LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với lực lượng Cảnh sát giao thông trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên tuyến quốc lộ 7 thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An
lượt xem 78
download
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm về ma túy nói chung tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng có nhiều diễn biến rất phức tạp, xảy ra trên hầu hết các tuyến giao thông nói chung và các tuyến nối liền biên giới Việt Nam với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nói riêng. Cụ thể là các tuyến quốc lộ 6, 7, 8, 9 nối liền các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị với các tỉnh Pôlykhămxay, HủaPhăn, Xiêng Khoảng, Xạ Vẳn Nạ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với lực lượng Cảnh sát giao thông trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên tuyến quốc lộ 7 thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An
- LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với lực lượng Cảnh sát giao thông trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên tuyến quốc lộ 7 thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây tình hình tội phạm về ma túy nói chung tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nói riêng có nhiều diễn biến rất phức tạp, xảy ra trên hầu hết các tuyến giao thông nói chung và các tuyến nối liền biên giới Việt Nam với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nói riêng. Cụ thể là các tuyến quốc lộ 6, 7, 8, 9 nối liền các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị với các tỉnh Pôlykhămxay, HủaPhăn, Xiêng Khoảng, Xạ Vẳn Nạ Khệt... của nước bạn. Nổi bật trong đó là diễn biến hoạt động của tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên tuyến quốc lộ 7 nối liền Nghệ An với Pôlykhămxay của Lào. Trong đấu tranh với loại tội phạm này Công an các địa phương nói chung và Công an tỉnh Nghệ An nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc duy trì mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về ma tuý với Cảnh sát giao thông (CSGT) trong phát hiện điều tra, xử lý loại tội phạm này, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức tiến hành có hiệu quả các biện pháp điều tra chứng minh làm rõ nhiều băng, nhóm tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, việc thực hiện mối quan hệ trên vẫn chưa được tiến hành thường xuyên, đồng bộ. Nội dung, phương pháp phối hợp trong nhiều trường hợp không phù hợp với yêu cầu đặt ra. Một số điều tra viên và CSGT chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò tác dụng cũng như nội dung phương pháp phối hợp giữa hai lực lượng trong phát hiện điều tra tội phạm về ma túy khi chúng hoạt động trên đường giao thông. Tình trạng coi thường, xem nhẹ việc của người khác, quan trọng hóa phần việc của mình, thậm chí gây khó khăn cản trở lẫn nhau giữa hai lực lượng vẫn còn diễn ra khá phổ biến và chậm được khắc phục. Trong khi đó, việc lãnh đạo chỉ đạo quan hệ phối hợp trong nhiều trường hợp không kịp thời, thiếu thống nhất. Các quy định hướng dẫn để thực hiện mối quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng vẫn chưa được cụ thể, rõ ràng. Mặc dù, trên phương diện lý luận đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện quan hệ phối hợp giữa các lực lượng nghiệp vụ Cảnh sát nhân dân (CSND) trong đấu tranh phòng chống tội phạm, song các quy định đó
- chỉ đề cập đến những vấn đề có tính nguyên tắc chung, nên việc áp dụng để thực hiện mối quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng nghiệp vụ nêu trên vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng đó, đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phát hiện điều tra làm rõ loại tội phạm. Một số đối tượng và băng nhóm tội phạm về ma túy hoạt động xuyên quốc gia, thường xuyên vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên quốc lộ 7 vẫn chưa được phát hiện điều tra xử lý kịp thời. Do vậy, việc nghiên cứu phân tích để làm rõ nhận thức lý luận và nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm về ma túy hoạt động trên các tuyến giao thông đường bộ là vấn đề cấp thiết hiện nay. Từ những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với lực lượng Cảnh sát giao thông trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên tuyến quốc lộ 7 thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An". để làm luận văn cao học Luật, chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm, Mã số: 60.38.70. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm đánh giá tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ phối hợp giữa Lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên quốc lộ 7 - tỉnh Nghệ An, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của mối quan hệ phối hợp này. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích của đề tài đặt ra, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định là: + Làm rõ lý luận cơ bản về quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với lực lượng CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy trên các tuyến giao thông đường bộ.
- + Nghiên cứu, làm rõ thực trạng tình hình tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên quốc lộ 7 thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An và mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT Công an Nghệ An trong phát hiện, điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. + Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên tuyến quốc lộ 7 - tỉnh Nghệ An. 3. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trước tình hình tội phạm về ma túy hoạt động có nhiều diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn quốc, Đảng, Nhà nước và ngành Công an đã chỉ đạo chính quyền các cấp và các cơ quan bảo vệ pháp luật tổ chức tiến hành nhiều biện pháp phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống loại tội phạm trên. Cùng với các biện pháp đấu tranh của các cơ quan chức năng, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học và cán bộ hoạt động thực tiễn đã có nhiều bài báo, tiến hành nghiên cứu nhiều đề tài khoa học và nhiều luận văn, chuyên đề của học viên, nghiên cứu sinh đề cập về phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tội phạm về ma túy... đã được thực hiện, góp phần đáng kể vào việc đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm nguy hiểm này của xã hội. Cụ thể là: + Tác giả Trần Văn Luyện (2000), Phát hiện điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân. Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học CSND. + Tác giả Đinh Viết Thắng (2001), Quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra với lực lượng Cảnh sát phòng chống ma túy trong điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn tốt nghiệp cao học Luật, Học viện CSND. + Tác giả Nguyễn Văn Điền (2003), Thực trạng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả điều tra khám phá các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Sơn La của lực lượng Cảnh sát nhân dân. Luận văn tốt nghiệp cao học Luật, Học viện CSND.
- + Tác giả Phạm Hữu Tuấn (2004), Mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy với lực lượng Cảnh sát điều tra trong điều tra khám phá các vụ án ma túy của Công an tỉnh Lai Châu, Luận văn tốt nghiệp cao học Luật, Học viện CSND. + Tác giả Hoàng Đức Hưởng (2005), Công các xây dựng và sử dụng mạng lưới cơ sở bí mật trong đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Đắc Nông, Luận văn tốt nghiệp cao học Luật, Học viện CSND. Các công trình nghiên cứu trên đã rất thành công trong việc phân tích làm rõ lý luận cơ bản, đặc điểm pháp lý về tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán chất ma túy và và thực trạng quan hệ phối hợp giữa lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy với các lực lượng khác trong điều tra khám phá các tội phạm về ma túy. Song nhìn chung các công trình đó chưa đi sâu nghiên cứu về quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với lực lượng CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên đường giao thông. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài trên của tác giả là rất cần thiết mang tính cấp bách cao cả về lý luận và thực tiễn. Nội dung nghiên cứu của đề tài không những phù hợp với chuyên ngành đào tạo - chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm, mà còn không trùng lặp với bất cứ một đề tài nào nghiên cứu trước đó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với lực lượng CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán ma túy trên các tuyến giao thông đường bộ. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu mối quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT (ở cấp phòng PC26, PC17 và ở cấp đội nghiệp vụ thuộc Công an các huyện, thị xã nơi có tuyến quốc lộ 7 chạy qua) trong phát hiện điều tra tội phạm vận
- chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên quốc lộ 7 thuộc tỉnh Nghệ An từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài lựa chọn cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm. - Trên cơ sở phương pháp luận được xác định, quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu điển hình, trao đổi tọa đàm, chuyên gia, điều tra xã hội học, thống kê hình sự. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần phân tích làm rõ nhận thức lý luận về mối quan hệ phối hợp giữa CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT trong phát hiện điều tra tội phạm về ma túy hoạt động trên đường giao thông, góp phần bổ sung, từng bước hoàn thiện lý luận Khoa học điều tra tội phạm nói chung và điều tra các tội phạm về ma túy nói riêng. Đề tài luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho yêu cầu nghiên cứu, học tập và giảng dạy phần nghiệp vụ CSGT và CSĐT tại các trường CSND. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có ý nghĩa tổng kết, chỉ đạo thực tiễn, giúp Công an Nghệ An khai thác sử dụng vào thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm về ma túy nói chung và tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép ma túy trên các tuyến đường bộ nói riêng. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương 9 tiết.
- Chương 1 nhận thức lý luận về quan hệ phối hợp giữa Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với cảnh sát giao thông trong phát hiện, điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy trên các tuyến giao thông đường bộ 1.1. Một số nhận thức cơ bản về tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy 1.1.1. Khái niệm tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy Tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là một nhóm tội phạm cụ thể trong số các tội phạm về ma túy - một loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, đã gây hậu quả nghiêm trọng trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh trật tự. Trong những năm qua tội phạm này diễn biến rất phức tạp, với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và manh động nhằm trốn tránh và chống trả lực lượng thi hành pháp luật. Năm 1989, lần đầu tiên tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy được Quốc hội nước ta điều chỉnh, bổ sung vào Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985. Tại Điều 96a BLHS năm 1985 sửa đổi, tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy đã được xác định. Đến năm 1992 trước diễn biến phức tạp của các loại tội phạm về ma túy, Quốc hội nước ta lại bổ sung điều chỉnh BLHS năm 1985 một lần nữa. Các tội phạm về ma túy được xây dựng thành một chương riêng (Chương VII A), bao gồm 13 tội danh, trong đó một số hành vi phạm tội mới đã được kết cấu thành các tội cụ thể quy định tại các Điều 185g, 185h, 185i, 185m, 185n... Đến năm 1999, tại Điều 194 BLHS năm 1999 đã qui định: "Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm..." [26, tr. 140]. Như vậy, tại Điều 194 BLHS năm 1999 qui định bốn hành vi phạm tội về ma túy, trong đó có hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là hai trong bốn hành vi phạm tội về ma túy độc lập với các
- hành vi tàng trữ, chiếm đoạt trái phép chất ma túy. Các hành vi phạm tội vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó. Những dấu hiệu này giúp chúng ta nhận diện và phân biệt sự khác nhau giữa chúng đối với các hành vi phạm tội khác về ma túy. Tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi đưa chuyển chất ma túy một cách bất hợp pháp từ nơi này đến nơi khác, từ địa điểm này đến địa điểm khác hoặc từ người này đến người khác thông qua các phương tiện vận chuyển bằng đường sắt, thủy, bộ, đường hàng không, bưu điện... Dấu hiệu đặc trưng của tội vận chuyển trái phép chất ma túy là sự dịch chuyển chất ma túy từ nơi này đến nơi khác một cách bất hợp pháp. Hay nói cách khác, sự chuyển dịch chất ma túy từ nơi này đến nơi khác không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền hoặc việc chuyển dịch chất ma túy không đúng địa điểm, không đúng mục đích... mà giấy phép quy định. Tội phạm mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi, mua bán giữa một bên là người bán chất ma túy và một bên là người mua chất ma túy trái với qui định của pháp luật. Việc trao đổi, mua bán trái phép chất ma túy là hành vi mua bán trái với qui định của pháp luật. Có nghĩa là việc mua bán trao đổi chất ma túy không được phép của cơ quan có thẩm quyền hoặc tuy có giấy phép của các cơ quan có thẩm quyền, song việc thực hiện mua bán trao đổi giữa bên mua và bên bán không đúng qui định của giấy phép, mua bán trao đổi vượt quá số lượng hoặc mua bán không đúng mục đích sử dụng... Phương thức thanh toán trao đổi, mua bán trái phép chất ma túy có thể sử dụng nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc đá quí hoặc các lợi ích vật chất khác... Để phân biệt giữa tội vận chuyển trái phép chất ma túy với tội mua bán trái phép chất ma túy cần căn cứ vào dấu hiệu đặc trưng của nó. Đó là mục đích của tội phạm. Nếu việc vận chuyển chất ma túy chỉ thuần túy là để nhận tiền thuê do công vận chuyển, thì cấu thành tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy", còn việc vận chuyển ma túy là để nhằm mục đích bán kiếm lời từ ma túy, thì trong trường hợp này "hành vi vận chuyển" được ghép với "hành vi mua bán, trái phép chất ma túy" để cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
- Chất ma túy là: "Chất gây nghiện, chất hướng thần được qui định trong các danh mục do Chính phủ ban hành" [2, tr. 4]. Nghị định số 67/NĐ-CP ngày 01/10/2001 qui định về danh mục chất ma túy và tiền chất, Nghị định số 133/NĐ-CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ bổ sung chất ma túy và tiền chất. Hiện nay có 228 chất ma túy và 40 tiền chất ma túy phải được kiểm soát. Danh mục do Chính phủ Việt Nam ban hành gồm 4 danh mục. Danh mục I gồm 47 chất ma túy là chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng trong lĩnh vực y tế. Việc sử dụng chất ma túy này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học và điều tra tội phạm theo qui định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền. Danh mục II gồm 112 chất ma túy độc hại, được sử dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị. Danh mục III gồm 69 chất ma túy độc dược được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm nghiên cứu khao học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị. Danh mục IV gồm 40 tiền chất gồm các hóa chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất, điều chế chất ma túy. Chất gây nghiện là: "Chất kích thích, ức chế thần kinh dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng" [2, tr. 4]. Chất ma túy ức chế thần kinh bao gồm thuốc phiện và các chế phẩm của nó nh ư heroin, morphin, codeine... dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Những chất này có tác hại nhanh chóng đối với người sử dụng. Chỉ dùng sau vài lần là có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Chính lúc đó người nghiện bị lệ thuộc vào thuốc phiện. Khi đã nghiện loại ma túy này, người nghiện thường ở trạng thái ức chế thần kinh. Khi lên cơn nghiện không có chất ma túy đưa vào cơ thể thì lập tức cơ thể người nghiện có những phản ứng bứt rứt, ngứa ngáy, đau nhức khắp các khớp xương, nằm co quắp, thậm chí miệng nôn, trôn tháo... đó là hiện tượng "dị cảm".
- Chất ma túy kích thích là chất ma túy khi xâm nhập vào cơ thể con người nó kích thích hệ thống thần kinh, gây ra những phản ứng hưng phấn quá độ và dễ dàng đưa những người sử dụng ma túy kích thích vào trạng thái bị lệ thuộc vào chúng. Những chất ma túy kích thích là cocain và các chế phẩm của nó như doping... Chất hướng thần là: "Chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc chất gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng" [2, tr. 4]. Chất hướng thần là các loại ma túy tổng hợp hoặc bán tổng hợp tác động vào cơ thể con người thông qua các phương thức khác nhau như ngậm, uống... Nó tác động nhanh chóng vào hệ thần kinh trung ương, não bộ, gây ra những kích thích, gây ảo giác. Nếu sử dụng nhiều lần, tần suất lớn cả về thời gian và liều lượng dùng thì người sử dụng cũng bị lệ thuộc vào chất hướng thần. Chất hướng thần tiêu biểu là Amphetamine, Methamphetamine, Ecstasy... Như vậy, theo quy định của điều luật và các quy định của Chính phủ thì những chất ma túy nêu trên là đối tượng của tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, số lượng ma túy được vận chuyển, mua bán trái phép không có ý nghĩa trong việc định tội, mà chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tình tiết tăng nặng định khung. Từ những phân tích nêu trên, tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có thể được khái niệm như sau: Tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội (vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy) được quy định trong BLHS, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi cố ý và đáng bị xử lý bằng hình phạt. 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội phạm Căn cứ vào qui định tại Điều 194 BLHS 1999 thì đặc điểm pháp lý của tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy được xác định như sau: - Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm được xác định là: Các chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, mà trực tiếp đó là các quy định của Nhà nước về vận chuyển, mua
- bán chất ma túy. Việc tội phạm xâm hại đến các quan hệ xã hội trên không những có tác động ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế đất nước, đến tính mạng sức khỏe con người làm thoái hóa nòi giống, là nguy cơ gây ra "cái chết trắng", là nguồn lan truyền đại dịch HIV/AIDS... Vì vậy, nó có ảnh hưởng rất xấu đến trật tự an toàn xã hội (TTATXH). - Mặt khách quan của tội phạm Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà tội phạm thực hiện ở đây bao gồm: + Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là: Hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào mà không nhằm mục đích mua bán. Vận chuyển trái phép chất ma túy có thể được thực hiện bằng các phương tiện khác nhau, bằng các tuyến đường khác nhau như: đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện. Có thể để trong người: cho vào túi áo, quần, nuốt vào bụng, nhét vào các lỗ tự nhiên của cơ thể; trong hành lý như: valy, túi xách tay...; trong các phương tiện vận chuyển: máy bay, ô tô, tàu thủy... Theo quy định của điều luật, thì quãng đường vận chuyển dài hay ngắn, số lượng chất ma túy vận chuyển ít hay nhiều không ảnh hưởng tới việc định tội. Người vận chuyển chất ma túy thuê cho người khác không có mục đích mua bán thì họ đồng phạm về tội vận chuyển trái phép chất ma túy. + Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là: Hành vi mua, bán, trao đổi ma túy bất hợp pháp hoặc vận chuyển chất ma túy để bán lại bất hợp pháp. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy được thể hiện là dùng tiền hoặc các lợi ích vật chất khác để mua bán, trao đổi dưới các hình thức khác nhau: Có thể là mua bán trực tiếp chất ma túy hoặc có thể là dùng ma túy để đổi lấy các hàng hóa khác, cho vay, đặt cọc, cầm cố, khấu nợ... một cách trái phép. Tội phạm được coi là hoàn thành khi chủ thể tội phạm đã thực hiện các hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nhất định theo quy định của pháp luật hình sự. + Hậu quả của tội phạm Tội phạm có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành ngay khi người thực hiện tội phạm đã thực hiện hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Tức là, tội
- phạm đã xâm hại đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý khai thác sử dụng chất ma túy, mà chưa cần có những hậu quả vật chất cụ thể do tội phạm gây ra. - Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi (khoản 1) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (khoản 2, 3 và 4) có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tại khoản 1 là cấu thành cơ bản, chỉ định tính chất hành vi để định khung hình phạt, mặt khác tại khoản này, không qui định tình tiết tăng nặng. Chính vì vậy, độ tuổi chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 1 của Điều 194 BLHS là người đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi. Tại các khoản còn lại 2, 3, 4 cấu thành tăng nặng, tội phạm thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Chính vì vậy, luật qui định độ tuổi từ đủ 14. - Mặt chủ quan của tội phạm Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Có nghĩa rằng, người phạm tội nhận thức rõ hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy và mong muốn cho hậu quả xảy ra như vận chuyển, mua bán phát tán chất ma túy trong xã hội, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, như gây ra tệ nạn tiêm chích ma túy, nghiện ma túy và các tệ nạn xã hội khác. Thậm chí, tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy có mối quan hệ mật thiết với tội phạm sử dụng chất ma túy, tệ nạn tiêm chích ma túy phát triển... là một trong nguyên nhân làm phát sinh đại dịch thế kỷ HIV/AIDS. - Hình phạt dành cho tội phạm Vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy là một loại tội phạm nguy hiểm, vì thế hình phạt dành cho tội phạm là rất nghiêm khắc. Điều luật qui định 4 khung hình phạt dành cho tội phạm. + Khung 1: Qui định hình phạt tù từ 2-7 năm áp dụng đối với trường hợp phạm tội không có tình tiết tăng nặng. + Khung 2: Qui định hình phạt tù từ 7-10 năm áp dụng đối với người phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau: Có tổ chức, phạm tội nhiều lần, lợi dụng chức vụ,
- quyền hạn, lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức, vận chuyển, mua bán qua biên giới, sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho trẻ em, tái phạm nguy hiểm... + Khung 3: Qui định hình phạt tù từ 15-20 năm áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội qui định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h về trọng lượng chất ma túy. + Khung 4: Qui định hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình áp dụng đối với 1 trong các trường hợp phạm tội qui định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h về trọng lượng chất ma túy. Hình phạt bổ sung người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phân hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1- 5 năm. 1.2. Nhận thức cơ bản về quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với lực lượng Cảnh sát giao thông trong phát hiện, điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm về mối quan hệ phối hợp CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT là hai lực lượng nghiệp vụ cụ thể trong biên chế tổ chức của ngành Công an, cả hai lực lượng này đều có trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tội phạm hoạt động trên đường giao thông (trong đó có tội phạm mua bán vận chuyển ma túy) theo chức năng nhiệm vụ khác nhau. Trong đó, CSĐT tội phạm về ma túy là cơ quan điều tra chuyên trách có nhiệm vụ tổ chức, tiến hành các biện pháp trinh sát và điều tra tố tụng theo quy định của pháp luật để thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh làm rõ tội phạm và người phạm tội về ma túy theo quy định của pháp luật. Lực lượng CSGT tuy không có trách nhiệm trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra làm rõ tội phạm về ma túy, nhưng với tư cách là lực lượng nghiệp vụ của ngành Công an trực tiếp tiến hành các mặt công tác quản lý trật tự an toàn giao thông (TTATGT), như: Điều tra cơ bản về tuyến địa bàn giao thông trọng điểm; tuần tra kiểm soát giao thông (TTKSGT) và xử lý vi phạm; chỉ huy hướng dẫn giao thông; xây dựng cơ sở bí mật (CSBM), tuyên truyền giáo dục quần chúng tham gia giữ gìn TTATGT và TTATXH trên các tuyến đường địa bàn giao thông công cộng... Lực lượng CSGT có trách nhiệm phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và hoạt động của bọn
- tội phạm (trong đó có các tội phạm về ma túy) trên các tuyến đường địa bàn giao thông công cộng. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm ma túy hoạt động trên đường giao thông, lực lượng CSĐT tôi phạm về ma túy phải phối hợp với nhiều lực lượng và tổ chức tiến hành nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau, trong đó quan hệ phối hợp với lực lượng CSGT luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát hiện, điều tra tội pham về ma túy hoạt động trên đường giao thông. Mối quan hệ phối hợp đó vừa mang tính khách quan, vừa mang tính pháp lý quy định về quan hệ phối hợp giữa một bên là cơ quan điều tra chuyên trách (Cơ quan CSĐT tội phạm về ma túy) với một bên là cơ quan nghiệp vụ quản lý chuyên ngành (lực lượng CSGT) để thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ riêng của từng lực lượng và yêu cầu nghiệp vụ chung mà cả hai bên cùng quan tâm. Khi đề cập đến vấn đề nêu trên, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự (TCĐTHS) năm 2004 đã chỉ rõ: "Quan hệ giữa các Cơ quan điều tra với nhau, giữa Cơ quan điều tra với cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra với nhau là quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra. Các yêu cầu bằng văn bản của Cơ quan điều tra phải được cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nghiêm chỉnh thực hiện" [30] Như vậy, theo quy định của pháp luật, nội dung của mối quan hệ phối hợp trên là việc phân công trách nhiệm và phối hợp hành động giữa các lực lượng có liên quan để giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động điều tra vụ án. Vì vậy, trong mối quan hệ này cơ quan có trách nhiệm tiến hành điều tra tội phạm giữ vai trò chủ động trong việc xây dựng nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ, cũng nh ư phương tiện, lực lượng tham gia và các phương pháp, biện pháp phối hợp. Tương tự như vậy, quá trình phát hiện điều tra tội phạm mua bán, vận chuyển ma túy trên đường giao thông, thì quan hệ phối hợp giữa CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT vừa mang tính khách quan là yêu cầu tự thân của quá trình điều tra, vừa mang tính thỏa thuận phân công phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền hành chính ngang nhau, song nó cũng mang tính bắt buộc theo chức năng nhiệm vụ của từng lực lượng và sự chấp hành, phục tùng mệnh lệnh theo sự lãnh đạo, chỉ huy của ngành Công an. Trong mối
- quan hệ phối hợp đó, thì quyền chủ động phối hợp thuộc về lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy, lực lượng CSGT có trách nhiệm tham gia phối hợp để thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ mà hoạt động điều tra đặt ra có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và điều kiện công tác của lực lượng CSGT. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định mối quan hệ trên là vấn đề rất phức tạp, nhìn nhận đánh giá nó ở từng góc độ khác nhau, cũng thể hiện những quan điểm khác nhau. Có người cho rằng quan hệ phối hợp giữa CSĐT với các lực lượng nghiệp vụ trong hoạt động điều tra hình sự chỉ "là hoạt động thỏa thuận về mục đích, nhiệm vụ, lực lượng, biện pháp, phương tiện, thời gian và địa điểm tiến hành..." [29]. Hoặc, có người lại cho rằng "Đây là quan hệ phân công và phối hợp hoạt động điều tra theo luật định giữa các chủ thể, trên cơ sở thẩm quyền và phương thức hoạt động của các chủ thể phối hợp nhằm mục đích chung khám phá điều tra, phòng ngừa tội phạm" [8, tr. 15-16]. Rõ ràng việc xác định như vậy, về cơ bản đã thể hiện khá đầy đủ nội dung, bản chất của mối quan hệ phối hợp ở từng mức độ khác nhau, song nó vẫn chưa làm rõ được tính khách quan của mối quan hệ phối hợp, cũng như tính chủ động thực hiện quan hệ phối hợp của cơ quan CSĐT và tính mệnh lệnh, bắt buộc... trong quá trình thực hiện quan hệ phối hợp giữa các bên. Với cách phân tích tiếp cận vấn đề như đã nêu, cũng như thực tiễn phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm về ma túy, cho thấy quan hệ phối hợp giữa CSĐT tội phạm về ma túy với lực lượng CSGT trong phát hiện, điều tra tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy trên đường giao thông: Là sự thống nhất về mục đích, nhiệm vụ, lực lượng, phương tiện, biện pháp tiến hành giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với lực lượng CSGT, trên cơ sở các quy định của pháp luật và sự chỉ huy, chỉ đạo tập trung, thống nhất của lãnh đạo cấp trên để phát hiện, thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh làm rõ tội phạm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy trên các tuyến giao thông đường bộ theo quy định của pháp luật. Như vậy, bản chất của quan hệ phối hợp giữa hai lực l ượng là sự thỏa thuận trên cơ sở bàn bạc, thống nhất về mục đích, nhiệm vụ và có sự chỉ huy, chỉ đạo của cấp trên để tiến hành phát hiện, thu thập các thông tin, tài liệu, chứng cứ theo chức năng, nhiệm
- vụ, thẩm quyền của từng lực lượng đã được pháp luật quy định tạo thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp, phương pháp, chiến thuật điều tra nhằm chứng minh làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi mua bán vận chuyển ma túy trên các tuyến giao thông đường bộ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, sự phối hợp trên là nhằm khai thác khả năng chuyên môn, biện pháp, phương tiện nghiệp vụ... của từng lực lượng để thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ, giải quyết những yêu cầu nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong hoạt động điều tra, góp phần giải quyết vụ án được nhanh chóng, thuận lợi và đem lại kết quả. Trong mối quan hệ đó CSĐT tội phạm về ma túy là lực lượng chủ động đưa ra các nội dung, yêu cầu quan hệ phối hợp. CSGT là lực lượng tham gia phối hợp theo yêu cầu của CSĐT tội phạm về ma túy. Thông qua các các mặt công tác đảm bảo TTATGT, lực lượng CSGT cung cấp các tài liệu giúp cho CSĐT tội phạm về ma túy nắm chắc tình hình địa bàn, tình hình đối tượng nghi vấn và các vấn đề khác có liên quan đến hoạt động mua bán vận chuyển ma túy trên đường giao thông; thực hiện yêu cầu phối hợp để phát hiện, truy đuổi, bắt giữ số đối tượng ma túy đang hoạt động trên đường giao thông; tuyên truyền giáo dục quần chúng phát hiện, tố giác tội phạm về ma túy... theo yêu cầu quan hệ phối hợp phát hiện điều tra tội phạm ma túy hoạt động trên đường giao thông. Quá trình thực hiện mối quan hệ phối hợp trên, lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy còn có điều kiện kiểm tra rà soát đưa vào diện quản lý đối tượng sưu tra, quản lý địa bàn tụ điểm; tổ chức lực lượng, phương tiện xây dựng mạng lưới bí mật và tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh, xác lập chuyên án đấu tranh triệt phá các tổ chức đường dây ma túy lớn hoạt động trên các tuyến đường, địa bàn giao thông đường bộ. Ngược lại, để thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ đảm bảo TTATGT, phát hiện đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trên đường giao thông (trong đó có các tội phạm về ma túy), trong những trường hợp cụ thể lực lượng CSGT cũng là bên chủ động đặt ra các yêu cầu đòi hỏi có sự phối hợp của lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy. Chẳng hạn như: Khai thác tài liệu từ kết quả điều tra, nắm tình hình các đối tượng về ma túy, phương thức, thủ đoạn cất giấu, vận chuyển ma túy; địa bàn, tuyến trọng điểm tội phạm về ma túy thường hoạt động... để phục vụ cho yêu cầu điều tra cơ bản, lập hồ sơ, vẽ sơ đồ địa bàn, tuyến đường trọng điểm về ma túy; xây dựng mạng lưới CSBM; xây dựng các phương án TTKSGT trọng điểm; kiểm tra, khám xét, truy đuổi, bắt giữ các các đối
- tượng mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy trên đường giao thông... của lực lượng CSGT Từ những phân tích lập luận trên đây, cũng như qua tổng kết đánh giá thực tiễn cho thấy quan hệ phối hợp giữa lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT trong đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán vận chuyển chất ma túy hoạt động trên đường giao thông có những đặc điểm sau: - Mối quan hệ phối hợp trên diễn ra thường xuyên liên tục trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của từng lực lượng Lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT là hai lực lượng nghiệp vụ của ngành Công an cùng có trách nhiệm phát hiện, đấu tranh chống tội phạm về ma túy hoạt động trên đường giao thông theo các chức năng nhiệm vụ khác nhau. Mặc dù, việc phát hiện điều tra tội phạm về ma túy theo trình tự tố tụng hình sự để xử lý tội phạm và người phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự thuộc chức năng chính của cơ quan CSĐT tội phạm về ma túy, lực lượng CSGT chỉ có trách nhiệm phối hợp hỗ trợ khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, để thực hiện được quy định trên, mối quan hệ phối hợp giữa CSĐT tội phạm về ma túy với CSGT không chỉ diễn ra trong các trường hợp CSĐT yêu cầu lực lượng CSGT tiến hành các biện pháp cụ thể để hỗ trợ CSĐT thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ cụ thể trong một vụ án, mà mối quan hệ phối hợp trên còn đòi hỏi có sự chủ động của cả hai lực lượng trong việc thực hiện các mặt các công tác cơ bản của từng bên, như: Điều tra cơ bản về địa bàn tuyến mua bán, vận chuyển ma túy trọng điểm; xây dựng mạng lưới bí mật nắm tình hình địa bàn, tình hình đối tượng ma túy; xây dựng cơ chế trao đổi thông tin, sơ kết tổng kết chuyên đề; xây dựng các phương án quan hệ phối hợp trong một số tình huống đấu tranh chống tội phạm ma túy hoạt động trên đường giao thông... Như vậy, sự chủ động phối hợp một cách thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình thực hiện các mặt công tác cơ bản của từng lực lượng là điều kiện cần thiết để phục vụ tốt cho yêu cầu đấu tranh chuyên án, thực hiện các biện pháp TTKSGT công khai để phát hiện bắt quả tang đối tượng vận chuyển ma túy cùng tang vật của vụ án, chuyển hóa tài liệu trinh sát thành chứng cứ pháp lý để tổ chức phá án hoặc thực hiện các phương án truy đuổi "chặn đầu, khóa đuôi" bắt giữ kịp thời các
- đối tượng mua bán vận chuyển ma túy bỏ chạy trên đường giao thông... phục vụ tốt cho yêu cầu điều tra trong những trường hợp cần thiết. - Mối quan hệ phối hợp vừa mang tính "bàn bạc, thỏa thuận", vừa mang tính "pháp lý bắt buộc" giữa hai lực lượng nghiệp vụ có sự bình đẳng về thẩm quyền hành chính và có cùng trách nhiệm phát hiện đấu tranh chống tội phạm về ma túy hoạt động trên đường giao thông. Rõ ràng, xét về tổ chức bộ máy của ngành Công an, thì lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và lực lượng CSGT là hai lực lượng có thẩm quyền hành chính ngang nhau. Vì thế, quan hệ giữa họ trong việc phát hiện đấu tranh chống tội phạm về ma túy hoạt động trên đường giao thông là quan hệ bình đẳng, mang tính bàn bạc thỏa thuận, thống nhất về mục đích, về yêu cầu nhiệm vụ, về lực lượng, phương tiện, thời gian, biện pháp tiến hành để đạt được một yêu cầu nhiệm vụ nào đó mà cả hai lực lượng đã đặt ra. Tuy nhiên, mối quan hệ phối hợp đó còn mang tính pháp lý bắt buộc, chịu sự chi phối ràng buộc bởi các quy định của ngành Công an về quan hệ phối hợp giữa các lực lượng nghiệp vụ trong ngành Công an và các quy định khác của Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh TCĐTHS, Luật Phòng, chống ma tuý... về quan hệ phối hợp giữa một bên là cơ quan điều tra chuyên trách, với một bên là các lực lượng nghiệp vụ chuyên ngành của ngành Công an trong quá trình phát hiện, điều tra tội phạm. Do vậy, ngoài tinh thần hợp tác, bàn bạc, thỏa thuận mang tính khách quan, bình đẳng giữa hai lực lượng nghiệp vụ, trong quá trình thực hiện quan hệ phối hợp để phát hiện điều tra tội phạm mua bán, vận chuyển ma túy trên đường giao thông, đòi hỏi từng bên phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt động của từng lực lượng, đồng thời phải thực hiện nghiêm túc mệnh lệnh của cấp trên và các quy định của ngành Công an về quan hệ phối hợp để đảm bảo quan hệ phối hợp có hiệu quả, tài liệu chứng cứ thu được qua phối hợp có giá trị chứng minh, làm rõ tội phạm theo quy định của pháp luật. - Mối quan hệ phối hợp đòi hỏi có sự khai thác sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp, phương tiện, điều kiện công tác theo chức năng nhiệm vụ của từng bên quan hệ.
- Xuất phát từ mục đích của mối quan hệ phối hợp là để nhanh chóng phát hiện điều tra tội phạm mua bán vận chuyển chất ma túy trên đường giao thông, đòi hỏi từng lực lượng tham gia quan hệ phải thực hiện một cách tốt nhất biện pháp, phương pháp, phương tiện, chiến thuật theo chức năng nhiệm vụ của mình để khai thác triệt để điều kiện công tác, lợi thế vốn có của từng lực lượng và tăng cường sức mạnh chung giữa hai lực lượng trong phòng ngừa, phát hiện tội phạm cũng như điều tra khám phá tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy trên các tuyến đường giao thông. Thực tế, nếu chỉ dựa vào các biện pháp trinh sát và điều tra tố tụng của một mình Cơ quan CSĐT tội phạm về ma túy để phát hiện đấu tranh với tội phạm, sẽ khó khai thác được hết các kênh, nguồn thông tin trong phát hiện tình hình có liên đến tội phạm ma túy hoạt động trên đường giao thông hoặc sẽ gặp khó khăn trong chuyển hóa tài liệu trinh sát, trong truy đuổi, bắt giữ tội phạm trên đường giao thông... Điều đó đòi hỏi bên cạnh các biện pháp cơ bản của cơ quan điều tra chuyên trách, CSGT - lực lượng có trách nhiệm quản lý TTATGT trên tuyến phải thông qua việc sử dụng các biện pháp quản lý TTATGT để kiểm tra kiểm soát tư trang, hành lý và phương tiện vận chuyển của đối tượng nghi vấn; sử dụng các phương tiện tuần tra truy đuổi, bắt giữ đối tượng theo yêu cầu của Cơ quan điều tra; cung cấp các thông tin về tuyến về địa bàn để xây dựng các phương án "chặn đầu khóa đuôi" đối tượng trong các trường hợp cần thiết của quá trình điều tra. 1.2.2. Nguyên tắc phối hợp Để quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và lực lượng CSGT trong đấu tranh chống tội phạm vận chuyển, mua bán chất ma túy có hiệu quả, tránh được sai lầm, thiếu sót... trong quá trình thực hiện quan hệ phối hợp cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau đây: - Đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quan hệ phối hợp Tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản, bao trùm toàn bộ mối quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy hoạt động trên các tuyến đường giao thông. Tuân thủ pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản, đảm bảo cho hoạt động thực thi
- pháp luật của hai lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT thực hiện một cách nghiêm túc theo đúng qui định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong phối hợp đấu tranh chống tội phạm ma túy trên các tuyến đường giao thông giữa hai lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT được thể hiện trên những nội dung sau: Lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ quan hệ phối hợp phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật nhà nước và các quy định của ngành Công an. Tôn trọng và bảo bệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Nội dung các biện pháp tiến hành trong quá trình quan hệ phối hợp phải được tổ chức tiến hành theo đúng chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của từng lực lượng tham gia quan hệ. Hoạt động quan hệ phối hợp phải phục tùng nghiêm chỉnh sự lãnh đạo, chỉ huy, phân công, tổ chức điều hành của lãnh đạo có thẩm quyền. - Đảm bảo tính mục đích trong quan hệ phối hợp Đây là nguyên tắc xuyên suốt quá trình thực hiện mối quan hệ phối hợp, nó đảm bảo định hướng đúng đắn của quá trình quan hệ phối hợp là để cùng phát hiện điều tra tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy trên đường giao thông một cách có hiệu quả. Trong mọi trường hợp quan hệ phối hợp giữa hai lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy và CSGT phải luôn tuân thủ việc thực hiện mục đích đã được xác định. Tuy nhiên, trong từng tình huống điều tra cụ thể sẽ xuất hiện các mục đích cụ thể, nhưng tuyệt đối không được xa rời mục đích chính của mối quan hệ phối hợp. Bởi vì, mục đích của mối quan hệ phối hợp chính là cơ sở để lựa chọn phương pháp, chiến thuật phối hợp, phạm vi phối hợp và công tác lãnh đạo, chỉ đạo mối quan hệ phối hợp. - Đảm bảo tính kế hoạch trong quan hệ phối hợp Để đảm bảo cho các lực lượng tham gia phối hợp cùng chung mục đích, cùng chung ý chí và hành động mang lại hiệu quả trong đấu tranh chống tội phạm vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy thì cần thiết phải lập kế hoạch quan hệ phối hợp. Khi lập
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng của VPBank
99 p | 944 | 423
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Chương Dương
87 p | 542 | 185
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại CP An Bình chi nhánh An Giang
61 p | 558 | 167
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất, chế biến, xuất khẩu Gạo
88 p | 447 | 136
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn ở hệ thống ngân hàng thương mại nước ta
61 p | 355 | 132
-
Luận văn: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM
112 p | 672 | 125
-
Luận văn - Sức cạnh tranh và các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh
58 p | 343 | 119
-
Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty Cao su Sao Vàng Hà Nội
37 p | 405 | 115
-
Luận văn: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
89 p | 227 | 65
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao thẩm định tài chính trong dự án đầu tư tại Ngân hang Thương Mại
99 p | 161 | 56
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cơ khí Ngô Gia Tự
59 p | 214 | 54
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dự án đầu tư tại Ban quản lí dự án các công trình điện miền Bắc
33 p | 203 | 44
-
LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
127 p | 174 | 42
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh trong việc kinh doanh máy tính và thiết bị văn phòng của công ty TNHH Phi Long
63 p | 156 | 37
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển tiền điện tử tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội
64 p | 176 | 32
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
76 p | 148 | 17
-
LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương Hà Tây
28 p | 125 | 13
-
Luận văn: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam”
29 p | 117 | 12
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn