình sinh thái, vườn trong
Thơ mới được xem như là một biểu tượng của “nơi chốn”. Khái niệm “nơi chốn”
được các nhà nghiên cứu văn chương – môi trường đặc biệt quan tâm. Họ cũng
cho rằng “những nghiên cứu văn chương – môi trường thời kỳ đầu trên thực tế
thường có thiên hướng tập trung vào môi trường ngoại ô” [68, 500].
Ở Việt Nam có hai giai đoạn đô thị hóa rõ nét: Giai đoạn đầu tiên diễn ra
đầu thế kỷ khi người Pháp tiến hành khai thác thuộc địa và thiết lập mạng lưới
đô thị lấy cái hình mẫu đô thị của phương Tây mà cụ thể là lấy Pháp làm chuẩn.
Cuối thế kỷ đặc biệt từ năm 1986 trở lại đây thì đô thị hóa diễn ra mạnh hơn,
sâu hơn và mở hơn. Cùng với giai đoạn này, đặt trong bối cảnh ngữ cảnh toàn
cầu thì mức độ tàn phá môi trường đã diễn ra rõ nét. Thơ mới ra đời vào đầu thế
kỷ XX, xã hội bấy giờ tiến đến đô thị hóa và hiện đại hóa, chịu ảnh hưởng tư
tưởng con người là trung tâm. Xin được điểm lại lời một bài báo viết về quá
trình đô thị hóa của Hà Nội: Từ năm 1888 trở đi, “Khu phố Tây” bắt đầu thành
hình sau khi chính quyền cho lấp nhiều hồ ao và giải tỏa xóm làng nằm rải rác
từ Tràng Thi – Tràng Tiền đến vùng quanh hồThiền Quang, trải dài qua khu
nhượng địa cũ. Trên đất vừa san bằng, xuất hiện các đại lộ thênh thang giữa hai
hàng cây xanh mới trồng trên vỉa hè để che bóng mát”. Như vậy, dấu ấn của sự
khai thác tự nhiên để phục vụ công cuộc đô thị hóa giai đoạn đầu tập trung chủ
yếu ở đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn… Điều này đặt ra vấn đề liên quan đến
hiện đại hóa và đô thị hóa. Mà bản chất của văn học lãng mạn là khước từ đô thị
133
để quay trở lại thời vàng son trước đây. Nằm trong quy luật chung ấy, các tác
giả Thơ mới cũng hướng tới chủ đề thiên nhiên, chủ đề đồng quê và quá khứ.
Khi tìm về thiên nhiên, về chốn đồng quê thì không gian vườn được xem như là
nơi trở về cho các thi sĩ. Trong một bản dịch Đỗ Văn Hiểu đã viết “Chủ nghĩa
sinh thái không phải xuất hiện từ con số không. Tư tưởng của nó có quan hệ
mật thiết với phong trào chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ 18. Năm 1858 cuốn sách
“Walden” của nhà văn Thoreau người Mĩ đã thể hiện quan niệm của mình về sự
hài hòa giữa con người và tự nhiên. Ông từ góc độ cân bằng sinh thái phản đối
thành thị ồn ào, tán dương thế giới tự nhiên của rừng suối”[26].
Như vậy, xem xét biểu tượng vườn trong Thơ mới có thể coi như sự trở về
với thiên nhiên, tránh xa thành thị phồn hoa và cũng từ đây vườn trở thành một
biểu tượng cho vẻ đẹp vùng miền. Nguyễn Đăng Điệp từng khẳng định “Vườn
trong Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn học văn hóa, dĩ nhiên, trước hết là
một khái niệm mang tính địa lý. Thậm chí, tính khu vực, vùng miền hắt xuống
khá rõ trong từng bức tranh phong cảnh thiên nhiên [17, 39].
Không gian vườn của một vùng quê Bắc Bộ hiện lên chân thực trong các
sáng tác của các nhà Thơ mới. Dường như thi sĩ nào cũng có một mảnh vườn
ám ảnh trong thơ của mình. Đậm nét nhất, bản sắc nhất về mảnh vườn xứ Bắc
phải kể đến những áng thơ của Nguyễn Bính.
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván có ao cấy cần.
(Nhà tôi – Nguyễn Bính)
Mảnh vườn quê mà nhà thơ lưu giữ cũng là hình ảnh quen thuộc trong kí ức
mỗi người về những mảnh vườn xứ Bắc Bộ nơi mà người dân đồng bằng sông
Hồng xưa kia hay trồng dâu nuôi tằm. Vườn dâu còn đó cũng như một chứng tích
cho làng quê thanh bình còn đây. Một làng quê yên ả, một nơi không bị in dấu bởi
văn minh đô thị đã được Nguyễn Bính thổi vào những không gian vườn.
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng
( Xuân về -Nguyễn Bính)
134
Bất chấp sự ồn ã của chốn kinh kỳ nơi văn minh kỹ trị đang xâm nhập vào
đời sống thì mảnh vườn quê trong trang thơ của Nguyễn Bính vẫn thật thanh
bình, nên thơ. Mảnh vườn ấy đã ướp tâm hồn thi sĩ bằng hương hoa bưởi,
hương hoa cam, những mùi hương thanh khiết, mộc mạc chân quê mà bất kỳ
khu vườn xứ Bắc nào mỗi dịp xuân về đều ngập tràn thứ hương hoa quen thuộc
đó. Vì thế mà thi nhân say đắm, vương vấn mãi mảnh vườn chốn quê nhà.
Góp thêm một nét vẽ vào bức tranh làng quê vùng đồng bằng sông Hồng
qua không gian vườn, nữ sĩ Anh Thơ đã đưa chúng ta đến một vùng quê đậm
đặc bản sắc vùng miền. Sẽ không khó nhận ra đây là mảnh vườn mỗi dịp hè về
trong các gia đình xứ Bắc.
Nắng đã nực, cây vườn im thở gió
Ngõ đầy ruồi, vắng bóng bướm ong qua
(Vào hè – Anh Thơ)
Qua những ngày hạn hán, khu vườn quê lại bừng nở trong tiết xuân về.
Trong vườn đào đã nhiều bông nở đỏ
Và đã nhiều nêu dựng khánh khua thi
(Chiều ba mươi tết – Anh Thơ)
Vườn trong sáng tác của Anh Thơ không chỉ là không gian địa lý mà hơn thế
còn là nơi níu giữ những bản sắc văn hóa, hồn cốt của một chốn làng quê Bắc Bộ .
Cùng chung cảm hứng về bức tranh làng quê xứ Bắc qua không gian
vườn. Đoàn Văn Cừ cũng đem đến cho bạn đọc những cảm xúc thân quen.
Nhà tre, mái rạ, vách bùn rơm
Cửa chắn con song mở gió vườn
Chum nước mưa vần bên cạnh chái
Dưới dàn thiên lý tỏa hương thơm
(Nhà tranh – Đoàn Văn Cừ)
Vốn là một đất nước có truyền thống nông nghiệp nên dấu ấn của nền văn
minh nông nghiệp lúa nước phủ đầy trong những mảnh vườn quê. Nào “nhà
tre”, “mái rạ”, “vách bùn rơm”, “chum nước”, “dàn thiên lý”. Đâu phải cái gì
cao sang, đi vào thơ Đoàn Văn Cừ là những hình ảnh thật gần gũi, quen thuộc.
Vẫn biết rằng, bản chất của văn học lãng mạn là hoài niệm, gợi nhớ. Hình ảnh
những mảnh vườn quê này phải chăng như một sự tôn vinh những gì rất có thể
135
không bao giờ trở lại? Điều này tương ứng với định nghĩa về vườn của hai nhà
phê bình sinh thái Annette Giesecke và Naomi Jacobs: "khu vườn là một con
người tạo ra bởi mong muốn tìm một nơi lý tưởng trong tự nhiên - một thứ
thiên nhiên thứ hai tốt bụng hơn trái ngược với thứ thiên nhiên có thể là không
thể đoán trước và khắc nghiệt" [109].
Sẽ là thiếu sót nếu như trong bức tranh về làng quê đồng bằng Bắc Bộ
thiếu đi nét vẽ khu vườn vào thu của Xuân Diệu.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)
Bước chân của thời gian đã lưu dấu vết nơi khu vườn vào thu, lưu dấu trên
sắc lá, cành hoa. Mảnh vườn trong thơ Xuân Diệu nói riêng và thiên nhiên trong
Thơ mới nói chung đã trở thành một đối tượng thẩm mĩ, để nhà thơ soi ngắm,
phân tích, hưởng thụ vẻ đẹp của nó khác với thiên nhiên trong văn học trung đại
chưa trở thành khách thể thẩm mĩ. Cũng vì thế mà cảnh sắc trong mảnh vườn
thu ở thơ Xuân Diệu bỗng chốc trở nên sinh động, linh diệu vô cùng. “Phê bình
sinh thái yêu cầu nghệ thuật không được xa rời cội nguồn tự nhiên. Văn học
nghệ thuật phải xây dựng lại mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên thì
mới có cái đẹp”[46].Cái đẹp từ khu vườn vào thu trong thơ Xuân Diệu hay
chăng chính là cái đẹp như thế?
Qua biểu tượng vườn trong Thơ mới, chúng ta không chỉ được đắm mình
trong không gian làng cảnh Bắc Bộ yên bình, nên thơ gắn với những thói quen
sinh hoạt dân dã, giản dị của người dân nơi đây mà chúng ta còn đến với những
khu vườn Thanh (Thanh Hóa) qua những trang thơ của T.T.KH.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành
(Bài thơ thứ nhất – T.T.KH)
136
Những câu thơ như lời trải lòng của thi sĩ. Dường như tất cả những gì của
thiên nhiên thuộc về khu vườn xứ Thanh (gió rụng, trăng rơi, chim xa, nắng lướt)
đều khiến tâm hồn tác giả vấn vương. Liên tiếp các điệp từ “yêu” như muốn nhấn
mạnh, khắc sâu cảm xúc sâu nặng của thi sĩ về nơi chốn thiêng liêng này. Bước
qua Thanh Hóa, trở vào miền Trung nơi có xứ Huế mộng mơ, chúng ta sẽ ám ảnh
mãi những khu vườn thôn Vĩ Dạ xanh mướt trong thơ Hàn Mặc Tử.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Một cảm giác tươi mát, thanh lọc khi bước vào không gian vườn thôn Vĩ
xứ Huế. Bên dòng Hương Giang êm đềm là những miệt vườn xanh mướt, anh
lành. Thích thú biết bao khi tâm hồn con người được gột rửa, tắm mát trong
không khí thanh sạch như vậy.
Khảo sát biểu tượng vườn trong Thơ mới dưới góc nhìn phê bình sinh
thái là một hành trình trở về với thiên nhiên. Qua những trang thơ của các thi sĩ
vẻ đẹp bản sắc vùng miền hiện lên chân thực, gần gũi, thân thuộc nhưng cũng
không kém phần nên thơ, tươi mát. Có thể thấy hình tượng thiên nhiên trong
Thơ mới nói chung và biểu tượng vườn nói riêng vẫn mang sắc thái địa phương
và màu sắc dân tộc cũng như dấu ấn lịch sử. Những cảnh sắc hiện lên là những
gì gần gũi, đáng yêu, sinh động, tươi nguyên của quê hương đất Việt mà không
hề ước lệ, ẩn dụ. Chúng ta vẫn thừa nhận rằng Thơ mới được xem như thuộc
loại hình văn học lãng mạn. Và phê bình sinh thái thời kỳ đầu tập trung chủ yếu
vào các sáng tác lãng mạn và chủ đề “nơi chốn”. Theo Nguyễn Thị Tịnh Thy
““Nơi chốn” – nhỏ là ngôi nhà, lớn là trái đất, vũ trụ, nhưng cụ thể là bất cứ
không gian nào cũng có thể là nơi trở về ý nghĩa tinh thần và tâm lý của nhân
loại. Xây dựng ý thức về nơi chốn, văn học sinh thái giúp con người quan tâm
và gần gũi với nơi mình sinh sống, xem đó là nơi trú ngụ của tâm hồn để từ đó
hình thành ý thức trách nhiệm” [76]. Như vậy, cũng có thể xem vườn là nơi
chốn theo nghĩa nhỏ, là nơi để các thi sĩ Thơ mới không chỉ nâng niu bản sắc
137
làng cảnh, quê hương mà còn để yêu hơn, trân trọng hơn nơi mình sinh ra, nuôi
lớn và lưu giữ bao kỷ niệm tâm hồn. Đằng sau những khu vườn yên bình, đằng
sau những bức tranh phong cảnh tươi xanh phải chăng khi chúng ta nhìn thiên
nhiên trong Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái là khi ta đang muốn đối
thoại với hiện thực, đối thoại với nền văn minh của đô thị hóa, của nền công
nghiệp đang xâm lấn ngày càng rộng vào đời sống mỗi con người. Nền đại công
nghiệp đi liền với sự hủy diệt môi trường, với khói bụi và ô nhiễm. Con người
mệt mỏi trong vòng quay cơm áo, gạo tiền. Khi ấy con người muốn tìm về thiên
nhiên, về những vùng đất yên bình, xanh mát. Đi cùng với phá hủy, để tự cứu
mình chính con người lại xây dựng ra những ổ sinh thái nhân tạo. Và những
khu vườn sinh thái, những hồ nước nhân tạo, những công viên rợp bóng
cây…mọc lên như để bù lấp đi sự thiếu hụt nguồn sinh thái thiên nhiên mà con
người hủy diệt. Lúc này đây, chúng ta dần nhận ra những vườn dâu, vườn đào,
vườn trúc, hương hoa bưởi, hoa cam, dàn thiên lý, khóm chuối, trái ổi, vại
nước… trong Thơ mới thật ý nghĩa. Đặng Thái Hà có lần chia sẻ “Không thể
phủ nhận, ngay chính những điểm nhìn về thực trạng thôn quê Việt Nam ngày
nay nhiều khi cũng không thoát khỏi áp lực chi phối sâu sắc của ý hệ lãng mạn.
Chẳng hạn, trong một văn bản phi-văn học về định hướng phát triển bền vững,
Gs. Tương Lai đã vẽ ra viễn cảnh một vùng thôn quê được quy phạm hóa bởi
bộ khung lãng mạn truyền thống: “Con người Việt Nam của thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức có thể tìm cho mình một khung
cảnh sống thư giãn để lấy lại sức khỏe và cảm hứng sáng tạo sau những thời kì
lao động căng thẳng và mệt nhọc. Đó chính là nơi làng quê thanh bình, đã làm
sống lại “những con sông quê hương” trìu mến với nước gương trong soi tóc
những hàng tre, tâm hồn tôi là một buổi trưa hè, tỏa nắng xuống lòng sông lấp
loáng...” [21]. Những hình ảnh đó lưu giữ hồn cốt làng quê, bồi đắp tâm hồn
mỗi người con đất Việt để thêm yêu, thêm trân trọng “nơi chốn” bình yên. Bởi
“Cuộc sống sẽ thi vị hơn nếu ta biết ngắm nhìn, biết lắng nghe thế giới quanh
ta. Đôi khi, điều giản dị vốn hiện hữu hằng thường lại trở thành như một phát
hiện, khám phá mới lạ (…). Và rồi, ta sẽ thấy mình đang khám phá chính mình,
nhận ra tâm hồn thanh thản, tâm cảm hướng thiện khi biết tôn trọng những sinh
138
mệnh khác ta, ngoài ta” [76, 352].Và một lần nữa xin bày tỏ sự đồng ý với quan
điểm của tác giả Nguyễn Đăng Điệp ““Sự trở về với chủ nghĩa lãng mạn” và
bài ca về vẻ đẹp thiên nhiên trong Thơ mới có thể coi là “sự tưởng nhớ trái đất”
của con người trong thời đại những cỗ xe lửa đang phì hơi khói phủ đầy làng
quê” [17, 40].
4.2.2.2. Vườn – nơi cứu rỗi tâm hồn
Khi đề xuất hướng tiếp cận Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái tác giả
Trần Thị Ánh Nguyệt có đưa ra gợi ý: “Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 -
1945 cần được tìm hiểu sâu hơn dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Bởi vì, văn
học lãng mạn gắn liền với quá trình đô thị, khi văn minh xâm lấn, nhiều nhà thơ
đã quay lưng bằng cách trốn vào thiên nhiên. Đây cũng là vùng văn học mà các
học giả sinh thái thế giới rất lưu tâm”[47, 29]. Thơ mới ra đời khi trong bối
cảnh thực dân Pháp xâm lược. Chúng đã thực hiện công cuộc khai thác thuộc
địa, chúng tàn phá tự nhiên, vơ vét tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt chúng đã
mang đến một nền văn minh công nghiệp với dấu ấn của đô thị hóa đang hình
thành và phát triển “Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây.
Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp…còn gì nữa! Nói làm sao
cho xiết những điều đã thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng
ta”[63, 12]. Đứng trước sự thay đổi đến chóng mặt đó, một thế hệ các nhà Thơ
mới xuất hiện đã có cùng chung cảm giác “Phần lớn các nghệ sỹ lãng mạn coi
sự phát triển của nền kỹ nghệ mới là một cách tấn công xấu xa, tàn nhẫn vào
thiên nhiên đáng yêu và vào bản chất của con người. Vì vậy họ phải đi tìm các
lối thoát, tại miền hồ thanh khiết (…), trong khu rừng hoang sơ (...). Họ tránh
xa các nơi kỹ nghệ hóa mới. Các nhà máy thép, các xưởng dệt vải..bị coi là
những nơi có lửa cháy của địa ngục, mặt trăng trong khung cảnh thuộc khu kỹ
nghệ mang màu máu, các ngôi sao rơi xuống đất tại nơi này”[78]. Như một
cách để giải thoát chính mình các nhà Thơ mới có xu hướng thoát ly thực tại,
hoài nhớ quá khứ. Và vườn là nơi để các thi nhân trải lòng. Vườn – một không
gian sinh thái thân thương, một ý niệm trong lòng mọi người về một nơi chốn
thanh sạch, thân thuộc, an lành. Đó có thể là nơi gắn với nguồn cội sinh ra và
lớn lên nhưng cũng có thể là nơi để trở về, xoa dịu tâm hồn sau bao năm tháng
139
tha hương. Khi ấy, trước hết, vườn hiện lên trong các trang thơ là hình ảnh
mảnh vườn xưa – kỷ niệm.Mộng Huyền đã từng thổn thức trở lại vườn xưa
Hôm nay trở lại vườn xưa
Nén tim rộn rã ngăn ngừa nhớ thương.
(Vườn hoang - Mộng Huyền)
Tưởng như gặp lại mảnh “vườn xưa” nữ sĩ đã vỡ òa trong cảm xúc nhớ
thương, dồn nén không nguôi. Nỗi nhớ quê hương nguồn cội bao giờ cũng được
bao bọc bởi thiên nhiên, thiên nhiên như một niềm an ủi. Hẳn là với nhà thơ
vườn là cõi đi về sau bao ngày xa cách? vườn là nơi lưu giữ bao kỷ niệm thân
yêu? vườn là chốn bình yên trú ngụ khi tâm hồn mệt mỏi? Vì lẽ đó mà các nhà
Thơ mới luôn có xu hướng ra đi để trở về. Lí giải cho nỗi nhớ của các thi sĩ
lãng mạn trong một bài nghiên cứu Đặng Thị Thái Hà có viết “Trong hình dung
của tư duy lãng mạn, mọi đối lập đều được đẩy lên thành tuyệt đối. Điều ấy
được biểu hiện cụ thể trong sự phân biệt về không gian giữa thành thị (cuồng
loạn, đồi bại, vô cảm) với thôn quê (phì nhiêu, thanh bình); và về thời gian giữa
quá khứ (thơ mộng) và hiện tại (sa ngã). Có lẽ, chính vì thế, các tác phẩm văn
học đồng quê truyền thống thường gắn với cảm thức “hoài nhớ”, hồi cố
(nostalgia). Hình tượng người tha hương lữ thứ, theo đó, thường mang tâm thế
của một kẻ bị “trục xuất” khỏi một “Thiên đường đã mất” và không nguôi hoài
nhớ về nó” [21]. Và đây có thể xem như là căn nguyên của sự “trở về” trong
thơ Nguyễn Bính. Đi qua những tháng năm ồn ã của văn minh đô thị. Hình
bóng quê nhà nơi mảnh vườn xưa vẫn day dứt trong tâm hồn thi sĩ.
Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh,
Tôi đi dan díu với kinh thành
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới,
Chuốc mãi men cay rượu ái tình
(Hoa với rượu – Nguyễn Bính)
Cuộc sống đô thị phồn hoa nhưng xô bồ, lạnh lùng và đầy bất trắc. Thi sĩ
đã thử mình mà không thể hòa nhập được với chốn kinh thành. Bỏ lại “vườn
cam” hay là bỏ lại những gì thân thương, bỏ lại hồn quê, tình quê đã ăn sâu
trong tiềm thức thi nhân để hôm nay ra đi “dan díu với kinh thành”. Hai chữ
140
“dan díu” nghe như tội lỗi, như vụng trộm, như là ân hận…Phải chăng, sau câu
chữ là nỗi xót xa, tiếc nhớ về một chốn thôn quê yên bình mà tác giả vẫn
thường mộng nhớ như “vườn tiên giới”. Mảnh vườn xưa trong ký ức của
Nguyễn Bính đã trở thành khu vườn cổ tích, khu vườn tiên cảnh.Trong nỗi hoài
niệm của thi sĩ cũng tiếc thương cho một khu vườn thời quá vãng không còn
tìm lại được giữa thời buổi văn minh kỹ trị. Nó chỉ còn tồn tại trong tâm tưởng
cho nên với tác giả, đó vẫn là những nơi chốn đẹp đẽ nhất, do vậy mà không
gian vườn xưa trở nên lung linh hư ảo. Trạng thái bồng bềnh khiến thi sĩ có lúc
chơi vơi tự vấn.
…Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên – Nguyễn Bính)
Câu thơ tưởng như “vô lý” mà ám ảnh vô cùng. Mảnh vườn của Nguyễn
Bính là cảnh trong cõi nhớ. Nhà thơ bâng khuâng, lưu luyến cho một vẻ đẹp sắp
mất. Để rồi hoài nhớ quê hương trên chính quê hương. Đó là một trạng thái
khước từ đô thị hóa, khước từ khói bụi kinh kỳ của tác giả. Nguyễn Bính được
xem như là người có nhận thức sâu sắc nhất về sự đổi thay của làng quê trước
sự xâm lấn của đô thị. Ông luôn đau đáu một nỗi niềm tiếc nhớ và mong muốn
níu giữ lại hồn cốt của làng quê xưa. Và cũng vì thế mảnh vườn xưa kỷ niệm có
thể xem như một chốn đi về, một nơi lánh mình của thi nhân khỏi sự bủa vây
của “cát bụi kinh thành”. Bởi lẽ “Tự muôn đời, thiên nhiên luôn là nguồn an ủi.
Mỗi khi thấy lòng đau, lại tìm về tự nhiên như một bến bờ tĩnh lặng để nguôi
quên. Thiên nhiên là người bạn lớn vĩnh hằng của con người mà ở đó, những
muộn phiền, day dứt, đau đớn vơi đi. Thấu được nỗi chán chường cuộc sống ồn
ào quanh mình, chỉ có tự nhiên vĩnh cửu không lời là vĩnh viễn”[46].
Quay lưng với thực tại, khước từ xã hội thành thị xô bồ bát nháo các nhà
Thơ mới tìm con đường thoát ly. Tìm đến thiên nhiên, trở về vườn xưa – kỷ
niệm để gội mát tâm hồn. Không chỉ vậy, vườn với các thi sĩ còn là chốn để yêu
thương, là khu vườn tình ái. Cả một thế giới rộn ràng, tình tứ hiện lên trong
vườn thơ Xuân Diệu.
Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ
141
Phải nói yêu, trăm bận đến ngàn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem ong bướm thả trong vườn tình ái
(Phải nói – Xuân Diệu)
Với Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn cho nên thơ ông đã thể hiện trọn
vẹn một tâm hồn lãng mạn mới, muốn sống hết mình với những khát khao vô
hạn trong cái hữu hạn của kiếp người. Xuân Diệu nhận ra rằng hạnh phúc của
cuộc đời kết đọng đầy đủ nhất nơi tuổi trẻ và tình yêu. Bởi thế, ông khát khao
tận hưởng và thiết tha kêu gọi mọi người mau mau tận hưởng cái hạnh phúc
ngắn ngủi, hiếm hoi ấy. Không gian vườn qua con mắt của kẻ si tình vì thế mà
trở thành “vườn tình ái”, vườn yêu.
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Nguyên đán – Xuân Diệu)
Khi con người ta yêu nhau tâm hồn cũng nở hoa, lúc ấy cõi lòng là một
khu vườn rộn hương sắc, vườn của niềm hoan ca và với Xuân Diệu đó là khu
“vườn thơm ngát”. Còn với Hàn Mặc Tử thì đó còn là “vườn chói lọi”.
Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp
Tiết trinh còn em phúc hậu hơn thơ
(Dấu tích – Hàn Mặc Tử)
Với thi nhân lãng mạn khu vườn tình ái không chỉ ngập tràn hương thơm mà
còn phải rực rỡ ánh sáng. Ở đó, các nhà thơ vẫy vùng trong niềm yêu, nỗi nhớ.
Nhưng phải chăng đây chỉ là những khu vườn trong mộng tưởng. Bởi lẽ, Xuân
Diệu từng chia sẻ “Yêu là chết ở trong lòng một ít/Vì mấy khi yêu đã được yêu”.
Còn thi sĩ họ Hàn đau đớn “Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng/Hóa thành vũng
máu đào trong ác lặn”. Khi dịch tác phẩm “Chủ nghĩa môi trường và phê bình
sinh thái” của Richard Keridge, Phạm Phương Chi có viết “Vườn địa đàng là một
mô típ xuất hiện nhiều trong văn hóa phương Tây”[57, 129]. Như vậy, có thể xem
như trốn vào tình yêu, đến với khu vườn tình ái như một cách lánh đời của thi nhân
lãng mạn, hay cũng là sự tưởng nhớ một nơi chốn dường như đã mất. Cũng có lúc
với Thế Lữ vườn yêu đã thành vườn Bồng Lai huyền ảo.
142
Bồng Lai muôn thủa vườn xuân thắm
Sán lạn, u huyền, trong khói hương…
(Mưa hoa – Thế Lữ)
Khu vườn trong thơ Thế Lữ là một thế giới mộng ảo, lung linh vừa hư vừa
thực. Trong lòng thi nhân cảnh quê hương đã thành cõi tiên giới.
Hôm qua đi hái mấy vần thơ
Ở mãi vườn tiên gần Lạc Hồ
(Vẻ đẹp thoáng qua – Thế Lữ)
Thế Lữ sống với cảnh tiên trong tưởng tượng. Gửi tâm trí vào cõi mộng
người nghệ sĩ ấy phiêu lưu trong thế giới bồng lai như ru mình để tìm cách trốn
đời, quay lưng với cõi trần bi ai.
Khác với chốn tiên giới mộng tưởng, vườn trong thơ Hàn Mặc Tử lại gắn
với niềm tin tôn giáo và ám ảnh hơn cả trong khu vườn đó là “máu và trăng”.
“Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình.
Người thơ là bến lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo” (tựa Đau thương).
Vườn với thi nhân không còn là khu vườn quê yên bình, cũng không phải
là vườn xưa kỷ niệm để đi về và chẳng hẳn là chốn tiên giới bồng lai. Với tác
giả vườn là chốn trú ngụ của đau thương cả cô đơn về tinh thần và sự vật vã về
thể xác. Trong ý niệm của tác giả khu vườn đau thương là vườn trăng, trăng
ngập tràn, lênh láng hòa cùng sắc đỏ của máu.
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.
(Say trăng – Hàn Mặc Tử)
Góp thêm một tiếng thơ đau thương, điên loạn Chế Lan Viên cũng đưa
chúng ta đến với “vườn trăng”.
Cả một vườn trăng sáng cả muôn hương
Cho sọ ta no nê bao ý mộng
(Đầu mênh mang – Chế Lan Viên)
Khi thi sĩ lãng mạn nếm trải tận cùng nỗi đau thương và sự chán chường.,
khi người nghệ sĩ phải cay đắng thốt lên; “Trời hỡi trời!Hôm nay ta chán
hết/Những sắc màu hình ảnh của trần gian” thì có lẽ “vườn xưa”, “vườn tiên”,
143
“vườn trăng” vẫn là nơi trú ngụ và cứu vớt linh hồn cho thi nhân. Vườn như
một người mẹ trải lòng đón những đứa con tha hương trở về để xoa dịu nỗi đau.
Có lẽ chỉ khi hòa mình vào tự nhiên con người mới có cảm giác bình yên, thanh
thản, tâm hồn được giải tỏa bởi những bủa vây của đời sống xô bồ, phồn tạp, đó
là nơi ẩn náu an toàn, nơi mà cái hiện đại không thể xuyên thấu tới. Ở đây, con
người không hề thống trị thiên nhiên mà tìm về thiên nhiên như một nơi để trú
ngụ, thanh lọc tâm hồn. Sự trở về với tự nhiên, hoài nhớ một làng quê, một
nông thôn trong quá khứ không phải chỉ bắt gặp ở tâm trạng các thi sĩ Thơ mới
mà ngay trong văn học sau năm 1975, khi mà sự tàn phá môi trường, tàn phá
nông thôn càng diễn ra nghiêm trọng thì sự hoài nhớ càng trở nên da diết và
đau đáu. Song có một sự thực nếu như mảnh vườn hay thiên nhiên làng quê
trong Thơ mới vẫn là bến đợi trở về, vỗ về tâm hồn thi nhân thì trong các sáng
tác sau năm 1975, có một không gian thôn dã “phi truyền thống”, “phản lãng
mạn” về vùng nông thôn và cuộc sống thôn quê. Vốn trong ý thức mỗi người
không gian thôn dã thường gắn với ý niệm về một vùng quê yên ả, thanh bình.
Nhưng sự thực không còn như vậy. Ví như trong truyện Nguyễn Huy Thiệp đó
là không gian in dấu sự cày xới, khô cằn, tàn phá…vì thế văn bản truyện
Nguyễn Huy Thiệp luôn văng vẳng tiếng nói hoài nhớ về một làng quê yên bình
đã mất, không thể tìm lại và không thể quay về được. Cho nên, sống hài hòa
với tự nhiên, gắn bó với nguồn cội phải chăng đó cũng là tinh thần mà phê bình
sinh thái hướng tới. Bởi “Thiếu vắng thiên nhiên, tâm hồn con người trở nên xơ
cứng, lạnh lùng vậy nên cần phải trở về với tự nhiên.” [47]
4.2.2.3. Vườn – bám rễ vào trần gian
“Phê bình sinh thái cũng chú ý đến cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của tự nhiên,
ngợi ca quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Tìm ra những biểu hiện này
trong văn học cũng chính là tìm mẫu lí tưởng cho thái độ ứng xử với tự nhiên [26].
Triết học sinh thái theo nghĩa rộng cũng quan niệm coi nhân loại với tự nhiên là
một, như là một phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa của vũ trụ này. Với
cách nhìn đó khi soi vào Thơ mới từ khảo sát biểu tượng vườn, chúng ta nhận ra cả
144
một thế giới tươi mới, non tơ, thanh tân, xuân sắc hiện ra trong các khu vườn của
thi gia. Thiên nhiên trong các khu vườn như một bữa tiệc trần gian để các thi nhân
thưởng ngoạn, tận hưởng, khát khao bám rễ vào cuộc đời. Cũng bởi vậy ta bắt gặp
hình tượng những khu vườn xuân,vườn trần gian.
Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn,
Làm giây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
(Thanh niên – Xuân Diệu)
Với một quan niệm nhân sinh mới mẻ và tiến bộ, Xuân Diệu quan niệm
sống là phải làm cho cuộc đời có ý nghĩa, tích cực và nhà thơ cũng nhận ra cuộc
đời chỉ đẹp khi gắn bó cái tôi cá nhân trong mối quan hệ với cuộc đời trần thế.
Khi đứng vững trên mảnh đất trần gian, bám chặt vào hiện tại thi sĩ nhận ra
cuộc đời đẹp nhất khi tuổi trẻ, thời gian đẹp nhất khi vào xuân. Chính bởi vậy,
mùa xuân trong những khu vườn trần của tác giả bao giờ cũng rộn ràng hương
sắc và đầy sự sống, xanh non.
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc…
(Cảm xúc – Xuân Diệu)
Hay
Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
(Nụ cười xuân – Xuân Diệu)
Xuân Diệu cho rằng cuộc sống là một khu vườn xuân, không khó nhận ra
một thái độ ham hố, vồ vập muốn hòa hợp với thiên nhiên của thi gia. Đó là
những khu vườn tràn ngập sắc xanh, tràn ngập hương hoa thơm ngát, chim
muông reo vui. Ấy là một bầu sinh thái để không chỉ nhà thơ mà bất kỳ ai cũng
khao khát hòa mình tận hưởng. Và dấu ấn sinh thái hiện lên rất rõ trong các khu
vườn của Xuân Diệu. Có thể tìm thấy rất nhiều những cụm từ, thuật ngữ sinh
thái “gió thơm”, “đất nồng thơm”, “vườn thơm”, “xuân chín”, “tơ xanh”, “ngát
145
hương hoa”, “đồng nội xanh rì”, “cành tơ”…khiến chúng ta có cảm giác như
đứng trước một mảnh vườn xanh mát, tươi non và cũng vì thế mà tâm hồn
người trở nên thanh sạch, yên bình.
Đồng vọng cùng cảm xúc muốn thưởng ngoạn bữa tiệc trần gian trong
những khu vườn trần, Thế Lữ hoan ca, vui mừng.
Vườn trần gian, dù thâu góp cả muôn hoa
Lấy một nét cười mừng chim với gió
(Nhan sắc – Thế Lữ)
Thi sĩ Ngô Hòa cũng góp thêm một tiếng thơ reo vui.
Huế là cả một vườn hoa tươi thắm
Khi xuân về gieo rắc ánh xuân tươi
(Huế xuân – Ngô Hòa)
Vườn trần gian của thi sĩ lãng mạn bao giờ cũng trải đầy muôn hoa và rộn
ràng tiếng chim, ngào ngạt gió thơm và ngập tràn ánh sáng. Đấy là khu vườn
của niềm vui, niềm yêu sống, muốn bám rễ vào cuộc đời để tận hưởng, tận hiến.
Ca ngợi và thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên từ đó tìm cách sống hài hòa với tự
nhiên, gắn bó với cuộc đời là một thái độ sống tích cực và đó cũng là tinh thần
mà phê bình sinh thái hướng tới.
Tiểu kết
Tiếp cận theo hướng phê bình sinh thái đối với Thơ mới không chỉ đem đến
những cảm nhận mới mẻ về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mà còn có thể
giúp chúng ta nhìn ra những mối tương quan thú vị thông qua ngôn ngữ và biểu
tượng sinh thái trong Thơ mới. Bên cạnh đó, dưới góc độ nghiên cứu này, nhất là
khi chúng ta nhìn nhận về vấn đề môi trường đương thời thông qua các diễn ngôn
Thơ mới, nội dung chương sẽ góp phần đem đến những nhìn nhận, suy ngẫm,
đánh giá thêm về vấn đề sinh thái vào thời điểm Thơ mới ra đời. Trước áp lực toàn
cầu hóa, biến đổi khí hậu nghiêm trọng, văn học không chỉ trở về với chủ nghĩa
lãng mạn mà cần nêu lên những cảm quan đạo đức sinh thái theo cách thức riêng
của mình. Gợi ý từ phê bình sinh thái, chúng ta tìm thấy ở Thơ mới những bảng
146
màu sinh thái của một bức tranh thiên nhiên sinh động đầy nhựa sống; một tấm
mạng sinh thái mê đắm lòng người, thế giới vạn vật hữu linh diệu kỳ qua biểu
tượng “Vườn”. Bên cạnh đó, khá thú vị khi chúng ta đọc thấy trong Thơ mới
những vần thơ như là tương ứng với lí thuyết phê bình sinh thái hay như những lí
luận bằng thơ về sự chấn thương sinh thái.
Không thể phủ nhận được rằng phê bình sinh thái là một trào lưu phát triển
mạnh mẽ trên thế giới. Ở Việt Nam, phê bình sinh thái đã phủ rộng nghiên cứu
lên khắp các phổ hệ văn học khác nhau: từ văn học dân gian đến văn học trung
đại, văn học hiện đại và đương đại. Điều đó, góp phần khẳng định phê bình sinh
thái là một xu hướng nghiên cứu có nhiều tiềm năng để khai thác. Chương 4 tìm
hiểu sự tương ứng giữa ngôn ngữ và biểu tượng trong Thơ mới của phê bình
sinh thái. Qua tìm hiểu cho thấy Thơ mới cũng là một thế giới ngôn ngữ và biểu
tượng chứa đựng các yếu tố sinh thái. Từ đó, cũng có thể nói, Thơ mới gợi ý
nhiều ý tưởng cho phê bình sinh thái ở Việt Nam
147
KẾT LUẬN
1. Phê bình sinh thái ở Việt Nam với tư cách là một hướng tiếp cận văn học
được du nhập vào trong nước từ những năm 2000, một phần là từ Trung Quốc và phần khác là từ Anh - Mỹ. Phê bình sinh thái ở Việt Nam có thể nói, với những thành tựu từ các cuốn sách đã được xuất bản, từ những sự kiện (hội thảo, tọa đàm) mang tính quốc gia và quốc tế, đã là một “mầm” hay một “bông hoa” của phê bình
sinh thái thế giới. Nó có lịch sử và diện mạo riêng, phê bình sinh thái trải qua ba giai đoạn phát triển: Phê bình sinh thái ở Việt Nam có xu hướng tập trung vào nghiên cứu viết thiên nhiên hay nói cách khác là “các câu chuyện có cây cối” trong
văn học. Điều này thể hiện rõ ở các nghiên cứu tập trung vào không gian làng quê,
không gian hoang dã hơn là không gian đô thị. Phê bình sinh thái ở Việt Nam cũng có một xu hướng là tập trung vào các vấn đề có tính chính trị, xã hội và kinh tế. Và
dù nằm trong xu hướng phát triển của phê bình sinh thái trên thế giới, phê bình sinh thái ở Việt Nam dường như vẫn có những nỗ lực nhằm tạo ra đặc trưng riêng
của mình, dựa vào truyền thống văn hóa phương Đông của người bản địa. Đó là quan niệm truyền thống về thiên nhân hợp nhất.
Khảo sát, tìm hiểu phê bình sinh thái ở Việt Nam bước đầu cho thấy những nghiên cứu về phê bình sinh thái của nước ta đang nằm trong sự chuyển mình của
phê bình sinh thái trong giai đoạn ba. Không bó hẹp trong các nghiên cứu Phương
Tây, khi hướng nghiên cứu chuyển dịch vào các quốc gia phi Phương Tây trong đó có Việt Nam cho thấy rõ phê bình sinh thái là một khuynh hướng phê bình văn học
có một sức ảnh hưởng sâu rộng và hoàn toàn có tiềm năng để phát triển trên toàn
cầu. Qua nghiên cứu các công trình phê bình sinh thái ở Việt Nam cũng góp phần
khẳng định phê bình sinh thái có nhiều tiềm năng phát triển, nhất là trong thời đại khủng hoảng môi trường cấp bách hiện nay.
2. Luận án này, như đã nói ở trên, khảo sát Thơ mới nhằm đưa ra những
thảo luận mang tính lí thuyết về phê bình sinh thái, một hướng nghiên cứu và
phê bình văn học ra đời ở phương Tây và dựa trên chất liệu là văn học cổ điển
Anh - Mỹ. Những đặc trưng của Thơ mới, bối cảnh lịch sử Việt Nam trước
Cách mạng và truyền thống viết về thiên nhiên-sinh thái trong văn chương Việt
Nam là những yếu tố hứa hẹn sẽ đem đến những điểm tương đồng và khác biệt
đối với những nội dung kinh điển của phê binh sinh thái. Cụ thể, điều kiện kinh tế chính trị của một nước hậu thuộc địa, truyền thống về mối quan hệ giữa con
148
người và thiên nhiên trong văn học Việt Nam kể từ thơ ca dân gian đến văn học
trung đại, sự kế thừa và sáng tạo của Thơ mới đối với truyền thống văn chương
hiện đại của phương Tây đương thời (thơ ca lãng mạn, thơ tượng trưng, văn học hiện thực phê phán): tất cả những điều này đặt ra một vấn đề lí thuyết đối với
phê bình sinh thái. Đó là vấn đề địa phương và vấn đề toàn cầu trong phê bình sinh thái: những vấn đề thơ ca và vấn đề sinh thái ở các nước bên ngoài phương
Tây đặt câu hỏi về tính toàn cầu của lí luận phê bình sinh thái phương Tây. Và
những phân tích về mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong thơ ca bên ngoài phương Tây đã phần nào đem lại những tiếng nói phản biện đối với lí thuyết phê bình sinh thái. Những tiếng nói phản biện, đúng hơn là sự khác biệt,
không ăn khớp, đến từ thế giới văn học bên ngoài phương Tây có tiềm năng lớn trong việc phát triển phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết. Và đây cũng là điều
mà các lí thuyết gia về phê bình sinh thái đã đề cập đến trên phương diện lí
thuyết và thực hành. Từ đó là tiền đề để chúng tôi đi vào khảo sát Thơ mới
(1932 – 1945) từ góc nhìn phê bình sinh thái.
3. Phê bình sinh thái cũng chỉ là một hướng tiếp cận mới đối với Thơ mới,
giống như các cách tiếp cận khác đã từng được dùng để tiếp cận bộ phận thơ ca này
như: phân tâm học, chủ nghĩa hiện đại, “góc độ quan hệ văn hóa”, “giọng điệu trữ
tình”, hay “cái nhìn so sánh”.. Đề tài này đã làm sáng tỏ thêm các ý nghĩa, giá trị của
Thơ mới với công cụ mới là Phê bình sinh thái và quan trọng hơn là có những kiến
giải về phê bình sinh thái từ góc độ lí thuyết khi được nó được đặt vào một trường hợp cụ thể là Văn học Việt Nam nói chung và Thơ mới nói ở Việt Nam nói riêng:
Trước hết, Thơ mới nhấn mạnh vị trí bên ngoài của con người so với chỉnh thể thế
giới thiên nhiên; các nét nguyên sơ của thiên nhiên và ý thức của chủ thể trữ tình về thiên nhiên như là một chỉnh thể mà con người nên ở vị trí đứng ngoài chứ không
can thiệp hay xen vào giữa chúng. Thiên nhiên đối lập với cái hiện đại, cái văn hóa;
con người trốn tránh thế giới đô thị. Thơ mới cũng thể hiện sự bất an của con người
trước các điều kiện không thuận tiện của thiên nhiên, từ đó phóng chiếu ra các vấn
đề về công lý môi trường và công lí xã hội. Thơ mới đã thể hiện sự tương ứng và
tính đối thoại giữa hình ảnh, ngôn ngữ với diễn ngôn mang tính lí thuyết của phê
bình sinh thái. Thơ mới viết về thiên nhiên đã dung hợp những diễn ngôn khác nhau,
đó là diễn ngôn về thiên nhiên, diễn ngôn về giới và diễn ngôn về vấn đề giai cấp, trong đó thiên nhiên được xây dựng như là một nhân vật chính dẫn đến sự lộ diện
149
của các vấn đề nan giải về xã hội và chính trị. Thơ mới có sự đồng thanh tương ứng
của các bài thơ về thiên nhiên với vấn đề môi trường đặt ra trong thời đại mà phong
trào thơ ra đời. Những bài thơ về rừng và vườn (và các động, thực vật liên quan) thể hiện sự tham gia của Thơ mới vào vấn đề môi trường của thời đại, mà cụ thể ở đây
là vấn đề rừng và bảo vệ rừng ở Việt Nam thời thuộc địa.
4. Trong xã hội hiện đại hiện nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phần
nào đó đã khiến con người ta có thái độ quay lưng với tự nhiên và tận diệt tự
nhiên quá mức khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt, suy vong trong đời sống. Bên cạnh đó, trong nhiều năm gần đây, văn học của chúng ta cũng tập trung đề cập nhiều đến những vấn đề thời thượng, chạy theo thị hiếu mà dường như ít
quan tâm đến truyền thống hòa hợp tự nhiên. Khảo sát Thơ mới từ góc nhìn phê bình sinh thái. Chúng tôi một lần nữa mong muốn được soi sáng lý thuyết
phê bình sinh thái – một trào lưu phê bình văn học mới hình thành và đang trên
bước đường hoàn thiện vào Thơ mới – phong trào thơ với những sáng tác chưa
hẳn là văn học sinh thái đúng nghĩa. Song nghiên cứu Thơ mới từ lý thuyết phê bình sinh thái chúng ta cũng khám phá thêm những điều thú vị. Với sức gợi của
tự nhiên từ hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ trong Thơ mới một lần nữa giúp
chúng ta tìm lại được truyền thống hài hòa giữa con người và tự nhiên trong văn
học Đông Á vốn đang dần tưởng bị lãng quên. Tự nhiên trong Thơ mới là nơi
thi nhân tìm thấy vẻ đẹp vùng miền, là nơi thi sĩ trở về trú ngụ, cứu rỗi tâm hồn
sau những ngày đắng cay và đó còn là bữa tiệc trần gian để nhà thơ bám rễ vào cuộc đời. Hơn hết, đằng sau đó ta nhận ra một tình yêu thiên nhiên sâu sắc của
các nhà Thơ mới. Tình yêu đó đã làm nên bức tranh đẹp về những khu vườn
bằng thơ, phủ một màu “xanh” vào không gian văn học. Biết tìm ra cái đẹp của tự nhiên, nâng niu, tôn trọng và sống hài hòa với tự nhiên là một thái độ sống
tích cực. Đối lập với hiện thực môi trường đang bị tàn phá, chúng ta sợ rằng
một ngày kia những vẻ đẹp của tự nhiên trong Thơ mới chỉ còn trong tiềm thức.
Hay chăng, đây cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh con người, con người nhận lại
và tự vấn lại mình: Hãy biết tôn trọng và sống hài hòa với tự nhiên. Chỉ như vậy
con người mới tìm thấy sự thanh sạch, yên bình cho tâm hồn.
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Bài viết: Đọc sách: Rừng khô, suối cạn, biển độc ...và văn chương (Phê
bình sinh thái của Nguyễn Thị Tịnh Thy, NXB Khoa học xã hội, H, 2017,
543 trang), đăng trênTạp chí Nghiên cứu văn học, (số 5/2017).
2. Bài viết: Vườn” trong Thơ mới (1932 – 1945) từ góc nhìn phê bình sinh
thái, đăng trên Hội thảo quốc tế: Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa tiếng
nói toàn cầu, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (12/2017).
3. Bài viết: Chân quê như một lựa chọn giá trị của Nguyễn Bính, đăng trên
kỷ yếu hội thảo quốc gia: Trăm năm Nguyễn Bính truyền thống và hiện
đại, Viện Văn học Đại học Văn Lang (7/2018).
4. Bài viết: Văn học và công lý môi trường, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
văn học, (số 3/2019).
5. Bài viết: Đặc sắc của thiên nhiên thôn quê trong Thơ mới (1932 -1945) từ
góc nhìn sinh thái, đăng trên tạp chí Khoa học, Trường Đại học Thủ Đô
Hà Nội, (số 36/2019).
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Thúy Anh, (2011), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người
Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ (chuyên khảo), Hội văn nghệ
dân gian Việt Nam và NXB Lao động, Hà Nội.
2. Phạm Tuấn Anh, (2009), Sự đa dạng thẩm mĩ của văn xuôi Việt Nam sau
năm 1975, Luận án Tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội.
3. Phan Tuấn Anh, (2017), Văn học Mỹ Latin nhìn từ phê bình sinh thái,
nguồn,http://vanvn.net/tu-doi-vao-van/van-hoc-my-latin-nhin-tu-phe-binh-
sinh-thai/1701.
4. Lại Nguyên Ân, (biên soạn) (1998), Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác
phẩm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
5. BaKhtin M, (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Trần Lê Bảo, (chủ biên), (2005), Văn hóa sinh thái – nhân văn, NXB Đại
học Sư Phạm, Hà Nội.
7. Trần Lê Bảo, (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
8. Lê Nguyên Cẩn, (2000), Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và JJ
Rousseau, Đạo gia và văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr 199-
213.
9. Lê Nguyên Cẩn, (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội.
10. Cheryll Glotfelty, Harold Fromm (chủ biên)(2014), Nghiên cứu văn học
trong thời đại khủng hoảng môi trường (Trần Thị Ánh Nguyệt dịch) Nguồn
http:tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n16166/Nghien-cuu-van-hoc-
trong-thoi-dai-khung-hoang-moi-truong.html.
11. Trịnh Bá Đĩnh, (2018), Từ ký hiệu đến biểu tượng, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
12. Nguyễn Đăng Điệp, (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.
152
13. Nguyễn Đăng Điệp, (2003), Vọng từ con chữ (Tiểu luận, phê bình), NXB
Văn học.
14. Nguyễn Đăng Điệp (2009), Huy Cận, tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục.
15. Nguyễn Đăng Điệp (2009, Hàn mặc Tử, tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục
16. Nguyễn Đăng Điệp (2010), Thi pháp học ở Việt Nam (đồng chủ biên), NXB
Giáo dục.
17. Nguyễn Đăng Điệp, (2014), Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa,
Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, NXB Văn học, Hà Nội, tr
31-46
18. Nguyễn Đăng Điệp, (2017), Thời đại khủng hoảng môi trường và vai trò, vị
thế của phê bình sinh thái, Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói
toàn cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện văn học
19. Vũ Minh Đức, (2014), Những ngon gió HuaTat của Nguyễn Huy Thiệp
nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái, nguvan.utb.edu.vn
20. Đặng Thị Thái Hà, (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái
(Qua các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Ngọc Tư), Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội.
21. Đặng Thị Thái Hà, (2016), Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp từ điểm nhìn phê bình sinh thái, Nguồn http://vietvan.vn/vi
/bvct/id3683/Buoc-dau-tim-hieu-truyen-ngan-Nguyen-Huy-Thiep-tu-diem-
nhin-phe-binh-sinh-thai.
22. Đặng Thị Thái Hà, (2016), Vấn đề - sinh thái đô thị trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong
bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
23. Lê Bá Hán, (Chủ biên) (2005), Tinh hoa Thơ mới – thẩm bình và suy nghĩ ,
NXB Giáo dục.
24. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2017), Sinh thái học chiều sâu và đạo học Trung
Hoa, kỷ yếu hội thảo quốc tế: Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa, tiếng nói
toàn cầu, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện văn học.
153
25. Đỗ Văn Hiểu, (2012), Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn
học mang tính cách tân, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Đại
học Quốc gia Hồ Chí Minh, số 15 (X2), tr 48-54.
26. Đỗ Văn Hiểu, (2016), Tính khả dụng của phê bình sinh thái,
https://dovanhieu.wordpress.com.)
27. Đỗ Văn Hiểu, (2017), Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn
học mới và ứng dụng ở Việt Nam, Đề tài NCKH và công nghệ cấp trường,
Đại học SP Hà Nội.
28. Trần Ngọc Hiếu, (2014), Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam từ
giới hạn của những cách tiếp cận đến đề nghị về những cách đọc khác, Tạp
chí Nghiên cứu Văn học, tr 14 - 26.
29. Nguyễn Xuân Hương, (2013), Triết lí nhân sinh của Hồ Chí Minh về môi
trường, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Duy Tân, Số 4 (60 – 66).
30. Trần Trung Hỷ, (2007), Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
31. Đinh Gia Khánh chủ biên, (2000), Văn học Việt Nam (thế kỉ X đến nửa đầu
thế kỉ XVIII), NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Kính, (2003), Con người, môi trường và văn hóa, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Cao Kim Lan, (2019), Chấn thương kép trong Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh, Tạp chí nghiên cứu văn học, Viện văn học – Viện hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam, tr22 – 43.
34. Phương Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, NXB Văn học
và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội
35. Phương Lựu (2009), Vì một nền lí luận văn học dân tộc – hiện đại, NXB
Văn học, Hà Nội.
36. Phương Lựu (2013), Người mở đầu cho thi học Thiền gia, Tạp chí nghiên
cứu văn học, số 2, tr 3-11.
37. Đặng Thai Mai, (1970), Tình cảnh thiên nhiên trong tập thơ “Ngục trung
nhật kí”, Tạp chí Văn học, số 5, tr 2-15.
154
38. Hoàng Tố Mai, (chủ biên), (2017), Phê bình sinh thái là gì? Nhà xuất bản
hội nhà văn.
39. Nguyễn Đăng Mạnh, (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà
văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Đăng Mạnh, (2008), Tuyển tập phê bình văn học, NXB Đà Nẵng.
41. Vũ Quang Mạnh, (chủ biên), (2011), Môi trường và con người – Sinh thái
học nhân văn, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
42. Nguyễn Đăng Na, (chủ biên), (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
43. Nguyễn Đăng Na, (chủ biên), (2010), Văn học trung đại Việt Nam, tập 2,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Nga, (2009), Biểu tượng thiên nhiên trong thơ nữ thời kì chống
Mĩ, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 7,tr 74-84.
45. Lã Nguyên, (1998), Tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn hóa nghệ thuật, Tạp
chí Văn học, (3), tr 15 -20.
46. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2014), Thiên nhiên – nguồn cảm hứng bất tận của
văn chương Phương Đông, Nguồn http://reds.vn/index.php/nghe-thuat/van-
hoc/7804.
47. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2015), Thiên nhiên và con người trong văn xuôi
Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận án Tiến sĩ, Đại học
Sư phạm Hà Nội.
48. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2016), Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư (từ góc nhìn Phê bình sinh thái),
Nguồn http://kxhnv.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/103/1420/thien-nhien-
trong-truyen-ngan-nguyen-ngoc-tu-tu-goc-nhin-phe-binh-sinh-thai-tran-thi-
anh-nguyet.
49. Trần Thị Ánh Nguyệt, (2016), Hình tượng loài vật trong văn xuôi Việt Nam
sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Hội thảo khoa học Phát triển
văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
50. Nhiều tác giả, (1996), 50 năm văn học văn học Việt Nam Cách mạng tháng
Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
155
51. Nhiều tác giả, Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (Đỗ Văn
Hiểu dịch từ tiếng Trung), http:tapchinhavan.vn.news.
52. Nhiều tác giả, (2010), Đạo phật và môi trường. Thích Nhuận Đạt dịch,
NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
53. Nhiều tác giả (2017), Phê bình sinh thái – tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn
cầu, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Viện văn học.
54. Lê Lưu Oanh, (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
55. Oliver G, (1997), Sinh thái học nhân văn, Huy Yên, Võ Bình, Đỗ Ngọc Hải
dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
56. Huỳnh Như Phương, (2013), Mùa xuân, sinh thái và văn chương,
http:khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
57. Richard Kerridge, (2017), Môi trường luận và phê bình sinh thái, Phạm
Phương Chi (dịch và tổng thuật), Phê bình sinh thái là gì?, NXB Hội nhà văn.
58. Rigby K, (2014), Chapter 7: “Ecocritinsim”, Imtroducing Critism at the
Twenty – First Century, Edinburgh UP, Đặng Thị Thái Hà dịch, Phụ lục
luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc
sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
59. Chu Văn Sơn, (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới, NXB Giáo dục, Hà Nội.
60. Trần Đỉnh Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam. NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1999
61. Trần Đình Sử, (2012), Một nền lí luận văn học hiện đại (nhìn qua thực tiễn
Trung Quốc), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
62. Trần Đình Sử, (2015), Phê bình sinh thái tinh thần, http:// trandinhsu.
wordrress.com
63. Hoài Thanh, Hoài Chân, (1998), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
64. Nguyễn Văn Thắng, (2004), Thiên nhiên trong phong trào Thơ mới, Kỷ yếu
hội thảo khoa học những nhà nghiên cứu Ngữ văn trẻ trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, tr 142-148.
156
65. Nguyễn Văn Thắng (2008), Thơ làng quê trong phong trào Thơ mới, Luận
án Tiến sỹ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
66. Trần Nho Thìn, (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
67. Thorber K , (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học
(Hải Ngọc dịch), http:hieutn1979,wordpress.com
68. Thorber K, Buell L, Heise U, (2016), Văn chương và môi trường, Trần Hải
Yến (tổ chức bản thảo và biên tập), Lý thuyết và ứng dụng lý thuyết trong
nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
69. Lý Hoài Thu, (2003), Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
70. Nguyễn Thị Minh Thương, (2018), Kháng cự đô thị, trở về tự nhiên: “Mê
hồn ca” của Đinh Hùng từ góc nhìn phê bình sinh thái, Tạp chí Khoa học,
Đại học Sư phạm Hà Nội
71. Nhã Thuyên, (2016), Khí quyển thơ –sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ,
bầu trời và những linh hồn, Nguồn http://maivanphan.vn
72. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2013), Tô tem sói của Khương Nhung từ lý thuyết
sinh thái, Báo cáo khoa học Đại học sư phạm Huế.
73. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2013), Phê bình sinh thái – nhìn từ lý thuyết giải
cấu trúc, Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ
biên, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
74. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái – tiềm năng
cần khai thác của văn học Việt Nam, Hội thảo khoa học Phát triển văn học
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
75. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2015), Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của
Trần Duy Phiên, Tạp chí Sông Hương, Số 317, tháng 07.
76. Nguyễn Thị Tịnh Thy, (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc…và văn
chương-phê bình sinh thái, NXB Khoa học xã hội 57 Sương Nguyệt Ánh –
P.Bến thành – Quận I. TP. Hồ Chí Minh.
77. Trần Xuân Tiến, (2016), Tiểu thuyết Cá hồi – cảm quan phê phán con
người từ góc nhìn sinh thái,nguồnhttp://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-
157
chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/tran-xuan-tien-tieu-thuyet-ca-hoi-tu-goc-
nhin-sinh-thai.html
78. Phạm Văn Tuấn, (2006), Phong trào lãng mạn (1750 -1850), Nguồn
http://wwwvietnamdaily
79. Vũ Anh Tuấn, (chủ biên), (2012), Giáo trình văn học dân gian, NXB GD
Việt Nam
80. Lê Ngọc Trà, (2007), Văn chương thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
81. Phạm Ngọc Trầm, (2016), Nghiên cứu triết học – xã hội về môi trường sinh
thái ở Việt Nam, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99)
82. Bùi Thanh Truyền, chủ biên, (2018), Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam
Bộ, NXB Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
83. Vemier J (2002), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chi, Trần Chí Đạo
dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
84. Trương Thị Mỹ Xuyên, (2010), Mùa thu Việt Nam trong Thơ mới 1932 -
1945, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Cần Thơ
85. Vương Nhạc Xuyên, (2015), Văn học sinh thái và lí luận phê bình sinh
thái, Nguồn http://dogiavanhieu.blogspot.com/2015/08/van-hoc-sinh-thai-
va-li-luan-phe-binh.html. (Đỗ Văn Hiểu dịch, nxb Đại học Phúc Đán,
Thượng Hải, 2008).
86. Lê Thu Yến, (2010), Bức tranh thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 5, tr 10-17
87. Trần Hải Yến, (2014), Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản
hóa; nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Đạo
giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học việt Nam trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học.
158
Tiếng Anh
88. Aline D, (2015), Tourism and Colonization in Indochina (1898-1939).
Newcastle upon Tyne, England : Cambridge Scholars Publishing.
89. Barry P, (1987), Issues in Contemporary Critical Theory: a Casebook,
Macmillan.
90. Bate J, (2000) The Song of the Earth. London: Picador,. 199-222
91. Bennet, M; David W. Teague (1999). The Nature of Cities: Ecocriticism
and Urban Environments. University of Arizona Press.
92. Berry, Thomas, (1994), Ecological Geography. Worldviews and Ecology.
Ed. Mary Evelyn Tucker and John A. Grim. Maryknoll: Orbis Books.
93. Brocheux, Pierre, (2015). “Colonial Society (Indochina) in 1914-1918”
International Encyclopedia of the First World War, ed. by Ute Daniel,
Peter Gatrell, Oliver Janz, Heather Jones, Jennifer Keene, Alan Kramer,
and Bill Nasson, issued by Freie Universität Berlin, 04-14
94. Buell, Lawrence, (1995), The Environmental Imagination: Thoreau, nature
writing, and the formation of American culture. Cambridge, Mass., and
London: Harvard University Press
95. Buell, Lawrence, (2003), Writing for an Endangered World, tr. 8
96. Buell, Lawrence, (2005), The Future of Environmental Criticism:
Environmental Crisis and Literary Imagination. Malden, MA: Blackwell.
97. Buell, Lawrence, (2011), Ecocriticism: Some Emerging Trends. Qui Parle,
Vol. 19, No. 2 (Spring/Summer), pp. 87-115.
98. Cohen, Michael P, (2004), Blues in the Green: Ecocriticism under Critique.
Environmental History, Vol. 9, No. 1 pp. 9-36
99. Cohen, Jeffrey Jerome, (2014) Prismatic ecology - ecotheory beyond
green.University of Minnesota Press.
100. Dana, Phillips, (2003), The Truth of Ecology: Nature, Culture, and
Literature in America. Oxford: Oxford University Press.
101. Dana, Phillips, (2010) “Introduction: Special Issue on Animal Studies and
Ecocriticism” Safundi: The Journal of South African and American Studies,
Volume 11, pp. 1-2
159
102. Deleuze, G., Félix Guattari, (1972–1980), (1977), Capitalism and
Schizophrenia. N.Y. : Viking Press.
103. Estok, Simon, (2009), “Theorizing in a Space of Ambivalent Openness:
Ecocriticism and Ecophobia” ISLE: Interdisciplinary Studies in Literature
and Environment, Volume 16, Issue 2, Pages 203
104. Evernden N, (1978), “Beyond Ecology: Self Place and the Pathetic
Fallacy”, North American Review, 263.4,; p.16-20
105. Frédéric, Thomas, (2009), « Protection des forêts et environnementalisme
colonial : Indochine, 1860-1945 », Revue d’histoire moderne et
contemporaine, vol. no 56-4, no. 4, pp. 104-136
106. Flys, Carmen, (2010), The State of Ecocriticism in Europe: panel discussio,
Ecozon@. Vol. 1. No. 1: 108-122
107. Ganaie, Altaf Ahmad, (2018), Literature and Ecology: An Experiment in
Ecocriticism, Pune Research, An International Journal in English. Vol 4,
Issue 2,
108. Garrard, G (2004), Ecocriticism Taylor & Francis 2004 .
109. Giesecke, Annette, and Naomi Jacobs, eds (2012) Earth Perfect?: Nature,
Utopia, and the Garden. London: Black Dog Publishing.
110. Gifford T. “Pastoral, Anti-Pastoral and Post-Pastoral as Reading
Strategies.” Scott Slovic (ed.), Critical insights: Nature and Environment,
Ipswich: Salam Press, pp. 42-61.
111. Glotfelty C và Harold Fromm, (1996), The Ecocriticism reader: landmarks
in literary ecology. Athens and London: University of Georgia.
112. Gunn C (2014), Rice Wars in Colonial Vietnam: The Great Famine and
the Viet Minh Road to Power. Lanham: Rowman & Littlefield.
113. Haag, Ingemar, Karin Molander Danielsson, Marie Öhman, (2019),
Perspectives on Ecocriticism: Local Beginnings, Global Echoes.
Cambridge: Cambridge Scholars Publishing, 101-112
114. Howarth, W, (1996) “Some Principles of Ecocriticism”, trong Cheryll
Glotfelty and Harold Fromm (eds), The Ecocriticism Reader: Landmarks in
Literary Ecology. Athens: The University of Georgia Press.
160
115. Huggan, Graham, (2009), “Postcolonial ecocriticism and the limits of
Green Romanticism” Journal of Postcolonial Writing Volume 45, 2009 -
Issue 1, tr. 3-14.
116. Hunt, John Dixon, (2000), Greater Perfections: The Practice of Garden
Theory. Philadelphia : University of Pennsylvania Press.
117. Kerridg, Richard; Neil Sammells, (1998), Writing the Environment:
Ecocriticism and Literture. London : Zed Books.
118. Kroeber K, (1999), Ecological literary criticism : romantic imagining and
the biology of mind. New York: Columbia University Press.
119. Leiss, William, (2007) “Modern Science, Enlightenment, and the
Domination of Nature: No Exit?” FAST CAPITALISM 2.2 http:
//www.fastcapitalism.com
120. Littleto, H. (2016), "Discursion and Excursion:" Poetry of Bodies, Place,
and Landscape in the Ecocritical Movement”. Dissertation. University of
Denver.
121. Love, Glen (1996), Revaluating Nature: Toward an Ecological Criticism.
Western American Literature Vol. 25, No. 3 (FALL 1990), pp. 201-215
122. Meeker, Joseph W, The Comedy of Survival: Literary Ecology and a Play
Ethic. Tucson: The University of Arizona Press, tr.7)
123. Niemann, Michelle, (2011), “Rethinking Organic Metaphors in Poetry and
Ecology: Rhizomes and Detritus Words in Oni Buchanan's ““Mandrake
Vehicles”” Journal of Modern Literature Vol. 35, No. 1, Re-assessing,
Breaking, Transcending Genres, pp. 99-121
124. Nixon R,(2005), “Environmentalism and Postcolonialism.” Postcolonial
Studies and Beyond. Ed. A. Loomba, S. Kaur, M. Bunzl, A. Burton, and J.
Esty. Durham, NC: Duke UP,. 233–51.
125. Nyrnes, Aslaug, (2018), “The Nordic Winter Pastoral: A Heritage of
Romanticism.” Ecocritical Perspectives on Children's Texts and Cultures:
nordic dialogues. Cham, Switzerland : Palgrave Macmillan, pp.75-89
126. Oppermann, Serpil, (2010), “The Rhizomatic Trajectory of Ecocriticism” .
Ecozon. 1, No 1.
161
127. Oppermann, Serpil, (2018), “Nature’s Colors: A Prismatic Materiality in
the Natural/Cultural Realms”. Ecocritical Aesthetics: Language, Beaty, and
the Environment. Peter Quigley and Scott Slogic. Bloomington: Indiana
University Press, 157-172.
128. Pepperell, Robert. (1997), The Post Human Condition Intellect Books,
Exeter, UK. (First Edition 1995).
129. Rigby, Kate. “Ecocriticism” trong Julian Wolfreys (ed.), Literary and
Cultural Criticism at the Twenty-First Century, Edinburgh: Edinburgh UP,
151.
130. Robisch, S.K,, (2009), “The Woodshed: A Response to “Ecocriticism and
Ecophobia, , Interdisciplinary Studies in Literature and Environment.
Volume 16, Issue 4, Pages 697–708
131. Ruddiman, William F,(2014), . Earth's Climate : Past and Future. New
York : Freeman.
132. Rueckert W, (1978), Literature and Ecology: An Experiment in
Ecocriticism
133. Scigaj, Leonard, (2015), Sustainable Poetry: Four American Ecopoets.
Lexington: The University Press of Kentucky.
134. Slovic, Scott, (1994), “Ecocriticism: Storytelling, Values, Communication,
Contact”, ASLE Conference, Salt Lake City, Utah.
135. Spivak, Gayatri Chakravorty, (2005), Death of a Discipline. New York:
Columbia University Press.
136. Sullivan, Heather I, (2014), “The Ecology of Colors: Goethe’s Materialist
Optics and Ecological Posthumanism”. Material Ecocriticism. Serenella
Iovino, Serpil Oppermann edited. Bloomington: Indiana University Press,
80-94
137. Taylor, W. Paul, (1981), “The Ethic of Respect for Nature”, Environmental
Ethics, Vol 3, Fall.
138. Thoreau, Henry David.(1854), (2004), Walden ,or Life in the woods.
Boston: Ticknor and Fields,. ebooks@Adelaide,University of Adelaide
Library, (e-text)
162
139. Thornber, Karen, (2012), Ecoambiguity: Environmental Crises and East
Asian Literatures: Michigan: University of Michigan Press.
140. Ursula, Heise, (2010), Sense of Place and Sense of Planet: the
environmental imagination of the global, New York: NY Oxford Univ
Press
141. Trexler, Adam , (2015). Anthropocene Fictions The Novel in a Time of
Climate Change. Virginia: University of Virginia Press,.
142. Verderame, Michael, (Sept. 2010), “The shape of ecocriticism to come.”
New Directions in Ecocriticism. Web.
143. Waage, Frederick (1985), Teaching Environmental Literature Materials
methods Resources. New York: Modern Language Assoc. of America,
1996.
144. Warren, Karen, (2000), Ecofeminist Philosophy: A Western Perspective on
What It is and Why It Matters. Lanham: Rowman&Littlefield
Publishers, Inc.
145. West, Rinda, (2007), Out of the Shadow Ecopsychology, Story, and
Encounters with the Land Rinda West.Virgina: The Univrsity of Virgina
Press.
146. Woolbright, Lauren, (2011), Wounded Planet, Wounded People: The
Possibility of Ecological Trauma, A Thesis Presented to the Graduate
School of Clemson University.
147. Yi-fu Tuan, (1979) Landscapes of Fear, New York: Pantheon Books,
148. Yuki, Masami, (2014) “Ecocriticism in Japan.” The Oxford Handbook of
Ecocriticism Edited by Greg Garrard. New York: Oxford University Press.